Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

"Buồn Vào Hồn Không Tên"
Tưởng Năng Tiến

Image
Nhạc sĩ Trúc Phương (1933-1995).

Có lần, tôi nghe giáo sư Nguyễn Văn Lục phàn nàn: “Người cộng sản có một sự sắp xếp rất máy móc, đơn giản về con người và sự việc. Hoặc họ coi là bạn, hoăc là kẻ thù của họ. Miền Nam sau 1975 có chiến dịch đi ‘tìm thù’ và biến miền Nam thành mảnh đất hung bạo với những ngữ từ quen thuộc như: Quét sạch, đánh phá, truy lùng, tố cáo.”
Hơn bốn mươi năm sau, sau cái chiến dịch “tìm thù” bắt đầu từ năm 1975, có bữa tôi đang ngồi lơ tơ mơ hút thuốc thì chuông điện thoại reo:

– Tiến hả?
– Dạ…

– Vũ Đức Nghiêm đây…
– Dạ…
– Anh buồn quá Tiến ơi, mình đi uống cà phê chút chơi được không?
– Dạ …cũng được!

Tôi nhận lời sau một lúc tần ngần nên tuy miệng nói “được” mà cái giọng (nghe) không được gì cho lắm. Tôi cũng thuộc loại người không biết làm gì cho hết đời mình nên thường rảnh nhưng không rảnh (tới) cỡ như nhiều người trông đợi. Sống ở Mỹ, chớ đâu phải Mỹ Tho mà muốn đi đâu thì đi, và muốn đi giờ nào cũng được – mấy cha?

Khi Mai Thảo và Hoàng Anh Tuấn còn trên dương thế, thỉnh thoảng, tôi cũng vẫn nghe hai ông thở ra (“anh buồn quá Tiến ơi”) y chang như thế. Chỉ có điều khác là ông nhà văn khi buồn thì thích đi uống rượu, ông thi sĩ lúc buồn lại đòi đi … ăn phở, còn bây giờ thì ông nhạc sĩ (lúc buồn) chỉ ưa nhâm nhi một tách cà phê nóng. Ai sao tui cũng chịu, miễn đến chỗ nào (cứ) có bia bọt chút đỉnh là được!
Image
Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm. Ảnh:honque
Vũ Đức Nghiêm sinh sau Mai Thảo và trước Hoàng Anh Tuấn. Ông chào đời vào năm 1930. Hơn 80 mùa xuân đã (vụt) trôi qua. Cả đống nước sông, nước suối – cùng với nước mưa và nước mắt – đã ào ạt (và xối xả) chẩy qua qua cầu, hay trôi qua cống. Những dịp đi chơi với ông (e) sẽ cũng không còn nhiều lắm nữa. Tôi chợt nghĩ như thế khi cho xe nổ máy.

Quán cà phê vắng tanh. Nhạc mở nhỏ xíu nhưng tôi vẫn nghe ra giai điệu của một bài hát rất quen:
“Gọi người yêu dấu bao lần.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi.

Gọi người yêu dấu trong hồn.
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương…”

– Hình như là nhạc của Vũ Đức Nghiêm … Anh nghe xem có đúng không? Tôi đùa.
– Em nói nghe cái gì?
– Anh thử nghe nhạc coi…
– Nhạc của ai?
Tôi chợt nhớ ra là ông anh đã hơi nặng tai nên gọi cô bé chạy bàn:
– Cháu ơi, người ngồi trước mặt chúng ta là tác giả của bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu mà mình đang nghe đó. Cháu mở máy lớn hơn chút xíu cho ổng … sướng nha!
Thấy người đối diện có vẻ bối rối vì cách nói vừa dài dòng, vừa hơi quá trịnh trọng của mình nên tôi cố thêm vào một câu tiếng Anh (vớt vát) nhưng ngó bộ cũng không có kết quả gì. Đúng lúc, chủ quán bước đến:
– Cháu nó mới từ Việt Nam sang, ông nói tiếng Mỹ nó không hiểu đâu. Ông cần gì ạ?
– Dạ không, không có gì đâu. Never mind!
Tôi trả lời cho qua chuyện vì chợt nhận ra sự lố bịch của mình.
Cùng lúc, bản nhạc của Vũ Đức Nghiêm cũng vừa chấm dứt. Tôi nhìn anh nhún vai. Vũ Đức Nghiêm đáp lại bằng một nụ cười hiền lành và … ngơ ngác!
Tự nhiên, tôi thấy gần và thương quá cái vẻ ngơ ngác (trông đến tội) của ông. Tôi cũng bị nhiều lúc ngơ ngác tương tự trong phần đời lưu lạc của mình. Bây giờ hẳn không còn ai, ở lứa tuổi hai mươi – dù trong hay ngoài nước – còn biết đến tiếng “Gọi Người Yêu Dấu” (“ngập ngừng tha thiết bồn chồn”) của Vũ Đức Nghiêm nữa. Thời gian, như một giòng sông hững hờ, đã vô tình bỏ lại những bờ bến cũ.

Vũ Đức Nghiêm, tựa như một cây cổ thụ hiếm hoi, vẫn còn đứng lại bơ vơ bên bờ trong khi bao nhiêu nhạc sĩ cùng thời đều đã ra người thiên cổ. Trúc Phương là một trong những người này. Qua chương trình Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam, nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam đã cho biết nhiều chi tiết vô cùng thê thiết về cuộc đời của người viết nhạc (chả may) này.

Trang sổ tay hôm nay, chúng tôi xin được nắn nót ghi lại đây những nhận xét của Hoài Nam, và mong được xem như một nén hương lòng (muộn màng) gửi đến một người đã khuất:

“Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình. Ông tên thật là Nguyễn Thiện Lộc, ra chào đời năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, tức Vĩnh Bình – một xứ Chùa Tháp thu nhỏ ở vùng hạ lưu sông Cửu Long…”

“Nhạc của Trúc Phương thường buồn, rất buồn. Trong số những ca khúc của ông, hình như, chỉ có hai bản vui. Đó là: Tình Thắm Duyên Quê và Chiều Làng Em. Riêng bản Chiều Làng Em nói rằng vui là so sánh với những sáng tác khác của ông. Chứ Thực ra, bản nhạc này tuy có nội dung êm đềm trong sáng nhưng giai điệu của nó cũng man mác buồn. Không hiểu vì cuộc đời của Trúc Phương vốn nhiều chuyện buồn và đã được ông gửi gấm vào dòng nhạc hay vì ông thích sáng tác nhạc buồn nên riết rồi nó ám vào người, chỉ biết những sáng tác phổ biến nhất, nổi tiếng nhất của ông đều là những ca khúc buồn: Chiều Cuối Tuần, Nửa Đêm Ngoài Phố, Tầu Đêm Năm Cũ, Bóng Nhỏ Đường Chiều …”

Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:.
“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rày đây mai đó,’bèo dạt hoa trôi’… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no…Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được…đến nửa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả.Tôi nghĩ ra được một cách..là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ…Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng…thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta..thế là mình lấy 1 đồng về….như là tiền thế chân…Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng…Mà nói anh thương…khổ lắm….Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi ,tôi đành phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa hè’, thế rồi cũng phải nằm thôi.Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát…mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn …Tôi nghĩ mà thôi , còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…”

Chất liệu, rõ ràng, đã có (và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương viết bài sau này (tiếc thay) không bao giờ đến – vẫn theo như lời của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam:
“Vào một buổi sáng năm 1996, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân. Thế nhưng xét về mặt tinh thần Trúc Phương đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá.”

“Chúng ta ở đây là những người yêu nhạc, trong nước cũng như hải ngoại, bên này cũng như bên kia chiến tuyến. Bởi vì hơn ba mươi ca khúc nổi tiếng của ông cho dù có một hai bài có nhắc đến chữ ‘cộng hoà’ vẫn phải được xem là những tình khúc viết cho những con người không phải cho một chế độ chính trị nào. Những con người sinh ra và lớn lên trong một cuộc chiến không lối thoát với niềm khắc khoải chờ mong một ngày thanh bình . Cuối cùng thanh bình đã tới nhưng không phải là thứ thanh bình mà những ‘con tim chân chính’ trong nhạc của Lê Minh Bằng hằng mơ ước mà là thứ thanh bình của giai cấp thống trị, của một thiểu số may mắn nào đó. Chính cái thanh bình ấy đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng trong đó có người Việt Nam xấu số đáng thương tên Nguyễn Thiện Lộc, tức nhạc sĩ Trúc Phương nổi tiếng của chúng ta.”

Thôi thì cũng xong một kiếp người! Và dòng đời, tất nhiên, vẫn cứ lạnh lùng và mải miết trôi. Sáng nay, tôi lại chợt nhớ đến Trúc Phương sau khi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn – trên báoPháp Luật:
“Ngày 31-1, một số cán bộ hưu trí, người dân ở phường Bình Hưng Hòa B (quận Bình Tân,TP.HCM) bức xúc phản ánh cuộc họp mặt đầu năm do phường tổ chức … Ngay phần khai mạc lúc gần 9 giờ sáng, trên nền nhạc hip hop, hai phụ nữ ăn mặc hở hang, thiếu vải lên nhún nhảy, múa những động tác khêu gợi. Hai thanh niên múa phụ họa. Quan sát đoạn video chúng tôi thấy nhiều cán bộ hào hứng xem tiết mục ‘lạ mắt’ này. Có cán bộ còn dùng điện thoại quay lại cảnh hai cô gái biểu diễn, ưỡn người và ngực về phía khán giả. Nhiều người tham gia rất hào hứng, chỉ trỏ, thì thầm vào tai nhau…

Chúng tôi tiếp tục liên lạc với bà Nguyễn Thị Bích Tuyền, Phó Chủ tịch phường kiêm Chủ tịch Công đoàn phường … bà Tuyền lý giải: ‘Tiết mục múa chỉ diễn ra gần 3 phút và đây là vũ điệu theo phong cách Hawaii nên hơi lạ…”

Nếu ngay sau khi chiếm được miền Nam mà quý vị cán bộ cộng sản cũng có được cách “lý giải” tương tự thì thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn … đã không phải bỏ thân nơi đất lạ. Vũ Đức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh chiếu rách – với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.


Mọi cuộc cách mạng luôn luôn có cái giá riêng của nó. Riêng cái thứ cách mạng (thổ tả) của những người cộng sản Việt Nam thì đòi hỏi mọi người đều phải trả cái giá (hơi) quá mắc mà thành quả – xem ra – không có gì, ngoài tội ác!

Tưởng Năng Tiến

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Bạn biết gì về Thứ Sáu Tuần Thánh?

Thứ Sáu Tuần Thánh là một ngày khủng khiếp nhất trong năm. Bạn đã xem phim “The Passion of the Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) chưa?

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày mà Chúa Giêsu chịu sự bất công oan sai nhất: bị phản bội, bị chế nhạo, bị nhục nhã, rồi bị giết chết bằng cách chịu đóng đinh vào Thập Giá – loại hình phạt tệ nhất dành cho các tử tội dạng “đại ca” thời đó. Tiếng Anh gọi Thứ Sáu Tuần Thánh là Good Friday – Thứ Sáu Tốt Lành. Thứ Sáu Tuần Thánh có là Ngày Tốt Lành không? Sao người ta sợ Thứ Sáu ngày 13 vậy?


Tại sao người ta cho rằng cái chết của Chúa Giêsu là ngày TỐT LÀNH trong khi lại là ngày Đại Tang của Kitô giáo?

Thứ Sáu Tuần Thánh đã được hoạch định

Từ đầu, Thiên Chúa đã biết những gì sẽ xảy ra nên Ngài đã hoạch định phương cách. Ngài hóa thân làm người để giải quyết tất cả mọi khúc mắc. Chúng ta đã biết điều này, đúng không? Nhưng đôi khi chúng ta bỏ lỡ Phụng Vụ ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Thiên Chúa biết rõ: “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19:30).

Khi Chúa Giêsu trở nên của lễ cứu chuộc, tất cả đã xong. Những gì còn dở dang cũng được hoàn tất. Cái chết của Ngài là “chất xúc tác” làm cho mọi điều nên trọn. Sự sống lại, Chúa Thánh Thần hiện xuống, sự tái lâm của Chúa Giêsu. Khi cái chết xảy ra, mọi thứ khác cũng được thực hiện theo cách nhìn của Thiên Chúa. Chúng ta được mời gọi hướng thượng để được vào Nước Trời. Ngài muốn chúng ta hy vọng sự sống lại và mong đợi ngày Ngài tái lâm. Ngài đã hoàn tất mọi sự, không còn gì dở dang. Sự chết không còn quyền gì đối với linh hồn chúng ta, vì mọi sự đã hoàn tất. Tội lỗi không còn có thể làm chúng ta dơ bẩn khi Thiên Chúa nhìn chúng ta, vì mọi sự đã hoàn tất.

Ngày duy nhất không có Thánh Lễ

Ngày Thứ Sáu Tuần Thánh hợp với truyền thống cổ xưa: Không có Thánh Lễ – tức là không có truyền phép Thánh Thể. Tuy nhiên, Thánh Thể vẫn được giữ từ Thánh Lễ hôm trước, và chúng ta vẫn được đón nhận Thánh Thể. Các bí tích khác vẫn được cử hành trong trường hợp khẩn cấp, như rửa tội cho người hấp hối hoặc xức dầu cho người bệnh nặng. Nghi thức an táng được cử hành nhưng không có đàn hát hoặc chuông.


Chúa Giêsu bị phản bội hai lần

Lần thứ nhất là Tông đồ Giuđa Ítcariốt. Ông nhận 30 đồng bạc, tiền “bán đứng” Thầy mình, ở một góc tối trong Vườn Ghếtsimani, nơi Chúa Giêsu thường tới cầu nguyện vào ban đêm. Lúc đó Giuđa thay đổi ý định, nhưng không thể được. Vì thất vọng, Giuđa đã treo cổ tự kết liễu đời mình. Lần thứ hai là Tông đồ Phêrô. Chỉ vài giờ sau khi Chúa Giêsu bị bắt, ông đã sợ nên chối phăng là không biết Thầy Giêsu khi có người nhận ra ông là người đi theo Chúa Giêsu. Ông không chối một lần mà chối tới ba lần. Khi bị dẫn đi, ánh mắt Chúa Giêsu đã nhìn Phêrô với ánh mắt nghiêm nghị và đầy lòng trắc ẩn.

Sự phản bội đã biến đổi Phêrô

Sau khi thấy ánh mắt Chúa Giêsu, Phêrô sợ hãi và hoảng hốt vì tính hèn nhát của mình, ông bật khóc ăn năn. Ông được Chúa tha thứ và can đảm rao giảng Tin Mừng. Bài giảng của ông vào ngày lễ Ngũ Tuần đã khiến 3.000 người xin được rửa tội. Ông trở nên giáo hoàng tiên khởi và chịu tử đạo tại Rôma. Khi người Rôma đóng đinh ông vào thập giá, ông cảm thấy mình không xứng với Chúa Giêsu nên xin được đóng đinh ngược. Quân lính đã lật ngược thập giá theo ý ông muốn. Hằng trăm năm sau, các Kitô hữu bị bách hại đã bí mật đến viếng mộ Thánh Phêrô, và rồi Kitô giáo được công nhận thời Hoàng đế Constantine. Hài cốt Thánh Phêrô được cải táng về Đền thờ Thánh Phêrô. Ngày nay, Vatican lưu giữ những gì được tin là hài cốt Thánh Phêrô, được phát hiện những năm trước đây tại hầm mộ bên dưới bàn thờ của đền thờ này.


Không ăn uống gì từ 12 giờ tới 15 giờ

Ăn chay và kiêng thịt là truyền thống ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Tại sao? Vì đây là ngày Thiên Chúa bị phản bội, hạ nhục, hành hạ, mỉa mai bởi chính đám người mà mới vài ngày trước tung hô vạn tuế Ngài, rồi giết chết Ngài như một tên tội phạm. Truyền thống nói rằng Chúa Giêsu bị treo Thập Giá từ trưa cho tới 3 giờ chiều. Đây là khoảng thời gian nắng gay gắt. Đây cũng là khoảng thời gian tồi tệ nhất trong lịch sử nhân loại. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta ơn cứu độ, nhưng chúng ta đã rũ bỏ. Để nhớ ba tiếng đồng hồ ghê rợn này, nhiều người nhịn ăn uống bất cứ thứ gì. Tại sao? Để than khóc chính mình, để đền tội mình, để thông phần đau khổ với Chúa Giêsu, đặc biệt là để sám hối về những lần chúng ta đã hèn nhát, không dám đứng lên bảo vệ sự thật, không dám đấu tranh chống lại bất công, hoặc không dám tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô là Đấng cứu độ.


Thứ Sáu Tuần Thánh: Tôn kính Thánh Giá

Trong Giáo Hội Công giáo, Thứ Sáu Tuần Thánh không cử hành Thánh Lễ, nhưng có nghi thức tôn kính Thánh Giá để tưởng niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu. Nghi thức này thường được cử hành lúc 3 giờ chiều, giờ Con Thiên Chúa trút hơi thở trên Thánh Giá. Tuy nhiên, vì hoàn cảnh, có thể cử hành trễ hơn, nhưng phải trước 9 giờ tối.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Tử thần chiến bại

Thứ Sáu Tuần Thánh là ngày ảm đạm, ngày đại tang, nhưng lại là ngày tốt lành vì Con Thiên Chúa đã hoàn tất mọi sự. Chính cái chết của Ngài khiến Tử Thần phải bó tay, đành thua cuộc. Kẻ thù vẫn tìm cách hãm hại chúng ta, muốn kéo chúng ta về phe chúng, nhưng chúng không thể chiến thắng vì chúng đã thua Con Thiên Chúa.

Thứ Sáu Tuần Thánh: Khởi đầu phục sinh

Thứ Sáu Tuần Thánh là khởi đầu của sự chết, nhưng cũng chính là khởi điểm của sự phục sinh. Alleluia, Chúa Giêsu đã sống lại vinh quang!

Người ta sợ Thứ Sáu ngày 13 vì người ta thấy trong Bữa Tiệc Ly có 13 người: Chúa Giêsu và 12 môn đệ. Giuđa Ítcariốt là người phản bội, bị coi là người mang “bí số” 13. Đừng dị đoan nhảm nhí mà "sợ" ngày này. Thứ Sáu nào cũng tốt lành, Thứ Sáu Tuần Thánh càng tốt lành hơn!

TRẦM THIÊN THU
(Chuyển ngữ từ Beliefnet.com)

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »


CÔ GIÁO THỜI 1975..

Nguyễn Thị Thanh Dương.

Kim đạp xe từ nhà đến Ngã Năm chưa đầy 10 phút nhưng để tìm ra căn nhà của đứa học trò chắc không nhanh chóng dễ dàng gì. Con đường phía sau Tổng Y Viện Cộng Hòa dẫn vào một xóm nhỏ không tên, nhà cửa hai bên đường tha hồ xập xệ nhô ra thụt vào đủ kiểu, nhà có ghi số đàng hoàng, nhà thì ghi số nhếch nhác cẩu thả khó đọc khó tìm làm như đây là cõi tạm hoặc là cái địa chỉ không bao giờ cần dùng đến.
Kim còn đang ngơ ngác dò tìm số nhà có tới mấy cái “sẹc” 112/4/95/3 thì bỗng đâu có một tiếng kêu lên :
- Cô Kim, cô đi tìm nhà thằng Huy hả?
Một đứa học trò ở xóm này đã nhận ra Kim, nó hí hửng :
- Để em đưa cô tới nhà nó nghe, ở tận cuối xóm gần nghĩa địa cô ơi
Kim vui mừng:
- Ủa, em Thế, may qúa, cám ơn em đã gặp cô đúng lúc
Kim theo đứa học trò đến nhà thằng Huy, nếu không có nó thì Kim đâu biết có những con hẻm quanh co tùm lum người và rác rưới dẫn đến bãi tha ma này.
Thằng Huy có nhà, nó bối rối mời cô giáo vào trong và gọi mẹ nó đang ở sau nhà. Qua những khe hở hớ hênh của tấm liếp che Kim ngó ra sau thấy mẹ con Huy đang vội vàng bóc giấy mấy gói đậu phộng rang đổ ra một cái đĩa nhỏ làm qùa mời khách.
Nói chuyện với mẹ Huy, Kim càng hiểu thêm cảnh nghèo khó của gia đình Huy, sau 1975 cha Huy đi “học tập cải tạo”, người vợ trẻ mang 3 đứa con đi kinh tế mới ở Lộc Ninh theo lời kêu gọi của địa phương với hi vọng chồng sẽ sớm được trở về, nhưng người chồng đã chết vì ốm đau đói khát trong tù. Không chịu được cuộc sống cực nhọc thiếu thốn cả đồ ăn thức uống đến điều kiện vệ sinh y tế nơi vùng đất hoang nước lạ lâu thêm nữa mẹ Huy mang ba đứa con thơ trở về thành phố, nhà cửa đã bán tống bán tháo ngày đi kinh tế mới nay không có chỗ nương thân họ về xóm nghèo này dựng lên một căn nhà tạm bợ để có chỗ trú ngụ nắng mưa. Cả bốn mẹ con hàng ngày đều phải ra đường kiếm sống, anh em Huy bán báo, bán đậu phộng rang, người mẹ thì bán ve chai. Những “nghề” của bốn mẹ con đã nói lên cảnh nghèo nàn cơ cực của họ..
Mấy hôm nay Huy nghỉ học, bạn cùng lớp nói mẹ Huy bị bệnh nên Kim đến để thăm hỏi và động viên học trò
Kim từ gĩa mẹ con Huy và theo chân trò Thế để ra ngoài đường lớn, đã vào được căn nhà cuối nẻo đường nhưng vẫn có thể lạc lối ra đối với những người mới đến đây lần đầu như Kim. Thằng Thế nhiều chuyện líu lo:
- Cô hên đó, bữa nay chắc anh em nó bán đậu phộng rang còn ế nên má nó mở mấy gói ra mời, không thì họ chẳng có gì mời cô giáo..
Kim vừa buồn cười vì lời nói của trò Thế vừa cảm thấy chạnh lòng gia cảnh trò Huy, ra tới đầu ngõ nàng tạm biệt đứa học trò và đạp xe về nhà mà lòng vẫn buồn rưng rưng.
Kim vừa tốt nghiệp Trung học sư phạm và đi dạy năm 1985.
Kim tốt nghiệp thủ khoa, được ưu tiên lựa chọn vài trường điểm của thành phố, trong đó nổi bật nhất hấp dẫn nhất là trường tiểu học Hoà Bình bên hông nhà thơ Đức Bà, khu vực trung tâm Sài Gòn, các bạn cùng lớp đều hào hứng khuyên Kim chọn trường này toàn con nhà giàu hoặc con nhà cách mạng chức vụ cao, cô giáo sẽ tha hồ nhận qùa từ những phụ huynh học sinh giàu có và địa vị.
Nhưng Kim làm bạn bè sững sờ khi nàng nhận dạy tại một trường nhỏ bé trong xóm nghèo vùng Ngã Năm Gò Vấp. Kim so sánh giữa những đứa học trò giàu và nghèo thì đứa nghèo đáng thương hơn thế là nàng chọn trường Kim Đồng. Gia đình Kim cũng vui mừng vì Kim chọn trường gần nhà hàng ngày đạp xe đi dạy thoải mái chứ đạp xe vào thành phố nhốn nháo xe cộ đủ loại, xe chạy đủ kiểu đến nỗi mỗi đường phố đều treo những câu bảng hiệu nhắc nhở như :” Không phóng nhanh giành đường vượt ẩu” hay “ Thà chậm vài giây còn hơn gây tai nạn” hay “ An toàn là bạn. Tai nạn là thù”.. v..v…làm gia đình Kim lo lắm cứ y như nàng còn ngây thơ bé bỏng không “đương đầu” nổi với đường phố và đường đời.
Cô giáo 19 tuổi mới lớn lên chẳng nghĩ đến chuyện hơn thua, lòng nàng chỉ phơi phới những lý tưởng đẹp cho đời.
Kim dạy lớp năm, lớp có hơn 30 đứa học trò, hầu hết là con nhà nghèo cư ngụ quanh vùng. Ngày đầu tiên Kim lên bục giảng bao nhiêu ánh mắt trẻ thơ hướng về Kim đầy vẻ thân ái và ngưỡng mộ dù hôm ấy Kim mâc aó sơ mi trắng với quần tây đen chẳng có gì lộng lẫy.
Kim mỉm cười “khoe” cái răng khểnh và giới thiệu với cả lớp:
- Cô tên Kim là cô giáo mới ra trường, các em là lớp đầu tiên trong cuộc đời của cô đó, các em học hành chăm chỉ và nghe lời cô nhé… .
Những đứa học trò nhao nhao lên và bắt chước nhau:
- Cô ơi, em hứa sẽ nghe lời cô…
- Cô ơi em hứa sẽ học chăm chỉ
- Cô ơi, cô đẹp qúa trời luôn.
- Cô ơi, em thích cô quá trời luôn
Học trò cả lớp sàn sàn bằng tuổi nhau, cao thấp như nhau chỉ có Huy là đứa “gìa” nhất 15 tuổi, vì sau khi gia đình thất bại kinh tế mới về thành phố mấy năm sau anh em Huy mới đi học lại.
Huy tên là Nguyễn Thiện Huy, cái tên đẹp, vóc dáng và gương mặt dễ thương sáng sủa của nó đã nói lên một thời được sống trong mái gia đình an vui đầy đủ. Huy ngoan ngoãn, chăm chỉ và học giỏi..
Để giúp đỡ đứa học trò giỏi con nhà nghèo Kim đã bảo Huy khi nào bán đậu phộng rang còn ế thì mang đến trường Kim và các thày cô giáo khác sẽ mua giúp, thường thì Kim mua bao trọn gói. Thế là thằng bé yên chí có nơi tiêu thụ dứt điểm món đâu phộng rang nhà nó.
Thằng Huy lớn nhất lớp nên đã giúp Kim được nhiều việc như giữ gìn trật tự lớp hay năng nổ mỗi khi trường lớp có tổ chức liên hoan, văn nghệ..v..v..
Hôm lớp Kim tổ chức liên hoan mừng lớp đoạt danh hiệu lớp giỏi . Ở nhà Kim nấu nồi chè và rang đậu phộng mang đến trường. Nồi chè hơi…bị khét và đậu phộng rang …hơi bị cháy. Nhưng thằng Huy biết điều lắm, nó ăn chè ăn đậu phộng rang của cô giáo và …khen cho cả lớp cùng nghe:
- Tuy chè và đậu phộng rang của cô có mùi …khét mà thành đặc biệt và ngon lắm.
Đám trẻ ngây thơ cùng gật gù khen ngon, ăn một lúc nồi chè và mớ đậu phộng hết bay. Có lẽ không phải vì cả nể cô giáo mà vì thời buổi vật chất thiếu thốn nên lũ học trò con nhà nghèo này chẳng chê món gì.
Ôi, Kim là cô giáo giỏi nhưng nấu ăn thì đâu có giỏi vì quen được cha mẹ và anh chị nuông chiều, nàng có vào bếp nấu nướng bao giờ.
Huy phụ cô dọn dẹp, khi không có trò khác đứng gần thằng Huy đã ra vẻ kinh nghiệm “dạy” lại cô giáo nó:
- Nè cô, lần sau cô rang đậu phộng xong là đổ ra rổ ngay nha, ai biểu cô để nướng trên chảo, chảo còn nóng làm đậu phộng cháy là vậy đó.
Kim chưa biết đáp sao thì được học trò “dạy” tiếp:
- Còn nồi chè đậu xanh nữa, ai biểu cô không quậy đều, nấu hoài nó khét là vậy đó.
Kim cười trừ:
- Ừ, tại cô…quên. Không ngờ trò Huy giỏi toán lại giỏi cả bếp núc nữa ta.
- Thì ngày nào em cũng rang đậu phộng bán mà, rang khét như cô thì mẹ em hết vốn từ khuya rồi. Trước kia mẹ em bán chè em cũng biết nấu chè luôn, sau vì chè ế qúa nên mẹ em mới chuyển sang mua bán ve chai, thứ này ế hay khi mẹ em bệnh thì hàng còn nằm đó chẳng hư hỏng gì.
Huy thua cô giáo Kim 4 tuổi mà ra vẻ chững chạc ngang hàng lắm. Một buổi chiều thứ bảy thằng Huy và thằng Thế đi bộ đến nhà Kim để mời cô giáo đi xem phim ở rạp Lạc Xuân Gò Vấp. Cô giáo mặc nguyện bộ đồ bộ tung tăng theo hai đứa học trò như ba chị em vừa đi bộ vừa nói đủ thứ chuyện từ nhà đến rạp hát Lạc Xuân để xem phim.. Dĩ nhiên Kim đòi mua vé đâu nỡ để hai đứa học trò nghèo phải bỏ tiền ra bao mình, nhưng thằng Huy đã bảo Thế dùng “vũ lực” níu tay cô giáo lại để nó ra mua vé kể cả mua vài thứ ăn vặt như xoài ngâm, ổi ngâm ( nó không mua món đậu phộng rang vì ngán món này qúa chừng, mà Kim cũng ngán luôn vì thường xuyên ăn đậu phộng ế của nhà nó).
Thế là cô giáo được hai đứa học trò nhỏ chăm sóc lịch sự. Hai thằng nhóc đã ra dáng nam nhi biết “ga lăng” với phụ nữ
Chưa có thày trò nào thân tình với nhau đến thế
Một tuần sau là ngày nhà giáo 20 tháng 11, Kim đến lớp thấy nhiều em mang theo những món quà.
Đầu tiên là con Hương mang một xấp vải lên tặng cô, Hương là con một cán bộ ở quận, có vẻ như nó hiểu địa vị của cha nó và món qùa giá trị nên nét mặt nó vui sướng hãnh diện lắm.
Thằng Tùng thì vụng về bưng lên một cái rổ cũ có chục trứng gà lót trong mớ rơm khô và nói:
- Cô ơi, gà nhà em đẻ trứng, em nói má để dành đem tặng cô…
Kim đã biết gia cảnh Tùng nghèo, chắc mẹ nó phải để dành từng qủa trứng cho đủ chục để Tùng làm qùa tặng nhân ngày nhà giáo. Kim cảm động và thương thằng Tùng qúa:
- Cô cám ơn mẹ em và em Tùng nhé, nhưng em mang trứng về nhà để ăn đi, cô hiểu tấm lòng của em rồi.
Kim nói vừa dứt lời thì thằng Tùng bỗng oà khóc như cha chết làm Kim hoảng sợ bối rối:
- Sao em khóc? Sao em khóc hả Tùng?
Thằng bé nức nở:
- Cô chê trứng gà nhà em, để em về nói má mua quà khác tặng cô.
Trời ơi, thì ra thằng Tùng hiểu lầm và “quê” với các bạn vì tưởng cô giáo chê món quà nhà nghèo cuả nó. Kim vội vàng lấy khăn tay âu yếm chùi nước mắt cho Tùng và dỗ dành:
- Cô thích ăn trứng gà lắm nhưng cô muốn để dành món ngon này cho Tùng ăn chứ cô không chê.. Em nín đi, cô sẽ nhận cả rổ trứng của em .
Thằng bé mỉm cười dù những giọt nước mắt còn long lanh trong đôi mắt ngây thơ cuả nó.
Một món quà khác làm Kim giật mình bất ngờ khi con Hạnh mang ra… cái giò heo to tướng. Nó tự giới thiệu:
- Má em bán thịt heo hợp tác xã, má chọn cái giò heo ngon nói em mang tặng cô giáo ngày 20 tháng 11. Má nói khỏi cần tặng hoa, hoa tươi không bằng giò heo tươi. Hoa đẹp nhưng không ăn được, không xài được bền lâu còn mất công cô đổ rác.
Kim đã từng nghe các đồng nghiệp kể mỗi năm ngày nhà giáo nhận hoa đến …mỏi cả tay và không biết cắm hoa vào đâu cho hết, khi hoa héo tàn thành đống rác lại phải thanh toán cho sạch nhà. Ngày nhà giáo đi ngoài đường thấy ai ôm một đống hoa là biết ngay họ là thày cô giáo, cái nghề không kiếm ra nhiều tiền để mà lãng mạn ngày thường mua hoa về chưng bày trong nhà nhưng ngày nhà giáo hoa chưng la liệt từ nhà trên cho tới nhà dưới, nhà bếp, nhà kho hay trên căn gác xép tối om om.
Kim nhận cái giò heo của đứa học trò có bà mẹ rất thực tế.vì chắc chắn chiều nay nhà Kim sẽ có món giò heo “cải thiện” bữa ăn trên mâm cơm mà không cần tốn công chen lấn giành giật nhau mua ở phản thịt hợp tác xã.
Nhiều trò khác thì tặng hoa, tặng hộp kẹo, gói bánh. Thấy thằng Huy có vẻ buồn buồn nó né không dám nhìn Kim, Kim ngạc nhiên đến bên nó:
- Kìa Huy hôm nay em làm sao thế?
- Mấy hôm nay mẹ em bệnh không đi ve chai nên không có tiền, em không có quà cũng chẳng có hoa tặng cô.
Kim mỉm cười :
- Em và Thế đã tặng cô một buổi xem phim rạp Lạc Xuân vui qúa trời rồi mà. Em đừng buồn nữa nhé.
Chiều hôm ấy Kim ra về, xe đạp của Kim chở đầy hoa, trứng, thịt và bánh kẹo.. Có hương hoa thơm cho đời thêm đẹp và có thực phẩm cho bụng thêm no. Cái gìo heo buộc sợi giây lạt treo tòn ten ở tay lái xe dù đã hơi ôi ả mà vẫn hấp dẫn làm sao, Kim đạp xe tới đâu cũng có người ngó theo, chẳng biết họ ngó cô giáo hay cái gìo heo hiếm qúy của thời buổi xã hội chủ nghĩa bao cấp này.
Học trò thương mến Kim ngày nào cũng gặp đã đành, một ngày chủ nhật chúng còn rủ nhau đến nhà thăm cô
Được ngày chủ nhật Kim tha hồ ngủ muộn cho đến khi nghe ngoài cổng có tiếng í ới và nghe trong nhà có tiếng chị của Kim gõ cửa phòng:
- Kim ơi, dậy mà tiếp học trò, ai đời học trò đến thăm mà cô giáo còn lười biếng nằm ngủ nướng trên giường thế hả…
Kim vung chăn ngồi dậy:
- Chị ơi, chúng nó đâu rồi?
- Đám đông đang ngồi ngoài sân cứ như biểu tình hay Chí Phèo ăn vạ hay chủ nợ đến canh nhà con nợ kia kìa, em ra mà xem…
Kim bật cười:
- Chị ví von ly kỳ thế. Khoan…khoan…chị đừng vội mở cửa nha, để đó cho em.
Kim nhanh chân chạy xuống nhà dưới ra sân đánh răng rửa mặt và …len lén đi bằng lối cổng sau ra ngôi chợ nhỏ trong xóm mua về một mớ khoai lang, khoai mì luộc nóng hổi rồi nàng mới ra mở cổng.
Lũ học trò hơn chục đứa chắc đợi lâu mệt mỏi đứa thì đứng tựa vào tường đứa thì ngồi chồm hổm trước sân nhà. Thấy cô giáo chúng mừng vui quýnh quáng xúm lại bên Kim như vừa gặp lại cố nhân sau bao năm xa cách:
- Cô ơi chúng em đến thăm cô
- Cô có mạnh khỏe không?
- Cô ơi, sợ ngày chủ nhật cô đi chơi nên tụi em đến từ 7 giờ sáng để canh chừng cô.
Bây giờ là 9 giờ sáng, lũ học trò đã ngồi đợi suốt 2 tiếng đồng hồ. Kim cảm động lòng yêu thương của chúng dành cho mình và cảm động cả tính kiên nhẫn của chúng.
Kim mang mớ khoai lang khoai mì luộc vừa mua ở chợ về cùng ăn với lũ học trò, chưa bao giờ củ khoai lang khoai mì ăn điểm tâm lại ngon đến thế..
Thương mến cô giáo lũ học trò còn hãnh diện khen cô giáo của chúng đẹp nữa chứ.
Hôm Kim cho đề tài luận văn “Em hãy tả cô giáo của em” có bài văn chúng tả cô giáo Kim của chúng nào mắt bồ câu, mũi dọc dừa, môi trái tim..v..v. và có đứa cả gan kết luận :” Tóm lại cô giáo Kim của em đẹp nhất trường, đẹp toàn bộ từ đầu tới tay chân giày dép, đẹp như cô Thẩm Thúy Hằng mà mẹ em có treo hình trong nhà”
Chắc là chúng nghe người ta nói xưa nay nên quen miệng bắt chước theo chứ chúng biết mắt bồ câu mũi dọc dừa là thế nào. Kim không đẹp đến thế, mắt Kim mí lót, mũi Kim, môi Kim bình thường thì.chưa bằng một góc cô minh tinh Thẩm Thúy Hằng.
Nhưng Kim biết mình cũng…dễ thương vì từ hồi học cấp hai cấp ba cho đến sư phạm đã có nhiều bạn nam sinh, bạn cùng xóm để ý thương thầm nhớ trộm. Người quen cảm mến đã đành mà người không quen cũng cảm mến. Thỉnh thoảng Kim hay lên phố chợ Hạnh Thông Tây ăn món hủ tiếu mì của tiệm Tàu, có lần Kim ăn xong ra trả tiền thì ông Tàu nói có anh kia trả tiền cho cô rồi, anh gởi lại một tờ giấy. Kim mở mẩu giấy ra với nét chữ cuả người xa lạ: “ Cô bé dễ thương ơi, anh trả tiền cho cô bé rồi, lần sau nếu gặp anh xin phép được trả tiền nữa nhé”.
Anh không ghi tên tuổi, không cần làm quen, chỉ lãng mạn thế thôi, nhưng Kim…từ bỏ luôn tiệm mì ông tàu và đổi sang ăn tiệm mì khác vì chỉ sợ có anh chàng nào đó lén nhìn nàng lúc đang xì xụp ăn tô mì thì mắc cỡ lắm..
Cô giáo Kim dạy học được 3 năm, cái nghề nàng chọn ngày từng ngày đã thêm gắn bó, nàng yêu nghề giáo dù đồng lương bé nhỏ chỉ đủ cho cô nàng độc thân như nàng tiêu xài vặt khi chuyện áo cơm đã có gia đình bảo bọc..
Bạch Diệp một bạn thân của Kim thi rớt đại học không thèm vào học trung cấp như nàng mà ở nhà phụ cha mẹ bán…cây tôn, cái nghề chẳng thích hợp cho cô thiếu nữ mới lớn chút nào nhưng là nghề hái ra tiền của nhà nó. Buổi giao thời sau khi miền Nam xụp đổ người ta gỡ mái đập tường nhà để đi kinh tế mới và không bao lâu sau người ta lại có nhu cầu xây dựng nhà, tiệm bán cây tôn phát triển thêm bán cả gạch cát, xi măng nên thời nào tiệm của nhà Bạch Diệp cũng hốt bạc dễ dàng.
Bạch Diệp luôn nhìn Kim với vẻ thương hại cô bạn nghèo, chọn nghề giáo nghèo chẳng trông mong gì mánh mung bổng lộc ngoài cái ngày nhà giáo 20 tháng 11 nhận hoa, nhận qùa vớ vẩn. .
Yêu nghề giáo Kim yêu lũ trẻ, học trò ba niên khóa đã rời trường, có bao nhiêu đứa học trò thân quen, có bao nhiêu kỷ niệm dưới mái trường nghèo đã ghi vào lòng nàng. Nhưng những đứa học trò lớp đầu tiên của đời cô giáo là Kim nhớ nhất.
Một hôm khi Kim đang rời trường để về nhà thì một anh bộ đội xuất hiện nơi cổng trường, Kim đang ngỡ ngàng chưa kịp nhận ra ai thì anh bộ đội lấy chiếc mũ cối trên đầu ra:
- Em Nguyễn Thiện Huy nè cô.
Huy đã là một chàng trai 18 tuổi, nó to lớn và rắn rỏi. nét mặt thoáng buồn Huy kể:
- Em lớn rồi, không có tiền cũng như không có thời gian để ăn học tiếp nữa. Em mới bị gọi đi bộ đội.
Kim nói như một lời than:
- Lý lịch con sĩ quan “nguỵ” mà họ cũng gọi em đi bộ đội sao !!
- Dạ, bởi đi bộ đội là chuyện sống chết và gian khổ có ai tranh giành đâu cô nên em mới được gọi, mới được “trúng tuyển” nghĩa vụ quân sự. Con cháu cán bộ hay con nhà giàu có tiền đút lót phường đội địa phương đều…rớt nghĩa vụ quân sự cả.
Kim ái ngại hỏi thăm:
- Gia đình em lúc này thế nào?
- Mẹ vẫn mua bán ve chai, các em vẫn bán hàng rong không có phép lạ nào thay đổi được. À, có em đi bộ đội nè…
Huy nói đùa mà cả Huy và cô giáo đều chẳng thấy vui. Huy buồn buồn tiếp:
- Đi bộ đội đời em không có tương lai. Em tới thăm cô và chúc cô luôn dạy tốt.
Kim cũng buồn buồn an ủi một câu vô nghĩa:
- Rồi em sẽ trở về mà..
- Khi người ta phải phục vụ cho một chế độ không yêu thích coi như cuộc đời không có tương lai. Gia đình em tan nát và nghèo khổ vì họ. Người cha chết trong tù, vợ con đi kinh tế mới, con cái không có cơ hội học hành đầy đủ thì biết lấy gì và biết đến bao giờ mới bù đắp được những mất mát này…
Kim giật mình không ngờ những ý nghĩ của thằng Huy lại giống mình đến thế. Suốt ba năm đi dạy, yêu thương lũ học trò nhưng nàng đã dần dần cảm thấy cuộc đời không có tương lai khi phải sống trong một xã hội đầy rẫy những bất công dối trá và chính nàng cũng phải sống gỉa dối giảng dạy cho học trò những điều nàng không tin và không muốn..
Thằng Huy đã lớn thật rồi, đã trưởng thành từ những nỗi đau, tuổi mộng mơ 18 của nó đã thay thế bằng những mặc cảm tủi hờn . Kim nắm lấy bàn tay nó rưng rưng:
- Cô chúc em đi bình an và …
- Và nhất định em sẽ trở về phải không cô? Em sẽ tìm gặp cô tại trường Kim Đồng này. Chúc cô ở lại bình an
Một năm sau Kim đi vượt biên, nàng đến Thái Lan. Ở trại tị nạn những ngày dài tháng rộng chờ đợi đi định cư nước thứ ba thỉnh thoảng Kim cũng nghĩ tới thằng học trò đang là bộ đội, nàng nghe tin thằng Huy đóng quân bên Campuchia.
Không biết ngày Huy trở về có đến trường cũ tìm cô giáo của nó như lời hẹn không? Kim áy náy và ray rứt tưởng tượng có môt anh bộ đội trẻ thất chí trở về sau những năm chiến đấu vô nghĩa, anh ta đến trường Kim Đồng và đứng chơ vơ ngoài cổng trường vì cô giáo của anh đã đi xa.
Huy ơi, hãy thông cảm cho cô, cô từ bỏ chế độ và xã hội của họ chứ cô đâu muốn từ bỏ quê hương trong đó có trường lớp và các em học trò nhỏ của cô.
Một hôm Kim đọc báo “Đường Sống”, một tờ báo hải ngoại, ngoài những bài viết chính từ hải ngoại còn có những đóng góp của thuyền nhân tị nạn. Báo được phân phối đến những trại tị nạn vừa để thông tin vừa giải trí.
Kim đọc bài viết của một người tị nạn ở Thái Lan, anh ta là bộ đội đã cùng một bạn bộ đội khác đào tẩu đi đường bộ từ Campuchia sang Thái Lan, nhưng chỉ một mình anh sống sót còn người bạn kia đã bị bắn chết trước khi sang biên giới Thái Lan.
Người bạn xấu số của anh tên Nguyễn Thiện Huy…
Kim bật khóc nghẹn ngào, Nguyễn Thiện Huy này có phải là đứa học trò cũ của nàng không ?
Nguyễn Thiện Huy ơi, nếu là em thì lời hứa hẹn ngày cô và em tái ngộ chỉ là ảo vọng thôi..
Cô và em là thày trò cũng là hai người bạn cùng chung tư tưởng Chúng ta không gặp nhau ở trường xưa cũng không may mắn gặp nhau nơi bến bờ tự do này.
Nguyễn Thiện Huy ơi, nếu là em thì câu em nói hôm nào như một điềm báo trước “Đi bộ đội đời em không có tương lai”
Ở thế giới bên kia em hãy phù hộ cho mẹ và các em của em để mai này họ có một tương lai tốt đẹp hơn những gì trong qúa khứ.Huy nhé

Nguyễn Thị Thanh Dương
( March, 08- 2017)

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Truyện tình buồn
Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.
Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…
Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của các loài hoa: Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép kín như những con ốc trong bốn bức tường rêu.

Tôi, tên bình thường : An Nhiên, gia cảnh cũng “thường thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt luôn khép kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi như con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của mình.

Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt bông phượng đỏ về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng học bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long nhãn mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi “Phải chi An Nhiên là con trai, bác gả Cát Đằng cho cháu.”

Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người tán. Tan học về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu lui gót. Tôi như garde de corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một ông Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn tôi. Cát Đằng tâm sự: “Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh. Ngó phát ớn!”. Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử Charles Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable hoặc chí ít cũng phải lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa Audrey Hepburn chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines … Thâm tâm tôi thấy bạn mình quá lãng mạn. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị này?

Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất hiện. Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển quân. Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa nay toàn áo dài, chemise, quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào hùng mặt anh nào cũng sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi trường quân sự ở Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ. Đứng bên những chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường đường khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa dán mắt vào anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên trong mắt anh nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má nàng ửng hồng , ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo giờ ra chơi, hai người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.

Ra về, tôi bảo Cát Đằng “ Mình thấy hình như có Coup de Foudre ”. Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi: -“An Nhiên ơi, bạn có thương mình không?”. Tôi ngạc nhiên: - “Tui không thương bạn thì thương ai?” - “Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí - Được thôi mà”

Buổi chiều, tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…Và bốn giờ chiều. Một bóng người xuất hiện trước cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị hồi sáng…Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.

Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là một mối nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không phải là type người “ yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một nụ. Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua khuôn phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?

Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.

Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn nhầm. Hai người có một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin cho bạn đi học nhóm , đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An, chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của con; người chị gái tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng cho Cát Đằng.

Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở thành địa chỉ cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần. Cát Đằng có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật .Đọc xong thư bạn cất vào đó và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè. Không ai biết ngoài tôi.

Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc xích đu trắng nhìn mông lung. Tôi mở lời : “Răng đó? Giận nhau hả?”. –“Không, có chi mô”. Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.

Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên lặng của Cát Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John Schaffer giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát Đằng đưa bức thư cho tôi: “An Nhiên đọc đi !”.Tôi liếc nhanh qua bức thư với những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao nhẫn truyền thống của SVSQ năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư ? Tôi không thể hình dung được chuyện này. Không được. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là với bạn tôi, một người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.

Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết: “ An Nhiên giúp mình đi. Năn nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp mình…”. Điều gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định liều lĩnh thế ? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư ? Xưa nay tôi vốn dị ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào nhan đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”. Không, không đựơc.

Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ ủ dột của Cát Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt trong buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi. Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.

Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế. Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.

Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam trên đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên lúc hai giờ chiều để lại tôi ở lại với cõi lòng như lửa đốt.

Ba đêm tôi ăn không ngon , ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi chắp hai tay cầu nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi thuận buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...

Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước ra từ chiếc Bus của Hàng không Việt Nam.

Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi , hôn lên má: - “Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng”. Những giận hờn trong tôi đều tan biến.

Trên chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện. Thành phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được trang trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi đây là một bí mật chỉ riêng ba người biết…

Thinh thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi Cát Đằng như con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư vào Nam, về lúc cha anh mất , về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào Bình Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…

Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước khi về trình diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường miền Trung đang sôi động với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn ri. Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh phúc.

Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam. Hình ảnh cuối cùng trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người yêu nói những lời từ biệt : “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.

Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục. Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam hồn nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể chuyện chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.

Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công”. Tội nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.

Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự trù với tôi về tương lai. Một ngôi nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười bao dung.

Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve “Tội nghiệp mày chưa. Chị nuôi em nhé!”. Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng: “Chim sa cá nhảy. Ăn nói bậy bạ”. Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi “Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim thấy tội bắt chết !”

Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ. Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Dã Viên. Trời thật đẹp. Nắng vàng như mật . Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài “Phải chi có anh H ”. Tôi nguẩy vai “Rồi sẽ có ”.

Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ. Chị Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng: “Có chuyện chi rứa chị ? Mẹ mô rồi? ”. Chị Hương òa khóc: “ Mẹ với anh Hùng đi Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.”…. Cát Đằng quỵ xuống đất. Tôi và chị Hương đỡ vội lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một ly nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt. Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp Mười. Mẹ chị đang trên đường vào, chưa biết chi thêm. Trong bóng chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng. Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư cho bạn. Anh đang đóng quân ở Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế ác nghiệt vậy sao? Anh vừa tròn 24 tuổi, ra trường mới chín tháng…

Không biết bằng cách nào tôi đã đưa Cát Đằng về đến nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác gái bạn bị trúng gió rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại, thi thoảng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong giây phút này đều bất lực!

Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó. Trong khi Cát Đằng định thưa thật với ba mạ để xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ anh H. nhắn ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như anh đã chết. Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi đau ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn vặn tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác tối tối thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới ”.

Phải sau ba tháng mẹ anh H. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn “Con ơi! Bác không có duyên làm mẹ con rồi !”. Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng. Tôi thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm nghía.

Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin của người mẹ cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt anh sáng, tai anh to vậy mà. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó chăng? Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình Dương chơi với cháu nội cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H. ơi !”

Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn chăm chú theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến sự ngày càng ác liệt. Máy bay cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá trong Thành Nội…

Rồi Huế nháo nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…

Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”. Bạn tôi bước xuống cuộc đời.

Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao động, vài cái lon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt cho đến cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng...Nhìn bạn đếm từng hào tiền Bắc sau buổi chợ, tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều như thế, biết làm sao.

Thinh thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên Thiên An quét lá thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia đình chúng tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao tải, chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung quanh. Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn. Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt với sự thật kinh hoàng.

Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng. Những bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu đói!

Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt. Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong rừng được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ cột gia đình. Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc đơn rồi ngoặc kép.

Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện như một vị cứu tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói thuốc tây, những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm một mục đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí thức. Lấy hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì nhà mình không ngóc đầu lên được. Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân mà thôi”. Bạn tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang nghĩ đến một Thúy Kiều hiện đại?

Tôi khuyên Cát Đằng: Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi khi phải thực tế. Bạn yên lặng gật đầu.

Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy tờ bảo lãnh.

Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại gặp mẹ anh H. từ Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn. Bác ôm vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”. Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H. ơi! ”.

Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm. Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh trao nhẫn được đặt lên trên. Cát Đằng bảo tôi “An Nhiên là một chứng nhân quan trọng trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này. Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể ”. Tôi cất vào tủ sách, lòng ngậm ngùi thương bạn.

Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng thành đạt, hai con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền như bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ nước ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.

Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp đặt. Một ông chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé môi về chuyện bạn mình…

-----------

Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách, tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.

Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi tính lại, tôi quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H. Không còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.

Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn. Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.

Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn ông nằm trên ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía bên dưới là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt ấy, gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng hoàng, ngơ ngẩn.

Vâng, anh H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc hành quân của Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa về quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt dây thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái đau đớn tận cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…

Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác sỹ và y tá tận tâm chăm sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang Trung tâm phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà bảo với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.

Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống ra đường. Anh về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được quân y viện chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới gối. Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và một số anh em còn kẹt lại ở quê nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của những chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch thuật, để luyện thi cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình là người vô dụng.

Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi: “Anh cám ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết. Đó chính là tình yêu của anh giành cho cô ấy”. Anh nâng chiếc nhẫn có viên hồng ngọc trên ngón tay áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm Lễ trao nhẫn trên Vũ đình trường.

Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.

Hương Thủy

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Tháng tư đọc lại "một con gió bụi" của Trần Trọng Kim

Nguyễn Cao Quyền
- Năm 1945 Thế Chiến II kết thúc. Đầu năm này, Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương. Sau cuộc đảo chánh, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam và tiếp tục cho hoàng đế Bảo Đại tại vị.

Ngày 17/4/1945 nội các Trần Trọng Kim thành lập. Đây là chính phủ dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Tuy chi tại chức có 4 tháng nhưng thủ tướng họ Trần và nội các của ông đã thực hiện được một số việc trọng đại cho đất nước.

Thành tích quan trọng nhất mà chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện được là thâu hồi độc lập cho tổ quốc: ngày 20/7/1945 toàn quyền Nhật Tsuchihachi đồng ý trả lại ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và ngày 8/8/1945 trao trả Nam Bộ cho chính quyền trung ương.

Thủ tướng Trần trọng Kim đã thu hồi trọn vẹn lãnh thổ của tổ quốc từ tay phát xít Nhật mà không tốn một giọt máu. Nhưng ngay sau khi được thu hồi, nền độc lập này đã bị Việt Minh phá hỏng và hậu quả là đất nước đã bị điêu linh trong chiến tranh, chết chóc, thù hận và tụt hậu, như mọi người đều đã thấy.

*

Thủ tướng Trần Trọng Kim sinh năm 1883 tại Hà Tĩnh. Năm 1905 ông sang Pháp du học tại trường sư phạm Melun. Năm 1911 ông về nước làm nghề dạy học. Năm 1942 ông giữ chức thanh tra tiểu học miền Bắc. Ngày 2/4/1945 ông được vua Bảo Đại vời ra Huế. Ngày 16/4/1945 ông chấp nhận đề nghị của vua Bảo Đại, đứng ra lập chính phủ.

Mười một ngày sau khi Nhật trao trả toàn bộ lãnh thổ do Pháp chiếm giữ cho Việt Nam thì Việt Minh đã phá hỏng nền độc lập và thống nhất ấy và thay thế vào đó bằng một cuộc chiến 30 năm “nồi da xáo thịt”.

Ngày 2/9/1945 chính phủ Trần Trọng Kim ra lệnh cho công chức tổ chức một cuộc biểu tình ủng hộ chính phủ. Lợi dụng cuộc biểu tình này. Việt Minh phát động một cuộc tổng nổi dậy cướp chính quyền. Quân đội Nhật ngỏ lời giúp đàn áp Việt Minh, nhưng thủ tướng họ Trần, vì thương dân, không đồng ý. Sau đó ông đã giải tán nội các và khuyên vua Bảo Đại thoái vị. Chính vì vậy mà Việt Minh đã thành công trong việc cướp chính quyển và đã làm cho nhân dân Việt Nam khốn khổ từ ngày đó cho đến ngày nay, khổ nạn này vẫn chưa chấm dứt.

Cho nên nếu nói về “cách mạng mùa Thu” ở Việt Nam thì phải nói đến cuộc cách mạng dân chủ ngày 8/8/1945 của chính phủ Trần trọng Kim, còn cuộc đảo chánh ngày 19/8/1945 của Việt Minh chỉ là một cuộc phá hoại.

Di huấn Trần Trọng Kim

Năm 1949 thủ tướng Trần Trọng Kim đã cho xuất bản một cuốn hồi ký mang tên “Một Cơn Gió Bụi”. Đây là một cuốn lịch sử quý giá gồm 12 chương mà tất cả chúng ta đều phải đọc và không những chỉ đọc không thôi mà cỏn phải nghiền ngẫm qua thời gian, để thấu triệt lịch sử dân tộc.

Đặc biệt chúng tôi xin giới thiệu Chương số 7 mà đã là người Việt Nam thì ai cũng nên học thuộc lòng. Chương này mang tên “Tôn Chỉ Và Sự Hành Động Của Đảng CSVN”.

Chúng tôi xin được viết bằng chữ nghiêng để quý vị dễ theo dõi trong những đoạn viết sau đây. Xin quý vị đọc tiếp.

“Cộng sản đảng theo cách tổ chức và hành động của họ là một thứ tôn giáo mới, giống như các tôn giáo cũ lấy sự mê tín mà tin, chứ không hoài nghi hay đi trệch ra ngoài. Song các tôn giáo cũ nói có cõi trời, có thiên đường là nơi cực lạc. Cộng sản giáo ngày nay hoàn toàn duy vật tất không ai thờ phụng thần thánh nào khác nữa mà nhất thiết phải sùng ái những người như Karl Marx, Lenin, Stalin để thay những bậc thần thánh cũ bị truất bò.

Đã mê cái đạo ấy và đã coi lý thuyết ấy là chân lý tuyệt đối thì ngoài cái lý thuyết ấy ra, là tà giáo, là tà đạo. Ai không tin và phản đối những người đứng đầu đảng, tức những bậc giáo chủ, thì là những người phản đạo, tất phải nghiêm trị. Vì vậy mới có sự tàn sát những người cộng sản theo Trotsky (cộng sản Đệ Tứ Quốc Tế) là một chi cộng sản phản đối chủ nghĩa cộng sản Đệ Tam Quốc Tế.

Vậy tín đồ cộng sản phải là những người cuồng tín chỉ biết có đời sống vật chất mà thôi, ngoài ra không có gì nữa. Về đường thực tế, các đặc sắc của cộng sản là không nhận có luân thường đạo lý, không biết có nhân nghĩa đạo đức như người ta vẫn tin tưởng.

Người cộng sản cho cái điều đó là hủ tục của xã hội phong kiến thời xưa, đặt ra để lừa dối dân chúng nên họ tìm cách bỏ hết. Vì có tư tưởng như thế nên cha con anh em, bạn bè, không có tình nghĩa gì cả, chỉ biết tôn trọng chủ nghĩa cộng sản và phục tùng những người cầm quyền của đảng, ngoại giả giết hại lẫn nhau, lừa đảo nhau. Hễ ai làm những việc mà có lợi cho đảng thì là người giỏi, người tốt. Gia đình, xã hội, phong tục, chế độ cũ, đều bỏ hết, bỏ đến tận cỗi rễ để hành lập xã hội mới.

Cái xã hội mới ấy không đấu tranh cho quốc gia hay cho dân tộc. Dù có nói tình đầu cho quốc gia hay cho dân tộc nữa thì cũng chỉ là phương pháp dùng tạm thời trong một cơ hội nào đó để cho được việc mà thôi, chứ mục đích cốt yếu là tranh đấu cho giai cấp vô sản.

Khi ở đâu sự tranh đấu cho giai cấp ấy được thắng lợi thì cứ tranh đấu mãi để bảo vệ quyền lới cho giai cấp ấy và xóa bỏ hết cương giới giữa nước nọ với nước kia để thực hiện một thế giới đại đồng đặt dưới quyền chỉ huy của giáo chủ cộng sản ở bên Nga. Nước nào không theo chế độ cộng sản thì bị trục xuất ngay ra khỏi hệ thống cộng sản.

Cái phương thuật của đảng cộng sản Nga không khéo ở chỗ ấy. Tuy nói rằng bài trừ đế quốc và tiêu diệt độc tài nhưng lại áp dụng độc tài tàn ác hơn thời xưa và gây ra một thứ đế quốc theo một danh hiệu khác để tự mình thống trị hết thiên hạ. Chẳng khác gì thời xưa bên Tàu các chư hầu phải phục tùng mệnh lệnh thiên tử.

Thì ra thế gian này chẳng có gì mới lạ: chế độ cộng sản ở nước Nga chẳng khác gì chế độ nhà Tần bên Tàu thời Chiến Quốc. Có khác chỉ là những phương tiện khoa học và những mánh khoé hiện thời mà thôi, còn thì cũng tàn bạo gian trá, cũng dùng những âm mưu quỷ quyệt để thống trị hết các nước.

Về hành động thì đảng cộng sản chuyên dùng những âm mưu xảo trá, nên tuy có thắng lợi thì cũng được ít người trí thức đi theo. Vì thế mà họ bài trừ trí thức và chỉ ưa dùng đàn bà trẻ con và những người lao động là những người dễ khuyến dụ, dễ lừa dối.

Người cộng sản khi đã hành động hay dùng đến hai chữ “giải phóng”. Cần phải hiểu rõ nghĩa của hai chữ ấy. Có phải trước kia có cái cũi giam người, bây giờ họ đem cái cũi mới để bên cạnh rồi bảo người ta chạy sang cái cũi mới ấy, đó là giải phóng theo kiểu cộng sản.

Các chế độ cộng sản giống như in các chế độ chuyên chế thời xưa. Ai nói xấu và công kích thì bị đầy bị giết. Ai không sốt sắng thì bị tình nghi phải chịu mọi điều phiền khổ. Cả nước bị chính quyền theo dõi bởi những toán trinh thám tố cáo hết người này đến người khác. Thành ra nhân dân trong xã hội không biết ai là bạn ai là thù, mất hẳn sinh thú ở đời.

Trong những lời tuyên truyền của Việt Minh thấy luôn luôn nào là hạnh phúc nào là tự do nào là bình đẳng nhưng thực sự thì là trái ngược tất cả. Tất cả chỉ là nói dối và lừa bịp, giết hại. tàn phá, miễn sao làm cho người ta mắc lừa hay sợ sệt theo mình là được. Đó là cái thủ đoạn của Việt Minh. Dân tình thấy thế lấy làm ngao ngán nhưng không dám nói ra. Cho nên trong dân gian đã có câu nói như “Vẹm”. Vẹm là do hai chữ viết tắt VM đọc nhanh mà thành ra”. (hết trích).

Những đoạn văn bằng chữ nghiêng nói trên là di huấn của thủ tướng họ Trần truyền lại cho con cháu. Từ nhiều thập kỷ qua những người cộng sản đã gây ra những điều di hại lâu dài cho đất nước Việt Nam. Chẳng cần nhắc lại thì ai cũng biết là sau hơn 70 năm cầm quyền, Việt Cộng đã gây ra những điều ác độc như thế nào, những điều ác độc mà thủ tướng họ Trần đã báo động trong di chúc của người.

Tương lai của Việt Nam sẽ ra sao?

Tương lai của Việt Nam có bi quan lắm hay không? Câu trả là không.

Đất nước ta đang đứng trước một vận hội mới vì đảng cộng sản và chế độ đương quyền đang phải chịu một cơn bão lớn của lịch sử. Cơn bão đó đang xóa sạch chế độ độc tài toàn trị trên địa bàn thế giới, và do đó, đất nước ta, dân tộc ta sẽ sớm phục hồi và đi vào một tương lai tươi sáng. Đó là một thực tế đang mỗi ngày được khẳng định.

Phải nói rằng. trên thế giới hiện nay, chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung. Số phận này sẽ nhanh chóng đến với Việt Nam. Yếu tố thực tiễn này, chúng ta cần nắm bắt và tin tưởng. Vấn đề còn lại chỉ là thời gian sớm hay muộn, và với tình hình chính trị quốc tế hiện nay thì có thể là rất sớm.

Sau hơn 70 năm kiên trì đấu tranh cho lý tưởng tự do dân chủ, người Việt tự do đang buộc Việt Cộng phải sửa sai, phải từng bước mỗi ngày một tiếp cận gần hơn với phía dân chủ và trả lại cho dân tộc các nhân quyền căn bản.

Có thể nói là CSVN đang ở trên quá trình tiêu vong và đang bước vào giai đoạn cuối cùng. Thật vậy, vì tham nhũng, cán bộ đảng viên cộng sản đang được tư sản hóa, nhà nước cộng sản đang được tư bản hóa, còn chế độ cộng sản thì đang phải dân chủ hóa. Đó là con đường phát triển tất yếu và không còn con đường nào khác./.

Tháng 4 năm 2017

Nguyễn Cao Quyền

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Cho một kiếp mơ được yêu nhau
Tác giả hai bài thơ đã cùng âm nhạc của Phạm Duy trở thành bất hủ trong lòng người Việt, nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh, đã ra đi vào ngày 9/6/2017 tại miền Nam California. Một cái tên lớn của văn hoá Việt Nam đã hoá mây về trời trong những ngày ở quê nhà đầy mưa và mây xám.

Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình, là đôi tác phẩm trong hàng loạt các sáng tác của bà như truyện ngắn, truyện dài, thi tập… mà danh mục có đến 17 ấn bản, từ năm 1960 đến 1990.

Tài liệu về bà, chủ yếu được trích từ sách “Văn nghiệp & cuộc đời Minh Đức Hoài Trinh” do phu quân của bà là Nguyễn Huy Quang chép lại (sách đề tác giả là Nguyễn Quang). Hiện sách gần như tuyệt bản. Trong đó nói rõ tiểu sử của bà như sau:
“Minh Đức Hoài Trinh tên thật là Võ Thị Hoài Trinh, bà thường lấy các bút hiệu là Hoàng Trúc, Nguyễn Vinh, Bằng Cử. Bà sinh ngày 15 tháng 10 năm 1930 tại Huế, sống ở Pháp từ năm 1953 đến 1964. Sau đó bà đến định cư tại quận Cam, Hoa Kỳ từ năm 1982. Tên tuổi của Minh Đức Hoài Trinh không ai trong giới văn học không biết. Bà sinh tại Huế, con quan Tổng Đốc Võ Chuẩn, Ông Nội bà là Võ Liêm, Thượng Thư Bộ Lễ của triều đình. Năm 1945 Bà tham gia phong trào kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó Bà biết sự lợi dụng của phong trào nên bà bỏ về Huế tiếp tục học.

Năm 1964 bà đi du học tại Pháp về ngành báo chí và Hán văn tại trường ngôn ngữ Đông Phương La Sorbonne, Paris đến năm 1967 bà ra trường và làm phóng viên cho đài truyền hình Pháp ORTF, lúc đó bà đi làm phóng sự nhiều nơi sôi động nhất như: Algerie và chiến trường Việt Nam. . . Năm 1972 bà được cử theo dõi và tường thuật cuộc hòa đàm Paris. 1973 Bà sang Trung Đông theo dõi cuộc chiến Do Thái, một thời gian sau bà trở về Việt Nam giảng dạy khoa báo chí tại Viện Đại Học Vạn Hạnh năm 1974-1975.
Sau biến cố 1975 bà trở lại Paris cho xuất bản tạp chí “Hồn Việt Nam” và trở lại cộng tác với đài phát thanh ORTF với chương trình Việt ngữ để tranh đấu cho những nhà cầm bút, những văn nghệ sĩ Việt Nam bị cộng sản cầm tù. Bà đứng ra thành lập Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và vận động để được công nhân hội viên Hội Văn Bút Quốc Tế tại Rio de Janeiro, Ba Tây vào năm 1979″…

Về câu chuyện văn bút quốc tế, có rất nhiều chi tiết đáng ngưỡng mộ tâm sức của bà.
Sau năm 1975, rất nhiều hội đoàn chính danh liên kết với quốc tế của miền Nam Việt Nam như Hướng đạo sinh, Ngân hàng, báo chí… đều bị đứt đoạn. Hội nhóm văn chương tự do của miền Nam sau thời điểm đó đều tan tác, mỗi người một hướng.

Theo quy định của Văn bút Quốc tế, muốn tái lập, thì tổ chức nhân danh quốc gia đó phải có ít nhất là 20 thành viên. Từ một nền văn hoá có đến hàng ngàn danh sĩ của miền Nam, việc liên lạc và tập hợp 20 người vào năm 1977 đến 1979 đã trở nên khó khăn vô cùng, nhất là khi cuộc sống của người Việt di tản còn vất vả và ly tán.

Năm 1978, nữ thi sĩ và là nhà báo Minh Đức Hoài Trinh một mình tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 43 tổ chức ở Stockholm, Thụy Điển, và đơn độc một tiếng nói Việt Nam ở đó, bà vận động các nhà văn và các bút nhóm quốc tế quen biết ủng hộ cho việc thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Vietnamese Abroad Pen Centre) chính danh là thành viên của Pen International, với lý do nối kết lại hoạt động của giới trí thức tự do Việt Nam sau chiến tranh. Đây là việc mà ai cũng thấy là vô hy vọng vì sự chống đối mạnh mẽ của phe thân cộng, lúc đó đang nổi lên trong Pen International. Nhưng kết quả bỏ phiếu thì thật bất ngờ: 23 phiếu thuận – 23 phiếu chống. Rất nhiều nhà văn trong hội đồng đã cảm động trước tâm nguyện của bà nên đã bỏ phiếu đồng ý. Tiếc là kết quả không như ý.
Năm 1979, tại Đại Hội Đồng Văn Bút Quốc Tế kỳ 44 ở Rio de Janeiro, Brazil, cuộc vận động của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh thành công. Và Văn Bút Việt Nam Hải ngoại tồn tại đến ngày hôm nay, vẫn chính danh là nhánh văn bút quốc tế thuộc Pen International.

Mục đích và tâm lực của nữ thi sĩ Minh Đức Hoài Trinh là muốn xây dựng một tiếng nói truyền thông có tầm quốc tế cho giới trí thức người Việt đang phải ly tán, nhất là vào lúc khi muốn cất tiếng thì lại quá lạc loài. Tầm nhìn của một phụ nữ như bà, vào thời gian ấy, quả thật đáng ngưỡng mộ.
Từ năm 1982, Minh Đức Hoài Trinh định cư ở Hoa Kỳ, sau đó ở gần nơi cư trú của nhạc sĩ Phạm Duy. Nơi Midway City, mà ông thường diễn dịch một cách thơ mộng là Thị trấn giữa đàng.

Nói về cơ duyên của sự kết hợp thi ca và âm nhạc của Kiếp nào có yêu nhau và Đừng bỏ em một mình, nhạc sĩ Phạm Duy có ghi lại trong hồi ký Vang vọng một thời: “Tôi bấy giờ đang là quân nhân… bỗng gặp lại Minh Đức Hoài Trinh lúc đó được mười bảy tuổi từ thành phố Huế thơ mộng chạy ra với kháng chiến. Nàng còn đem theo đôi gót chân đỏ như son và đôi mắt sáng như đèn pha ô tô. Từ tướng Tư lệnh Nguyễn Sơn cho tới các văn nghệ sĩ, già hay trẻ, độc thân hay đã có vợ con… ai cũng đều mê mẩn cô bé này. Phạm Ngọc Thạch từ Trung ương đi bộ xuống vùng trung du để vào Nam bộ, khi ghé qua Thanh Hóa, cũng phải tới Trường Văn hóa để xem mặt Hoài Trinh. Hồi đó, Minh Đức Hoài Trinh đã được Đặng Thái Mai coi như là con nuôi và hết lòng nâng đỡ.

Năm 1954, tôi gặp Minh Đức Hoài Trinh lần thứ ba khi tôi tới Paris ở khoảng hai năm. Nàng đã rời Việt Nam, đang sống với một người em trai trong một căn phòng nhỏ hẹp. Ba lần gặp nhau là rất hy hữu, tôi bèn giao lưu với nàng và soạn được hai bài ca bất hủ”…
Là người sống cùng thời đại với nữ văn sĩ Pháp Francoise Sagan, và cũng là người theo Tây học nhưng tư tưởng bàng bạc theo thuyết cõi tạm của Phật giáo, ngôn ngữ của bà luôn u uẩn nhưng ngôn từ của bà thì dữ dội và đắm đuối đến ngộp thở, đọc lại vẫn bàng hoàng:
“Đừng bỏ em một mình Trời đất đang làm kinh Rừng xa quằn quại gió Thu buốt vết hồ tinh”
Hay
“Kiếp nào có yêu nhau Nhớ tìm khi chưa nở Hoa xanh tận nghìn sau Tình xanh không lo sợ”
Hoặc trong bài “Tình chúng mình sẽ được vẽ lên tranh” có đoạn:
“Anh còn sống là mình còn xa cách Vì cuộc đời hay ghét kẻ yêu nhau Vì hạnh phúc phải xây trên nhiều thử thách Xã hội điên cuồng, nhân loại ngợp thương đau”

Tạm biệt bà, một danh nhân của nền văn hoá đầy sức sống mãnh liệt của miền Nam Việt Nam tự do. Thêm một người nữa đã khuất, và thêm những núi đồi hùng vĩ lại mọc lên mà hậu sinh sẽ cứ phải ngước nhìn trong trầm mặc. Những ngọn núi nhắc rằng đỉnh cao của kiếp người là để sống và mơ được yêu thương nhau, dẫu muôn thương đau.

Tuấn Khanh

Phụ lục: Các tác phẩm của Minh Đức Hoà Trinh đã xuất bản gồm có:�Lang Thang (1960), Thư Sinh (1962), Bơ Vơ (1964), Hắn (1964), Mơ (1964), Thiên Nga (1965), Hai Gốc Cây (1966), Sám Hối (1967), Tử Địa (1973), Trà Thất (1974), Bài Thơ Cho Ai (1974), Dòng Mưa Trích Lịch (Thanh Long Bruxelles, 1976), Bài Thơ Cho Quê Hương (Nguyễn Quang Paris 1976), This Side The Other Side (Occidental Press USA 1980), Bên Ni Bên Tê (truyện dài, Nguyễn Quang USA, 1985), Niệm Thư 1 (tái bản 1987), Biển Nghiệp (Nguyễn Quang USA, 1990).

User avatar
khieulong
Posts: 6752
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Minh Đức Hoài Trinh và Văn Bút

Sơn Tùng

Image
(Đại Hội VBVNHN năm 1998)

Minh Đức Hoài Trinh là người cầm bút có thể viết nhiều thể loại khác nhau. Làm thơ, viết văn, truyện dài, truyện ngắn, viết báo.

Trước 30.4.1975, Minh Đức Hoài Trinh là hội viên Văn Bút Quốc Tế (International P.E.N) thuộc Trung Tâm Văn Bút Việt Nam (Cộng Hòa) ở Sài-Gòn. Sau 30.4.1975 chị định cư tại Pháp và gia nhập Trung tâm Văn Bút Pháp.

Với tư cách này, Minh Đức Hoài Trinh đã tham dự Đại-hội Văn Bút Quốc Tế (International P.E.N Congress) kỳ 42 tổ chức tại Sydney (Úc) năm 1977. Tại đây chị đã lên tiếng tố cáo chính sách đàn áp của CSVN đối với văn nghệ sĩ Miền Nam Việt Nam, và đã khởi đầu một cuộc vận động để thành lập một Trung Tâm Văn Bút cho những người cầm bút Việt Nam lưu vong.

Năm sau, 1978, tại Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 43 ở Stockhom, Thụy Điển, Minh Đức Hoài Trinh đã nạp đơn xin lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại với danh sách 20 hội viên (số hội viên tối thiểu theo đòi hỏi của Điều Lệ VBQT). Đại Hội Đồng bỏ phiếu: thuận và chống ngang nhau với 23 phiếu. Tổng Thư Ký‎ VBQT Alexandre Blokh, dù ủng hộ đơn gia nhập của Việt Nam nhưng đã bỏ phiếu trắng vì không muốn lá phiếu của ông làm thay đổi quyết định của Đại Hội Đồng.

Nỗ lực vận động của Minh Đức Hoài Trinh đã thành công một năm sau, 1979, tại Đại Hội VBQT kỳ 44 ở Rio de Janeiro, Brazil, khi Đại Hội Đồng bỏ phiếu chấp thuận 25/12 để thành lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại (Vietnamese Abroad P.E.N Center).

Có thể nói đây là một kỳ công mà ngoài Minh Đức Hoài Trinh không ai khác có thể làm được với thực tế chính trị lúc ấy khi Chiến tranh Việt Nam vừa chấm dứt được vài năm, thế giới đang thở một hơi nhẹ nhõm, đa số các nước có chân trong Văn Bút Quốc Tế mang tâm trạng hèn nhát không muốn làm mất lòng kẻ chiến thắng từng được họ coi như những nhà “giải phóng”. Minh Đức Hoài Trinh đã khôn khéo thuyết phục được sự ủng hộ của ông Tổng Thư Ký VBQT Alexandre Blokh, và vận động lôi kéo được một số đại biểu hết lòng yểm trợ, lên tiếng phát biểu đồng thuận trước Đại Hội Đồng, nhưng quan trọng nhất vẫn là những lời kêu gọi tha thiết của chị với những bằng chứng cụ thể về việc các người cầm bút Việt Nam đang bị ngược đãi và đày ải trong nhà tù.

Thành công của Minh Đức Hoài Trinh tại Văn Bút Quốc Tế lúc ấy làm giới cầm bút người Việt tị tạn rất phấn khởi, nhất là tại Pháp. Khi trở về Paris, chị đã được các sinh viên và nhà văn, trí thức đón tiếp trong không khí mừng vui và cảm động.

Có ai tự hỏi do mãnh lực nào người nữ sĩ mảnh mai yếu đuối ấy, sau khi nước mất nhà tan, vừa đặt chân lên đất định cư mới, trong lúc mọi người đang lo gây dựng lại đời sống của chính mình thì Minh Đức Hoài Trinh đã dành tất cả tâm trí và thì giờ, sức lực, để lo cứu những đồng nghiệp đang gặp nạn ở quê nhà? Đó chính là nét đẹp và cao quý‎ nhất trong đời sống của Minh Đức Hoài Trinh. Có thể nói không nhờ Minh Đức Hoài Trinh thì không bao giờ có cái gọi là Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.

Nhưng, nếu Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại là niềm vui lớn của Minh Đức Hoài Trinh thì cũng là nỗi buồn đã gặm nhấm tâm hồn chị trong những năm về sau. Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại ra đời không bao lâu đã trở thành mục tiêu đả kích và đánh phá của CSVN, khi những nhà văn bị đàn áp và cầm tù ở Việt Nam nhận được sự quan tâm trợ giúp của đồng nghiệp ở hải ngoại qua Văn Bút Quốc Tế và trường hợp của từng người được theo dõi để can thiệp qua Ủy Ban các Nhà Văn bị Cầm tù của VBQT (Writers in Prison Commitee).

Mấy năm đầu Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại chỉ gồm một nhóm nhỏ những người cầm bút tại Pháp, đặc biệt là ở Paris. Năm 1982, Minh Đức Hoài Trinh theo chồng di chuyển sang Hoa Kỳ và không còn sinh hoạt với Văn Bút, khi Trung Tâm VBVNHN được mở rộng tới nhiều nước với tám chi nhánh, cũng được gọi là “trung tâm”. Tám “trung tâm” trong một “trung tâm” với những sinh hoạt thu hẹp trong nội bộ ít được bên ngoài biết đến.

Người bên ngoài bắt đầu nghe nhiều về “chuyện Văn Bút” khi xảy ra những xáo trộn nội bộ vào năm 1995, và kéo dài trong nhiều năm. Khởi đầu với một ông chủ tịch mãn nhiệm kỳ muốn “ngồi lại” đã không theo con đường quy định trong bản Điều Lệ, rồi tìm cách “tự phong”, gây ra tình trạng “hai Văn Bút” khiến Văn Bút Quốc Tế phải can thiệp.

Văn Bút Quốc Tế có thiện chí muốn giúp VBVNHN giải quyết vấn đề nội bộ nhưng đã không hiểu rõ nguồn gốc của vấn đề, nên thay vì giúp giải quyết đã vô tình làm cho nó trầm trọng, rắc rối hơn. Chẳng khác nào thầy lang bắt mạch sai, bốc thuốc lầm xuýt làm chết con bệnh.

Vụ xáo trộn trong VBVNHN lúc đầu chỉ là sự không tôn trọng Điều Lệ của một ông cựu chủ tịch. Thay vì trừng phạt người có tội, ông Tổng Thư ký Blokh, người có thẩm quyền giải quyết, do bị ai đó rỉ tai, lại nghĩ rằng có hai phe xung đột nhau trong VBVNHN, và ông đã nhờ một người đứng ra làm trung gian hòa giải, giúp đưa hai phe lại với nhau.

Người được ông Blokh nhờ làm trung gian hòa giải là ông TrầnThanh Hiệp, Luật sư Tòa Thượng Thẩm Paris, một người quen biết, có một dạo làm chủ tịch VBVNHN, nhưng đã ra khỏi Văn Bút sau khi hết làm chủ tịch cái hội nhà văn để đi làm chính trị kiểu chủ trương “hòa hợp hòa giải với phía bên kia”.

Trong một văn thư ngắn đề ngày 9.4.1996 có chữ ký‎ của cả chủ tịch và tổng thư ký Văn Bút Quốc Tế khi ấy gửi cho tôi mà nội dung chỉ gồm bảy hàng chữ thông báo đã nhờ ông Trần Thanh Hiệp lập một ủy ban gồm các cựu chủ tịch Văn Bút VN Hải Ngoại để giúp đem hai phía lại với nhau và báo cáo kết quả với Đại Hội Đồng Văn Bút Quốc Tế họp tại Guadalajara, Mexico, vào tháng 11 năm 1996.

Thời hạn để nhờ ông Trần Thanh Hiệp giúp hòa giải nội bộ Văn Bút VNHN là 6 tháng. Với một người công chính và biết việc có thể giải quyết trong 6 tuần lễ, nhưng đã được ông Trần Thanh Thiệp kéo dài tới gần 6 năm với kết quả là ông Trần Thanh Hiệp được Văn Bút Quốc Tế “cảm ơn” không mấy vinh dự và sự khai trừ ra khỏi Văn Bút Quốc Tế của 11 người thuộc “phe” ông “đặc cử” TTH mà ông cho là “chính truyền” và đề nghị Văn Bút Quốc Tế “đăng quang”.

Những gì diễn ra trong gần 6 năm ấy đã làm tâm hồn một số người trong cuộc rỉ máu mà tôi đã ghi lại trong hai cuốn bút ký “Làm Người, Làm Văn, Làm Loạn” (2000) và “Cái Nghiệp Văn Báo” (2013). Ở đây, tôi chỉ nói về trường hợp của Minh Đức Hoài Trinh.

Như đã nói, Minh Đức Hoài Trinh đã “sinh ra” Văn Bút VN Hải Ngoại, và đã rời khỏi nó vào năm 1982. Đến năm 1996, khi xảy ra vụ khủng hoảng nội bộ Văn Bút VN Hải Ngoại, ông Trần Thanh Hiệp được Văn Bút Quốc Tế “nhờ”, hay do chính ông xin việc, lập ra một ủy ban để giúp hòa giải nội vụ, Minh Đức Hoài Trinh lại được ông Hiệp mời vào cái ủy ban mà ông đặt cho cái tên kềnh càng là “Văn Bút Quốc Tế - Ủy Ban Đặc Cử Tái Thống Nhất Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại” và giao cho chị cái chức “phát ngôn viên” làm cảnh.

Nhưng sau một thời gian ngắn, nhìn rõ thâm tâm của ông Hiệp, Minh Đức Hoài Trinh đã quyết định cùng phái đoàn Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại đi tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế kỳ 63 tại Guadalajara.

Ông Hiệp đã tìm mọi cách ngăn cản, kể cả đe dọa, và đã được Minh Đức Hoài Trinh trả lời bằng một lá thư bảy dòng đề ngày 5.10.1996 với nội dung như sau:

“Dựa theo văn thư đề ngày 3.10.1996 của văn hữu đề cập sự việc tham dự Đại Hội VBQT nhóm họp tại Guadalajara của tôi. Thiết nghĩ việc tôi muốn tham dự Đại Hội này hay không, và đi với ai, đó là quyền cá nhân. Nếu vì lý do đó gây trở ngại cho Ủy Ban Đặc Cử, thì tôi, vốn là Sáng Lập Viên của VBVNHN, kể từ ngày hôm nay không còn là Phát Ngôn Viên của Ủy Ban Đặc Cử do luật sư làm Chủ Tịch nữa.”

Minh Đức Hoài Trinh đã khẳng khái chọn chỗ đứng. Chỗ đứng của người chính trực, của lẽ phải, và lương tâm. Từ đó, Minh Đức Hoài Trinh đã đứng hẳn về phía đối nghịch với ông Trần Thanh Hiệp, qua Đại Hội Văn Bút Quốc Tế ở Guadalajara 1996, rồi Đại Hội Văn Bút Quốc Tế ở Edinburgh 1997, sau khi “Ủy Ban Đặc Cử” đã bị giải tán, nhưng ông Trần Thanh Hiệp vẫn chưa hết can thiệp vào chuyện nội bộ Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, dù chỉ là một người ngoài cuộc, để phá hoại.

Trận chiến bất đắc dĩ này đối với những hội viên chân chính trong Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại là một nỗi buồn đến “làm rỉ máu tâm hồn” khi phải nhìn thấy những cái xấu xa, bẩn thỉu, hèn hạ của một số người cũng mang danh trí thức, nhà văn, nhà thơ…được phơi bày ra trước mắt trí thức năm châu.

Tôi đã nhìn thấy nỗi buồn ấy trong đôi mắt của Minh Đức Hoài Trinh khi chị bước vào phòng họp của hai kỳ Đại Hội Văn Bút Quốc Tế ở Guadalajara và Edinburgh để nghe người ngoài phân xử về những tranh chấp giữa người Việt Nam với nhau.

Chắc cảm giác của chị khi ấy khác hẳn với cảm giác khi chị bước vào phòng họp của tổ chức quốc tế này để đánh động lương tâm trí thức năm châu trước thảm kịch đang diễn ra tại Việt Nam, và vận động thành lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.

Tại Guadalajara, trong bữa ăn trưa riêng giữa ông Blokh và phái đoàn Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Minh Đức Hoài Trinh hơi vui lên một chút vì gặp lại người bạn xưa. Chị tránh không nói gì tới chuyện lủng củng nội bộ Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại. Tôi đã nhân dịp này nói cho ông Tổng Thư Ký‎ Văn Bút Quốc Tế biết sự thật là không có “hai phe” trong Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại và đề nghị Văn Bút Quốc Tế đứng ra tổ chức một cuộc bỏ phiếu bằng thư để hội viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại bầu ra một chủ tịch mới, trong đó tôi sẽ không ra ứng cử. Ông Blokh tỏ vẻ ngạc nhiên, có lẽ ông đã hiểu phần nào sự thật, ông vui mừng chấp thuận đề nghị của tôi và hứa khi trở về London sẽ tiến hành ngay một cuộc bỏ phiếu bằng thư. Vẻ vui mừng cũng hiện ngay trên gương mặt Minh Đức Hoài Trinh. Mọi người đều nghĩ như vậy là cơn ác mộng sẽ sớm chấm dứt. Chúng tôi ra về với niềm vui trong lòng và thông báo cho hội viên như món quà mà mọi người trông đợi .

Nhưng, những gì đã diễn ra sau đó lại không như mọi người trông đợi. Ông Trần Thanh Hiệp không thích chuyện Văn Bút được giải quyết mau lẹ và dễ dàng như vậy. Với danh nghĩa chủ tịch “Ủy Ban Đặc cử Tái Thống Nhất VBVNHN”, ông Hiệp có “lộ đồ” của riêng ông cho việc “tái thống nhất”. “Lộ đồ” ấy nó quanh co khúc khuỷu, đầy hầm hố và sẽ không đưa tới đâu mà ông muốn dùng vào mục đích chính trị không mấy trong sáng của mình. Ông đã viết nhiều bài báo, đào sâu thêm hố chia rẽ trong VBVNHN, vu cáo những cá nhân không phục tòng mình và bịa đặt nhiều chuyện hoang đường để phá hoại cuộc bỏ phiếu bằng thư, khiến VBQT phải rút lại sáng kiến ấy.

Hậu quả là đã làm cho cuộc khủng hoảng nội bộ VBVNHN đi đến chỗ bế tắc, mặc dù nhiều người có thiện chí đã cố làm mọi cách để tìm giải pháp chấm dứt cuộc khủng hoảng cũng không đi đến đâu mà còn bị vu cáo và phỉ báng, kể cả Minh Đức Hoài Trinh. Chị đã bị vài “hội viên Văn Bút” xúc phạm với những lời lẽ của hạng người thấp hèn trong khi họ cũng là bác sĩ, giáo sư, nhà văn, nhà thơ…

Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại đã thực sự biến thành một vũng bùn do vài kẻ tâm địa đen tối cố tình quậy lên. Cho đến năm 2000, khi Văn Bút Quốc Tế có Tổng Thư Ký mới, Tiến Sĩ Terry Carlbom, ông Trần Thanh Hiệp bị hoàn toàn loại ra ngoài lề, vấn đề Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại mới được giải quyết với một “Đại Hội Tái Lập” được tổ chức tại Vùng Hoa-Thịnh-Đốn vào tháng 3 năm 2001 có sự tham dự của Phó Chủ tịch Văn Bút Quốc Tế, bà Joanne Leedom-Ackerman, và ông Tổng Thư Ký Terry Carlbom.

Theo yêu cầu của hầu hết hội viên Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Minh Đức Hoài Trinh lại một lần nữa nhận vai trò thuyền trưởng “con tàu Văn Bút” thêm hai năm. Sau đó, chị mới thực sự gác bút, và “gác kiếm”.

Thật vậy, Minh Đức Hoài Trinh là người cầm bút có một sứ mạng. Chị vừa cầm bút, vừa cầm một thanh kiếm vô hình. Chị không chỉ cầm bút như một nghề, một sinh kế, hay viết để kiếm danh và để cho ngòi bút phiêu du đến những bến bờ vô định. Khi viết văn, làm thơ, hay khi lặn lội tới nhiều nơi trên đất nước Việt Nam và trên thế giới với tư cách là một ký giả, hay tham gia sinh hoạt tập thể, Minh Đức Hoài Trinh luôn luôn trung thành với một sứ mạng.

Chị có một lý tưởng, một niềm tin, một hoài bão mà trong suốt hơn 50 năm, dù ở trong nước hay ngoài nước, dù ở lãnh vực nào, chị cũng tận tụy với sứ mạng của một người cầm bút chân chính, bằng tài năng đa dạng, bằng trái tim nhạy cảm của một nghệ sĩ, lòng nhiệt thành của một chiến sĩ, và bằng năng lực phi thường của chị, để nói lên sự thật, tình người, lòng khát khao công lý và tự do của dân tộc Việt Nam.

Bài này được viết để truy điệu chị Minh Đức Hoài Trinh, một nhà văn, nhà thơ, nhà báo, và một chiến sĩ vừa nằm xuống.

Virginia 15.6.2017
S.T.

User avatar
muanuadem
Posts: 461
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:47 pm

Post by muanuadem »

Chọn vợ hiền

Nguyễn Thị Thanh Dương
1

Anh Tư góa vợ khi tuổi đời còn trẻ. Anh đang đi tìm cho mình một tình yêu mới, một người vợ mới.

Đối tượng anh mong ước là một phụ nữ nhà quê hiền ngoan, dịu dàng để bù đắp cho anh cuộc hôn nhân đầu không mấy hạnh phúc vì người vợ đanh đá lấn lướt chồng.

Anh quyết định tìm bạn bốn phương, nơi đây có nhiều cơ hội cho anh lựa chọn. Một vài bạn thân đã cản anh, họ nói tìm vợ qua mục này là mạo hiểm gặp kẻ xấu nhiều hơn người tốt.

Người vợ quá cố anh Tư đã gặp gỡ chẳng xa xôi gì, ngay trong hãng làm việc ngày nào cũng gặp mặt nhau và tìm hiểu nhau cả năm trời mới đi đến hôn nhân thế mà anh Tư vẫn lầm cưới phải một bà chằn.

Tìm bạn phương xa nếu có duyên vẫn gặp người như ý. Thế nên anh Tư muốn thử thách với đời.

Người con gái đầu tiên ở Việt Nam tên Hoa anh Tư quen biết qua mục tìm bạn bốn phương trên mạng.

Anh Tư đã về Việt Nam gặp Hoa tại làng quê của cô ở Vĩnh Long, Hoa dịu dàng, hiền lành đón nhận chuyện tình cảm với anh, chỉ tha thiết xin anh khi cưới cô rồi hãy là người chồng chung thủy suốt đời. Thật sung sướng và hãnh diện khi được người đẹp xin chút tình yêu và hạnh phúc.

Về Mỹ, sau một vài lần anh Tư gọi phone nói chuyện là Hoa đã tự động gọi lại cho anh, tấn công tình cảm nhớ thương ráo riết đến nỗi anh như lạc vào cõi u mê gởi tiền về Việt Nam cho cô chi tiêu và học Anh Văn để chờ ngày anh làm giấy tờ bảo lãnh cô sang Mỹ. Chưa kể thỉnh thoảng anh Tư còn gởi thêm tiền theo yêu cầu của Hoa để lo cho cha mẹ, cho các em khi gặp chuyện cần thiết.

Cho đến một ngày, anh Tư trở về Việt Nam vì muốn mang niềm vui bất ngờ cho Hoa nên anh không báo trước. Anh hí hởn xách một va ly đầy quà đến thẳng nhà nàng ở Vĩnh Long tưởng rằng cô thôn nữ dịu hiền tên Hoa sẽ mừng vui mở cửa đón anh và đón quà vào nhà. Nhưng cửa mở là một anh chàng gương mặt ba trợn hất hàm hỏi:

– Anh tìm ai?

Anh Tư bối rối :

– Tôi tìm cô Hoa nhưng… chắc tôi đi lộn nhà?

Anh ba trợn điệu bộ thách thức

– Không lộn đâu, tôi là chồng cô Hoa đây.

Anh Tư càng thêm bối rối, lắp bắp:

– Ủa… cô Hoa đã… đã…

Anh ba trợn gằn giọng tiếp lời

– Đã có chồng. Hôm nay tôi theo vợ về quê ăn đám giỗ ông cố nội vợ.

Nhìn vẻ mặt và lời nói dữ dằn của anh ba trợn anh Tư biết điều rút lui ngay không muốn dây dưa thêm. Ra tới đầu ngõ anh mới hoàn hồn, một bà hàng xóm của cô Hoa đã chạy theo nói nhỏ với anh Tư:
- Con Hoa là gái bán bar ở Sài Gòn, thằng đó là chồng hờ con Hoa, con Hoa chuyên gài bẫy mấy ông già dê hay mấy tay Việt kiều mê gái để làm tiền.

Anh Tư hú vía tính lại cũng mất khá nhiều tiền với Hoa nhưng may mà chưa tiến xa hơn, chưa thân tàn ma dại.

Cô Hoa đúng là một cô gái quê nhưng chỉ là trong quá khứ mà thôi.

Tức giận và cay đắng vì bị lừa tình, lừa tiền mất mặt với người thân và bạn bè vì ai cũng nghe tin anh sắp cưới được một người vợ hiền trẻ, đẹp từ Việt Nam.

Anh nghi ngờ và thù ghét tất cả những cô gái quê trẻ đẹp qua mục tìm bạn bốn phương.

Càng ghét anh càng tò mò thích ghé mắt vào mạng coi mục này, thấy cô Hoa lại tiếp tục đăng lời tìm bạn trai ở hải ngoại, cũng thiết tha, cũng chân thật như lần trước với tấm hình xinh đẹp của cô ai nhìn mà không động lòng. Không biết đã có anh chàng Việt kiều dại gái nào như anh đang đâm đầu vào chưa?

Nhưng một mẫu đăng tìm bạn của một cô gái khác đã đập vào mắt anh, lời rao tìm bạn rất thực tế:

“Tôi tên B.V. gái quê miền Bắc, hiền lành, nhan sắc khá. Muốn được kết hôn với bạn trai ở nước ngoài để thoát cảnh đói nghèo. Không phân biệt tuổi tác, chỉ cần tình yêu thương và tôi sẽ là người vợ hiền chung thủy”

Anh Tư đã nhún vai:

– Lại một cô Hoa thứ hai.

Lần trước cô Hoa là gái miền Nam, lần này B.V là gái miền Bắc. Gái quê miền Nam nổi tiếng thật thà mà cô Hoa còn lừa lọc thế huống chi gái miền Bắc thường khôn ngoan đáo để.

Anh chợt nảy ra ý định trả thù đời.

Thế là anh Tư làm quen với cô gái có tên tắt là B.V. Anh gọi số phone của cô khi nghe đầu dây bên kia nói “A lô” anh Tư nói ngay:

– Tôi muốn gặp cô Bích Vân hay Bạch Vân gì đó .

Một giọng nói Bắc kỳ rụt rè và ngại ngùng:

– Anh… nhầm số rồi ạ…

– Tôi tin là gọi đúng mà. Có phải cô tìm bạn bốn phương trên mạng không? Tôi muốn làm quen với cô.

– Vâng, nhưng em không tên là Bích Vân, Bạch Vân. Anh nhầm ai rồi.

Anh Tư cố dằn cơn bực mình giải thích thêm:

– Tôi đọc mẫu rao gái quê hiền lành muốn tìm bạn, tên viết tắt là B.V. Thế không là Bích Vân, Bạch Vân thì là gì?

Cô gái cẩn thận hỏi lại:

– À, viết tắt là B.V hở anh? Chắc là em vì em tên Bền Vững, Nguyễn Bền Vững anh ạ.

Anh Tư mỉa mai nghĩ thầm: “Ngây thơ vụng về nhà quê quá nhỉ. Chính mình đăng tìm bạn mà còn không nhớ BV là ai. Hừm, nói dối nhiều quá nên không nhớ nổi, biết đâu Bền Vững cũng chỉ là cái tên giả cho ra vẻ nhà quê chính hiệu”.

Anh lẩm bẩm cho thuộc cái tên:

– Bền Vững…cái tên nghe lạ lạ…

Cô gái tự tin hơn:

– Bố em đặt thế vì muốn cho cuộc sống của em sau này luôn có hạnh phúc bền vững lâu dài. Nhưng cũng khổ lắm anh ạ, hồi còn bé đi học các bạn cứ trêu chọc vì tên em như tên con trai ấy.

Lối nói chuyện của cô Bền Vững thật chân quê. Anh thú vị trước cuộc chơi này để cô Bền Vững trước sau gì cũng sẽ phơi bày bộ mặt thật.

Trong vòng một tháng hai người đã nói chuyện với nhau nhiều lần và thân nhau hơn. Nhưng chỉ có anh Tư gọi cho Bền Vững, chứ cô chớ hề gọi lại cho anh. Đó là phong cách làm cao “cáo già, chảnh chọe” của các cô gái. Anh nghĩ thế.

Thế là anh lại gọi cho Bền Vững để câu chuyện tiếp tục tiến triển như ý muốn. Lần này anh Tư sẽ tấn công nhanh hơn:

– Chào em Bền Vững.

Như thường lệ cô hỏi thăm lê thê:

– Anh Tư có khỏe không? Hai bác có khỏe không? và các anh chị em của anh ở bên Mỹ có khỏe không ạ?

– Mọi người đều bình thường. Lần sau em hỏi thăm thì gom lại thành một câu ngắn gọn là “Cả nhà anh có khỏe không?” là đủ rồi, khỏi cần dài dòng em nhé, dòng họ anh nhiều lắm, em hỏi thăm sao cho hết.

– Vâng ạ.

– Anh muốn báo em một tin vui là anh sẽ về Việt Nam thăm em và gia đình để hai ta gặp mặt và tìm hiểu nhau nếu hợp sẽ tiến xa hơn.

Bền Vững mừng vui:

– Thật thế hở anh. Em mong ngày gặp anh lắm. Em sẽ cho bố mẹ em biết để chuẩn bị đón anh về thăm quê hương em.

– Anh sẽ mua vé máy bay và báo cho em biết ngày giờ anh xuống sân bay Nội Bài.

Cho cô Bền Vững niềm hy vọng ngất ngây vui mừng xong anh Tư thở phào, coi như chấm dứt một vở hài kịch.

Sẽ có một người vỡ mộng như anh đã từng vỡ mộng.

Anh sẽ ngồi ở Mỹ và ung dung tưởng tượng ra cái ngày cô Bền Vững hí hửng ra phi trường Nội Bài đón anh về, cảnh cha mẹ cô chộn rộn ở nhà chờ mong con đưa bạn trai Việt kiều từ Mỹ về và mơ ước một tương lai tươi sáng đang chờ khi con gái họ được cưới sang nước Mỹ định cư.

Nhưng cô Bền Vững sẽ bẽ bàng thất vọng vì chẳng có anh Tư Việt kiều nào về trong chuyến bay, cô sẽ phải trở về với con người thật của cô, nếu cô không nham hiểm lừa đảo như cô Hoa thì cũng là một cô gái khôn ngoan đáo để nào đó ở thành phố đang bán bia ôm, đang làm bồ nhí đại gia, hay làm gái gọi muốn từ giã “ngành nghề” tai tiếng này để lập lại cuộc đời tươi sáng hơn dưới vỏ bọc là một cô gái quê hiền lành thật thà như trước kia cô chưa hề sa chân vào cạm bẫy cuộc đời.

Những Việt kiều xa xôi vạn dặm như anh Tư thì đời nào biết được những mảnh đời éo le như thế?

Anh Tư chợt cao hứng, ngồi nhà tưởng tượng ra chưa hả hê bằng tận mắt chứng kiến màn cuối của vở kịch bi hài này. Lần trước anh bị gái đẹp lừa, lần này anh lừa lại gái đẹp thế là huề, không nợ nần ân oán gì nhau.

Anh quyết định mua vé máy bay về Việt Nam.

Anh sẽ nhìn thấy con cáo già đóng giả nai tơ và dĩ nhiên chẳng đời nào anh lộ diện chứ đừng nói đến chuyện theo con cáo ấy về quê hương nghèo khổ của nó như ngày nào anh đã theo chân cô Hoa về Vĩnh Long.

***

Anh Tư ở trong một khách sạn tại Hà Nội, ngày hôm sau anh thuê xe taxi đến phi trường Nội Bài.

Chuyến bay của anh cho cô Bền Vững đến vào buổi chiều, rất bài bản và đúng với thực tế vì anh đã hỏi tại dịch vụ bán vé máy bay ở Mỹ lịch trình ngày giờ chuyến bay về tới Việt Nam, dĩ nhiên anh không mua vé đi chuyến bay đó.

Còn chuyến bay thực sự có mặt anh Tư thì về Việt Nam sớm hơn một ngày nên hôm nay anh đã có mặt tại phi trường Nội Bài trà trộn với đám đông người bên ngoài đang chờ đợi đón thân nhân từ Mỹ về khi sắp đến giờ máy bay đáp xuống.

Anh Tư đứng một chỗ khuất kín đáo để ý kiếm tìm và dễ dàng nhận ra một cô gái trẻ mặc áo trắng tay cầm một cánh hoa hồng màu đỏ đúng như anh và cô đã giao ước, còn cô chốc nữa đây sẽ mỏi mắt tìm anh chàng Việt Kiều từ trong bước ra cũng mặc áo sơ mi màu trắng, ngực áo có đeo bảng tên Nguyễn văn Tư không bao giờ xuất hiện.

Anh ngạc nhiên sững sờ vì cô gái trông thật sự nhà quê, cách ăn mặc đơn giản và nét mặt xinh đẹp hiền lành ngơ ngác giữa chốn đông người.

Chuyến bay đến đúng giờ hành khách từ trong kéo hành lý ra ngoài gặp gỡ thân nhân, cô Bền Vững đến gần nhìn kỹ từng người rồi lại lui ra chờ đợi người khác, nét mặt cô lúc thì lộ vẻ căng thẳng, vui mừng lúc thất vọng lo âu…

Cho đến khi dường như số hành khách của chuyến bay đã ra ngoài hết thì cô thật sự tuyệt vọng, cánh hoa hồng đỏ trên tay cô hững hờ, cô đứng bơ vơ một góc chưa biết phải làm gì.

Anh Tư không hề cảm thấy hả hê thú vị như anh đã nghĩ, anh không muốn rút lui vì đã đạt ý nguyện mà trái lại anh càng tò mò muốn biết tâm trạng của cô lúc này.

Anh bước thẳng đến bên cô, anh sửa giọng cho khác đi một chút:

– Tôi có thể giúp gì cho cô không?

May quá, cô không nhận ra giọng nói của anh vì có thể giọng nói qua phone đường dài khác với giọng nói khi thực tế đối diện. Còn anh đã nhận ra đây là giọng nói của cô Bền Vững khi cô ngại ngùng chối từ và định quay đi:

– Không có gì ạ. Thôi tôi về đây.

– Tôi thật sự muốn giúp cô mà, nãy giờ tôi thấy cô đứng đây đã lâu.

Cô Bền Vững đành dừng chân lại:

– Không biết đã hết người của chuyến bay này chưa hở anh?

– Không còn ai nữa đâu.

Cô gái lặp lại câu nói cũ:

– Thôi tôi về đây.

– Khoan đã, tôi có thể làm quen với cô được không? Tôi cũng là hành khách vừa từ nước ngoài về thăm Việt Nam, tôi thật sự muốn có một người bạn gái dịu dàng như cô.

Cô vội vàng từ chối:

– Không, tôi đã có bạn trai rồi. Hôm nay tôi đi đón anh ấy, chào anh.

– Tôi không tin thế vì bạn trai của cô đã không xuất hiện.

Cô gái khẳng định:

– Chắc anh ấy bận chuyện gì đó nên không về đúng hẹn chứ anh ấy nói dối tôi để được gì…

Cô gái tất tả bước đi như sợ bị người lạ níu áo lại.

Giây phút này tình thế đổi ngược, anh Tư bỗng bồi hồi cảm động và có chút ân hận, cô Bền Vững quả là một cô gái hiền lành, đoan trang vậy mà anh đã nghi ngờ và thử thách cô.

Anh Tư nhanh chóng đứng ngay trước mặt cô vì sợ cô đi mất:

– Cô Bền Vững, cô không nhận ra tôi sao? Tôi là Nguyễn văn Tư đây.

Cô Bền Vững đứng sững sờ nhìn anh Tư, anh nói giọng bình thường thật chậm cho cô nhận ra:

– Tôi là người đã làm quen cô trên mục tìm bạn bốn phương trên mạng hơn hai tháng nay và đã hẹn gặp cô ngày hôm nay.

Cô gái ngạc nhiên và mừng rỡ:

– Anh là anh Tư đây sao?

Anh càng thêm cảm động trước cử chỉ của cô:

– Anh thành thật xin lỗi em vì đã để em chờ…

Cô gái mỉm cười:

– Thật bất ngờ quá, em đang không biết sẽ trở về nhà nói với cha mẹ em làm sao.

Anh Tư hỏi cái điều mà anh từng thắc mắc từ khi làm quen với cô:

– Nhưng anh hỏi thật em nhé, em có vẻ là một cô gái quê ít giao thiệp với cuộc đời, sao em lại có ý nghĩ tìm bạn bốn phương và bằng cách nào đăng trên mạng? Em có biết là lãng mạn và mạo hiểm lắm không? Sẽ có những người thật lòng và không thật lòng đến với em.

Cô gái thật thà:

– Vâng, em đã gặp người xấu rồi, có mấy người gọi điện cho em nói chuyện trên trời dưới đất, hứa hẹn những điều không tưởng. Em biết họ chỉ đùa bỡn không thật lòng nên không tiếp xúc với họ nữa, còn chuyện tìm bạn của em là ngẫu nhiên thôi, một người bác họ của em ở Mỹ về thăm quê miền Bắc thấy cảnh nhà em nghèo bác ấy muốn giúp em lấy chồng ở nước ngoài hy vọng em được đổi đời thoát khỏi cảnh khổ nên bác liều đăng trên mạng tìm bạn cho em để cầu may chứ em chả dám mong.

– Có lúc nào em nghĩ anh cũng không thật lòng và đùa giỡn với em không?

– Em không dám nghĩ thế…

– Khi nào rảnh anh sẽ kể cho em nghe sau, nhưng kể từ giờ phút này thì em hãy tin anh nhé.

– Vâng ạ.

– Vậy anh có thể theo em về quê ngay bây giờ không?

Cô gái cảm động và hãnh diện:

– Anh không chê em nhà quê nhà nghèo thật quý hóa vô cùng, bố mẹ em đang chờ đón khách phương xa đến thăm nhà đấy.

Họ đón Taxi về khách sạn ở Hà Nội để anh Tư lấy hành lý đồng thời Taxi sẽ đưa họ về làng quê cô Bền Vững cách Hà Nội khoảng 4 giờ lái xe.

Anh Tư sẽ thuê phòng một khách sạn tại thị xã nơi gần làng quê của Bền Vững nhất để tiện việc đi lại với gia đình cô.

Anh Tư đã đến một làng quê nghèo. Cha mẹ cô Bền Vững là nông dân và hiền lành chất phác.

Anh Tư thân tình hỏi cha mẹ cô Bền Vững:

– Hai bác cho em Bền Vững quen người ở Mỹ xa xôi như cháu, hai bác có an tâm không?

– Nhà chúng tôi nghèo nhưng anh không chê, không quản ngại từ xa xôi về muốn làm quen với em nó thì chúng tôi vui lắm, anh và em nó cứ tìm hiểu nhau thêm…

Anh Tư hào hứng:

– Nếu sau này cháu muốn cưới em Bền Vững mang sang Mỹ, con gái đi xa hai bác có buồn không?

Bác trai cũng hào hứng:

– Ở Mỹ là nhất anh ạ, ngày xưa chúng tôi chống Mỹ, nhưng bây giờ chúng tôi “chấm” Mỹ, chỉ thích cho con đi Mỹ thôi.

Chỉ qua vài câu chuyện với cha mẹ Bền Vững cũng đủ cho anh Tư hiểu họ là những người nông dân lương thiện, thật thà và cởi mở.

Ở đời chuyện xấu tốt tùy người, những người đăng tìm và đi tìm bạn bốn phương có thật và có giả dối, tí nữa anh mất đi một mối chân tình vì vơ đũa cả nắm.

Ở chơi với gia đình cô Bền Vững một tuần thì anh Tư phải từ giã trở về Mỹ, anh đâu ngờ cô Bền Vững dễ thương đến thế, chân tình đến thế, cha mẹ cô tử tế đến thế. Anh tiếc là chuyến ở Việt Nam của anh quá ngắn ngủi.

Trong lòng anh Tư đang có niềm vui phơi phới vì đã tìm được đúng người, cô Bền Vững sẽ là người yêu, người vợ hiền như anh từng mong ước, mai này các người thân và bạn bè của anh ở Mỹ sẽ phải ngạc nhiên và ghen tị với anh vì điều may mắn này.

Hôm qua anh đã nói chuyện và hứa hẹn nhiều điều với cô Bền Vững, anh dặn dò mấy lần:

– Em chờ nhé, anh sẽ về cưới em và bảo lãnh em qua Mỹ

Đáp lại cô Bền Vững ngây thơ cũng hứa hẹn sẽ yêu anh trọn đời.

Tiễn anh Tư ra phi trường Nội Bài có cha mẹ và cô Bền Vững. Cuộc chia tay bịn rịn và cảm động kẻ ở người về.

Khi anh Tư từ giã vào trong đã lâu mà gia đình cô Bền Vững vẫn còn đứng chờ ở ngoài. Bố mẹ cô sốt ruột liên tục giục con gái:

– Ta về thôi, anh ấy chắc đã lên máy bay rồi…

– Phi trường đông người nhìn ông đi qua bà đi lại mẹ hoa cả mắt, nhức cả đầu. Về đi con…

Cô Bền Vững gắt toáng lên:

– Bố mẹ làm gì mà cứ nhắng lên thế. Biết rồi, nhưng đợi con hỏi lại cho chắc.

Cô nhanh nhẹn chạy ra hỏi một nhân viên phi trường và được xác nhận là chuyến bay ấy đã cất cánh cách đây 10 phút thì cô mới thở dài nhẹ nhõm, cô nói:

– Bây giờ bố mẹ đón xe về quê, con ở lại Hà Nội. Không cần đóng vai gái quê nữa, anh Tư chẳng có cánh mà bay ngược trở lại ngay lúc này đâu.

Bà mẹ ngần ngừ:

– Thì con cứ về làm gái quê như từng là gái quê càng tốt chứ sao, làm vương làm tướng gì mà ở mãi Hà Nội?

– Về quê chán lắm bà già ạ, ở một tuần mà con muốn điên cả người. Nhưng bất cứ khi nào có anh Tư Việt kiều con lại trở về quê làm con gái ngoan của bố mẹ như chưa từng đi hoang.

Cô nghênh mặt tự hào:

– Mẹ cứ yên tâm, con chắc anh Tư sẽ về cưới con, con sẽ lấy được tấm chồng như bố mẹ từng mong đợi mà lại là chồng Việt kiều Mỹ hẳn hòi, hơn hẳn những đứa lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn đấy nhá. Người ta nói đánh đĩ mười phương cũng chừa lại một phương để lấy chồng làm lại cuộc đời quả không sai. Không bao giờ con hí cho thằng tình nhân, thằng chồng hờ hay con bạn nặc nô cà chớn nào biết lai lịch nguyên quán của con nên đối với làng quê mình con vẫn là gái ngoan tử tế con nhà lành.

Ông bố giật mình mắng con gái:

– Ôi, con này! khẽ mồm khẽ miệng chứ, mày ăn nói sỗ sàng và to tiếng thế ai nghe được thì tao đeo mo vào mặt. Ở làng quê bố mẹ phải nói dối và che đậy cho mày, nói mày lên Hà Nội làm việc trong một nhà máy.

– Bố nhạy cảm nhỉ, ở Hà Nội con mặt dày như mặt đường nhựa cao tốc rồi. Chỗ này thiên hạ không ai biết mình đâu bố đừng lo. Nhưng bố mẹ thấy con đóng vai gái quê ngoan hiền có đạt không? Cũng phải kể đến công lao của mẹ góp phần vào, mẹ đã giúp con nấu nướng những món ăn dân giã miền bắc, món nào anh Tư cũng rối rít khen con đảm đang và khéo tay trong khi con là thứ gái đoảng. Muối cà, cà thâm. Muối dưa, dưa khú. Nấu cháo, cháo khét. Quậy bánh đúc, bánh đúc khê…

Bà mẹ thật thà âu yếm trách con:

– Con liệt kê đủ thứ đoảng mà món chủ yếu lại quên. Nấu cơm, cơm sống nữa chứ con. Mấy lần con nấu cơm không sống trên cũng sống dưới. Rõ khổ, may mà con đã mua về một nồi cơm điện để giải quyết vấn đề…

Cô Bền Vững nhún vai:

– Lên Hà Nội con lại ăn cơm hàng cháo chợ nên đến bây giờ vẫn chưa biết nấu nướng là gì.

Ông bố thở dài:

– Bà chiều nó quá nên mới thế, mới ra nông nỗi này.

– Ý ông lại đổ vạ tại tôi nuông chiều đứa con gái độc nhất của chúng ta nó mới đổ đốn hư hỏng bỏ nhà đi hoang đấy hử? Ông có giỏi sao không cho tôi đẻ thêm đứa thứ hai, thứ ba, thứ tư đi thì đâu đến nỗi…

Ông bố điên tiết:

– Bà lại ngoạc mồm ra chê trách tôi sau trận ốm vàng da sốt rét thập tử nhất sinh tôi không thể có con được nữa hả? Hả? đừng có chọc vào tự ái của tôi. Rõ chửa?

Cô Bền Vững cong cớn đe dọa:

– Hai ông bà mà cãi nhau nữa là đây ở Hà Nội luôn không thèm thỉnh thoảng về quê thăm nhà cho biết thân…

Hai vợ chồng nhà quê vội vàng xuống nước vì sợ con gái nổi giận tung hê bất cần đời giữa chốn công cộng này:

– Đừng, đừng con…bố mẹ chỉ lẩm cẩm nhắc lại thôi

– Bố mẹ hiểu rồi, dù sao con cũng đang muốn tìm chồng để làm lại cuộc đời. Con tìm đâu ra anh Tư Việt kiều thật là giỏi, chẳng đoảng tí nào..

Cô Bền Vững nguôi ngay và khoe thành tích:

– Tâm lý Việt kiều nào về Việt Nam chẳng muốn cưới vợ hiền, vợ ngoan, càng nhà quê càng được tin yêu. Con đã ra tay thì anh Tư có mà chạy đằng trời.

Bà mẹ khuyên con:

– Ừ, anh Tư có vẻ tin cậy và thương yêu con, hãy giữ gìn mối quan hệ này cho tốt…

Ông bố năn nỉ:

– Mày liệu mà lấy chồng đi, lông bông mãi là tàn đời con ạ. Bố mẹ bó tay không dạy bảo được mày, bố chỉ xin mày nghiêm túc nghe lời một lần này thôi.

– Khỏi cần bố mẹ dạy đây cũng biết thừa, gái hư hỏng như con ở Việt Nam ai thèm lấy có chăng là Việt kiều phương xa hay lấy Tây, lấy Mỹ thôi. Nói thật nhé, đây ăn chơi Hà Nội chán rồi đang muốn được tung cánh bay đi Mỹ, đi Tây xem nó sung sướng thế nào.

Cô Bền Vững đầy khôn ngoan bản lĩnh, cô đã tự đạo diễn cho mình một kịch bản chặt chẽ và hợp lý, đóng vai cô gái quê tìm bạn trên mạng, lúc ngơ ngác ở phi trường Nội Bài, lúc thấy anh Tư xuất hiện con cáo già như cô đã đoán ra anh Tư ngay dù chưa hiểu thấu đáo anh xuất hiện bất ngờ thế vì lý do gì, cô càng diễn giỏi diễn hay hơn nữa vai trò cô gái quê đoan trang hiền thục làm anh Tư ngả nghiêng từ những phút gặp gỡ đầu tiên ấy.

Những ngày cùng bố mẹ tiếp anh Tư cô luôn ra vẻ là đứa con ngoan, là cô gái tốt càng làm anh Tư thêm quấn quýt và gắn bó…

Chia tay bố mẹ tại bến xe trước khi mỗi người đi một ngã cô Bền Vững tươi cười hứa hẹn:

– Ông bà già cứ về quê và chờ đợi tin vui nhé. Anh Tư Việt kiều sẽ sớm về Việt Nam xin cưới con, mà dù chẳng may anh có “xù” thì con cũng sẽ tìm được anh Tư Việt kiều khác để rước đi đứa con gái giời đánh này, của nợ đời này, oan gia nghiệp chướng này cho bố mẹ được ăn ngon ngủ yên .

Nguyễn thị Thanh Dương

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Trần Thế Ðức

Thường thì những người có danh, có chức mới viết hồi ký khi về già. Tôi chỉ là một nhà giáo bình thường, chẳng có gì to lớn cả, nên chẳng bao giờ nghĩ đến việc tự viết về mình. Tuy nhiên, qua bao năm sống còn, nghĩ lại mình cũng còn những điều đáng nhớ nên mạo muội ghi lại: Trong cuộc đời chúng ta, biết bao mốc thời gian, biết bao biến cố xảy ra, nhất là những ai đã sống trong những ngày tàn khốc nhất trên đất nước Việt Nam trong những năm khói lửa (1945-1975). Không nhắc tới những biến cố trên đất nước, trong cuộc đời mình, một mốc thời gian quan trọng là lúc quyết định chọn nghề sau khi rời mái trường trung học.

Thuở niên thiếu của tôi (cuối thập niên 1950 và đầu 1960), không có cố vấn học đường, cố vấn nghề nghiệp, và những tài liệu hướng dẫn về các ngành học ở đại học cũng như các trường chuyên nghiệp như ngày nay ở các nước tiên tiến. Tài liệu duy nhất mà chúng tôi biết là cuốn sách nhỏ “Ðây Ðại Học” do sinh viên Công Giáo soạn và tái bản nhiều lần. Ở trường, các thầy trẻ, mới ra trường, cũng là những người hướng dẫn chúng tôi rất nhiệt tâm. Khi tôi học lớp đệ nhị ở Trường Trung Học Chu Văn An Sài Gòn (1961-1962), thầy Phạm Xuân Lương, một thầy giáo trẻ, mới tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm, coi chúng tôi như những đứa em, và hướng dẫn chúng tôi rất nhiều.

Ðối với những kẻ con nhà nghèo như tôi, lời khuyên của thầy là nên học Ðại Học Sư Phạm, vì thời gian học chỉ có ba năm, lại có học bổng (1,500 đồng một tháng) có tí tiền tiêu xài, không cần xin cha mẹ. Vào thời đó, đây là một số tiền lớn vì lương công chức (thư ký phù động) khoảng trên 2,000 đồng, lương chuẩn úy 2,200 đồng ăn tô phở chỉ tốn 5 đồng, ly cà phê 2 đồng. Từ đó tôi thấy con đường đi trước mắt: Ðại Học Sư Phạm. Nhưng học môn gì? Tôi học ban A, khoa học thực nghiệm nên định học môn Vạn Vật, theo gót các thầy Nguyễn Văn Ðỉnh (vị thầy chuyên dạy ban A, với phương pháp thật dễ hiểu) và Nguyễn Ngọc Quỳnh (người có hai bàn tay lả lướt vẽ thành những hình tuyệt đẹp như những bức tranh của họa sĩ, mà khi thầy xóa bảng, chúng tôi cứ tiếc). Ðôi khi thầy Quỳnh biểu diễn bằng cả hai bàn tay với đủ loại phấn màu… Ngoài ra, chúng tôi có thể hỏi các anh chị của bạn bè, những người đi trước. Một người bạn tôi có ông anh học rất giỏi, năm nào cũng lãnh phần thưởng là những chồng sách cao, khi còn học Chu Văn An. Sau khi đậu tú tài, anh thi đậu vào trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc. Tôi rất mê ngành nông nghiệp mà anh đang học. Anh phải đi thực tập hàng tháng trời, khi thì ở các đồn điền cao su Long Khánh-Bình Dương, khi thì ở các đồn điền trà Bảo Lộc-Lâm Ðồng. Ðọc cuốn luận văn sau khi thực tập của anh (ngành trồng trà ở Bảo Lộc-Lâm Ðồng), tôi rất thích. Nhưng tôi không thể mơ tới trường này được, vì trong kỳ thi tuyển có bài toán ban B, chỉ bài Vạn vật mới ở trình độ ban A. Tôi học ban A thì làm sao làm nổi bài toán ban B.

Trường Trung Học Chu Văn An của tôi gần như là trường ban B. Thế mà tôi lại chọn ban A. Lớp ban A của tôi tập trung những kẻ cùng thân phận như tôi (dốt hoặc sợ môn toán), nhưng lại là nơi khởi đầu của nhiều bạn học giỏi đã chọn con đường thật dài và sáng giá: y khoa đại học, để trở thành bác sĩ. Những người bạn thân của tôi từ thời đệ thất đều khuyên và rủ tôi cùng vào APM (Année Préparatoire de Medecine = dự bị y khoa) với họ. Nhưng hoàn cảnh của gia đình tôi quá eo hẹp, 7 năm học thật quá dài. Tôi đành chọn con đường ngắn hơn chút ít: nha khoa, chỉ học 5 năm. Chó ngáp phải ruồi, tôi đậu (họ tuyển 30 ngưởi trong số 800 thí sinh dự thi). Thế là tôi học dự bị nha khoa (APD = Année Prépatoire Dentaire) ở Ðại Học Khoa Học, kế bên Ðại Học Sư Phạm.

Hơn 10 mạng ban A chúng tôi thi vào Ban Vạn Vật, Ðại Học Sư Phạm, nhưng chỉ có một đứa duy nhất đậu. Học ban A thì phải “tụng” Vạn Vật cho kỹ. Tôi thuộc cả đến những chỗ xuống hàng và mọi hình vẽ trong cuốn sách dày cộm, thế mà vẫn ăn vỏ chuối. Ban Vạn Vật thực là khó: khoảng 1,000 thí sinh, trường Ðại Học Sư Phạm chỉ lấy có 15 người. Người bạn cùng lớp với tôi đậu được là do đâu? Có lẽ do tài khéo tay của anh ta (vẽ thật đẹp như họa sĩ), và cũng do bài Anh Văn nữa. Kỳ thi có một bài Vạn Vật và bài Anh Văn (dịch Anh-Việt).

Tôi học dự bị nha khoa, giờ rảnh thì cùng bạn bè lang thang khắp nơi: hầm MPC, Ðại Học Sư Phạm, chờ giờ học sắp tới. Bỗng tôi thấy bên Ðại Học Sư Phạm tấp nập với những tà áo thướt tha. Ðại Học Sư Phạm đang nhận đơn thi tuyển cho niên khóa sắp tới. Tôi gặp lại bạn bè Chu Văn An cũ, đang học ở những đại học không mấy chắc ăn (Khoa Học, Văn Khoa, Luật Khoa) cũng nộp đơn thi vào Sư Phạm cho yên.

Người ta nộp đơn thì tôi cũng lấy bằng tú tài ra và điền đơn, đâu có mất mát gì. Nhưng thi vào môn nào? Ban Vạn Vật thì tôi đã tiêu tùng từ năm trước, không dám đụng đến nữa. Anh Văn và Việt Văn thì làm sao địch nổi bọn ban C. Thôi thì nộp vào ban Sử Ðịa vậy, vô thưởng vô phạt, ai cũng như ai. Ðến ngày, tôi cũng đi thi. Thế mà chó ngáp phải ruồi, tôi đậu, thứ hạng cũng khá cao trong 40 thí sinh trúng tuyển, của khoảng 1,000 người dự thi. Bao nhiêu bạn bè của tôi đều không thấy tên. Năm trước, khi thi vào ban Vạn Vật, tôi còn mở sách ra dò lại bài. Chứ bây giờ, tôi thi chơi chứ có định học đâu mà ôn bài! Sau này, khi học Sử Ðịa ở Ðại Học Sư Phạm, tôi ngẫm nghĩ tại sao mình lại đậu? Tôi nhớ mang máng đề thi lúc đó là: “Tình hình thế giới giữa hai thế chiến.” Tôi đoán: khi làm bài thi, tôi đã làm đúng phương pháp sử mà sau này tôi được học: phân tích, tổng hợp, giải thích sự kiện. Ðó là những ý niệm tôi rút ra khi học sử ở trung học, khác với lối học thuộc lòng ngày, tháng, năm, tên vua này, vua nọ… chán ngấy. Hồi đó, tôi không hài lòng về cách dạy Sử-Ðịa của vài thầy khi còn học ở những lớp dưới. Tôi nghĩ: bài như thế thì phải dạy học sinh thế này, thế kia, chứ bắt học sinh học thuộc lòng thì còn gì hay nữa. Tôi đã nghĩ ra phương pháp phản hồi đối với bài dạy, mà sau này khi học sư phạm tôi mới được biết.

Sử Ðịa ở trung học, bị coi là môn phụ, môn ăn chơi. Nhưng tôi lại thấy học Sử như đọc truyện nên nắm bắt được những sự kiện chính, những mốc thời gian. Môn Sử khiến cho con người tôi lúc thì nóng bừng lên, lúc thì giận tím gan (phản hồi). Môn Sử tạo cho con người tinh thần yêu nước, yêu non sông, đất Việt. Còn Ðịa Lý, tôi có cảm tưởng như mình được đi du lịch khắp năm châu bốn biển, biết được nhiều nơi, nhiều dân tộc trên thế giới và rút ra những bài học cho đất nước mình. Có lẽ Sử-Ðịa đã thấm vào trong tim óc tôi từ lâu, nên tôi đã làm bài thi đúng phương pháp và may mắn thi đậu.

Trước ngày khai giảng ban Sử Ðịa, tôi coi thời khóa biểu niêm yết trước văn phòng hành chánh, thấy giờ học cũng nhàn nhã nên thử vào xem sao. Tôi cứ tưởng sẽ được gặp các vị nổi tiếng trong lãnh vực Sử Ðịa như ông bà Tăng Xuân An, Giáo Sư Phan Khoang, Sử Gia Phạm Văn Sơn,… Nhưng trên thời khóa biểu chỉ thấy tên các vị giáo sư mà trước kia tôi chưa hề nghe tiếng: Phạm Cao Dương, Phạm Ðình Tiếu, Lâm Thanh Liêm, Nguyễn Thế Anh,… cả mấy ông Tây nữa (Teulières, Flamand). Vị giáo sư đầu tiên mà tôi được gặp là Giáo Sư Phạm Cao Dương. Những giây phút đầu tiên chúng tôi học với thầy không phải là bài sử, mà là những lời hướng dẫn cho chúng tôi con đường chúng tôi nên theo, nên làm. Theo thầy, trong lãnh vực Sử-Ðịa và văn hóa của người Việt Nam, còn rất nhiều điều mà người Việt Nam chúng ta chưa nghiên cứu, chẳng hạn lịch sử mỹ thuật Việt Nam chưa có những công trình nghiên cứu sâu xa. Còn sử Việt Nam, từ trước tới nay, người viết sử chỉ nhìn dưới khía cạnh lịch sử chính trị mà không nhìn dưới khía cạnh lịch sử văn minh. Quả thực là thật mới mẻ đối với tôi. Thầy đã hé mở cho chúng tôi biết sử là gì. Thầy còn nhắc: mình không làm thì ai làm? Tôi nhớ lại, khi còn học ở trung học, các thầy tôi nhắc tới những công trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam do người Pháp thực hiện. Có những ông tây da trắng, mũi lõ ngồi hút thuốc lào cùng với các bác nông dân trên bờ ruộng để tìm hiểu văn hóa Việt Nam. Người Pháp làm được thì tại sao mình không làm được? Vả lại họ nghiên cứu cách nay mấy chục năm rồi, nước ta, dân ta đã có nhiều thay đổi. Những lời đầu tiên của Giáo Sư Phạm Cao Dương khiến tôi suy nghĩ và cảm thấy hứng khởi. Giáo Sư Phạm Cao Dương đã xoáy vào tim bọn sinh viên mới bước chân vào đại học. Tôi thấy cũng hay. Mình sống, làm được chút gì là vui. Dạy trung học chỉ có 16 giờ mỗi tuần, nghĩa là chỉ có bốn buổi, còn quá nhiều thời giờ rảnh rỗi, mình có thể làm việc khác, tìm hiểu về văn hóa, sử, địa của địa phương mình, và rộng ra của nước Việt Nam chúng ta. Tôi tìm thấy nguồn vui. Những lời nói đầu tiên của Giáo Sư Phạm Cao Dương khi tôi bước chân vào Ðại Học Sư Phạm đã tạo nên bước ngoặt có tính cách quyết định trong cuộc đời tôi.

Hôm sau, Giáo Sư Lâm Thanh Liêm cũng khuyến khích chúng tôi nên ghi danh học Sử Ðịa ở Ðại Học Văn Khoa và đi vào con đường nghiên cứu địa lý. Những lời tâm huyết của thầy là nguồn khích lệ lớn lao cho 40 lính mới chúng tôi: nửa lớp ghi danh học năm dự bị ở Ðại Học Văn Khoa. Một số bạn không ghi danh ở đó vì còn học tiếp bên Luật Khoa mà họ đã theo đuổi từ trước, hoặc bận bịu dạy thêm ở trường tư, kiếm cơm nuôi gia đình.
Ngoài Giáo Sư Phạm Cao Dương, chúng tôi học với Giáo Sư Phạm Ðình Tiếu. Thầy Phạm Ðình Tiếu lôi cuốn chúng tôi với tính tình cởi mở, gần gũi với học trò. Phong cách thân mật với học trò, làm việc hăng say hết mình của thầy đã thấm vào con người chúng tôi. Sau này, khi ra trường, những nhà giáo chuyên về Sử Ðịa của lớp chúng tôi thường lăn xả vào những sinh hoạt trong trường mà những người chuyên dạy tư thường tránh né: tổ chức những sinh hoạt xã hội, trại du khảo, trại công tác, đảm nhận chức vụ hiệu đoàn phó (hiệu trưởng là hiệu đoàn trưởng). Có những bạn phải nhận chức vụ hiệu trưởng, giám học ngay từ năm đầu tiên nhận nhiệm sở. Những sinh hoạt trong trường khiến đời sống trong trường học không chỉ là phấn trắng, bảng đen, sách vở. Chính những sinh hoạt này tạo nên sự khắng khít giữa thầy, trò, trường, lớp mà không sách vở nào tạo nên được. Ngoài Sử Ðịa và Việt Văn, có thầy cô dạy môn nào đào tạo học sinh trở thành những người có tâm hồn Việt Nam? Từ thế hệ chúng tôi, học sinh không còn nhìn ông thầy Sử Ðịa qua môn học hệ số 2, môn phụ. Sử Ðịa không còn là môn mà bất cứ ai cũng dạy được.

Trước kia, Sử Ðịa do những giáo chức không chuyên môn đảm nhận vì Ðại Học Sư Phạm chưa cung cấp đủ thầy cô giáo. Còn chúng tôi do Ðại Học Sư Phạm đào tạo vững vàng về kiến thức chuyên môn, tự tin về khả năng sư phạm, lấy lại uy tín cho bộ môn Sử Ðịa. Có những bạn cùng khóa chúng tôi đã “hớp hồn” học sinh: “Sau này em sẽ học Ðại Học Sư Phạm, môn Sử Ðịa, giống thầy.” Không biết các bạn tôi đúng hay sai? Khi “thôi miên”học sinh vào môn học mà nhiều người vẫn coi thường, khiến học sinh không chọn những con đường khác, nghề khác là điều thiệt thòi cho các em. Tương tự như thế, thầy giáo trẻ mới ra trường khiến cô nữ sinh nào đó bị say lòng, dù anh ta không làm điều gì trái với chức năng của nhà giáo, cũng là điều đáng tiếc, vì nếu không gặp ông thầy thần tượng của em, biết đâu em chẳng gặp được chàng trai nào đó có chức, có danh hơn ông thầy tỉnh lẻ. Tuy nhiên, ông thầy dạy Sử Ðịa tạo được ảnh hưởng đối với tương lai của học sinh đã chứng tỏ sự thành công của nhà giáo.

Khi học với Giáo Sư Lâm Thanh Liêm về những môn địa hình thái học (Géomorphologie) và bản đồ (Cartographie) tôi thấy hay: Khi học ở lớp đệ tam (1960-1961), tôi thật uể oải với môn địa chất học, phải chịu đựng nhiều giờ trong tuần, ban A mà. Nhưng nay, đất đá là những dạng cụ thể ở các địa hình, trên đất nước Việt Nam và trên thế giới, là thực tế bên ngoài nhà trường, tôi lại thấy gần gũi. Môn học này nhẹ nhàng đối với tôi. Giáo Sư Lâm Thanh Liêm mới từ Pháp về, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ đệ tam cấp ở Đại Học Sorbonne, Paris, một trường đại học nổi danh.

Một môn mới lạ đối với những người mới bước chân vào lãnh vực chuyên môn về Sử là môn Bình giảng sử liệu do Giáo Sư Nguyễn Thế Anh giảng dạy. Tôi thích thú với môn này, vì những dữ kiện của quá khứ nói lên rất nhiều điều sống động, mình khám phá ra biết bao điều đã chìm vào thời gian đã qua: xã hội, kinh tế, chính trị, giải thích những biến cố từ sâu trong quá khứ. Giáo Sư Nguyễn Thế Anh cũng mới từ Pháp về, với bằng thạc sĩ. Theo hệ thống giáo dục Pháp, người có văn bằng thạc sĩ là giáo sư đại học thực thụ, chứ không phải thạc sĩ là tên của văn bằng cao học sau cử nhân như hiện nay trong nước gọi. Những ngày đầu bước chân vào Ðại Học Sư Phạm, tôi thơ thới, hân hoan. Tôi cùng các bạn cùng lớp sang ghi danh ở Ðại Học Văn Khoa, nằm ở đường Nguyễn Trung Trực (sau này là trụ sở của thư viện quốc gia). Ðây là trung tâm thành phố Sài Gòn, sát bên đường Lê Thánh Tôn, đi bộ trăm mét là tới đại lộ Lê Lợi, nhà sách Khai Trí, kem Mai Hương, nước mía Viễn Ðông,… Sau giờ học, chúng tôi có thể bát phố, ngồi quán cà phê ngắm các bóng hồng thướt tha trên đường Lê Lợi, hoặc ghé vào rạp xi nê khi có phim hay. Tôi ghi danh với mục đích vui chơi nhiều hơn là học.

Trường Ðại Học Văn Khoa không có những đại giảng đường khang trang như những đại học khác. Phòng học ở đây nằm trong những căn nhà bệ rạc không thua gì khu “chuồng ngựa” trường Chu Văn An của tôi. Sinh viên dự bị nhiệm ý Sử Ðịa phải học chung nhiều môn với các sinh viên chọn nhiệm ý khác, nên lớp học nào cũng đông nghẹt. Các cô thường đi sớm dành chỗ cho nhau ở các hàng ghế đầu, giống như đi xem kịch vậy. Không thể tranh giành với các bóng hồng, lại lười đi sớm, tôi thường ngồi phía sau lưng các bóng hồng, hoặc đứng ngoài cửa sổ mà ngóng vào nghe giảng. Trường xập xệ như vậy nhưng thầy trò không màng những thứ vật chất tầm thường trên thế gian và hướng tới những cái hay, cái đẹp.

Tại Ðại Học Văn Khoa, tôi thấy những môn học thật nhẹ nhàng, bay bướm. Cũng may, thời khóa biểu ở Ðại Học Văn Khoa và Ðại Học Sư Phạm không trùng nhau nhiều nên tôi có thể đi học được mà không sợ bị mất bài. Nếu có trùng với Ðại Học Sư Phạm thì tôi mượn vở ghi “cua” của bạn. Tôi không chủ đích học văn chương, nhưng những giáo sư văn chương khiến tôi thấy học cũng thích thú: Nghe Giáo Sư Nguyễn Văn Trung nói chuyện về văn chương, về nhà văn (nhà văn, người là ai?) cũng hấp dẫn. Còn mỗi buổi học với Linh Mục Thanh Lãng là một bài nói chuyện lý thú về văn chương, không uổng công đứng mỏi chân ở ngoài cửa sổ ghi chép.
Văn chương ở đại học, dù chỉ ở cấp thấp nhất (năm dự bị) cũng khác với văn chương tôi học ở trung học. Tôi cũng phải học môn chữ Hán. Tưởng rằng thứ chữ này thật khó nuốt, nhưng giáo sư Lưu Khôn đã thay đổi cách suy nghĩ của tôi. Với cách dạy của thầy, tôi thấy học loại chữ này không khó, nhưng mình phải bỏ thời gian với nó. Qua những bài học đầu tiên, tôi nhận ra tính thâm thúy của người TrungHoa qua lối viết của họ. Sau này tôi sẽ bỏ thời giờ nhiều hơn để học thứ chữ này để có khả năng đọc được những bản văn cổ viết bằng chữ Hán.

Thế là ở Ðại Học Văn Khoa, tôi cũng thấy học mà vui.
Sau khi “ngao du” ở cả hai trường Sư Phạm và Văn Khoa, tôi quyết định “xin chọn nơi này làm quê hương.” Lý do là học ở những nơi này rất nhẹ nhàng, không mệt nhọc như học Anatomie, Physique, Chimie,… và đến trường lại thấy mướt mắt, cuộc đời cũng có niềm vui. Tìm hiểu sâu xa về văn hóa dân tộc, nghiên cứu về đất nước, lịch sử dân tộc mình cũng là nguồn vui. Sau này, khi học ở Ðại Học Văn Khoa, được dịp dự những buổi trình tiểu luận cao học (thời đó chưa có tiến sĩ) hoặc tìm hiểu những đề tài nghiên cứu ở bậc cao học, tôi nhận ra đó là những khám phá về đời sống của dân tộc mình.
Một lý do nữa khiến tôi chọn nghề dạy học là nhà giáo vẫn còn chút giá trị tinh thần trong xã hội. Vào thời tôi, nhà giáo vẫn được quý trọng. Bạn bè tôi có anh chị dạy học ở tỉnh cho biết thầy cô giáo phải ăn uống trong tiệm đàng hoàng, chứ không được ngồi ở các quán bên lề đường hay trong chợ. Nếu không phải là thầy cô giáo thì ăn uống ở đâu, chẳng ai để ý. Thầy giáo mà giao du với cô nào thì ngày hôm sau cả trường đều biết và sầm xì. Các anh sĩ quan cặp bồ với cô này, cô nọ lại là chuyện thường. Tôi không muốn nói là cần mọi người kính nể, hay sợ bị coi là tấm gương cho mọi người, mà chỉ muốn nói rằng nhà giáo vẫn còn được xã hội quý mến. 10 năm sau, xã hội thay đổi, danh dự của nhà giáo tuy có sứt mẻ, nhưng xã hội vẫn nể vì họ những bậc thay mặt cha mẹ dạy dỗ con cái của họ.
Còn về vật chất thì ngành giáo được chính phủ ưu đãi hơn các công chức hạng A khác: chỉ số lương của giáo sư trung học đệ nhị cấp mới vào nghề là 470, trong khi tốt nghiệp Quốc Gia Hành Chánh hoặc Cao Ðẳng Nông Lâm Súc chỉ số lương là 430. Sinh viên Ðại Học Sư Phạm được học bổng 1,000 đồng mỗi tháng, trong khi sinh viên trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc phải xin học bổng, nếu được chấp thuận mới được 700 đồng mỗi tháng. Với tiền học bổng hàng tháng, tôi không cần phải xin cha mẹ hoặc đi dạy kèm nữa. Bạn tôi ở tỉnh về Sài Gòn học, với số tiền học bổng này, anh ta đủ trang trải tiền trọ và tiền ăn hàng tháng. Lương giáo sư trung học đệ nhị cấp mới ra trường thời đó khoảng 9,000 đồng mỗi tháng. Nếu dạy thêm một số giờ (vì thiếu người dạy), lương sẽ trên 10,000 đồng/tháng. Ðây là mức lương rất cao (gấp 5 lần lương của thư ký). Với mức lương này, tôi nghĩ cuộc sống sẽ đầy đủ. Không mong làm giàu, tôi chỉ mong cuộc sống yên ổn, an nhàn.

Nếu tôi học xong nha khoa, làm sao tôi có được vài trăm ngàn đồng để mua máy làm răng? Dược sĩ không có tiền mở nhà thuốc tây thì cho mướn bằng. Còn nha sĩ thì không thể cho mướn bằng được. Thời đó, người mình chưa có thói quen đi khám răng và điều trị ở nha sĩ. Khi đau răng hoặc làm răng giả, người ta thường đến thợ trồng răng.

Tôi đã quyết định bỏ Nha Khoa, theo học Sư Phạm song song với Văn Khoa. Thế là dạy học là nghề và nghiệp của tôi. Tôi vui với học trò, vui với việc nghiên cứu Sử Ðịa. Thế hệ chúng tôi chưa làm được việc gì to lớn cho đất nước, nhưng rất vui vì đã đem hết khả năng của mình đào tạo mầm non cho đất nước. Ðất nước Việt Nam còn đau thương, còn chiến tranh, nhưng chúng tôi rất tự tin vì đã được đào tạo thành những nhà giáo đầy đủ khả năng chuyên môn, đầy nhiệt huyết để đào tạo thế hệ mai sau thành những người có lòng và có khả năng xây dựng đất nước. Dù các môn Sử Ðịa đòi hỏi tinh thần khách quan và khoa học, nhưng qua những dữ kiện đó, lòng yêu nước vẫn nảy mầm trong học sinh và các em không hổ thẹn làm người Việt Nam. Song song với nghề nghiệp, một số chúng chúng tôi tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu sâu rộng hơn trong những lãnh vực sử và địa.
Khi chúng tôi tốt nghiệp Ðại Học Sư Phạm thì một bạn đã trình tiểu luận cao học Ðịa Lý và bốn người hoàn tất văn bằng cử nhân giáo khoa Sử Ðịa. Tới ngày 30 tháng 4, 1975 thì: Hai người hoàn tất văn bằng cử nhân giáo khoa Sử Ðịa. Hai anh này không học tiếp lên cao học vì một anh say mê với các môn kinh tế ở Ðại Học Luật Khoa. Còn anh kia thì bận bịu với việc dạy học ở tỉnh nhà. Một người hoàn tất cao học Sử, do Giáo Sư Nguyễn Thế Anh bảo trợ. Hai người đậu cao học Ðịa Lý, do giáo sư Lâm Thanh Liêm bảo trợ. Hai người này qua được năm thứ nhất chuyên khoa Ðịa Lý, chuẩn bị luận án tiến sĩ chuyên khoa Ðịa Lý.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 là biến cố đau thương của toàn dân Việt Nam. Khi nón cối, dép râu, nón tai bèo giẫm nát Sài Gòn, vào chiếm trường học thì cuộc đời đã chấm dứt. Thân phận chúng tôi là những kẻ chiến bại, những kẻ được kẻ chiến thắng cho tạm dung. Chúng tôi bám lấy trường chỉ để bám lấy sự sống cho gia đình, để khỏi bị tống ra ngoài thành phố mà người ta gọi là đi kinh tế mới. Bọn con trai chúng tôi trong khóa 7 Ðại Học Sư Phạm may mắn không phải đi tù cải tạo, vì chúng tôi chỉ học quân sự 9 tuần, mang cấp bậc khóa sinh dự bị sĩ quan. Các bạn từ khóa 6 trở về trước và khóa 8 trở về sau đều phải nếm mùi tù cải tạo vì mang cấp bậc sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, biệt phái. Trong xã hội cộng sản, mình chỉ được nói những gì mà đảng cho nói, nói mà chẳng ai tin, ngay cả chính mình. Những nhà giáo tạm dung như chúng tôi muốn yên thân thì chấp nhận thân phận những con vẹt để sống cho qua ngày. Người bạn cùng lớp với tôi dạy ở trường trung học Pétrus Ký (nay là Lê Hồng Phong) vạ mồm vạ miệng nói trước lớp: “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.” Thế là đám học trò đoàn, đảng báo cáo với ban giám hiệu và ngay hôm sau, anh bị đuổi khỏi trường. Khi mới tiếp xúc với cộng sản, anh ta chưa nhận ra được cách sống cho thích hợp.

Bản chất nhà giáo là sống chân thật nên khó xoay sở trong lúc tình thế nhiễu nhương. Một số rất ít người lanh lợi tháo vát thì kiếm sống thêm trên đường phố: buôn bán thuốc tây chui, quần áo cũ… Chúng tôi được đào tạo về cả Sử lẫn Ðịa, nhưng họ chỉ định dạy một môn Sử, hoặc Ðịa. Sử của Cộng Sản là sử đảng, sử bác. Khi Việt Cộng mới chiếm Sài Gòn, muốn biết xem lối viết Sử của họ ra sao, tôi tìm đọc cuốn Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam tập I. Ngay trang đầu là hình Hồ Chí Minh to tổ bố. Vậy là gì?Hồ Chí Minh được đặt trước các bậc tổ tiên của dân Việt, trước cả các vị anh hùng dân tộc như Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Huệ,… Sau đó là lời nhắn nhủ của thủ tướng Phạm Văn Ðồng:“… Các đồng chí phải chứng minh cho được thời kỳ chiếm hữu nô lệ…” Như thế: Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng là nhà hành chánh, nhà chính trị mà các người gọi là nhà viết sử của chế độ phải tuân lệnh thì loại văn mà họ viết ra chỉ để vừa lòng xếp, chứ không phải là kết quả của cuộc nghiên cứu khách quan.
Họ đặt cái cày đi trước con trâu, tìm con bò cho vừa cái chuồng. Chưa nghiên cứu mà phải tìm cho được thời kỳ chiếm hữu nô lệ ở Việt Nam. Cái gọi là “Sử” của Cộng Sản chỉ là một loại văn viết theo đơn đặt hàng của đảng. Sau này mới biết những nhân vật lịch sử mà học sinh bị nhồi sọ như Phan Ðình Giót, Lê Văn Tám chỉ là những sản phẩm bịp bợm. Những cuốn sách tái bản sau này của bộ Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam đã bỏ câu nói của Phạm Văn Ðồng, nhưng ảnh của Hồ Chí Minh thì vẫn vậy. Dẫn chứng như trên, tôi muốn nói: đối với cộng sản, không có môn Sử mà chỉ có những lời tuyên truyền theo họ muốn.

Còn về Ðịa Lý? Làm sao mà dẫn chứng chủ nghĩa tư bản đang giẫy chết trong khi nền kinh tế và trình độ khoa học kỹ thuật vượt bậc của họ không thể bịp được đứa con nít? Làm sao mà chứng minh: “Ðồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ”? và phản khoa học như: “Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ”? Cái khổ của người trí thức không phải vì chầu chực để được nhận những hột bo bo, con cá ươn, mớ rau thối… mà là nỗi nhục cho thân phận của mình, và nỗi đau cho đất nước và dân tộc.

Người ta gọi ngày 30 tháng 4 năm 1975 là ngày đứt phim, ngày đổi đời, ngày mất nước, ngày quốc hận. Ðiều nào cũng đúng. Phận mình còn không biết có yên thân không thì còn nghĩ gì tới nghiên cứu. Nghiên cứu làm sao được khi tài liệu không có. Tin tức, số liệu được công bố thì toàn là những bịa đặt. Tất cả mọi thứ trong chế độ “ưu việt nhất của loài người” phải được đảng lãnh đạo. Ðảng có sai bảo thì mới được làm. Bọn nhà giáo gốc ngụy, lý lịch ba đời đầy rẫy những vết đen thì đảng cho yên thân là tốt lắm rồi, nói gì đến nghiêu cứu. Tinh thần đâu mà nghiên cứu khi hàng ngày gia đình nheo nhóc, dạ dày lép xẹp. Còn về mặt hành chánh, trường Ðại Học Tổng Hợp (thay cho Ðại Học Văn Khoa trước kia) chỉ công nhận văn bằng cử nhân, chứ không công nhận văn bằng cao học. Cuộc đời của nhiều người coi như đã chấm dứt từ cái ngày đen tối đó.

Vài lời ghi lại của một kẻ đã hết lòng với cả hai trường Ðại Học Sư Phạm và Văn Khoa Sài Gòn, nhân dịp Hội Ngộ 40 Năm Viễn Xứ (được tổ chức tại Nam Cali, USA) mà đường xa vạn dặm không thể tới dự được.

Úc Châu, 28 tháng 8, 2015
(Nguồn: ttduc999@yahoo.com.au)

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Việt Kiều
Nguyễn Thị Thanh Dương

Nhờ người thân đứng tên giùm, Việt kiều dễ mất nhà

Buông phone xuống là anh Tư Chuột đi kiểm tra lại ngân quỹ đen của mình, được 300 đủ để gởi về Việt Nam cho má, trong quỹ đen của anh bao giờ cũng có cỡ này là bên Việt Nam lại có lý do để xin tiền.

Má anh vừa gọi sang, trước là vài câu thăm hỏi, sau là để xin ít tiền đặng má đi bác sĩ coi tim mạch má ra sao, lúc này má hay làm mệt qúa con ơi, má ăn không ngon, ngủ không yên.

Dù bất cứ lý do gì anh cũng không bao giờ từ chối má, huống gì vì lý do sức khoẻ của má. Bởi vậy anh thật là có lý kể từ khi nghĩ ra cái quỹ đen này, lâu lâu tom tóp được ít tiền để giải quyết đột xuất những nhu cầu của thân nhân ở Việt Nam.

Anh chỉ còn có hai người thân yêu nhất là mẹ và cô em gái, mỗi năm anh gởi hai lần tiền về cho mẹ và em, gọi là nuôi mẹ, phụ em chút đỉnh trong cuộc sống cho xứng danh là một người anh đang sống ở nước Mỹ giàu có văn minh. Tiêu chuẩn như thế nhưng má anh không chịu hiểu cho, thỉnh thoảng bà lại xin đột xuất, nay lí do này mai lí do khác, toàn là những lý do chỉ có tiền mới giải quyết nổi, mỗi lần thế, vợ anh mặt sưng mày xỉa một đống:

- Ai nhận được thư bên Việt nam thì mừng chứ tôi rầu thấy bà, nhà này đâu phải nhà băng đâu mà giải quyết được mọi thứ.

Anh Tư Chuột nín khe, không biết đường nào mà binh mà đỡ, gia cảnh nhà anh, anh biết quá, hai vợ chồng anh làm lương công nhân, lấy nhau 3 năm trời mà chưa dám có baby, ráng đi làm dành dụm khi nào down được cái nhà mới mang bầu.

Từ khi có quỹ đen, vợ anh không có lý do gì để sưng xỉa nữa. Quỹ đen của anh thì cũng từ trong nhà mà ra chứ có khoản nào khác đâu, anh bớt tiền bia rượu thuốc lá và "ăn gian" vợ, tăng lên vài đồng mỗi lần đổ xăng vào xe, bội thu lớn nhất của anh là khi sửa xe, cho nên xe hư, một mặt anh lo sợ thật sự, một mặt anh mừng rơn, anh mang xe tới shop của người Việt Nam, giá cả rẻ hơn shop Mỹ, anh nói chủ shop viết biên nhận tăng lên cả trăm đồng so với giá thực tế anh phải trả, thế là anh có thêm một khoản tiền dư cho vào quỹ đen.

Anh còn phục tài thông minh của anh biết sáng tác ra cái đề tài đi Birthday người này người nọ, toàn là bạn cùng hãng, người Mễ, người Mỹ nên vợ anh chẳng biết tên, biết mặt họ là ai, vợ chi cho anh ít tiền để mua quà, anh biến khỏi nhà đi đâu đó vài tiếng và coi như đã dự xong một bữa tiệc.

Từ khi có quỹ đen, mỗi lần má gọi sang xin tiền là anh OK liền, một cách vui vẻ, chắc má anh đã tưởng tượng vài trăm đô chỉ là món tiền lẻ anh luôn có sẵn trong túi móc ra lúc nào cũng được.

Anh có một buổi sáng rộng rãi ở nhà, vợ anh làm khác hãng, khác ca, nên những cú phone của má anh đều biết điều xuất hiện vào buổi sáng. Anh chỉ việc lái xe ra khu chợ Việt Nam, đến dịch vụ gởi tiền, viết cái rụp vài dòng nhắn tin miễn phí và điền phiếu gởi tiền thế là xong, vài ngày sau tiền từ túi anh sẽ bay về Việt Nam vào túi má.

Mấy dịch vụ gởi tiền này cũng tâm lý hết mình, trong phiếu gởi tiền có ghi rõ muốn nhận hồi báo bằng thư gởi đến nhà hay đến tiệm lấy, chắc họ tiếp nhiều khách hàng chuyên đi gởi tiền ?lén lút? về Việt Nam như anh, kẻ dấu vợ, người dấu chồng, người dấu con, dấu cháủ.ôi thôi, mỗi người mỗi cảnh, mỗi cây mỗi hoa, cuộc đời muôn mặt.

Anh Tư Chuột thay đồ, không quên bỏ 300 đồng vào túi rồi lái xe đến dịch vụ gởi tiền, hôm nay trời đẹp thật, nắng và gió phơi phới như lòng anh, Này nhé, có tiền gởi cho má, làm vừa lòng má, mà vợ không biết, không phải nghe cằn nhằn, không phải năn nỉ ỉ ôi vợ thì ai mà không vui ?

Anh hiên ngang đẩy cửa tiệm bước vào, tuy hiên ngang phơi phới thế, nhưng anh vẫn cảnh giác quét ánh mắt nhìn tứ phía xem có ai quen không, tai vách mạch rừng mà, người quen mà biết thì trước sau gì vợ anh cũng biết, ánh mắt của anh đụng phải một ánh mắt cũng đang quẹt ngang quẹt dọc như anh, đó là một anh bạn cũ, làm cùng hãng trước kia, anh ta cũng đi gởi tiền một mình, cũng mắt láo liên, vậy là có vấn đề ?mờ ám?.

Chắc anh kia cũng nghĩ thế, nên sau cái mỉm cười đầy vẻ cảm thông, nhận ra nhau rồi thôi, việc ai nấy làm, để còn rút lui cho lẹ.

Ba ngày sau là ngày ra dịch vụ gởi tiền nhận giấy hồi báo, trước khi đi, anh gọi phone về Việt Nam, 9 giờ sáng bên Mỹ là 9 giờ tối bên Việt Nam, nhưng má anh không có nhà, cô em gái bốc phone, cô nói má nhận được 300 đô rồi, anh hỏi thăm bệnh tình tim mạch má thế nào, đi bác sĩ chưa thì cô em chưng hửng má có bệnh tim bệnh phổi gì đâu, má vẫn ăn ngon vẫn ngủ tốt chỉ trừ đêm nào đánh bài tới khuya. Ngày nào má cũng đi sang lối xóm đánh bài hết anh ơi, má mê cờ bạc từ lâu rồi, em không dám kể sợ anh buồn, sợ má la, nay thấy anh gởi tiền về cho má, lo lắng cho má, em thấy tội anh quá nên phải nói ra sự thật.

Anh Tư Chuột gọi xong cú phone về Việt Nam lòng anh cụt hứng, buồn tênh, bao nhiêu sự hi sinh, góp nhặt của anh gởi về cho má để rồi như bèo dạt mây trôi, chứ có lợi ích thiết thực gì đâu!

Xưa, má anh nghèo, ăn nói rất khiêm tốn dè dặt, giờ đây có đồng tiền của anh gởi về đã biến bà thành một con người khác. Cách đây vài năm, khi anh còn độc thân, mỗi lần nói chuyện phone với má, bà đều rủ rỉ con muốn lấy vợ chưa má nhắm con gái bà chủ tiệm vàng ở đầu chợ, má nói một tiếng là xong. Anh đã ngạc nhiên gì mà dễ vậy má, người ta là con nhà giàu mà. Má anh cười đắc ý con khờ quá vậy, hồi xưa thì con nghèo thật, má phải làm thuê, làm mướn, bây giờ con có thua kém gì ai, Việt kiều chứ bộ, lấy ai mà chẳng được. Dưới mắt má anh, chỉ hai từ "Việt kiều" là đủ sang, đủ giàu để về Việt Nam muốn gì được nấy rồi.

Anh Tư Chuột nhớ hồi xưa, cái tiệm vàng ngay đầu chợ, lộng lẫy và sang trọng lắm, mấy thuở anh có dịp bước chân vào đó để mà mua bán vàng, dù chỉ là vài phân, nói chi tới chuyện cưới con gái người ta.

Má anh đã khẳng định mỗi lần con gởi tiền đô về má đều tới đó đổi ra tiền Việt hay mua vàng, bà chủ đều vui vẻ hỏi thăm con đó, chắc là bà muốn chấm con cho cô con gái rồi. Anh thấy má anh chủ quan quá, chỉ vâng dạ cho xong, vì lúc đó anh đang có người yêu ở Mỹ, là vợ anh bây giờ.

Buồn thì buồn anh cũng lái xe đến dịch vụ để nhận tờ giấy hồi báo cho xong thủ tục, kẻo họ gởi về nhà thì nguy.

Khi anh đẩy cửa kính bước vào, anh buồn đến nỗi chẳng thèm cảnh giác ngó ngang ngó dọc gì hết, chỉ nhìn thẳng mà anh bỗng kinh hồn khiếp vía khi thấy một bóng dáng quen thuộc đến nỗi chỉ nhìn sau lưng anh cũng biết chắc đó là vợ anh, đang lúi húi đứng bên quầy gởi tiền.

Anh phản ứng rất lẹ, quay ra, nhưng chân anh mới nhúc nhích thì bà chủ tiệm từ phía trong quầy còn phản ứng lẹ hơn, bà nhìn thấy anh, bèn cười, nụ cười xã giao của những người làm thương mại ban phát rộng rãi cho tất cả mọi khách hàng:.

- Anh Tư Chuột đợi đấy, có giấy hồi báo nhận tiền bên Việt Nam rồi nè.

Chưa bao giờ anh thấy có một người nào vô duyên và đáng ghét như bà chủ tiệm lúc này, anh nhìn bà ta bằng ánh mắt đau khổ lẫn hận thù, nhưng vẫn phải nhếch môi cười và đứng chôn chân tại chỗ. Lúc đó vợ anh quay đầu lại, bốn mắt nhìn nhau.

Ngày xưa, hồi mới quen, bốn mắt nhìn nhau đầy hoa mộng, còn giờ phút này đầy ác mộng!

Bà chủ vẫn phơi phới cười nói tưởng rằng ta đây là một người làm business tuyệt vời, luôn làm vui lòng khách đến vừa lòng khách đi:

- Ðấy nhé, chúng tôi làm ăn đầy tín nhiệm nhé, những lần trước anh gởi chỉ 3 ngày về đến Việt Nam, lần này cũng thế, trước sau như một.

Trời ơi, nếu mà anh có thể xông lên bịt mồm bà chủ được, thì anh đã làm rồi.

Vợ anh mặt lạnh bước ra khỏi tiệm, đi qua mặt anh không nói một câu gì. Bà chủ tiệm trao anh tờ giấy hồi báo và tiếp tục nụ cười thương mại:

- Lần sau anh Tư Chuột nhớ đến tiệm chúng tôi nhé!

Anh rủa thầm trong lòng: "Vĩnh biệt bà! Ðây là lần cuối cùng"

Anh Tư Chuột lái xe về nhà, không hiểu vợ anh giờ này đang ở đâu? anh nằm dài ra ghế sofa để chờ vợ, sẵn sàng đón nhận một cơn bão tố.

Nằm ngẩm nghĩ, anh chợt tự hỏi sao sáng nay vợ không đi làm? Cô ấy đi gởi tiền cho ai? Hay cô ấy cũng đang chơi trò gởi tiền về Việt Nam "lén lút" qua mặt anh? Anh bỗng cảm thấy đỡ lo, trong vụ này vợ vừa là đối thủ vừa là đồng minh của anh.

Rồi vợ anh cũng về tới, chắc phải nhịn nói ở chỗ gởi tiền nên bây giờ vợ anh tuôn ra xối xả:

- Sao, anh từng lén tôi đi gởi tiền về Việt Nam bao nhiêu lần rồi? mà gởi cho ai? hả? hả? Xời ơi, thì ra bấy lâu anh ăn bớt, ăn gian, anh dối gạt tôi để tích cóp tiền phải không?

Anh bắn trả lại đối phương một viên đạn như nó vừa bắn anh:

- Còn cô, đi gởi tiền cho ai? Bao nhiêu lần rồi làm sao tôi biết được? tiền nào cũng là tiền trong cái nhà này thôi, bây giờ tôi mới hiểu vì sao cô cho tôi ăn cơm với thịt gà triền miên, thịt gà rẻ hơn thịt heo thịt bò, rẻ hơn tôm cá mà. Phim chuyện dài nhiều tập nào cũng có đoạn kết, chuyện ăn cơm thịt gà ở nhà mình thì không. Bằng cớ là hôm qua và hôm nay cũng vẫn ăn cơm với thịt gà, có khi lại là gà "on sale" rẻ như bèo nữa đấy.

Vợ anh cũng thông minh lắm, cô phát giác ra ngay:

- Tôi cũng đã hiểu ra rồi, tại sao nhà có hai cái xe, mua cùng lúc, cùng tuổi, cùng đời, xe của tôi thì hư ít, còn xe anh thì cứ hư dài dài, mỗi lần sửa bạc trăm ngon lành và tôi cũng không tin vào cái khoản đi Birthday bạn bè cùng hãng của anh nữa, vì các đám giỗ tiệc của bà con họ hàng anh còn lười không muốn đi mà.

- Thế còn chuyện cô thường xuyên đi shopping thì sao? Hừm! biết đâu cô mua cái váy cái áo clearance cộng thêm 75% off chừng 10 đồng bạc, về cô khoe tôi là 100 ngon lành.

Vợ anh bí không chống đỡ được gì nữa, cô vừa khóc vừa gào:

- Bởi vậy mấy năm nay có thấy dư đồng nào đâu, chừng nào mới down được nhà? chừng nào mới có con hở trời?

Rồi vợ vô phòng nằm trùm mền, Anh Tư Chuột nằm ở ghế thở dài, nghĩ đi nghĩ lại cả hai vợ chồng đều có lỗi, anh phải giải quyết cho xong để còn thanh thản mà đi làm, anh bước vô phòng, giọng ngọt ngào:

- Thôi em, mở mền ra nghe anh nói đâỷ

Có lẽ cô ấy cũng cùng một ý nghĩ như anh nên cô tung mền ra, vùng vằng:

- Rồi đó, nói gì thì nói đỉ

Anh Tư Chuột ngồi xuống bên vợ nói như tâm sự:

- Thật tình những điều em nói rất đúng, anh đã ăn gian, ăn bớt để có tiền gởi thêm về cho má, ngoài phần mình gởi định kỳ, thỉnh thoảng má vẫn xin thêm nên anh phải làm như thế, người con nào chẳng thương mẹ, muốn làm mẹ vui lòng phải không em? mong em hiểu cho anh?

Vợ anh động lòng, xụt xịt:

- Em cũng thế, má em cũng đòi hỏi thêm, vì má chiều thằng em của em, nào mua cho nó xe mới, quần áo thời trang này nọ, nó ỷ có em bên Mỹ chi tiền về nên ăn xài xả láng. Má thương nó quá nên cái gì cũng chiều, má còn so sánh cho em biết con gái bà hàng xóm hồi ở nhà đi gánh nước mướn quanh năm suốt tháng, vậy mà qua Mỹ làm chủ tiệm nail, bây giờ gởi tiền về xây nhà lầu mấy từng. Nghe thế em cũng tự ái, con nhỏ đó chuyên môn gánh nước cho nhà em chứ có tài cán gì đâu, nó xây được nhà cửa cho cha mẹ, không lẽ em không gởi được chút tiền về lo cho thằng em út được sung sướng, được bằng người ta sao?

- Ai chẳng muốn mang lại niềm vui cho người thân của mình, nhưng phải hợp tình hợp lý theo hoàn cảnh mỗi người, mình không thể chạy theo người ta được. Phải tính lại chuyện này em ơi, để má anh má em hiểu ra hai chữ ?việt kiềủ không lộng lẫy giàu sang như họ nghĩ đâu. Anh mới được biết những đồng tiền anh gởi về là để giúp má ?đi đánh bài tối ngày, còn những đồng tiền của em gởi về biết đâu chỉ làm thằng em ăn chơi, hư hỏng thêm? Trong khi bên Mỹ này vợ chồng mình làm ăn vất vả để kiếm tiền, mua món gì on sale tiết kiệm được một vài đồng cũng mừng.

Vợ anh đồng tình:

- Anh nói cũng phải, đây đâu là thiên đường, đồng đô la đâu tự nhiên nhảy vô túi mình, cớ sao những người thân của mình cứ nhắm vào mình mà mơ ước? mà đòi hỏi nọ kia?

- Cũng một phần lỗi tại mình, vì thương yêu người thân, vì lòng tự kiêu, tự ái, chẳng lẽ mang tiếng sống ở Mỹ mà không giúp được cho người thân? Còn bao nhiêu trường hợp khác nữa, có người thì ba hoa, khoe khoang chuyện trên trời dưới đất làm như kiếm tiền dễ như nhặt lá vàng rơi nên bên Việt Nam mới hiểu lầm.

- Hèn gì người ta nói Việt kiều về thăm quê hương khi trở lại Mỹ chỉ còn bộ quần áo dính trên người, cái món cuối cùng không thể lột ra cho được thôi.

- Chúng mình nghe hà rầm chuyện Việt kiều rồi đó, trừ những người thành công, có tiền có của, nhiều người ở bên này làm đủ các nghề lao động với đồng lương rẻ mạt, hay làm baby sit, làm bồi bàn trông mong từng đồng tiền tip, về Viêt Nam õng ẹo, ra vẻ quý phái làm như chưa biết khổ cực là gì.

- Má kể con nhỏ gánh nước mướn ngày xưa ở xóm em, mỗi lần về là cả xóm vui lây, nó cho quà khắp xóm, các bác xích lô đạp lúc nào cũng túc trực ngoài cửa, đợi cô Việt kiều ra, chỉ để chở cô ra chợ ăn vặt hay mua trái cây, cứ một cuốc xe chưa đầy 10 phút, cô trả 10 đô ngon lành, nên các bác xích lô cứ bu đầy sân hi vọng mình trúng mối. Anh thấy chưa, hồi xưa nó gánh hai thùng nước đè nặng trên vai, chạy te te, mà bây giờ chỉ một đoạn đường từ nhà ra đầu chợ cũng phải lên xe xuống xe.

- Việt kiều có uy lắm em, vợ thằng bạn anh ở bên này mà làm tổng chỉ huy bên Việt Nam đó, vợ chồng nó giàu, gởi tiền về cho cha mẹ anh em khá nhiều, nên nói gì bên ấy cũng nghe theo răm rắp.

- Ôi thôi, có những Việt kiều nói ra nghe mà cảm động, phải về Việt Nam thăm ông bà cha mẹ cho tròn chữ hiếu. Nhưng gần gũi thân nhân thì ít, ăn chơi, bia ôm, hàng quán thì nhiều.

- Cái danh Việt kiều cũng làm người ta chết dở, một chuyến về Việt Nam làm người ta sạt nghiệp luôn, thôi thì họ hàng bên chồng, bên vợ, bên nội, bên ngoại, rồi bạn bè gần xả.Chỉ có một đường lối xã giao cho tất cả mọi người đó là chi tiền, chi sao cho xứng danh Viêt kiềụVề tới Mỹ bắt đầu ăn đồ sale, mua đồ cũ.

- May quá, vợ chồng mình chưa về Việt Nam lần nào, nội cái vụ hai đứa gởi lén tiền về Việt Nam thôi mà cũng ngóc đầu lên nhìn đời không nổi đây.

Anh Tư Chuột tươi cười:

- Vợ chồng mình rồi sẽ về thăm Việt Nam, nhưng sẽ về theo kiểu của mình, theo khả năng của mình, anh tin là má anh, má em sẽ thông cảm. Còn bây giờ vợ chồng mình cũng thông cảm nhau rồi nhé. Bây giờ anh hỏi em, sao sáng nay em không đi làm?

Cô lườm nguýt anh một cái:

- Ðã thông cảm rồi mà còn hỏi ngớ ngẩn, hôm nay em nghỉ sick leave, định đi gởi ?lén tiền xong về nhà bất ngờ cho anh vui.

- Cái bất ngờ của em làm anh chết đứng ở giữa tiệm gởi tiền đó, em biết không? Cũng may là em tế nhị phớt lờ đi ra khỏi tiệm, không thì anh bể mặt giữa chốn công cộng.

Cô cười ngặt nghẽo:

- Trời ơi, ai mà tế nhị với anh, lúc đó em cũng run thấy mồ, chỉ sợ anh níu tay em lại hỏi em ra đây làm gì thì em cũng bể mặt với bà chủ tiệm luôn cho nên em phải nhanh chân mà ra khỏi tiệm trước anh

Rồi cô hất chăn mền ra, vùng dậy ôm lấy anh:

- Cái quan trọng là từ nay vợ chồng mình đừng vì ba chuyện lẻ tẻ mà lừa dối nhau nữa nghe anh? nếu thật sự bên nhà anh hay bên em cần sự giúp đỡ thì mình sẽ giúp thôi, Viẹt kiều có nhiều loại lắm, chúng mình hãy là những Việt kiều bình thường và trung thực.

Chưa bao giờ anh Tư Chuột thấy vợ anh có lý và dễ thương như lúc này.


Nguyễn Thị Thanh Dương

Post Reply