Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Nhà văn TRẦN THÙY MAI với truyện ngắn

"Nơi có những cây tùng xanh biếc"


Image
Trần Thùy Mai
Một người bạn Nhật kể lại với tôi rằng trong suốt mấy mươi năm sau khi Kỳ Ngoại Hầu Cường Để mất, bà Ando Chie sống trong một căn hộ đơn sơ, và giữ mãi trên vách những bức hình của ông….
Tôi rất muốn được tận mắt nhìn nơi đó, nhưng khi tôi đến Tokyo vào năm 2007, bà đã qua đời trước đó không lâu. Cũng may tôi đã đến nghĩa trang Zoshigaya nơi bà chôn nắm tro của nhà chí sĩ Việt Nam.
Hôm đó là một ngày tháng Tư, trong nghĩa trang có hoa anh đào nở. Tôi hình dung bóng Ando Chie lủi thủi một mình. Trong cảnh vắng lặng, những ngày tháng giữa Cường Để và Ando Chie bắt đầu hiện ra trong tôi. Một câu chuyện về tình yêu và phận người.
Về phong trào Đông Du, khởi đầu, kết thúc và vai trò lịch sử của nó thì có lẽ ai cũng biết rồi. Tôi chỉ muốn viết về một trái tim ngọt ngào mà Trời đã đem đến cho một người đàn ông trong bước đường cùng.
…Như một ân sủng làm dịu đi nỗi rát bỏng của định mệnh.


Nhà văn TRẦN THÙY MAI

Image

Nơi có những cây tùng xanh biếc

Ando Chie cúi xuống, nhúng ngón tay vào chậu nước. Nước ấm vừa đủ tắm. Nàng kéo màn che cửa sổ. Ngoài kia, một cây anh đào vừa nở, những nhành hoa rủ xuống trắng hồng.
- Xin ngài vào tắm kẻo nước nguội.
Giọng nàng nhỏ nhẹ và lễ phép.
Ngoài ba mươi tuổi, Chie mạnh khỏe và bầu bĩnh trong bộ kimono giản dị màu lam. Là người giúp việc cho hoàng thân Cường Để, cô đến ở đây đã hai năm theo sự bố trí của Đại tá Wanatabe.
Năm ấy Hoàng thân đã ngoài năm mươi tuổi, dáng vóc nho nhã nhưng khuôn mặt gầy đượm buồn. Ông chăm chú viết, những chữ Nho chân phương rất đẹp trên giấy trắng. Thấy Chie, ông ngẩng lên, vẻ mặt ngần ngừ:
- Lại tắm. Ta mới tắm hôm kia...
Chie mỉm cười. Ông hoàng Việt Nam này rất lười tắm gội. Người Nhật vốn rất sạch sẽ . Bao giờ cũng thế, Chie rất cương quyết với ông.
Chie đến gần, đặt tay lên nút áo ông. Chiếc áo năm thân màu nguyệt bạch với rất nhiều khuy vải. Ở Nhật đã hai mươi năm, ông vẫn mặc áo Việt. Những chiếc áo ông đem theo từ Việt Nam đã cũ nát từ lâu, chiếc áo này là do Chie phỏng theo áo cũ để may cho ông, kiểu áo Việt trên nền lụa Nhật.
Nhưng hôm nay, ông hoàng dường như trái tính hơn mọi ngày. Ông chùn lại, xua tay, ánh mắt đầy nghi kỵ:
- Để ta yên!
Từ lúc Chie mới đến đây, ông vốn đã không tin nàng. Ông không cho nàng sắp xếp thư từ giấy tờ trên bàn ông, dù chúng thường rất lộn xộn. Mỗi lần đau ốm, ông cố giấu không cho nàng săn sóc.
Chie là người do quân đội Nhật cử đến. Ông nghi kỵ nàng nhưng không thể từ khước nàng. Ông khư khư không cho nàng chạm tới đống thư từ, nhưng lại quá cần nàng thu dọn giường nằm bề bộn, pha cho ấm trà buổi sáng, khâu lại áo xống, cả ánh mắt cương quyết của nàng mỗi lần bắt ông đi tắm…
Nhưng hôm nay nhìn vẻ mặt ông, Chie lẳng lặng không nài ép gì nữa. Nàng quay ra một lúc rồi trở vào với khay trà - Nàng đã quen, những lúc căng thẳng thế này chỉ có một ấm trà Tàu mới có thể làm ông dịu lại.
Bước qua ngạch cửa, nàng khựng lại. Kỳ ngoại hầu Cường Để, hoàng đích tôn đời thứ 5 của vua Gia Long đang bưng mặt khóc.
Image
Kỳ ngoại hầu Cường Để
Ando Chie vội vã đặt khay xuống án thư, chạy đến đỡ lấy mái tóc chớm bạc đang rũ rượi gục về phía trước. Tấm thân gầy mỏng của người đàn ông như muốn sụp xuống trong tay nàng.
- Điện hạ, hoàng tử...
Chie cứ nghĩ ông sẽ đẩy nàng ra. Nhưng lần này Cường Để chỉ ngẩng lên, mắt nhìn sững vào khoảng không trước mặt. Nàng nhẹ nhàng chặm những giọt nước ứa ra quanh đôi mắt thất thần. “Có chuyện gì...?”.
Cường Để không kiềm chế được, khóc nức lên. “Bác Phan mất rồi!”.
Tại Tokyo một buổi chiều tháng tư, Cường Để nhận được thư báo. Phan Bội Châu, người đã tìm đến ông khi ông mới hai mươi mốt tuổi, đã tôn ông làm minh chủ của phong trào Đông du chống Pháp. Người đã đón ông sang Nhật để tính chuyện phục quốc lâu dài. Việc Phan Bội Châu bị bắt ở Thượng Hải đã là một đòn quá mạnh đối với ông. Từ ngày ấy, ông không thôi cảm thấy lạc lõng, hoang mang; cảm giác thối chí thỉnh thoảng lại ám ảnh ông, ông phải hết sức chống lại.

Bây giờ Phan Bội Châu đã mất. Hơn ba mươi năm lưu vong trên đất Nhật, bao nhiêu ý chí, nghị lực của ông dường như được truyền từ sức mạnh tinh thần của con người này. Vậy mà giờ đây người ấy không còn nữa. Số phận đã bỏ rơi ông giữa một thế giới mênh mông xa lạ, trong cảnh tiến thoái lưỡng nan.
Không phải là chuyện có thể chia sẻ với Ando Chie, nhưng biết nói cùng ai ở nơi lữ thứ này. Phong trào Đông du đã tan rã, Trần Đông Phong đã tự vẫn, Tăng Bạt Hổ, Nguyễn Siêu đã trốn đi, chỉ còn mình ông trơ trọi giữa trời cùng đất tuyệt.

Chie cố gắng an ủi ông, dù không biết người chết là ai. Nàng dìu ông vào giường, đắp chăn, buông màn cho ông.
“Để mặc ta”. Cường Để nói, xua tay, quay mặt vào góc tối.
Chie gật đầu, nàng ém màn vào dưới nệm, bước lùi mấy bước.
“Chie, đừng đi!”
Ông ta bíu lấy tay nàng. Chie cảm thấy tất cả nỗi cô đơn, hoảng loạn của người đàn ông. Nàng cúi xuống, lồng tay vào chăn, ôm lấy ông vỗ về, bất giác nàng cũng rơi nước mắt.
“Thiếp thương Điện hạ lắm”. Chie nói, những tiếng rất giản dị, nàng biết rõ Cường Để không giỏi tiếng Nhật, và nàng cũng không biết lời an ủi nào hơn. Nhưng linh cảm dạy cho nàng biết phải làm gì: Nàng ghé nằm bên ông và ấp ủ ông bằng thân thể ấm áp của mình.

*
Đêm ấy trời mưa, khi trời sáng Chie cuốn màn, mở hé cửa sổ, nàng nhìn thấy những cành anh đào sũng nước. Nàng đặt chậu nước nóng cạnh giường, nhúng chiếc khăn bông trắng muốt rồi vắt thật ráo. Người đàn ông của nàng đã tỉnh giấc. Nàng cúi xuống, mỉm cười dịu dàng, lau mặt cho ông.
Kỳ Ngoại Hầu nắm lấy tay nàng, vẻ mặt ông lộ vẻ biết ơn. Chốc lát, ông quên người đàn bà này là người của quân đội Nhật. Ba mươi năm lưu lạc trên đất nước này, ông đã nhiều lần được chở che. Ông Innukai và Kashiwabara đã bảo bọc ông, thuyền trưởng tàu Yayomaru đã hết lòng che chở ông thoát khỏi sự truy lùng của mật thám Pháp. Đó là chuyện hai mươi, ba mươi năm trước. Lúc đó ông còn trẻ, chí khí còn hăng hái; gần mười năm nay, từ khi Innukai bị ám sát rồi, ông quá chật vật với cuộc sống, cô đơn, mệt mỏi. Phải nhận sự bảo trợ của lục quân Nhật là bất đắc dĩ, ông không thể không dựa vào người Nhật, nhưng ông biết Nhật và Pháp có thể bắt tay với nhau bất kỳ lúc nào. Ando Chie có phải là tai mắt của quân Nhật không? Ai biết đâu được. Dù sao lúc này bên ông chỉ còn có nàng thôi, giờ phút này nàng đang dịu dàng lau mặt ông, cảm giác được chăm sóc làm ông bùi ngùi ứa lệ.
Chie chuyển dần chiếc khăn nóng xuống cổ và ngực ông, nàng nhẹ nhàng mở khuy áo để lau vai và lưng. Bỗng Cường Để buột miệng:
- Về Việt Nam! Ước gì ta được về Việt Nam!
Chie khựng lại một giây, rồi nàng hiểu, nàng nhẹ vỗ vào lưng ông như dỗ dành:
- Rồi ngài sẽ về, nhất định có ngày ngài sẽ về mà.
Ông hoàng lưu vong cảm thấy ấm lòng, ông siết chặt tay nàng như muốn cảm ơn. Trong lúc đó Chie lại thấy lòng âm thầm một nỗi buồn. Ông sẽ đi, sẽ xa nàng, chắc chắn sẽ có ngày ấy...
Cuối tháng, Đại tá Wanatabe gặp Ando Chie ở Bộ Tư lệnh lục quân. Như thường lệ, Chie nói với ông về tất cả những sinh hoạt của Cường Để. Wanatabe hỏi:
- Cô có thấy ông ta tiếp khách khứa từ xa tới không?
- Không ạ.
- Ông ta có nhận thư từ, tin tức gì từ Việt Nam?
- Không ạ.
Chie trả lời, chắc chắn đến nỗi Wanatabe không hỏi thêm gì nữa. Ông ta nhìn Chie từ đầu đến chân như muốn đánh giá lại quan hệ giữa nàng và người ngoại quốc lưu vong ấy. Chie đỏ mặt, nàng hiểu cái nhìn của Đại tá. Chắc chắn là ông ta rất khuyến khích việc nàng lên giường với người đàn ông kia, điều đó rất có lợi cho công việc. Chỉ có điều, ông ta không biết hôm qua nàng đã ủ ấm cho Cường Để, không phải với tư cách một nhân viên của lục quân Nhật, mà với tất cả tấm lòng của một người đàn bà.
Năm năm sau.
Chiến tranh khốc liệt trên khắp đất nước hoa anh đào. Những trận bom Mỹ dội xuống. Những ngôi nhà bằng gỗ và giấy cháy phừng phừng trong các góc phố Tokyo.
Đang mùa lá đỏ nhưng chẳng còn ai nghĩ đến lễ hội mùa thu... Chỉ còn những đoàn người tản cư dắt díu nhau chạy. Ando Chie gói quần áo vào hai chiếc tay nải. Vội vàng, nhưng nàng không quên những chiếc áo lụa năm thân, áo dài the, khăn xếp, và cả bộ bình trà tàu nhỏ xíu.
- Ông ơi!
Chie gọi. Hoàng thân giật mình, quay ra. Hôm nay ông mặc Âu phục chỉnh tề. Trong cảnh chộn rộn của Tokyo, vẻ chỉnh tề của ông trông thật lạc lõng.
“Mình đi thôi, ông ạ. Mọi người đều tản cư về quê, chiều nay là chuyến chót”.
Hoàng thân hốt hoảng:
- Nhưng ta còn phải chờ máy bay... Biết đâu ngày mai máy bay sẽ tới.
Chie nhìn ông, xót xa. Cuối tháng 7, Nội các Suzuki Kantaro đã tổ chức bữa tiệc linh đình đưa ông về nước. Sau 32 năm xa quê, cái tin được về nước làm ông bàng hoàng. Trong bữa tiệc linh đình tại khách sạn Đế Quốc, ông hân hoan từ giã hết các chính khách đã ủng hộ ông... Mãi đến lúc sắp ra sân bay Haneda, cầm gói thức ăn đi đường từ tay Chie, ông mới nhìn thấy vẻ buồn trong mắt nàng. “Đừng buồn Chie, ta về nước rồi sẽ tính chuyện đón nàng sang”.
Chie mỉm cười. Ở Việt Nam, ông còn có người vợ cả và hai con nay đã lớn. Người vợ mà ông đã xa cách từ năm 25 tuổi. Ông sắp về với người đàn bà ấy. Nàng cảm thấy buồn, nhưng nàng mừng cho ông.
Ngày hôm ấy ông đi, rồi đến tối mịt lại quay về. Ông kể, trên sân bay, nhân viên Bộ Tham mưu lục quân Nhật và ký giả báo chí tề tựu để tiễn chân ông... Nhưng máy bay từ Sài Gòn không đến đón. Ông quay về, ngã vật trên giường, mắt mở trừng trừng nhìn lên cao... Chie tháo giày cho ông, lau mặt cho ông. Nàng nhỏ nhẹ bảo ông: “Ông ạ, đừng buồn, chắc máy bay bị trở ngại gì đó thôi, mai lại đến ấy mà!”
Từ đó hôm nào nàng cũng quấn sushi cho ông đem theo... Hôm nào ông cũng ra phi trường Haneda, hôm nào ông cũng trở về. Hơn năm hôm sau, nhân viên lục quân lẫn ký giả không còn ai đến nữa, chỉ còn ông ngày ngày một mình ngồi đợi. Lủi thủi tới, rồi lủi thủi về.
Và hôm nay, ngày cuối tháng 7, bom B29 của Mỹ đã trút xuống Tokyo, ông vẫn còn nghĩ đến chuyện đến phi trường chờ đợi. Chie bảo ông:
- Mình phải đi thôi ông ạ! Phải chạy về quê, nếu không là chết.
- Đúng rồi, nàng cứ đi, ta ở lại, biết đâu...
Chie nắm lấy tay ông. Bàn tay ông gầy quá. Với mọi người, ông là một Hoàng thân, được các cơ quan tiếp đón, các ký giả săn tin, được các nghị sĩ bảo trợ... Còn với nàng, đây là một người đàn ông tha hương, lạc lõng, túng thiếu, cô độc... Lúc này, nàng nhất định phải cứng rắn với ông, như những lúc bắt ông phải đi tắm vậy; nàng khoác tay nải lên vai ông và đẩy ông đi. Cường Để gượng lại, phản đối, nhưng khi bị đẩy đến cửa, dòng người tay xách nách mang chạy loạn đập vào mắt ông, và ông hiểu ngay điều gì đang xảy ra.
Đêm đó trên chiếc xe bò lắc lư trong dòng xe qua vùng ngoại ô, ông nhìn thấy Tokyo bốc cháy, lửa rực đỏ dưới những lằn máy bay Mỹ vút ngang. Căn nhà mà lục quân Nhật cấp cho ông đã cháy rụi.
Tháng tám, bom nguyên tử dội xuống Nagasaki và Hiroshima, Nhật Bản đầu hàng. Không còn ai đủ sức nghĩ đến vị hoàng tử lưu vong. Chỉ có một người đàn bà thầm lặng mỗi ngày làm thuê cho một xưởng than ở vùng quê để nuôi một người chồng lớn tuổi. Ando Chie lúc này không còn là nhân viên của lục quân Nhật nữa. Buổi sáng, nàng thức dậy nấu nước nóng cho chồng rồi tất tả đi; nàng vẫn thế, dù làm ở xưởng than nhưng lúc nào về nhà cũng rất sạch sẽ, còn chồng nàng vẫn vậy, rất lười tắm và suốt ngày ngồi chép những trang sách chữ Hán đã cũ nhàu.
Nhiều người hỏi sao ông chồng nàng chẳng làm việc gì mưu sinh, Chie chỉ cười. Ông ấy là một ông hoàng, dù rất nghèo và chẳng hề có quyền uy. Ông chẳng làm được gì cho nàng cả, nhưng nàng yêu thương ông với tất cả sự trìu mến xót xa. Trong lúc ông thì đau đáu chỉ muốn về quê hương - nghĩa là rời xa nàng. Nhưng nếu ông không có giấc mơ hồi hương, liệu ông có còn là người đàn ông mà nàng thương yêu không?
*

Năm năm sau. Cơ hội về nước lại đến. Ando Chie lại chuẩn bị hành lý cho Cường Để lên đường.
Nước Nhật đã trở lại thanh bình. Trước ngày Cường Để về nước, bạn bè làm tiệc tiễn đưa. Ký giả báo Asahi cũng đến dự. Cụng ly mừng, nhà báo ngỏ ý muốn đưa tin chuyến trở về của vị hoàng thân sau gần 40 năm biệt xứ.
Chuyến đi lần này bằng đường biển, từ cảng Kobe đáp tàu Hải Minh đến Bangkok rồi theo đường bộ qua Kampuchea về Tây Ninh. Vì sao phải về nước qua cửa khẩu Tây Ninh ? Vì Việt Nam đang thời kỳ chiến tranh Việt Pháp, Pháp vẫn còn đóng quân ở Nam kỳ. Nhưng Tây Ninh nằm trong lãnh địa của Giáo chủ Phạm Công Tắc. Với sự bảo trợ của Phạm Công Tắc, ông có thể lên bờ an toàn.
Ký giả Asahi dặn dò:
- Khi ngài tới nơi rồi, xin điện ngay cho tôi biết.
Cường Để ngẫm nghĩ:
- Trong nước hiện đang chiến tranh, tin tức khó gửi. Có lẽ cứ tính theo hải trình, đến trung tuần tháng bảy thì bỉ nhân đã đến quê nhà, quý ông có thể đưa tin được rồi.
Ando Chie đưa ông đến bến cảng. Mùa thu, khí trời se lạnh. Tiếng quạ kêu vang sau những tàn cây lá đỏ. Ông đi rồi, Chie trở lại căn hộ hai phòng ở phố Ogikubo. Con đường bỗng dài hơn bao giờ hết. Ông hứa sẽ có ngày đón nàng sang Việt Nam. Lúc đó nàng chỉ bảo: “Bao lâu cũng được”. Đến bây giờ, một mình trên con đường về nhà, nàng mới thấm thía cả khoảng trống trơ vơ trước mặt, rằng có thể nàng sẽ mãi mãi một mình trên đoạn đường còn lại...
Nàng tiếp tục khâu những con búp bê vải - những con búp bê đã nuôi sống nàng và ông từ lúc về lại Tokyo.
Đến tối, chủ nhà, bà Hashimoto gõ cửa hỏi thăm nàng. Bà đem vào cho nàng một gói bánh dẻo.
“Trông em xanh quá. Tôi pha cho em một chén trà nóng nhé?”.
Chie uống chén trà từ tay bà chủ nhà tốt bụng. Trà nóng làm nàng hồi tỉnh. Nhìn hộp bánh dẻo xinh xắn, nàng nhớ đến chồng. Ông ấy vẫn thích loại bánh này. Nhưng dùng trong khi uống trà tàu - Ông vẫn không quen với trà Nhật.
Bây giờ ông ấy đi đến đâu rồi nhỉ? Bà Hashimoto vuốt tóc nàng, dẫn nàng sang phòng làm việc của chồng bà, Giáo sư Hashimoto Masukichi. Trên vách, giữa những tủ sách đồ sộ là tấm bản đồ châu Á. Bà chỉ cho Chie xem chỗ nào là Nhật Bản, Thái Lan, Việt Nam. Chie chăm chú nhìn. Chồng nàng đang ở trên vùng biển xanh xanh kia, ngoài khơi cái khối màu hồng rất lớn mà bà Hashimoto bảo là nước Trung Hoa.
“Em đừng buồn, rồi ông ấy sẽ đạt chí nguyện, sẽ trở lại đón em sang, em phải gắng giữ sức khỏe nhé!” Bà Hashimoto an ủi.
Chie mỉm cười, nàng cúi đầu thật thấp tỏ lòng cảm ơn bà chủ. Chiều hôm ấy nàng đến chùa Senso, bên chiếc đỉnh lớn nghi ngút khói nhang giữa sân chùa nàng vớt nhẹ khói hương ủ vào nơi lồng ngực. Lần trong tay áo, nàng lấy ra số tiền nhỏ, đủ cúng dường để xin một lời nguyện cầu.
Vị sư già hỏi nàng cầu nguyện gì để ghi vào tấm thẻ gỗ trắng ngà. Nàng cúi đầu ngẫm nghĩ. Nàng muốn cầu nguyện những gì, chồng nàng sẽ có quyền uy, sẽ thành lãnh tụ, sẽ giàu sang, sẽ đón nàng về cùng hưởng cuộc sống cao sang? Cầu cho chồng nàng sẽ không quên nàng? Sẽ... Thực lòng nàng muốn gì?
Chie ngập ngừng một lát rồi se sẽ đọc cho vị sư già chép vào thớ gỗ:
- Tôi là Ando Chie... Cầu cho chồng tôi là Cường Để vượt sóng gió về đến quê nhà bình yên, sum họp với gia đình.
Vị sư già ngẩng nhìn nàng. Ông đã viết giúp cho thiện nam tín nữ hàng ngàn lời nguyện. Ông nhìn Ando Chie một lát như muốn hỏi điều gì, nhưng rồi lại thôi, cúi xuống cắm cúi viết.
Khi trở về nhà, nàng thấy Giáo sư Hashimoto đang chờ trước cổng. “Ando, có tin mừng cho cô đây”. Ông đưa nàng tờ nhật báo Asahi. “Hoàng tử Việt Nam đã về đến quê nhà sau 32 năm ly hương”. Chie mừng rơi nước mắt. Chiều hôm đó nàng làm món mì Nhật và sushi cá hồi, mời ông bà Hashimoto để tỏ lòng biết ơn.
Ông bà về rồi, còn lại một mình Chie trong căn hộ vắng lặng. Một đoạn đời đã chấm dứt, đoạn đời mới bắt đầu, một chặng đường dài hun hút mà nàng sẽ phải đi một mình.
Nàng giở tờ báo Asahi, đọc lại bài viết, rồi lật dần ra những trang sau: những mục tìm nhà, tìm việc.
Cuối tháng 7, bỗng bà Hashimoto đập cửa căn hộ của Ando Chie, hốt hoảng:
- Ando, người ta vừa điện đến cho ông nhà tôi. Cô phải ra ngay cảng Yokohama!
Chie cuống quýt, hai chân run cầm cập, lưỡi líu lại. Nhưng người phụ nữ Nhật dường như được trời phú cho một nghị lực phi thường, nàng kiềm chế thật nhanh cơn hoảng hốt, cầm lấy chiếc ô, chạy ra cửa.
Bà Hashimoto tốt bụng đã kịp thuê giúp nàng một chiếc xe ngựa.
Trên cảng Yokohama về chiều, có một ông già ngồi trên chiếc ghế dài, ngẩn ngơ nhìn quanh với đôi mắt vô hồn, mặc kệ bao nhiêu người qua lại. Chie chạy lại gần. Sao mới có một tháng mà chồng nàng đổi thay đến thế, y phục nhàu nát, khuôn mặt gầy tọp rám nắng, mái tóc bạc xỉn đi và bê bết bụi.
- Ông ơi...
Chie cầm lấy tay chồng. Bàn tay ông gầy trơ xương, nhưng vẫn là bàn tay của ông, ông đang ở đây, bên nàng. “Ông ơi, sao ông lại về được?” Chie hỏi, nhưng người đàn ông ngẩn ngơ nhìn mông lung, vẻ mặt sững sờ tuyệt vọng, dường như không còn nhận ra gì chung quanh nữa. Ông chỉ không ngớt lẩm bẩm: “Không về được! Không về được nữa! Không về nữa!”.
Với Chie, về là về Nhật Bản, với ông, về là về Việt Nam.
Hơn một tháng Chie ra sức chăm sóc, Cường Để mới dần dần hồi tỉnh lại. Ông kể với nàng: Tàu Hải Minh bị trục trặc bánh lái nên đã ghé Thượng Hải một tuần. Trong khi đó, báo Asahi đã đưa tin, và mật vụ Pháp biết được rằng chuyến tàu phải cập cảng Bangkok, đã điện cho Bộ ngoại giao Thái. Vì quan hệ giao thương với Pháp, chính phủ Thái đã không cho Cường Để nhập cảnh Thái Lan, buộc lòng phải theo tàu quay về Nhật Bản.
Cường Để không bao giờ còn trở lại như trước kia nữa. Tuyệt vọng, suy sụp, ông đã hoàn toàn là một ông già trái tính trái nết, đau ốm triền miên. Đôi khi, căm hận số phận, ông ném bất cứ cái gì vớ được vào vách. Chie phải cất bộ đồ trà ông đem theo từ Việt Nam thật kỹ, mỗi sáng pha trà xong nàng đứng chờ ông uống xong, đem cất ấm chén rồi mới dám dời mắt.
Cuối mùa thu có hai người khách ở Việt Nam sang ghé thăm. Họ là hai chính khách đang có thế lực, hứa sẽ tìm cách đưa Cường Để về nước.
Khách về rồi, Chie dọn tách chén trên bàn, định bưng đi. Chợt ông níu tay nàng:
- Nàng ơi, nàng có tin ta còn về nước được không?
Chie đặt khay xuống, quay lại cầm cả hai bàn tay ông, vỗ về:
- Thiếp tin.
- Ta cũng tin vậy. Nghe nói chẳng bao lâu nữa người Pháp sẽ rút khỏi Đông Dương...
Chie lau những giọt mồ hôi đang ứa ra trên trán người đàn ông. Dạo này ông yếu quá, chỉ một cơn xúc động cũng đủ làm mồ hôi toát ra dầm dề.
Mấy hôm sau ông bồn chồn đến mất ngủ, lúc nào khỏe lại lật giở những thư từ, sách vở đã cất giữ từ bốn mươi năm trước, cả bức “Thư huyết lệ của người Việt Nam” mà ông viết khi mới ngoài ba mươi tuổi.
Ba mươi năm đã qua, sứ mệnh cứu nước không còn nằm trong tay thế hệ ông nữa rồi. Nhưng những bức thư cũ này sẽ mãi mãi là kỷ niệm rực rỡ nhất của đời ông.
- Nàng cất kỹ những giấy tờ này cho ta. Khi ta về nước, đồng bào nhất định sẽ hỏi đến.
Chie đặt chén thuốc xuống bàn rồi đỡ lấy những tờ giấy cũ vàng tên tay ông.
Bây giờ ông đã tin nàng thật sự, ông giao cho nàng những tờ giấy này, đối với ông nó còn quý hơn cả bạc vàng.
-“Uống thuốc đi mình”. Chie nhắc. Cường Để gật đầu, không đợi Chie nài ép dỗ dành như mọi lần, ông bưng chén thuốc đắng ngắt uống cạn.
Gương mặt đang rạng rỡ của ông bỗng nhăn nhúm lại, một cơn đau đang âm ỉ dưới sườn non chợt nhói lên.
Chie đỡ cái bát, tay kia vỗ nhẹ lên lưng chồng như muốn xoa dịu phần nào cái buốt nhói trong cơ thể ông. Tuần trước, bác sĩ bệnh viện Nihon Ika Daigaku đã nói cho nàng biết, Cường Để đã mắc bệnh ung thư gan, ông chỉ còn sống nhiều lắm là ba tháng nữa.
Chie giữ kín tin dữ không cho ai hay. Nàng biết đây là lúc nàng phải mạnh hơn bao giờ hết.
Cường Để cố uống thuốc cho mau khỏi bệnh. Ông xem đi xem lại bức thư của mấy người Việt vừa ghé thăm tháng tám năm ngoái, bức thư hứa sẽ tìm cách vận động cho ông hồi hương. Mỗi lần đọc thư ông thấy khỏe hẳn lên như vừa uống một thang thuốc bổ.
Nhưng đến đầu tháng tư, sau nhiều cơn đau hành hạ, Cường Để cũng nhận ra rằng mệnh của mình đã hết.
Ông cố mở đôi mắt mệt mỏi, gắng nhìn thật kỹ những gì chung quanh: Khung cửa sổ nhỏ, những chiếc áo Việt may bằng lụa Nhật treo trên vách, chiếc chậu đồng dưới chân giường, những vật dụng thường ngày của cuộc sống lưu vong tạm bợ, giờ phút này ông nhìn chúng với ánh mắt bịn rịn vô cùng.

Mắt ông dừng lại nơi khuôn mặt Chie đang nhìn xuống, vẻ thầm lặng và nhẫn nhục đầy yêu thương. Ông quờ quạng nắm lấy tay nàng: “Mình ơi, mình có phải là Phật Bà Quan Âm của tôi không?”
Đó là lần đầu tiên ông nói lời tri ân với nàng sau bao nhiêu năm chung sống. Nhưng nàng không hiểu gì cả, vì ông không biết là mình không dùng tiếng Nhật. Như một bản năng, mấy hôm nay ông chỉ nói toàn tiếng Việt.
Chie vẫn cúi nhìn, vẫn vẻ mặt âu yếm xót xa, nàng áp sát mình xuống thân thể còm cõi của ông, tay nắm lấy cả hai tay ông như muốn bảo: Đừng sợ, có thiếp đây, dù đi đến đâu ngài cũng không cô độc.
Cường Để dần thiếp đi.
Lúc ấy là năm giờ 5 phút sáng mồng 6 tháng 4 năm 1951. Một mình Ando Chie úp mặt khóc lặng lẽ trên thi thể ông.
Ngoài cửa sổ, hoa anh đào đang nở. Hôm ấy là ngày đầu của lễ hội hoa anh đào trên đất Nhật.
*
Cửa mở ra, hai người đàn ông theo Ando Chie bước vào căn hộ. Đập vào mắt họ là những tấm hình của Kỳ ngoại hầu Cường Để trên vách. Vị hoàng thân trẻ măng hai mươi lăm tuổi ngày mới đến Nhật. Hội chủ hội Đông Du Phục Quốc, sinh viên trường Đại học Waseda, hình chụp với Thủ tướng Innukai, hình chụp với ký giả Asahi trong bữa tiệc long trọng tại khách sạn Đế Quốc... Tất cả là những trang đời đẹp nhất của Cường Để. Còn hình ảnh buồn thảm những ngày chờ đợi trên sân bay Haneda, những ngày chạy loạn nghèo túng cơ cực, ngày về tang thương trên cảng Yokohama... Những hình ảnh ấy giờ đây chỉ còn trong ký ức Chie mà thôi.

Hai tay bưng bình tro, Ando Chie trao di cốt Cường Để cho hai con của ông. Nàng cúi mặt thầm nghĩ: Thế là ngài sắp về nhà, giấc mơ cả đời của ngài giờ đây mới thành tựu. Ngài lên đường bình an, lần này thiếp không phải gói sushi cho ngài mang đi nữa rồi.
Người con trai cả của Cường Để đỡ lấy bình tro di cốt của cha. Mặt ông đầy nước mắt. Ông ngạc nhiên thấy người đàn bà Nhật này vẫn bình thản, nét mặt trang nghiêm dịu dàng chỉ hơi phảng phất buồn. Nhưng người con trai thứ hai đứng cách đó vài bước thấy rất rõ đôi bàn tay của Chie sau khi trao xong bình tro. Đôi bàn tay ấy bấu chặt vào nhau, những móng tay quắp vào da thịt, rồi chúng run rẩy bấu víu lấy đôi tay áo kimono, và đến lượt thớ vải giằng co như sắp bị xé rách ra.

Khi hai người đàn ông đi rồi, Chie khép cửa, quỳ xuống sàn. Nàng lấy trong ống tay áo ra một mẩu xương và một nhúm tro nhỏ. Chie đã giữ lại cho mình một phần thân thể của chồng.

Nàng biết mình không làm trái với ý nguyện ông. Dù chẳng hiểu ông nói gì khi sắp mất nhưng nhìn vào mắt ông nàng biết, ông rất muốn ở lại với nàng. Hình như vào giờ phút ấy ông nhận ra mình sắp đi vào một cõi xa thăm thẳm, ở nơi ấy ông sẽ gọi cả trần gian này là quê nhà. Và ở quê nhà đó, một trong những gì giản dị và thân thương nhất chính là Chie...
Ando Chie mất bốn mươi năm sau, trước khi mất bà để lại di chúc muốn được chôn cùng với nắm tro tàn của Kỳ ngoại hầu Cường Để. Nhưng cho đến nay lọ hài cốt của bà vẫn còn trong phòng mộ tập thể của nghĩa trang Zoshigaya, nơi có những cây tùng xanh biếc và tiếng quạ kêu man mác buồn trong những buổi sáng mùa xuân

TRẦN THÙY MAI

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

ĐÀO KÉP CŨ

GÁNH “GIÓ BỤI” CỦA ÔNG BẦU XƯỞNG LÀ một gánh hát nhỏ và nghèo. Đến nỗi giấc mơ duy nhất của ông là được chuyện gánh về thủ đô hát một tháng, một tuần hay chỉ một đêm thôi mà cũng chưa bao giờ thực hiện nỗi. Cho đến bây giờ thì giấc mơ ấy thực sự đã chết trong lòng ông bầu già nặng lòng với nghệ thuật.

Những cô đào lẳng, đào thương cỏ chút nhan sắc ; những chàng kép độc có giọng ca mùi mẫn ; những anh hề có tài chọc cười duyên dáng, lần lượt bỏ bầu Xưởng ra đi tìm tiền tài và danh vọng ở phương trời khác. Rồi tới phiên anh soạn giả ruột, anh đạo diễn tâm huyết, anh họa sĩ hào hoa giã từ “Gió Bụi” để lại cho bầu Xưởng vài vở hát cũ mèm, vài tấm phông nham nhở mầu sắc thì gánh của bầu Xưởng bắt đầu hấp hối trên miệng hố đen ngòm của đe dọa đói rách, bệnh tật…

Bầu Xưởng gánh “Gió Bụi” bằng hai vai, bằng tự ái nghề nghiệp và bằng lòng kiêm hãnh của kiếp tài tử. Ông soạn lại các vở cũ, sơn phết lại phông, đạo diễn luôn tuồng kịch. Ông làm việc ngày đêm ôn đồm đủ thử, đủ mòn. Tóc ông bạc phơ râu ông dài tua tủa. Ông đâm ra thù đời, thù người. Ít lâu sau ông biến thành một bầu gánh khó tính độc tài không tin cậy ai cả trừ vợ ông và hai cô đào chánh, con gái yêu của ông.

Bầu Xưởng đưa “Gió Bụi” lang thang khắp nẻo đường gió bụi lục tỉnh. Khi những đấng thiên tử những anh hùng hiệp sĩ xuất hiện trên sân khấu thì đồng thời cũng hiện những thằng ăn mày những thằng phản bội ở hậu trường. Gánh hát của bầu Xưởng toàn gặp thất bại ê chề. Chiếc xe chuyên chở phong cảnh hành lý và công nhân của bầu Xưởng đã bán đứt cho chủ vựa cá. Người ta bèn dùng nó vào việc thiết thực hơn là việc nghệ thuật. Thành thử mỗi lần chuyển gánh, bầu Xưởng lại phải mướn xe đò. Do sự mướn thuê đau buốt tim gan đó nên cứ một phen ra đi là một phen gửi lại chút it đồ đạc làm kỷ niệm. Dần dề, đồ nghề thưa thởt. Thưa thớt luôn cả nghệ sĩ. Vì họ vội nghĩ tới một đời sống tầm thường, một đời sống không sóng gió nhưng no lành, yên ổn. Đào thì kết duyên với các thầy đại diện xã, các thầy hội viên cảnh sát hoặc các thầy trung sĩ trấn thủ quận lỵ, hoặc nữa, làm lẽ mấy ông chủ vựa cá, chủ xe đò… Kép thì lọt vào những đôi mắt xanh của các cô thợ may, các cô bán hàng ngoài chợ. Có anh tốt số vớ được cô nữ sinh con ông điền chủ ái mộ tài hoa. Thế lả nghệ sĩ có quyền vĩnh biệt ông bầu, quên sáu câu vọng cổ, bài xàng xê và những tháng ngày đói rách để lảm cuộc đời mới…

Sự kiện này tiến diễn không ngừng khiến bầu Xưởng ứa nước mắt. Ông kiên nhẫn chịu đựng. Cái hi vọng ngày mai tươi sáng là ngọn nến leo lét trong đầu óc ông. Bầu Xưởng không thể bỏ cuộc vì ít ra ông còn một số đàn em trung thảnh với ông, số đàn em nguyện cùng ông, cùng gánh “Gió Bụi” rút ruột nhả tơ đến ngày trở về cát bụi. Bầu Xưởng lo vá lại mũ mãng, y phục vả kết nạp thêm đảo kép trẻ. Mặc dù “Gió Bụi” nằm gánh nhiều nơi, mặc dù những lượng vàng dành dụm của vợ, của con gái tháo hết đổi cơm cháo, cà phê, thuốc lá cho nghệ sĩ, bầu Xưởng vẫn tin vào cơn gió thần, ngày nào đó, sẽ thổi tung “Gió Bụi” cho tiếng trống tuồng vang vang thuở oanh liệt lúc ban đầu.

Và đây là giấc mơ thư hai…

Một buổi chiều u ám, gánh “Gió Bụi” của bầu Xưởng lạc loài tới Hậu-nghĩa. Hậu-nghĩa là một tỉnh lỵ mới thành lập. Từ công sở đến chợ búa, từ chùa chiền đến rạp hát, tường chưa khô mùi vữa, mái còn đỏ tươi dưới ánh nắng chói chang. Dân tỉnh lỵ rất dễ tính. Người ta đón người đến như đón bà con thân thuộc. Người đến, nếu ở lại lâu sẽ được săn sóc chu đáo, sẽ được an ủi tinh thần, giúp đỡ vật chất.

Gánh “Gió Bụi” dĩ nhiên được hoan nghênh nhiệt liệt. Nó cũng giống những trái dừa giữa sa mạc nóng bỏng. Nó tới đúng lúc người ta khát khao. Bất kể sự rách rưới, nghèo đói, người ta chỉ cần biết nó là gánh cải lương đầu tiên đặt chân lên miền đất trẻ trung này.

Bầu Xưởng sung sướng muốn khóc. Ông la phấn khởi đôn đốc nghệ sĩ tập dượt lại những vở tuồng ruột. Hai ngày cái tỉnh lỵ nhỏ bé Hậu-nghĩa đã om sòm tiếng trống cổ động của gánh “Gió Bụi”. Tấm “băng-đờ-rôn” căng thẳng trước rạp. Hai chữ “Gió Bụi” đỏ chói đập vào mắt người qua đường. Những bức ảnh đào kép treo trên tường làm mồi câu khán giản. Sở dĩ gọi là “mồi” vỉ những bức ảnh này đều chụp hồi đào kép còn trẻ đẹp, béo tốt. Bầu Xưởng nắn nót cán bút sơn lên những tờ “áp-phích” dán khắp phố. Những tờ “áp-phích” hấp dẫn dân chúng tỉnh lỵ hơn những tờ “tuyên cáo” của chính phủ.

Khán giả bắt đầu thuộc tên kép Mộng-Tần, Tám Liều, Chín Long-xuyên, Năm Định-tường, hề Tiếu-Tử ; tên đào Ái-Hoa, Duyên-Hương, Ba Chợ-lớn, Bẩy Gò-đen… Bầu trưởng đã bóp óc nặn ra những dòng văn chương bay bướm như thế này : “Gió Bụi, một ban hát tổng hợp mọi danh tài của vạn nẻo sông hồ gió bụi với ngôi sao bắc đổi của vừng trời ca kịch xứ sở Ái-Hoa ; với giọng vàng thế kỷ Duyên-Hương ; với sắc đẹp tuyệt vời của Cléopâtre Việt-Nam Bẩy Gò-đen ; với giọng ca thiên phú trầm ấm Mộng-Tần ; với tiếng hát truyền cảm tuyệt vời Tám-Liều và chìa thoá mở kho cười vô tận Tiếu-Tử. Gió Bụi, tiếng chuông vàng của những tiếnng chuông vàng, nghệ thuật của những nghệ thuật. Đúng chín giờ đêm nay, tấm màn nhung Gió Bụi sẽ hé mở để quý ngài bước vào thế giới âm nhạc cải lương, quý ngài sẽ mê ly ngây ngất và thương cảm cho mối tinh đầu dang dở của đôi trai tài gái sắc tronq tuồng “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài”. Y phục Thượng-hải bạc triệu. Chú ý: Quý ngài nhớ mang mùi xoa theo để thấm nước mắt…”

Văn chương qnảng cáo tuồng của bầu Xưởng êm ái cơ hồ điệu vĩ cầm, đã lọt vào tai dân Hậu-nghĩa. Đêm ấy, người ta xô đẩy nhau mua vé ban “Gió Bụi” chơi tuồng “Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài”. Đào già Năm Phồn, bầu Xưởng ngỡ ngàng như sống trong chiêm bao. Đào ngồi ở “ghi sê” mà cứ đang tưởng ngồi ở đảo hạnh phúc. Đào xé vé lia lịa, đếm tiền rào rào. Vé bán hết thật nhanh. Nhiều khán giả chậm chân đành phải trở về. Đào Năm Phồn tươi tỉnh xin lỗi và hứa hẹn đêm mai sẽ in nhiều vé hơn. Năm Phồn cảm thấy mình trẻ ra vài chục tuổi. Khi đống tiền đã nằm gọn trong cái “xắc” lớn, đào già Năm Phồn mới nhớ tới kỷ niệm của những đêm mưa chong đèn đợi khán giả, những đêm đau khổ móc tiền đổi lại vé, những đêm ăn cháo trắng hột vịt muối nằm nghe tiếng thở dài, những đêm khóc tỉ tê nghĩ đến ngày mai đen tối.

Giữa giây phút thần tiền của vợ, bầu Xưởng hé tấm màn cũ kỹ nhìn xuống. Khán giả đông nghịt. Bầu Xưởng cảm động nghẹn lời. Nước mắt ông ứa ra, những giọt nước mắt của ông thấm vào tâm hồn đào kép. Chưa bao giờ họ được chơi tuồng trước số khán giả kỷ lục như thế. Hồn tài tử vụt thức. Trong khoản khắc họ quên tất cả mọi nỗi niềm cực nhục ê chề. Họ chỉ nghĩ họ là nghệ sĩ đúng với danh hiệu trời phong cho họ. Và họ đã sống thật cùng nhân vật tuồng. Họ không cần hỏi diễn tuồng xong họ sẽ ăn cơm hay nhịn đói như thường lệ. Cuộc đời của họ, vinh quang của họ cơ chừng có một đêm nay.

Ban “Gió Bụi” chinh phục khán giả tỉnh lỵ Hậu-nghĩa dễ dàng. Khán giả khoái sáu câu của Mộng-Tần, mê sắc đẹp của Cléopâtre Bẩy Gò-đen, cười nghiêng ngửa vời Tiếu-Tử đến nỗi dám tha thứ cho “y phục Thương-hải” của bầu Xưởng. Bầu bèn tìm kế hồi sinh gánh hát.

“Đất lành chim đậu” Gánh “Gió Bụi” của bầu Xường đóng đô thường trực tại rạp “Sông Hồ”. Nhờ sự ủng hộ nhiệt tình của khán giả. bầu Xưởng đã có đủ phương tiện để sắm sửa thêm phông cảnh, quần áo, mũ mãng, đàn sáo… Đời sống đào kép được bảo đảm nhưng bầu Xưởng thật sự là một ông bầu độc tài. Những tay soạn giả, đạo diễn xuất sắc tình nguyện đầu quân gánh “Gió Bụi” đều bị bầu Xưởng xua đuổi. Ông không cần đạo diễn soạn giả ông thừa tài để lèo lái gánh hát của ông. Vinh quang biến ông thành kẻ kiêu hãnh, phách lối. Bầu Xưởng cứ “bổn cũ soạn lại” diễn hết tuần này sang tuần khác. Khán giả vẫn đông nghịt. Không ai chê một lời nào. “Gió Bụi” vỏn vẹn có mười vở tuồng mà bầu Xưởng kéo dài chương trình trình diễn ngót ba tháng. Bây giờ, đôi tay của đào già Năm Phồn nặng trịch những vàng. Chiếc nhẫn đeo ngón giữa nổi bật những viên kim cương óng ánh. Bây giờ, đào già Năm Phồn đã quên những đêm ăn cháo trắng hột vịt muối cầm hơi và giọng của đào kênh kiệu như giọng của trăm ngàn bà bầu giầu sang khác. Bây giờ, tủ áo của đôi đào lẳng Ái-Hoa, Duyên-Hương, ái nữ của ông bà bầu đã đầy nhóc những chiếc áo dài đắt tiền. Nước hoa Chanel số 5, son Elizabeth Arden, phấn Hariet Hubbard Ayer thơm phức. Bây giờ bầu Xưởng không hút thuốc Mélia vàng nữa. Ông mua những cải tẩu Dunhill bạc ngàn, hút thuốc Prince Albert. Luôn luôn ông ngậm tẩu và ví mình với các đạo diễn gạo cội quốc tể. Bây giờ, ở hậu trường sân khấu mọc lên hai bộ bàn đèn đuốc phiện. Các kép nằm hút chửi ông bầu. Thuốc phiện có sức quyến rũ mãnh liệt. Chẳng bao lâu vợ chồng bầu Xưởng cũng rủ nhau “đi mây về gió”.

Gánh “Gió Bụi” bắt đầu lưới biếng. Bầu Xưởng quên hẳn giấc mơ chuyển gánh về thủ đô phô bày nghệ thuật. Khỉ đã thành công một cách dễ dàng, mấy ai cần cố gắng. Cái xã hội “Gió Bụi” được đà đi sâu vào dâm ô, thối nát. Thời gian buồn nản trôi. Đào già Năm Phồn nhìn kỹ mới thấy mình trẻ hơn chồng.. Thuốc phiện đối với đàn bà là thuốc hồi xuân. Bất giác đào Năm Phồn nhớ lại dĩ vãng hoa bướm để rồi cắm lên đầu bầu Xưởng những cái sừng dài nhọn hoắt. Bầu Xưởng chưa hay sự tình.

Kép Mộng-Tần một mặt “ái tình vụng” với đào già Năm Phồng một mặt “ái tình công khai” với đào lẳng Ái-Hoa. Hai mẹ con bầu Xưởng âm thầm ghen ghét nhau. Đến khi hai mẹ con cùng mang bầu thi bầu Xưởng mới tỉnh men… thuốc phiện. Ông khai trừ kép Mộng-Tần khỏi gánh. Kép Mộng-Tần đòi “bồi thường”. Hai bên dọa kiện nhau ầm ỹ. Chưa hết chuyện, kép Tám-Liều tố cáo bầu Xưởng hiếp dâm người yêu của kép là đào Ba Chợ-lớn. Đào Duyên-Hương bênh cha phát giác tội kép Tám-Liều đêm khuya mò mẫm vào mùng của đào. Ôi cha, cứ rối tung như hẹ. Hết người này kể tội người nọ đến người khác điểm chỉ người kia. Cái xã hội “Gió Bụi” thối um. Cuối cùng, sợ khán giả đả đảo thì bể nồi cơm, người ta điều đình. Mọi điều đều ôn thỏa. Gánh “Gió Bụi” vẫn nguyên số đào kép cũ. Họ chung sống với nhau nhưng sống trong thù hận vả chỉ rình rập cơ hội hại nhau.

Khán giả xem đi xem lại “Lương Sơn Bá, Chục Anh Đào” mãi phát ngấy. Cảm tình ban đầu vơi đi. Người ta mong có ban hát cải lương mới. Nhưng cái tỉnh lỵ còm cõi này, gánh hát danh tiếng nào thèm lai vãng. Họa chăng chỉ có loại “Gió Bụi”. Người ta nản lòng đến nỗi ước ao gánh mới, cần mới mẻ thôi, rồi có dở hơn “Gió Bụi” cũng chịu khó thưởng thức vậy. Đón được dư luận thèm tuồng mới của khán giả, các đào kép yêu cầu bầu Xưởng mướn soạn giả hoặc mua tuồng lạ. Bầu Xưởng không hứa hẹn gì cả.

Ông lấy quyền làm bầu át giọng các đào kép. Gánh “Gió Bụi” thách đố khán giả tỉnh lỵ Hậu-nghĩa bằng cách cứ diễn tuồng cũ rích. Khán giả không hoan hô song vé bán không ế. Ông bầu độc tài Xưởng đáng lẽ nể khán giả thì ông lại khinh thị ra mặt. Ông cho rằng có ban “Gió Bụi” của ông trình diễn ở đây là phúc lắm rồi. Khán giả không có quyền đòi hỏi tuồng mới tuồng cũ. Khán giả như những con cá đói, ném phân xuống cũng phải đớp.

Sự khinh khi ấy khiến bầu Xưởng càng ngày càng độc đoán. Ông bỏ ngoài tai những ý kiến xây dựng gánh của anh em nghệ sĩ. Đến khi khán giả tẩy chay tuồng vở cũ mèm của bầu Xưởng ra mặt, ông mới bối rối. Bối rối nên mất bình tĩnh. Ông đuổi công nhân, bớt lương đảo kép và hứa vội rằng sẽ đổi tuồng mới. Nhưng trong thời gian chờ đợi, khán giả hãy lạm xem tuồng cũ.

Khán giả bằng lòng. Đào già Năm Phồn ưỡn cái tác phẩm của Mộng-Tần, thu tiền chặt túi. Bầu Xưởng lại lo ăn hút. Năm Phồn lại cho chồng mọc sừng. Đào Ba Chợ-lớn lại lo cho bầu Xưởng hiếp dâm kiếm chác thêm tí tiền mua hột xoàn. Kép Tám-Liều lại lo chui vô mùng đào Duyên-Hương. Cái xã hội “Gió Bụi” lại tiếp tục bu quanh các bàn đèn thuốc phện, lại chửi nhau, lại cám ơn nhau, lại tử tế, lại đểu giả, lại rình rập hạ nhau. Khán giả bị đánh lừa nhiều lần tức hộc máu. Bọn đàn em trung thành của bầu Xưởng bị bạc đãi cũng ức hộc máu. Họ vận động một cuộc đánh gục uy tín bầu Xưởng. Họ ngầm bố trí đưa bầu Xưởng vào bẫy.

Bẫy đã giương sẳn sàng. Một đêm hát do Hội Phụ Nữ tổ chức, bầu Xưởng uốn ba tấc lưỡi hứa hẹn đổi mới, đổi rất mới. Đúng giờ, ba tiếng vồ oan khiên nện trên sân khấu, tấm màn nhung mở rộng. Diễn viên đình công phản đối bầu Xưởng. Họ bí mật rủ nhau đi xem hát bóng trước giờ trình diễn năm phút. Khán giả đợi mãi không thấy nghệ sĩ ra trò. Bầu Xưởng hết hồn, lắp bắp mấy câu xin lỗi.

Khán giả ghét bầu Xưởng, không cho xin lỗi. Họ chồm lên đấm đá ông tơi bời. Thân già chịu đòn sao nổi. Bầu Xưởng chết tươi trên sân khấu. Ông sinh ra ở sân khấu, sống bằng sân khấu rồi chết ở sân khấu. Đúng là “Gió Bụi” lại trở về gió bụi.

Khán giá “thịt” bầu Xưởng xong, nhào ra “ghi-sê” vồ tiền. Đào giả Năm Phồn tưởng bị tống tiền, kêu cứu inh ỏi. Đào sợ quá, ngất đi. Lúc tỉnh, đào trở vào hậu trường thì thấy đứa con gái mình nằm ngay đơ, tay chân bị trói chặt, mồm lại nhét đầy giẻ. Cởi trói cho con, đào dắt con đi kiếm chồng. Đào Năm Phồn hét lớn, nhẩy bổ lại ôm lấy chồng khóc nức nở. Hai cô đào lẳng Ái-Hoa và Duyên-Hương cũng ôm lấy cha, rên xiết.

Đây là màn bi kịch độc đáo nhất của cuộc đời, tiếc rằng khán giả đã về hết.

Cuộc đảo chính lật đổ bầu Xưởng của anh em nghệ sĩ gánh “Gió Bụi” thảnh công mỹ mãn. Gánh hát bắt buộc phải nghĩ ít lâu. Họ điều đình với đào già Năm Phồn để mua trả góp y phục, mũ mãng… Một tháng sau, gánh “Gió Bụi” đổi tên mới cho hợp thời. Lựa chọn mãi, cuối cùng họ quyết định là “Đường Đời Gió Bụi” do Mộng-Tần làm bầu có Mộng-Lương về tăng cường. Họ tung ra vở mới toanh “Bạo Chúa Tần Thủy Hoàng”.

Cô đào lẳng Ái-Hoa thay chân bà bầu của mẹ. Kép Mộng-Tần đã lấy cô hẳn hoi. Cái bào thai trong bụng đào già Năm Phồng, kép Mộng-Tần hứa sẽ bao bọc nó nếu nó sống. Cô đào Duyên-Hương khăn gói về thủ đô gia nhập gánh “Ra Đi”. Mọi sự đều thay đổi. Đào Bẩy Gò-đen nghiễm nhiên thành đào chính. Công nhân thì vẫn là công nhân, vẫn phải quét dọn và khuân vác đồ đạc. Và lương bỗng không tăng đồng nào. Khán giả nóng lòng coi hát. Nghiền ghê mất rồi. Đóng cửa một tháng còn chi nữa.

Rồi một buổi sáng trời trong mây lành, khán giả bỗng nghe thấy tiếng trống quen thuộc. Người ta đổ xô ra đường. “áp-phích” của gánh “Đường Đời Gió Bụi” dán đầy phố vơi những dòng văn chương như thế này :

“Sau khi đã cải tổ nội bộ, đoàn “Đường Đời Gió Bụi” do Mộng-Tân lãnh đạo hoàn toàn đổi mới. Đổi mới hết, từ phông cảnh, tuồng tích đến đào kép. Chúng tôi không dám nói dối đâu. Quý nqài tới coi sẽ rõ. Đêm ra mắt bà con, chúng tôi trịnh trọng khai trương vở “Bạo Chúa Tần Thủy Hoàng”. Tới coi quý ngài sè thấy tráng sĩ Kinh Kha… xuýt đâm chết bạo chúa. Vở mới ! Đào kép mới ! Đợt sóng mới ! Tài năng mới ! Khung cảnh mới ! Tinh thần phụ vụ cũng mới !”

Khán giả xô nhau tới rạp “Sóng Hồ”. Vé hết rất sớm. Người ta chờ từng giây phút. Khi tấm màn nhung quen thuộc mở rộng, người ta vội vàng sửng sốt. Vẫn phông cảnh cũ, vẫn đào kép cũ. Khác có tuồng mới. Người ta say sưa thưởng thức. Chỉ tiếc đào kép hơi cũ và tuồng mới hay không quá một đêm khai trương.

Duyên Anh

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Bến Cũ
(Tác giả: Hạo Nhiên – Nguyễn Tấn Ích)



Huy gặp Diệp lần đâu tiên trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập binh chủng Không quân. Anh được đơn vị bình chọn là phi công đạt nhiều thành tích nổi bật trong năm.
Là một phi công trẻ, bô trai, hào hoa nên Huy được giới nữ sinh xếp vào loại “người yêu lý tưởng”. Anh có chiều cao vô địch trong nhóm phi công, vì thế bạn bè thường gọi anh là “Huy Bamboo”. Huy còn là tay chơi đàn dương cầm nổi đình đám trong các buổi trình diễn văn nghệ do đơn vị Không quân tổ chức.
Phần trao hoa cho các chiến sĩ xuất sắc do toán nữ sinh trường Trung học Sao Mai phụ trách. Lúc choàng vòng hoa cho Huy, Diệp không thể nào với tới, bởi anh cứ trong tư thế đứng nghiêm, thẳng lưng, ngẩng cao đầu. Bản Lục Quân Hành Khúc do ban quân nhạc hòa tấu đã chấm dứt. Mỗi quân nhân xuất sắc đều có vòng hoa trên cổ, riêng cặp Huy Diệp vẫn còn đứng tại chỗ giương mắt nhìn nhau. Sĩ quan phụ trách đến bên Huy nhắc khéo : “Ðưa đầu cho cô bé tròng vòng… vào cổ đi”. Huy lấy mũ, cúi xuống đặt trán mình trên mái tóc của Diệp, cả hàng quân cười khúc khích, khiến nàng ngượng chín người.
Thực ra, Huy cố ý trêu cô nữ sinh có mái tóc dài đen tuyền che một phần khuôn mặt trái soan với má lúm đồng tiền trông rất “liêu trai”. Hai người quen nhau từ đó. Sau khi đậu bằng tú tài, Diệp ghi tên vào đại học Huế.
Qua năm thứ hai họ làm lễ cưới. Dự tính lấy xong bằng cử nhân văn chương, Diệp mới chiụ sinh con. Nhưng vận rủi ập xuống. Cuối tháng 3/75, Vùng 1 chiến thuật mất vào tay cộng sản Bắc Việt. Chuyến bay cuối cùng không may bị đạn cộng quân bắn trúng, trực thăng của Huy phải đáp khẩn cấp và anh bị quân Bắc Việt bắt làm tù binh. Dù bị kẹt lại trong lao tù cộng sản, nhưng lòng Huy vẫn cảm thấy thỏa mãn vì đã kịp thời gởi vợ anh, Trương Hoàng Diệp ra đảo Lý Sơn để di chuyển vào Sài Gòn.


Diệp được bạn của Huy tận tình đưa nàng ra hạm đội sớm sủa. Ðến Hoa kỳ, nàng được một gia đình người Mỹ da trắng ở tiểu bang Washington bảo trợ. Thời gian đầu, cuộc sống tuy có phần chật vật, nhưng đỡ hơn nhiều so với những gia đình còn ở trong khu tạm trú. Dù phải qua những năm dài vất vả vừa làm vừa học, Diệp đã tốt nghiệp và đựơc giới thiệu vào làm trong hãng Boeing.

***
Ngày ra tù, cha mẹ vợ báo cho Huy biết Diệp vừa lấy chồng. Như mũi dao đâm vào tim, tay chân anh rụng rời, chẳng còn lòng dạ nào ở lại dùng cơm tối với gia đình vợ. Huy ra về với cõi lòng tan nát. Không có lý do gì để trách Diệp, anh chỉ buồn cho số phận hẩm hiu của mình. Huy đã có dự định sẽ vượt biên để được đoàn tụ với vợ. Giờ thì niềm hy vọng ấy đã tiêu tan. Nhưng lòng khao khát tự do vẫn không ngừng thôi thúc anh ra đi.
Tháng Chín năm 1985, Huy cùng với bảy người bạn tâm đồng ý hợp nhất, tổ chức vượt biển trên chiếc xuồng một “lốc” mong manh giữa mùa mưa bão. Năm ngày lênh đênh trên biển, thuyền mang tám kẻ dũng cảm ấy tấp được vào bờ của một làng ven biển thuộc Mã-Lai. Họ được tàu của Mã-Lai đưa đến hải cảng Trengganu và chuyển qua đảo Pulau Bidong.
Tại đây, Huy chưa biết định cư tại quốc gia nào. Bất ngờ, được thư của Diệp gởi đến, Huy vô cùng ngạc nhiên, làm sao cô ấy biết được mình ở đây? Có thể Diệp cần chữ ký của mình trong đơn ly dị chăng? Huy hồi họp mở thư ra xem :

“Kính gởi anh Huy,
Qua thư thầy me, em biết được anh đang ở trại tị nạn Pulau Bidong, nhưng không biết anh có được vào Mỹ không. Nếu anh muốn định cư tại Hoa Kỳ em sẵn sàng đứng ra bảo trợ cho anh với tư cách của một cousin. Như anh biết đó, em không thể nào sống đơn chiếc mãi. Ðợi chờ anh chỉ là nỗi vô vọng. Càng nhớ anh, em càng thấy nỗi trống vắng xót xa. Cuộc sống lênh đênh của em trên xứ người, nhờ vào sự đỡ đầu của một người Mỹ và định mệnh đã đưa đẩy em vào một nẻo đường mới. Chồng em hiện nay là giám đốc trong phân xưởng Boeing, người đã nâng đỡ em ngay từ buổi đầu. Ông ấy ly dị vợ lúc năm mươi tuổi. Ban đầu chỉ là lòng kính trọng, sau thấy thương hại hoàn cảnh lẻ loi của ông, vì vậy em chấp nhận lời cầu hôn của ông ấy. Bà vợ cũ đã lấy chồng khác, giao lại đứa con gái cho ông chăm sóc. Hiện giờ nó đang học High school.
Giai đoạn đầu ở Mỹ khó khăn lắm anh ạ, thật lòng em muốn giúp anh vượt qua chặn đường đó. Cuộc sống của em hiện giờ tương đối ổn định. Em hy vọng anh bỏ qua tự ái của người đàn ông thường tình mà nghĩ đến tương lai sáng lạn của mình. Hãy quên đi những kỷ niệm đã qua. Giờ xin anh xem em như một người em họ. Với danh nghĩa nầy, em hi vọng sẽ giúp anh có nhiều cơ hội thành công…
Nhận được thư, anh nên trả lời gấp để em còn kịp làm thủ tục hồ sơ bảo trợ. Anh nhớ khai với Cao ủy tị nạn có người cousin là Diep Truong Thomas theo địa chỉ trong thơ. Em gởi anh cái check 500 USD để tiêu dùng.
Mừng cho anh đã thoát được cảnh lao tù khổ nhục và giờ đây đất nước tự do đang chờ đón anh.
Em Trương Hoàng Diệp

***
Thẫn thờ đặt bức thư trên bàn, nét chữ của Diệp như nhảy múa trước mắt Huy. Hình ảnh của nàng vẫn còn đầy ắp trong trái tim nồng cháy của Huy, thế mà trong thư Diệp viết lại thản nhiên, như không vướng bận chút tình cảm nào, thẳng thắn và thực tế đến độ tàn nhẫn.
Từ ngày đến đảo, Huy chẳng thiết tha gì được vào đất Mỹ mà sẵn sàng chấp nhận đi bất cứ quốc gia Tây phương nào. Tuy nhiên, khi đọc thư của Diệp, anh lại quyết định đến Hoa Kỳ. Huy muốn gặp Diệp một lần và muốn nhìn xem tận mắt cuộc hôn nhân mới của nàng hiện giờ ra sao. Dẫu biết lần chạm mặt trước thực tế bẽ bàng nầy có thể gây thêm thương tích cho trái tim mình. Lòng nhớ thương và tính tò mò đã thôi thúc Huy đồng ý đề nghị của Diệp đứng ra bảo trợ.
***
Ðúng ngày lễ Giáng sinh, Huy đến phi trường Seattle được Diệp cùng người chồng William Thomas và đứa con gái riêng của chồng, Christina đón tiếp. Cuộc hội ngộ với người “anh họ” khá niềm nở. Diệp ôm chàng trong phép xã giao của người Tây phương rất tự nhiên và chân tình như đứa em họ đích thực.
Kết hợp với lễ nửa đêm đón Chúa Hài Ðồng là buổi tiệc tiếp đón Huy đầy thân tình. Khách mời, người nào cũng mang quà Christmas đến chúc mừng Huy. Diệp không mời khách nhiều, chỉ giới hạn một số bạn bè thân thiết của chồng.


Trước cảnh gia đình hạnh phúc của Diệp, Huy nghe trái tim mình se thắt nhưng với lòng tự trọng, anh vẫn giữ thái độ bình thản. Mọi người hân hoan vào tiệc. Tiếng dương cầm ngân vang bản nhạc Ðêm Thánh Vô Cùng do cô bé Christina độc tấu, rồi tuần tự là những bản nhạc tình du dương, âm thanh êm đềm như quyện vào men rượu nồng làm tăng thêm nỗi ngất ngây cho thực khách.

Ðã ngà ngà say, tâm hồn nghệ sĩ bị kích thích, Huy đứng dậy đến bên chiếc piano xin phép cô bé được đàn một bản. Dù đôi bàn tay bị chai sần sau những năm lao động khổ sai trong tù, dù đã mười năm không tập luyện, mười ngón tay anh lướt trên phím ngà bản nhạc “Histoire d’un amour” như xuất thần trỗi lên âm điệu réo rắt làm say đắm lòng người.
Cô bé Christina trố mắt nhìn Huy đầy thán phục. Trái tim Diệp không biết có còn rung động trước âm thanh mang đầy những kỷ niệm xưa mà hai người đã từng bên nhau “anh đàn em hát” ? Bản nhạc vừa dứt, cơn say ập tới, Huy gục đầu trên bàn phím. Ông Thomas dìu Huy vào phòng ngủ đã chuẩn bị sẵn từ mấy ngày qua.
Buổi sáng thức dậy, Huy ngạc nhiên trước căn phòng được trang hoàng khá sáng sủa. Mấy bộ áo quần mới treo trong tủ và một số đồ dùng hàng ngày được sắp đặt rất tươm tất trên các kệ. Huy dạo quanh một vòng. Ðây là loại phòng dành cho người độc thân, có đủ tiện nghi từ phòng tắm đến bếp ga và cả lối đi riêng hoàn toàn biệt lập với căn nhà chính.
Hai ngày nghỉ lễ, William đưa Huy cùng với đứa con gái đi xem các thắng cảnh ở vùng Seattle được mệnh danh là thung lũng Hoa Hồng . Cô bé đi bên Huy líu lo giới thiệu tên của các thắng cảnh và về lịch sử của vài công trình xây dựng có tính tượng trưng cho thủ phủ của tiểu bang Washington. Diệp ở nhà mua sẵn thực phẩm để trong tủ lạnh cho Huy tự nấu ăn.
Vào ngày lễ đầu năm dương lịch, Huy cùng gia đình ông bà Thomas đến dự tiệc tại nhà bạn thân của vợ chồng họ. Anh được giới thiệu là cousin của Diệp từ đảo mới qua, mọi người bắt tay chúc mừng.

Sau hai tuần lễ nghỉ ngơi, Huy ngỏ ý với Diệp sẽ tìm thuê một nhà khác. Nàng ân cần khuyên nhủ :
– William rất quý mến anh. Ông ấy muốn giúp đỡ anh có hoàn cảnh thuận lợi để trở lại trường học. Nếu anh đặt nặng tương lai của mình và thắng được tự ái, chắc chắn anh sẽ có cơ hội tốt để tiến thân.
Diệp ngừng nói, nhìn Huy như dò ý rồi tiếp :
– Căn phòng đó là do ông ấy quyết định dành riêng cho anh ở hoàn toàn miễn phí. Khi nào cuộc sống ổn định, có việc làm hẳn hoi, chừng đấy anh muốn thế nào cũng được. Hôm qua Bill dự tính chờ khi anh lấy xong bằng lái sẽ tặng anh chiếc xe Ford đời cũ của ông để anh đi học và đi làm. Em thấy đó là phương tiện cần thiết đối với anh hiện giờ.
Qua những lời khuyên của Diệp, Huy cảm nhận được trong đáy lòng nàng, một tình cảm sâu kín nào đó bị ngăn chận vì hoàn cảnh. Diệp thật lòng không muốn Huy vấp ngã bởi những khó khăn mà nàng đã trải qua và những kinh nghiệm thất bại của những người đến trước. Ðó là lý do chính đáng thúc đẩy chàng ở lại. Và giờ đây, Huy biết mình phải làm gì. Ðối với anh, hiện tại là phương tiện, mà tương lai mới là cứu cánh. Cứu cánh đó sẽ là phần thưởng dành cho cả quãng đời còn lại của anh.
Dường như trong tiềm thức, Huy không muốn xa Diệp và cả Diệp cũng không muốn rời Huy, dẫu cuộc sống của hai người đã có lằn ranh phân định và tình cảm của cả hai có bức tường đạo nghĩa ngăn cách.

***
Huy đã tìm được công việc làm bán thời gian và ghi tên học tại trường college. Sáng đi, tối về, Huy và Diệp ít khi gặp nhau. Thỉnh thoảng, Diệp tổ chức những bữa ăn thân mật cuối tuần mời Huy cùng với gia đình dùng cơm tối. Sau những bữa cơm như thế, Huy thường được ông Thomas và Christina yêu cầu chơi đàn.
Có lần Huy giới thiệu bản nhạc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn đã được dịch lời qua nhiều thứ tiếng trên thế giới. Huy vừa đàn vừa hát, đến điệp khúc: “..Trời còn làm mưa sao em không lại. Nhỡ mai trong cơn đau vùi làm sao có nhau , hằn lên nỗi đau bước chân xin em về mau?
Diệp vội quay mặt nhìn qua khung cửa sổ. Huy vẫn tiếp tục hát :
“ Mưa vẫn hay mưa cho đời biển động, Làm sao em biết bia đá không đau, Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng, Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau !..”Diệp nhìn Huy với ánh mắt trách hờn, rồi bỏ vào phòng. Chỉ một lần ấy rồi thôi, Huy đã khước từ những bữa cơm sau nầy.
Cô con gái của William đã qua mấy khóa học piano, nhưng ngón đàn vẫn còn non kém, cô bé rất thích được nghe Huy đàn và nhờ anh chỉ vẽ thêm. Huy thì ngại ngùng mỗi lần vào phòng khách nên đã nhiều lần từ chối lời khẩn cầu của côbé .
Christina vừa mới ghi tên vào đại học năm thứ nhất, nhưng sức học của nàng lại kém hơn Huy một bực. Vừa giỏi toán lại vững vàng về lý thuyết và thực hành môn đàn Piano nên Christina luôn quanh quẩn bên Huy , dần dà anh trở thành thầy dạy kèm bất đắc dĩ.
Chiếc dương cầm ở phòng khách cũng được mang xuống phòng của Huy để Christina tập luyện hàng ngày. Vào những đêm cuối tuần, tiếng dương cầm thánh thót và giọng cười rộn rã của cô bé vang lên từ phòng của Huy đã làm dịu bớt nỗi quạnh vắng của tháng ngày qua.
Lắng nghe tiếng đàn ngày một điêu luyện của con gái, ông Thomas rất vừa lòng và thầm cảm ơn Huy đã giúp ông bớt phần lo lắng.
Trong cuộc thi biểu diễn dương cầm toàn trường, Christina đoạt giải nhất về kỹ thuật và phong cách trình diễn. Hôm ấy, cô bé đã đích thân trao cho Huy một bó hoa hồng và cảm ơn chàng như một người thầy đã có công rèn luyện nàng tạo được thành tích ngày hôm nay.

Ông Thomas xem chừng rất hãnh diện. Riêng Diệp, dường như nàng không được khỏe, nụ cười có vẻ gượng gạo, và gương mặt bớt phần tươi tắn.
Sau hai giờ làm bài tập và chỉ thêm toán cho cô bé, Huy ngồi vào chiếc đàn piano dạo bản L’amour c’est pour rien. Ðiệu nhạc tango làm xao xuyến tâm hồn, Christina bỏ viết đến phía sau lưng Huy rồi thản nhiên choàng tay ôm cổ chàng. Bản nhạc vừa chấm đứt, cô bé xoay người Huy về phía mình rồi đặt nụ hôn nồng cháy vào môi chàng. Màu mắt xanh ánh lên nỗi đam mê, cô bé nhìn anh với cơn kích thích. Huy bàng hoàng đứng lên, vội vã bắt tay chúc ngủ ngon và tiễn nàng ra khỏi cửa.
Hôm sau, Huy ngỏ ý với ông Thomas và Diệp sẽ dọn đi ở nhà khác với lý do cho tiện đường đến sở làm và gần trường hơn. Ngày lễ Thanksgiving, Christina bay qua Virginia thăm bà mẹ ruột đang sống với ông chồng sau. Nhân đó, Huy cũng dọn nhà sang chỗ ở mới. Ông William tỏ ý luyến tiếc. Phần Diệp, nàng chẳng nói gì, chỉ đưa mắt nhìn Huy ngờ vực khi chàng bắt tay ngỏ lời cảm ơn.
Huy cố tình giấu Christina chỗ ở mới của mình, chỉ ghi riêng số điện thọai và địa chỉ để lại cho vợ chồng Diệp.
Từ khi Huy ra đi, Christina thường hay buồn bực, gắt gỏng với mọi người. Mỗi một biến đổi tình cảm nhỏ nhặt của cô bé cũng không thể nào lọt qua mắt của Diệp. Việc dời nhà của Huy đã giúp cho Diệp tin vào suy đoán của nàng là đúng.
***
Ngày Giáng sinh đã về, đánh dấu ba năm tròn trên đất Mỹ, Huy đã vượt qua được một cách dễ dàng những khó khăn ban đầu. Giờ đây, anh đang học năm thứ ba kỹ sư điện tại trường Ðại học UW. Huy đã lấy được giải học bổng của hãng Boeing dành cho sinh viên xuất sắc trong hai năm cuối cùng Ðại học.

Sáng Chúa Nhật, tâm trí thảnh thơi, Huy đang ngồi nhâm nhi ly cà phê và đọc tờ báo địa phương, chợt có tiếng gõ cửa thúc bách, anh vội vàng mở hé cánh cửa nhìn ra, Christina đột ngột tông cửa vào, với ánh mắt rực lửa cô nàng hét lên:
“Tại sao anh trốn em ? Tại sao anh bỏ em ? Tại sao ? Tại sao” ?
Vừa nói nàng vừa đẩy Huy lùi về phía sau. Anh cố đứng trụ lại, cô nàng càng xông tới. Miệng Huy không ngớt van lơn : “Xin cô bình tĩnh, xin cô bớt nóng..”. Nhưng Christina chẳng ngừng tay, vẫn ra sức xô chàng. Ðến cuối phòng, Huy bị chiếc sofa cản chân nên cú đẩy sau cùng khiến anh ngã nằm lên ghế. Christina nhào tới nằm đè lên mình Huy và ôm lấy đầu anh hôn tới tấp trên mắt, trên môi rồi úp mặt mình vào vai Huy. Cô bé thì thào trong hơi thở đứt quãng, nghẹn ngào :
– Em yêu anh và anh biết em yêu anh đến mức nào, sao nhẫn tâm với em
Huy cảm thấy mềm lòng, đưa tay vuốt mái tóc vàng óng mượt của cô bé, khuyên giải :
– Cô còn quá trẻ và có cả một tương lai sáng lạn đang chờ phía trước, còn tôi chỉ là bóng đêm mịt mùng, ngày mai là những tháng năm dài lao đao. Cô chẳng được gì khi vướng víu vào tình yêu không cân xứng.
Christina vụt đứng lên, chạy đến khóa cánh cửa còn hé mở từ lúc nàng vào và nhanh tay cởi bỏ hết áo quần. Một thân thể nở nang đầy hấp lực, lồ lộ làn da mịn màng với bộ ngực căng đầy như tượng thần Vệ Nữ đứng trước mặt Huy thách thức.
Anh vừa trở thế nằm dự định đứng lên. Không để vuột mất cơ hội, Christina sấn tới và tự tay lột bỏ bộ pyjama của chàng đang mặc. Huy hoàn toàn bị khuất phục bởi những kích thích tột độ của nàng.
Từ hôm đó, sau giờ tan học, Christina thường ghé vào nhà trọ của Huy mãi đến khuya mới về nhà. Thấy con gái độ nầy đi về thất thường, ông Thomas dò hỏi, cô bé cho biết đến nhà Huy nhờ hướng dẫn toán. Tin ở con gái mình và người anh họ của vợ, ông cảm thấy an tâm.
Ra khỏi sở làm, Diệp lái xe thẳng đến nhà trọ của Huy. Nàng đứng tần ngần một chặp lâu rồi đưa tay gõ vào cánh cửa. Christina xuất hiện nơi khung cửa. Diệp lạnh lùng hỏi :
– Cô làm gì ở đây ?
– Thăm anh Huy.
– Ðâu cần cô thăm ?
Christina bốp chát
– Tại sao không !
– Tôi cấm cô.
– Ô hay, bà ghen đấy à ?
Diệp dang tay tát vào má Christina toé lửa. Cô bé trố mắt kinh ngạc rồi dùng cả hai tay tấn công trả đũa. Từ trong phòng Huy nghe tiếng cãi vã và tiếng đánh nhau, vội vàng chạy ra. Huy thấy Diệp ôm mặt khóc, còn Christina giận dữ đóng sầm cửa lại, ra khỏi nhà.
Huy hấp tấp đến bên Diệp hỏi :
– Nó đã làm gì em ?
Thay vì trả lời, nàng đấm vào ngực Huy thùm thụp, tức tối la lên :
– Anh vô tình ! Anh tàn nhẫn ! Anh độc ác !


Huy nắm lấy đôi tay Diệp giữ lại nhưng nàng cố vùng ra rồi ôm chầm lấy Huy, vùi mặt vào ngực chàng khóc tức tưởi.
Huy ôm chặt Diệp vào lòng, lặng lẽ nghe hơi ấm của người yêu ngấm vào trái tim giá lạnh suốt mười bốn năm của mình. Từng giọt lệ nóng âm thầm lăn trên má chàng. Nước mắt tình yêu của hai người đã được chắt lọc từ trái tim thử thách ở hai phương trời giờ đây kết tụ.

***
Gia đình ông bà Trương Hoàng Mẫn đến phi trường Ðà Nẵng đón vợ chồng cô con gái Trương Hoàng Diệp từ Mỹ về thăm quê hương sau mười tám năm xa cách.
Ánh nắng của tiết trời sắp vào Xuân nhuộm vàng cả phi cảng. Chiếc máy bay Hàng Không Việt Nam vừa hạ cánh trên phi đạo, mọi người hồi hộp đợi chờ.
Ông bà Mẫn hết đứng lại ngồi, mắt đăm đăm nhìn ra phi đạo khi chiếc máy bay vừa dừng bánh. Hành khách lần lượt xuất hiện trên cửa phi cơ.
Những khuôn mặt rạng rỡ của người Việt ly xứ sắp được đoàn tụ với gia đình nổi bật giữa đám người địa phương trầm mặc. Trong đoàn người hối hả rời sân bay tiến vào khu hành khách, tuyệt nhiên không thấy bóng dáng của một người Mỹ mà gia đình ông bà Mẫn đặc biệt chú mục.
Chợt Diệp đột ngột xuất hiện, một tay kéo chiếc vali nhỏ, tay kia với túi xách đựng tả lót và bình sữa. Nàng đang dớn dác tìm người nhà.
Bỗng người em gái của Diệp reo lên :
– “ Chị Diệp kia kìa !” Cùng lúc cả nhà nhận ra, gọi to lên :
– “Cô Diệp ! Chị Diệp ! Thầy Me đứng đây nè !”
Trước nỗi vui mừng đoàn tụ không ai để ý đến Huy đang bồng con đứng phía sau vợ. Bà Mẫn ôm con gái vào lòng để rơi những giọt nước mắt mừng mừng tủi tủi.
Ông Mẫn là người đầu tiên nhận ra sự có mặt của Huy, vội vàng đến siết chặt tay chàng :
– Con Diệp về thầy me chỉ mừng một, khi thấy con cùng về là niềm vui tăng lên gấp mười lần hơn cho gia đình ta.
Bà Mẫn bồng cháu ngọai từ tay Huy trao qua, vừa nựng cháu vừa trách yêu :
– Bố mẹ cháu hư lắm, cái việc trọng đại một đời mà giấu ông bà suốt mấy năm nay.
Diệp nhoẻn miệng cười với mẹ :
– Chúng con bàn tính với nhau là dành cho thầy me một dịp bất ngờ, như một món quà để tạ lỗi thầy me suốt bao năm đã phải trăn trở về việc con lấy chồng khác.
Diệp âu yếm nhìn Huy rồi quay sang mẹ nói tiếp :
– Ông William Thomas là ân nhân của con, vì vậy con đặt ơn nghĩa lên trên tình yêu dành cho ông ấy. Cách đây ba năm, đứa con gái của ông bỗng nhiên bỏ nhà ra đi, ông lên cơn nhồi máu cơ tim rồi qua đời.
Mẹ Diệp thì thầm : “Nguyện cầu Thiên Chúa dìu dắt linh hồn ông ấy sớm về cõi thiên đàng”. Ông Mẫn cùng làm dấu Thánh giá với vợ rồi nói với vợ chồng Diệp :
– Âu cũng là định mệnh !

Hạo Nhiên Nguyễn Tấn Ích

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

TÔI BAY QUA CUỘC ĐỜI NHƯ CHIẾC LÁ
TRẦN TRUNG ĐẠO
·7 THÁNG 9 2017
Nhà văn Lương Thư Trung, hiện đang cư ngụ tại Houston có lần thắc mắc tại sao tôi thường viết về những chiếc lá. Bởi vì, cuộc đời tôi như cuộc đời một chiếc lá.

Một ngày rảnh rỗi nhà văn Lương Thư Trung ngồi đọc tập thơ của tôi “Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười”, sau đó viết một bài Người tiều phu và những chiếc lá vàng với những câu rất đẹp:

“Đất trời rồi sẽ chuyển sang mùa theo sự vận hành của vũ trụ. Những chiếc lá vàng rồi sẽ rơi rụng, bay đi, bỏ lại bên trời những cành, những nhánh khẳng khiu, buồn thảm đến ngậm ngùi… Trong dòng đời, với biết bao lần ngụp lặn, chìm đắm trong bể khổ trầm luân, giông tố, bão bùng… Rồi bức tranh vân cẩu cũng phải tan đi, để trả lại trần gian này một chút nắng ấm mặt trời, để trả lại cho con người một cõi an nhiên, thanh tịnh. Cao đẹp biết bao khi có những con người hy sinh đời mình tự nguyện làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi khắp bốn phương tám hướng gom góp từ nhánh củi, cọng rơm, ngọn cỏ đến những chiếc lá vàng khô để đốt lửa soi đường, sưởi ấm nhân sinh! Hạnh phúc thay được làm một nhà thơ! Hạnh phúc thay được làm một người tiều phu với tấm lòng từ bi đi góp nhặt những chiếc lá vàng!”

Anh gởi bài viết đó tặng tôi. Chính tôi cũng lấy làm ngạc nhiên mình dùng chữ lá nhiều đến thế. Có lẽ vì lá gần gũi tôi trong một khoảng đời niên thiếu khá dài.

Con đi góp lá nghìn phương lại
Đốt lửa cho đời tan khói sương
Hay
Ðừng khóc mẹ ơi hãy ráng chờ
Ngậm ngùi con sẽ giấu trong thơ
Ðau thương con viết vào trong lá
Hơi ấm con tìm trong giấc mơ
Hay
Ai về qua phố Hội An
Mua dùm tôi tấm lụa vàng Duy Xuyên
Tôi đi quét lá trăm miền
Mẹ ngồi dệt sợi ưu phiền quanh năm
Hay
Mỗi buổi sáng tôi một mình ôm chổi
Quét lá vàng như quét nỗi cô đơn
Lá vẫn rụng khi mỗi mùa thu tới
Như đời tôi tiếp nối chuyện đau buồn
Hay
Một chiếc lá vừa rơi trên nấm mộ
Thu đã về rồi đó phải không em
Anh chợt thấy bàng hoàng trong tuổi dại
Một tình thương tha thiết sẽ không quên
Hay
Em đừng hỏi ta mong về quê cũ
Chiếc lá khô còn nhớ cội thương cành
Ta chẳng lẽ bước chân đời lê mãi
Nơi quê người làm một kẻ lưu dân
Hay
Cho tôi nhặt chiếc lá vàng trước ngõ
Viết bài thơ tha thiết hiến dâng đời
Chút chân tình trang trải với muôn nơi
Rất nhỏ bé nhưng vô cùng sâu rộng
Hay
Mỗi chiếc lá như chừng nghe hơi thở
Mỗi cành cây như có một linh hồn
Ta sẽ về sống lại môt lần thôi
Em sẽ khóc như chưa hề được khóc
Hay
Ai mang em trên đường đi vượt biển
Chẳng kịp về thăm góc phố năm xưa
Em bỏ đi như lá bỏ quên mùa
Như giọt nước quên tấm lòng biển cả.

Và nhiều nữa. Số phận của chiếc lá gắn liền với câu chuyện đời tôi.
Ngày xưa khi trọ học ở chùa Viên Giác, tôi nhỏ nhất trong chùa nên được giao công việc quét lá. Anh Hùng gánh nước, anh Sáu tưới rau, còn tôi không làm được những chuyện đó nên chỉ lo làm sạch sân chùa.

Không ai có phòng ngủ riêng. Năm đầu tôi ở chung phòng với chú Điển, bây giờ là Hòa Thượng Thích Như Điển. Mấy năm sau tôi dọn sang ở với các chú điệu cùng lứa tuổi trong căn phòng sát dưới gốc đa. Các chú điệu rất vô tư. Nằm xuống là ngủ ngay. Đúng giờ thức dậy đi tụng kinh khuya. Tụng kinh xong lại đi ngủ tiếp. Các chú hoạt động tự nhiên như những chiếc máy. Ít cười và ít nói. Tôi cũng cùng tuổi nhưng không như các chú, đêm nào khi tới phiên mình đánh chuông xong, tôi thường nằm bên hiên chùa nghe tiếng lá reo. Nhất là mùa thu, tiếng lá rung như một điệu nhạc.

Ở chùa Viên Giác ngày đó có thầy Giải Nguyên. Thầy đi tu khi tuổi đã về già sau khi đã nếm đủ hương vị đắng cay, thăng trầm, vinh nhục của cuộc đời. Thầy là một trong những người giàu có ở Duy Xuyên bỗng dưng phát nguyện xuất gia. Năm đó thầy đã ngoài sáu chục tuổi. Những người già thường ít ngủ. Thầy cũng thế. Khi thấy tôi nằm trên bệ xi-măng trước chùa, thầy cũng đến ngồi gần. Thầy kể tôi nghe nhiều chuyện vui buồn trong đời thầy. Nhưng dù chuyện gì cũng chỉ để dẫn đến một lời khuyên dành cho tôi, đời là bể khổ và chỉ có đi tu là con đường giải thoát.

Tôi không phản đối cách giải thích của thầy nhưng bạch với thầy tôi không muốn đi tu. Tôi chỉ là người trọ học và một ngày không xa tôi sẽ ra đi. Tương lai của tôi nằm phía bên kia cổng tam quan chứ không phải bên này. Dường như tôi sinh ra đời này chỉ để đi xa. Đi theo chọn lựa và nhiều khi không có quyền chọn lựa.

Nhìn lại chặng đường mình đã trải qua, tôi thường nghĩ đến những hạnh phúc nhiều hơn là gian khổ. Tôi nghĩ đến những người tôi đã mang ơn. Nhiều lắm. Từ những đứa bạn nhỏ chắt chiu những đồng tiền lẻ của cha mẹ cho để chia sẻ với tôi cho đến mẹ Hòa Hưng, người đã nuôi tôi chín năm thử thách nhất của đời mình.

Thời gian ở Viên Giác là thời gian cô đơn về tinh thần và khắc khổ về vật chất. Chùa rất nghèo. Không có ruộng đất như các chùa ở ngoại ô như Long Tuyền, Phước Lâm, Chúc Thánh. Nếu các bác có đi chợ cũng chỉ để mua sắm chút nấm, chút mì căn cho thầy, phần lớn chúng tôi ngày hai bữa sống nhờ vào thửa rau lang trồng trước sân chùa và những hủ chao do các bác bên Cẩm Nam mỗi tháng hai kỳ sang làm giúp.

Các thầy, các chú lớn tuổi đi đám ma chay còn được cúng dường tiền bạc để chi dùng riêng tư, không ai cúng dường cho đứa bé như tôi. Đời tư của tôi không ai biết. Thầy chỉ hỏi một câu khi tôi đến và sau đó không hỏi nữa. Họa hoằn lắm mới có một người bà con từ trên quê xuống đi chùa, tình cờ nhận ra, vuốt tóc tôi vài cái, nói đôi lời an ủi rồi ra đi.

Cô tôi, chị của ba tôi, là người quan tâm đến tôi nhiều nhất sau khi ba mẹ tôi qua đời nhưng chưa bao giờ có dịp để vào thăm tôi. Tôi chỉ là khách trọ trong chùa, đến không ai hay và đi không ai tiễn. Ngoài trừ những chiếc lá rung như một điệu nhạc buồn trong một ngày đầu thu, gần năm năm sau, tôi “một mình làm cả cuộc phân ly” để từ giã chùa Viên Giác.

Dù sao, những cực khổ của thuở thiếu thời đã trở thành phân bón cho những bông hoa tình người trong khu vườn mùa xuân của đời tôi nở rộ, để hôm nay khi nghĩ đến Viên Giác tôi cảm thấy thật êm đềm. Tiếng chuông chùa, lời kinh khuya đã nhẹ nhàng đi vào tuổi thơ tôi, đã chuyển hóa tâm hồn chất đầy oan nghiệt của tôi mà nhiều khi tôi không biết.

Những người có cuộc đời nhiều chịu đựng thường phải biết vượt qua, đôi khi bằng cố gắng và đôi khi chỉ bằng cách ngẩng đầu lên mà đi, khinh thường những chướng ngại. Tôi có cả hai. Bây giờ khi nóng tính, khi quá hăng say về một chuyện gì dù đúng hay sai tôi cũng biết dừng lại và biết lắng nghe, không khinh thường sự việc như ngày còn trẻ. Không có những ngày ở Viên Giác, khu vườn đời tôi sẽ buồn bã, khô khan, điêu tàn và trống vắng biết bao nhiêu. Thật vậy, chỉ có tình thương mới thật sự là mùa xuân vĩnh cửu của con người.
Trần Trung Đạo
(trích trong Dưới Bóng Đa Chùa Viên Giác)

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

Tháng 9, nhớ thi sĩ Hoàng Anh Tuấn
Nguyễn Mạnh Trinh

Hoàng Anh Tuấn là một nhà thơ nổi tiếng từ thập niên 60. Nói đến nhà thơ này, là phác họa lại một chân dung văn nghệ sĩ của văn học Việt Nam rất độc đáo và nhiều cá tính. Trong thi ca của ông, ngôn ngữ thơ đã làm sống lại những thời kỳ của kỷ niệm không phải riêng của ông mà còn của rất nhiều người trong chúng ta. Những nơi chốn, của không gian những thời gian nào xa xưa được nhắc đến như một phần cuộc đời của thi sĩ và trở thành những hằn dấu trong tâm thức chẳng thể nào phai. Nói đến Hoàng Anh Tuấn, là phải đề cập đến con người đa năng đa diện và tràn đầy nghệ sĩ tính. Và, thơ của ông cùng với cuộc đời ông cũng trôi nổi theo từng thời kỳ của đất nước và cũng cùng chung những tâm tư của một thời đại rất đặc biệt Việt Nam.

Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1932 tại phố Nhà Chung, Hà Nội trong một gia đình trí thức giàu có. Cha ông là một dược sĩ và hay thay đổi chỗ ở nên thuở nhỏ ông sống ở Hà Nội, rồi Vinh và trong thời chiến tranh thì về tỵ nạn ở quê nhà là Hưng Yên rồi trở lai Hà Nội. Ðến năm 16 tuổi ông du học ở Pháp tại thành phố Nice và sau theo lời rủ rê của bạn bè như Nguyên Sa, Trịnh Viết Thành,… lên Paris học. Ðến năm 1954 ông kết hôn với một nữ sinh viên đang du học Dược Khoa là bà Ngô Thị Liên. Trở về Sài Gòn năm 1958 ông làm đạo diễn, làm báo rồi làm quản đốc Ðài Phát Thanh Ðà Lạt. Sau năm 1975 đi tù, rồi đươc chính phủ Pháp can thiệp cho đi định cư. Sau cùng qua Mỹ, làm báo và tự về hưu khi sống ở San Jose. Ông mất vào ngày đầu tháng 9 năm 2006 khi đang nằm dưỡng bệnh tại một viện dưỡng lão.

Chân dung nghệ sĩ Hoàng Anh Tuấn là một chân dung đa diện. Có nhiều vóc dáng Hoàng Anh Tuấn. Nhà đạo diễn phim ảnh. Kịch tác gia. Ký giả. Công chức Quản Ðốc Ðài Phát Thanh Ðà Lạt. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là vóc dáng của một thi sĩ. Và một người thi sĩ đặc biệt, đã sáng tác hàng mấy trăm bài thơ nhưng vào lúc cuối đời lại mới in tập thơ đầu tiên do ái nữ là nhà văn Hoàng Thu Thuyền góp nhặt sưu tầm các bài thơ đăng rải rác trên báo chí. Hình như ông coi công việc làm thơ như một trò chơi, viết xong là quên đi ngay không để ý tới nữa.

Hoàng Anh Tuấn tốt nghiệp trường điện ảnh khá nổi tiếng của Pháp ở Paris IDHEC nơi mà các đạo diễn nổi tiếng của Việt nam như Lê Mộng Hoàng, Lê Hoàng Hoa đã cùng học. Khi về Sài Gòn ông làm việc cho hãng phim Alpha của đạo diễn Thái Thúc Nha và sau này đã làm đạo diễn cho hai phim Xa Lộ Không Ðèn và Ngàn Năm Mây Bay. Phim Ngàn Năm Mây Bay có cốt truyện từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Văn Quang.

Chân dung khác cũng khá lạ: Hoàng Anh Tuấn kịch tác gia. Ông là tác giả của nhiều kịch bản khá nổi tiếng và được trình diễn nhiều lần. Trong số đó có vở “ Hà nội 48”, hay “ Ly nước lọc “. Ông có lối dựng vở khá độc đáo ảnh hưởng của lối viết thoại kịch Tây phương.

Hoàng Anh Tuấn còn là một ký giả. Vì nghề đạo diễn không đủ sống nên ông quay qua viết báo. Ông được các ký giả đàn anh như Huỳnh Thành Vị, Phi Vân kềm cặp và truyền nghề để trở thành một ký giả có thể làm được bất cứ một công việc lớn nhỏ nào ở tòa soạn nhật báo. Trước năm 1975 ông đã làm việc tại các nhật báo Ðồng Nai, Tiền Tuyến, và tạp chí Hiện Ðại.

Hoàng Anh Tuấn quản đốc đài phát thanh lại là một sắc diện khác.

Theo lời nhiều người cùng thời, thì ông là một công chức ăn bận lè phè nhất dù là quản đốc đài phát thanh Ðà Lạt. Ông đi làm mà đi guốc, mặc áo bỏ ngoài quần, bộ dạng rất luộm thuộm. Nhưng ông làm việc có nhiều sáng kiến, có lần khi truyện chưởng Kim Dung được nhiều người mến mộ đã cho làm những chương trình đọc truyện truyền thanh, một sáng kiến mà các cấp chỉ huy không thích.

Sống ở hải ngoại, khi ở thủ đô Washington DC hoặc thành phố San José, ông cũng sinh sống bằng nghề làm báo…

Ông làm thơ từ thời rất trẻ khi du học bên Pháp. Ông làm rất nhiều thơ khi học ở Paris và là người đã in tập thơ Về Provins cùng với các tập thơ của những bạn cùng thời như Nguyên Sa với tập thơ Hy Vọng và Ðỗ Long Vân với tập Người Em Sống Trong Cô Ðộc. Những tập thơ in roneo vào năm 1952 và về sau này những bài trong tập Hy Vọng của Nguyên Sa được in lại trong Thơ Nguyên Sa. Còn hai tập thơ của Hoàng Anh Tuấn và Ðỗ Long Vân thì lại không được phổ biến ở quê hương dù hai tác giả kể trên về sau đã thành những tên tuổi thi sĩ lớn hay ký giả nổi danh của hai mươi năm văn học Miền Nam.

Về Provins là một tập thơ của thi sĩ viết cho một người em gái “ tóc vàng sợi nhỏ” tên là Irène với khung cảnh của xứ người, của tâm tình những người tuổi trẻ yêu nhau. Những câu thơ tự do tự nó đã có chất phóng khoáng của sự phá bỏ mọi câu thúc, kể cả sự phân biệt màu da và khác biệt văn hóa. Thơ như phác họa cho một lên đường sắp tới…

Phong cách sống thoải mái phóng túng như vậy nên thơ tình ông tuyệt vời. Hoàng Anh Tuấn có những bài thơ thật độc đáo, nhất là thơ tình yêu. Mà lạ lùng, những bài thơ ấy ông làm rồi quên ngay đi. Với ông tất cả chỉ là một trò chơi, không có gì quan trọng, kể cả đời sống của chính mình. Có một bài thơ, kể một chuyện tình, của ai ai mà sao nghe như giông giống chuyện của mình..

Thơ kể có một cậu bé học trò yêu một tình yêu khó ngỏ. Mỗi buổi chiều tan học, đạp xe theo một tà áo trắng, lòng muốn nói bằng ngôn ngữ trái tim mà chẳng thể mở lời. Suốt một năm học, chỉ là người chỉ dám theo sau với cái ngại ngùng nhút nhát của tuổi vừa chớm biết mơ mộng. Rồi thời gian qua, cậu bé ấy thành người lớn, vào lính và trôi nổi theo dòng đời của một xứ sở chiến tranh. Cho đến một hôm, gặp lại người xưa đã là thần tượng một thời niên thiếu. Người ấy, gặp lại trong một quán rượu, trong cái phong cách của một người đàn bà đã trải qua nhiều bầm dập của cuộc sống. Người đẹp ngày xưa, của áo trắng nữ sinh thuần khiết ngày nào, bây giờ, chỉ là tiếng cười man dại, chỉ là mầu môi đỏ rực của những câu cháy đỏ dục tình…

Ðó, là câu chuyện của bài thơ Gìn Giữ của Hoàng Anh Tuấn, nhưng, trong một trùng hợp nào đó, lại là chuyện tình của cá nhân tôi. Bài thơ ấy, không hiểu tại sao lại như in trong tâm thức tôi hàng mấy chục năm. Tôi đã nhớ, đã thuộc hầu như trọn cả bài, chỉ có mấy câu cuối là để sót.

Ðáng lẽ đó phải là một bài thơ đắc ý của ông mới phải. Thế mà tác giả bỏ quên đi thì lạ thật? Bài thơ ấy, tôi đọc lại cho nhà văn Thu Thuyền, con gái nhà thơ Hoàng Anh Tuấn và cô đã hỏi lại ông, thì ông trả lời: Thơ có vẻ hơi giống giống, quen quen nhưng thú thực là đã quên rồi vì làm rất nhiều bài thơ nhưng như cơn gió, thoảng qua đi rồi thôi. Nếu ai có thích thì nhớ. Ðó là chuyện của độc giả…

Tôi khoái cái phong thái đó, và lại càng thích hơn bài thơ xưa. Cái tâm tư ấy, dường như là của tôi. Hoàng Anh Tuấn đã viết giùm, đã nói giùm, đã hoài niệm giùm. Có thể, bài thơ ấy với người khác, họ không thích, không cho là hay. Nhưng với tôi, phải vỗ đùi vỗ vế mà bắt chước Kim Thánh Thán ngày xưa mà kêu ầm lên “Chẳng khoái hơn sao?”.

Bài thơ ấy với tôi, khi ấy, là tuyệt tác, tôi đọc lần đầu tiên vào một buổi tối ở phòng trực trong phi trường Biên Hòa khi cường độ chiến tranh khốc liệt và những trái đạn pháo kích cứ chực chờ mỗi ngày, mỗi đêm… Bài thơ dù chỉ là một chuyện tình nhưng hình như cũng nhuốm nhiều hơi hám của chiến tranh

Bài thơ khá dài. Nhưng có thể đọc làm hai phần. Phần đầu của cậu học trò ngây thơ si tình, yêu mà nhút nhát:

“Anh thầm nhủ đợi cuối tuần sẽ nói

cuối tuần này anh hẹn cuối tuần sau

nhưng gặp em anh ngần ngại lắc đầu

để khi khác hôm nay còn sớm quá

yêu mãi mãi can chi mà vội vã

em còn đây tóc lả nhánh ngang vai

em còn đây mười sáu tuổi thơ ngây

đường đi học hôm nào không gặp gỡ

nhưng nín lặng anh về nhà khổ sở

gọi tên em mà nhớ vẫn y nguyên

anh bảo rằng sẽ phải làm quen

dù khó nói hơn một lần xưng tội.

Ðường đi học chung con đường mấy buổi

Bữa đi thi là lần cuối gặp nhau

Anh là người chỉ dám theo sau

Theo kín đáo để em đừng ngó lại

Tuổi học trò tình yêu khờ dại

đem thiên đường hoa lá kết trăng sao…”

Còn phần thứ hai, là một chuyện tình buồn và thê thảm và đau xót:

“Mười năm rồi anh vẫn ước ao

được tiến ngang vai nhìn nghiêng mái tóc

và bảo rằng mãi mãi yêu em

khói thuốc dần tan trơ trẽn ánh đèn

em trước mặt mưa ngoià kia xối xả

em nằm nghiêng đẹp vô cùng lơi lả

tóc chán chường ôm xõa nửa cơn điên

em vội vàng cất tiếng cười lên

cho đau đớn ở lưng chừng kiêu hãnh

tay mơn trớn nhả một loài rắn lạnh

khắp mình anh nghe rợn mảnh chai đâm

anh xiết vai em nức nở âm thầm

gọi bóng tối để tìm ngây thơ cũ.

Trời còn mưa khi anh bỏ ra về

đi rất khẽ để em đừng tỉnh giấc…”

…Ðọc những câu thơ trên tôi nhớ nhiều đến những kỷ niệm thời mới lớn của mình. Có nhiều người thích những câu thơ viết về thuở mới lớn, của tình yêu đầu đời của Hoàng Anh Tuấn. Với tôi, bài thơ ấy nhắc lại một thời, của những khi mà mơ mộng như cánh diều bay vút lên tận trời xanh. Buổi chiều, đạp xe đi theo tà áo trắng, khi gió từ con kinh thổi lên, khi dốc cầu cao vút, như những tầm mắt như muốn lạc vào chốn nào xa mờ. Ðể đến buổi tối, thức khuya, tập tành làm thơ, để thấy mình lắng nghe trong sâu thẳm những ấp ủ một thời, những lãng mạn một đời. Cậu học trò nghèo mơ ước nhiều thứ, mà có khi chỉ là những mơ ước lãng đãng không cụ thể…

Người ta nói thơ của ông trẻ trung ngàn tuổi bởi phong cách ấy, tâm tình ấy. Dù bây giờ ông đã khuất núi khởi hành vào cõi miên viễn vô biên…

Tôi không phải đồng trang lứa với ông và trong đời chỉ gặp mặt nói chuyện một vài lần, mà sao nghe tin ông mất, lòng cũng không khỏi man mác. Nhưng, vẫn thấy dường như thi sĩ còn để lại điều gì. Giở tập thơ, đọc lại vài bài thơ quen, những bài thơ của những không gian, thời gian thật trẻ dù có khi mà cả thi sĩ và độc giả đã già…Có người gọi ông là Lão Ngoan Ðồng cũng có cái lý của nó.

Thơ Hoàng Anh Tuấn trẻ, rất trẻ. Nếu không ngại ngoa ngôn, thơ ông không tuổi tác. Lúc nào, thơ cũng là những niềm riêng trải ra, từ cảnh đến người. Thơ, có hơi thở của cuộc sống, bởi, nó có sự sống thật rốt ráo, thật tha thiết. Những ý tưởng, những cảm nhận, là thật của ông, và cái riêng ấy qua ngôn ngữ đã thành cái chung của nhiều người.

Có người hỏi tình yêu của Hoàng Anh Tuấn khi tuổi trẻ hoặc lúc về già có gì khác biệt, Theo tôi thì cũng thế thôi. Một nòi tình. Tuổi trẻ khi đã yêu, ai mà không nhút nhát, không mơ mộng. Ai mà chẳng có lúc “mộng ngoài cửa lớp”? Ai mà chẳng có lúc nhớ về Em của:

“Em xõa tóc bước lên ngôi thần tượng.

Ðôi bàn chân còn lấp lánh sương đêm

Môi ướp mật ong, tóc đẫm hương rừng

Tà áo mỏng dệt bằng tơ dị thảo…”

… Thơ tuyệt vời như thế chắc được nhiều nhạc sĩ ngắm nghía để phổ nhạc? Ðúng như vậy, Thơ Hoàng Anh Tuấn được rất nhiều nhạc sĩ chọn. Và có rất nhiều nhạc khúc bắt nguồn từ thơ ông. Như Hoài Khúc của nhạc sĩ Anh Việt. Như Soi Trong Lòng Mắt -Duyên Anh. Như Ngàn Năm Mây Bay – Nguyễn Hiền. Như Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội -Phạm Ðình Chương. Như Viết Trên Tà Áo Em – Văn Phụng. Như Hát Tháng Tư Xanh– Phạm Duy. Như Gọi Người Yêu Dấu– Vũ Ðức Nghiêm. Như Thầm Kín Song Ngọc. Như Em, Hà Nội – Phan Nguyên Anh. Như Giọng Hát Năm Xưa– Nguyễn Ðức Nam. Như Mùa Hạ Huyền– Khổng Vĩnh Thành…

Trong lời tiễn đưa khi hạ huyệt thi sĩ Hoàng Anh Tuấn, nhà văn Giao Chỉ phát biểu:
‘trong số các bài thơ của Hoàng Anh Tuấn có hai bài phổ nhạc rất danh tiếng. Bài Mưa Sài Gòn Mưa Hà Nội đã làm khổ thi sĩ khi kẹt lại bị hành lên hành xuống trong tù Cộng sản. Tuy nhiên Bài Thơ Hà Nội chan chứa tình yêu với tên các con đường 36 phố phường thì cả cán bộ Bắc Kỳ đọc cũng phải ngẩn ngơ:

Em Hà Nội, Hàng Ðường trong giọng nói

Ðể Hàng Bông êm ái lót cơn mơ

Thương những chiều Bác Cổ ngày xưa

Anh nắn nót một trường thi lãng mạn

Thơ thuở bé khắc ghi tình Ngõ Trạm

Hàng Cỏ ơi sao thảo cỏ mờ phai

Theo gót chân em từng bước Hàng Hài

yêu Hàng Lược chải mềm hương mái tóc…

Tình Hà Nội đến như thế thì thôi!!!”

Thơ tình Hà Nội không phải chỉ có thế. Tôi đọc “ Bài Thơ Còn Lại”, để thấy như còn chút vấn vương, còn một nỗi niềm nào mơ hồ chưa ngỏ. Lời và ý thật tự nhiên, xuôi chảy theo dòng ngôn ngữ không một chút dụng công nhưng lại gây rung động. Trong cách diễn tả, có sự thiết tha của những lời dặn dò..

Không phải thi sĩ chỉ muốn dặn dò với người yêu, mà, còn muốn dặn dò với cả chính mình, hay cả vời vợi tâm tư của một tâm thức nào đã in sâu trong trí nhớ. Lời dặn tha thiết:

“Có đi ngang xin em đừng đánh phấn

tóc buông rèm lứa tuổi thích ô mai

mắt vương tơ của những phút học bài

tay kheo khéo khi đánh chuyền với bạn…”

Thốt nhiên, tôi lại nhớ đến câu thơ Nguyễn Bính, của cái xót xa khi thấy người yêu thay đổi “hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều”. Còn Hoàng Anh Tuấn thì nài nỉ. Hãy hồn nhiên, hãy ngây thơ, như thuở nào mới lớn. Ðừng trang điểm, bởi son phấn sẽ làm thô nhám đi lớp da mượt mà, sẽ làm bớt đi cái hồn nhiên của những bình minh vừa rạng…

Tâm tư ấy, với tuổi học trò, ai mà quên được. Có lời ngỏ từ câu thơ phất phơ tà lụa. Hay là nỗi niềm thổn thức buổi chia xa. Thơ được hình tượng riêng từ hoa lá cỏ cây đến trời mây sông biển. Dòng thơ xuôi nguồn, những câu tám chữ phăng phăng rạch về biển lớn. Câu, chữ, là lóng lánh sương trong của một ngày tinh mơ, là ánh hoàng hôn của một chiều quá vãng. Thơ, mềm mại và nõn nhẹ như tơ:

“Bước rất nhẹ như mùa Thu con gái

như bàn tay khẽ hái tiếng đàn tranh

như chưa lần nào em nói: yêu anh

như mãi mãi anh còn nguyên thương nhớ

bước nhè nhẹ như bóp mềm hơi thở

như ngập ngừng chưa nỡ xé chiêm bao

em có về ăn cưới những vì sao

để chân bước trên giòng sông loáng bạc

ở một chỗ tưởng chừng như đi lạc…”

Những câu thơ mở ra một tấm lòng rất rộng, đầy trăng sao mơ mộng Nhưng tuyệt cú là những câu cuối của bài thơ. Những câu thơ mà nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Ðình Toàn tâm đắc… Những câu cuối là những câu thơ của nỗi niềm hoài niệm, của những dặn dò cho thân ái ngày xa xưa:

“…Em nguyên vẹn là bài thơ bé nhỏ

anh còn nguyên là một kẻ yêu em

Em đi ngang xin ráng bước cho êm

Ðừng đánh thức thời gian đang ngủ kỹ

Ðừng đẹp quá để anh đừng rối chỉ

Lấy gì đây khâu vá lại tình xưa?

Có đi ngang xin chọn lúc bất ngờ

đừng nói trước để anh buồn vơ vẩn…”

Thơ tám chữ của Hoàng Anh Tuấn như bài này quá hay. Nhưng có nhiều người lại cho rằng thơ của ông tuyệt vời ở thể lục bát Hoàng Anh Tuấn vì ý thơ cô đọng và ngôn ngữ tinh chất. Nhưng, riêng với tôi, lại thích thơ tám chữ của ông hơn. Nghiệm lại, thường đa số bài của ông là tám chữ. Và, với thể loại này, dường như không gian thơ rộng hơn và thời gian thơ cũng dài hơn. Ở đó, trí tưởng tượng như vó chân tuấn mã xoải bước theo muôn dặm hành trình. Nhịp thơ dồn dập nối nhau, như nhịp thở trái tim, để, ý và lời kéo nhau vào vô biên vô tận. Ðể đến một lúc, từ những làn sóng liên miên kéo tới, để người đọc thấy như bị hụt hơi trong cảm giác và thấy bị trôi dạt vào một cảnh tượng riêng khi ngũ quan bị rơi vào khoảng chơi vơi vô định của liên tưởng. Ông không kể chuyện nhưng từ một vài câu, một vài chữ như kể đến, hay nói về, chút tâm sự riêng mà người đọc thơ tự cảm thấy mình có một chút nào chia sẻ trong đó. Trong ý nghĩ chủ quan tôi, chính vì những hình ảnh, những từ ngữ bất chợt ấy mà ấn tượng thơ như hằn vết sâu thêm, rõ thêm trong bộ nhớ của óc não độc giả. Thơ vì thế lại có dáng vẻ lôi cuốn thêm…

Thơ Hoàng Anh Tuấn làm hồi sinh lại những nơi chốn mà ông đã sống qua. Liệu nhận định ấy có gì quá đáng không? Nhưng theo tôi thì câu nói đó nêu lên được một đặc tính của con người ông và thi ca ông. Thơ huyền ảo hơn Paris của một thời tưởng tượng. Thơ dựng lại một phương trời Hà Nội. Thơ làm rạng rỡ hơn cái nắng Sài Gòn. Thơ làm lãng mạn hơn sương mù Ðà lạt. Và ở xứ người thơ chuyên chở tâm tình của Thung Lũng Hoa Vàng, của thành phố San Jose nơi thi sĩ sống cuối đời và từ trần ở đó… Những nơi chốn của đất thánh thi ca…

Trong thơ ông, muôn đời miên viễn trong tâm tưởng vẫn là Hà Nội. Chẳng phải riêng trong vô thức, là hình bóng người tình muôn thuở. Mà cũng chẳng phải là tình cảm đầu đời với một nơi chốn từ đó đã sinh ra và lớn lên. Thơ ông với Hà Nội, là nỗi bí nhiệm của tổng hợp những nỗi niềm của người từ nơi chia xa nhớ về. Nó không đơn thuần là tình yêu đầu đời và cũng không đơn thuần là hoài niệm về tuổi thơ. Mà, là tất cả, từ ấn tượng không phai nhạt. Từ tâm tư của trái tim cảm lụy. Của những “ngôn ngữ trời cho” của một bất thần vụt đến của thơ.

Những bài thơ Hà Nội, có nỗi thiết tha, có ngữ ngôn bình dị và tự nhiên không một chút làm dáng nào. Thơ như thể một cánh buồm phăng phăng vẫy vùng trong cái cao rộng của đất trời, của những phương trời tuy mịt mù khói sóng nhưng gần cận thân quen. Thơ phá vỡ đi cái biên giới hữu hạn của không gian, thời gian. Hà Nội dệt bằng những bài thơ, mềm như nắng và nhẹ như mây trời.

Ðọc thơ để thấy người! Ðọc vài câu thơ, để mường tượng một vóc dáng riêng, một người luôn coi đời là một cuộc chơi không dứt:

“Này tôi đang lạc vào em

sau lưng trăm ngón ưu phiền níu chân

này tôi du đãng tâm hồn

ngụy trang ngàn mảnh thơ buồn tả tơi

này tôi này vũng bùn tôi

nắng ngang mưa chéo rã rời ẩm nâu

cuốn theo rác rưởi nhu cầu

này tôi chới với trong mầu rất xanh

chợt nghe hà ốc hiền lành

với rong rêu lại hóa sinh một lần

này tôi trút bỏ áo quần

thân hài nhi với tâm hồn trẻ thơ

này tôi thành hạt phù sa

để yêu em với mặn mà giọt châu.”

Ðọc thơ, để thấy người, để tìm lại cái vóc dáng của một người lãng mạn “ôm đàn đến giữa đời” tài hoa…

Nguyễn Mạnh Trinh

User avatar
bichphuong
Posts: 569
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

Thằng Bé Cu Li

Lý Lan

Dạo hoa phượng còn đỏ rực trên cành , thằng bé bắt đầu bằng một nghề nhàn hạ một cách chân chính : bán trà đá . Mẹ nó sắm cho nó đủ bộ đồ nghề : Một thùng càrem bằng mốp cũ kỹ , sang lại của ông già Năm . Một cái ấm nhôm hơi cũ , nhưng được mẹ nó kỳ cọ bằng tro , chà đánh bằng xơ mướp nên sáng loáng lên , coi cũng vệ sinh lắm . Và hai cái ly thủy tinh .

Mỗi sáng , trước khi quảy gánh ve chai ra đi , mẹ nó nấu một nồi nước sôi , pha trà , đổ vô ấm nhôm . Nó mua ở tủ lạnh nhà bác Ba một chục đá cục bỏ vô thùng càrem , chèn bao nylon thật kỹ trước khi đập nắp thật kín . Nó quàng dây qua vai gầy , đeo thùng càrem ngang hông , thân hình bé nhỏ hơn vẹo đi một tí . Một tay xách ấm nước , một tay cầm hai cái ly , nó đi bộ hai cây số từ nhà đến bến xe Ký Thủ Ôn .

Bán trà đá tưởng như một nghề chơi chơi : mình chỉ việc xách ấm và ly đi đến một người khách và mời : " Trà đá , chú " , hay : " Trà đá Dì ! " .
Khách có thể hỏi : " Bao nhiêu một ly ? " .
Trả lời : " Một trăm đồng " . Khách gật đầu : " Cho một ly " .

Mình chỉ việc bỏ cục đá vào ly , rót đầy nước trà vào . Ðá tan làm ly nước rịn mồ hôi . Nước trà màu nâu hổ phách trong veo , thoảng mùi thơm lá dứa . Khách cầm ly uống ừng ực , nước trà chảy qua cổ họng đang khác khô , tới bao tử , làm mát cả ruột gan . Khách đà khát , mặt mày tươi tỉnh lại , vui vẻ móc túi trả tiền . Thế là được một trăm đồng . Khỏe re . Vì vậy già trẻ bé lớn gì cũng có thể bán trà đá .

Nhưng bến bến xe Ký Thủ Ôn là một bến xe nhỏ , chỉ có mấy chiếc xe đò cà tàng , mỗi ngày vài chuyến , chạy đến những xứ sở buồn hiu như Cần Giuộc , Chợ Trạm , Cần Ðước , Gò Công . Người về xứ đó không nhiều , bến xe lưa thưa hành khách . Mỗi lượt tài mới có năm bảy khách mà đã tới cả chục người bán hàng rong vây quanh , ồn ào chào mời nhặng xị " Bánh tráng phồng đây " , " Cốm ngò đây " , " Kẹo dừa " , " Trà đá đây " , " Trà đá hông ? " " Trá đá chú " , " Trà đá ... " .

Thằng bé cũng lăn xả vô . Nhưng hoặc là nó không cạnh tranh lại đám trà đá " chuyên nghiệp " hơn , hoặc nếu hôm nào kiếm được mối thì sẽ bị tụi kia kiếm chuyện quần một trận cho " biết điều " hơn .

Cuối cùng thằng bé lủi thủi xách ấm nước và đeo thùng đá cục đi lang thang xuống phố . Xe cội đông đúc làm sao , người ta quan trọng làm sao , ngồi quán có nhạc đệm , dù che , uống nước cam tươi hay La hán quả . Nó đi mỏi rục giò mà chỉ bán được một ly trà đá cho chú xích lô , một ly cho chị bún riêu , một ly nửa cho ông già vé số . Hôm nào may lắm cũng có thể bán được chục ly . Có hôm mưa gió eo xèo , chẳng ai thèm uống trà đá . Mấy cục đá buổi sớm bự hơn nắm tay , đến chiều teo lại bằng ngón chân cái , đến tối thì tan biến luôn . Lỗ vốn !

Một hôm nó đang đi lững thững thì có người kêu trà đá ! Ôi , trúng mánh ! Hàng chục người đang làm việc ở một bãi đất ngổn ngang gạch đá vôi vữa xà bần tôn thép ... Hẳn là họ làm việc nặng nhọc lắm , người nào người nấy mồ hôi mồ kê đầm đìa như tắm . Một người kêu trà đá , lập tức mấy người kia kêu theo . Chưa từng có bao giờ trà đá đắt như vậy . Thằng bé lăng xăng lít xít , tay chân lanh lẹ đập đá , rót trà, bưng ly , chạy lui chạy tới như một tay trà đá chuyên nghiệp . Mất người thấy thằng bé có vẻ tháo vát , tỏ ra thân mật và trêu chọc nó . Nó không thật sự hiểu hết những lời đùa cợt , nhưng vẫn toe toét cười , miệng rộng tới mang tai .

Vèo một cái , ấm trà hết veo . túi nó rủng rỉnh ngàn bạc . Mặt mày nó phớn phở , người nó thơ thới , lòng nó rộn ràng . Môi nó chỉ chực nở thành nụ cười và tai nó cũng vểnh lên để đón nghe mọi điều người ta nói . Một hồi nó tự thấy đã quen với mấy người lúc nãy là khách hàng của nó . Nó bạo dạn hỏi chuyện :

- Mấy anh làm gì ở chỗ này vậy ?
Họ cười :
- Làm cu li chứ làm gì hả nhỏ ?
- Là làm cái gì ?
- Là đào đất , xúc xà bần , khiêng gạch , vác xi măng , là làm đủ thứ chuyện mà người ta sai biểu . Cu li là làm cực khổ như trâu bò mà mỗi ngày công được có năm sáu ngàn bạc .
Thằng bé tròn mắt kêu lên :
- Năm sáu ngàn lận ?

Thật là một con số vĩ đại . Từ ngày đeo thùng đá và xách ấm trà đi bán dạo , nó đã biết đồng bạc khó kiếm như thế nào . Cả ngày trời lang thang dầm mưa , dãi nắng , có khi nó chỉ kiếm được vài trăm . Hôm nào trúng mánh như hôm nay cũng chỉ hơn ngàn bạc .

Nó lẩm nhẩm cộng tất cả tiền dành dụm từ hồi đi bán trà đá tới giờ vẫn chưa bằng được cái con số năm , sáu ngàn đó . Mà đó chỉ là tiền công một ngày làm mà thôi . Nó ngước nhìn những công nhân xây dựng một cách ngưỡng mộ và thật thà nói lên ước vọng của nó :

- Phải chi em được làm cu li .
Mọi người phá ra cười :
- Không chuyên gì mới làm cu li . Cực chết mẹ chứ chơi à ?
Họ chỉ một người ăn mặc lịch sự , đang coi bản vẽ nói :
- Có ước mơ thì mơ thành kỹ sư như ông đó , vừa khỏe vừa có tiền . Nhưng mà phải học giỏi thiệt giỏi mới hòng ! Mày có đi học không ?

- Có , em học hết lớp năm rồi . Tựu trường này em lên lớp sáu . Mẹ nói lên cấp hai , muốn đi học tốn nhiều tiền lắm . Ðồng phục , sách vở , tiền bẩo trợ , tiều sửa chữa trường , đủ thứ hết . Mẹ sợ không đủ tiền đóng nên biểu em nghỉ hè đừng đi chơi , đi bán trà đá để dành tiền mai mốt phụ với mẹ đóng tiền học .

Mọi người nhìn thằng bé đen đủi còm nhom . Có thể nhận thấy qua ánh mắt vẻ mặt họ một niềm thương cảm . Nhưng chẳng ai nói gì cả . Mấy người lớn tuổi chắc cũng có con cái lớn cỡ nó , chắc họ cũng đang lo nghĩ về tiền học , tiền sách vở , áo quần và vân vân ...

Với lại cũng hết giờ giải lao rồi . Họ lại làm việc quần quật , không hở tay , hở miệng , hở mắt ra mà ngó tới nó nửa .

Nhưng thằng bé vẫn đứng đó nhìn người ta làm việc . Nó thấy đẩy xe cút kít chở xà bần đi đổ không khó gì . Tưới nước cho ướt gạch , rồi tiếp gạch cho thợ xây thì nó nhắm nó cũng làm được . Ngay cả chuyện trộn hồ , nó đứng coi một hồi thì kết luận nó cũng ... làm được , nếu nó cao vã to hơn chút nữa .

Tất nhiên là công việc đòi hỏi nhiều sức lực . Nhưng mà thằng bé cho rằng nó cũng dẻo dai lắm . Quả là cực nhọn thật . Nhưng đi bộ suốt ngày với thùng đá đeo bên hông và ấm nước gần bốn lít trong tay cũng không phải là việc nhẹ nhàng gì . Nó đâu có sợ cực . Vả lại , nó thấy người ta làm việc rất vui . Không khí lao động tất bật làm nó đứng coi mà cũng thấy hăng hái và táy máy tay chân .

Ấm trà đã hết rồi . Như mọi khi nó có thể đi lượm trái dầu quăng lên không trung để ngó chúng rơi xuống , xoay tít thật vui mắt . Nhưng bây giờ thằng bé không màng gì đến trò chơi đó . Nó lảng vảng ở công trường xây cất coi người ta làm , rồi động tay động chân phụ một người đang đẩy xe cút kít , gặp phải mô đất cao , xe không lên nổi . Thấy không ai kêu rằng mình vướng tay vướng chân họ , thằng bé bạo dạn hơn . Khi chú thợ xây kêu : " Gạch " , nó lập tức ba chân bốn cẳng phóng lại đống gạch , ôm một mớ chạy lại tiếp ngay . Rồi cứ chạy đi chạy lại tiếp gạch tiếp hồ suốt buổi đó .

Hôm sau , mới hưng hửng sáng thằng bé đã có mặt ở công trường , với thùng đá và ấm trà . Nhưng hôm đó ai cũng bận tối mặt . Cứ nghe cai với đội trưởng hò hét công nhân mà hãi hùng . Nào là xi măng phải dọn kho cất vô , nào là gạch đá về sân bãi đâu mà đổ . Bọn vật tư chết tiệt , khi cần thì không có , khi chưa cần thì đỗ tới ào ào , không nhận thì mai mốt không có dùng , nhận bây giờ thì nhét vô đâu .
Mấy thằng kia ra dọn hết đống xà bần này coi !
Thằng này nửa , vô kho xếp xi măng lại coi rộng được chỗ nào không !
Còn thằng nào ra trộn hồ nè ! Còn thằng nào nửa ...
Hết THẰNG rồi . Ai cũng bù đầu tối mặt , mà công việc thì cứ việc này đẻ ra việc kia .

Ông đội trưởng gào thét để chỉ huy một hồi khản cả tiếng . Bỗng ông thấy thằng bé . Hôm qua ông cũng thấy nó lăng xăng ôm gạch tiếp thợ hồ , ông chỉ mặt nó quát :
- Thằng này phụ hồ đươ(.c không ?
- Dạ , được
Nó gật đầu lia lia . Ông đội trưởng phất tay , bố trí nó " công tác " chung với một ông thợ già . Thằng bé xông vô làm như chiến sĩ xông pha trận mạc .

Khi nó đeo thùng đá và xách ấm về , ông đôi trưởng xoa đầu nó nói :
- Còn bao nhiêu trà đá coi như ta uống hết . Chiều thứ bảy trả công luôn .

Bữa nay mới thứ năm . Thằng bé về nhà , thân thể ê ẩm suốt đêm , lòng thì hoang mang không biết mình có thể được lĩnh bao nhiêu tiền công , và liệu ông đội trưởng có quịt mình không ? chú thợ già mà nó phụ hồ lúc trưa có nói nó nhỏ quá , làm toàn việc vặt , chắc được nửa tiền công thôi . Ba ngàn đối với nó cũng lớn lắm rồi . Nhưng nó siêng năng chịu khó như vậy , có thể được bốn ngàn . Ôi bốn ngàn ! Nó quên được phần nào sự mệt mỏi thân xác và ngủ thiếp đi .

Hôm sau nữa mới chỉ là ngày thứ sáu . Thằng bé tới công trường khi ở đó co người bảo vệ và thủ kho . Nó lảng vảng quanh quẩn rồi đánh bạo hỏi anh bảo vệ :
- Bữa nay em có có được làm nửa hôn ?
- Mầy ấy hả Công trường không bóc lột sức lao động trẻ em . Hôm qua kẹt quá , chứ bữa nay thì miễn .
Thằng bé khẩn khoản nói là nó thích làm cu li lắm và biết đâu bữa nay công trường cũng kẹt nửa . Anh bảo vệ nhún vai :
- Chờ ông đội trưởng tới coi ! Mướn mày mang tiếng chứ ích gì ?

Nó phập phồng chờ ông đội trưởng . Chờ hoài chờ hủy sao ổng lâu tới vậy . Cai đã thúc thợ bắt tay làm . Không ai kêu thằng bé làm gì cả . Nhưng nó không đợi kêu . Vừa thấy chú thợ già hôm qua chuẩn bị đồ nghề , nó lập tức đi ôm gạch lại chỗ ông , nhúng nước cho ướt gạch , súc hồ vô xô , xách tới để cạnh ông , rồi chăm chỉ tiếp gạch . Tuy nó nhỏ xíu chưa thạo việc lắm , nhưng tháo vát và dễ bảo nên ông thợ già chịu cho nó phụ . Cuối ngày hôm đó , ông đã khoái nó tới mức hứa hẹn sẽ truyền nghề cho nó nếu nó muốn .

Sáng thứ bảy nó đang làm thì ông đội trưởng xuất hiện . Ông chỉ mặt nó :
- Thằng này làm nổi hôn ?
Nó vội vã gật đầu :
- Dạ nổi chứ ! Con làm từ hôm kia , hôm qua lận mà !
Ông không nói gì thêm , bỏ đi .

Chiều thứ bảy . Thật là một buổi chiều trọng đại . Thầy thợ là xong việc không vội về như mọi khi . Họ thong thả rửa mặt mũi tay chân , ngồi hút thuốc lá và nói chuyện tầm phào chờ ông đội trưởng . Ông ta đã đi lên công ty lãnh tiền tạm ứng để trả lương công nhân . Mọi người tuy không tỏ ra sốt ruột , nhưng cũng ngong ngóng bóng hình ông đội trưởng . Cũng có khi công ty đang kẹt tiền , hay bản chiết tính của đội có trục trặc gì đó , thì sẽ không có tiền . Ông đội trưởng sẽ đến rất trễ để những công nhân không kiên nhẫn bỏ về bớt , và ông đeo một mặt bí sị khất nợ với những kẻ kiên trì đến thứ hai thứ ba ...

Nghe tới tình huống này , tim thằng bé thắt lại . Chẳng lẽ nào ? Bao nhiêu đơi chờ , bao nhiêu lo lắng của nó . Suốt ba ngày nay . Liệu nó có được trả lương không ? Trả bao nhiêu ? Trả mấy ngày công ? Hôm thứ sáu ông đội trưởng không có mặt ở công trường , đâu có thấy nó làm việc . Hôm nay ổng cũng không nói rõ ràng là ổng chấm công nó . Tất cả lo lắng đó , nó chỉ còn cách nhẫn nại chờ ông đội trưởng tới phút phát lương mới biết . Nếu mà ... Tim thằng bé suýt vỡ ra . Nó như ngồi trên lửa bỏng vạc dầu , nhấp nha nhấp nhổm ngóng ra đường .
- A ! ông đội trưởng về !

Nó hét to lên , mừng vui đến nỗi những người khác phải phì cười .
Ông đội trưởng dựng xe , ôm cái túi da căng phồng vô lán bảo vệ . Ông giở sổ chấm công ra , dò theo danh sách , đếm ngày công của từng người , đếm tiền , rồi trao cho họ . Ông cứ theo thứ tự trong sổ chấm công mà phát . Cuối cùng , hết danh sách .

Thằng bé không có tên trong sổ chấm công ! Nó đứng thậm thò nhìn ông đội trưởng , mặt tái đi , tay chân lạnh ngắt . Chờ cho người cu li cuối cùng ra về , ông mới làm như chợt nhớ thằng bé .
- Thằng kia , lại biểu .
Nó lật đật chạy lại , ngước đôi mắt trẻ thơ đầy lo âu nhìn ôn đội trưởng . Ông cầm một cọc tiền giấy một ngàn , hỏi :
- Mày làm mấy ngày ?
- Dạ , ba ngày : thứ năm , thứ sáu với lại thứ bảy .
Ông đếm tiền , một , hai , ba , bốn , năm , sáu , bảy , tám , chín .
Ông ngừng lại hỏi :
- Ba mày làm gì ?
- Dạ , ba con chết hồi năm ngoái rồi .
Ông nhìn nó một chút , đếm tiếp mười , mười một , mười hai .
- Má mày làm gì ?
- Dạ , má con mua bán ve chai .
- Mày có đi học không ?
- Dạ có .
- Vậy ráng mà học . Chứ là cu li , biết cực chưa ?
- Dạ , con chịu cực được mà .
Ông đếm tiếp : mười ba , mười bốn , mười lăm .
Ông toan đếm nửa nhưng đắn đo một chút , nói :
- Má mày có đánh đề , đánh bài không ?
- Dạ , không .
Ông đếm nốt : mười sáu , mười bảy , mười tám . Ông đưa tiền cho thằng bé .
- Ðem về cho má mầy cất , đừng chơi điện tử hết nghe !
Xong , ông đứng dậy , đi về .

Thằng bé cầm mười tám tờ giấy bạc mà ngón tay nó run bần bật . Nó chưa từng cầm trong tay một món tiền lớn như vậy . Mà lại là tiền chính nó làm ra , bằng ba ngày quần quật ngoài trời nắng , bằng sự cố gắng vượt quá sức trẻ em .

Má nó cũng xúc động đến rơi nước mắt khi nó đưa tiền cho bà . Bà đếm đi đếm lại , lộn tới lộn lui , nó phải cầm từng tờ đếm cho má nó coi . Bà gói vô một tờ giấy dầu , đem đấu sau ảnh thờ của ba nó :
- Má cất ở đây cho con , để tựu trường có mà đi học với con người ta .

Ðêm đó thằng bé ngủ vùi trong tay má . Má nó bồi hồi thao thức mãi , thỉng thoảng bà lại vuốt mái tóc khét nắng của con .

Có thể nửa thế kỷ sau , có một tỷ phú hay một nhà bác học để lại tiểu sử như vầy : Mười hai tuổi , tôi đi làm cu li để có tiền ăn học ... Nhưng hiện giờ , dưới một mái tranh ở vùng ven , có một đứa bé gầy gò , đen thui vì nắng gió , trong giấc ngủ say nhọc nhằn đang mơ rằng : ngày khai trường em sẽ đến lớp với đồng phục tươm tất như mọi học sinh , và không ngay ngáy lo lắng cô chủ nhiệm sẽ phiền trách vì không đóng nổi các thứ tiền tập vở , tiền thuê sách , tiền bảo trợ , tiền sửa trường ốc , tiền hội phụ huynh và đủ thứ tiền gì gì nữa ...

User avatar
macco
Posts: 3541
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Image


Một Lầm Lỗi Ngọt Ngào.
Chú Chín Cali
Molly đã vĩnh viễn ra đi ngày hôm qua. Trong niềm cảm xúc dạt dào tôi đã viết bài nầy để tiễn biệt Molly.
Molly tròn 14 tuổi chó, tương đương với 72 tuổi người, cái lứa tuổi về chiều mà giới trẻ “kính lão đắc thọ” gọi bằng bác và nhường chổ ngồi trên xe bus. Molly già được đám chó tơ tôn là “Molly Bá Bà”, tuy lụ khụ nhưng vẫn còn giữ nét đẹp của giống chó Dachhund. Molly đang yêu đời, vui hưởng tuổi già trong bình yên và hạnh phúc. Người già râu dài tóc bạc thành tiên, Molly già, lông bạc thành người, các cháu nói đùa như vậy. Chính Molly cũng không nghĩ nó là chó!

Molly không làm phiền ai, ngược lại nó là nguồn vui cho cả gia đình tôi. Các cháu dành nhau mang Molly nhà về chơi, nhất là những khi tôi vắng nhà lâu ngày. Cả tuần nay Molly ở cùng với đứa cháu lớn. Khi tôi ghé thăm không thấy Molly ra cửa đón mừng như thường lệ. Nghe tôi gọi nó vẫn nằm yên trên giường chỉ vẩy đuôi mừng. Thấy lạ tôi đến ngồi bên nó, vuốt đầu hỏi han. Nó nhìn tôi trông có vẻ buồn. Hỏi ra mới biết Molly gần đây không khỏe, biếng ăn và hay ói vào buổi sáng. Tôi thấy không ổn nên quyết định đem Molly về nhà và cho đi khám Bác Sĩ. Kết quả thử máu không thấy điều gì đáng lo ngoại trừ triệu chứng phong thấp. Bác sĩ chích thuốc và đề nghị cho Molly đổi thức ăn mới để kích thích appetite. Sau một tuần Molly bình thường trở lại, chịu đi tập thể thao tuy còn mệt nhưng vẫn kén ăn và ốm đi nhiều. Cả nhà thấy Molly ốm lại mừng và khen Molly giỏi, trông đẹp gái ra. Vì bản chất tham ăn nên bao nổ lực giúp nó giảm cân trước đây đều bị thất bại, nó lúc nào nó cũng tròn vo như cái hot dog nặng 20 lb, bị xem là quá tải đối với giống chó Dachshund loại nhỏ con.

Một tuần sau bổng Molly trở bịnh, không chịu nằm yên trên giường của nó, thở hổn hển. Ẵm nó vào giường nó cũng lọ mọ bò ra rồi đứng nhìn vợ chồng tôi với đôi mắt ươn ướt như muốn nói điều gì. Tôi hiểu ngay là Molly muốn nói là nó không thấy khỏe. Tôi gọi bác sỉ lấy hẹn ngày hôm sau. Lúc bây giờ tuy mệt mỏi và thở nhiều nhưng Molly vẫn còn thích ăn Liverwurst, loại paté Đức mà tôi dùng để dụ dỗ cho Molly uống thuốc.

Tôi lên mạng tìm hiểu và đi đến kết luận là bịnh đau cột sống của Molly lại tái phát. Tôi cho nó uống thuốc giảm đau còn sót lại lần trước đi bác sĩ. Tôi thấy tội nghiệp nên ngồi bên Molly, vuốt ve, vỗ về trong khi chờ đợi hiệu ứng của thuốc giảm đau, sẽ giúp Molly nằm yên nghỉ ngơi. Đợi mãi vẫn không thấy có sự tiến bộ nào nên tôi bắt đầu thấy lo, mong cho đêm qua nhanh để Molly được gặp được bác sĩ ngày hôm sau.

Suốt đêm hôm ấy Molly không chịu nằm và không ngủ.
Sáng ngày hôm sau, trong khi đợi đến giờ đi Bác Sĩ, Molly có vẻ mệt lắm. Nó nằm trên cánh tay tôi nhưng cứ ngước đầu lên hết nhìn tôi rồi lại nhìn bà xã tôi không rời một phút . Chắc nó có linh tính là sẽ xa những người mà nó yêu thương nhất nên muốn ghi nhận hình ảnh của những người thân thương vào tim óc của nó. Bà xã tôi thấy vậy vuốt đầu nó hỏi:
- Molly nầy, con đau lắm không? Hay con muốn nói gì với mẹ?
Nó vẫn nhìn bà không chớp mắt. Sâu thẩm trong đôi mắt buồn thiu là cả một bầu trời bát ngát tình thương, đầy triều mến, và nuối tiếc. Nó muốn nói lời từ giã với mẹ chăng!
Bác Sĩ bảo sức khỏe của Molly không tốt, phải chụp X-ray ngay. Tôi tức tốc mang Molly đi. Đến bịnh viện khi mở cửa sau để ẵm Molly ra, tim tôi bổng như bị ngừng đập khi thấy Molly thân thể mềm nhũn, nằm nghẽo đầu, tư thế không bình thường. Tôi lay động nhưng Molly không có phản ứng gì. Một ý tưởng thoáng qua như ánh chớp, tôi bổng thấy lạnh cả người, tay chân bủn rủn, nước mắt ứa trào ra. Tôi không thể cầm giữ được lòng mình nên bật thành tiếng nấc nghẹn ngào làm bà xã tôi đang ngồi ở băng trước cũng giật mình:
- Em ơi, Molly chết rồi!
Tiếng nấc nghẹn ngào của tôi như nhát dao đâm thấu tim bà. Bà vội mở cửa xe, chưa kịp bước chân xuống đất đã òa lên khóc.
- Hả…hả…Làm sao Molly chết được?
Bà ôm lấy cánh tay tôi người lảo đảo, nhoài người vào xe, vừa khóc tức tưởi vừa nói:
- Em muốn nhìn mặt Molly lần cuối.
Tôi nâng đầu Molly, cho nó nhìn lên trong khi bà đang cuối xuống thật gần nhìn mặt nó. Mắt nó vẩn còn mở rộng, trong sáng, còn thần sắc như khi còn sống. Nó nhìn bà với đôi mắt triều mến quen thuộc. Bà vuốt đầu nó như hằng ngày bà vẫn làm rồi ngạc nhiên xoay qua tôi hỏi:
- Anh ơi, Molly đâu có chết?
Tôi phải xác nhận nhiều lần bà mới tin. Lúc ấy bà mới bảo tôi:
- Nó đã nhìn thấy em rồi, anh vuốt mắt nó đi vì em không đủ can đảm nhìn mắt nó, hãy để cho nó đi.
Tôi vuốt mắt Molly, vuốt đầu nó lần cuối, cúi sát vào tai nó rồi nói thì thào rất nhỏ, chỉ đủ cho tôi và nó nghe:
- Thôi con hãy ngủ yên cho Ba Mẹ yên tâm.
Molly nhắm mắt lại ra đi trong an bình. Molly đã vĩnh viễn ra đi!

Suốt đêm tôi ngồi viết lại chuyện Molly mà không kềm được xúc động khi nhìn những tấm hình của Molly mà tôi đã chụp trước và sau khi nó chết. Không biết sao tôi lại có ý định chụp hình Molly. Nhìn sâu vào đôi mắt của nó tôi thấy nghẹn ngào. Khi viết những giòng nầy, mấy lần tôi phải vào phòng tắm để hỉ mũi rửa mặt. Nước lạnh trấn tỉnh và kềm chế được phần nào cảm xúc của tôi. Molly đã sống với vợ chồng tôi mười bốn năm nay như một đứa con nhỏ trong nhà, một đứa con ngoan không biết vòi vỉnh, lị lợm, lúc nào cũng muốn làm vui lòng cha mẹ. Sự hiện hữu của nó đã gắn bó với các sinh hoạt hằng ngày của vợ chồng tôi đã tạo thành những thói quen không thể thiếu. Thiếu nó chẳng khác nào thiếu một phần của đời sống của mình. Chúng tôi nhớ Molly quá!
Trời chưa sáng mà bà xã tôi đã mang cho tôi ly cà phê nóng. Tuy biết suốt đêm tôi không ngủ đễ viết bài từ giả Molly nhưng bà vẫn hỏi:
-Anh có ngủ được không?
Tôi không trả lời. Bà vừa lúi cúi vừa làm giường, vừa nói tiếp:
-Em cũng không sao ngủ được. Buồn quá!

Sáng nay vừa bước xuống thang lầu bà đão mắt tìm Molly, tuy biết rằng Molly đã chết. Không thấy Molly đứng đợi dưới thang lầu, ngoắc đuôi mừng rở! Không thấy Molly nhảy lưng tưng đòi đi “pipi” để được bà mặc áo cho nó! Suốt ngày bà thấy buồn thiu khi không có Molly lẻo đẽo dưới chân đòi ăn. Molly thích ăn cơm nóng trộn với paté và xì dầu. Không có Molly để bà trò chuyện, cải vả rồi rầy rà. Mỗi lần bà thay gường giặt áo cho Molly là thế nào nó cũng bị bà đem ra xỉ vả. Nhưng Molly nào biết giận, nó chỉ cần nhìn bà với đôi mắt ươn ướt là hòa bình trở lại ngay. Mắng yêu thôi chứ bà cưng nó lắm. Mỗi lần đi mua sắm thấy đồ chơi hoặc quần áo cho chó là bà tha về cho Molly. Đi đâu xa bà cũng đòi về sớm vì không muốn bỏ Molly ở nhà một mình, hoặc đã quá giờ ăn sợ Molly đói bụng tội nghiệp.
Bác sĩ cho biết Molly chết vì bị bịnh tim mạch. Tuy đau lòng vì sự mất mát xảy ra quá đột ngột nhưng trong lòng mọi người lại thấy mừng cho Molly không đau đớn nhanh chóng ra đi.
Được tin Molly chết mấy đứa con tụ về an ủi vợ chồng tôi, rồi chúng xúm nhau kể chuyện Molly. Tội nghiệp cháu lớn thỉnh thoảng lại ngoảnh mặt đi chùi nước mắt. Cháu là người từng chăm sóc cho Molly nhiều nhất. Cháu nói một ngày nào đó, nếu có duyên cháu sẽ tìm được một “Molly Junior” để tiếp tục nuôi nấng. Bã xã tôi thì đã quyết tâm rồi, sẽ không bao giờ nuôi chó nữa. Bà sợ quá rồi cảnh “Sinh ly tử biệt”.

Bà đã tiết lộ một bí mật là trước ngày Molly chết bà có cầu nguyện cho Molly được khỏe mạnh, nếu không xin Chúa cho Molly ra đi không đau đớn. Lời cầu nguyện của bà đã được ơn trên nhận lời.
Sinh ly tử biệt, dẫu với một con chó cũng làm khổ cho bao người ở lại, nói chi đến con người!
Đời ta còn bao nhiêu lần nữa phải đổ lệ tiển đưa những người thân thương nhất ra đi?
Và một ngày rất gần ta không còn là người bàng quan chứng kiến cảnh biệt ly mà sẽ là người trong cuộc, là kẻ phải ra đi! Có ai đã trải qua hoặc có kinh về cái chết, tuy nhiên tôi có thể hình dung được cảm xúc của người sắp chết khi liên tưởng đến ánh mắt thiết tha của Molly ngày nó ra đi. Sâu thẩm trong đôi mắt thật buồn của nó là cả một bầu trời bát ngát tình thương, triều mến và nuối tiếc. Nó nuối tiếc phải bỏ lại phía sau tất cả để hoàn tất trò chơi khắc nghiệt “sinh lảo bịnh tử”của tạo hóa.

Cái duyên nào đã đưa Molly đến với chúng tôi, cái nghiệp nào đã bắt Molly phải ra đi, làm sao tôi và Molly hiểu được. Theo Phật Pháp, Tứ Diệu Đế là bốn chân lý, cốt lõi thuần túy nhất của đạo Phật. Khổ Đế là chân lý thứ nhất mà trong đó “Sinh lão bệnh tử” và sự gắn bó thái quá vào những mối liên hệ không vĩnh cữu, tương tự sự gắn bó của gia đình tôi với Molly là nguyên do chánh. Biết rằng sự gắn bó thái quá là nguồn gốc của đau khổ, là một lầm lỗi, nhưng chúng tôi chấp nhận lầm lỗi nầy, vì cái giá chúng tôi phải trả vẫn còn quá thấp so với những hạnh phúc đã nhận được. Một lầm lỗi ngọt ngào.
Cám ơn Molly đã đến và đã đi. Molly đến mang nhiều hạnh phúc cho đình tôi. Molly đi để nhắc nhở tôi tính chất phù du của đời sống. Molly đã làm xong bổn phận của nó, hảy giúp nó thanh thản ra đi. Hảy vẩy tay chào đưa tiển Molly với một nụ hôn triều mến.
Vĩnh biệt Molly.

Garden Grove 04/01/2017
Chú Chín Cali
Last edited by macco on Tue Oct 31, 2017 2:39 am, edited 1 time in total.

User avatar
macco
Posts: 3541
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

MỘT THỜI ĐỂ YÊU
Võ Kỳ Điền
Năm vừa ra trường, Hưng được đổi về dạy ở trường trung học Hoàng Diệu, thuộc tỉnh Ba Xuyên. Cái vùng đất cuối cùng của đồng bằng miền Nam, lầy lội ẩm ướt vào mùa mưa, bụi cát nóng bức vào mùa nắng. Miền Hậu Giang do phù sa mới tạo thành, nền đất thịt không được vững chắc như các tỉnh miền Đông. Đường sá rất mau hư, chỉ cần trải qua một mùa mưa là phải tu bổ lại.
Trường cách chợ vài con đường nhỏ. Phía bên kia là ruộng nước đầy cóc nhái, ễnh ương, đêm đêm kêu vang đầy đồng, nghe buồn não nuột. Con đường Mạc Đĩnh Chi chạy ngang trước cổng trường được tráng nhựa từ những năm trước, bây giờ còn trơ lại mặt đường đá xanh lồi lõm với những ổ gà đầy sình nước. Trong sân trường thì tệ hơn nữa vì đất thấp hơn mặt lộ. Tuy nhà trường đã hết sức sửa sang, bồi đắp nhưng chỉ vài cơn mưa là bùn lầy phủ ngập lối đi. Cỏ ống xung quanh sân, mọc cao tới ngực. Các đường mương thoát nước ra ruộng sau hè, nhiều khi tụi học trò mò bắt được cá rô, cá lóc, cá sặc. Các giàn bông giấy lá mọc xanh rì, nhánh đâm tua tủa, chú lao công người Miên phải vất vả dùng rựa mé nhánh hoài nhưng đâu cũng vào đó.
Ngày mới đến trình diện ông Hiệu Trưởng để nhận việc, Hưng nhìn cái cái sân đầy cỏ xanh với mười sáu gốc còng to cỡ hai người ôm, tàn lá rậm rạp âm u mà buồn cho cái thân phận “Tầm Dương đất trích, gối sầu hôm mai.” Năm đó Hưng mới có hai mươi ba, đen thui, ốm nhom nên cao nhòng. Ông Hiệu Trưởng thấy vẻ thất vọng của người thấy giáo mới lớn nên vỗ về an ủi:
-Đất nầy coi vậy chớ đi dễ khó về. Ở lâu thấy nó dễ thương lắm. Nội con đường Nhị Trưng có hai cái cầu Bon với cầu Quay là đi hoài cũng không hết. Nói chi tới Phú Tâm, Bãi Xàu, Kế Sách…
Hưng tức cười trong bụng. Ông già nầy tính dụ dỗ mình đây. Ở lâu thấy nó dễ thương! Trời đất! Phải ở đây thiệt lâu thì mới thấy… Vậy thì mình phải trụ trì ở cái trường Hoàng Diệu nầy bao nhiêu năm nữa mới được đổi về quê nhà ?
Thiệt ra thì Sóc Trăng đâu có buồn như Hưng tưởng. Cái thị xã Khánh Hưng ồn ào, náo nhiệt suốt ngày đêm. Người buôn kẻ bán tấp nập, xe cộ, ghe thuyền rộn rịp lưu thông, tạo nên một sinh hoạt trù phú ở miền ruộng đất cò bay thẳng cánh. Trên lề đường quanh chợ, người ta bày bán từng giỏ cần xé to, nào nhãn, táo, ổi. Những trái nhãn hái từ vườn ở Vĩnh Châu, hột đen nhánh, cơm dầy, mùi thơm nức mũi. Những trái táo lớn cỡ bằng ngón tay màu xanh xanh vàng vàng, ăn cái vị chua chua, ngòn ngọt. Những buổi trời mây âm u, đâm nhớ nhà, Hưng buồn buồn, ngồi ăn táo chấm với muối ớt một hơi gần hết cả kí lô, vậy mà cũng chưa muốn thôi…
Rồi đến những ngày tựu trường, nhìn những gương mặt sáng sủa, yêu đời của đám học trò mà vui lây. Những giọng nói líu lo, những tiếng cười đùa không dứt. Tuổi trẻ hồn nhiên, ngây thơ, trong sáng quá. Hưng hoà mình trong niềm vui đó, quên mất tháng năm. Thành phố Sài Gòn với những công viên đầy lá me bay, lui dần vào quên lãng. Cho đến mùa mưa thứ ba Sóc Trăng thì một tình cờ chợt đến. Cái tình cờ không đợi nhưng nó vẫn xảy ra.
Buổi sáng sớm đó đã gần bảy giờ, Hưng dùng xong điểm tâm, ăn mặc chỉnh tề, sửa soạn đến lớp. Chàng ra đứng trước cửa nhà, ngó qua bên trường, để đợi tiếng kẻng. Nhà trọ ở ngay trước cổng chánh của trường, bên nầy đường. Trời đã dứt cơn mưa từ lâu, nhưng đường sá còn ướt sũng. Bất ngờ có tiếng con gái, ồn ào bên tai:
-Thưa thầy cho tụi em xin vào trong rửa chưn. Đường trơn, đứa nào cũng bị lọt xuống sình!
Hưng quay lại thì thấy không phải là học trò lớp mình. Cô nào cô nấy đều lạ, những chiếc nón lá nghiêng vành, che khuất vài ba khuôn mặt, chàng nhìn không rõ. Những tà áo dài trắng điểm lấm tấm vệt bùn xam xám. Chắc là tụi A1 của thầy Định.
Hưng để cặp sách trên ngạch cửa, dẫn cả đám vào sàn nước bên hông nhà. Sân rộng, hồ nước thật lớn. Các cô vội vã đưa chưn vào vòi nước để rửa những vết dơ lấm lem bùn đất. Cho tới cô cuối cùng, Hưng vô tình nhìn kỹ hơn. Cô ta có bàn chưn nhỏ gọn xinh xắn, các ngón tròn trịa, đều đặn. Đặc biệt là gót chưn đỏ hồng. Màu đỏ như son mịn. Trong đời Hưng đã thấy nhiều người đẹp nhưng chưa bao giờ để ý tới bàn chưn một người con gái. Lần đầu tiên chàng ngất ngây trước một bàn chưn đẹp. Chừng như cảm giác có gì kỳ lạ, cô học trò quay lại nhìn thì bắt gặp ánh mắt đăm đăm của ông thầy giáo trẻ. Cô gái cuống quít, bỏ vội lai quần xuống, xỏ đôi chưn hồng vô đôi guốc sơn, kéo chiếc nón lá che nghiêng cặp mắt tròn vo, đen bóng như sơn mài. Có tiếng thúc giục:
-Lẹ lên nhen, tới giờ rồi kìa !
Cả đám quay lại, cúi đầu chào Hưng, rồi kéo nhau, tuôn ra cửa, tiếng líu lo cười nói như chim. Đường sá còn đầy sình. Những bàn chưn vừa được rửa sạch, rón rén bước những bước cẩn thận trên những cục đá nhô cao. Hưng đi theo phía sau cô học trò có cái gót chưn đỏ hồng với làn da mịn mà nghe lòng xao xuyến như lần đầu tiên được cầm bàn tay run rẩy của người con gái lạ. Ôi! cái niềm vui mong manh, đơn giản nhưng trong sáng làm sao!
Từ đó, vào những buổi sáng, Hưng mong cho trời mưa để đường lầy lội. Dầu Hưng mong hay không, trời vẫn cứ mưa. Có những buổi trời mưa thật lớn, rồi cũng có những buổi trời mưa lất phất. Con đường Mạc Đĩnh Chi ngang cổng trường, bùn sình ngập tới mắt cá. Hồ nước của nhà trọ đầy tràn. Vậy mà không có người ghé xin nước, để rửa chưn !
Mãi cho đến mấy tháng sau, thầy Định dược đổi về Sài Gòn. Hưng được giao thêm Đệ Nhị A1. Ngày đầu tiên bước vào lớp, chàng bắt gặp ngay được cặp mắt to, đen như hột nhãn của người rửa chưn ngày nào, ngó chàng đăm đăm. Lật sổ ra điểm danh thì cô bé tên Trần Thị Hạnh. Hỏi thêm, thì biết nhà ở đường Nhị Trưng. Ông Hiệu Trưởng quả là một nhà tiên tri đại tài. Ba năm trước nói một câu bâng quơ -nội cái con đường Nhị Trưng, đi hoài cũng không hết. Bây giờ lời đó ứng nghiệm rõ ràng.
Có những đêm thức soạn bài tới khuya, Hưng không thấy mệt mỏi chút nào. Những bài giảng phong phú và lưu loát, nói chung cho cả lớp nhưng mà như cho riêng ai nghe. Có cái gì riêng tư không biết nữa, nó ràng buộc tâm tình chàng với cái hồn nhiên ngây thơ của cô học trò mới lớn. Làm sao Hưng quên được hình ảnh dễ thương của nàng mỗi lần đến thăm gia đình. Ba Hạnh tánh hăng say hoạt động, tuổi già nhưng còn rất trẻ trung. Ông giúp đỡ nhà trường rất nhiều và đã đảm nhiệm chức vụ Hội Trưởng Hội Phụ Huynh Học Sinh liên tiếp trong nhiều niên khoá.
Có lần đến nhà, Hạnh rót nước để mời chàng, giọng êm ái trong veo như gió thoảng. Bộ ghế ở phòng khách thì thấp, nàng phải quì xuống để đặt khay trà lên trên bàn, mái tóc ngắn ôm sát lấy khuôn mặt tròn xinh xinh. Cả người đầy nét thùy mị, dịu dàng, y như những cô gái Nhựt Bổn trong tranh.
-Ngày Chúa Nhựt mà thầy không đi chơi đâu sao ?
-Thì tôi lại thăm ông bà Hội Trưởng nè, được em cho uống nước trà ngon, cần gì phải đi đâu xa xôi chi cho mất công.
Ba Hạnh nói tiếp:
-Ông giáo sư còn trẻ mà lại học giỏi, chịu khó. Con Hạnh về thường cứ nhắc hoài những bài giảng trong lớp…
Hưng nghe khoan khoái trong bụng nhưng không biết nên trả lời ra sao:
-Dạ, tôi cũng dạy y như hồi học được ở Sư Phạm. Chắc là nhờ lớp Hạnh, học trò giỏi nhiều hơn lớp khác.
Má Hạnh xen vô:
-Ông giáo sư nói vậy chớ, chắc con Hạnh học không giỏi đâu. Tôi thấy nó về nhà đọc tiểu thuyết không hà !
Hạnh mỉm cười nhìn Hưng:
-Tại thầy biểu đó, chớ con đâu có ham tiểu thuyết. Hồi trước con thích đọc thơ… Thầy Hưng dạy văn chương mà viết văn làm thơ thì chắc hay lắm !
Hưng nghe xong, cười ngất, quơ tay:
-Nghĩ như vậy là sai rồi, cô ơi ! Thầy giáo dạy văn chương mà nói chuyện về thơ văn thì cũng như các ông thợ mộc… thợ hồ… bàn về mỹ thuật…
Hạnh tròn mắt, nhìn thầy, ngạc nhiên.
-Tôi nói thiệt mà, không phải giỡn đâu. Ở Sư Phạm hoặc Văn Khoa, tụi tôi chỉ được học cách phân tách, phê bình để giảng dạy một bài thơ hoặc một bài văn cho học trò lớp nhỏ, tàm tạm cho người chưa biết, hiểu được chút ít thôi. Nếu có cái gọi là kỹ thuật viết văn hay làm thơ mà dạy và học được, thì ai cũng thành văn sĩ hay thi sĩ hết rồi. Mà Hạnh thấy đó, người viết văn làm thơ thì nhiều mà thành danh đâu có được bao nhiêu. Đâu phải hễ in được một hay hai cuốn thơ là được người đời kêu bằng thi sĩ. Cũng vậy, đối với các giới khác, đâu phải bác sĩ là đều phát minh ra được thuốc trị bịnh, kỹ sư là chế ra được xe hơi, máy bay. Cái tài năng nghệ thuật đó, không phải do sự học… mà do thiên phú. Phải trời cho mới được !
Hạnh le lưỡi, làm ra vẻ sợ hãi.
Hưng tiếp:
-Hạnh có nghe tôi kể lần nào, câu chuyện người thợ làm bánh xe của Trang Tử trong Nam Hoa Kinh chưa ?
-Dạ chưa, thầy kể cho em nghe đi !
-Lâu quá rồi, tôi quên mất tên ông vua nhưng đại khái câu chuyện như vầy. Đời xưa, có ông vua nhân lúc thanh nhàn, ngồi đọc sách, dáng điệu nghiêm trang, kính cẩn. Ở dưới thềm có người thợ làm bánh xe đương đục đẽo cồm cộp. Người thợ vừa làm việc vừa ngó ông vua. Thấy ông nầy đọc sách say mê, bèn bỏ bào, bỏ đục, bước lên thềm, vòng tay hỏi:
-Muôn tâu bệ hạ, xin cho thần được hỏi, bệ hạ đọc những gì trong đó ?
Nhà vua trả lời:
-Ta đọc những lời vàng ngọc của thánh hiền.
Ông thợ nhếch mép:
-Muôn tâu, xin bệ hạ thứ lỗi cho hạ thần. Hạ thần nghĩ là bệ hạ đọc những căn bã của thánh hiền mà thôi.
Nhà vua trợn mắt, nhìn sững ông già.
-Muôn tâu bệ hạ, thần dám liều gan nói như vậy vì có chút ít kinh nghiệm về việc nầy. Thần không dám nói đến việc kinh sách, thơ văn cao xa. Hạ thần chỉ dám nói về việc đóng bánh xe gia truyền của dòng họ nhà hạ thần thôi. Như muốn gắn cái niền sắt vô bánh xe bằng cây, thì phải cầm cây búa mà gõ từ từ. Nếu gõ nhẹ tay thì làm sao cái niền nó ôm sát được vô cái bánh. Nếu gõ mạnh tay thì bánh xe bằng cây bị nứt bể. Phải làm sao đập từng nhát búa đều đặn, nhịp nhàng khi mạnh khi yếu, khi mau khi chậm, để cái vòng sắt ôm chặt lấy cái khung bánh. Khi đã đâu vào đó rồi thì bánh xe dùng cả chục năm cũng không hư…
Đó chỉ là cái nghề nhỏ mọn, mà từ đời ông nội hạ thần muốn truyền lại cho cha hạ thần, rồi cha hạ thần muốn truyền lại cho hạ thần, cũng không thể viết ra sách được, cũng không thể nói bằng lời được. Lúc nhỏ thần muốn học, phải ngồi mà coi cái ý, theo dõi cái tình, rồi lấy cái tâm mà lãnh hội. Phải mất một thời gian lâu dài mới được như ngày nay. Nghề đóng bánh xe còn vậy, nói chi đến kinh sách, thơ văn. Làm sao mà nói được bằng lời, ghi lại bằng chữ những ý đẹp, tình cao. Cho nên hạ thần dám nói, cái mà bệ hạ đọc trong kinh sách, những cái đó chỉ là cặn bã mà thôi.
Hưng uống một hớp nước, rồi nói tiếp:
- Câu chuyện được đặt ra để chứng minh rằng, lời không nói hết được ý, ý không nói hết được tình. Mà chuyện viết văn, làm thơ là chuyện của ý với tình, làm sao cái ngôn ngữ, văn tự, của một ông thầy giáo, dầu là thầy dạy văn chương đạt tới được !
Hạnh nghe xong cười cười, nhìn chàng thật lâu, rồi nói chậm rãi:
-Thầy nói vậy thì em nghe vậy ! Để rồi em bắt chước Xuân Diệu, Huy Cận làm thơ cho thầy coi.
Hưng nhìn lại Hạnh, thương thương cái tánh bướng bỉnh:
-Cô học trò thi sĩ của tôi ơi ! Nghệ thuật là sự sáng tạo, chớ không phải bắt chước. Nếu bắt chước thì không còn là nghệ thuật nữa. Thí dụ như một ngày nào đó, có một cô bé đi học, gặp bữa trời mưa ướt át, chưn dính đầy sình bùn, đứng nghiêng mình bên hồ nước, kéo cái lai quần lên để rửa chưn. Gót chưn đỏ như son mịn, dáng vẻ thật là duyên dáng, dễ thương, ai nhìn thấy cũng yêu cũng mến. Có cô nàng nào đó, ô dề kịch cợm, thấy vậy bắt chước cũng uốn éo làm duyên, làm dáng, dậm chưn cho dính đầy bùn đất rồi dội hết cả hồ nước. Tôi nghĩ anh chàng nào mà thấy, chắc phải bỏ chạy cho thiệt xa…
Cô bé chớp mắt:
-Thầy nói thiệt hả ! Em không tin có người nào mới nhìn một cái gót chưn người lạ, mà thương liền !
Ba Hạnh ngồi im lặng nãi giờ, không hiểu nội dung câu chuyện bóng gió xa xôi của Hưng, xen vô góp lời:
-Con còn nhỏ, chưa biết hết đâu. Đời thiếu gì những điều kỳ lạ mà mình chưa biết. Như nàng Mỵ Nương, chỉ nghe tiếng sáo của Trương Chi, mà bịnh tương tư liệt giường liệt chiếu. Cái ông hoàng tử trong chuyện Tấm Cám, chỉ mới nhìn thấy có một chiếc giày mà đã chết mê chết mệt. Nói gì nhìn cả một gót chưn. Thầy Hưng nói phải đó !
Má Hạnh nhìn con gái trìu mến:
-Hồi nãy giờ cha con, thầy trò đối đáp, tôi không hiểu gì hết trơn !
Cả bốn cùng cười vang. Hạnh ôm lấy vai mẹ, nũng nịu:
-Con định làm thi sĩ mà thầy Hưng chưa gì hết, đã chê !
Khi từ giã ra về, Hưng đi sát bên Hạnh, vẻ nghiêm trang:
-Nói chơi cho vui chớ tôi vẫn mong được những bài thơ của Hạnh.
Hạnh nhìn qua chàng:
-Thầy không sợ những bài thơ của em làm dở tệ sao !
Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng:
-Thơ của em bài nào cũng hay hết.
Rồi nhìn ông bà Hội Trưởng còn ở phía sau, lấy hết can đảm, Hưng nói trong hơi thở:
-Riêng em, đã là một bài thơ…
Nói xong, Hưng thấy tự nhiên tay chưn luống cuống, mặt đỏ bùng bừng, tim đập thình thịch. Chàng đi một mạch ra cửa, không dám ngó ngoái lại. Lúc đó, Hạnh đứng tựa vào cánh cửa cây, đưa tay chận lấy ngực, mặt mày xám xanh.
Buổi đó cũng là lần cuối cùng Hưng đến nhà nàng. Vài tuần sau, vì một lý do hành chánh đặc biệt, Hưng bị đổi về Bình Dương, một tỉnh nhỏ của miền đông nhiều đồi dốc. Tuy trường mới đẹp hơn, lớn hơn trường xưa, nhưng làm sao nó có thể so sánh được với Hoàng Diệu bùn sình trơn trợt. Làm sao có được những ngày mưa ướt át, để đón đưa người mình yêu đến cổng trường có giàn bông giấy.
Một hôm đang ở phòng họp giáo sư, Hưng nhận được một bức thư gởi từ Ba Xuyên xa xôi, thơ của Hạnh. Mừng quá, chàng mở phong thơ màu xanh lợt mà run tay. Những dòng chữ tròn trịa, đầy đặn được viết trên tờ giấy xanh mỏng những lời thăm hỏi chân tình của người học trò cũ. Lật qua trang sau, Hưng thấy nguyên một bài thơ trường thiên tám chữ. Hưng đọc từng câu, cảm từng lời. Cho tới hai câu cuối, Hưng nghe choáng váng, tim như muốn ngừng đập. Hai câu đó như vầy:
Thầy vẫn dạy bài Việt Văn năm cũ,
Như ngày xưa, riêng đôi mắt em nghe.
Trời ơi ! quả thật vậy sao ? Hưng đứng lặng hàng giờ để nghe niềm cảm xúc lâng lâng, thấm từng tế bào tim phổi. Ít ra, trong đời dạy học, có được một người nghe chàng giảng dạy bằng cả một tấm lòng tin yêu, cũng là quá đủ !
°°°
Chiếc xe buýt từ từ đậu sát bên lề đường rồi ngừng hẳn. Hưng vịn tay vào thanh sắt lạnh ngắt, chưn dò dẫm từng bước để xuống. Từ nhà ra đến chợ, phải mất hơn bốn mươi lăm phút để đi xe. Trời bây giờ đang vào mùa đông nên lạnh giá. Tuyết rơi khắp nơi. Cả thành phố như bị bao phủ bằng một lớp bột thạch cao dầy, trắng xoá. Hàng cây thẳng tắp ven đường bị đông lạnh co ro, đưa lên trời những cành khô, khẳng kheo, trơ trụi. Từng cơn gió lạnh thổi tạt ngang, đưa những hạt tuyết xôm xốp như bông gòn bay rào rào, trên đầu trên mặt. Hưng nghe lạnh buốt như có con dao bén cứa vào da thịt. Bộ áo khoác và đôi giày, xin được ở nhà thờ hơi mỏng và quá cũ không đủ ấm. Tuần lương tới phải rán tiện tặn để mua bộ khác dầy hơn. Ở xứ nầy có lẽ nhịn ăn thì được nhưng nhịn mặc thì không xong rồi.
Đây là mùa đông đầu tiên Hưng phải chịu đựng ở cái thành phố đầy tuyết trắng. Gần hơn một năm trời chờ đợi mòn mỏi ở ngoài đảo, chàng được phái đoàn Cao Ủy Liên Hiệp Quốc cho đi định cư đến đây. Một nơi lạ hoắc, chưa bao giờ chàng nghĩ tới. Cái thân trôi nổi, ừ thì thôi, đâu cũng là nhà. Chàng chấp nhận, không so bì, đắn đo. Đi đâu cũng được, miễn là khỏi phải sống một cuộc đời cực nhục, khổ sở, dưới bàn tay sắt máu, của bọn người vô tâm.
Đường đến tiệm rất gần. Tới nơi, Hưng cởi chiếc bao tay bằng len đỏ, đã có một lỗ lủng nhỏ ở đầu ngón, đẩy cửa kiếng để bước vào trong thương xá Việt Nam. Mỗi tuần chàng đến đây để mua một số thực phẩm cần dùng. Hưng đưa tay phủi bụi tuyềt bám trên tóc trên mặt, giũ sơ qua những hạt còn bám trên aó khoác. Tóc tai rối bù, ướt đẫm. Nhìn xuống đôi giày cao cổ, nó thê lương làm sao ! Tuyết nhão quện với bùn đất biến thành bùn sình, bám vào đế giày nhoè nhoẹt. Đôi giày quá cũ, nước thấm ướt hết cả vớ. Các ngón chưn nghe lạnh ngắt.
Hưng đi thẳng vào trong, mắt nhìn lên các kệ thực phẩm để chọn lựa các thứ cần dùng. Rải rác đây đó, người mua chừng đã khá đông. Tiếng cười, tiếng nói ồn ào, tạo thành một thứ sinh khí Việt Nam. Ở xứ lạ quê người, được nghe và nói tiếng mẹ đẻ là một điều sung sướng. Cần gì câu chuyện hay hay dở, người lạ hay quen…
-Chèng ơi, ở đây mà cũng có trầu cau nữa… Có luôn xác giấy nè.
Có giọng nói của người trẻ hơn:
-Hôm trước có bán măng cụt với chôm chôm. Để ở chỗ nầy ! Mắc quá, thấy thèm, mà không đủ tiền mua.
-Mầy lại hỏi bà chủ tiệm, coi bài tứ sắc để ở đâu, tao nghe nói tiệm nầy có bán, liệu mua năm bảy bộ để dành. Tết nầy rủ mấy bà Gò Công qua đậu chến cho vui.
Hưng đi lần ra phía ngoài. Có mùi son phấn nực mũi. Một bà vừa trạc năm mươi, đứng với một thanh niên mặt mày sáng sủa, cả hai ăn mặc sang trọng. Bà ta đứng trả tiền ở quầy hàng nói với bà chủ tiệm, giọng oang oang, từ xa, ai cũng nghe thấy:
-Ở đây, khoẻ quá hở bà chị ! Có tiền là có đủ thứ. Chỉ cần nhắc cái điện thoại lên là có đồ ăn đem ngay tới miệng…
Giọng bà chủ tiệm, ôn tồn:
-Dạ, dạ, chỉ có điều trời lạnh quá. Tôi chịu hổng thấu. Phải chi kha khá một chút, dọn qua Mỹ ở ấm áp hơn…
-Ối ! Hơi đâu mà bà chị lo. Trời nóng thì có máy lạnh, mùa đông thì có lò sưởi. Ra đường mình có áo lông.
Rồi giọng bà kéo dài ra:
-Mấy thứ đó… đâu có bao nhiêu tiền ! Tôi suy nghĩ kỹ rồi, cũng nhờ có mấy ông Việt Cộng nên mới được qua đây, sống sung sướng như vầy.
Có vài người khách đứng gần, ngước mắt lên nhìn. Người thanh niên có vẻ học thức, nắm lấy tay bà:
-Sao mẹ nói vậy, mình bỏ nước ra đi là tại mấy thằng Việt cộng. Làm sao sung sướng bằng ở bên Sài Gòn, quê hương làng nước…
Rồi như để che bớt cái sơ hở của mẹ, anh ta nói tiếp:
-Xứ Canada nầy, việc ít người nhiều. Kiếm được đồng lương cũng đổ mồ hôi…
Bà chủ tiệm ngó người thanh niên cười cười. Bà khách kia quay qua con, mắng yêu:
-Ối dào, kiếm việc vất vả là mấy người thợ thuyền làm ở hãng xưởng, chứ học cao tới kỹ sư như con thì thiếu gì mấy cái công ty lớn mời, tha hồ mà chọn.
Hưng nghe hai mẹ con đối đáp, khoái chí, bèn làm bộ lựa những món hàng gần đó, để nghe thêm cho dễ. Nào ngờ, hai người đã trả tiền xong, đi mất. Chàng đâm buồn buồn, tính trong bụng định ra về. Ngước mắt lên kệ cao, Hưng vói tay lấy một thùng mì gói. Với thùng mì nầy Hưng có thể để dành, ăn được cả tháng, khỏi mất công mua lặt vặt, vừa tiện việc khỏi phải nấu nướng lôi thôi, vừa rẻ, vừa đỡ tốn tiền. Phía sau lưng có tiếng nói ấm áp của một thanh niên cất lên:
-Hay là em mua cho ba trà Ô Long uống thử coi. Anh thấy bác Tư thích loại nhãn xanh lợt nầy lắm nè. Trà Thiết Quan Âm kiếm không ra.
-Thôi, anh chịu khó đưa em qua phố Tàu, ở bển thế nào cũng có. Tánh ba thích uống trà ngon, ăn sao thì cũng được. Hồi còn ở Sóc Trăng có tiệm Quảng Trân, bán trà nổi danh. Kế bên nhà…
Hưng đương nắm lấy góc thùng mì, nghe giọng nói êm ái của người thiếu nữ, thấy quen quen. Cái giọng nói nhẹ như gió thoảng nhưng âm thanh rõ ràng đó đã nhiều lần nghe qua, làm sao lầm lẫn được. Chàng khựng lại cho đến khi nghe được hai tiếng Sóc Trăng, thì buông hẳn thùng mì trở lại trên kệ, quay lưng lại mà nhìn. Người con gái đứng trước mặt Hưng, quả thật là Hạnh. Không thể là ai khác hơn. Hạnh ngày xưa, bằng xương bằng thịt rõ ràng.
Hạnh mở to mắt:
-Thầy.. thầy qua được đây bao lâu ? Sao em không hay biết gì hết ?
Hưng còn đang choáng váng vì cuộc hội ngộ bất ngờ, chưa kịp trả lời thì Hạnh giới thiệu người thanh niên đứng kế bên, giọng hơi ngập ngừng, luống cuống:
-Còn đây là anh Lâm…anh Lâm.
Hưng bắt tay người thanh niên, miệng mỉm cười thay câu chào hỏi. Lâm có vầng trán rộng, đôi mắt thật sáng, cái mũi đẹp, khá cao và thẳng tắp. Lâm thăm hỏi chàng qua hàm răng trắng bóng, đều đặn:
-Thầy đi chợ có thường không ? Tôi với Hạnh tháng nào cũng đến đây một vài lần, vậy mà không được gặp! Ngày xưa Hạnh có được học với thầy ?
Hưng nhớ tới hình dáng tiều tuỵ của mình. Khi nãy bắt tay, cái bàn tay của Lâm mềm mại, ấm áp làm sao. Hưng cảm thấy làn da tay mình sần sùi, thô kệch, bữa nay sao nó dầy hơn bình thường.
-Ờ, ờ, tôi mới qua tới, chưa được bao lâu.
Hưng nhìn sang Hạnh. Nàng vẫn dịu dàng, xinh xắn. Trang điểm thêm một chút phấn hồng trên má, một chút son đỏ lợt trên môi, chiếc khăn len quấn hờ lên cổ, trông nàng đẹp đẽ hơn bội phần, quí phái hơn bội phần.
Bất giác Hưng đưa tay sờ lên cằm. Sáng nay trời lạnh quá, lo sửa soạn đi gấp nên quên mất việc cạo râu, râu cằm đâm tua tủa, rờ nham nháp. Tay Hưng lần lên, đụng phải cái gò má. Cái gò má thiếu thịt, xương lưỡng quyền nhô cao, kết quả của những ngày tháng lao động vinh quang. Năm năm bị đày đọa ác nghiệt ở quê nhà. Một năm trời thiếu thốn chờ đợi héo mòn ở đảo xa, tổng cộng tất cả là sáu năm. Sáu năm lầm than, khốn khó. Thời gian quá dài đủ để choán đầy hết những mùa xuân cuộc đời. Như nụ bông chỉ cần vài giờ có nắng ấm để phô sắc hương, thời gian đó đã bị một đám mây xám, âm u giăng kín. Hưng tự hỏi không biết bây giờ mình còn chút xíu phong độ nào của một ông giáo sư trẻ ngày xưa ?
-Cuộc biến động lớn lao quá. Tôi không biết gì nhiều ở Sóc Trăng.
-Dạ, ba má với em đi từ năm bảy mươi lăm. Đọc báo, nghe tin tức, thấy đất nước tang thương, đổ nát. Ba má em cứ nhắc thầy hoài, hỏi thăm mà không ai biết.
Hưng nghe xót xa. Ông bà Hội Trưởng thường nhắc đến chàng. Hạnh ơi, có bao giờ em nhắc tới tôi, một lần không? Hưng thấy tay chưn mình đâm thừa thãi. Chàng nhìn Hạnh rồi nhìn Lâm. Cả hai đứng bên nhau, tươi mát, yêu đời. Còn chàng, từ ngày đất nước đổi thay, như con cá dật dờ ngoài sông lớn. Cá nước ngọt bị đem bỏ ra biển, gặp nước mặn đã ngất ngư, còn bị sóng dập gió dồi, chịu sao cho thấu. Cái sức sống mới vừa vươn lên sắp đâm chồi nẫy lộc, bất ngờ một cơn phong ba, bão táp đổ ập đến, khiến Hưng như người đau mới mạnh. Tuy đã vượt thoát đến phần đất tự do, chắc phải cần một thời gian khá dài để phục hồi sinh lực cũ.
Sáng nay vô tình gặp Hạnh. Hình ảnh cô bé học trò dễ thương đã trên sáu bảy năm nằm lắng im trong lớp kỷ niệm thật sâu, thật dầy, được khơi bùng dậy. Hưng nhìn thật sâu trong mắt nàng để tưởng rằng mình vẫn còn được trẻ trung như xưa. Cái thời mà mỗi buổi sáng đứng trước kiếng hàng giờ để chải cái đầu, lựa từng cái áo, cái quần, đôi giày, đôi vớ… Những giờ đến lớp với niềm tin trong mắt, với nụ cười trên môi. Những buổi trưa hẹn hò, bước chưn xôn xao trên hè phố. Cái thời mà dòng máu yêu đời luân lưu trong huyết quản, bàn tay tưởng có thể ôm gọn được tương lai.
Thấy Hưng nhìn mình đăm đăm, Hạnh bối rối cúi đầu, mắt nhìn xuống mũi giày, một tay ôm chặt lấy Lâm. Hồi lâu, nàng mới hỏi qua nụ cười gượng gạo:
-Hồi nãy tới giờ gặp thầy mừng quá, quên mất hỏi thăm, chắc thầy qua đây một lượt với cô? Chắc cô cũng người Bình Dương, vì ở trên đó người đẹp nhiều lắm…
Hưng khựng lại một hồi lâu rồi nhìn bao quát cả tiệm, thủng thỉnh trả lời:
-Ờ, ờ, tụi tôi quen nhau từ hồi còn nhỏ xíu, Quên mất hỏi coi người tỉnh nào. Chắc Rạch Giá, Cần Thơ, Tây Ninh hay Biên Hoà gì đó. Đợi ngày làm đám cưới thì Việt cộng vô. Hai đứa bị đày đọa khổ sở. Tôi rủ vượt biên, bả không chịu, khăng khăng ở lại.
Hạnh chớp chớp mi mắt, vẻ xót xa, an ủi:
-Thôi, lần lần thầy ổn định đời sống rồi làm giấy bảo lãnh cho cô qua..
Hưng nhăn mặt lắc đầu:
-Cô không chịu đi đâu. Tôi đã viết thơ nhiều lần thúc hối nhưng không cách gì lay chuyển được. Loay quay một mình buồn quá. Đôi lúc thấy đời sống nhàm chán vô nghĩa. Không lý suốt đời chỉ còn biết có đi làm, đi chơi, đi ăn, đi ngủ…
Rồi Hưng ngậm ngùi:
-Ở đây một năm sáu tháng giá buốt… Nhìều khi nhìn tuyết rơi ngập trời mà thèm một chút nắng ấm quê hương, nơi đó đã một thời, tôi tìm thấy được mùa xuân.

VÕ KỲ ĐIỀN

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Kỷ vật cho người ở lại
Diễm Vy

Chuyện xảy ra gần 20 năm trước, khi tôi còn làm y tá của một bệnh viện trong một thành phố nhỏ ở tiểu bang Arizona.

Tối hôm đó, bệnh viện của tôi nhận một nhóm nạn nhân của một tai nạn xe hơi thảm khốc. Trên xe là bốn em học sinh đều ở lứa tuổi 17-18, cùng đi về với nhau sau sau bữa tiệc. Người lái xe 18 tuổi, say rượu và chạy xe quá tốc độ, lạc tay lái tông vào một chiếc xe tải đang đậu bên lề đường. Nhờ có thắt dây an toàn, người lái và em ngồi cạnh tuy bị thương nặng nhưng không nguy hiểm tính mạng. Riêng hai em ngồi sau, 1 nam 1 nữ bị thương rất nặng vì không thắt dây an toàn. Em trai bị chấn thương sọ não và chết ngay sau khi xe chở đến bệnh viện. Em gái hôn mê bất tỉnh phải mổ gấp, không biết có cứu được hay không?

Thật đáng buồn, em trai tử vong là một em Việt Nam, 17 tuổi, vừa tốt nghiệp trung học và đang sắp rời nhà để vào một trường đại học danh tiếng. Các em còn lại đều người ngoại quốc.

Lúc đó tôi đang làm tại khu ICU (Intensive Care Unit). Bệnh nhân tôi được giao đêm đó là em gái 17 tuổi của tai nạn vừa kể trên. Một cô bé người ngoại quốc, đẹp hay không thì tôi không biết vì cả khuôn mặt lẫn cái đầu tóc vàng của em đều tím bầm, sưng to như trái dưa hấu vì những cú va chạm kinh khiếp. Em đang được mổ não khẩn cấp trong phòng mổ.

Tôi được (hay bị) kêu vào phòng họp gấp để nhận một nhiệm vụ quan trọng.
Sau khi được biết nhiệm vụ của mình là gì, tôi nhăn nhó phản đối, “Tại sao lại là tôi? Đây là nhiệm vụ của bác sĩ mà!”

“Tôi biết, nhưng người nhà của bệnh nhân không biết tiếng Mỹ rành lắm, cô đi theo thông dịch cho bác sĩ, và ráng van xin họ giúp chúng tôi,” bà y tá trưởng năn nỉ.

Sau một hồi bàn qua tính lại, tôi lê bước đi theo ông bác sĩ đến phòng chứa xác của em trai Việt Nam mới tử nạn, với nhiệm vụ là cùng bác sĩ, năn nỉ gia đình người chết hiến tặng những bộ phận còn tốt trong cơ thể của em cho bệnh viện.

Một em trai 17 tuổi đang khỏe mạnh nhưng chết vì tai nạn, là một ứng cử viên tuyệt vời để làm người hiến tặng, vì hầu hết các bộ phận trong cơ thể em còn rất khỏe, rất trẻ, rất thích hợp để cứu sống các bệnh nhân đang chờ đợi để được thay các bộ phận trong người. Đó là lý do bệnh viện hết sức cầu xin gia đình.

Thời gian đó, đối với người Việt mình, khái niệm hiến tặng bộ phận cơ thể còn rất mới mẻ. Nếu không là cho người thân trong gia đình, hầu như rất ít ai hiến tặng cho những người không quen biết. Huống hồ gì, chuyện cha mẹ đồng ý hiến tặng các bộ phận trong cơ thể của con thì hình như chưa hề xảy ra. Có cha mẹ nào mà nỡ lòng nào làm như thế? Mất con đã đau đớn lắm rồi…

Chúng tôi gặp cha mẹ nạn nhân trong phòng đợi, trong khi người con đang được chờ quyết định để rút tất cả ống support bên trong, tôi bắt đầu trình bày lý do. Quả như tôi lường trước, cho dù có van xin, nài nỉ, giải thích cách mấy, bác sĩ và tôi chỉ nhận được những cái lắc đầu quầy quậy, ánh mắt oán ghét, và những lời xua đuổi.

Tôi lắp bắp xin lỗi rồi bước nhanh như chạy ra khỏi phòng.
Phòng ICU rất vắng lặng vì ở đây toàn những ca rất nặng. Những y tá cùng trực với tôi đêm đó ai cũng bận rộn với bệnh nhân của mình nên chỉ có một mình tôi ngồi tại nurse station. Thường thì ở ICU, mỗi y tá lãnh hai bệnh nhân trong một ca. Nhưng đêm nay tôi chỉ có một, vì một bệnh nhân mới chuyển sang phòng thường. Bệnh nhân còn lại là cô gái đang trong phòng mổ, nên tôi cũng khá rảnh rỗi, cho đến khi ca mổ xong.

Bỗng nhiên tôi thấy hơi nhức đầu nên cúi gục vào lòng bàn tay một chút cho đỡ mỏi mắt. Khi tôi ngẩng đầu lên thì vụt một cái, thoáng có một bóng người mặc áo trắng lướt thật nhanh qua mặt..
Tôi đảo mắt nhìn quanh.
Không có ai cả!
Tôi vẫn thường thấy lao đao như vậy lắm, có lẽ vì tôi bị chứng bịnh thiếu máu kinh niên. Tôi dụi mắt nhìn kỹ lại một lần nữa, lần này thì thật sự có một bóng áo trắng đang từ từ tiến lại gần tôi.

Tôi dợm đứng dậy để nhìn cho rõ thì thấy có một cậu thanh niên Á Châu rất trẻ, gương mặt xanh xao mệt mỏi đang đi lại phía tôi ngồi. Cậu đi nhẹ nhàng như lướt trên không vậy, xuất hiện trước mặt tôi mà không gây nên một tiếng động. Cậu nhìn tôi, đôi mắt nâu hiền và ngây thơ đến nao lòng. Có vẻ như cậu đang bị lạc đường. Chắc là cậu đi nuôi người nhà bệnh và lạc từ khoa khác sang.

Thấy cậu đứng yên lặng không nói gì, tôi hỏi bằng tiếng Mỹ, “Em cần gì, tôi có giúp được gì cho em không?”
Lạ thay, cậu trả lời bằng tiếng Việt, “Em đi kiếm đồ!”
Giọng của cậu nhỏ và thanh, nghe văng vẳng như từ một nơi xa xôi nào đó vọng về.
“Em bị mất cái gì à?”
“Em làm rớt cái ví trong xe. Trong đó có một món đồ rất quan trọng. Chị kiếm dùm em nghe chị. Nhớ nghe chị…”
Không đợi tôi trả lời, cậu quay lưng đi thật nhanh và khuất bóng sau góc quẹo.

Tự nhiên tôi cảm thấy lạnh buốt, cái lạnh từ trong xương lạnh ra. Tôi rùng mình. Lạ thật, Tháng Sáu Mùa Hè ở cái xứ sa mạc này nóng cả trăm độ. Cho dù máy lạnh có mở cũng chỉ vừa đủ. Chưa bao giờ tôi cảm thấy lạnh cóng bằng cái lạnh của hiện tại.

Đầu óc tôi quay cuồng và tiếp tục nhức. Chắc mình sắp bịnh rồi, tôi tự nhủ. Sao tự nhiên lại cảm thấy lạnh và nhức đầu quá. Tôi đứng lên định đi theo cậu bé nhưng rồi lại choáng váng ngồi phịch xuống một chiếc ghế.
Vừa lúc đó, một cô bạn đồng nghiệp từ đâu đi tới. Nhìn thấy sắc mặt tôi, cô la lên, “Oh my God! Trời ơi sao cái mặt cô xanh lè xanh lét thấy ghê quá. Are you OK?”
“Tôi thấy lạnh quá, cô lấy dùm tôi một cái áo lạnh được không?”
Cô bạn nhanh chóng đi lấy cho tôi một cái áo labcoat mới được giặt ủi và hấp nóng. Tôi mặc áo vào, ngồi co ro mà thấy vẫn còn lạnh, mồ hôi rịn ra hai bên thái dương.

Tôi uống thêm hai viên Tylenol. Một lúc sau, tôi thấy từ từ dễ chịu, và lại nghĩ đến cậu bé hồi nãy. Cậu ta là ai, làm sao biết cậu ở đâu, đi kiếm cái xe gì, và cái ví gì nữa chứ?

Cả khu ICU này có 6 phòng. Hiện giờ đang có năm bệnh nhân, mỗi người nằm một phòng. Tôi coi lại danh sách bệnh nhân viết trên bảng treo trên tường. Không có bệnh nhân nào người Việt. Vậy cậu từ khoa nào đi sang đây?
Tôi đi lòng vòng với hy vọng gặp lại cậu bé, nhưng hỏi thăm những nhân viên quanh đó xem có ai gặp một cậu bé người Á châu không, ai cũng lắc đầu không biết.
Thất vọng, tôi trở về khoa đúng lúc bệnh nhân của tôi đã được giải phẫu xong và chuyển về phòng ICU. Bác sĩ bảo em được cứu sống nhưng đôi mắt sẽ bị mù vĩnh viễn vì chấn thương quá nặng. Chỉ có một hy vọng duy nhất là được thay đôi mắt khác em mới có thể thấy lại ánh sáng.
Ba mẹ em ngồi bên giường trong khi em vẫn đang nằm thiêm thiếp. Ông bà yên lặng chắp tay cầu nguyện. Tôi không biết làm gì hơn là ngồi xuống bên cạnh và góp lời cầu nguyện trong lòng.

Người mẹ buồn rầu nói, “Tội nghiệp chúng quá. Rồi đây Jane sẽ ra sao khi tỉnh dậy và biết là người yêu của nó đã chết?”
“Người yêu của Jane là anh Việt Nam ngồi chung xe hả bà?” tôi hỏi.
“Đúng vậy, chúng nó yêu nhau lắm. High school sweethearts mà. Hai đứa đều học giỏi và có tương lai. Thế mà, chỉ qua một đêm, một đứa ra đi vĩnh viễn, một đứa trở nên mù lòa.” Bà sụt sịt khóc.
Tôi ngập ngừng, “Bác sĩ nói con bà còn có hy vọng thấy lại ánh sáng, nếu…”
“Vâng tôi biết! Nhưng ở đâu ra có cặp mắt để thay kia chứ? Nếu đó là cặp mắt của một người còn sống cho con tôi, tôi biết chắc chắn nó sẽ không chịu nhận. Nó là cô gái rất tốt, không bao giờ muốn làm khổ ai.”
“Nhưng nếu đó là cặp mắt của một người vừa mới mất thì hoàn toàn có thể dùng được, chỉ có điều…” tôi bỏ dở câu nói vì tôi biết chuyện đó sẽ không bao giờ xảy ra. Đừng bao giờ nên hỏi cha mẹ cậu bé Việt Nam thêm một lần nữa.

Như đọc được ý nghĩ của tôi, bà mẹ thở dài, “Cô y tá ạ, tôi biết nỗi đau của người mẹ mất con nó khủng khiếp như thế nào. Tôi không dám đòi hỏi gì thêm. Số phận con gái tôi bị mù thì tôi sẽ hết lòng chăm sóc cho nó. Con gái tôi có nghị lực lắm, tôi tin nó sẽ vượt qua…”

Xót xa nhưng cũng rất xúc động trước những lời nói của bà, tôi nhẹ nắm lấy tay bà. Vừa lúc đó, một ông cảnh sát đang rảo bước tới, trên tay cầm một bọc giấy. Ông hỏi tôi, “Người ta chỉ cho tôi là có một cô y tá người Việt ở đây. Cô nói được tiếng Việt chứ?”
“Dạ được. Ông cần gì không?”
“Tôi muốn nhờ cô đi với tôi đến gặp gia đình người tử nạn trong tai nạn xe chiều nay. Chiếc xe bị total lost. Trước khi xe tow kéo xe đi, chúng tôi kiểm tra trong xe và tìm thấy chiếc ví này rớt trong xe. Nó thuộc về người đã chết. Tôi muốn giao lại kỷ vật này cho thân nhân của cậu.”
Ví, xe, người tử nạn… những mảnh rời rạc của chiếc hình puzzle tự nhiên ráp nối lại với nhau một cách có trật tự.. Tim tôi đập thình thịch và cổ họng tự dưng tắc nghẽn. Chân tôi bắt đầu run lập cập và tay thì nổi da gà. Sao giống y hệt những điều cậu bé kia vừa nói?
Không lẽ mình vừa gặp ma sao?
Tôi lắp bắp hỏi ông cảnh sát, “Ông có thể cho tôi xem qua chiếc ví được không?”
Ông ngần ngừ một chút rồi nói, “Cũng được, nhưng trong ví không có gì quý giá hết, chỉ có tấm bằng lái xe và một ít tiền mặt vậy thôi!”
Tôi tần ngần mở chiếc ví ra. Thật vậy, trong ví ngoài một ít tiền nhỏ chỉ có tấm bằng lái xe. Tôi tò mò nhìn vào tấm bằng lái và hoảng sợ làm rơi chiếc ví xuống đất. Trên tấm bằng là hình của cậu bé vừa đến gặp tôi ít phút trước đây. Với gương mặt gầy và cặp mắt nâu trong vắt thơ ngây như đang nhìn xoáy vào tôi, như muốn nói một điều gì.

Vậy ra cậu chính là người đã chết đó sao?
Một luồng khí lạnh chạy dọc theo sống lưng của tôi. Tôi thầm thì, nhắc lại lời của cậu bé khi nãy: “Trong ví này có một vật rất quan trọng…”
“Cô nói gì?”
Tôi lượm chiếc ví lên, mở ra xem lại và lật tới lật lui. Quả thật không có gì khác ngoài vài tờ giấy $10 và $5, cùng tấm bằng lái.
Tai tôi văng vẳng nghe tiếng của cậu bé, “chị nhớ giúp em nghe chị, nhớ nghe chị…”
Tấm bằng lái!
Tôi nhìn kỹ lại tấm bằng lái lần nữa. Đây rồi, vật quan trọng mà tôi cần tìm chính là tấm bằng lái này đây.
Trên bằng lái có tên, tuổi và hình chụp của cậu bé. Còn nữa, nằm ngay ngắn ở góc phải của tấm bằng là cái sticker nhỏ màu hồng, trên có dòng chữ “DONOR” màu đen in đậm nét.

Tim tôi đập thình thịch. Như vậy là, chính cậu đã run rủi cho sở cảnh sát tìm thấy chiếc ví rơi trong gầm xe trước khi xe bị kéo đi; chính cậu đã tìm đến tôi, và đưa đẩy cho ông cảnh sát gặp tôi để mọi người có thể biết được ý nguyện của cậu. Thì ra ngay từ khi mới có bằng lái, cậu đã quyết định là nếu có điều gì xảy ra cho mình, cậu sẽ sẵn sàng hiến tặng những bộ phận còn tốt trong người cho tất cả ai đang cần chúng nên đã tình nguyện ghi tên làm người DONOR. Có phải cậu đến tìm tôi vì biết tôi là người chăm sóc cho người bạn gái thương yêu của cậu đêm nay và muốn nhờ tôi tìm cách để trao tặng cho cô gái đôi mắt của cậu như một kỷ vật cuối cùng?

Tôi chỉ vào chữ “DONOR” và nhờ vị cảnh sát xác minh lại với DMV. Sau khi xác nhận là cậu bé Việt Nam chính thực đã ghi danh làm người “DONOR”, nhưng đồng thời vị cảnh sát cũng thông báo rằng theo luật pháp, vì cậu bé mất khi cậu chưa đủ 18 tuổi, nên quyết định cuối cùng, cho hay không, cũng vẫn là quyết định của cha mẹ.

Phái đoàn gồm các bác sĩ, cảnh sát cùng với tôi sau khi đưa chiếc ví lại cho cha mẹ cậu và thông báo về tất cả những sự việc trên cho họ. Trong khi chờ gia đình cậu bé bàn thảo với nhau, chúng tôi đều lui ra ngoài đứng chờ..
5 phút, 10 phút trôi qua. Một bầu không khí yên lặng đến nghẹt thở.

Rồi cha mẹ cậu bé cũng bước ra. Người mẹ ôm mặt khóc, trong khi người cha nghẹn ngào nói với chúng tôi: “Thôi thì con tôi nó đã muốn như vậy, chúng tôi xin nghe theo ý nguyện của cháu. Xin bệnh viện giúp cháu làm tròn tâm nguyện, hãy giúp đỡ tất cả những ai đang chờ được giúp.”

Tôi bật khóc vì quá xúc động. Tất cả những người có mặt lúc đó đều khóc và cảm ơn cha mẹ cậu bé đã làm quyết định đau đớn và khó khăn nhưng rất cao cả này. Cảm ơn ông bà, tôi thầm thì. Trên cao kia, tôi biết cậu bé đang nhìn xuống và mỉm cười.

Những ngày sau đó, có ít nhất là cả chục bệnh nhân đang chờ thay thận, gan, tim, v.v… đã được cứu sống nhờ được ghép những bộ phận trong cơ thể cậu bé. Cô bạn gái cũng đã nhận được cặp mắt của cậu. Trên gương mặt trắng bóc và mái tóc vàng hoe, đôi mắt nâu trong veo luôn tỏa những tia sáng ấm áp dịu dàng. Đôi mắt như biết nói những lời yêu thương đến mọi người. Cậu bé đã ra đi mãi mãi, nhưng tình yêu quảng đại của em vẫn tiếp tục tồn tại.
****

Ngay sau cái đêm “gặp ma” trong bệnh viện đó, tôi đã suy nghĩ rất nhiều. Tôi về bàn với chồng, và vợ chồng tôi đã cùng đi đến quyết định là ra DMV để ghi tên tình nguyện làm người “DONOR.”

Nếu một mai có người nào phải ra đi trước, chúng tôi không muốn người thân mình ở lại phải suy nghĩ để làm những quyết định đau lòng thế cho mình.
Cát bụi rồi sẽ trở về với cát bụi. Thế thì tiếc làm chi các xác thân tạm bợ này! Nếu sau khi mình ra đi mà vẫn còn có ích cho người khác thì đó chính là một niềm an ủi và hạnh phúc vô biên cho mọi người chúng ta rồi. (Diễm Vy)

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

BẢN DI CHÚC
Guy de Maupassant

Thân Trọng Sơn
Tôi quen anh chàng cao cao tên là René de Bourneval đó. Anh có thái độ đối xử dễ thương, tuy hơi âu sầu, hình như ngán ngẩm mọi chuyện, khá hoài nghi, một kiểu hoài nghi chính xác và cay độc, đặc biệt khéo léo vạch trần mọi thói đạo đức giả của người đời chỉ bằng một từ thôi. Anh thường nói:" Chẳng có người lương thiện đâu, hoặc ít ra họ chỉ lương thiện tương đối so với bọn bất lương."

Anh có hai người anh mà anh chẳng mấy khi gặp, những người mang họ de Courcils. Tôi nghĩ anh là anh em khác cha vì thấy mang họ khác. Nhiều lần tôi nghe nói trong gia đình này có chuyện ly kỳ lắm, nhưng không nói rõ chi tiết.

Tôi rất thích anh chàng này và chúng tôi đã sớm kết thân. Một tối kia, trong khi chỉ hai người cùng ăn tối chung, tôi buột miệng hỏi: " Anh là con của cuộc hôn nhân đầu hay thứ hai?" Tôi thấy mặt anh hơi tái rồi đỏ bừng, anh lặng im vài giây, lộ rõ vẻ bối rối. Rồi, nở nụ cười buồn bã và hiền lành quen thuộc, anh nói: " Bạn thân mến, nếu anh không chán, tôi sẽ kể cho anh những chi tiết lạ lùng về gốc gác của tôi. Tôi biết anh là người thông minh, nên tôi không ngại chuyện kể sẽ ảnh hưởng đến tình bạn của anh, mà nếu có ảnh hưởng thì tôi cũng không thiết tha chuyện coi anh là bạn nữa".

Mẹ tôi, bà de Courlis, là một phụ nữ nhỏ bé, rụt rè, đáng thương, do có của cải mà được cưới làm vợ. Cuộc đời bà là cả một nỗi thống khổ. Với tâm hồn nhân hậu, sợ sệt, tế nhị, bà bị ngược đãi không ngừng bởi người đáng lẽ là cha tôi, là một trong những nông dân mà người ta gọi là quý tộc nhà quê. Lấy vợ được một tháng, ông sống với một người tớ gái. Ngoài ra, ông còn lấy vợ và con của các tá điền làm nhân tình, trong khi vợ vẫn sinh cho ông hai đứa con, nếu tính cả tôi nữa thì là ba. Mẹ tôi chẳng hó hé gì, trong căn nhà lúc nào cũng ồn ào này bà sống như những con chuột nhắt lén lút dưới bàn ghế. Mờ nhạt, ẩn khuất, run rẩy, bà nhìn mọi người bằng đôi mắt sáng đầy âu lo, luôn linh hoạt, đôi mắt hốt hoảng do nỗi sợ không rời. Tuy nhiên, bà đẹp, rất đẹp, mái tóc vàng, màu vàng xám, một sắc vàng nhợt nhạt, chừng như tóc bà vì sợ hãi liên miên mà phai màu đi.

Trong số những người bạn hay lui tới lâu đài của ông de Courcils, có một cựu sĩ quan kỵ binh, goá vợ, người được nể sợ, dịu dàng và mạnh mẽ, có thể đưa ra những quyết định cương quyết nhất, đó là ông de Bourneval, mà tôi đang mang họ đây. Ông ấy cao lớn, mảnh khảnh, râu mép đen rậm. Tôi giống ông lắm. Ông đọc nhiều và tư tưởng của ông không giống chút nào những người cùng tầng lớp với ông. Bà cố của ông từng là bạn của J.J.Rousseau (1), và có thể nói là ông đã thừa hưởng chút gì từ mối quan hệ này của tiền nhân. Ông thuộc lòng " Khế ước xã hội " (2) , " Héloïse mới" (3) và tất cả các sách thuyết lý chuẩn bị từ sớm sự đảo lộn sau này của các tập quán xưa cũ, các thành kiến, các luật lệ lỗi thời, nền luân lý ngu xuẩn.

Có vẻ như ông yêu mẹ tôi, và được yêu lại. Mối quan hệ này hoàn toàn bí mật đến độ không ai nghi ngờ gì. Người phụ nữ đáng thương, rầu rĩ, bị bỏ rơi, hẳn phải tuyệt vọng gắn bó với ông, mong nhờ sự giao thiệp này mà có được lối nghĩ, tư tưởng tình cảm tự do, yêu đương táo bạo, nhưng, do bản tính rụt rè, chẳng bao giờ bà dám lên tiếng, tất cả những điều kia bị dồn nén, cô đọng, ép chặt lại trong con tim không cởi mở bao giờ của bà.

Hai người anh của tôi, cũng như cha, đối đãi thô bạo với bà, chẳng lúc nào dịu ngọt, và ở trong nhà chẳng xem bà ra gì cả, phần nào chỉ xem là con ở thôi.

Tôi là con trai độc nhất yêu bà thực sự và được bà yêu.

Bà qua đời. Lúc đó tôi mười tám tuổi. Để anh hiểu chuyện tiếp theo, tôi phải nói thêm rằng chồng bà đã biết được sự tư vấn pháp lý quyết định việc phân chia tài sản có lợi cho mẹ tôi, nhờ vào sự vận dụng khôn khéo pháp luật và sự tận tuỵ thông minh của công chứng viên, bà được giữ quyền lập di chúc để lại tài sản theo ý mình.

Như vậy, chúng tôi được thông báo là bản di chúc hiện có tại văn phòng công chứng, và được mời tới nghe công bố.

Tôi còn nhớ như chuyện mới xảy ra hôm qua. Quang cảnh hôm đó thật long trọng, kịch tính, khôi hài, bất ngờ, dẫn dắt bởi sự phản kháng muộn màng của người đã khuất, bởi tiếng thét đòi tự do, bởi nguyện vọng từ đáy mồ của người phụ nữ thống khổ bị phong tục đè nén suốt cả cuộc đời, và giờ đây, từ chiếc quan tài đóng kín, cất lên tiếng gọi đầy tuyệt vọng kêu đòi độc lập.

Người lâu nay vẫn tự cho là cha tôi, to béo, đỏ lừ, gợi hình ảnh anh hàng thịt, và các ông anh tôi, hai chàng khoẻ mạnh hai mươi và hai mươi hai tuổi, ngồi yên trên ghế chờ đợi. Ông de Bourneval, được mời tới dự, bước vào ngồi sau lưng tôi. Người bó sát trong chiếc áo choàng, ông trông xanh xao, thỉnh thoảng nhay nhay bộ râu mép nay đã hơi bạc. Hẳn là ông đã biết trước chuyện gì sẽ xảy ra.

Viên công chứng khoá kín cửa, mở chiếc phong bì gắn xi đỏ mà chính ông cũng không rõ nội dung, và bắt đầu đọc.

Đột nhiên bạn tôi ngừng lại, đứng lên đến ngăn kéo tủ lấy ra một mảnh giấy cũ, mở ra, hôn tờ giấy thật lâu, rồi mới nói tiếp. Đây là bản di chúc của người mẹ yêu quý của tôi.

" Tôi, ký tên dưới đây, Anne- Catherine- Geneviève- Mathilde de Croixluce, vợ hợp pháp của Jean- Léoplod-Joseph Gontran de Courcils, thể chất khoẻ mạnh, tinh thần tỉnh táo, bày tỏ ước nguyện cuối cùng của tôi như sau:

Trước tiên tôi cầu xin Chúa, sau đó là René con trai tôi, tha thứ cho hành động tôi sắp sửa phạm phải sau đây. Tôi nghĩ là con tôi đủ bao dung để hiểu và tha thứ cho tôi. Tôi đã đau khổ suốt đời. Chồng tôi đã cưới tôi vì tính toán, sau đó không ngừng khinh miệt, lạnh nhạt, ức hiếp, lừa dối tôi.
Tôi tha thứ cho ông ta, nhưng tôi không mắc nợ gì ông ta cả.
Những đứa con trai lớn của tôi không yêu thương, chiều chuộng tôi chút nào, chỉ bất đắc dĩ xem tôi là mẹ.
Suốt đời tôi, tôi đã đối xử với chúng như bổn phận phải làm, tôi chết đi cũng chẳng nợ nần gì chúng. Những mối quan hệ huyết thống không thể có được nếu không có tình thương bền vững, thiêng liêng, biểu lộ hàng ngày. Đứa con bất hiếu còn tệ hơn người dưng, mà là tên tội phạm, bởi nó không được phép tỏ ra dửng dưng với mẹ đẻ của mình.
Tôi lúc nào cũng run sợ trước nam giới, trước những luật lệ bất công, những thói quen bất nhân, những thành kiến bất lương của họ. Trước Thượng đế, tôi không còn sợ nữa. Chết đi, tôi vứt bỏ thói đạo đức giả đáng hỗ thẹn khỏi mình, tôi dám nói lên điều mình nghĩ, bộc bạch và chịu trách nhiệm bí mật của con tim.

Bởi lẽ đó, tôi chuyển cho ông Pierre-Germer-Simon de Bourneval, người tình yêu quý của tôi, toàn bộ phần tài sản mà luật pháp cho phép tôi sử dụng, để sau đó sẽ về phần con trai René thân yêu của chúng tôi.

( Ngoài ra ước nguyện này còn được ghi nhận cụ thể hơn trong một văn bản công chứng ).

Và, trước Đấng phán xử tối cao đang lắng nghe tôi đây, tôi xin tuyên bố là lẽ ra tôi đã nguyền rủa đất trời và lẽ sống nếu tôi không nhận được tình thương sâu sắc, tận tuỵ, ngọt ngào, bền vững của người yêu của tôi, nếu trong vòng tay ông ấy tôi không hiểu được rằng đấng Sáng tạo đã tạo ra con người là để yêu thương nhau, che chở nhau, an ủi nhau, và để cùng khóc trong những giờ phút cay đắng.

Hai con trai lớn của tôi đã có cha là ông de Courcils. Chỉ René là con ông de Bourneval. Tôi cầu xin đấng Quyền uy của con người và số phận của họ hãy nâng cha và con vượt lên trên những định kiến xã hội và hãy khiến hai cha con yêu thương nhau cho đến cuối đời và yêu cả tôi trong quan tài nữa.

Đấy là ý nghĩ cuối cùng và ước nguyện cuối cùng của tôi.
MATHILDE DE CROIXLUCE".

Ông de Courcils đứng dậy la lớn: " Đây là di chúc của một người điên!". Ngay lúc đó, ông de Bourneval nhích lên một bước và tuyên bố, giọng rõ ràng, quả quyết:
" Tôi, Simon de Bourneval, tuyên bố rằng bản viết đó chứa đựng hoàn toàn sự thật. Tôi sẵn sàng bảo vệ nó trước bất cứ ai, và sẵn sàng chứng minh điều đó bằng số thư từ tôi đang giữ đây."

Ông de Courcils liền bước về phía ông. Tôi nghĩ là họ sẽ đánh nhau. Họ đứng kia, cả hai đều cao lớn, người mập, người gầy, đều giận run cả người. Chồng của mẹ tôi lắp bắp nói: " Đồ khốn nạn!". Người kia đáp trả, cũng giọng cương quyết và khô khan: " Chúng ta sẽ gặp nhau chỗ khác, thưa ông. Lẽ ra tôi đã tát vào mặt ông và thách đấu với ông từ lâu rồi nếu tôi không nghĩ đến, hơn mọi thứ, sự bình yên trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp mà ông đã gây ra quá nhiều đau khổ".

Rồi, quay sang tôi, ông nói: " Con là con của cha. Con muốn đi theo cha không? Cha không có quyền đưa con đi, nhưng cha sẽ nhận trách nhiệm đó nếu con đồng ý đi theo cha.".
Tôi bắt tay ông mà không đáp. Và chúng tôi cùng ra về. Người tôi cứ lâng lâng.

Hai ngày sau, ông de Bourneval bắn hạ ông de Courcils trong cuộc thách đấu . Mấy người anh của tôi đã nín thinh vì ngại tai tiếng xấu xa. Tôi nhường cho họ và họ đã nhận một nửa gia tài mẹ tôi để lại.
Tôi lấy lại họ của người cha thực sự của tôi, từ khước cái họ không đúng mà luật
pháp gán cho tôi.
Ông de Bourneval mất đã năm năm rồi. Tôi vẫn chưa nguôi ngoai nỗi buồn.

Bạn tôi đứng dậy, tiến vài bước tới ngồi trước mặt tôi: " Tôi cho rằng bản di chúc của mẹ tôi là một trong những thứ đẹp đẽ nhất, trung thực nhất, cao cả nhất mà một người phụ nữ có thể thực hiện. Ý anh chẳng phải vậy sao? "
Tôi chìa ra cả hai tay cho anh: " Vâng, chắc chắn là tôi cũng nghĩ thế, bạn ạ!"

THÂN TRỌNG SƠN
dịch từ nguyên bản tiếng Pháp
( Le testament - 7 novembre 1882 )

_________________________

(1) J.J. Rousseau (1712-1778),nhà tư tưởng, nhà giáo dục học, nhà văn.
(2) Khế ước xã hội, Contrat social, tiểu luận triết học chính trị của Rousseau, 1762.
(3) Julie, ou la nouvelle Héloïse, tiểu thuyết, 1762.


Nguồn:

http://www.bmlisieux.com/ litterature/maupassant/ testamen.htm

Post Reply