Quán Vắng không Người ...3

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Phim Vietnam War và mặt trái đàng sau
Lữ Giang
Hôm 17.9.2017, kênh truyền hình PBS của Mỹ bắt đầu chiếu bộ phim có tên là “The Vietnam War” (Chiến tranh Việt Nam) gồm 10 tập dài 18 tiếng với một khối hình ảnh đồ sộ, do hai đạo diễn nổi tiếng người Mỹ là Ken Burns và Lynn Novick thực hiện. Hai nhà đạo diễn này cho biết họ đã bỏ ra khoảng 10 năm để đọc các tài liệu liên hệ đến chiến tranh Việt Nam và phỏng vấn các nhân chứng để thực hiện bộ phim này.

Chỉ mới xem hai tập đầu, nhiều người Việt hải ngoại đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ, cho rằng qua bộ phim này, hai nhà đạo diễn nói trên đã trình bày không trung thực những gì đã thật sự xầy ra trong cuộc chiến Việt Nam. Rất nhiều sai lầm của bộ phim đã được nêu ra, đa số là phần mô tả về phía CSVN.

Nhiều người Việt đã từng chiến đấu với Mỹ trong suốt 20 năm, đã sống trên đất Mỹ trên 40 năm và đã trải qua nhiều thăng trầm trong cuộc chiến, nhưng cho đến nay vẫn còn tin rằng “Mỹ chống cộng và bảo vệ nhân quyền”, và Mỹ vẫn là “đồng minh của ta”. Sự thật bây giờ hoàn toàn khắc hãn.

VÀI LỐI NHÌN CỦA NGƯỜI MỸ


1.- Quan điểm của học giả Spyridon Mitsotakis

Ngày 18.9.2017, Spyridon Mitsotakis, một học giả trẻ của Mỹ, sau khi xem 2 tập, đã viết bài “Ken Burns' Vietnam: Episode 1. Very Good, But 2 Omissions” (Việt Nam của Burns: Tập 1 rất tốt. Nhưng tập 2 thiếu sót) đăng trên trang nhà dailywire, nói rằng Ken Burns đã tốn nhiều công để đọc cái đống tài liệu to như núi có tính tuyên truyền và đơn giản hóa theo phong cách Howard Zinn của những người chống chiến tranh trước đây, nên đã đưa ra những nhận xét khách quan hơn, chẳng hạn như Mỹ chỉ miễn cưởng ủng hộ Pháp sau khi Cộng sản nắm quyền kiểm soát ở Trung Quốc, còn Cộng sản Việt Nam, trên thực tế, là những người cộng sản. Họ không phải là "những người theo chủ nghĩa quốc gia bị bắt buộc phải rơi vào vòng tay của Liên Xô". Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam không phải là một lực lượng độc lập… Còn những chuyện Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã làm trong thời kỳ chống Pháp, có nhiều chỗ nói không đúng.

Theo ông, Mỹ đã tiếp tục gây áp lực để Pháp cam kết chấm dứt chủ nghĩa thực dân và mở đường cho chính phủ tự trị ở Đông Dương trong tương lai. Pháp phải điều đình và ký hiệp định Geneve 1954 là vì thất trận ở Điện Biên Phủ. Cả Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đều không tham gia hiệp định đó.
Giáo sư Turner, Viorst và McGovern có tham gia ý kiến, nhưng toàn là những chuyện lẩm cẩm.

2.- Cách nhìn của Peter Zinoman, Giáo sư Lịch sử và Đông Nam Á Học

Ngày 19.9.2017, đài BBC đã phổ biến bài “Thấy gì từ tập đầu phim The Vietnam War?” của Peter Zinoman, Giáo sư Lịch sử và Đông Nam Á Học, Đại học California ở Berkeley, cho rằng các bộ phim trước đó đều kể về một câu chuyện đặc trưng và rõ ràng với quan điểm "Nước Mỹ trên hết." Nhưng với cuộc chiến ở Việt Nam, chúng ta có thể biện luận rằng người Việt xứng đáng đóng vai chính trong câu chuyện. Xét cho cùng, từ 1 đến 3 triệu người Việt đã bỏ mạng trong chiến tranh, lớn hơn rất nhiều (gấp từ 20 đến 60 lần) con số khoảng 58.000 người Mỹ chết trong cuộc xung đột. Thế nhưng, ý đồ lấy Mỹ làm trọng tâm không hề giấu giếm trong Vietnam War được thể hiện rõ ngay trong 3 cảnh mở màn giới thiệu phần 1 của bộ phim tài liệu 10 tập này. Cảnh đầu tiên tả những người lính Mỹ tham chiến, cảnh thứ hai cho thấy một cuộc diễu binh của quân đội Mỹ, và cảnh thứ ba là lời bình luận của cựu chiến binh Mỹ Karl Marlantes. Bài hát Hard Rain của Bob Dylan làm nền nhạc kết thúc phần một càng báo hiệu rõ hơn nữa xu hướng “dĩ Mỹ vi trung" làm điểm tham chiếu.
Theo tác giả, tập đầu vẽ lại lịch sử hiện đại Việt Nam như một bức biếm họa, trong đó sự áp bức của thực dân Pháp chỉ bị thách thức bởi sự xuất hiện của Hồ Chí Minh, nhân vật có tinh thần quốc gia duy nhất trong thời thuộc địa đã được đề cập đến, trong khi vô số các lực lượng đối lập với Hồ Chí Minh trong phong trào chống thực dân rộng lớn hơn, bao gồm các phe quốc gia, phe lập hiến, phe Trotskyists, phe cộng hòa, phe bảo hoàng, phe phát xít và phe tân truyền thống. (Những tên này nghe rất lạ!).
Về Hồ Chí Minh và Ngô Đình Diệm, tác giả cho rằng Hồ Chí Minh, người được mô tả trong tập đầu, ít nhất là một phần nào đó, qua cách nhìn của người Việt, còn Ngô Đình Diệm chỉ được giới thiệu qua lời của giới chức Mỹ (ông "kiêu căng" và "ngạo mạn" một "đấng cứu thế không có thông điệp"). Mặc dù ông cầm quyền suốt gần 10 năm trong những hoàn cảnh vô cùng bấp bênh, tập phim đầu thể hiện rất ít sự quan tâm tới việc người dân Việt ở Miền Nam Việt Nam nghĩ gì về ông.
Cuối bài, tác giả nhận xét: Phần về phía Mỹ cảm động, sâu, đa diện - 8/10. Phần về phía Việt Nam quá hời hợt và phiến diện, may ra được 4/10. Đạo diễn phim tài liệu số 1 nước Mỹ làm phim này trong 10 năm mà chỉ có thế thì chưa đạt yêu cầu."
Đài RFI của Pháp ngày 22.9.2017 với đầu đề “Đạo diễn ‘Vietnam War’ hy vọng hàn gắn vết thương chiến tranh tại Mỹ” đã nhận xét rằng mong muốn của đạo diễn Ken Burns, được xem là bậc thầy về phim tài liệu, khi bỏ ra đến 10 năm và đầu tư đến 30 triệu đôla để thực hiện bộ phim đồ sộ này, cũng là nhằm hàn gắn vết thương chiến tranh tại Hoa Kỳ, nơi mà thảm bại Việt Nam vẫn còn ám ảnh nhiều người.
Xem qua các tập phim, chúng tôi không nghĩ rằng Ken Burns và Lynn Novick thực hiện bộ phim này để “hàn gắn vết thương chiến tranh” mà chỉ nhắm yểm trợ chủ trương mới của Hoa Kỳ là biến CSVN thành “đồng minh” thay thế VNCH trước đây.

LỐI NHÌN CỦA MỘT SỐ NGƯỜI VIỆT

Người Việt ở trong và ngoài nước cũng có góp ý rât nhiều về bộ phim này, nhưng cả hai bên, đa số (kể cả những người có bằng tiến sĩ thật) vẫn chưa bỏ được “truyền thống dân tộc” là chỉ viết “CÁO TRẠNG” (accusation) hay “BIỆN MINH (defense) chứ không viết những bài phân tích theo phương pháp khoa học. Bằng chứng thường là một nữa sự thật với kết luận bao giờ cũng là “TA ĐÚNG ĐỊCH SAI” hay “TA THẮNG ĐỊCH THUA”, nên chưa đọc chúng ta cũng có thể biết kết luận như thế nào rồi.

Luật sư Hoàng Duy Hùng cho rằng Ken Burns dành quá nhiều thời gian cho Mỹ, cho Bắc Việt, còn thời gian cho quan điểm của Việt Nam Cộng Hòa thì rất ít và nếu có thì chỉ trình bày những phần không quan trọng hoặc chỉ liên quan đến tầm ảnh hưởng chiến thuật chớ không nói lên được quan điểm chiến lược. Chính Lê Duẫn sau này đã tuyên bố: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô" nên ai nghĩ chuyện đấu tranh chống Thực Dân Pháp của Hồ và của ĐCSVN là sự tranh đấu độc lập cho nước nhà là một sai lầm to lớn.

Trong buổi nói chuyện Bàn tròn với BBC tiếng Việt, cựu đạo diễn blogger Song Chi đã chia sẻ nhận định của bà về bộ phim Chiến tranh Việt Nam như sau:
"Vẫn là cái nhìn của người Mỹ về Việt Nam. Bộ phim tư liệu phỏng vấn nhiều người khác nhau, tuy nhiên cả ba phe đều thấy những điểm không hài lòng."
Nhà văn Trần Mai Hạnh, cựu phóng viên chiến tranh, đã có quan điểm khách quan hơn khi nói với BBC:
"Tôi nghĩ những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra có một lần, cũng như đời người chỉ sống có một lần. Thời gian càng trôi xa, các sự kiện càng bị lớp bụi thời gian phủ mờ."
"Người ta rất dễ giải thích theo cái quan điểm của mình, hoặc đề cao quá mức, hoặc là thanh minh, hoặc là giải thích lại theo ý của mình những sự kiện lịch sử. Tôi quan niệm rằng cái quan trọng nhất của lịch sử chính là sự thật. Sự thật là món quà vô giá của Thượng đế trao cho con người. Nhìn từ phía nào cũng thế, phía người chiến thắng là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày ấy hay phía bại trận là phía Việt Nam Cộng hòa và phía Hoa Kỳ, nhìn ở góc độ nào cũng được, nhưng cuối cùng nó phải là sự thật."

Hôm 25.9.2017, đài BBC đã đăng bài “'The Vietnam War' và khi Hoa Kỳ vào VN” của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, đặc biệt nhấn mạnh đến những thiếu sót của cuốn phim khi đề cập về Đệ I VNCH. Tôi đã đọc cuốn “Khi Đồng minh nhảy vào” của ông xuất bản năm 2016. Mặc dầu đã có những công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy ông không phải là người đi với thời cuộc nên không nhận ra được trong đống tài liệu đó việc Mỹ đã xây dựng rồi phá sập chế độ Đệ I VNCH như thế nào để có thể đổ quân vào Việt Nam. Đây là vấn đề chúng tôi sẽ nói trong một bài khác.

NHỮNG TÀI LIỆU RẤT QUAN TRỌNG

Việc làm của hai nhà đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick chỉ là một hình thức ráp nối một số sự kiện được chọn lựa để vẽ lại lịch sử theo đơn đặt hàng. Muốn viết lịch sử một cách trung thực phải có tầm nhìn khách quan về mục tiêu, chiến lược và chiến thuật của Mỹ khi mở cuộc chiến ở Việt Nam, và phải căn cứ vào các tài liệu lịch sử được công nhận là có giá trị. Quan điểm của một số cá nhân được phỏng vấn không phải là sử liệu.

Chính quyền CSVN không hề công bố đầy đủ các tài liệu liên quan đến cuộc chiến về phía họ, Cuốn “Tổng kết cuộc Kháng chiến chống Thực dân Pháp thắng lợi và bài học” cũng như hai tập “Lịch sử Kháng chiến chống Mỹ Cứu Nước 1954 – 1975” của đảng CSVN chỉ là những tài liệu tuyên truyền, trong đó nói phét quá nhiều. Chính phủ VNCH cũng không công bố tài liệu lịch sử của cuộc chiến. Chỉ có một số cá nhân công bố một số tài liệu mà họ biết do vai trò của cá nhân. Cả hả hai bên đếu viết theo định hướng “TA THẮNG ĐỊCH THUA” nên thiếu khách quan. Đó chỉ là thứ lịch sử giả tưởng, lịch sử được vẽ lại, chứ không phải là lịch sử thật.

Chỉ có Chính phủ Hoa Kỳ công bố các tài liệu lịch sử sau khi chiến tranh kết thúc. Trước hết là bộ THE PENTAGON PAPERS (Tài liệu của Ngũ Giác Đài) có tên chính thức là "Report of the Office of the Secretary of Defense Vietnam Task Force", xuất hiện năm 1971, đến năm 2011 được giải mã toàn bộ và chính thức công bố. Tiếp theo là bộ “FOREIGN RELATIONS OF THE UNITED STATES” (Quan hệ Đối ngoại của Hoa Kỳ) do Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ lần lượt xuất bản gồm rất nhiều tập từ 1950 đến 1975. Sau đó là hàng đống tài liệu được lần lượt giải mã và công bố tiếp theo. Số tài liệu về cuộc chiến VN của Mỹ lên trên 150.000 trang.
Ngoài các tài liệu nói trên, có ba cuốn hồi ký của ba nhân vật chủ chốt có thể giúp hiểu rõ hơn chính sách của Mỹ đã được thực hiện như thế nào tại Việt Nam:

1.- In the midst of wars
(Giũa lúc cuộc chiến) của Đại tá Edward G. Lansdale, người đã được OSS (tức CIA sau này) phái đến để giúp Tổng Tống Ngô Đình Diệm bình định và xây dựng một chế độ mạnh để chống Cộng. Chính ông là người thừa hành lệnh của Washington, giúp ông Diệm dẹp các giáo phái, thống nhất quân đội, truất phế Bảo Đại và xây dựng một đảng phái mạnh gióng Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Ông cũng là người phản đối Đại sứ Elbridge Durbrow được Washington phái đến Nam Việt Nam để phá sập chế độ Ngô Đình Diệm và đổ quân vào. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng không nhận ra các tài liệu này.

2.- In Retrospect the Tragedy and Lessons of Vietnam (Nhìn lại Thảm kịch và Những bải học của Việt Nam) của Robert S. McNamara, Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, cho biết cuộc chiến đã được lệnh điều hành như thế nào.

3.- Decent Interval (Một khoảng cách Vừa phải) của Frank Snepp,

Trưởng Phân Tích Chiến Lược của CIA tại Sài Gòn, nói rõ kế hoạch Mỹ bỏ Miền Nam như thế nào. Cả CSVN cũng như VNCH không hay biết gì về kế hoạch này nên CSVN đã nướng quá nhiều quân trọng vụ Tết Mậu Thân năm 1968 và trong vụ Cổ thành Quảng Trị năm 1972 một cách vô ích, còn VHCH để mất Miền Nam chỉ trong vòng 40 ngày.
Vì Mỹ là nước chủ động trong cuộc chiến Việt Nam nên nếu không đọc những tài liệu chính thức do chính phủ Hoa Kỳ công bố, không thể biết chính xác mục tiêu của cuộc chiến là gì, nó đã diễn biến qua từng giai đoạn như thế nào và kế hoạch kết thúc cuộc chiến đó ra sao. Trước đây, Hà Nội biết rất ít về các tài liệu này nên nói phét rất thoải mái, nay đang bắt đầu tìm hiểu, nhưng chưa dám xử dụng vì nó khác xa với những gì Hà Nội đã mô tả.

CON DƯỜNG MỸ ĐANG ĐI TỚI


Những sự kiện lịch sử chúng tôi vừa đưa ra cho thấy Mỹ đã đi vào và rút ra khỏi chiến tranh Việt Nam bằng những chiến lược và chiến thuật được tính toán rất tỉ mỉ và chính xác. Câu hỏi được đặt ra là tại sao bây giờ Mỹ phải cho vẽ lại một lịch sử chiến tranh với rất nhiều điểm trái với sự thật lịch sử?

Lord Palmerston (1784 – 1865), Thủ tướng Anh, đã từng nói một câu bất hủ: “Nations have no permanent allies or enemies, only permanent interests.” (Các quốc gia không có các đồng minh hay kẻ thù mãi mãi, chỉ có các quyền lợi mãi mãi).

Cựu Ngoại Trưởng Kerry đi thẳng vào thực tế: “Không ai có thể hình dung ra đất nước Việt Nam như ngày hôm nay. Việt Nam, một cựu thù của Mỹ, bây giờ lại là một đối tác có mối quan hệ nồng ấm với Mỹ, trên cả bình diện con người lẫn quốc gia”

Như vậy Mỹ đang biến “cựu thù” thành “đồng minh” và “đối tác có mối quan hệ nồng ấm với Mỹ” để dùng CSVN làm lá chắn ngăn chận Trung Quốc tràn xuống Đông Nam Á, nên Mỹ phải vẽ lại lịch sử chiến tranh Việt Nam khi giao cho “cựu thù” CHXHCNVN đóng vai trò của VNCH trước năm 1975. Dĩ nhiên, Hà Nội biết rất rõ chiến lược và thủ đoạn này của Mỹ, nhưng tương kế tựu kế, chơi trò bắt cá hai tay để thủ lợi. Nếu có điều gì bất trắc, họ sẽ quay lại với Trung Quốc.

Khi Mỹ thay thế VNCH bằng CHXHCNVN, liệu người Việt đấu tranh có thể tiếp tục xử dụng cuốn “Quốc Văn Giáo Khoa Thư Chống Cộng” hiện nay để “giải phóng quê hương” được không? Câu trả lời là KHÔNG. Muốn “giải phóng quê hương” không phải chỉ chống Cộng mà còn phải “chống Mỹ cứu nước” nữa, vì Mỹ đang đứng trên cùng một chiến tuyến với CSVN.

Nếu ngày 3.11.2015, qua kênh truyền hình PBS Hoa Kỳ đã ném cuốn phim “Terror in Little Saigon” do nhóm ProPublica and Frontline thực hiện lên đầu Đảng Việt Tân, một tổ chức chống cộng của người Việt đấu tranh được Mỹ bí mật hổ trợ, để ra lệnh lui binh, thì hôm 17.9.2017, cũng qua kênh truyền hình PBS, Mỹ cho phổ biến bộ phim “The Vietnam War” do hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick thực hiện, để nói cho người Mỹ và thế giới biết con đường mà nước Mỹ đang đi tới để tùy nghi thay đổi chiến thuật. Ai không thích ứng kịp mà lâm nạn thì tự lo liệu lấy. Con đường Mỹ thì Mỹ cứ đi. Chính trị là như thế.


Ngày 28.9.2017
Lữ Giang

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Đảng suy tàn - lãnh đạo tan hoang
Phạm Trần
(Danlambao) - Theo dõi tình hình Việt Nam từ bên ngoài thấy lạ tại sao người dân chưa vùng lên lật đổ chế độ mà cứ để cho lãnh đạo tự do chia chác quyền lực và làm giàu trên mồ hôi nước mắt của mình.

Có phải vì nhóm cầm quyền đã có Trung Quốc chống lưng nên người dân phát rét, hay biết chưa có lực lượng nên buông xuôi chờ thời?

Hoặc là vì cả Quân đội lẫn Công an đều nằm trong tay Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và phe nhóm nên không ai dám ngo nghoe, hay cứ đế cho đảng tự chết chìm vì nước lụt đã đến chân?

Dù trong tình huống nào thì ở Việt Nam ai cũng thấy đảng cầm quyền đã “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đến bờ vực thẳm, từ sau Hội nghị Trung ương IX thời Nông Đức Mạnh, năm 2001. Trận hồng thủy tham nhũng đã ngập đầu từ cá nhân sang tập thể, từ tổ chức đến tập đoàn, và từ các tổ riêng lẻ thành “lợi ích nhóm” để phanh thây xé thịt đất nước.

Nhóm chữ “tình hình vẫn còn nghiêm trọng và phức tạp” để chỉ tham nhũng đã biến thành câu kinh nhật tụng của Thanh tra Chính phủ và Ủy ban kiểm tra Trung ương đảng. Nhưng vì cứ phải nghe mãi như điệp khúc ve sầu nên dân mỏi tai, đành phải sống chung với nó như bệnh dịch gia truyền chưa có thuốc chữa.

Trong khi ấy thì lưỡi gươm Trung Cộng đã kề vào cổ 5 đời Tổng Bí thư đảng từ thời Nguyễn Văn Linh (Khóa VI, 1986), Đỗ Mười (Khóa VII), Lê Khả Phiêu (Khóa VIII), Nông Đức Mạnh (2 Khóa IX và X) và Nguyễn Phú Trọng (từ Khóa XI).

Bằng chứng quỵ lụy, nhượng bộ và dâng hiến tài sản tổ tiên cho Trung Cộng đã được chứng minh ở Hoàng Sa, Trường Sa, Bauxite Tây Nguyên, các vị trí chiến lược trong vụ cho thuê đất rừng, bến cảng khắp lãnh thổ, và gần nhất là Dự án gang Thép Formosa Hà Tĩnh.

Con ông cháu cha


Nhưng khi cúi đầu trước ngoại bang Tầu để vinh thân phì gia và tham nhũng tiền bạc và tài sản, con đẻ của tham nhũng quyền lực, thì nạn con ông cháu cha hay còn được gọi mánh mung là “hạt giống đỏ” được đưa vào các chỗ béo bở cũng bung ra hoành hành trong hệ hống cai trị của đảng, nhà nước và doanh nghiệp nhà nước (DNNN).

Không ai trong đảng dám chất vấn, nếu muốn chỗ ngồi vẫn còn đóng cọc. Nhưng đến khi xảy ra vụ Nguyễn Xuân Anh, sinh ngày 01/01/1976, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng bị phát giác có nhiều lươn lẹo về bằng cấp và mánh mung tham nhũng thì tổ ong “hạt giống đỏ” vỡ ra. Anh là con trai của ông Nguyễn Văn Chi, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị khóa Đảng X (2006-2011), Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2003-2011).

Sau đó, mọi con mắt lại dồn vào Nông Quốc Tuấn, Ủy viên Trung ương đảng, sinh năm 1963, con nguyên Tổng Bí thư đảng Nông Đức Mạnh. Tuấn chưa bị sờ gáy, từng là Bí thư Tỉnh ủy Bắc Giang và hiện là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc.

Kế đến là Nguyễn Thanh Nghị, sinh năm 1976, Ủy viên Trung ương Đảng , Bí thư Tỉnh ủy Kiên Giang. Nghị là con trai trưởng của nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, người từng bị gọi là đồng chí X bởi Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, sau khi thoát bị kỷ luật bởi Trung ương Đảng vì bị quy trách nhiệm trong vụ thua lỗ hàng trăm ngàn tỷ của Công ty tầu biển Vinashin và Vinalines.

Ông Nguyễn Tấn Dũng còn còn có người con trai út là Nguyễn Minh Triết, sinh năm 1988, hiện là Ủy viên trong Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Định nhiệm kỳ 2015-2020.

Ngoài ra con gái ông Dũng, Nguyễn Thanh Phượng và chồng là (Việt kiều) Nguyễn Bảo Hoàng cũng có nhiều vốn đầu tư và cổ phần trong nhiều Cơ sở Thương mại và Tài chính ở Việt Nam.

Tuy nhiên, nguồn gốc tài sản của họ không được tiết lộ.

Nguyễn Tấn Dũng, một thời từng được coi là đối thủ chính trị của cả Trương Tấn Sang và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đã giữ chức vụ Thủ tướng trong 9 năm 284 ngày, từ 2006 đến 2016.

Họp hành - biến chất

Những việc này đang phơi ra giữa ban ngày trước thềm Hội nghị Trung ương 6, đang được chuẩn bị diễn ra trong thượng tuần tháng 10 (2017).

Nhưng nếu mục tiêu của Hội nghị chỉ tập trung vào bàn chuyện

"Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả" thì làm sao mà đẩy lùi được qủa tạ ngàn cân tham nhũng quyền lực và tiền bạc đang nằm chình ình trước cửa Hội trường Trung ương đảng?

Tại Đại hội XII tháng 1/2016 đảng đã than: "Tổ chức bộ máy của Đảng và toàn hệ thống chính trị còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc, chức năng, nhiệm vụ ở một số tổ chức còn chồng chéo, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của nhiều tổ chức trong hệ thống chính trị chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ."

Nhưng sau đó, điều được gọi là cải tổ hành chính, thực ra chỉ đề “hành dân là chính”. Trong khi bộ máy biên chế của nhà nước, nói là phải cắt giảm thì lại cứ phình to thêm khiến số nhân viên nhà nước thặng dư chả biết làm gì nên cứ sáng vác ô đi, chiều vác về và giữa trưa thì gọi nhau đi nhậu bia ôm để mánh mung, chạy mối.

Vì vậy, sau hai Hội nghị xây dựng và chỉnh đốn đảng từ Đảng XI qua đảng XII (2012-2016), tham nhũng vẫn ung dung rung đùi cười vào mũi đảng. Trong khi cán bộ, đảng viên thì cừ tìm đường “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” để kiếm ăn và làm giầu, bỏ mặc Bác Nguyễn Phú Trọng tự do gân cổ lên kêu gào câu thần chú “tuyệt đối trung thành và kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.”

Bằng chứng nguy cơ lãnh đạo Việt Nam đang đưa dân tộc và Tổ quốc vào vòng lệ thuộc phương Bắc và phá nát đất nước đã được nguyên Thiếu tướng CSVN, nguyên Đại sứ VN tại Bắc Kinh, Nguyễn Trọng Vĩnh nêu lên trong ý kiến nói về quyết định “dứt bỏ mọi liên hệ với đảng của Nguyễn Phú Trọng đang thao túng” của Giáo sư Tương Lai hôm 2/9/2017.

Theo nguyên Đại tá Công an Nguyễn Đăng Quang ghi lại thư chuyển của Nhà văn kiêm dịch giả Nguyễn Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn Hà Nội, trưởng nữ của Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh ngày 25/9/2017 thì tướng Vĩnh đã: "Cho rằng ĐCSVN nay đã hoàn toàn biến chất, trở nên quá hư hỏng, khó có thể sửa chữa được! Đảng đã đánh mất mình, không còn xứng đáng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội nữa! Trong các hư hỏng trên, cụ nói có 3 hư hỏng nguy hiểm nhất:

- Một là, ĐCSVN đã trở thành một ổ tham nhũng trầm trọng, khó có thể kiềm chế và kiểm soát được! Bọn tham nhũng đều là những cán bộ, đảng viên trung cao cấp của Đảng, chúng đã trở thành bầy sâu, tập đoàn sâu và ăn của dân không từ một thứ gì!

- Hai là, ĐCSVN không còn là một khối đoàn kết vững chắc như xưa. Nay đã chia rẽ, đang hình thành nhiều phe nhóm lợi ích tệ hại trong đảng, và các phe phái này đang ra sức đấu đá, tranh giành nhau quyền lợi và quyền lực, không thiết tha gì với lợi ích dân tộc, với quyền lợi đất nước như hồi ĐLĐVN trước đây nữa!

- Ba là, ĐCSVN ngày nay đã lệ thuộc nặng nề vào ngoại bang, cụ thể là vào ĐCSTQ! Sau khi bí mật ký kết thỏa ước Thành Đô (9/1990) với ĐCSTQ, Ban lãnh đạo ĐCSVN kể từ đó đã lệ thuộc gần như mọi mặt vào ĐCSTQ! ĐCSVN làm ngơ, không dám ra tuyên bố phản đối và thực hiện biện pháp đáp trả khi chủ quyền biển đảo của Tổ quốc bị bọn TQ xâm phạm, đặc biệt là sự kiện từ đầu tháng 5/2014 đến giữa tháng 7/2014, khi TQ ngang ngược coi thường luật pháp quốc tế và chủ quyền quốc gia của Việt Nam, chúng hạ đặt trái phép dàn khoan HD.981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, và mới đây Việt Nam phải nhẫn nhục đầu hàng, chấp nhận yêu sách ngang ngược của TQ đòi VN phải ngừng Dự án khoan thăm dò khí đốt tại Lô 136/03 thuộc bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam!"

Tướng Vĩnh, một người được kính trọng trong hàng ngũ các đảng viên kỳ cựu nói thêm: "Quyết định của anh Tương Lai chắc chắn sẽ gợi mở cho nhiều đảng viên lão thành cũng như rất nhiều đảng viên chân chính khác muốn có những hành động thiết thực, có ý nghĩa nhằm thúc đẩy cuộc đấu tranh ngăn chặn những sai lầm nguy hiểm đang dẫn dắt ĐCSVN đến bên bờ vực thẳm sụp đổ!"

Cán bộ và cán ngố

Trong khi đó, ông Vũ Mão nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội đã nói với báo Giáo dục Việt Nam ngày 25/09/17: "Việc đã có một số cán bộ trung cao cấp bị kỷ luật nhưng nếu soi xét cho kỹ thì thực chất còn nhiều cán bộ hư hỏng nữa. Điều này rất nguy hiểm, đáng báo động… Trường hợp nhiều lãnh đạo bị kỷ luật nặng thời gian qua vì một thời gian dài Đảng đã buông lỏng công tác cán bộ."

Ông Mão nói: "Tôi cho rằng công tác cán bộ từ đổi mới đến nay, đặc biệt trong vòng 10 – 15 năm có quá nhiều vấn đề" như:

"- Công tác rèn luyện, tu dưỡng, phê bình và tự phê bình lâu nay bị xem nhẹ. Mặc dù công tác phê bình và tự phê bình được tiến hành thường xuyên nhưng lâu nay đã trở nên hình thức hóa, hành chính hóa đến mức làm cho lấy lệ, làm đủ thủ tục để đối phó.

- Hiện tượng phổ biến là phê bình kiểm điểm trở thành việc làm mang tính tình cảm đồng chí nhẹ nhàng, động viên nhau, thâm chí vuốt ve, tâng bốc vì nể nang nhau.

- Hiện tượng này xảy ra ở khắp nơi, ngay cả các chi bộ của các cơ quan đầu não.

Vấn đề này không phải đảng viên không biết, lãnh đạo Đảng các cấp không biết mà đáng tiếc là từ cán bộ trung ương đến cán bộ cấp cơ sở đều biết nhưng xem chuyện đó là bình thường. Đấy là vấn đề rất nguy hiểm".

Ông Mão kết luận: "Nói cho đúng, không có việc sai trái của cơ chế thị trường mà cái sai ở đây là không hiểu hết bản chất của cơ chế thị trường nên đã bị mặt trái của cơ chế này chi phối. Chính vì thế đã xảy ra tình trạng “Thị trường hóa công tác cán bộ”. Đây là điều đáng báo động và rất nguy hiểm.

Việc đã có một số cán bộ trung cao cấp bị kỷ luật nhưng nếu soi xét cho kỹ thì thực chất còn nhiều cán bộ hư hỏng nữa. Điều này rất nguy hiểm, đáng báo động."

Cuối cùng, Giáo sư Tương Lai nhận xét về tình trạng tham nhũng hiện nay ở Việt Nam đã viết trong "Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 14", phổ biến ngày 25/9/2016 rằng: "Một thể chế được dựng lên theo một mô hình đã sụp đổ, mà là sụp đổ cả hệ thống, nhưng lại vẫn được ngoan cố trì kéo suốt mấy thập kỷ tại Việt Nam, đưa đất nước đi vào ngõ cụt với thể chế toàn trị phản dân chủ, nguồn gốc của tham nhũng, đặc biệt tệ hại nhất trong hai nhiệm kỳ của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, thì sự bục vỡ như đang diễn ra là khó tránh khỏi."

Như vậy thì đảng CSVN đã suy tàn và lãnh đạo tan hoang chưa, hay họ vẫn tin là mình còn vững trong vòng tay kẻ đặc thù Trung Cộng? -/-

(09/017)
Phạm Trần

User avatar
TheLang
Posts: 1959
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Image

“The Vietnam War”, một bộ phim đồ sộ… rỗng tuếch?
Oct 1 at 5:14 PM
Sáu mươi hai năm (1955-2017) sau khi can thiệp vào cuộc tranh chấp tại Việt Nam, người Mỹ vẫn chưa hiểu tại sao Hoa Kỳ đã có mặt tại đó, và tiếp tục tranh cãi, tiếp tục tìm cách giải thích.

Ký Thiệt

Bộ phim “The Vietnam War” đang được chiếu ở nhiều nơi, và được nhiều người nói tới, là cố gắng mới nhất của người Mỹ để giải thích và rút tỉa bài học từ cuộc chiến gây nhiều chia rẽ và tranh cãi nhất trong lịch sử Hoa K‎ỳ.

Bộ phim này dài tới 18 giờ chiếu, gồm 10 đoạn, mỗi đoạn có tựa đề riêng. Một bộ phim đồ sộ. Giám đốc sản xuất là Ken Burns, cùng với người cộng sự Lynn Novick, đã tới Việt Nam và nhiều nơi khác trên thế giới để làm phim và phỏng vấn 84 nhân chứng ở mọi phía. Khoảng 20 sử gia và học giả đã hợp tác làm bộ phim. Hơn 25 ngàn bức ảnh vô số tài liệu được sử dụng lần đầu.


Bộ phim được mở đầu với Đoạn “Déjà Vu”, đã lội ngược dòng lịch sử Việt Nam từ khi Pháp chiếm Việt Nam (1858) tới năm 1961, khi ông Ngô Đình Diệm thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hòa tại miền Nam VN với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ.

Đoạn 2, “Riding the Tiger”, (1961-1963).

Đoạn 3, “The River Styx”, (01/1964-12/1965).

Đoạn 4, “Resolve”, (01/1966-06/1967).

Đoạn 5, “This Is What We Do”, (07/1967-12/1967).

Đoạn 6, “Things Fall Apart”, (01/1968-05/1968).

Đoạn 7, “The Veneer of Civilization”, (06/1968-05/1969).

Đoạn 8, “The History of the World”, (04/1969-05/1970).

Đoạn 9, “A Disrespectful Loyalty”, (05/1970-03/1973).

Đoạn 10, “The Weight of Memory”, (03/1973-về sau).

Mặc dù chưa xem cả 10 đoạn, khán giả người Việt cũng không thấy có gì mới lạ, so với bộ phim “Vietnam: A Television History” hơn 30 năm trước, dài 13 giờ chiếu, cũng do PBS sản xuất, mà một người Mỹ lương thiện, Tiến sĩ James Banerian, đã phải viết cuốn sách hơn 300 trang, cuốn “Losers are Pirates” (Thua Là Giặc), để phản bác, nêu ra những điều gian trá của bộ phim được gọi là “lịch sử”.

“The Vietnam War” mới khởi chiếu vào giữa tháng 9 trên PBS, vài nước Âu Châu, và đưa lên mạng. Cho tới nay đã có vài ‎ý kiến được nói lên.

“42 năm qua, nhà làm phim về chiến tranh Việt Nam vẫn có cái nhìn lệch lạc, không nói lên đúng diễn tiến của lịch sử. Tuy họ thiếu trung thực, nhưng chúng ta vẫn phải ngả mũ kính trọng và cảm ơn những người lính Mỹ và người lính VNCH đã sát cánh hy sinh mạng sống của mình báo vệ tự do cho thế giới và Miền Nam Việt Nam. ‘The Việt Nam War’ đã không đề cập đến Lập Pháp Hoa Kỳ đã trói tay Hành Pháp, để nước Mỹ mang tiếng phản bội đồng minh, tạo tiếng xấu cho quân đội Mỹ là đã thất bại ở Việt Nam.” (Đinh Hùng Cường)

“Đây là bộ phim phản ảnh một phía, trình bày phân nửa sự thật, không xứng đáng bỏ thời giờ xem.” (Nguyễn Ngọc Sẵng)

“The Vietnam War không là bộ phim ‘one size fits all’. Nó dành cho tất cả nhưng không thỏa mãn được tất cả. Bởi vì, cuộc chiến đã để lại một gánh nặng tâm lý cực kỳ khủng khiếp. Nó chạm đến tổn thương lẫn kiêu hãnh. Nó khơi gợi vinh quang và nhục nhã, và sự lẫn lộn giữa vinh quang và nhục nhã. Nó dắt người ta đến ranh giới của đúng và sai, và sự lẫn lộn của đúng và sai. Chỉ bước thêm một bước nhỏ qua lằn ranh, người ta sẽ thấy họ dường như đã sai mà khi lùi lại thì họ lại thấy như là mình đúng. Cái tâm lý đó đè nặng lên lương tri đối với những người có lương tri khi nhìn lại ý nghĩa của việc tham chiến, và với cả những kẻ hậu thế quan sát cuộc chiến như một phần di sản khốc liệt của dân tộc.” (Mạnh Kim)

Thật ra, “The Vietnam War” là một bộ phim do người Mỹ làm cho khán giả người Mỹ xem để cố “giải ảo”, cố làm ra vẻ khách quan, trung thực, đã đem vào phim thật nhiều chi tiết, thật nhiều nhân chứng, kể cả những chi tiết không cần thiết và vô giá trị như những khúc phim “tài liệu” do CSBV thực hiện với mục đích tuyên truyền, những nhân chứng vô danh ở mọi phía nói những câu tầm thường, vô nghĩa.

Năm ngày trước khi PBS chiếu đoạn mở đầu của “The Vietnam War”, nhật báo Washington Times có đăng một bài của Eric Althoff viết về bộ phim này, trong đó Burns đã nói như sau:

“Điều mà chúng tôi đã bỏ ra mười năm nay để làm là đào xới, khai quật toàn bộ câu chuyện về Việt Nam, do đó chúng tôi đã nhận ra rằng nhiều sự thật có thể cùng hiện hữu. Dù là một anh lính chiến Mỹ tin tưởng nhiệt thành vào sứ mạng của mình, hay người lính không tin điều đó nhưng đã đi (tham chiến) là vì bị động viên, hay những người ở nhà tranh cãi về sự khôn ngoan và đạo đức của Hòa Kỳ trong việc can dự vào một cuộc tranh chấp ở phương xa như vậy.

“Nếu anh biết ngay từ lúc khởi đầu (can dự vào cuộc chiến ấy) là sai và anh nói như thế, có chỗ cho anh trong bộ phim này. Nếu anh nghĩ chúng ta vẫn nên ở lại đó chiến đấu chống lại cộng sản, cũng có chỗ cho anh trong bộ phim của chúng tôi.”

Vì chủ trương như vậy nên bộ phim của Burns và Novick là một tổng hợp hổ lốn của đủ mọi thứ, kể cả những thứ chỉ đáng vứt vào sọt rác, trong đó có những sản phẩm của truyền thông Mỹ mà ngày nay đã bị buộc tội là thủ phạm đã gây ra cái chết của Tự Do tại Việt Nam năm 1975, chứ không phải vì Hoa K‎ỳ đã sai lầm, hay vì Quân đội VNCH “không chịu chiến đấu”, hay vì cộng sản VN có chính nghĩa và chiến đấu ngoan cường tài giỏi dưới sự thống lãnh của “thiên tài quân sự” Võ Nguyên Giáp (như đã được báo chí phương Tây tôn vinh).

Burns đã biện hộ cho truyền thông dòng chính Mỹ rằng trong khi nhãn hiệu “tin ngụy tạo” (fake news) được dán một cách dễ dàng cho những câu chuyện mà người tiêu thụ không thích, “tôi tin rằng Chiến Tranh Việt Nam là ‘giờ đẹp nhất’ (finest hour) của truyền thông (Mỹ) khi họ đã dứt khoát giúp công chúng Mỹ biết chuyện gì đang diễn ra ở nơi cách xa nửa vòng thế giới.”

“Chúng ta gọi là ‘tin ngụy tạo’ những gì chúng ta không đồng ý với nhưng đó lại là sự thật. Chúng tôi không muốn nói rằng chúng ta sẽ sửa đổi ngày tháng của cuộc Tổng công kích Tết (Mậu Thân); đó có lẽ là ‘tin ngụy tạo’.

“Chúng ta sống trong một nền văn hóa truyền thông cặp đôi luôn luôn là trạng thái đỏ/trạng thái xanh, và nếu chúng ta không thể thoát ra khỏi điều đó, chúng ta không thể là một quốc gia.”

Phải chăng Burns muốn nói về sự chia rẽ trong công luận Mỹ và ông ta cùng với Novick muốn cống hiến một bộ phim mà từ đó công luận Mỹ sẽ rút tỉa được những bài học về cuộc chiến tại Việt Nam?

Vậy thì những bài học nào đã được rút tỉa từ bộ phim được gọi là tài liệu (documentary) của Burns và Novick? Burns nói:

“Chúng ta có thể rút tỉa những bài học từ cuộc chiến ấy trong nhiều cách tích cực bằng học hỏi làm cách nào để nói chuyện với nhau và để đừng nói người khác là sai. Khi bạn đối xử với người khác một cách tôn kính, bạn có khả năng thoát ra khỏi sự đơn giản của ý niệm ai đúng ai sai, ai phải ai trái.”

“Ngay cả vào năm 1965, những người chống đối (tại Mỹ) đã viết trên biểu ngữ “Hãy đưa lính Mỹ về nhà!” (Bring the GIs homes). Đã có những khu vực riêng biệt cho sự phản đối, đặc biệt là sau vụ Mỹ Lai. Và vì vậy chúng ta đã tin rằng mọi người lính (khi trở về) đều bị phun nước bọt, mọi người lính đều bị gọi là ‘tên giết trẻ em’ (baby killer), và sự thật điều ấy đã không xảy ra.”

Burns và Novick hy vọng bộ phim của họ sẽ giúp dân Mỹ sớm hàn gắn vết thương Chiến tranh Việt Nam đang diễn ra một cách chậm chạp.

Nhiều người không tin như vậy, nhưng không thể không đồng ý với Burns: “Chúng ta học được một điều từ cuộc chiến Việt Nam. Sẽ không bao giờ nữa chúng ta buộc tội những chiến binh của chúng ta.”

Vậy thì buộc tội ai trong bi kịch Việt Nam?

Thật ra, trong những bên tham dự vào cuộc Chiến tranh Việt Nam (1960-1975) chỉ có Hoa Kỳ là chia rẽ và tranh cãi, thậm chí kéo dài cho tới hơn nửa thế kỷ sau cũng chưa biết tới bao giờ mới chấm dứt.

Cộng sản Việt Nam, kẻ đã xua quân xâm lược Việt Nam Cộng Hòa gây ra cuộc chiến tranh tại miền Nam VN không chia rẽ, tranh cãi. Hay không thể chia rẽ, tranh cãi dưới một chế độ cộng sản, độc tài đảng trị.

Việt Nam Cộng Hòa (một quốc gia có chủ quyền, được hơn 100 nước nhìn nhận), nạn nhân của cuộc xâm lăng do CSBV phát động, cũng không chia rẽ, tranh cãi. Trong cuộc chiến đấu tự vệ, VNCH đã phải chống lại hai mặt trận: mặt trận quân sự mặt trận hậu phương với sự quấy rối do CSBV xúi dục, giật dây.

Có một điệp khúc bất công thường được nghe tại Mỹ là “Quân đội VNCH không chịu chiến đấu”. “Không chịu chiến đấu” mà số lính tử trận của QLVNCH gấp sáu lần Quân đội Mỹ, chưa kể gần hai triệu thương binh, và quân đội ấy đã chiến đấu để bảo vệ miền Nam VN trong suốt 20 năm, mười năm trước khi quân Mỹ tham chiến (1955-1965) và tiếp tục chiến đấu sau khi quân Mỹ rút về nước và bị cúp viện trợ.

Tiến sĩ James Banerian có l‎ý khi đặt tên cho cuốn sách của ông là “Losers Are Pirates” để bênh vực VNCH và Quân đội VNCH, chống lại bộ phim “Vietnam: A Television History” hơn 30 năm trước. Bên chiến bại đã bị gán cho đủ thứ tội, kể cả giặc cướp.

Năm nay, 2017, “The Vietnam War”, đồ sộ hơn và có vẻ “khách quan” hơn, nhưng vẫn không nhìn ra đâu là nguồn gốc của cuộc chiến tranh ấy, đâu là chính và đâu là tà.

Hai ngày sau khi “The Vietnam War” được khởi chiếu trên PBS, ngày 19.9.2017 trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, Tổng thống Donald Trump đã nói, “nói” chứ không phải “đọc”, trong 41 phút về vai trò của Hoa Kỳ trên thế giới, trong đó có đoạn sau đây:

“Nước Mỹ làm nhiều hơn là nói cho những giá trị được xiển dương trong Hiến Chương của Liên Hiệp Quốc. Công dân của nước chúng tôi đã trả cái giá bằng sinh mạng để bảo vệ tự do của chúng tôi và tự do của nhiều quốc gia có đại diện tại đại hội trường này. Nhiệt tình của nước Mỹ được đo lường trên chiến trường nơi những thanh niên nam và nữ của chúng tôi đã chiến đấu bên cạnh những đồng minh của chúng tôi. Từ những bờ biển của Âu Châu tới các sa mạc tại Trung Đông tới rừng rậm Á Châu, một thành tích vĩnh cửu cho bản chất người Mỹ là ngay cả sau khi chúng tôi và đồng minh của chúng tôi xuất hiện trong chiến thắng từ những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch sử, chúng tôi đã không tìm cách bành trướng lãnh thổ hay chống lại và áp đặt lối sống của chúng tôi lên người khác. Đối lại, chúng tôi đã giúp tạo dựng lên những định chế như cái này (LHQ) để bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh, và thịnh vượng cho tất cả mọi người. Cho những quốc gia khác biệt trên thế giới, đây là hy vọng của chúng tôi.”

Đoạn trên đây đáng được dùng để nhắc nhở những người làm phim “The Vietnam War”. Và, những cựu công dân và cựu quân nhân VNCH có nghe đoạn trên đây trong bài nói của ông Trump chắc không tránh khỏi buồn và tự hỏi: “Tại sao đại diện cho Việt Nam tại Đại Hội Đồng LHQ không phải là VNCH, đồng minh của Hoa Kỳ và đã từng sát cánh bên nhau chiến đấu cho lý tưởng Tự Do?”

Ký Thiệt

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Mặt chuột

Điệp Mỹ Linh
- Từ khi tiến sĩ Trần Đức Cường – nguyên Viện Trưởng Viện Sử Học Việt Nam Cộng Sản – cùng các thành viên trong Hội Đồng biên soạn “trình làng” Bộ Lịch Sử Việt Nam cho đến nay, tôi chỉ thấy vài bài “bàn ra tán vào” một cách “vô thưởng vô phạt” về việc Bộ Lịch Sử này đã công nhận Việt Nam Cộng Hòa – chính phủ miền Nam Việt Nam, trước 30 tháng 4 năm 1975 – là một thực thể và Bộ Lịch Sử này cũng không còn dùng danh từ “Ngụy quân Ngụy quyền” để miệt thị quân nhân và công chức miền Nam.

Tôi không ngạc nhiên trước sự “lơ là” của dư luận trong cộng đồng người Việt hải ngoại; bởi vì, đa số người Việt hải ngoại và tôi là những người trốn chạy khỏi ách cai trị tàn ác của Cộng Sản Việt Nam từ tháng 4 năm 1975. Chúng tôi không cần người Cộng Sản Việt Nam (C.S.V.N.) bỏ hay giữ cách gọi Ngụy quân Ngụy quyền. Người C.S.V.N. cũng không đủ tư cách và thẩm quyền để công nhận hoặc phủ nhận sự hiện diện của chính thể Việt Nam Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam, từ sau ngày 20 tháng 7 năm 1954 đến 30 tháng 4 năm 1975.

Việt Nam Cộng Hòa (V.N.C.H.) là một thực thể không thể chối cãi được trong hồ sơ quốc tế của hai hiệp định ngưng chiến năm 1954 tại Genève và năm 1973 tại Paris; và khi V.N.C.H. tố cáo trước công luận Quốc Tế về sự xâm lăng trắng trợn của Trung cộng vào Hoàng Sa của V.N.C.H., năm 1974.

Nếu nhóm người C.S.V.N. nào viết sử Việt Nam, tôi chỉ mong quý vị đó hãy can đảm và công bằng ghi vào lịch sử Việt Nam ba sự kiện “long Trời lở đất” – danh từ người C.S.V.N. thường dùng – mà chính quyền C.S.V.N. đã áp đặt lên sinh mạng của không biết bao nhiêu ngàn người Bắc vô tội trong chiến dịch “cải cách ruộng đất”, Nhân Văn giai phẩm và cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu.

Sau khi viết tất cả sự thật về sự dã man, tàn bạo của đảng và người C.S.V.N. trong 3 sự kiện kể trên, người trí thức C.S.V.N. cũng nên mạnh dạn và công tâm viết lên sự thật của cuộc di cư “khổng lồ” ngay sau khi hiệp định Genève được ký kết, năm 1954, của cả triệu người Bắc vào Nam.

Và, tôi cũng thiết tha yêu cầu quý vị học giả viết sử Việt Nam hãy viết rõ và viết thật về trận Tổng Công Kích Tết Mậu Thân, 1968, là do đảng và bộ đội cụ Hồ thực hiện – vào thời điểm hưu chiến để dân và quân 2 bên chiến tuyến yên tâm ăn Tết – được Tổng Bí Thư Lê Duẩn xác định như sau: “Sau khi Mỹ đưa hằng 100 ngàn quân vào miền Nam, chúng ta – người C.S.V.N. – đã phát động tổng tấn công vào năm 1968…”! (Bài Phát Biểu của đ/c Lê Duẩn năm 1979 và Những Dự Đoán về Bành Trướng Bắc Kinh).

Điều tối quan trọng là trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19 tháng 01 năm 1974 là do ý chí bảo vệ biển đảo của chính phủ V.N.C.H. và lòng dũng cảm của quân nhân Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa tạo nên – Tôi không viết tắt 4 chữ V.N.C.H. vì ngại các “sử gia” C.S.V.N. giả vờ… viết nhầm!

Trong khi công dân V.N.C.H. ở hải ngoại không mấy quan tâm đến Bộ Lịch Sử Việt Nam về sự thay đổi cách gọi của người C.S.V.N. thì một ông tướng về hưu của C.S.V.N. lại “nhảy tưng tưng” vì tức giận!

Ông tướng về hưu của C.S.V.N. này tên Nguyễn Thanh Tuấn, cấp bậc cuối cùng là trung tướng. Theo bài viết của ông Tuấn – tựa là Trung Tướng Nguyễn Thanh Tuấn Yêu Cầu Xử Lý Bộ Sách Xuyên Tạc Lịch Sử Do Phan Huy Lê Làm Chủ Biên – thì ông Tuấn “đi bộ đội ở tuổi 13 đã bị Mỹ Ngụy sát hại và trước khi nghỉ hưu…” Đọc đến đây độc giả sẽ ngạc nhiên, tự hỏi: “Ông Tuấn đã bị Mỹ Nguỵ sát hại” thì ông Tuấn đã chết từ lâu rồi chứ làm thế nào ông Tuấn lại được về hưu và còn viết bài đả kích?

Đấy, chữ nghĩa của tướng C.S.V.N. đấy! Và, cũng chỉ có đảng và “nhà nước” C.S.V.N. mới cho phép hoặc bắt trẻ em 13, 14 tuổi đi lính! Tội nghiệp cho trái tim của các bà Mẹ miền Bắc biết dường nào!

Cũng trong bài này, ông Tuấn xác nhận: “…Minh đổ Khánh thay và sau cùng là tên quan hai học trường Pháp Nguyễn Văn Thiệu…” Có thể nói, trong toàn bài ông Tuấn viết, chỉ có câu này là đúng sự thật.

Vâng, quân nhân và công chức miền Nam nhiều người học trường Pháp lắm; nhiều vị còn có bằng hoặc chứng chỉ đại học nữa. Bất cứ công chức chánh ngạch hoặc sĩ quan cấp bậc nào – tùy vào thời gian học trung học, họ chọn sinh ngữ Anh hay Pháp làm sinh ngữ chính – cũng có thể đàm thoại xã giao bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp. Do đó, chưa bao giờ công chức miền Nam hay là sĩ quan Quân Lực V.N.C.H. phát âm “Made in Vietnam” là “Ma Dzê in Việt Nam” như thủ tướng C.S.V.N. Nguyễn Xuân Phúc đã phát âm!

Nhờ có trình độ văn hóa cao cho nên khi công du, giao tiếp với các vị nguyên thủ quốc gia bạn, giới chức lãnh đạo trong chính thể V.N.C.H. lúc nào cũng có thái độ lịch lãm của người trí thức chứ chưa có một giới chức lãnh đạo miền Nam nào lại có thái độ lố bịch, khiếm nhã, vô văn hóa như thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc của nước V.N.C.S. vào buổi hòa nhạc giao hưởng mà chính phủ Đức mời tất cả đại diện các quốc gia tại Hội Nghị Thượng Đỉnh G20/2017 tham dự.

Nếu quý độc giả hoài nghi, thì đây, tin từ Đàn Chim Việt: “… Đối với các nguyên thủ thế giới, có lẽ ấn tượng đặc biệt đọng lại sau buổi hòa nhạc, không phải là những âm thanh thánh thót du dương của bản Giao hưởng số 9 – mà là tiếng quạt giấy xoành xoạch của ông Phúc – Thủ tướng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Động tác ‘lạ’ của ông Phúc sau đó đã lọt mắt một cơ quan truyền thông lớn của Đức, tờ báo Süddeutsche Zeitung cho rằng ông Phúc ‘có những cử chỉ lạ’, gây ồn ào ảnh hưởng đến bà Thủ tướng Đức và các nguyên thủ quốc gia dự hội nghị G20”.

Sau đây là copy nguyên văn một đoạn cũng trong bài viết cùng tựa đề của ông Tuấn: “Sau khi chính quyền này (ý ông Tuấn muốn đề cập đến chính quyền Ngô Đình Diệm, nền Đệ Nhất Cộng Hòa) ra đời đã thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng ở miền Nam, hơn 300 ngàn người bị bắt giam cầm, tra tấn, đánh đập dã man, hơn 100 ngàn người bị chặt đầu, mổ bụng, moi gan, bỏ bao bố thả sông, thả đập, bằng luật 10/1959 chúng đã lê máy chém khắp miền Nam […] hành hình hằng vạn người con yêu nước, hàng triệu người thân cách mạng […] tội ác của chúng có thể nói trời không dung, đất không tha…”

Nếu tội ác trời không dung đất không tha của chính phủ Ngô Đình Diệm là có thật như ông Tuấn viết thì tại sao từ sau 1954 đến 30 tháng 04 năm 1975 không có một công dân miền Nam Việt Nam nào trốn ra ngoại quốc như những đợt vượt biển, vượt biên ào ạc ngay sau khi bộ đội của ông Hồ cưỡng chiếm miền Nam? Không những chỉ đồng bào miền Nam mà ngay chính đồng bào miền Bắc, vào thời điểm hiện tại, 2016-2017, vẫn vượt biển đến Úc để rồi bị Úc trả về Việt Nam? Và, dưới sự cai trị “sắt máu” của chính thể Ngô Đình Diệm tại sao không hề có “xuất khẩu lao động” để cha mẹ già phải bán hoặc cầm thế mọi thứ nộp cho “nhà nước” Cộng Sản để con cháu của họ được đi làm cu-ly cho các nước khác – như đã và đang xảy ra trong xã hội chủ nghĩ C.S.V.N. hiện tại; cũng không có cảnh thiếu nữ Việt Nam “phơi” thây cho Tàu và Đại Hàn chọn lựa, mua về làm vợ – như đã và đang xảy ra từ ngày người C.S.V.N. nhuộm đỏ toàn nước Việt Nam; cũng chưa bao giờ thanh niên Việt Nam bị đi làm “nghĩa vụ quốc tế” bên Cao Miên để thiêu rụi không biết bao nhiêu trai trẻ Việt Nam! Và cũng không hề có tệ nạn ăn cắp “rầm rộ” do du học sinh, công dân xuất khẩu lao động, nhân viên Hàng Không Dân Sự, con cháu của công chức cao cấp trong guồng máy C.S.V.N. thực hiện liên tục cho đến độ các nước trên thế giới phải viết bảng cảnh cáo bằng tiếng Việt, treo khắp nơi, như sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Ông Tuấn kết tội – một cách mơ hồ, không tài liệu dẫn chứng – chính phủ miền Nam “… lê máy chém khắp miền Nam hành hình hằng vạn người…” Sáu chữ “lê máy chém khắp miền Nam” trong câu này ông Tuấn “sao y bản chính” từ bài Phát Biểu Của đ/c Lê Duẩn Năm 1979. Thì ra, đúng như Ba tôi và quân nhân, công chức bị C.S.V.N. nhốt tù cho biết: C.S.V.N.chỉ có bao nhiêu sách lược, bài bản để “cán bộ” và “đồng chí” học thuộc lòng, cho nên khi viết/nói thì cứ giống nhau!

Vì chỉ học thuộc lòng cho nên ông Tuấn kết tội chính quyền miền Nam mà ông Tuấn quên rằng, năm 1956, trong chiến dịch “cải cách ruộng đất”, đảng C.S.V.N. đã giết oan không biết bao nhiêu ngàn người tại miền Bắc. Ông Tuấn cố tình quên thì tôi xin trích một đoạn trong facebook của Dân Làm Báo để nhắc nhở ông: “...Bà Nguyễn Thị Năm vốn là một địa chủ yêu nước, từng đóng góp hàng trăm lạng vàng cho Việt Minh, đồng thời bà cũng giúp nuôi ăn ở nhiều cán bộ cao cấp cộng sản như Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng […] Vụ xử bắn bà Nguyễn Thị Năm được coi là cuộc đấu tố ‘thí điểm’ theo lệnh quan thầy Trung Cộng, mở màn cho các cuộc đấu tố tiếp theo trên quy mô lớn, dẫn đến cái chết của 675 ngàn người dân vô tội, tương đương với 5% dân số miền Bắc lúc bấy giờ.”

Sau đó thì: “Trong Hội nghị thứ 10 Trung ương đảng, Võ Nguyên Giáp đã thay mặt đảng đọc một bản thú nhận sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất. Hồ Chí Minh khóc lóc và đổ cho cấp dưới thi hành chính sách quá đà, cách chức Thứ trưởng phụ trách cải cách ruộng đất của Hồ Viết Thắng để xoa dịu lòng dân.” (Facebook Cộng Hòa Thời Báo)

Ông Tuấn phản biện như thế nào về lời phát biểu của vài vị trí thức đã một thời “cùng phe” với ông? Đây là lời của nhà văn Trần Mạnh Hảo, một nhân chứng mà gia đình là nạn nhân của cuộc cải cách: “Và những gia đình bị bắn ở trong làng tôi cũng không bao giờ là địa chủ. Họ đã bắn, đã giết oan hàng mấy, hàng chục vạn người, thế thì làm sao mà có thể nói là một cuộc cải cách tốt đẹp được!”(1).

Kế tiếp là lời của ông Nguyễn Minh Cần, nguyên Phó Chủ tịch phụ trách Nông nghiệp của Hà Nội: “Điều thứ hai là bây giờ rất cần một sự thay đổi về ruộng đất. Không phải là chúng ta làm một cuộc cải cách về ruộng đất theo kiểu của Trung Quốc, theo kiểu 1953 trước nữa, mà là phải đấu tranh để xóa bỏ điều ở trong Hiến pháp là quốc hữu hóa ruộng đất của nông dân.”(2)

Và cũng của ông Nguyễn Minh Cần: “Vợ, chồng, con cái của người ta bị bắn chết thì hỏi sửa sai thế nào? Chúng tôi có mấy người liên lạc trong thời kỳ bí mật ở ngoại thành Hà Nội, thì đội cải cách về, chẳng hiểu thế nào mà họ nghèo, quy là địa chủ, bắn chết…” (3)

Và đây là tài liệu về Cuộc Nổi Dậy của nhân dân Quỳnh Lưu chống đảng và “nhà nước” C.S.V.N: “… Tờ mờ sáng này 11/11/56, các bà mẹ đã đánh trống, mõ kêu gọi dân chúng quanh vùng đến tiếp cứu xã Diễn Châu như bị động đất. Rồi 30.000 nông dân kéo đến vây phía ngoài 2 trung đoàn chính quy của C.S., trở thành một vòng bao vây thứ tự Cuộc nổi dậy bộc phát quá lớn, quá mau, đã đi ra ngoài sự tiên liệu của cả 2 bên.

Trước tình hình này, Hồ Chí Minh ra lệnh cho Văn Tiến Dũng điều động Sư đoàn 304 từ Thanh Hóa, Phủ Quỳ và Đồng Hới về bao vây nghĩa quân. Sư đoàn này quy tụ nhiều bộ đội miền Nam tập kết mà Hồ Chí Minh muốn xử dụng, thay vì dùng bộ đội sinh quán ở miền Trung hoặc miền Bắc, để có dịp trút tội cho binh đoàn ‘miền Nam nóng tính này’

Ngày 14/11/1956, Văn Tiến Dũng huy động thêm Sư đoàn 312 vào trận địa quyết tiêu diệt nhân dân Quỳnh Lưu. Khi vòng đai thứ 7 thành hình, Hồ Chí Minh ra lịnh tiêu diệt cuộc nổi dậy có một không 2 trong lịch sử đấu tranh chống Cộng Sản…”(Cộng hòa thời báo)

Lúc nào người C.S.V.N. cũng lên án tội ác của “đế quốc” Mỹ và chỉ đưa ra được sự nhầm lẫn của quân đội Mỹ tại Mỹ Lai. Nhưng tội ác của Mỹ tại Mỹ Lai là do người ngoại quốc giết 22 nông dân Việt Nam; nhân vật chính trong vụ Mỹ Lai – Lieutenant William Calley Jr. – đã bị đưa ra tòa án quân sự Hoa Kỳ xét xử và thọ phạt; còn tội ác của đảng C.S.V.N. và bộ đội cụ Hồ – cùng là người Việt Nam – giết cả mấy mươi ngàn người Việt Nam trong chiến dịch “cải cách ruộng đất” và cuộc nổi dậy ở Quỳnh Lưu lẽ nào chỉ tương xứng bằng lời thú nhận sai lầm của ông Võ Nguyên Giáp và vài giọt nước mắt “cá sấu” của ông Hồ Chí Minh!

Xin trích nguyên văn câu sau đây – cũng trong bài viết cùng tựa đề của ông Tuấn – “Vậy Hiệp định Giơ ne vơ nói như thế nào và Mỹ ngụy đã thực hiện nó ra sao? Chắc các ông không thể xóa đi sự thật là: Vĩ tuyến 17 chỉ là vĩ tuyến tạm thời, sau hai năm (1956) hai miền sẽ hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất nước nhà và Mỹ, ngụy là kẻ chủ mưu chia cắt lâu dài hai miềm Nam-Bắc…” Nếu ông Tuấn muốn biết ai chia cắt lâu dài hai miền Nam Bắc thì mời ông Tuấn đọc câu này, cũng trong bài Phát Biểu của đ/c Lê Duẩn năm 1979: “Khi chúng ta ký Hiệp Định Geneva, rõ ràng là Chu Ân Lai đã chia đất nước ta làm hai [phần]…” Thế thì tại sao ông Tuấn lại đỗ lỗi Mỹ Ngụy là “kẻ chủ mưu chia cắt hai miền Nam Bắc”? Ông Tuấn kết tội Mỹ Ngụy chủ mưu thì mời ông Tuấn đọc câu kế tiếp, cũng trong cùng bài của ông Lê Duẩn: “… Khi chúng ta ở miền Nam và chuẩn bị chiến tranh du kích ngay sau khi ký Hiệp định Geneva…”

Người miền Nam gọi du kích C.S.V.N. là Việt Cộng. Như câu ông Lê Duẩn đã xác định ở đoạn trên thì “…ngay sau khi ký Hiệp định Geneva…” Việt Cộng đã khủng bố người miền Nam bằng cách thảy lựu đạn vào rạp xi-nê, đặt chất nổ nơi cửa nhà hàng, ám sát xã trưởng, v.v… thì không lẽ dân/quân và chính phủ miền Nam không chống trả, để “khoanh tay” chịu chết à? Như thế thì tại sao ông Tuấn và người C.S.V.N. lại buộc tội Mỹ Ngụy?

Cũng trong bài cùng tựa đề, ông Tuấn viết: “V.N.C.H. đã được đồng bào Việt Nam yêu nước trong suốt 21 năm đều gọi là chế độ tay sai, bán nước…” Mời độc giả và ông Tuấn cùng đọc lời của ông Lê Duẩn, cũng trong bài phát biểu năm 1979: “… Lúc đó, hằng năm Trung quốc cung cấp viện trợ 500.000 tấn thực phẩm, cũng như súng ống, đạn dược, tiền bạc, chưa kể đến viện trợ đô-la. Liên Xô cũng giúp bằng cách này…” Như thế thì đảng và bộ đội cụ Hồ có là tay sai của Tàu cộng và Nga hay không? Nếu không thì khí giới ở đâu mà bộ đội cụ Hồ dùng để “phanh thây uống máu” người miền Nam?

Ở đoạn khác ông Lê Duẩn bảo rằng: “…Ông ta – Mao Trạch Đông – nói rằng, vì Mỹ đánh chúng ta, ông sẽ đưa quân đội Trung quốc đến giúp chúng ta […] Mục tiêu chính của ông ta là tìm hiểu tình hình đất nước ta để sau này ông ta có thể tấn công chúng ta và từ đó mở rộng xuống khu vực Đông Nam Á…” Nhìn vào hiện trạng trên Quê Hương, ông Tuấn nghĩ gì khi thấy Tàu cộng tràn lan trong mọi thành phố, mọi ngõ ngách? Với trách nhiệm của một trung tướng ông đã làm được gì trước lời cảnh báo của ông Lê Duẩn về sự “xâm lăng không tiếng súng” của Trung cộng? Tại sao trước sự xâm nhập trắng trợn của Trung cộng ông Tuấn không lên tiếng phản kháng mà nay các nhà viết sử công nhận V.N.C.H. thì ông Tuấn lại nổi giận? Có phải đảng và “nhà nước” C.S.V.N. – sau khi bán cho Tàu từng phần đất của Ông Cha để lại – đã chia cho ông Tuấn bao nhiêu phần trăm cho nên ông Tuấn im hay không? Thế thì tại sao ông Tuấn lên án Ngụy quân Ngụy quyền bán nước?

Là người Việt Nam, không bao giờ tôi muốn hay vui thích khi thấy một dân tộc khác cai trị hoặc sống trên Quê Hương tôi. Nhưng, hãy mạnh dạn nhìn lại lịch sử đau thương của dân tộc Việt:

1.- Thời kỳ Pháp đô hộ Việt Nam, Ba tôi theo kháng chiến chống Tây. Khi nhận thức được bề trái của Việt Minh chỉ là đảng Cộng Sản do ông Hồ Chí Minh du nhập, rồi Việt Minh thi hành chính sách “tiêu thổ kháng chiến” và “bần cùng hóa nhân dân” để mọi người dân – chứ không phải ông Hồ và tất cả đảng viên C.S.V.N. – đều nghèo khổ và dốt nát như nhau, Ba tôi quyết định trốn khỏi “vùng kháng chiến” để trở về “vùng bị chiếm”, do Pháp cai trị.

Tại “vùng bị chiếm”, Ba tôi không bị một ngày tù nào cả; lại được người Pháp cho việc làm hợp với khả năng của Ba tôi. Thế mà khi đảng và người C.S.V.N. cưỡng chiếm miền Nam với khẩu hiệu bất hủ “không có gì quý hơn độc lập, tự do” thì C.S.V.N. nhốt tù Ba tôi, các em trai của tôi – cũng như C.S.V.N. đã nhốt tù tất cả quân cán chính miền Nam – rồi họ tịch thu nhà, tài sản, đất đai của mọi người; đuổi phụ nữ và trẻ con đi kinh tế mới! Trẻ con không được đi học vì có lý lịch Ông, Cha là Ngụy quân Ngụy quyền!

Về sau, người C.S.V.N. cho con cháu của Ngụy quân Ngụy quyền đi học. Nhưng học có bằng đại học rồi cũng chẳng tìm được việc làm, vì việc làm chỉ dành cho con cháu của người C.S.V.N.; vì vậy, con cháu của Ngụy quân Ngụy quyền đành phải mở quán trên vỉa hè để bán các thứ vặt vảnh, sống qua ngày!

Tưởng mở quán trên vỉa hè thì được yên thân kiếm cơm, không ngờ đảng và người C.S.V.N. lại mở chiến dịch “giải phóng mặt bằng” thế là Cha Mẹ của con cháu Ngụy quân Ngụy quyền đành phải cho con cháu xuất cảnh lao động hoặc xuất cảnh bán…dâm hay là vay tiền để con gái bơm ngực, bơm mông rồi vũ khỏa thân trong đám tang của gia đình các quan chức Cộng Sản để kiếm tiền!

Tôi có thể tha thứ và quên đi việc đảng và người C.S.V.N. đã cướp đoạt tài sản của Ông Bà, Cha Mẹ, anh, chị, em và của tôi rồi đuổi Mẹ, chị, em, con, cháu của tôi đi kinh tế mới; nhưng tôi không thể quên được chính đảng và người C.S.V.N. là thủ phạm về sự “ra đi vĩnh viễn” của Ông Bà, Cha Mẹ, chồng, anh, chị, em của tôi trong các trai tù khổ sai, trong lòng biển và nơi vùng kinh tế mới đói nghèo! Tôi cũng không thể tha thứ cho đảng và người C.S.V.N. trong việc “rước” Tàu cộng vào tàn phá Quê Hương và những cuộc hủy diệt di sản văn hóa của Ông Cha, chỉ để xây tượng đài của ông Hồ Chí Minh – người đã đem đau thương/tang tóc đến cho dân tộc Việt – và tượng của Lenin – tên tội đồ của nhân loại!

2.- Thực dân Pháp đô hộ Việt Nam nhưng người Việt rất biết ơn vị truyền giáo Alexandre de Rhodes đã khai sinh ra chữ quốc ngữ để người Việt Nam – trong đó có ông Tuấn – không phải viết chữ như cua bò của Tàu cộng. Một trong những “tên thực dân” Pháp gốc Swiss – nhà bác học Alexandre Émile Jean Yersin – là người đã khám phá cao nguyên Lâm Đồng; về sau người Pháp xây thành phố Dalat trong vùng cao nguyên này. Bác sĩ Yersin cũng từng dạy tại trường đại học Y Khoa Đông Dương, Hà Nội. Bác sĩ Yersin đã gắn bó với Việt Nam cho đến cuối đời; mộ của bác sĩ Yersin còn tại Suối Dầu, Nha Trang!

Bây giờ thành phố Dalat và Nha Trang là nơi lý tưởng để cán bộ cao cấp và các nhân vật uy quyền trong đảng C.S.V.N. xây không biết bao nhiêu dinh thự nguy nga, “hoành tráng”.

Sau này, di tích đảng C.S.V.N. để lại miền Nam là những dinh thự nguy nga; những nhà tù khắc nghiệt nhất để giam giữ Ngụy quân Ngụy quyền; những vùng kinh tế mới đèo heo hút gió; còn di tích của thực dân Pháp để lại trên Quê Hương tôi lại là những ngôi trường vang tiếng một thời!

3.- Đế quốc Mỹ “đô hộ” Việt Nam, không một người Việt nào liều chết để trốn chạy khỏi sự đô hộ đó. Sau khi người Mỹ rút lui thì không biết bao nhiêu ngàn người Việt cũng “rút lui” theo Mỹ để khỏi phải bị người Cộng Sản trù dập hoặc tàn sát! Và ngày nay, người Cộng Sản cũng gửi con cháu “rút lui” theo “bọn Mỹ xâm lược” để con cháu của người C.S.V.N. khỏi phải ăn thức ăn nhiễm hóa chất độc hại do hãng xưởng của Tàu cộng – xây trên đất nước Việt Nam – thải ra sông biển làm ô nhiễm môi trường sống của mọi sinh vật, kể cả con người!

Có phải hơn nửa thế kỷ trước, đảng và người C.S.V.N. quyết tâm “sinh Bắc tử Nam” để đánh cho “Mỹ cút Ngụy nhào” chỉ vì Mỹ không trả tiền thuê đất trên nước Việt Nam cho đảng và người C.S.V.N. bỏ túi hay không?

Nhìn xem, sau khi Mỹ “cút” thì từ Bắc xuống Cà Mau, từ cao nguyên xuống đồng bằng và các khu vực quân sự dọc bờ biển, Tàu cộng ngang nhiên xây những công xưởng rất quy mô – sau khi Trung cộng ký hợp đồng thuê đất dài hạng, giao tiền cho “đảng trưởng” và người C.S.V.N. bỏ túi thì mọi chuyện… “êm ru”!

Ngày trước cũng như bây giờ, đảng và người C.S.V.N. cố tuyên truyền để người Việt Nam ghét Mỹ, để người Việt Nam “ngã” về Trung cộng; vì đối với đảng và người C.S.V.N. thì đảng C.S.V.N. và Trung Cộng như môi và răng, “môi hở răng lạnh”, “4 tốt 16 chữ vàng”. Đảng và người C.S.V.N. cứ tưởng rằng dân Việt Nam sẽ nghe theo và “hồ hởi” đón người “anh em” Trung cộng; nào ngờ người dân Việt Nam đã thấy rõ bộ mặt của đảng và người C.S.V.N. chỉ biết nhận tiền của Trung cộng để Trung cộng được tự do “tung hoành” ngay trên giang sơn của Ông Cha để lại; cho nên sự tuyên truyền của đảng và người C.S.V.N. thất bại hoàn toàn!

Muốn biết sự tuyên truyền của đảng và người C.S.V.N. thất bại như thế nào, xin mời xem lại hình ảnh/youtube Tổng Thống Hoa Kỳ, Obama, thăm viếng Việt Nam vào tháng 05 năm 2016 và hình ảnh cá chết ở Vũng Áng và dọc bờ biển Việt Nam thì sẽ rõ.

Sau hai sự kiện lớn – Vũng Áng và ông Obama – người dân Việt đã nhận thức được sự tuyên truyền dối trá của người C.S.V.N.. Càng ngày càng nhiều người trẻ nổi lên phản bác, chỉ trích đảng và “nhà nước” C.S.V.N.. Dù bị người C.S.V.N. đánh đập, tra khảo đến chết, sự phản kháng vẫn tiếp tục; vì lòng người dân Việt đang sôi sục ý chí chống Tàu cộng.

Vì quá lo sợ ý chí chống Tàu cộng trong lòng dân Việt bộc phát, đảng và người C.S.V.N. có những hành động rất ngô nghê như thi hành kỷ luật đối với họa sĩ Nguyễn Nhân về bức tranh Biển Chết! Bức tranh chỉ vẽ một xác người trôi dật dờ trên triền sóng và một phụ nữ đội nón lá ngồi bên bãi biển vắng, chung quanh bà chỉ toàn là cá chết!

Chỉ có dưới chế độ C.S.V.N, một tác phẩm sống động, đầy nghệ thuật như Biển Chết mới khiến cho tác giả phải long đong!

Tình cảnh trên Quê Hương hiện nay khiến người dân Việt nhận ra được sự thâm thúy của câu “Cháy nhà ra mặt chuột” mà không người dân Việt nào không biết!

Bằng chứng: Ngày 16 tháng 09 năm 2017, người dân phường Hiệp Thành, Sài Gòn bao vây nhà Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng tại Hà Nội để tố cáo tham nhũng, cướp đất. Người dân kêu gọi “bác” Trọng tịch thu tài sản của Nông Đức Mạnh và bọn tham nhũng để hoàn trả cho dân. (youtube của DTV)

Ngày 19, 20 và 21 tháng 9 năm 2017, mấy ngàn tiểu thương chợ An Đông biểu tình bao vây trụ sở Uỷ Ban Nhân Dân Thành phố Sài Gòn.

Ngày 25 Tháng Chín 2017, hơn 500 công an đã dí roi điện, xịt vòi rồng đàn áp 200 người biểu tình chống ô nhiễm và đòi bồi thường tại khu công nghiệp Lai Vu thuộc tỉnh Hải Dương…(Báo Người Việt)

Viết đến đây tôi chợt nhớ câu Ba tôi thường dạy tôi: Muốn biết lòng dân đối với một chế độ như thế nào thì hãy tìm trong thi ca dân dang. Từ ngày người C.S.V.N. cưỡng chiếm miền Nam tôi mới được nghe:

Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ.
Mũ tai bèo che khuất tương lai.

Hay là:

Chiều chiều ra bến Ninh Kiều,
Dưới chân tượng Bác đĩ nhiều hơn dân.

Bốn câu này hết sức tượng hình làm tôi nghĩ đến hai ca khúc – “nhạc vàng” – miền Nam đã được ai đó “sửa” lời ca khác, rất chính xác. Bài đầu tiên là Khúc Hát Ân Tình, nhạc Xuân Tiên, lời Song Hương được đổi tựa là Vào Vơ Vơ Vét và lời ca: “Việt Cộng từ là phương Bắc kéo vô miền Nam vô một bầy, tàn phá nơi này, cùng nhau vơ vét. Ôi! Đồng chí vô Nam làm chi? Đời dân tiêu rồi ối đồng chí ơi... Một lòng cùng nhau vơ vét đảng ta cùng nhau tha hồ lời Bác đang truyền cùng nhau ăn cướp. Ôi! Nhà của nhân dân từ nay về tay cán bộ ối nhà nước ơi...”

Tiếp theo là bài Con Đường Xưa Em Đi, nhạc Châu Kỳ, lời Hồ Đình Phương được đổi lại là Con Đường Xưa Mi Đi, rất hợp cảnh hợp tình, nói lên được nỗi lòng của người miền Nam: “…Con đường theo Lê-nin lũ bay còn bước đi hỏi còn ai bước theo? … Gieo chi sầu khổ muôn vàn khi biết chúng mày là loài Cộng Sản tham tàn. Bao năm rừng đất điêu linh biển cũng không còn ruộng đồng khô nước cạn! Dân oan bao kẻ không nhà chỉ biết kêu trời mà trời cao nào thấu?… Xót xa ngàn nỗi đau cút mẹ mày đi... thằng cộng nô.”

Chưa bao giờ tôi nghe dân chúng chế nhạo chính quyền một cách quá cay đắng, quá chính xác như từ khi đảng và người C.S.V.N. “giải phóng” để biến miền Nam văn minh, phồn thịnh trở thành một nơi… “đĩ nhiều hơn dân” và người Tàu nhiều hơn người Việt!

Tôi muốn nhắn với người C.S.V.N.: Đừng lừa gạt – nhất là lừa gạt người miền Nam – nữa! Người C.S.V.N. đã gạc chúng tôi ngay từ Hiệp Định đình chiến tại Genève năm 1954; Hiệp Định hưu chiến năm Mậu Thân, 1968; Hiệp Định ngưng bắn năm 1973; kêu gọi Ngụy quân Ngụy quyền “đăng ký” học tập đem theo tiền ăn cho 10 ngày; đi kinh tế mới và ủng hộ tài sản cho “nhà nước” thì Ông, Cha hoặc chồng, anh, em được mãn tù sớm, v.v…

Bây giờ người C.S.V.N. muốn dùng thủ đoạn viết lịch sử, công nhận V.N.C.H. để gạc chúng tôi một lần nữa ư? Dù đảng và người C.S.V.N. muốn dùng thủ đoạn viết lịch sử để tìm giải pháp cho vấn đề Hoàng Sa hay là đảng và người C.S.V.N. “thấy sang bắt quàng làm họ” – vì đảng và người C.S.V.N. thấy rõ sự thành công tuyệt vời của thế hệ di dân thứ hai – thì câu trả lời vẫn là: “Không dễ” – ít nhất là đối với tôi.

1/10/2017
Điệp Mỹ Linh

User avatar
TheLang
Posts: 1959
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Image

Tín đồ yêu thương người Cộng sản ra sao???

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận

- Đọc xong tiêu đề trên, có lẽ vài độc giả sẽ phẫn nộ thốt lên: “Yêu thương gì bọn chúng! Cả một lũ chỉ đạo lẫn thừa hành -do dối trá thản nhiên, tàn ác lạnh lùng, tham lam vô độ và ngu xuẩn cố chấp (chỉ thông minh trong việc cướp bóc và đàn áp)- đã và đang gây ra mọi tai họa cho nhân dân, đất nước từ hơn 70 năm trời. Chúng chỉ đáng tiêu diệt! Không nghe nhà văn Phạm Đình Trọng -một người từng ở trong lòng chế độ nhưng nay hoàn toàn phản tỉnh- mới tố cáo sao: “Đảng Cộng sản cầm quyền đã gây quá nhiều tội ác với người dân của mình… cho tất cả các tầng lớp nhân dân, từ những công thần cộng sản đến người nông dân, từ trí thức, văn nghệ sĩ đến nhà tư sản dân tộc. Những tội ác Cải cách ruộng đất, Xét lại, Nhân văn Giai phẩm, tiêu diệt, xóa sổ đội ngũ những nhà tư sản dân tộc và cướp đoạt, hủy hoại nền công nghiệp tư bản non trẻ và đầy tiềm năng là những món nợ lịch sử của đảng CS cầm quyền với dân tộc VN. Nhưng đảng CS cầm quyền vẫn đang vô cảm, thờ ơ, lảng tránh món nợ lịch sử đó, như không hề có món nợ máu đó” (Trích “Không thể có hòa giải khi cái ác còn ngự trị” 22-09-2017)?

Sự phẫn nộ ấy là chính đáng. Nhưng một ngày nào đó, khi Việt cộng sụp đổ như bên Đông Âu thập niên 80-90 thế kỷ trước, thì sẽ không có sự trả thù hàng loạt, giam giữ tràn lan, tước đoạt toàn diện, y như Lê Duẩn và đồng bọn đã đối xử với Việt Nam Cộng Hòa sau cái gọi là “giải phóng”. Lúc ấy, như tại các nước cựu cộng sản bây giờ, công lý sẽ được thực thi bằng pháp luật đàng hoàng, với tinh thần dân chủ, với ý thức tôn trọng sự thật, với sự chỉ đạo của lòng nhân ái.

Nhưng đó là chuyện tương lai. Trước mắt, các tín đồ thuộc mọi tôn giáo -vốn là nạn nhân hàng đầu của chế độ, đang thường xuyên gánh chịu bạo lực hành chánh (những luật lệ gông cổ, đè vai) và bạo lực vũ khí (những cú đánh vào mặt, xuống đầu; những còng sắt khóa tay, những nhà tù giam xác)-phải thực thi ra sao giới luật lớn nhất của đạo mình là từ bi hỉ xả, là bác ái tha thứ, nhất là đối với người CS, những kẻ luôn coi mọi tôn giáo là kẻ thù (chứ không phải ngược lại). Nghĩa là làm thế nào để yêu thương họ? (Xin nói rõ là yêu thương con người, chứ không phải yêu thương chủ nghĩa, chế độ và đảng CS!).

Trước hết, có những tín đồ (xin hiểu là chức sắc lẫn giáo dân) tỏ ra yêu thương những người CS bằng sự im lặng nhẫn nhục, để yên cho họ tung hoành, dù thấy bao thất bại, sai lầm và tội ác của chế độ, kể cả đối với đồng đạo ngay bên cạnh mình. Lý luận của hạng tín đồ ấy: Phải biết tha thứ! Cầu nguyện cho họ là đủ! Đó là chuyện chính trị, chớ nên xen vào! Lên tiếng chỉ chuốc lấy khó khăn và tai họa! Mở miệng ra hay can thiệp vào, không khéo lại chẳng tổ chức được lễ hội, đi ra được nước ngoài, xây dựng được cơ sở... Chẳng thấy bao chức sắc bị chặn tại phi trường chỉ vì đã cất lời phê phán nhà nước sao? Người ta kể rằng vào năm 2008, khi Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt, đang cai quản giáo phận Hà Nội, kêu mời các giáo xứ đến cầu nguyện trước Tòa Khâm sứ để áp lực đòi lại cơ sở này, thì một quản xứ đã từ chối huy động giáo dân. Lý do: “Mất điểm thi đua”!

Có tín đồ tích cực hơn, rất biết cách lấy lòng các cán bộ hay đảng viên có quyền lực tại địa phương bằng cách biếu quà cáp, mời ăn nhậu, với hy vọng những kẻ này để cho họ yên lành hoạt động tôn giáo hay dễ dàng cấp giấy phép này nọ. Một chức sắc đại to đã từng biếu cả tỷ đồng (để gọi là hỗ trợ việc từ thiện) cho Mặt trận Tổ quốc tỉnh, cái ổ tham nhũng lừng tiếng. Có vị, dù biết các cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân tại VN chỉ là trò cưỡng bức và gian xảo, vẫn lấy uy tín của mình để kêu mời đồng đạo “tham gia bầu chọn người xứng đáng”! Trước tình trạng dân chúng, đặc biệt dân đạo, biểu tình rầm rộ nhưng ôn hòa nhiều nơi sau khi Formosa đầu độc biển, giết sạch cá, một vị khác ra thông báo có đoạn: “Vì thế, trong lúc này, xin quý cha và anh chị em giáo dân. khi diễn tả những lo lắng và bức xúc của mình, tránh những hành động quá khích, dẫn tới xung đột, ảnh hưởng tới sản xuất, giao thông, vi phạm pháp luật”. Ai bảo đó không phải là dấu chỉ lòng bác ái đối với cái lực lượng cai trị đang muốn “ổn định xã hội” dù đã làm điều bất chính?

Tích cực hơn nữa, có những tín đồ sẵn sàng trở thành cái loa cho chế độ, cây cảnh cho nhà nước qua việc đi vào những cơ chế, tổ chức mà họ biết tỏng chỉ là công cụ cho đảng, chẳng hạn Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Ủy ban Đoàn kết, Hội đồng chưởng quản…. Thậm chí có vị còn nói: “Tôi là linh mục nhưng cũng là công dân. Là công dân tôi có quyền và có bổn phận tố cáo tất cả những ai phản động”, “Phần tôi, tôi nguyện suốt đời phục vụ cho sự nghiệp đại đoàn kết Dân tộc trên cơ sở yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, suốt đời làm nhịp cầu nối kết quần chúng Công giáo với đại gia đình VN, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chia rẽ, đội lốt tôn giáo, lợi dụng tín ngưỡng của đế quốc và tay sai” (Thông tấn xã VN, 7-7-1977). Có chức sắc còn kết hợp “đạo pháp với xã hội chủ nghĩa”, còn tôn vinh Hồ Chí Minh như Bồ tát!

Thiết nghĩ rằng tình yêu đối với người CS -cũng như đối với mọi tha nhân- là cho họ cái mà họ không có. Yêu chẳng phải là có tâm tình tốt đẹp bên trong và cử chỉ trao tặng bên ngoài sao? Người CS hiện thiếu cái gì? Bị nhồi sọ một lý thuyết triết học sai lầm (vô thần duy vật) bằng một hệ thống tuyên giáo dối trá, được nắm lấy và duy trì quyền lực (độc tài chuyên chế) bằng một bộ máy cai trị cưỡng bức, người CS thiếu hai cái quan trọng nhất cho bản thân và xã hội: chân lý và công lý (hay sự thật và lẽ phải). Do đó mà dưới chế độ CS tràn ngập gian dối, điêu ngoa, tràn ngập bất công, đàn áp, vì thế cũng tràn ngập thảm trạng và tệ nạn. Điều này chẳng cần chứng minh gì!

Do đó tín đồ trước hết phải nói cho người CS (và cho những ai bị họ bịt mắt, bịt tai) biết sự thật. Những sự thật về con người, về xã hội, về lịch sử, về chế độ mà Việt cộng luôn tìm cách che giấu hoặc xuyên tạc. Rồi còn phải trình bày cho người CS biết thế nào là công lý là cái mà Việt cộng không ngừng chà đạp hoặc xóa bỏ. Như Đức Hộ pháp Phạm Công Tắc, trong một lời tiên tri dài viết năm 1956, có cảnh báo: “Từ ngày Việt Minh CS hoạt động ráo riết, thâu thành nầy, đoạt ải nọ, bao nhiêu cặp mắt đều chăm chú vào họ, bao nhiêu tâm hồn đều nhìn vào họ, từ lao động, trí thức, công chức, cho đến thương gia, kỹ nghệ gia, tất cả đều mong mỏi có một điều là: Tự do độc lập, nên có cảm tình với kháng chiến mà họ được tha thứ những lỗi lầm đã qua. Vì quá tin tưởng nơi sự thắng lợi của Việt Minh, mà vô tình lại quên cái hại của dân là ở chỗ đó!”. Như Hòa thượng Thích Quảng Độ, ngày 19-8-1994, đã gởi cho tổng bí thư Đỗ Mười một bức thư kể cho ông nghe rằng đúng 49 năm trước (19-8-1945), máu của sư phụ mình, chân tu Thích Đức Hải đã chảy thấm tấm biển “Việt gian bán nước”, để khởi đầu cho cơn Pháp nạn do Việt cộng gây ra. Trong bức thư lịch sử đó, hòa thượng cũng tố cáo Việt cộng đã sát hại sư bá và sư tổ của mình. Như Giám mục Lê Đắc Trọng (Hà Nội) đã từng viết hồi ký “Những câu chuyện của một thời” để trình bày tình hình Công giáo tại miền Bắc sau năm 1954, trong đó nói cả ý đồ và bản chất cuộc Cải cách Ruộng đất. Như Đạo trưởng Lê Quang Liêm từng viết một loạt Bạch thư thẳng thắn và mạnh mẽ, gởi đảng và nhà cầm quyền Việt cộng vào năm 2014. Như Hội đồng Liên tôn, trong Kháng thư bác bỏ luật tín ngưỡng tôn giáo viết ngày 20-10-2016, đã nói thẳng: “Mọi văn kiện pháp lý của nhà cầm quyền CSVN từ xưa tới nay về Tôn giáo… đều không ngoài mục đích dùng bạo lực hành chánh -kết hợp với bạo lực vũ khí- để cướp đoạt mọi tài sản tinh thần và tài sản vật chất của các Giáo hội, để sách nhiễu, bắt bớ, cầm tù, thậm chí thủ tiêu nhiều chức sắc và tín đồ can đảm, nhằm làm cho các Thực thể Tinh thần vô cùng cần thiết và cực kỳ hữu ích cho xã hội này bị tê liệt hoạt động, bị cản trở sứ mạng, thậm chí bị biến đổi bản chất”. Như Hội đồng Giám mục VN, trong Nhận định về Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo gởi Quốc hội ngày 01-06-2017, đã tố cáo rằng nó “tiếp tục củng cố cơ chế xin-cho…. Cơ chế này cho thấy tự do tín ngưỡng tôn giáo không thật sự được coi là quyền của con người nhưng chỉ là ân huệ cần phải xin và được ban phát. Chính cơ chế đó hợp pháp hóa sự can thiệp của chính quyền vào sinh hoạt nội bộ và kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động tôn giáo”. Gần đây hơn, ngày 17-8-2017, Ms. Nguyễn Hồng Quang, trưởng Giáo hội Tin lành Mennonite VN, đã gởi cho công luận bài tường trình: “Giáo sở Hội thánh Tin lành Mennonite tại Giáo hạt Sài Gòn liên tiếp 7 thời kỳ bị nạn 1994-2017”.

Nói chưa đủ, còn phải hành động, nhất là hành động tập thể, bởi lẽ các tín đồ đều liên kết chặt chẽ với nhau trong một Giáo hội. Hành động tập thể này là đồng loạt lên tiếng, đồng loạt cầu nguyện cho một vấn đề nhân quyền, nhất là đồng loạt biểu tình để tỏ thái độ của tập thể tôn giáo trước những vụ việc liên quan tới quyền dân, quyền người, quyền xã hội… Điều này, các tôn giáo tại Đông Âu đã làm và đạt được hiệu quả là góp phần xóa sạch các chế độ CS tai ác. Điều này, các cộng đoàn, đặc biệt tại Giáo phận Vinh, đã làm từ ngày xảy ra thảm họa Hà Tĩnh. Và dĩ nhiên cần phải làm tiếp. Bởi lẽ nhà cầm quyền độc tài CS chỉ sợ sức mạnh quần chúng, quyền lực nhân dân, vốn dễ dàng tìm thấy và phát huy trong các cộng đồng tôn giáo. Người dân, và thậm chí cả những đảng viên đã chán đảng, đang đặt nhiều hy vọng vào loại xã hội dân sự đặc biệt là các Giáo hội, mong các tín đồ đủ lòng yêu thương để giải thoát người CS khỏi dối trá và bất công, sai lầm và tội ác, để từ đó giải thoát toàn thể Dân tộc khỏi hiểm họa độc tài toàn trị và tiêu vong lãnh thổ.

Dĩ nhiên, trình bày công lý và sự thật như thế cho người CS không phải là điều dễ dàng. Vô số đòn thù thâm hiểm, trả đũa bạo tàn, mưu hèn kế bẩn đã được tung ra hơn 70 năm rồi cho những tín đồ can đảm. Nào giết hại Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, đầu độc Giám mục Nguyễn Kim Điền, bỏ tù Hòa thượng Thích Không Tánh, giam cầm Mục sư Nguyễn Công Chính, xúc phạm nghĩa trang Cao Đài. Gần đây là tấn công trên truyền thông (vu khống, thóa mạ) lẫn thực tế (hành hung, đấu tố) các vị chức sắc Công giáo ở Giáo phận Vinh, từ Giám mục chủ chăn đến các linh mục và cả đến giáo dân của họ. Chịu gian khổ vì công lý và sự thật như thế cũng là một đòi hỏi của tình yêu. Tình yêu đích thật bao giờ cũng đi kèm với sự hy sinh bản thân mình. Nên trong hoàn cảnh VN hiện nay, yêu thương người CS mà không dám trình bày sự thật cho họ, đòi hỏi công lý từ họ và lãnh chịu gian khổ bởi họ thì đừng có nói là đã sống từ bi bác ái với họ, và cũng đừng nói mình đã thực sự và trọn vẹn sống bác ái từ bi!

Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 276

(01-10-2017)

User avatar
TheLang
Posts: 1959
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Image

Biết rồi nói mãi mỏi tai

Phạm Trần

Tổng Bí thư đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) Nguyễn Phú Trọng đã nhìn nhận như thế nhưng không mới trong Diễn văn khai mạc Hội nghị Trung ương 6/Khoá đảng XII tại Hà Nội ngày 4/10, và dự trù kết thúc ngày 11/10/2017.
Có khác chăng là thêm một lần nữa, người đứng đầu đảng phải tiếp tục gánh lấy thất bại của công tác được gọi là “tinh giảm biên chế”, hay giảm bớt số người có ăn mà không làm, hay làm rất ít vẫn tồn đọng trong hệ thống cai trị năm sau cao hơn năm trước.

Bởi vì công tác này đã được thực hiện từ năm 1999 khi đảng khoá VIII thời Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư, đưa ra Nghị quyết “Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc ngân sách nhà nước” tại Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (họp từ ngày 9 đến 16-8-1999 tại Hà Nội).

Thế mà sau 18 năm (1999-2017), qua 3 đời Tổng Bí thư (Lê Khả Phiêu-Nông Đức Mạnh-Nguyễn Phú Trọng), truyện dài biên chế cứ mãi nãi dài thêm vì bớt đầu này lại phình ra đầu kia như quốc nạn tham nhũng càng chống càng đẻ ra thêm con đàn cháu giống để cùng nhau tiếp tục hoan ca “vẫn còn nghiêm trọng và tinh vi”.

Bằng chứng bê bối như ông Trọng đã nói trước các Ủy viên Trung ương và các cựu Lãnh đạo sáng 4/10 (017) rằng: ”Tổ chức bộ máy của khối Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp công lập chậm được đổi mới; tổ chức và biên chế ngày càng phình to; số lượng cấp phó, số người được hưởng chế độ "hàm" không hợp lý; cơ cấu, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức còn nhiều bất cập; số lao động phục vụ gián tiếp quá nhiều trong khi thiếu nhân lực trực tiếp làm chuyên môn nghiệp vụ. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước ở các đơn vị sự nghiệp công và người hoạt động không chuyên trách cấp xã ngày càng nhiều.”

Cứ ỳ ra đấy

Nhưng nhiều là bao nhiêu? Không có bất cứ số thống kê nào cho ta biết, chỉ thấy ông Trọng bảo rằng:”Cho đến nay, chưa kể đến tổ chức, biên chế trong công an, quân đội và khu vực doanh nghiệp nhà nước, cả nước đã có khoảng 58 nghìn đơn vị sự nghiệp công lập với 2,5 triệu biên chế; giữ vai trò chủ đạo, cung cấp hầu hết dịch vụ sự nghiệp công, liên quan đến mọi người, mọi nhà và toàn xã hội như: Dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, thể dục thể thao..”

Nhưng 3 nơi gồm Công an, Quân đội và Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) có bao nhiêu triệu miệng ăn tiền của dân, và họ đã đền đáp công ơn của dân ra sao? Ai ở Việt Nam cũng thấy Công an ngày nay không còn được coi là bạn của dân, là người bênh vực và bảo vệ dân mà rất nhiều Công an đã biến chất, tự diễn biến và tự chuyển hóa thành kẻ thù của nhân dân vì đã mê say đàn áp dân, tích cực tham gia tham nhũng, móc túi dân giữa ban ngày và ở bất cứ nơi nào có thế làm được.

Vậy Quân đội có khá hơn không? Rất khó mà lượng định công bằng. Chỉ biết rằng thay vì chỉ rèn luyện để bảo vệ vẹn tòan lãnh thổ và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ dân thì bây giớ họ đã được lệnh phải “làm kinh tế” để nuôi và bảo vệ đảng vững tâm mà tiếp tục cai trị độc tài, mặc cho Quân Trung Cộng tự do chiếm đảo và đàn áp ngư dân Việt Nam ở Biển Đông.

Tình hình như vậy mà Quốc Hội do đảng cử dân bầu không biết phải làm sao ư?

Thật tội nghiệp cho dân, cái Quốc Hội chỉ biết làm theo lệnh của Bộ Chính trị và Tổng Bí thư đảng cũng vô tích sự muôn năm. Hầu hết chỉ biết than theo cho đẹp lòng cử tri và chỉ dám “cho ý kiến với Đảng và Nhà nước” mà không có bất cứ hành động nào để cải thiện tình hình.

Bằng chứng như Nguyễn An đã tường thuật trong báo An Ninh Thủ Đô ngày 22/08/2017 rằng: ”Sau 5 năm cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước, nhiều đầu mối đã được thu gọn nhưng tình trạng “bộ trong bộ” lại có xu hướng gia tăng.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa cho ý kiến vào báo cáo Kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 - 2016. Báo cáo chỉ ra một thực trạng đáng lo ngại, đó là dù đã có nhiều nỗ lực tinh giản song bộ máy Nhà nước vẫn đang phình to.”

Với tựa nhỏ “Bóp ở trên, dưới lại phình ra”, báo này viết tiếp: ”Qua làm việc với 15 bộ, ngành Trung ương và trực tiếp giám sát tại 15 tỉnh, thành phố, Đoàn giám sát tối cao của Quốc hội chỉ ra, kết quả thực hiện chính sách tinh giản biên chế còn rất hạn chế. Tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính Nhà nước vẫn cồng kềnh, một số cơ quan chức năng quyền hạn còn trùng lặp, chồng chéo, thiếu hợp lý.

Số đầu mối đơn vị hành chính tăng lên, xu hướng nâng cấp vụ lên cục diễn ra ở nhiều bộ. Thậm chí, có tình trạng thu gọn đầu mối trong các bộ nhưng lại tồn tại nhiều “bộ trong bộ”, tổng cục, cục nhiều hơn… Chính vì cơ cấu tổ chức bộ, cơ quan ngang bộ có quá nhiều đầu mối đã làm cho số lượng công chức giữ vị trí lãnh đạo quản lý từ cấp phòng trở lên rất lớn, dẫn đến mất cân đối giữa số lượng người giữ chức danh lãnh đạo, quản lý với số công chức tham mưu.”

Vẫn theo Nguyễn An thì Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lê Vĩnh Tân cũng thừa nhận:”Bộ máy hành chính Nhà nước hiện vẫn còn cồng kềnh. Thực tế, số đầu mối ở các cơ quan quản lý không tăng nhiều nhưng bên trong lại tăng nhiều cục, chi cục, phòng, dẫn đến tình trạng một việc phải trải qua quá nhiều cấp hành chính cho ý kiến, thẩm định, chỉ đạo giải quyết.

Một trong những nguyên nhân khiến tăng biên chế công chức, tăng số đầu mối trong bộ máy hành chính là do bổ sung chức năng, nhiệm vụ quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực theo quy định của pháp luật chuyên ngành và việc chia tách, thành lập mới các đơn vị hành chính cấp huyện, xã.”

Nhưng ai đã vẽ ra để có thể hành dân đến mức chỉ còn cái khố như thế mà “đảng trưởng” Nguyễn Phú Trọng không làm gì được từ 7 năm qua?

Hay vì toàn là dây mơ rễ má chằng chịt buộc chân nhau để chia chác quyền lực nên Tổng Bí thư Trọng cũng phải đầu hàng. Hoặc là các “lợi ích nhóm” nhiều qúa nên bác Trọng cũng phải gồng mình nói ra cho khỏi hổ danh lãnh đạo với dân chứ ông biết thừa có nói cũng chả ma nào nó nghe?

Dù sao thì cứ nghe tiếp lời của Chuyên gia Kinh tế, bà Phạm Chi Lan để biết thêm chuyện của vũng bùn biên chế thặng dư và chia nhau ăn tiền ở Việt Nam nó nghiêm trọng đến mức hại dân như thế nào.

Bà nói: ”Hiện nay số người hưởng lương và mang tính chất lương đã lên tới 11 triệu. Không ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy.”

Trong cuộc phỏng vấn đăng trên báo Điện tử ViệtTimes được VietNamNet đăng lại ngày 09/06/2017, Bà cho biết: ”Bộ máy nhà nước của chúng ta hiện nay có khoảng 2,8 triệu cán bộ, công chức (CBCC), viên chức. Nếu cộng cả đối tượng nghỉ hưu, các đối tượng khác hưởng lương, trợ cấp từ ngân sách nhà nước (NSNN), con số này lên tới 7,5 triệu người, chiếm 8,3% dân số cả nước.

Còn nếu cộng toàn bộ số người hưởng lương và mang tính chất lương thì con số này lên tới 11 triệu người. Không ngân sách nào nuôi nổi bộ máy ăn lương lớn như vậy.”

Bà Lan đưa ra một so sánh: ”Nước Mỹ có diện tích lớn xấp xỉ 30 lần nước ta, dân số gần gấp 4 lần, nhưng đội ngũ công chức của họ chỉ có 2,1 triệu. Nhìn sang Trung Quốc thì chúng ta thấy đội ngũ công chức của họ cũng chỉ chiếm 2,8% dân số.

Như vậy, chúng ta thấy 160 người dân Mỹ chỉ nuôi một công chức, trong khi đó 40 người dân Việt Nam phải nuôi một công chức. Đó là chưa kể người dân chúng ta phải gánh chịu tình trạng quan liêu, sách nhiễu, vòi vĩnh, tham nhũng của một bộ phận không nhỏ trong số 2,8 triệu công chức này.”

Trả lời câu hỏi:”Đội ngũ công chức, viên chức của chúng ta đông như vậy, nhưng theo nhiều người thì chất lượng lại không cao. Ý kiến của bà về vấn đề này như thế nào?

Chuyên gia Phạm Chi Lan đáp: ”Khi còn ở cương vị Phó thủ tướng ông Nguyễn Xuân Phúc nói: “Đội ngũ công chức của chúng ta hiện nay chỉ có khoảng 30% là đáp ứng được nhu cầu công việc”.


Tôi bổ sung thêm là 30% nữa là “sáng cắp ô đi, tối cắp ô về”. Khi còn là Bộ trưởng TT&TT ông Lê Doãn Hợp còn thêm: “30% còn lại không chỉ không làm được việc mà còn vòi vĩnh, nhũng nhiễu, đòi hối lộ”.

Chia nhau ăn thả dàn

Trong cuộc phỏng vấn này, bà Phạm Chi Lan còn tiết lộ nhiều chuyện chia ăn hút mồ hôi nước mắt nhân dân của các Tổ chức do Đàng lập ra, ngoài chuyện biên chế cũng ngập đầu trong các cơ quan này.

Bà nói: ”Theo Dự toán chi ngân sách Trung ương năm 2016 được Bộ Tài chính công khai trên website của bộ này thì, tổng chi cho các cơ quan trung ương của 6 tổ chức chính trị - xã hội tới 1.503,740 tỉ đồng, gồm Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (92,435 tỉ đồng); Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (551,505 tỉ đồng); Trung ương Hội LHPN Việt Nam (158,685 tỉ đồng); Hội Nông dân Việt Nam (346,515 tỉ đồng); Hội CCB Việt Nam (80,830 tỉ đồng); Tổng LĐLĐ Việt Nam (273,770 tỉ đồng). Nếu tính luôn cả dự toán ngân sách cho Liên minh Hợp tác xã Việt Nam thì tổng chi lên đến 1.615,710 tỉ đồng.”

Nhưng không phải chỉ có bấy nhiêu thôi mà Bà Lan còn cho biết: ”Tuy nhiên, đây mới là phần thông tin chi cho các hội, đoàn thể được công khai. Còn rất nhiều hội đặc thù, ở cả Trung ương và địa phương cũng được ngân sách tài trợ một phần, nhưng chưa được công khai trong dữ liệu của Bộ Tài chính, từ Liên đoàn Bóng đá Việt Nam đến Hội Đông y, Hội Khuyến học, Hội Người cao tuổi, Hội Người mù và rất nhiều hội đoàn khác.

Một trong những nghiên cứu hiếm hoi về ngân sách cho các hội, đoàn thể của Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), ngân sách (ước tính) chi khoảng 14.000 tỉ đồng cho toàn bộ khối này, tức là lớn hơn dự toán ngân sách năm 2016 của Bộ NN&PTNT (Bộ Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn) (khoảng 11.000 tỉ đồng), một bộ được coi là siêu bộ, gần gấp đôi ngân sách của Bộ Giáo dục và Bộ Y tế, chỉ thua Bộ LĐTB&XH (Lao động, Thương binh và Xã hội) , và Bộ Tài Chính.

Bà kết luận: ”Nghiên cứu này cũng ước tính, nếu tính đủ cả chi phí kinh tế - xã hội, tức là gồm cả đất đai, nhà cửa, xe cộ và các tài sản khác, chi phí toàn hệ thống của các tổ chức hội đoàn này hàng năm dao động từ 45.600 - 68.100 tỷ đồng, tương đương 1-1,7% GDP.

Hầu hết các hệ thống hội đoàn, trong đó đặc biệt là các tổ chức chính trị- xã hội, được tổ chức theo mô hình hành chính, có biên chế, nhà cửa, trụ sở, xe cộ, với hệ thống tổ chức và mô hình hoạt động hầu như không thay đổi từ thời bao cấp đến nay.”

Vẽ đường cho hươu chạy

Nhưng tại sao một đảng cầm quyền vẫn tự khoe có kỷ luật và biết tổ chức nên đã đạt được hết thắng lợi này đền thắng lợi khác mà Lãnh đạo lại quáng gà như vậy?

Chả ai biết đầu cua đuôi nheo ra sao, nhưng xem ra đã rã ra từng mảnh rồi đấy. Bởi vì, Bộ Nội vụ đã báo cáo Quốc hội: ”Từ năm 2015 đến hết 6 tháng đầu năm 2017, tổng số đối tượng được tinh giản biên chế là 22.763 người. Với tốc độ và cách làm như hiện nay, việc tinh giản biên chế “rất khó” đạt mục tiêu đề ra.

Trong tổng số biên chế được tinh giản, các đơn vị sự nghiệp công lập chiếm đa số (14.791 người); tiếp đến là cán bộ, công chức cấp xã (4.086 người); các cơ quan hành chính (2.824 người); các cơ quan của Đảng, đoàn thể (944 người) và cuối cùng là các doanh nghiệp nhà nước (122 người).

Trong đó năm 2015, tổng số đối tượng được giải quyết tinh giản biên chế là 5.778 người; năm 2016 là 11.923 người và 6 tháng đầu năm 2017 là 5.062 người. Tuy nhiên, Bộ Nội vụ cho biết, với tiến độ và cách làm như hiện nay thì “khó có thể thực hiện được mục tiêu Nghị quyết 39 của Bộ Chính trị”.(theo báo Công an Nhân dân, ngày 18/05/2017)

Nghị quyết 39 ban hành ngày 17/04/2015, Khóa đảng XI của Nguyễn Phú Trọng, đã ra lệnh:”Từng cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập phải xây dựng kế hoạch tinh giản biên chế trong 7 năm (2015 - 2021) và từng năm trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt để tổ chức thực hiện. Trong đó, phải xác định tỉ lệ tinh giản biên chế đến năm 2021 tối thiểu là 10% biên chế của bộ, ban, ngành, tổ chức chính trị - xã hội, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.”

Nhưng kết qủa vẫn là chuyện cổ tích “phép Vua thua lệ làng”, là trên bảo dưới không thèm nghe mà Bộ Chính trị cũng cóc làm gì nổi . Vì vậy mà Bộ Nội vụ đã phải méc thêm với Quốc Hội rằng:”Đến nay, vẫn còn nhiều bộ, ngành, địa phương chưa phê duyệt Đề án tinh giản biên chế đến năm 2021, chưa xây dựng kế hoạch tinh giản biên chế từ năm 2015 - 2021 và của từng năm, dẫn đến tình trạng đề xuất giải quyết chính sách tinh giản biên chế không theo quy định (định kỳ 6 tháng/lần).

Việc chưa xây dựng đồng bộ đề án tinh giản biên chế và kế hoạch tinh giản biên chế đến năm 2021 khiến nhiều đơn vị không có phương án cụ thể ngay từ đầu, không xác định rõ được những người trong diện phải tinh giản, dẫn đến tinh giản thụ động, hầu như mới chỉ thực hiện trên cơ sở nguyện vọng của cá nhân cán bộ, công chức, viên chức. Các đơn vị cũng mới chỉ tập trung tinh giản biên chế mà chưa chú trọng cơ cấu lại đội ngũ công chức, viên chức theo đề án vị trí việc làm.”

Do đó mới có chuyện trớ trêu hầu hết những con số giảm người của các Cơ quan, Tổ chức được báo cáo với Bác Trọng lại là những người đã đến tuổi nghỉ hưu hay muốn nghỉ hưu sớm, hoặc chuyển qua chỗ làm ngoài Chính phủ.

Nếu ông Trọng hoan hỷ coi những con số này là “thành công vượt bực” của tài lãnh đạo của mình thì ông cứ yên tâm ngôi yên đấy mà hưởng thụ chứ nhấp nhỏm đứng lên, ngồi xuống làm gì cho tổn thọ?

(10/017)
Phạm Trần

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Lương tâm của Bộ Y tế sau khi thanh tra 9 tháng
Hải Âu
(Danlambao) - Kể từ khi Nguyễn Phú Trọng tái đắc cử trong kỳ đại hội 12 của đảng cộng sản cho đến nay, điều khiến dư luận quan tâm nhất chính là những cú ngã ngựa của thành phần quan chức thân cận thuộc phe cánh dưới thời Nguyễn Tấn Dũng. Những Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, Vũ Huy Hoàng, Hồ Thị Kim Thoa… đều lần lượt vướng vào những đại án mà tổng bí thư cộng sản nhắm tới trong kế hoạch làm sạch đảng viên.

Chiến dịch thanh trừng những đồng chí không cùng đồng bọn của Nguyễn Phú Trọng bằng chiêu bài chống tham nhũng đã và đang là đề tài tranh luận của giới quan sát. Trong “công cuộc ấy”, cơ quan thanh tra chính phủ được xem là bộ phận đánh giá, phân tích những tổ chức hay cá thể nằm trong tầm ngắm của tổng bí thư đảng cộng sản. Những tham mưu, những quyết sách từ thanh tra chính phủ sẽ là cơ sở cho đảng cộng sản đi đến quyết định xử lý những kẻ gây ảnh hưởng đến vị thế của những chóp bu cầm quyền trong hệ thống đảng trị.

Kết quả thanh tra của cơ quan thanh tra chính phủ được xem như lời cảnh báo và đòn trừng phạt cho những kẻ, những đám không cùng đồng bọn với Nguyễn Phú Trọng. Và đó cũng là tín hiệu khẳng định sự an toàn cho những đồng chí, đồng đảng, đồng thuận với chủ trương của tổng đảng trưởng. Chính vì thế sau những đợt thanh tra sẽ có những kẻ vướng vòng lao lý, sa thải cách chức hoặc nhẹ cũng bị xử lý kỷ luật bằng biện pháp rút kinh nghiệm sâu sắc. Và đương nhiên cũng có những kẻ chắc chắn sẽ an toàn sau khi đảng và lãnh đạo cộng sản công bố thừa nhận sự “trong sạch”.

Nguyễn Thị Kim Tiến, Bộ trưởng Bộ Y tế vừa trình báo cáo gửi Thanh tra Chính phủ và Ban Nội chính trung ương về công tác phòng chống tham nhũng 9 tháng qua. Với tư cách là trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng của Bộ Y tế, Kim Tiến đã cho rằng phòng chống tham nhũng còn nhiều khó khăn, chưa được quan tâm thích đáng về vật chất cũng như tinh thần. Bên cạnh đó việc kê khai tài sản, thu nhập chưa phát huy hiệu quả, còn nặng hình thức… Từ đó Bộ trưởng Kim Tiến cho biết Bộ Y tế chưa phát hiện trường hợp cá nhân hay đơn vị nào tham nhũng, không có cá nhân nào nhận quà tặng không đúng qui định.

Trong nhiều năm trở lại đây, Bộ Y tế đã cho thấy lương tâm của mình khi hàng trăm trẻ sơ sinh bị chết sau khi tiêm vắc xin, vô số bệnh nhận không thể có được chiếc giường để nằm điều trị tại bệnh viện. Tài năng chữa trị của một số y bác sĩ trong biên chế nhà nước cũng là cơ sở đánh giá lương tâm của Bộ Y tế khi nữ sinh bị cưa chân do sai sót của bác sĩ nhưng vẫn được thanh tra kết luận “đúng qui trình”. Đã thế mới đây người dân lại còn được thấy cảnh nữ bác sĩ gác chân lên bàn “đối thoại” với người nhà bệnh nhân.

Lương tâm Bộ Y tế dưới sự nắm quyền của Nguyễn Thị Kim Tiến ngày càng lộ rõ khi người em chồng của Bộ trưởng là Phó tổng giám đốc VN Pharma trong thời điểm công ty này được cấp phép nhập khẩu lô thuốc trị ung thư giả. Lương tâm của Bộ trưởng Bộ Y tế cũng thật “nhẹ nhõm” khi được sống trong biệt thự tiền tỷ do “gia đình để lại” và cho rằng “tăng viện phí là thành tựu y tế”.

Khó có giấy bút nào viết hết những “thành tựu” được tạo ra từ lương tâm của Bộ Y tế dưới sự cai quản của Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến. Hàng loạt scandal trong ngành y dẫn đến những thương tật và cái chết của nhiều bệnh nhân nhưng Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến vẫn không mất một sợi tóc trên đầu. Cho dù người dân có tỏ ra bức xúc thế nào thì Bộ trưởng vẫn bình chân như vại dưới sự che chở của đồng chí đồng đảng.

Cái lò cửa cộng sản vẫn đang cháy và sức nóng của nó vẫn lan tỏa ngay trong hội nghị T.Ư 6 của đảng đang diễn ra. Nguyễn Phú Trọng vẫn đang đều đặn ném những khúc củi trong phe cánh của những đồng chí không cùng đồng bọn vào lò. Nhưng dường như Bộ Y tế không có những khúc củi cần thiết để tăng thêm sức nóng trong lò cộng sản. Hơn nữa Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến lại là cháu ngoại của Hà Huy Tập, tổng bí thư thứ ba của đảng cộng sản. Nữ bộ trưởng này cũng đã có quá trình gắn bó lâu năm với tổng bí thư đảng cộng sản khi cả hai cùng nắm giữ những vị trí cao nhất của đảng, bộ từ năm 2011 cho đến nay. Từ báo cáo thanh tra của Bộ Y tế, có thể nhìn thấy mối “thâm tình” giữa đồng chí Nguyễn Thị Kim Tiến và đồng đảng Nguyễn Phú Trọng bền vững như thế nào.

Với kết quả thanh tra do Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến báo cáo, chắc chắn chỉ có tổng bí thư cộng sản, Nguyễn Phú Trọng và những đồng bọn đồng đảng mới dám tin. Bởi lẽ Bộ Y tế đang vấp phải sự căm phẫn của xã hội trong vụ việc hàng ngàn viên thuốc trị ung thư giả được sử dụng chữa trị cho bệnh nhân. Dư luận đưa ra những cáo buộc lãnh đạo Bộ Y tế tham nhũng, tiếp tay cho VN Pharma trong thương vụ nhập khẩu những viên thuốc giết người. Vì thế, báo cáo của một bộ ngành đang gây bức xúc cho người dân từ một bộ trưởng kiêm luôn vai trò trưởng ban phòng chống tham nhũng thì chỉ có những ai mắc bệnh tâm thần phân liệt mới dám tin.

10/10/2017
Hải Âu

User avatar
TheLang
Posts: 1959
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Image

Cái gì đến sau Hội nghị TƯ 6?

Bùi Quang Vơm

(Danlambao)
Mẹo vặt

Hội nghị TƯ 6 kết thúc buồn tẻ. Bài diễn văn bế mạc của ông Tổng bí thư rời rạc, trống rỗng. Chuyện kiểm điểm tình hình kinh tế là chuyện muôn thưở, chả phải đợi đến Hội nghị TƯ để thảo luận, mà có đến Đại hội lần sau, thì cũng chỉ có "ba khâu đột phá", nhưng chẳng làm được gì khác. "Định hướng" nhưng lại muốn thiên hạ nhận là "Thị trường", có đến vài ngàn Hội nghị Trung ương nữa thì vẫn vậy.

Giữa lúc Ngân sách thiếu hụt triền miên, "nợ công nếu tính đủ đã vượt trần", nền Tài chính Quốc gia có triệu chứng sụp đổ, chuyện bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ dân chúng chỉ là chuyện nói cho vui, lừa bịp mị dân hoặc tung khói che đậy việc gì đó khuất tất, kiểu dương Đông kích Tây.

Nội dung chính, nội dung chủ yếu được Bộ chính trị giao thành "Đề án để báo cáo Hội nghị TƯ 6" từ tháng 10 năm 2016 là đề án "cải cách tổ chức nhằm tăng cường hiệu lực và hiệu quả sự lãnh đạo của đảng" mà nhiều người gọi toạc ra tên của nó là "Nhất thể hoá thể chế", loại bỏ các tầng nấc trung gian, đưa đảng tới trực tiếp với quyền lực. Nhưng cuối cùng lại được đưa vào chương tình ở vị trí thứ tư, với cái tên "Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị" như một việc xưa nay vẫn đang làm, chả mấy quan trọng, và được ghép thêm vào chương trình, như kiểu tiện thể, tranh thủ.

Trong lời bế mạc, ông Trọng cũng nói lấp lửng: "...Ví dụ như: Kết thúc hoạt động của các Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Tổ chức lại Đảng bộ Ngoài nước và Đảng bộ Bộ Ngoại giao. Sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đổi mới hoạt động của các ban bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cán bộ. Đẩy mạnh xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp ngoài nhà nước. Cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Hội đồng nhân dân; thực hiện bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã những nơi có đủ điều kiện. Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý đi đôi với xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực và kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Rà soát, sắp xếp giảm các ban chỉ đạo, ban quản lý dự án và các cơ quan phối hợp liên ngành cho phù hợp. Các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ rà soát, chuyển giao một số nhiệm vụ và dịch vụ công cho doanh nghiệp, người dân đảm nhiệm. Tiếp tục hoàn thiện thể chế về chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ chức chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt. Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động gắn với việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ chuyên trách của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp…"

"Cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân, bí thư cấp uỷ đồng thời là chủ tịch huyện, xã". Đây chính là linh hồn của Đề án Nhất thể hoá, nhưng lại chỉ được nhắc đến như một việc vặt trong hàng loạt công việc khác, thậm chí rất quan trọng, như việc "Kết thúc hoạt động của các Ban Chỉ đạo Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ".

Hội nghị Trung ương 6, với nội dung chờ đợi là Hội nghị Nhất thể hoá, đã bị biến dạng. Người ta đã tưởng ông Trọng thất bại. Nhưng không. Cho dù Nhất thể hoá đợt này mới chỉ hai phần, nhưng là hai phần mấu chốt, hai phần quyết định. Nó chứa đựng một cuộc cải cách có thể làm đảo lộn bản chất chế độ. Ông Trọng đã "dụng mẹo" để vẫn đúng như ý mà không hề nói đến hai chữ "nhất thể", vì hai chữ này đã bị lộ là chiến dịch đảng tràn sang chính quyền.

Sẽ không còn Hội Đồng nhân dân

Dù ông Trọng lập lờ với những từ "những gì đã chín", "ở những nơi đủ điều kiện", nhưng ai cũng biết, khi đã đưa vào kết luận của Hội nghị Trung ương, thì tính chính danh đã đượic giải quyết. Những gì sẽ xảy ra tới đây, coi như trung ương đã nhất trí.

Tới đây, bí thư cấp uỷ, nghĩa là từ tỉnh uỷ, thành uỷ sẽ đương nhiên là Chủ tịch Hội Đồng nhân dân - một loại cơ quan giống như Quốc Hội nhưng của địa phương. Đại biểu của dân không phải bầu ra chủ tịch hội đồng của mình nữa. Cho dù dưới chế độ dân chủ giả hiệu, Hội đồng thực chất chỉ là vật trang trí, bù nhìn, nhưng bây giờ, ngay cả việc khoác chiếc áo giả dân chủ ấy cũng thành thứ khó chịu, nó làm cho đảng cứ phải qua ông Hội đồng mới nắm nà nắn được chính quyền.

Từ nay, quyết định của bí thư không phải là đề nghị Hội đồng xem xét và bỏ phiếu nữa. Nghĩa là cơ cấu các cơ quan hành pháp của chính quyền địa phương, từ Chủ tịch, phó Chủ tịch Uỷ ban tới các Ban, Sở, sẽ do bí thư trực tiếp bổ nhiệm, phân công hoặc chỉ định. Cũng có nghĩa rằng, nếu Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân buộc phải là một người khác bí thư, thì quyền lực thực tế vẫn nằm trong tay bí thư, vì đã bổ nhiệm được thì phế truất được, đó là quy tắc. Ông Chủ tịch theo cơ cấu là phó bí thư, nguyên tắc Tập tung dân chủ không cho phép ông làm khác nghị quyết hay chỉ thị của Bí thư, một dạng nghị quyết "sống", nghị quyết chưa được viết thành văn bản.

Hội đồng nhân dân cấp Huyện, Xã xưa nay chỉ để làm vì, bầu ra chỉ để có người ngồi chơi ăn lương, hầu hết các địa phương dù không tuyên bố nhưng trên thực tế đã từ lâu, không còn hoạt động.

Như vậy, sau Hội nghị Trung ương 6, một tầng nấc trung gian giữa đảng và chính quyền từ cấp tỉnh trở xuống sẽ chính thức biến mất. Sẽ không có chuyện đảng uỷ cấp tỉnh phải đề cử cán bộ và giới thiệu qua Hội đồng nhân dân để được bầu theo kết quả hiệp thương với Mặt trận tổ quốc cấp Tỉnh.

Cán bộ thuộc khối Hành pháp sẽ do đảng uỷ trực tiếp sắp xếp và phân công. Không còn loại quan chức dân cử, dù giả hiệu. Điều này có ý nghĩa là bớt đi được một loại Đại hội đại biểu không ít tốn kém và xoá bỏ một bộ phận quan chức vô công rồi nghề. Ý chí của đảng, hay sự lãnh đạo của đảng sẽ không còn phải qua tầng nấc trung gian nào, sẽ có hiệu lực trực tiếp. Nhưng điều này cũng có nghĩa rằng, nếu người cầm đầu bộ máy, tức là ông bí thư tỉnh uỷ yêu ai và ghét ai, thì toàn bộ hệ thống hành pháp tỉnh biến dạng theo tinh thần đó. Và trường hợp ông tha hoá, ông sẽ biến bộ máy thành hệ thống tham nhũng toàn phần, chẳng hạn nếu cần tiền, thì ông có thể lập ra một hệ thống biển thủ khép kín, bất khả phát hiện, bất khả công phá, giống Sài Gòn thời ông Lê Thanh Hải.

Không có cơ chế Tư pháp độc lập, nếu kết luận của Hội nghị này mở rộng ra cho toàn quốc, tình trạng tham nhũng, không nghi ngờ gì, sẽ lan ra toàn hệ thống và sẽ không một thế lực nào ngăn chặn được.

Hai kịch bản

Tuy vậy, có hai cách để đi đến nhất thể hoá các chức danh bên đảng với chức danh tương ứng bên chính quyền.

Bỏ cơ quan dân cử trung gian, bí thư đảng trực tiếp kiêm chức Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Các ban ngành thuộc uỷ ban sẽ do Ban chấp hành đảng bộ bầu hay phân công trong nội bộ đảng. Đại hội đảng bộ sẽ theo chức năng quản lý hành chính và hành pháp bên chính quyền để bầu ra các vị trí tương ứng cho Ban chấp hành. Mỗi thành viên của ban chấp hành trúng cử đều đương nhiên đảm nhận chức vụ bên chính quyền. Hai bộ máy đã thành một.

Ở cấp Trung ương, tổng bí thư không bầu theo tiêu chí lý luận mà theo chương trình hành động. Người trúng cử Tổng bí thư tất yếu kiêm chức Nguyên thủ quốc gia, đứng đầu Nhà nước. Đại Hội đảng bầu ra Ban chấp hành có cơ cấu phù hợp tương ứng với các nhiệm vụ do chương trình của Tổng bí thư - Chủ tịch nước đặt ra. Ban chấp hành gồm tất cả các thành viên của chính phủ. Thủ tướng đồng thời là phó tổng bí thư, do Tổng bí thư giới thiệu và Ban Chấp hành bầu.

Đây là phương án độc đảng toàn trị. Quốc Hội sẽ dần biến mất như Hội đồng nhân dân các cấp. Chế độ chính trị là một chế độ độc tài độc đảng chuyên chế. Đại Hội đảng là cơ quan quyền lực cao nhất của Quốc gia, thay thế và kiêm nhiệm chức năng của Đại Hội Quốc Dân (Quốc Hội).

Kịch bản thứ hai theo chiều ngược lại. Tất cả các cơ quan dân cử, như Hội đồng nhân dân xã, huyện, tỉnh và Quốc Hội bầu ra các Chủ tịch uỷ ban nhân dân cùng cấp và Chủ tịch nước ở cấp Trung ương. Theo lý thuyết đảng của toàn dân cộng với một chế độ bầu cử trung thực, các thành viên trúng cử do chiếm uy tín và tin cậy của dân, đương nhiên trở thành người giữ chức vụ cao nhất tương ứng trong đảng. Chủ tịch Xã đương nhiên kiêm chức Bí thư Xã. Chủ tịch Huyện, Chủ tịch Tỉnh đồng thời là Bí thư Huyện, và Bí thư đảng bộ Tỉnh. Quốc Hội cả nước bầu ra Chủ tịch nước, và Chủ tịch nước, tự động giữ chức Tổng bí thư đảng.

Theo phương án này, tất cả mọi cơ quan đều thông qua dân cử. Đại hội công dân từ cấp xã tới Trung ương bầu ra tất cả các cơ quan cần thiết của Chính quyền các cấp và của Chính phủ trung ương. Đại hội đảng trở thành một hoạt động có tính tượng trưng tinh thần, chuyển chương trình hành động của Chủ tịch nước đắc cử, thành nghị quyết Trung ương đảng, chuyển các chức danh do Quốc hội bầu thành các chức danh tương ứng trong đảng. Đây là chế độ Dân chủ nhất nguyên. Một đảng nhưng lãnh đạo quốc gia thông qua dân cử.

Điều đáng phải lo sợ

Thực chất, Hội Trung ương 6 đã quyết định bỏ Hội đồng nhân dân tới cấp tỉnh, nhưng ông Trọng lấp lửng với cách gọi chung chung "cấp uỷ". Với cấp Huyện, Xã thì "thực hiện" nhưng cao hơn tức là cấp Tỉnh, Thành, thì "Cơ bản thực hiện mô hình".

Tại sao Nhất thể hoá là một chủ trương lớn được nghiên cứu từ nhiều kỳ đại hội, đến đại hội lần thứ XI đã được chỉ đạo thí điểm tới cấp tỉnh tại Quảng Ninh, và tới đại hội XII đã được giao thành Đề án quốc gia, do Bộ chính trị trực tiếp chỉ đạo, nhưng không được tổng kết, không có nghị quyết trước khi đưa ra thảo luận và kết luận tại Hội nghị trung ương?

Ngày 27/3/2017, đoàn giám sát của Quốc hội về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2016, đã có chuyến kiểm tra, đã trực tiếp nghe báo cáo của lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, nhưng đoàn kiểm tra của Quốc Hội khi đó đã không đưa ra được kết luận, và phản ánh của quốc Hội chắc chắn đã không được Bộ chính trị đồng tình.

Có hai vấn đề bị bỏ lửng sau đợt kiểm tra:

1- Kiểm soát quyền lực như thế nào khi gộp mọi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp vào trong tay một người?

2- Khi Bí thư và Chủ tịch do một người nắm, thì Chủ tịch được dân bầu sẽ kiêm bí thư, hay bí thư do đảng bầu sẽ kiêm chủ tịch?

Hai câu hỏi này không thấy được giải đáp, đồng thời việc Tổng kết chương trình thí điểm không được nhắc đến nữa. Điều này cho thấy, những người chủ trương nhất thể hoá không quan tâm tới chuyện trong tình trạng không có cải cách tư pháp, nhất thể quyền lực tất yếu dẫn đến tham nhũng, mà họ chỉ lấy việc nắm quyền trực tiếp của đảng làm mục đích.

Ngày 4-8-2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 89 và 90-QĐ/TW với tham vọng nhốt quyền lực vào khuôn khổ đạo đức để đảng kiểm soát. Với Quy định này, đảng viên giống như đàn chuột bị nhốt trong lồng, quyền giám sát và sinh sát nằm trong tay Bộ chính trị và Ban bí thư.

Ngày 7/10, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 98-QĐ/TW của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ. Từ nay, tất cả mọi sự luân chuyển cán bộ, nghĩa là lên hay xuống, ở Trung ương hay ở địa phương, không còn do cơ sở quyết định, tự tung tự tác nữa. Quyền luân chuyển, bố trí, đề bạt, thay đổi, thuộc về cấp quản lý trực tiếp, nghĩa là từ cấp viên uỷ viên Trung ương, sẽ do Bộ chính trị và Ban bí thư quyết định.

Hai văn bản này được cho là hai cái gậy để xử lý Nhất thể hoá. Bất cứ sự phản kháng nào đều sẵn sàng bị vô hiệu hoá.

Như vậy, ông Trọng và những người cùng cánh với ông trong Ban bí thư, đặc biệt là ông Phạm Minh Chính, hoàn toàn ý thức được tầm quan trọng dẫn đến chuyển đổi chế độ và tính chất vi phạm nghiêm trọng các quy chế dân chủ, nếu đào thải Hội đồng nhân dân. Nó sẽ khởi đầu cho một thể chế độc tài toàn trị không che đậy, và bắt đầu cho một hệ thống tham nhũng quốc gia.

Có thể thấy, ít nhất là ông Trọng và ông Phạm Minh Chính đã tính hết mọi chuyện để Nhất thể hoá trót lọt.

Thâu tóm quyền lực, tập trung khả năng điều hành trực tiếp, tạo dựng các công cụ trấn áp, nhưng được tiến hành một cách mờ ám, quanh co. Rõ ràng, đây là hành vi của người có động cơ đen tối.

Đó là điều đáng phải lo sợ.

13/10/2017


Bùi Quang Vơm

User avatar
TheLang
Posts: 1959
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Trung Quốc mộng Việt Nam ác mộng

NGO NHAN DUNG
Đại hội thứ 19 của đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ chính thức suy tôn Tập Cận Bình lên ngang hàng với Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình.

Cuốn “Tư tưởng Tập Cận Bình” mới xuất bản hồi Tháng Bảy vừa qua mở đầu rằng nước Trung Hoa cần những vị anh hùng như Mao, Đặng, và Tập đề xuất những tư tưởng và thành tựu mới. Hà Nghị Đình (He Yiting, 何毅亭), hiệu phó Trường Đảng ở Bắc Kinh, mới viết rằng lịch sử cận đại Trung Hoa có thể chia làm ba giai đoạn: Mao Trạch Đông thống nhất nước Tàu, thiết lập chế độ Cộng Sản; Đặng Tiểu Bình cải cách, mở cửa, phát triển kinh tế; và giai đoạn thứ ba từ 2012 đến nay. Năm 2012 Tập Cận Bình lên làm chủ tịch đảng và nhà nước.

Nhưng làm cách nào Tập Cận Bình có thể tự so sánh với Mao và Đặng, trong tư tưởng và hành động?

Sau khi lên ngôi năm 2012, Tập Cận Bình xuất hiện trước công chúng tại viện bảo tàng quốc gia tại Thiên An Môn, ông đọc một bài diễn văn lần đầu tiên nhắc đến một khẩu hiệu: Giấc Mộng Trung Quốc (中国梦); và Phục hưng Dân tộc Trung Hoa (中华民族的复兴). Những lời này đã được bộ máy tuyên truyền của đảng lập lại nhiều lần trong năm năm qua. Đó là “tư tưởng” của Tập, theo tập quán của các đảng Cộng Sản, lấy khẩu hiệu làm tư tưởng.

Trong hành động, trong năm năm qua Tập Cận Bình đã thực hiện hai điều. Thứ nhất, bảo vệ đảng Cộng Sản đang tan rã từ bên trong vì các đảng viên từ trên xuống dưới hết còn tin vào chủ nghĩa Mác Lê và thi đua đục khoét làm giầu. Thứ nhì, bành trướng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới, ở xa bằng ngoại giao và kinh tế, ở gần bằng quân sự. Đó chính là thực hiện “Trung Quốc mộng.”

Tập Cận Bình đã thành công trong việc thanh lọc hàng ngũ đảng. Chiến dịch chống tham nhũng do Vương Kỳ Sanh đứng đầu đã quét sạch gần hết những tay chân của Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào. Đảng viên Cộng Sản bắt đầu đóng tiền đều đặn cho đảng (2% lương bổng, từ 10 ngàn đồng nguyên trở lên.) Các chiến dịch học tập chính trị được tái lập, từ trong xí nghiệp, quân đội, tới các trường học. Những tổ chức xã hội bị khép vào kỷ luật, người đối lập bị đàn áp. Nhà nước bắt đầu can thiệp vào các xí nghiệp tư như Tencent, Alibaba, đòi dự phần quyết định các chính sách đầu tư. Tập Cận Bình đã củng cố độc quyền thống trị của đảng.

Trong quá trình thanh lọc đảng, Tập Cận Bình đã tạo ra rất nhiều kẻ thù từ bên trong. Bài học của các chế độ độc tài là một lãnh tụ gây nhiều kẻ thù nội bộ sẽ không thể nào hạ cánh an toàn. Cho nên Tập Cận Bình cũng chuẩn bị để nắm quyền hành càng lâu càng tốt, nếu không phải là vĩnh viễn.

Đại hội đảng thứ 19 là cơ hội thi hành kế hoạch này. Một nửa các ủy viên Ban Chấp Hành Trung Ương đảng cũng như Bộ Chính Trị sẽ được thay thế. Trong cơ quan tối cao, năm trong số bảy người thuộc Ban Thường Vụ phải về hưu, chỉ còn hai người là Tập Cận Bình, 64 tuổi, và Lý Khắc Trường, thủ tướng, 62.

Trong năm năm qua Tập Cận Bình đã củng cố địa vị với rất nhiều chức vụ. Tập đã lên cầm đầu Quân Ủy Trung Ương ngay sau khi lên, và đã thay thế bốn viên tướng trong quân ủy, cách chức 100 viên tướng khác và hơn 4,000 sĩ quan. Chưa đủ, năm ngoái Tập đã tìm cách trực tiếp chỉ huy quân đội, qua mặt các tướng lãnh bằng cách lập ra một Trung Tâm Chỉ Huy Liên Hợp Tác Chiến (联合作战指挥中心) để đứng làm tổng chỉ huy!

Để chuẩn bị cho đại hội 19, Tập Cận Bình đã nâng đám tay chân của mình lên. Tay chân của Tập Cận Bình thường xuất thân từ các tỉnh Triết Giang và Phúc Kiến, nơi họ tập đã trấn nhậm trước khi leo lên ghế chủ tịch đảng. Trần Mẫn Nhĩ (Chen Miner) được Tập đưa từ Triết Giang qua làm bí thư ở Quý Châu, gần đây đã được đưa qua Trùng Khánh, thay thế Chính Tài (Sun Zhengcai), một tay chân của cựu Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã được đưa về đó sau khi Bạc Hy Lai bị truất. Tôn Chính Tài, 54 tuổi, ủy viên Bộ Chính Trị trẻ nhất, là một ngôi sao đang lên trong đảng, với kỳ vọng sẽ vào Thường Vụ năm nay, bỗng nhiên bị truất và đuổi khỏi đảng, bị kết tội tham nhũng và hiếu sắc. Trong lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc chỉ có ba ủy viên Bộ Chính Trị đã bị đuổi là Trần Hy Đồng (Chen Xitong, 陳希同) năm 1995, Trần Lương Vũ (Chen Liangyu, 陳良宇 ) năm 2006 và Bạch Hy Lai (Bo Xilai, 薄熙來 ) năm 2012.

Bí thư Tỉnh Ủy Triết Giang là Hạ Bảo Long (Xia Baolong, 夏宝龙) 64 tuổi, từng làm phó cho Tập Cận Bình ở tỉnh này từ 2003 đến 2007, mới được đưa về Bắc Kinh đứng đầu ủy ban trung ương chính trị và pháp lý, thay thế Mạnh Kiến Trụ (Meng Jianzhu, 孟建柱), 69 tuổi. Hạ Bảo Long nổi tiếng khi ra lệnh dẹp gần một ngàn cây thập tự giá trên nóc các nhà thờ tại thành phố Ôn Châu, Triết Giang năm 2015.

Một tay chân của Tập là Lật Chiến Thư (Li Zhanshu, 栗战书), 67 tuổi, đã được đưa về đứng đầu Trung Ương Biện Công Sảnh, giống như chức đổng lý văn phòng, có thể được đưa lên coi Ủy Ban Trung Ương Kỷ Luật và Thanh Tra, tiếp tục các kế hoạch thanh trừng nội bộ. Những bí thư thành phố Thiên Tân, tỉnh trưởng Cát Lâm và Hồ Bắc đều là vây cánh của Lật Chiến Thư.

Tập Cận Bình đã nâng Phái Triết Giang lên thay thế Phái Thượng Hải của Giang Trạch Dân và Đoàn phái, xuất thân từ Đoàn Thanh Niên Cộng Sản của Hồ Cẩm Đào. Cánh tay mặt của Tập là Vương Kỳ San, tay đao phủ đã tiêu diệt những Châu Vĩnh Khang, Lệnh Kế Hoạch, vân vân, năm nay 69, đến tuổi về hưu nhưng có thể sẽ được giữ lại. Nếu họ Vương còn được đại hội chấp nhận, thì đó cũng là tạo ra một tiền lệ, chuẩn bị cho Tập Cận Bình vào năm 2022, khi Tập cũng vừa 69 tuổi.

Sau khi đã gây thù chuốc oán với những phe phái khác, Tập Cận Bình rất khó về hưu sau 10 năm cầm quyền, như Hồ Cẩm Đào. Vì vậy, trong đại hội 19 này, sau khi đã được suy tôn là lãnh đạo cố lõi (hạch tâm lãnh đạo), Tập Cận Bình sẽ được ghi danh vào cương lĩnh đảng với vai trò một lý thuyết gia, kế nghiệp Mao và Đặng. Với vai trò đó, Tập có thể được lưu nhiệm vào năm 2022.

Trong đại hội này, nếu không có ai được cử ra làm phó cho họ Tập, như Tập đã được đề cử năm 2007 dưới thời Hồ Cẩm Đào để sau năm năm sẽ kế nhiệm, thì tham vọng của ông ta sẽ rõ ràng. Theo Hiến Pháp Trung Cộng, chức vụ chủ tịch nước có nhiệm kỳ 10 năm, nhưng chức chủ tịch đảng không có giới hạn.

Dù năm 2022 họ Tập không làm chủ tịch đảng thì cũng vẫn có thể bắt chước Đặng Tiểu Bình nắm giữ chức chủ tịch Quân Ủy Trung Ương, cho đến khi nào có thể yên tâm nghỉ hưu! Để chuẩn bị cho tương lai đó, bộ máy tuyên truyền của đảng đã hô hào, kêu gọi nước Trung Hoa cần phải có một nhà lãnh đạo lớn để thực hiện “Trung Quốc Mộng!”

Giấc mộng Trung Quốc chính là mộng làm bá chủ. Đại hội 19 có thể suy tôn tư tưởng Tập Cận Bình, mà điểm quan trọng nhất là Phục hưng Dân tộc Trung Hoa. Cụ thể, là đưa Trung Quốc lên hàng cường quốc đứng đầu thế giới. Đài ti vi của đảng đã làm một chương trình dài trong tháng trước nêu cao các thành tích ngoại giao của Tập Cận Bình trong năm năm qua. Trung Cộng đã gây ảnh hưởng khắp thế giới nhờ bỏ tiền ra mua chuộc các nước Phi Châu, Á Châu, đầu tư vào Châu Mỹ La tinh, lập căn cứ quân sự đầu tiên ở nước ngoài tại Djibouty.

Nhưng trong mươi năm tới, Trung Cộng vẫn chưa đủ sức bành trướng ra khắp thế giới, vì sức mạnh kinh tế cũng như quân sự còn yếu. Trung Quốc chưa thể đọ sức ngay với Nhật Bản trong những tranh chấp lãnh thổ như tại đảo Điếu Ngư. Cho nên địa bàn duy nhất mà Tập Cận Bình có thể diễu võ dương oai là ở vùng Đông Nam Á. Đó sẽ là bước thứ nhất cho Tập Cận Bình thực hiện Trung Quốc Mộng! Mục đích kinh tế như khai thác dầu lửa không quan trọng lâu dài nữa, vì Trung Cộng đang dồn nỗ lực nghiên cứu và sản xuất các nguồn năng lượng mới, hô hào cả nước sẽ cùng xe hơi chạy điện. Nhưng mục tiêu chính trị không bao giờ thay đổi: Trung Cộng phải kiểm soát con đường thủy chuyên chở một phần ba hàng hóa lưu thông của thế giới.

Bành trướng trong vùng Biển Đông nước ta cũng là một chiến thuật để Cộng Sản Trung Quốc bảo vệ quyền uy của đảng, mục tiêu mà Tập Cận Bình đã theo đuổi suốt 5 năm qua. Kích thích tự ái chủng tộc, đề cao lịch sử bành trướng đế quốc Hán tộc, Tập Cận Bình sẽ khiến hơn một tỷ dân Trung Hoa thấy họ phải chấp nhận chế độ độc tài đảng trị, như họ vẫn quen sống dưới các triều đại Hán, Đường.

Đây là một cơn ác mộng đối với các nước trong vùng Đông Nam Á, kể cả Việt Nam.

Nhưng căn cứ vào kinh nghiệm lịch sử, dân tộc Việt Nam có thể đối phó với hiểm họa này! Địa vị tương đối của Trung Cộng hiện nay không mạnh bằng các triều đại Hán, Đường. Họ cũng không “một mình một chợ” tha hồ múa gậy vườn hoang, như 1000, 2000 năm trước, khi Việt Nam còn chưa quan hệ với các nước Đông Nam Á mà cũng không có một cường quốc nào có thể giúp đỡ. Nếu Tập Cận Bình không biết lùi bước đúng lúc, ông ta sẽ nhận được những bài học của Minh Thành Tổ, của Càn Long đời Thanh, khi đụng tới những Lê Lợi, Nguyễn Huệ!

(Ngô Nhân Dụng)

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Đỉnh cao trí tệ

Năm xích lô
(Danlambao) - "Nhân vô thập toàn", đã là người thì vẫn có khuyết điểm đó là bình thường. "Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng" cũng thường nghe. Mới đây có ông bác sỹ "khuyên" bà Bộ trưởng Kim chích nên từ chức sau những vụ lùm xùm giết/hại dân của ngành y tế mà bà ta là người đứng đầu. Lời góp ý đúng hay sai khoan bàn vì có thể đúng và có thể gần gần đúng nhưng với tư cách đứng hình một "bộ phận chăm shock" nội tạng người dân lại cung cấp thuốc giả tràn lan trên thị trường được giải thích ra sao?

Tâm lý con người bình thường hay con ngợm CS (cướp sạch = cộng sản) thích những gì khen và ngại chê. Xin lỗi quý độc giả, nhà cầm quyền có phát trung tiện thì nhân dân phải xung phong nói là thơm thay vì mùi khó chịu, có ai đó bộc trực nói sự thực vấn đề thì bị quy kết vào những tội danh khó hiểu và cũng chẳng cần chứng minh mới thấy đỉnh cao nằm nơi nào. Ông bác sỹ bị phạt 5 triệu này là đảng viên nên mạnh viết góp ý phê bình nhưng bị kiểm điểm với hình thức ABC và phạt hành chánh cho thấy "dân chủ tập trung" nó ra sao. Quan trọng là chẳng nêu ra sai phạm chỗ nào?

Chúng ta hãy nhìn vào thực tế xã hội để có thái độ với nhà cầm quyền. Đảng CS đã đem lại gì cho đất nước và dân tộc ngoài những tuyên truyền dối trá của họ? Giả sử một đảng phái khác thì đất nước chúng ta có tiến bộ hơn? Để đối kháng trò lừa mị của đảng CS, chúng ta nên làm gì?

Thứ nhất là giá trị xã hội. Đạo đức tối thiểu trong khái quát chung đã bị đảng CS hủy diệt. Cs quan niệm đấu tranh giai cấp để kích động xã hội, tạo mâu thuẫn để từ đó cướp chính quyền. Họ chủ trương và thực hành chính sách tạo nghi kỵ giữa con người với con người để thống trị. Chính sách này trong tương đối đã đạt tác dụng để cướp chính quyền nhưng nó sẽ là con dao hai lưỡi.

Thứ nhì là nhân phẩm. Đã làm người và nắm vị trí quan trọng thì càng phải chứng tỏ tư cách nổi trội, nếu không thì cho mấy bé thiếu nhi làm cũng được. Những gì đang và diễn ra trên đất nước chúng ta hôm nay chứng minh đảng CS cố tình kềm hãm ý chí dân tộc và phục vụ cho nhu cầu của nước lạ. Giá trị con người dưới chế độ CS thua loài vật trong xã hội tư bản, vậy những gì lừa mị của đảng trong quá khứ để cướp chính quyền và những ngu xuẩn hôm nay sẽ đưa đất nước về đâu?

Thứ ba là sự bất lực của nhà cầm quyền. Giả sử đảng CS tạo một xã hội tốt đẹp hơn, công bằng và nhân bản hơn thì người viết không chống đối. Sự phản luận luôn cần phải có trong bất kỳ thể chế nào, qua đó tùy thuộc vào nhà cầm quyền theo chiều hướng dân chủ sẽ đón nhận và phân tích để có nhận định thích hợp, riêng với nhà cầm quyền CS sẽ quy kết là "có âm mưu lật thứ gì đó". Thế kỷ chúng ta là thế kỷ nào? Không thể trở về thời đồ đá trong hang Pác Bó muốn nói sao cũng được. Một nhà nước dẫu có tự bầu, sinh mấy đứa qua trò hề bầu cử nhưng ít nhiều phải có những luận chứng thuyết phục. Không thể kết án với những lý luận ngu ngơ ấu trĩ.

Đoạn tạm kết: Nhân dân ưu tư vì đa số đảng viên chạy chọt bôi trơn với rất nhiều tài chánh, xin quên đi thái độ tự trọng và trách nhiệm là xa xỉ phẩm của chế độ, đó là sự thực phũ phàng. Khi chưa thu hồi vốn đầu tư để từ đó thu hoạch, đã đầu tư đương nhiên phải tính lợi nhuận trước khi thu hồi vốn thì làm ơn đừng nói hai chữ "từ chức". Những gì quy kết cho tiếng nói của người dân thay vì đón nhận để phân tích trở thành tội phạm, đủ chứng minh chế độ phục vụ cho ai, đó là "dân chủ tập chung".

Máy bơm "thông minh"

Một chuyện khá "thông manh" (mù) là thành Hồ thuê máy bơm của công ty Quang Trung xóa lụt ở đường Nguyễn Hữu Cảnh với giá trị 1 tỷ Hồ tệ mỗi tháng.

Chúng ta khoan bàn về chuyên môn nhưng trên nguyên tắc thì bơm giải thoát chỗ này để dồn ngập nơi khác chẳng khác con kiến chạy quanh chảo nóng? Theo định luật vật lý thì không có gì tự sinh mà do sự chuyển đổi.

Người viết sinh đẻ và lớn lên ở thành phố này nên chẳng là nhà khoa học nhưng chứng nghiệm một số thực tế.

Đất Sài gòn là đồng bằng trũng và từ nghiên cứu của người Pháp cũng biết địa thế ra sao. Xin phép cho người viết nói về thời trước 75. Dưới những căn nhà một số cư dân là nước, ruộng hoang đất trống trải bạt ngàn nên đất Sài gòn không ngập sau những cơn mưa. Bây giờ tấc đất tấc vàng là suy nghĩ của người dân và hệ thống nên bê tông hóa thì nước rút về đâu? Tương tự như Hà nội có rất nhiều hồ để điều tiết lượng nước mưa nhưng con ngợm đã vì lợi ích cá nhân đưa người dân vào thế khó để hôm nay loay hoay với mệnh đề ai cũng có thể giải, ngoại trừ đảng CS.

Bơm thoát nước từ nơi này thì nơi khác "hưởng". Nâng mặt đường nơi A thì dân đường A thành hồ và đường B nhận thêm những gì từ A chuyển qua. Bài toán sơ đẳng tiểu học nhưng tại sao những đỉnh cao trí tệ mãi loanh quanh? Người viết cho rằng họ không ngu, vì ngu làm sao ngồi trên nói phét, vấn đề là quyền lợi và hệ thống (quy trình).

Kính thưa quý bạn đọc,

Để đưa ra đáp án trong mệnh đề là "chúng ta nên làm gì?", theo người viết thực tế là hãy làm gì trong khả năng và điều kiện cho phép là hay, hơn nữa phải là sự kết hợp. Hành động đơn phương sẽ bị phí nếu chúng ta không biết/chịu kết hợp. Sức mạnh dân tộc sẽ thay đổi đất nước nếu chúng ta biết hội tụ. Đó là niềm tin và người viết hành động cho niềm tin đó. Hãy đi thì sẽ đến!

Riêng khía cạnh nếu có đảng phái nào khác đảng CSVN thì hãy đọc điều 4 hiến pháp cho thấy tự do ra sao.

Hai trong nhiều vấn đề nêu trên của xã hội là điển hình mà người viết tạm bày qua sự quan tâm của người dân nhưng là bài toán đố và khó giải cho chế độ. Chúng ta là người có ý thức và trách nhiệm, đã có lòng với xã hội đất nước thì phải nói những gì mình ưu tư. Đúng hay sai tùy thuộc vào thái độ chính trị. Sẽ làm kềm hãm sự phát triển đất nước khi quy trách vào điều nào đó trong bộ luật sinh sự cho người phát kiến. Một bộ trưởng nghe nói có người yêu cầu từ chức vì không quản được hệ thống y tế có gì sai? Một hệ thống với dư thừa ban bệ nhưng mãi loay hoay với chống nhiều thứ nhưng hễ ai có những ý kiến thực tế lại quy kết chống đảng hoặc gay cấn hơn là "âm mưu lật đổ nhà nước cái con gì đó" là trò hề chẳng thuyết phục được ai.

Một đảng chuyên diễn bi hài, thống trị và tự nhận nhưng lại sợ vài cá nhân để ghép vào tội "âm mưu lật đổ" chế độ được hiểu ra sao? Nói một cách đơn giản và dễ hiểu là sự tuyên truyền để áp đặt thế cai trị nhưng trong tiềm thức của kẻ gian là nỗi lo sự phản kháng của người dân. "Quan nhất thời, dân vạn đại", họ nuốt ngập mặt nhưng sẽ ói khi người dân làm chủ thực sự. Đảng cướp sạch (CS) không mạnh như ảo tưởng. Vai trò là chính người dân chúng ta!

Chúng ta sẽ làm sao để tạo sức mạnh tối ưu cho đất nước? Nếu bạn ưu tư và muốn thì sẽ hội tụ!

Trên bất kỳ đất nước nào, thể chế nào, ý thức công dân là tuyệt đối. Đất nước chúng ta bây giờ ra sao là nỗi niềm mỗi chúng ta. Này công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi! Đó là bổn phận và trách nhiệm thay vì than vãn!

21/10/2017

Năm xích lô

Post Reply