QUÁN BIÊN THUỲ

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Việt Nam Cộng Hòa, một thực thể lịch sử không thể mất
MY LOAN

Image
Lá quốc kỳ VNCH vẫn tung bay ở hải ngoại, nơi có người Việt Nam sinh sống.



Bộ lịch sử Việt Nam xuất bản ở Việt Nam mới đây đã chính thức đề cập tới danh xưng Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), thay gì gọi là “ngụy quân,” “ngụy quyền” như trước đây.

Tuy nhiên, điều này có lẽ cũng không mới mẻ gì, vì kể từ thời ông Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng còn đương chức, những năm trước cũng đã dùng danh xưng này tại Quốc Hội Cộng Sản. Nhân lúc ông ta nói về sự xâm phạm chủ quyền ở Biển Ðông do Tàu Cộng hung hãn gây ra.

Tuy vậy, danh xưng VNCH vẫn bị không ít người bảo thủ tỏ vẻ khó chịu, thậm chí phản ứng gay gắt. Như mới đây, có một ông trung tướng quân đội Cộng Sản đã viết bài gọi những người chủ biên bộ sử Việt Nam này là “hèn nhát,” “phản bội”… và đòi truy tố. Trong khi giới chuyên môn trong nước đanh giá bộ sử này không có gì mới, ngoài tên gọi VNCH ra, thì quan điểm về thể chế chính trị tại miền Nam trước kia hầu như vẫn không thay đổi.

Một nhà văn nữ của Sài Gòn (nổi tiếng từ trước 1975), đã nói với cán bộ văn hóa Cộng Sản, khi những người Cộng Sản cực đoan mới tràn vào thành phố: “Các anh có thể nói Văn Học Miền Nam là ‘phản động’,’đồi trụy’… hay gọi như thế nào là quyền của các anh. Nhưng các anh không thể nói miền Nam không có Văn Học-Nghệ Thuật.”

Bây giờ thì mọi chuyện đã rõ như ban ngày. Nhưng lúc đó, phải can đảm lắm và cũng rất hiểu biết mới có thể nói với những người Cộng Sản ở rừng về như vậy. Nói “rõ như ban ngày” là vì những trường hợp cực đoan nhất, như Lê Hiếu Ðằng thời còn ở trong rừng, nghe lời nhạc của Trịnh Công Sơn – “Hai mươi năm nội chiến từng ngày” đã tuyên bố, khi nào về thành thì ông ta sẽ “lấy máu” của Trịnh Công Sơn vì tội “xuyên tạc” chính nghĩa cách mạng, là “giải phóng dân tộc” thành… nội chiến.

Nhưng ai ngờ, sau bao nhiêu năm chính Lê Hiếu Ðằng đã tuyên bố bỏ đảng. Lại còn kêu gọi các đảng viên khác không lặng lẽ bỏ đảng, mà phải tuyên bố rõ lý do trước khi… thoát đảng.

Lịch sử luôn phải có “độ lùi” tương đối về thời gian để đánh giá, thẩm định lại. Mặc cho sự “đổi trắng thay đen” nhưng sự thật lịch sử chắc chắn sẽ không thể nào chối bỏ được. Như triều đại Gia Long sau khi thống nhất được giang san đã “bôi xóa” triều đại Tây Sơn, gọi đó là “nhà ngụy Tây sơn,” đào mồ cuốc mả để trả thù, để hả giận. Trong khi Cộng Sản lại ca ngợi anh em nhà Nguyễn Huệ là “anh hùng áo vải” là “anh hùng dân tộc.”

Sử Cộng Sản cũng bôi nhọ triều Nguyễn, gọi Nguyễn Ánh-Gia Long là “cõng rắn cắn gà nhà.” Trong khi cả Châu Á rơi vào tay tư bản phương Tây (trừ Nhật Bản đã theo học thuyết phương Tây tự cường từ thế kỷ 17 và Thái Lan nhờ “đu dây” trong chính sách ngoại giao giữa các cường quốc phương Tây mà giữ được độc lập). Vậy hóa ra cả Châu Á này “cõng rắn cắn gà nhà” hay thực ra nền kinh tế phong kiến lạc hậu không đủ sức chống lại sức mạnh kỹ thuật vượt trội của phương Tây thời đó?

Chép sử một chiều, hoặc đem “tâm tình viết lịch sử” đều có hại. Thí dụ như tác giả N.G.K một cựu công chức cao cấp của VNCH, trong cuốc sách “Tổ quốc ăn năn,” đã gọi người quốc gia là kết quả của “cuộc tình” giữa cô Tư Hồng và một viên thiếu tá Pháp. Viết “khơi khơi” như vậy, “bị đập” thì cũng khó lòng mà kêu… oan. Nhưng nếu đọc cuốn “Lịch Sử Quân Lực VNCH” do Phòng 5, Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH biên soạn. Thì ý kiến của N.G.K tuy rất phiến diện nhưng cũng có chứa “một chút” sự thật. Mà “một chút” sự thật thì không hẳn là sự thật lịch sử, mà phải nói rộng ra từ thời Quốc Dân Ðảng của Nguyễn Thái Học, với những tấm gương của Cô Giang, Cô Bắc… Cho tới bao nhiêu người Việt Quốc Gia đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp đòi độc lập. Cuối cùng bị Cộng Sản thanh trừng, cướp công, bôi nhọ, xóa sạch lịch sử để biến lịch sử kháng chiến của dân tộc thành ra… lịch sử đảng.

Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, khi xe tăng Cộng Sản húc đổ cánh cổng sắt của dinh Ðộc Lập (dù canh cửa đã được mở sẵn và chính phủ Dương Văn Minh đang chờ bàn giao). Cộng Sản xông vô và tuyên bố “không còn gì để bàn giao!,” họ đã là người thắng cuộc và đòi chính phủ Dương Văn Minh đầu hàng vô điều kiện. Dù vậy, trong những lời nói cuối với bên “thắng cuộc,” người đại diện cuối cùng của VNCH vẫn bày tỏ, mong muốn những người thắng cuộc sẽ là những người “mã thượng”…

Tiếc rằng, mong muốn của Tướng Dương Văn Minh cũng như mong muốn của bao nhiêu người Việt Nam sau chiến tranh đã không được bên thắng cuộc thể hiện. Nếu như người thắng cuộc mà “mã thượng” thì việc hòa hợp hòa giải dân tộc đã diễn ra từ trưa ngày 30 Tháng Tư năm 1975. Và lịch sử Việt Nam hiện đã đi theo một hướng khác, chắc chắn là tốt đẹp hơn, phồn vinh hơn và dân chủ hơn…

Dù bên thắng cuộc đã không mã thượng, nhưng bên buông súng lại tỏ ra rất mã thượng.

Vùng 4 chưa rơi vào tay Cộng Sản, các cấp chỉ huy VNCH sắp xếp bàn giao, cho binh sĩ trở về với gia đình, chiến tranh đã kết thúc và phải buông súng theo lệnh của thượng cấp. Sau đó các tướng chỉ huy đã tuẫn tiết để thể hiện khí tiết mà không trái với quân kỷ:”Tổ quốc-Danh dự-Trách nhiệm.”

Cổ nhân có câu: “Không ai lấy thành bại để luận anh hùng.” Phe thắng cuộc đã tỏ ra không mã thượng, khi nuốt lời hứa hòa giải dân tộc bằng cách vội vàng giải tán MTGPMNVN… để mau chóng tiến lên “thiên đàng XHCN.” Chính tà thuyết “xã ngãi” đã ngăn cản sự hòa hợp giữa hai người “anh em,” mà trong cuộc huynh đệ tương tàn mỗi bên ngã xuống đều là người Việt.

Lý thuyết Cộng Sản của ngoại bang không có chỗ cho tình anh em, tình dân tộc. Học thuyết Cộng Sản chỉ có đấu tranh giai cấp và cướp chính quyền bằng mọi cách, mọi giá gọi chung là “cứu cánh biện minh cho phương tiện,” tức là đê tiện mà thắng vậy là tốt!

Cho tới khi tà thuyết Cộng Sản bị nhân loại lên án là chống lại loài người, Liên Xô và khối Cộng Sản Ðông Âu tan rã. Trung Cộng chuyển sang kinh tế thị trường dưới sự chỉ huy của một nhóm quân phiệt, đề cao sức mạnh quân sự và chủ nghĩa anh hùng dân tộc cực đoan có nguy cơ trở thành một nhà nước kiểu – Ðức Quốc Xã thứ hai.

Lúc này, mà nhà cầm quyền CSVN không mau thức tỉnh xa lánh con đường của quốc xã Trung Hoa, để về với dân tộc, hòa giải anh em, liên kết sức mạnh với phe yêu chuộng hòa bình-dân chủ-tự do trên toàn cầu thì việc đi đến mất nước hay diệt vong trong cuộc chiến sắp tới là điều không thể tránh khỏi.

User avatar
khieulong
Posts: 6752
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Để nhớ một thời áo trận


Dẫu lìa ngó ý…
Dẫu lìa ngó ý còn vuơng tơ lòng

(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Hương-Thủy

Nhà thơ ngụ ngôn người Pháp La Fontaine đã nói một câu rất hay về tình bạn: “Tình yêu thật sự đã hiếm; tình bạn thật sự còn hiếm hơn ”. Tình bạn giữa tôi và Cát Đằng quả là hiếm có.

Cát Đằng, tên một loài hoa leo có màu xanh pha tím, mỏng mảnh. Bạn tôi cũng dịu dàng, mềm mại, quý phái như hoa.

Chúng tôi thân nhau từ thuở nhỏ, lúc còn học trường tiểu học Đoàn Thị Điểm trong Thành Nội. Hai đứa cứ thế lớn dần lên, lần lượt qua bên kia sông Hương học Đồng Khánh rồi Văn Khoa…

Nhà Cát Đằng nằm ở một góc nhỏ trên đường Mai Thúc Loan. Căn nhà cổ xưa như cuộc sống quan cách của gia đình. Ba Cát Đằng làm công chức cao cấp của Ty Ngân khố Thành phố. Ông đặt cho con những cái tên thật đẹp của các loài hoa : Cát Đằng, Đỗ Quyên, Hoàng Lan…Mấy chị em sống khép kín như những con ốc trong bốn bức tường rêu.

Tôi, tên bình thường : An Nhiên, gia cảnh cũng “thường thường bậc trung”, tóc cắt kiểu Demi Garcon, tính tình đôi lúc ương bướng. Vậy mà chúng tôi thương nhau vô cùng. Chỉ có tôi dám bước qua hai cánh cổng sắt luôn khép kín trong tiếng sủa của con Berger để rủ Cát Đằng đi học. Cũng chỉ có tôi chiếm được lòng tin của ba mạ Cát Đằng. Hai bác nghiêm nghị nhưng coi tôi như con. Hình như hai bác xem tôi là một lá chắn bảo vệ cho cô con gái yếu ớt của mình.

Chúng tôi đã có một thời thơ ấu thật đẹp và hồn nhiên. Những chiều mùa hạ dắt nhau vô con đường bên hông Đại Nội gần cà phê mụ Tôn, nhặt bông phượng đỏ về làm bướm. Những sáng mùa đông sương mù lạnh buốt chở nhau qua cầu Phú Xuân, gió hung hăng như muốn quật hai đứa xuống sông. Những đêm cùng học bài thi, em gái Đỗ Quyên đem vào phòng cho hai chị chén chè hạt sen long nhãn mát rượi. Mạ Cát Đằng thường cười bảo tôi:

- Phải chi An Nhiên là con trai, bác gả Cát Đằng cho cháu.

Tuổi dậy thì hồn nhiên và mơ mộng. Cát Đằng đẹp, nhiều người tán. Tan học về bao nhiêu cái đuôi theo, mãi cho đến cửa Hiển Nhơn mới chịu lui gót. Tôi như garde corps cho bạn. Những chàng sinh viên mê Cát Đằng, nhờ tôi làm chim xanh kèm theo nhiều món quà hậu hĩnh, trong số có cả con của một ông Trưởng Ty đang theo học trường Y. Nhưng tôi từ chối. Không ai hiểu bạn hơn tôi. Cát Đằng tâm sự :

- Sao mình thấy ông nào cũng nhẵn nhụi như Mã Giám Sinh. Ngó phát ớn!.

Người hùng trong tâm tưởng Cát Đằng phải bụi bụi như tài tử Charles Bronson, đêu đểu với bộ ria giống nụ cười của Clark Gable hoặc chí ít cũng phải lãng tử như Gregogy Peck trên chiếc Vespa cổ chở nàng công chúa Audrey Hepburn chạy khắp thành Rome trong Vacances Romaines… Thâm tâm tôi thấy bạn mình quá lãng mạn. Biết tìm đâu ra người lý tưởng trong môi trường phố thị này?

Ấy thế mà một hôm thật bất ngờ, “người hùng” của bạn đã xuất hiện. Đó là một buổi sáng “đầy sương thu và gió lạnh” như trong văn Thanh Tịnh, đoàn Sinh Viên Sỹ Quan trường VBQGVN về Huế vào Đại Học Văn Khoa tuyển quân. Phải công nhận sự có mặt của họ như một hiện tượng trong sân trường xưa nay toàn áo dài, chemise , quần tây. Trong trang phục worsted thật đẹp, thật hào hùng mặt anh nào cũng sáng láng thông minh. Họ trình bày thật ấn tượng về ngôi trường quân sự ở Đà Lạt ngang ngửa với Saint Cyr của Pháp, West Point của Mỹ. Đứng bên những chàng trai Văn Khoa “trói gà không chặt”, trông các anh cao to và đường đường khí thế. Nhìn qua cạnh mình, tôi thấy Cát Đằng như trên mây. Nàng say sưa dán mắt vào anh SVSQ đang giới thiệu chương trình đào tạo. Anh nói giọng Bắc pha chút Huế. Khi chàng ta đi từng bàn phát những tờ ảnh về ngôi trường cho sinh viên nam, Cát Đằng cũng nhoài người qua xin một tờ. Một thoáng ngạc nhiên trong mắt anh nhưng người SVSQ vẫn lịch sự trao tận tay nàng. Mắt hai người gặp nhau. Một cái gì đó thật lạ lần đầu tiên tôi thấy xuất hiện ở cô bạn mình. Má nàng ửng hồng , ánh mắt long lanh, môi mọng ướt mềm…Chuông reo giờ ra chơi, hai người còn trao đổi với nhau suốt cả mười lăm phút bên hành lang Morin.

Ra về, tôi bảo Cát Đằng

- Mình thấy hình như có Coup de Foudre.

Nàng yên lặng do dự một chút rồi bảo tôi :

- An Nhiên ơi, bạn có thương mình không?.

Tôi ngạc nhiên :

- Tui không thương bạn thì thương ai?

- Vậy thì chiều ni bạn xin mạ cho tui qua chơi nhà bạn hí - Được thôi mà

Buổi chiều , tôi ngồi chờ bạn trên chiếc xích đu dưới giàn bông giấy. Nàng xuất hiện trong chiếc áo mousseline màu xanh trứng sáo, quần tây đen. Trông Cát Đằng xinh xắn làm sao. Hèn gì con ông Trưởng Ty mê nàng như điếu đổ. Ngồi nói chuyện với tôi mà mắt nàng nhìn ra cổng như ngóng trông ai…Và bốn giờ chiều. Một bóng người xuất hiện trước cửa. Anh chàng Sinh viên Võ bị hồi sáng…Cô nàng thông minh thật, lấy địa chỉ nhà tôi làm nơi gặp gỡ.

Tôi không tin lắm vào duyên tiền định. Xưa nay, ba mạ vẫn hay nói tôi là kẻ cứng lòng. Nhưng với cô bạn thân Cát Đằng thì tôi nghĩ đó là một mối nhân duyên mà tôi là người góp phần dung túng, ủng hộ. Cô bạn tôi không phải là type người “ yêu cuồng sống vội”. Xưa nay nàng chưa hề cười với ai một nụ. Con nhà gia thế, kín cổng cao tường. Điều gì đã làm cho nàng dám vượt qua khuôn phép gia đình và xứ Huế vốn dễ tiếng tăm?

Chàng sinh viên sỹ quan ấy tên H. đang theo học năm thứ ba trường Võ bị. Anh gốc Bắc, di cư vào Nam năm 54, chọn Huế làm quê hương thứ hai. Anh sống cùng mẹ và chị gái bên Bến Ngự. Anh hơn chúng tôi năm tuổi, trước đây từng học MPC rồi mới quyết định tòng quân. Đợt tuyển quân này là một cơ hội cho anh về thăm mẹ và số phận đưa đẩy để hai người gặp nhau.
Anh H. hiền, tính điềm đạm. Tôi chắc bạn tôi không chọn nhầm. Hai người có một tuần để hiểu nhau. Tôi nhiều lần qua nhà Cát Đằng xin cho bạn đi học nhóm , đi thảo luận… để rồi sau đó chở nàng lên đồi Thiên An, chùa Từ Hiếu hẹn hò. Trong khi hai người trò chuyện, tôi lặng lẽ đi dạo dưới những hàng thông hoặc ngồi đọc sách bên hồ Thủy Tiên để rồi sung sướng ngắm nhìn bạn sáng ngời trong hạnh phúc. Tình yêu làm người ta đẹp ra. Anh H. đưa chúng tôi về thăm gia đình. Căn nhà nhỏ nép mình trong một khu vườn sum suê cây trái.Tiếng chim sâu kêu lách chách. Bà mẹ hiền lành mừng rỡ đón bạn của con; người chị gái tên Hương thương em vô hạn, chăm anh từng ly từng tý. Tôi mừng cho Cát Đằng.

Anh H. trở về Đà Lạt tiếp tục khóa huấn luyện. Nhà tôi trở thành địa chỉ cho hai người trao đổi thư từ. Những bức thư đều đặn hàng tuần. Cát Đằng có một cái hộp bánh CHOCOLATE hình chữ nhật .Đọc xong thư bạn cất vào đó và nhờ tôi giữ hộ. Cuộc tình vẫn nằm trong bí mật với gia đình và bạn bè. Không ai biết ngoài tôi.

Gần cuối năm 1971, sau khi đọc xong lá thư có cái insigne rồng vàng ôm kiếm thiêng, Cát Đằng có vẻ suy tư. Bạn ngồi trầm ngâm trên chiếc xích đu trắng nhìn mông lung. Tôi mở lời :

- Răng đó? Giận nhau hả?.

– Không, có chi mô.

Lần này, bạn cầm lá thư về chắc để đêm nghiền ngẩm.

Con đường đến giảng đường sáng hôm sau như dài ra với sự yên lặng của Cát Đằng. Giờ English Grammar bạn dường như không nghe lời thầy John Schaffer giảng. Lúc ra chơi, đứng ở khung cửa sổ nhìn xuống đường Lê Lợi, Cát Đằng đưa bức thư cho tôi :

- An Nhiên đọc đi !.

Tôi liếc nhanh qua bức thư với những lời yêu thương nồng thắm nhớ nhung chất ngất, hơi đỏ mặt vì thấy mình xâm phạm chuyện riêng tư của bạn. A, đây rồi. Cái lý do làm bạn tôi trăn trở hai ngày nay. Anh H. muốn bạn tôi có mặt trong đêm Lễ trao nhẫn truyền thống của SVSQ năm 3 trường Võ Bị. Là răng? Cát Đằng đi Đà Lạt ư ? Tôi không thể hình dung được chuyện này. Không được. Chuyện quá nghiêm trọng với con gái Huế, nhất là với bạn tôi, một người chưa hề bước chân qua đèo Hải Vân.

Ánh mắt của Cát Đằng tha thiết:

- An Nhiên giúp mình đi. Năn nỉ mà. Cam đoan không có chi xảy ra. Mình đi ba ngày. Chỉ bạn mới có thể giúp mình….

Điều gì khiến một người con gái dịu dàng như Cát Đằng nẫy ra quyết định liều lĩnh thế ? Cái này gọi là sức mạnh của tình yêu đấy ư ? Xưa nay tôi vốn dị ứng với thứ tiểu thuyết lãng mạn của Quỳnh Dao và hoàn toàn không tin vào nhan đề một cuốn truyện của Lệ Hằng “ Chết cho tình yêu”. Không , không đựơc.

Hai đứa không nói chuyện với nhau suốt ba ngày. Nhưng cái vẻ ủ dột của Cát Đằng làm tôi thương xót. Anh H. cũng gởi cho tôi một bức thư ngắn. Anh bảo chính vì xem Cát Đằng là người trăm năm nên anh muốn nàng có mặt trong buổi lễ trang trọng và ý nghĩa này. Anh chịu trách nhiệm về chuyến đi. Lòng tôi mềm ra. Tình yêu xét cho cùng cũng có cái lý của nó. Tôi trở thành kẻ đồng lõa trong cuộc hành trình của bạn.

Vậy là tôi sang nhà xin ba mạ Cát Đằng cho hai đứa vào Đà Nẵng ăn cưới bà chị họ. Mạ bạn tỏ ra e ngại như tất cả những bà mẹ người Huế. Nhưng ba bạn thoáng hơn, hình như ông đang vui vì mới trúng một cú affaire. Hơn nữa, chơi với Cát Đằng hơn mười mấy năm, gia đình bạn tin tưởng tôi tuyệt đối.

Ba của bạn đích thân chở chúng tôi ra bến xe. Ông không thể ngờ rằng khi tới Đà Nẵng, việc đầu tiên của chúng tôi là đến ngay Air Việt Nam trên đường Độc Lập. Và chuyến bay DC six đưa Cát Đằng lên thành phố cao nguyên lúc hai giờ chiều để lại tôi ở lại với cõi lòng như lửa đốt.

Ba đêm tôi ăn không ngon , ngủ không yên ở nhà bà chị. Tôi chắp hai tay cầu nguyện Chúa, Phật và tất cả các đấng siêu nhiên cho chuyến đi thuận buồm xuôi gió. Tôi hơi ân hận vì đã lạc lòng trước những giọt nước mắt của bạn. Có chuyện gì xảy ra với Cát Đằng chắc tôi không sống nổi...

Và chiều thứ hai tôi đã oà khóc tức tưởi khi thấy bạn bước ra từ chiếc Bus của Hàng không Việt Nam.
Nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy bạn xinh như vậy. Mặt Cát Đằng hớn hở như trăng rằm, môi cười rất tươi. Nàng ôm choàng lấy tôi , hôn lên má :

- Cám ơn An Nhiên. Chúng mình cám ơn bạn vô cùng.

Những giận hờn trong tôi đều tan biến.
Trên chuyến xe ra Huế, Cát Đằng tíu tít kể cho tôi bao nhiêu chuyện . Thành phố hoa, những con dốc mù sương, chuyến xe ngựa vòng quanh bờ hồ Xuân Hương và một tấm ảnh đầy ấn tượng. Dưới ánh đèn huy hoàng có hàng chữ Lễ trao nhẫn với hai cái dấu như hai vương miện, bên một cái nhẫn to được trang trí cách điệu lộng lẫy, bạn tôi âu yếm lồng vào tay anh H. chiếc nhẫn Võ Bị. Họ như đôi tân lang và tân nương trong ngày cưới. Mãi mãi đây là một bí mật chỉ riêng ba người biết…

Thỉnh thoảng chúng tôi qua Bến Ngự thăm nhà anh H. Mẹ anh coi Cát Đằng như con dâu tương lai. Bà kể về tuổi thơ vất vả của anh từ khi di cư vào Nam, về lúc cha anh mất , về người con trai cả tên Hùng phải lưu lạc vào Bình Dương kiếm sống. Có những đoạn xúc động, bà rươm rướm nước mắt. Cát Đằng ngồi kế bên bóp nhẹ tay bà. Một hình ảnh dễ thương làm sao. Bà còn dạy cho bạn tôi cách chế biến những món ăn mà con trai thích như canh cua rau đay, bún chả…

Cuối năm 1972 anh H. ra trường. Anh có mười ngày phép trước khi về trình diện tại Sư đoàn 9 Bộ binh có biệt danh “ Mũi tên thép”, Bộ Tư Lệnh Sư đoàn đóng ở Vĩnh Long,Tư lệnh là Chuẩn Tướng Trần Bá Di. Chiến trường miền Trung đang sôi động với chiến dịch tái chiếm Cổ thành Quảng Trị. Đêm đêm tiếng đại bác ì ầm từ phía Bắc vọng về. Thành phố Huế tràn ngập màu áo lính rằn ri .Cát Đằng có vẻ yên tâm với sự chọn lựa này dù hai người có xa nhau về không gian. Mười ngày, tôi phải ra sức bao biện cho bạn để họ có những giây phút hạnh phúc.

Rồi cũng đến lúc chia ly. Chúng tôi tiễn anh vào Nam. Hình ảnh cuối cùng trong mắt tôi là cảnh chàng thiếu úy trẻ trai cầm chặt tay người yêu nói những lời từ biệt : “Em cười đi. Cát Đằng cười đi cho anh yên tâm. Anh sẽ về với em và sẽ thưa chuyện với ba mẹ”. Bạn tôi cười mà nước mắt hoen mi.

Như muốn làm Cát Đằng yên tâm, thư anh H. gởi về liên tục. Anh đóng quân ở Cao Lãnh. Anh làm Đại đội trưởng một đại đội trực thuộc Tiểu đoàn 3 Trung đoàn 14. Anh nói về một vùng đất trù phú, những người dân miền Nam hồn nhiên, những đồng ruộng bạt ngàn, những cánh đồng chó ngáp… Anh ít kể chuyện chiến trường, chắc để người yêu bớt lo.

Nhà ông Trưởng Ty muốn dạm ngỏ Cát Đằng trước khi con trai đi du học. Cô bạn tôi nói với ba mạ “Con chưa muốn lấy chồng” nhưng sau đó cô gặp riêng chàng trai và bảo “Tôi có người yêu rồi. Anh đừng mất công” .Tội nghiệp anh chàng cứ đứng ngẩn tò te.

Cứ thế, những lá thư nối hai niềm vui. Cát Đằng mơ màng dự trù với tôi về tương lai. Một ngôi nhà với ngọn lửa ấm và những đứa con ngoan sẽ ra đời. Ước mơ trong tầm tay với. Tôi chia sẻ hạnh phúc với bạn bằng nụ cười bao dung.

Buổi chiều hai đứa ngồi trước sân hóng gió thì một cánh chim sâu sa xuống trước mặt. Bạn tôi nâng nó lên, âu yếm vuốt ve

- Tội nghiệp mày chưa. Chị nuôi em nhé!.

Mạ Cát Đằng đi từ nhà sau lên hốt hoảng:

- Chim sa cá nhảy. Ăn nói bậy bạ.

Rồi bà lấy một nắm gạo muối tung ra sân. Bạn tôi le lưỡi

- Mạ sao mê tín dị đoan. Thả con chim thấy tội bắt chết !
***
Huế tháng chín. Mùa thu. Những trái thanh trà da đã rám vàng. Tôi chở Cát Đằng lên Nguyệt Biều chọn những trái thật ngon về cúng Rằm tháng Tám. Bạn không quên lựa một cặp thật đẹp để biếu mẹ anh H. chưng bàn thờ. Hai đứa ngồi thòng chân xuống dòng nước sông Hương trên bến đò Dã Viên. Trời thật đẹp. Nắng vàng như mật . Gió hiu hiu. Cát Đằng thở dài

- Phải chi có anh H .

Tôi nguẩy vai

- Rồi sẽ có .

Rẽ vào căn nhà dốc Bến Ngự. Cô bạn nhanh nhẹn nhảy chân sáo trên lối đi quen thuộc. Nhà vắng ngắt. Mùi hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ . Chị Hương ngồi lặng trên ghế, nước mắt chảy quanh. Bạn tôi hốt hoảng:

- Có chuyện chi rứa chị ? Mẹ mô rồi? .

Chị Hương òa khóc:

- Mẹ với anh Hùng đi Vĩnh Long. Em ơi, thằng H.….

Cát Đằng quỵ xuống đất.Tôi và chị Hương đỡ vội lên. Mặt bạn tái xanh, hơi thở ngắn như không còn sức sống. Tôi rót cho bạn một ly nước lọc rồi hỏi han chi tiết. Chị Hương kể cho tôi nghe trong tiếng sụt sịt. Anh Hùng từ Bình Dương gọi ra báo tin anh H. bị thương nặng trong cuộc hành quân vào mật khu ở quận Mỹ An, vùng Đồng Tháp Mười . Mẹ chị đang trên đường vào, chưa biết chi thêm.Trong bóng chiều chạng vạng, ba chị em ngồi yên lặng. Không ai đủ sức đưa tay bật ngọn đèn điện. Chao ôi! Tuần trước tôi vừa đưa thư cho bạn. Anh đang đóng quân ở Đồng Tháp. Anh kể cho bạn nghe về Gò Công - quê hương của bà Từ Dũ mẹ vua Tự Đức; về cam Cái Bè; về mận Trung Lương …Thượng đế ác nghiệt vậy sao? Anh vừa tròn 24 tuổi, ra trường mới chín tháng…

Không biết bằng cách nào tôi đã đưa Cát Đằng về đến nhà. Bạn ngồi sau tôi xiêu vẹo như một cái xác không hồn. Tôi nói với bác gái bạn bị trúng gió rồi đưa bạn vào phòng. Chân tay bạn lạnh ngắt. Đêm ấy tôi xin ở lại, thi thoảng lắng nghe tiếng rên rỉ đau đớn của Cát Đằng. Mọi ngôn ngữ trong giây phút này đều bất lực!

Nhưng nỗi bất hạnh không chỉ ngang chừng đó.Trong khi Cát Đằng định thưa thật với ba mạ để xin phép vào Vĩnh Long thì mươi hôm sau, mẹ anh H. nhắn ra anh H. không chỉ bị thương nặng mà còn mất tích. Cầm bằng như anh đã chết.Thôi còn mong chi nữa. Lần này thì bạn tôi quỵ ngã hoàn toàn. Nỗi đau ẩn giấu tận trong tim biến bạn thành một bóng ma câm lặng. Bác gái cứ căn vặn tôi hai đứa có chuyện chi không. Làm sao tôi dám trả lời. Thôi cứ đế bác tối tối thắp nhang ngoài cổng ngõ cầu cho con gái yêu đừng mắc “bệnh đàng dưới ”.

Phải sau ba tháng mẹ anh H. mới ra Huế. Bà sút gần bốn kí và hốc hác hẳn đi. Bà ôm lấy Cát Đằng khóc nghẹn

- Con ơi! Bác không có duyên làm mẹ con rồi !.

Cát Đằng òa lên nức nở. Thôi cứ để bạn khóc cho nhẹ lòng.Tôi thật đau xót khi thấy đêm đêm bạn lôi tấm ảnh hai người trao nhẫn ra ngắm nghía.

Không hiểu sao nhà anh H. không lập bàn thờ. Có lẽ niềm tin của người mẹ cho rằng con mình chưa chết. Vâng, mất tích chưa hẳn là chết. Mắt anh sáng, tai anh to vậy mà. Chắc bác vẫn hy vọng một phép mầu nào đó chăng? Căn nhà đóng kín cửa. Mẹ anh H. vắng nhà luôn. Chị Hương bảo bà vào Bình Dương chơi với cháu nội cho đỡ buồn. Khu vườn rộng thui thủi một mình chị. Mỗi lần ghé thăm, nhìn Cát Đằng, chị lại bệu bạo “ Số em sao khổ thế H. ơi !”

Những đợt trao trả tù binh hai bên ở Lộc Ninh, Quảng Trị làm cho Cát Đằng hi vọng. Biết đâu anh sẽ trở về. Anh chỉ bị thương thôi mà. Bạn chăm chú theo dõi trên những tờ báo Tiền Tuyến, Sóng Thần… Nhưng tháng ngày qua. Niềm hi vọng hầu như đã thành tuyệt vọng. Bất chấp hiệp định Paris, chiến sự ngày càng ác liệt. Máy bay cứu thương liên tục hạ xuống bệnh viện Mang Cá trong Thành Nội…

Rồi Huế nháo nhác, tan tác…Rồi đất nước tang thương…
Ba Cát Đằng đi “cải tạo” vì bị xếp vào loại “ Ngụy quyền”. Bạn tôi bước xuống cuộc đời.
Trải một tấm nilon ở góc chân cầu Trường Tiền, Cát Đằng đi bán chợ trời. Cô tiểu thư con nhà quyền quý ấy bây giờ phải bươn chải với gánh nặng áo cơm của cả gia đình. Bạn bán từng cái áo nhà binh cho người đi lao động, vài cái lon Guigoz tiện cho người đi thăm nuôi, những chiếc áo dài cũ của vợ các sỹ quan một thuở huy hoàng, gói thuốc lá Tam Đảo nặng mùi khét lẹt cho đến cái chén kiểu, ly tách sang trọng một thời vang bóng...Nhìn bạn đếm từng hào tiền Bắc sau buổi chợ , tôi chảy nước mắt. Nhưng một nửa đất nước đều như thế, biết làm sao.

Thi thoảng nhờ em gái Hoàng Lan coi hàng, chúng tôi lên Thiên An quét lá thông về làm chất đốt. Củi cũng phải mua bằng tem phiếu mà gia đình chúng tôi làm gì có đặc quyền đặc lợi ấy. Sau khi nhét đầy lá vào hai bao tải, chúng tôi ngồi dựa gốc cây nghỉ mệt. Cát Đằng âu sầu đưa mắt nhìn chung quanh.Tôi biết trong đầu bạn đang nghĩ về những kỷ niệm xưa. Cũng nơi này, ngày ấy có một cặp tình nhân thật đẹp đang nắm tay nhau đi dưới rặng thông. Cảnh đấy người đây nhưng một người đà khuất bóng. Tôi không dám gợi lên điều gì với bạn. Mọi chuyện cứ như là một giấc mơ nhưng mỗi sáng mai thức dậy lại phải đối mặt với sự thật kinh hoàng.

Thành phố tăm tối hẳn đi. Mới 8 giờ tối điện đã cúp. Những chiếc Honda đổi chỗ cho giai cấp cán bộ. Huế xuất hiện xe đạp thồ. Những khuôn mặt đau khổ nhếch nhác. Những câu ca dao hiện đại được thầm thì chuyền miệng. Những bài hát được chế biến bi hài. Người ta nhắc lại câu nói mười bốn chữ bất hủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. “Rồi cứ thế ni mãi răng???” Mạ tôi ngữa mặt than trời rồi chặt hết những cây mai vàng thay vào mấy luống khoai lang cứu đói!

Bốn năm sau, ba Cát Đằng chết trong tù vì sức tàn lực kiệt. Mạ bạn khô nước mắt đi thăm mộ chồng ngoài Thanh Hóa. Một mô đất trơ trọi trong rừng được đánh dấu bằng viên đá xanh lớn. Còn đâu người đàn ông khả kính trụ cột gia đình. Tóc bà bạc trắng. Cái lúm đồng tiền xưa kia đã trở thành ngoặc đơn rồi ngoặc kép.

Từ nước ngoài người con trai yêu Cát Đằng ngày đó xuất hiện như một vị cứu tinh. Anh ta gởi về giúp gia đình bạn những xấp vải, những gói thuốc tây, những đồng đô la được khéo léo nhét trong hộp sữa… Tất cả chỉ nhằm một mục đích chinh phục tình yêu của người con gái Huế mà anh ta say đắm. Mạ bạn tha thiết khẩn nài “Con ơi! Thằng đó nó tốt, lại hiền lành, con nhà trí thức. Lấy hắn con cũng sướng mà các em cũng đỡ khổ. Với lý lịch này thì nhà mình không ngóc đầu lên được . Con chỉ có nước lấy anh xe thồ hoặc ông nông dân mà thôi” . Bạn tôi gục mặt vào hai bàn tay khóc nghẹn. Phải chăng bạn đang nghĩ đến một Thúy Kiều hiện đại?

Tôi khuyên Cát Đằng : Mọi chuyện đã trở thành quá khứ. Anh H. mất rồi. Đã gần 7 năm. Bạn đâu phải là kẻ phụ tình. Trong hoàn cảnh này đôi khi phải thực tế. Bạn yên lặng gật đầu.

Mọi chuyện được thu xếp nhanh chóng. Bà mẹ chú rể từ nước ngoài trở về. Một vài lễ nghi cần thiết trong buổi giao thời. Và xúc tiến giấy tờ bảo lãnh.

Tôi đưa Cát Đằng lên thăm chị Hương lần cuối. May sao lại gặp mẹ anh H. từ Bình Dương trở về. Bác bảo có thể bác sẽ vào trong đó ở hẳn. Bác ôm vai bạn tôi: “Bác mừng cho con. Biết tin này ở đâu đó chắc H. vui lắm”. Trên bàn thờ vẫn chưa có ảnh của anh. Ghê gớm thay lòng tin của người mẹ. Bạn tôi xin phép được lạy trước bàn thờ ba lạy và nhét vào túi mẹ anh H. chút vốn liếng còm cỏi. Nước mắt người mẹ ứa ra tràn trề. Bà khẽ kêu “ H. ơi! ”.

Trước khi xuất cảnh, Cát Đằng đến nhà tôi ngủ lại một đêm. Bạn đem theo cái hộp bánh CHOCOLATE chứa những bức thư của hai người, tấm ảnh trao nhẫn được đặt lên trên. Cát Đằng bảo tôi

- An Nhiên là một chứng nhân quan trọng trong mối tình lớn của mình. Mình không thể mang theo kỉ vật quý giá này. Bạn giữ giúp mình cho đến lúc nào còn có thể .

Tôi cất vào tủ sách, lòng ngậm ngùi thương bạn.
Thời gian qua, Cát Đằng đã có một gia đình êm ấm. Ông chồng thành đạt, hai con một trai một gái xinh xắn. Cả hai đang định cư ở thành phố Denver, tiểu bang Colorado. Tôi mừng cho bạn. Cuối cùng, một cô gái ngoan hiền như bạn tôi nhất định phải được sung sướng. Qua những cuộc trò chuyện từ nước ngoài, tôi tránh gợi chuyện ngày xưa.

Tôi cũng đã có gia đình. Một ông chồng do bàn tay số mệnh sắp đặt. Một ông chồng yêu vợ thương con nhưng vô tâm. Tôi cũng chẳng bao giờ hé môi về chuyện bạn mình…
***
Ngày mai, gia đình tôi sẽ vào Nam lập nghiệp. Mở tủ sách, tôi cầm cái hộp bánh cũ. Những bức thư nhuốm màu thời gian nhưng tấm ảnh vẫn còn rất rõ. Ôi! Nụ cười hạnh phúc của cả hai người.

Tôi không thể đem chúng theo. Đốt thì tôi không nỡ. Suy đi tính lại, tôi quyết định đem lên nhà chị Hương, nhờ chị đặt trên bàn thờ anh H. Không còn gì để hy vọng về anh nữa rồi.

Căn nhà vẫn như xưa dù thời gian có làm nó già và cũ kỹ hơn. Tiếng chim sâu vẫn kêu lách chách trên những vòm cây xanh. Tôi dựng chiếc xe vào gốc ngọc lan, lòng bùi ngùi. Kỷ niệm ngày xưa ùa về trong ký ức. Một chiếc xe lăn trên hàng hiên. Tôi trách mình đã lâu không thăm mẹ anh. Cuộc sống bận rộn với cơm áo, gạo tiền làm mình trở thành người có lỗi.

Tôi tự nhiên đẩy cửa vào phòng khách khép hờ. Một người đàn ông nằm trên ghế sofa, tay cầm cuốn sách, chiếc chăn mỏng đắp ngang thân, phía bên dưới là một… khoảng trống. Anh ngước nhìn lên. Có phải tôi đang mơ? Đôi mắt ấy , gương mặt ấy… Đúng là anh H. Anh cất tiếng “An Nhiên đấy ư em? ”. Tôi bàng hoàng , ngơ ngẩn.

Vâng, anh H. Anh bị thương nặng nhưng không chết. Trong cuộc hành quân của Tiếu đoàn vào mật khu Đồng Tháp Mười, đại đội của anh sa vào ổ phục kích. Môt mảnh B40 đã bay vào lưng anh, chạm ngay cột sống. Anh được đưa về quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Bác sỹ cho biết mảnh đạn đã làm đứt dây thần kinh tủy sống dẫn đến khả năng bại liệt suốt đời. Trong cái đau đớn tận cùng của thể xác, anh vẫn nghĩ đến Cát Đằng. Không thể gắn số phận bất hạnh của mình đối với người yêu, anh cắn chặt răng bảo mẹ báo tin với Cát Đằng là mình bị mất tích. Và người mẹ đã làm theo lời anh…

Từ Cần Thơ, anh được chuyển vể Tổng y viện Cộng Hòa. Các bác sỹ và y tá tận tâm chăm sóc anh. Vết thương bên ngoài tạm ổn, anh sang Trung tâm phục hồi chức năng. Mẹ già theo sát anh từng bước. Đó là lý do khiến bà bảo với Cát Đằng mình vào Nam sống với người anh cả.

Sau ngày 30 tháng 4, tất cả thương binh nặng nhẹ đều bị tống ra đường. Anh về Bình Dương nương tựa nhà anh Hùng. Vết thương không còn được quân y viện chăm sóc, lâu ngày bị hoại tử và hai chân anh bị tháo khớp tới gối. Mẹ già mất, Cát Đằng đã đi xa, anh quyết định về Huế sống phần đời còn lại bên người chị gái thương yêu. Gần mười mấy năm nay anh sống nhờ vào sự cưu mang, đùm bọc của các khóa Võ Bị ở nước ngoài, những chiến hữu cùng đơn vị và một số anh em còn kẹt lại ở quê nhà... Cao quý thay tình nghĩa đồng môn của những chàng trai cùng trường Mẹ! Anh cũng tự ôn kiến thức để dịch thuật, để luyện thi cho các học sinh nghèo vào Đại học. Cụôc sống không đến nỗi thấy mình là người vô dụng.

Cầm xấp thư và tấm hình, anh H. trầm ngâm bảo tôi:

- Anh cám ơn An Nhiên. Cố vật đã tìm về cố chủ. Cứ để cho Cát Đằng nghĩ rằng anh đã chết. Đó chính là tình yêu của anh giành cho cô ấy.

Anh nâng chiếc nhẫn có viên hồng ngọc trên ngón tay áp út, âu yếm hôn vào nó. Chiếc nhẫn năm xưa, Cát Đằng đã lồng vào tay anh trong đêm Lễ trao nhẫn trên Vũ đình trường.

Một cơn gió lạnh thoảng qua. Mùa Đông đã về trên thành phố.

Hương Thủy

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Phan Nhật Nam: Bút thép, mực máu, trái tim lửa

Có một câu thơ cũ viết về Phan Nhật Nam, khi anh còn bị cùm trong nhà tù Cộng Sản: “Bút thép, mực máu, trái tim lửa.” Ba mươi năm qua, phải công nhận Phan Nhật Nam vẫn không thay đổi. Đọc bức thư anh mới trả lời Hữu Thỉnh, chủ tịch Hội Nhà Văn Việt Nam ở Hà Nội, thấy vẫn là con người như 50 năm trước.

Ông Hữu Thỉnh viết thư mời ông Phan Nhật Nam về nước, “Trong khuôn khổ một cuộc gặp mặt của Hội Nhà Văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài… tại Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc.”

Bức thư mời viết rất ngọt ngào. Ông Hữu Thỉnh còn nêu lên “ý nghĩa cao cả, góp phần làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc,… (để) cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp…” Quan trọng nhất, ông báo trước, “Ban tổ chức sẽ lo chi phí toàn bộ đi về và thời gian tham gia cuộc gặp mặt.”

Tóm lại, một chuyến du lịch miễn phí, kéo dài ít nhất 5 ngày, chưa nói đến những “dịch vụ” miễn phí có thể hấp dẫn khác trước và sau cuộc họp.

Một tuần sau, Phan Nhật Nam đáp thư, nói thẳng thắn, với lời lẽ lễ độ: “Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối…”

Nói như vậy đủ cương quyết rồi. Nhưng bản tính của Phan Nhật Nam là… không nói rõ thì không chịu được! Cho nên ông đã nêu ra các lý do tại sao từ chối.

Ai đã đọc các tác phẩm của Phan Nhật Nam trước năm 1975 đều biết rằng người sĩ quan nhẩy dù này đã nhiều lần đối thoại trực tiếp với các cán binh Cộng Sản Bắc Việt, ngay tại mặt trận. Mỗi khi tiếng súng tạm ngưng, lính miền Bắc gọi qua tần số liên lạc cho lính miền Nam để tuyên truyền, dụ dỗ họ đào ngũ. Thường thì không ai trả lời, chỉ đáp lại bằng súng đạn. Nhưng chàng lính chiến cầm bút Phan Nhật Nam thì không nhịn được. Anh đã tuyên truyền ngược lại.

Đọc những lời anh thuật lại trong các cuốn bút ký chiến trường trước năm 1975, người đọc có lúc phải mỉm cười, vì Phan Nhật Nam đã cất công làm một việc không có tác dụng bao nhiêu. Đáng lẽ trả lời bằng súng, anh còn muốn nói cho đối thủ nghe những điều phải trái rất dài. Anh không cần biết rằng mấy cán bộ Cộng Sản đã được nhồi sọ cả đời, nghe anh nói hay đến mấy họ cũng sẽ không đổi ý. Mà họ muốn thay đổi ý kiến cũng không được!

Nhưng Phan Nhật Nam vẫn phải nói! Anh không phải một sĩ quan tâm lý chiến. Anh là lính đánh trận. Anh không lập lại những lý luận trong sách báo của Nha Tâm lý chiến. Những lời lẽ của anh đều do chính anh nghĩ và nói ra, với tấm lòng thành thực, rất giản dị, đơn sơ! Bây giờ đọc lại, mọi người sẽ phải công nhận là Phan Nhật Nam nói đúng hết. Anh nói rằng các cán binh miền Bắc vào đánh miền Nam là “đánh thuê không được trả công” cho các đế quốc Nga và Tàu. Bây giờ thì ai cũng nhớ, chính Lê Duẩn đã thú nhận “chúng ta đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc.” Phan Nhật Nam cũng giải thích chế độ dân chủ tự do nó khác chế độ độc tài đảng trị thế nào. Anh nói rằng: “Đế quốc Mỹ” nó chẳng bao giờ đem quân vào nước mình nếu lính miền Bắc không vào xâm chiếm miền Nam. Bây giờ thì chính quyền Cộng Sản đang tìm đủ cách o bế Mỹ để mong được che chở ngăn âm mưu bành trướng của Trung Cộng! Những điều Phan Nhật Nam nói thời 1960-70 đều đúng!

Rất tiếc, những lý luận của Phan Nhật Nam nói giữa trận tiền những năm khói lửa đó không tạo được tác dụng như anh muốn. Ai cũng biết, bộ đội miền Bắc (và nhiều người dân miền Bắc) đã bị bộ máy tuyên truyền lừa gạt nhồi sọ, cho nên lúc nghe anh nói họ không thể nào tỉnh ngộ được!

Nhưng Phan Nhật Nam đến giờ vẫn không bỏ cuộc. Thấy cần thì lại nói! Không nhịn được! Nhận được thư mời của Hữu Thỉnh, anh nhân cơ hội lại “trút bàu tâm sự” nêu ra những lý do tại sao “Tôi xin từ chối.”

Nếu như người khác, chỉ cần nói vắn tắt cho ông Hữu Thỉnh biết: Tôi không tin anh! Hoặc nhắc lại lời của cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu: Đừng nghe những gì Cộng Sản nói! Nhưng Phan Nhật Nam đã để thời giờ vạch ra cho Hữu Thỉnh biết không ai tin cái gọi là chính sách “Hòa Hợp Hòa Giải” của đảng Cộng Sản, trò lường gạt những người nhẹ dạ!

Quý vị có thể đọc nguyên văn bức thư trả lời của Phan Nhật Nam để nghe hết các lý lẽ anh nêu ra – những điều mà phần lớn chúng ta cũng nghĩ và sẽ viết giống như anh. Điều thú vị khi đọc bức thư này là chúng ta lại nhìn thấy một chân dung Phan Nhật Nam, một nửa thế kỷ qua từ khi anh viết Dấu Binh Lửa. Con người đó không hề thay đổi!

Để trả lời Hữu Hỉnh, Phan Nhật Nam nói ngay, anh là một lính tác chiến: “Trước sau (tôi) chỉ là một Người Lính-Viết Văn.” Bây giờ anh vẫn là một người-lính-viết-văn, “Cũng bởi, tôi chưa hề nhận Chứng Chỉ Giải Ngũ của Bộ Quốc Phòng/VNCH cho dù đã không mặc quân phục từ 1975.”

Người đọc hai bức thư, thư mời và thư từ chối, có thể thấy hai nhà văn khác nhau thế nào. Hữu Thỉnh là một công chức viết văn, còn Phan Nhật Nam đúng là một lính chiến!

Công chức Hữu Thỉnh leo lên được cái chức chủ tịch Hội Nhà Văn cũng phải làm đủ trò luồn cúi cấp trên để ngồi lâu, ngồi dai trong địa vị đó. Con người này dùng những lời lẽ rất du dương, ngọt ngào thân mật: “Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa,” nghe như sáu câu mùi mẫn! Rồi Hữu Thỉnh còn lôi cả “tâm hồn dân tộc” ra để dụ dỗ một người ai cũng biết vẫn nặng lòng yêu nước thương nòi, “Mùa Thu Hà Nội cùng những giá trị bền vững của tâm hồn Việt đang chờ đón Cuộc gặp mặt của chúng ta.”

Khác lối hành văn xáo rỗng của Hữu Thỉnh, chàng chiến binh Phan Nhật Nam, “Với bản chất đơn giản, chân thật của một người lính,” đã nói thẳng tuột những điều kiện tiên quyết trước khi bàn đến hòa giải: “… hãy chấm dứt cách biểu tình với lời hô ‘Đả đảo Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa!’ như đã xẩy ra nơi Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn! Hãy nhìn lại… Thương Phế Binh Việt Nam Cộng Hòa là những lão nhân phế binh, thương trận đã không được sống với dạng Con Người từ 30 Tháng 4, 1975. Hãy để cho Người Lính Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa còn sống sót và gia đình được trở lại miền Nam sửa sang phần mộ Chiến Hữu nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi giới cầm quyền Hà Nội chủ trương phá bỏ một cách có hệ thống, dẫu người chết gần nửa thế kỷ qua không thể nào đe dọa đối với chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa! Xin hãy ‘Hòa Hợp Hòa Giải’ với những người đã chết.”

Nhưng Phan Nhật Nam không chỉ nhìn về quá khứ. Cuộc chiến tranh huynh để tương tàn đã chấm dứt lâu rồi. Ngay bây giờ, anh yêu cầu đảng Cộng Sản hãy Hòa Hợp Hòa Giải với những người dân Việt Nam đang bị đầy đọa. Anh yêu cầu chế độ Cộng Sản ‘Hãy hoà hợp, hòa giải với’ ‘Khúc ruột ở trong nước’ trước (Với người đang cố sống sau thảm họa Formosa, Nghệ An). Khi ấy không cần mời, chúng tôi ‘Khúc ruột ngàn dặm’ sẽ về. Về rất đông. Người Viết Văn – Lương Tri và Chứng Nhân của Thời Đại sẽ VỀ. TẤT CẢ CÙNG VỀ VIỆT NAM.”

Không biết ông Hữu Thỉnh được trả bao nhiêu tiền, được hưởng những bổng lộc gì khi tổ chức cuộc gặp gỡ với các nhà văn Việt Nam sống ở nước ngoài. Còn Phan Nhật Nam, chúng ta biết, khi anh viết những bút ký chiến trường trước năm 1975, anh không viết theo đơn đặt hàng của ai hết. Anh viết bức thư trả lời này cũng vậy, không theo “chỉ đạo” nào cả. Đọc bức thư của anh, vẫn thấy một con người trước sau như một, “Bút thép, mực máu, trái tim lửa!”

Ngô Nhân Dụng

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Tiểu Đoàn Trâu Điên và người phóng viên chiến trường
PhiLaTo

Image
Bức ảnh cuối cùng của người phóng viên chụp con cháu trên nóc nhà ở Phú Lâm xem Trâu Điên đánh trận Mậu Thân.
Đố các anh Trâu Điên: Ai là tác giả trong “ngũ long công chúa” trong hình?
Hiện nay cộng đồng người Việt tỵ nạn CS sống trên đất Mỹ thường có một sinh hoạt rất ý nghĩa và đượm tình đồng hương, đó là những buổi họp mặt (đại hội) hằng năm của những người cùng địa phương, cùng học đường, cùng quân trường và nhất là của các cựu quân nhân cùng đơn vị. Thông thường thì đại hội được tổ chức vào những dịp có nhiều ngày nghỉ lễ, tùy theo khả năng và nhu cầu mà tổ chức mỗi năm hoặc hai năm một lần. Binh chủng TQLCVN chúng tôi thì tổ chức mỗi năm một lần, luân phiên ở các tiểu bang khác nhau. Năm 2008 chúng tôi tổ chức tại Little Saigon vào dịp July 4,, anh em Mũ Xanh các nơi về tham dự đến gần 400 người, trong đó có khá đông anh em thuộc Tiểu Đoàn 2/TQLC mang danh hiệu Trâu Điên.

Trong khi các cựu Trâu Điên đang vui vẻ ôn lại chuyện đồng đội cũ chiến trường xưa thì vị cựu tiểu đoàn trưởng ra hiệu yên lặng rồi ông mở tờ báo KBC/HN ra cho mọi người xem bài viết của tác giả Ngọc Anh với tựa đề “Người Yêu Trâu Điên.” Bên lề bài viết là tấm hình của một phụ nữ rất duyên dáng với áo dài trắng, tóc xõa bờ vai nhưng đôi mắt thì quá buồn. Bầu không khí buổi họp mặt bỗng sôi động hẳn lên, có nhiều tiếng huýt sáo y như ngày nào năm xưa khi em “gái” hậu phương đến thăm anh “trai” ngoài tiền đồn biên giới.

Ngọc Anh với “Người Yêu Trâu Điên”
Image
Tác giả “Người yêu Trâu Điên.”

Chưa biết nội dung nói gì nhưng ai cũng đòi người anh cả đơn vị cho cầm tờ báo để ngắm người đẹp, người đẹp giữa chốn ba quân, khiến nét mặt anh cả tươi vui với giọng nói trẻ trung như ngày xưa ra lệnh trước hàng quân:

– “Ai là thủ phạm, ai là ‘Người Yêu Trâu Điên’ thì bước ra khỏi hàng.”

Thật bất ngờ, mấy chục “ông già” trong quân phục rằn ri sóng biển cùng nhất loạt đứng lên đưa cao tay, miệng hô lớn:

– “Em, chính em, chính là em.”

– “Thưa đại bàng, không phải thằng đó, em mới chính là thủ phạm.”

Nếu tác giả Ngọc Anh, dù là nam hay nữ, mà nhìn thấy cảnh này chắc chắn sẽ cảm động lắm, chỉ với cái tựa bài viết thôi mà đã khiến những cựu quân nhân già cỗi nơi hải ngoại bỗng trở lại thành những người lính trẻ trung oai hùng năm xưa, vui thật là vui.

Trước tình thế khó xử, biết trao “người đẹp” cho ai bây giờ nên anh cả liền bắt bí:

– “Trâu Điên nào đã tham dự trận đánh vùng Phú Lâm hồi Tết Mậu Thân đưa tay lên.”

Tất cả các cánh tay lại đồng loạt đưa thẳng lên như năm xưa tuyên thệ ngày mãn khóa tại vũ đình trường, trong đó có nhiều anh khi trận Mậu Thân xẩy ra thì còn là học sinh. Anh cả mỉm cười vì ai cũng muốn “tự giác”… nên ông đành trao tờ KBC/HN cho một người rồi ra lệnh:

– “Trận Mậu Thân. cậu là một trong hai đại đội trưởng chịu trách nhiệm giải tỏa khu vực mũi tàu Phú Lâm, hãy cầm tài liệu này về điều tra xem ai là người bị tác giả N.A khiếu nại.”

Mọi người cùng cười, chỉ một tựa bài viết mà làm không khí sinh động hẳn lên, mọi Trâu Điên cùng nâng ly chúc mừng sức khỏe giống như nâng ly mừng chiến thắng Phụng Dư, Đầm Giơi, Cổ Thành, v.v… Tôi đưa tay nhận tờ KBC/HN như nhận tấm bằng tưởng lục.

Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần bài viết “Người Yêu Trâu Điên,” tất cả những gì tác giả N.A. ghi lại đều có liên quan đến cuộc hành quân hon 40 năm về trước của đơn vị tôi. Tôi tự hỏi không lẽ lại có sự trùng hợp lạ lùng đến thế sao? Đây phải là một câu chuyện có thực.

Nội dung câu chuyện nói về thân phụ của tác giả là một phóng viên chiến trường, ông đi theo Tiểu Đoàn Trâu Điên đề chụp hình quay phim những trận đánh trong thành phố Saigon Tết Mậu Thân. Trong những hình ông chụp có một tấm hình đẹp của người lính Trâu Điên và ông đã tặng tấm hình đó cho con gái khi cô mới chỉ là một nữ sinh lớp Đệ Lục trường Gia Long…

Thân phụ N.A. đã kết thân với người lính ấy và mỗi khi họ trò chuyện bên nhau thì cô bé chăm chú nhìn hình con trâu trên vai áo trận rằn ri. Rồi người lính ấy di chuyển đi nơi khác khiến cô bé bâng khuâng và khi VC tấn công đợt 2 thì thêm một đại họa bất ngờ ập đến với tuổi thơ, thân phụ tác giả đã bị VC hạ sát trong lúc đang thi hành công vụ!

Xin phép tác giả cho tôi trích một vài đoạn trong bài viết “Người Yêu Trâu Điên” để đem so sánh với những gì đã xẩy ra 40 năm về trước ở đơn vị tôi khi tham dự trận Mậu Thân: (trích)

– Anh Trâu Điên yêu dấu.

Khi viết năm chữ này, trái tim em đập những nhịp bất thường, ngón tay cầm viết cũng run rẩy. Trước mặt em là tấm hình đen trắng…

Anh Trâu Điên biết mà, tấm hình này chính Ba em chụp cho anh… Tự nhiên Ba cầm tấm hình ngắm nghía rồi đưa cho em, nói:

– “Tấm hình này đẹp quá, muốn giữ không con?”

Tấm hình Ba khen đẹp quá, em đã ép trong cuốn nhật ký nhỏ, giấu kín giữ cho riêng em mà thôi…

Tháng Năm năm Mậu Thân, VC lại tấn công thủ đô lần thứ 2.

Buổi sáng hãi hùng đó, không có anh Trâu Điên, Ba em đã đi luôn…

Không, Ba có trở về bằng thân xác còn nóng hổi, máu còn chảy ra linh láng, ướt hết quần áo em! Hai chị em yếu đuối đã vác xác Ba về…

Lá thư này em viết nhưng không bao giờ gửi, vì em đâu biết anh Trâu Điên ở nơi nào trên mảnh đất đầy thống khổ…. Em viết lá thư này như một nhu cầu yêu thương dành cho anh Trâu Điên, ngươi bạn trẻ của Ba, hình ảnh Ba và anh Trâu Điên luôn gắn liền nhau trong lòng em. Em giữ mãi lá thư không gửi trong cuốn nhật ký…”

Với lòng mong mỏi anh Trâu Điên vẫn còn sống sót đâu đó biết rằng trên mặt đất này vẫn còn có một người nhớ tới anh Trâu Điên ngày xưa… (quý vị nào muốn đọc tòan bài viết xin tìm trên Việt Báo online hay email cho: (phuongtimxua@yahoo.com)

Thực sự tôi chưa biết rõ tác giả Ngọc Anh là nam hay nữ, nhưng tấm hình kèm theo bài viết thì là hình của “cô” Phượng Tím, người cùng với “anh” Dương Thượng Trúc phụ trách mục “Thư Hậu Phương, Thư Tiền Tuyến” trên báo KBC/HN. Tiết mục này tương tự như hộp thư “Dạ Lan” của đơn vị tôi ngày xưa, chuyên gửi những lá thư tình của em gái hậu phương cho anh lính tiền tuyến khiến nhiều anh tưởng thật, mơ một ngày về phép đến rủ em Dạ Lan dạo phố. Nhưng thực sự thì cô “Dạ Lan” cũng chỉ là người lính chiến có súng, cầm súng như các anh mà thôi.

Nhân dịp đọc bài viết “Người Yêu Trâu Điên,” tôi xin thuật lại một vài chi tiết 40 năm về trước để giúp tác giả biêt thêm về lòng yêu nghề mà không ngại gian lao nguy hiểm của người phóng viên chiến trường. Nếu đích thực ông là thân phụ của tác giả thì xin cho tôi gửi lời chia buồn đến gia đình người quá cố, một phóng viên mà tôi quý mến..

***

Tết Mậu Thân 1968, TĐ.2/ TQLC đang hành quân vùng Cai Lậy, Giáo Đức, Định Tường thì được trực thăng bốc về Saigon và đổ quân xuống ngay trong sân bộ Tổng Tham Mưu, sau khi thánh toán xong tụi VC ở trường Sinh Ngữ, trung tâm Ấn Loát, cổng xe lửa số 6 thì Tiểu Đoàn Trâu Điên chia ra từng Đại Đội đi đánh các nơi khác, sau đó thì Đại Đội 1 của tôi và Đại Đội 4 của Đại Úy Vũ Dzoan được lệnh giải tỏa lực lượng địch đang chiếm khu cư xá Phú Lâm.

Chúng tôi lục soát và chiếm những mục tiêu đang có VC cố thủ trên những nhà lầu dọc theo hai con đường Hậu Giang và Lục Tỉnh để tiến về mũi tàu Phú Lâm và đài phát tuyến. Vì chiến đấu trong thành phố nên chúng tôi không được phép sử dụng pháo binh và máy bay, do đó chúng tôi đã gặp nhiều khó khăn bởi vì địch đã nằm sẵn trên các cao ốc, nhìn rõ mục tiêu, nhắm súng vào chúng tôi. Nhưng đã là lính thì phải chấp nhận hy sinh để giảm thiểu thiệt hại sinh mạng và tài sản của đồng bào.

Khi đại đội tôi tiến đến ngã tư đường Hậu Giang và Phú Định thì đụng nặng, địch khá đông đang cố thủ trong hãng pin Con Ó, cách chúng tôi một bãi đất trống và hỏa lực rất mạnh. Đã mấy tiếng đồng hồ rồi mà quân ta chưa tiến thêm được bước nào mà bị thương và tử trận ngày càng tăng cao trong khi thượng cấp thì ra lệnh phải tiến “bằng mọi giá”!

Chúng tôi phải xin tăng cường xe thiết giáp để TQLC tùng thiết* (*có nghĩa là bộ binh và thiết giáp che chở yểm trợ cho nhau cùng tiến), cấp trên đã biệt phái xuống cho tôi một thiết giáp M41. Chỉ một chiếc thôi thì chưa đủ, nhưng có còn hơn không nên tôi cho lệnh Trung Đội đi đầu của Thiếu Úy Nguyễn Văn Quang chuẩn bị “tùng thiết” để vượt qua khoảng trống, chiếm mấy cao ốc trước mặt, thiết lập đầu cầu. Tiến như thế rất nguy hiểm nhưng phải theo lệnh cấp trên.

Khi xe và quân tùng thiết tiến lên thì tôi bất ngờ trông thấy anh phóng viên chiến trường núp sau pháo tháp và đang đưa máy hình lên chụp. Anh ta đã đi theo đơn vị tôi lao vào lửa đạn cả ngày rồi nhưng ngồi trên pháo tháp như thế thì thật liều mạng, giận quá tôi quát:

– “Này anh phóng viên, yêu cầu anh xuống xe ngay.”

Tôi hét lớn với người phóng viên đang bám theo xe trong tình trạng hết sức nguy hiểm, nhưng có lẽ vì tiếng máy nổ của M41 lớn quá khiến nggười phóng viên không nghe được, hoặc cũng có thể anh ta “giả điếc” để cố bám theo toán quân xung phong đầu tiên. Một tay anh bám vào thành xe, một tay bấm máy hình liên tục. Mỗi khi xe lắc lư như muốn hất tung mọi người xuống đất thì anh phóng viên vội buông máy hình treo tòng teng vào cổ còn 2 tay thì bám chặt vào xe. Nguy hiểm quá, nếu không bị bắn thì anh ta cũng bị rớt xuống, sẽ bị xích xe cuốn theo ngay! Không chần chừ đươc nữa, tôi ra lệnh cho Hạ Sĩ 1 Bùi Ngọc Đường:

– “Đường, lôi ngay ông phóng viên xuống đất cho tao.”

Không chậm trễ một giây, người lính cận vệ của tôi nhẩy lên xe ôm ngang lưng người phóng viên rồi nhẩy khỏi xe thiết giáp, cả hai cùng té lộn nhào xuống đất, trong lúc hai người còn đang nhăn nhó chưa kịp đứng dậy thì xe thiết giáp rú ga, gầm lên ủi sập bức tường phía trước mặt, lập tức địch bắn đủ mọi loại vũ khi về phía chúng tôi, xe bị trúng đạn B40, tiếng nổ chát chúa hất tung những người ngồi trên xe xuống đất, thiết giáp chồm lên đống gạch rồi khựng lại phun khói, cả khói xe lẫn khói đạn B40 mịt mù khiến tôi không nhìn thấy gì cả.

Sau vài động tác xoa mặt dụi mắt, tôi mới nhận ra được một cảnh tượng hết sức đau lòng, xe bị đứt xích, người trưởng xa M41 ngồi trong pháo tháp thò đầu ra ngoài thì đã biến đâu mất rồi! Cái nón sắt của anh văng ra xa, móp méo và bê bết máu! Thiếu Úy Nguyễn Văn Quang*, đi sau xe thiết giáp thì đang gượng đứng dậy, 2 tay xoa khắp người xem có bị thương chỗ nào không, Hạ Sĩ Danh Thon, hiệu thính viên của Th/Úy Quang nằm sấp bất động, ngực đè lên máy truyền tin PRC25, tôi lật người Thon lại, một viên đạn xuyên qua máy truyền tin anh đeo trước ngực, xuyên qua áo giáp, trổ ra sau lưng một lỗ nhỏ, máu chưa kịp thấm ra ngoài. (*Thiếu Úy Quang khóa 18 Võ Khoa đã tử trận một năm sau đó)

Đảo mắt quan sát một vòng, tôi thấy xung quanh xe thiết giáp vài quân nhân bị thương, chưa biết nặng nhẹ ra sao, cách đó vài mét, người phóng viên ngồi dựa lưng vào tường, mặt nhăn nhó, chắc là lúc bị Đường kéo té xuống đất đau lắm, nhưng anh ta vẫn còn đủ sức đưa máy lên bấm liên tục. Khi máy nhắm về phía tôi, anh trông thấy người vừa ra lệnh “lôi” anh ấy xuống đất nên anh ta lắc lắc cái đầu tỏ ý “ghê quá” và đưa nắm tay với ngón cái hướng lên trời, không biết ý anh muốn nói là may mắn vừa thoát chết hay là muốn nói cám ơn tôi đã đuổi anh ấy xuống, có thể là cả hai. Tôi tiến lại bắt tay anh và nói đùa:

– “Về nhà nhớ mua heo cúng nghe ông, lần sau ráng giữ lấy cái ‘gáo dừa.’”

Anh nắm chặt tay tôi như muốn nói thêm điều gì nhưng rồi lại vội vàng tiếp tục đưa máy chụp nhiều tấm hình. Đến lúc này tôi mới biết là xe thiết giáp đã bị 2 trái B40 bắn vào xích và pháo tháp. Pháo tháp là một khối sắt dầy, đạn B40 không phá được nhưng sức nổ đã làm bay những gì xung quanh, sức nổ đã làm bay phần thân trên của anh thiết giáp, còn phần thân dưới có lẽ đã bị đứt ra và lọt vào trong lòng xe rồi! Nếu anh phóng viên còn bám theo pháo tháp để chụp hình thì không biết sẽ ra sao? Tôi không hối hận khi cương quyết đuổi anh ta xuống xe.

Thấy xe bằng sắt mà còn bị đứt huống chi người, thượng cấp không hối thúc tiến nữa mà cho dừng quân để trực thăng (gunship) đến bắn rockets thẳng vào mục tiêu, nhờ vậy chúng tôi mới vượt qua được khoảng trống và tiến nhanh đến giải tỏa địch khu cư xá Phú Lâm.

Bài viết này chúng tôi không chủ tâm viết về trận Mậu Thân mà chỉ muốn nói về chuyện người phóng viên chiến trường nên chúng tôi không đi vào chi tiết việc binh đao mà xin quay về với người “lính” mang ống kính, máy chụp hình.

Rất hiếm khi có được phóng viên chiến trường ở ngay tuyến đầu tại mặt trận, có chăng là sau khi mọi chuyện đã xong xuôi, báo chí mới tháp tùng theo phái đoàn trung ương đến quan sát trận địa để chụp hình quay phim đưa hình phái đoàn hoặc hình những xác VC, những cây súng gẫy lên báo chí còn những hình người lính chiến thì mờ-mờ ảo-ảo làm nền trang trí.

Nhưng lần này về đánh giặc ngay trong lòng thủ đô nên có dịp nằm cùng phóng viên ngay tuyến đầu, những hình ảnh người lính TQLC xung phong vào lửa đạn đều được các anh chụp và đưa lên các trang nhật báo ngay ngày hôm sau kèm theo tên tuổi đơn vị v.v… như trường hợp phóng viên Nguyễn Tú của nhật báo Chính Luận, những hình ảnh và bản tin của anh viết về Trâu Điên trên báo đã được thân nhân gửi ra chiến trường khiến chúng tôi rất hãnh diện. Dù không biết ông Nguyễn Tú nay ở nơi đâu nhưng cũng xin thay mặt anh em để cám ơn ông Tú.

Có những người lính thấy hình mình được đăng trên báo, dù không rõ lắm nhưng cũng thấy thích thú, cắt xén thật cẩn thận để giữ làm kỷ niệm hoặc làm quà tặng cho người yêu. Các cấp chỉ huy thì cất kỹ những trang báo nói về trận đánh của đơn vị mình rồi đóng khung lồng kính treo lên chỗ trang trọng nhất của đơn vị.

Đối với người lính tác chiến thì những hình ảnh và bài viết của các phóng viên chiến trường về đơn vị họ, nhất là các đơn vị cấp nhỏ như trung đội hay đại đội, là một niềm an ủi lớn lao, một điều khích lệ vô cùng quan trọng cho tinh thần chiến đấu của họ, nhưng tiếc thay, trong quá khứ, người có trách nhiệm đã không để ý đến “binh sĩ vận” mà chỉ lo “thượng cấp vận.”

Có được người phóng viên đi theo khiến anh em lính chúng tôi lên tinh thần, hơn nữa chuyện anh thoát lưỡi hái của tử thần vừa qua càng làm chúng tôi quý mến nhau hơn nhất là tình cảm giữa anh và Bùi Ngọc Đường, họ thân nhau như anh em, dù tuổi tác có chênh lệch.

Trong lúc đơn vị tôi tạm đóng quân trong cư xá để chờ nhiệm vụ mới thì anh phóng viên dẫn chúng tôi về nhà, cũng ở trong cư xá Phú Lâm, anh có ý muốn giới thiệu chúng tôi với chị ấy và các cháu, trước khi bước vào nhà anh nói nhỏ với tôi và Đường:

– “Các anh đừng nói gì về chuyện vừa xảy ra nhá, sợ bà xã tôi và sấp nhỏ lo lắng.”

Một người vừa yêu nghề lại vừa yêu vợ con nên đôi khi cũng không dám nói sự thật, tôi thông cảm với anh vì tôi vẫn thường nói dối như thế. Mỗi lần về phép, mẹ tôi hỏi đi lính có vất vả không thì tôi không ngần ngừ mà trả lời mẹ ngay:

– “Như đi làm thư ký văn phòng ấy mà.”

Anh giới thiệu chị và các con với chúng tôi, có lẽ cũng đến “ngũ long công chúa,” cháu lớn chỉ độ “trăng tròn” là cùng. Thấy lính tráng súng ống vào nhà nhưng lại ngồi uống café hút thuốc nói chuyện vui vẻ với bố nên các cháu an tâm, bạo dạn hơn, thập thò sau màn che, cười khúc khích, ký đầu hoặc vỗ vào lưng nhau “thùm-thụp.”

Một gia đình thật hạnh phúc, tôi ước mong một ngày nào trong tương lai có được mái ấm gia đình như anh, nhưng có lẽ còn lâu lắm, vì anh hơn tôi gần một “con giáp,” hoặc không bao giờ có được hạnh phúc ấy một khi còn “vui đùa” với súng đạn, nghĩ vậy nên tôi tâm sự với anh:

– “Này anh, nếu hôm qua Đường không ôm anh nhảy xuống đất thì hôm nay đâu còn chầu café này, anh đâu còn nghe tiếng cười khúc khích dễ thương của các cháu, anh phải hết sức cẩn thận khi đi làm phóng sự ngoài chiến trường, hoặc nên đổi nghề, lương không được bao nhiêu mà có quá nhiều nguy hiểm, anh đã có gia đình, các cháu đang nhìn anh kia kìa.”

Tôi chỉ tay vào phía trong nhà, sau bức màn che, thấp thoáng một hai cô bé tóc đuôi gà đang nhìn bố tiếp khách, anh nhìn theo hướng tay tôi chỉ, anh gật gật đầu ra chiều suy nghĩ. Chúng tôi bắt tay từ giã, anh xiết chặt tay tôi và nói nhỏ:

– “Anh sẽ để ý và nghiên cứu lại lời khuyên của chú.”

Tôi thật cảm động khi nghe anh xưng “anh” và gọi tôi bằng “chú” (em) mang đậm nét tình nghĩa gia đình. Từ hai người xa lạ, chỉ qua một lần cùng chung nguy hiểm mà chúng tôi trở thành anh em thân thiết hồi nào không hay.

Anh tiễn chúng tôi ra cửa nhưng có tiếng chị dặn với theo:

– “Tối các em nhớ lại ăn cơm canh chua cá kho tộ với các cháu cho vui.”

Vui quá đi chứ, hổm rầy sống giữa thành phố mà cứ phải “nhá” C ration*, thịt hộp 3-lát ngán quá (*thức ăn đóng hộp cho lính hành quân). Nhưng ngay tối đó đại đội tôi phải di chuyển gấp đến mặt trận Bình Hòa nên không kịp báo tin cho anh chị hay.

Ngày qua ngày TĐ.2 di chuyển khắp nơi, từ nội thành ra tới ngoại ô, từ Nhà Bè sang bến đò Long Kiển, lên Nhị Bình (Lái Thiêu), chỗ nào có bong dáng VC là chúng tôi phải đến. Đã có lần đơn vị chúng tôi trở lại lục soát khu vực rừng khóm (dứa) (thuộc mật khu Lý Văn Mạnh), rất gần với cư xá Phú Lâm nhưng không có thì giờ ghé thăm anh chị.

Rồi VC tấn công đợt 2, bận túi bụi với những người “anh em” từ bưng về thành, nào là ngã ba Cây Thị, xóm Cao Đồng Hưng, khu Đồng Ông Cộ, cầu Bình Lợi, ngã ba Cát Lái v.v.., người tử trận kẻ bị thương, chúng tôi không còn thì giờ nhớ đến gia đình, nhớ đến người yêu nên hình dáng người phóng viên cũng mờ dần.

Vào khoảng Tháng Mười 1968, tình hình Saigon hoàn toàn yên tĩnh trở lại, TĐ.2 được biệt phái cho Quân Đoàn III để hành quân vào mật khu Hố Bò, Bời Lời. Trước khi đi xa Saigon, Bùi Ngọc Đường trốn đi chơi nguyên ngày, khi trở lại đơn vị thì vừa kịp nhảy lên xe GMC cùng Đại Đội di chuyển đến quận Hiếu Thiện (Tây Ninh) và từ đây được trực thăng vận vào mật khu Bời Lời ngay nên tôi chưa có dịp “thưởng” cho Đường 5 roi. Cũng may là ngay trong trận này, Bùi Ngọc Đường cùng với Nguyễn Văn Hợi đã liều mình cứu sống được viên Trung Úy cố vấn Mỹ bị thương và đã bị VC bắt. Nhờ thành tích này mà Đường được Sư Đoàn TQLC tưởng thưởng cho một xe Honda và dĩ nhiên tôi cũng tha cho hắn tội trốn đi phố.

Bùi Ngọc Đường và tôi là hai “thầy trò” nên khi đi hành quân thì như hình với bóng, Đường luôn ở bên cạnh để giúp tôi khi cần thiết, đi đâu là phải hỏi, vậy mà lần này dám đi cả ngày, đã vậy khi trở về lại có vẻ buồn. Tuy được phòng Tâm Lý Chiến Sư Đoàn thưởng cho chiếc Honda mà sao Đường không vui! Và rồi, xe Honda còn trùm mền chờ ngày Đường về phép để chở người yêu dạo phố thì Đường lại hy sinh trong một cuộc hành quân sau đó!

Mời độc giả xem Điểm tin buổi sáng Thứ Ba, ngày 19 tháng 9 năm 2017
Khi Đường tử trận rồi, Nguyễn Văn Hợi, người cùng với Đường cứu sống cố vấn Mỹ, mới nói thật với tôi là Đường trốn đi phố là để vể thăm anh phóng viên ở cư xá Phú Lâm, và người anh kết nghĩa này của Đường đã bị VC hạ sát trong đợt 2 trận Mậu Thân!

Nghe Hợi nói mà tôi bỗng rùng mình, nhớ lại lúc Đường ôm người phóng viên nhẩy khỏi xe thiết giáp và họ đã thoát không bị nát thây trong gang tấc và rồi họ kết nghĩa anh em, tình huynh đệ chưa được bao lâu thì anh hy sinh mà em không biết! Khi trở lại thăm anh thì…, chưa tàn bó nhang thắp cho anh thì em lại tử trận!

Cả hai đều những người tôi thương mến, hình ảnh của họ đã nằm sâu trong ký ức, nào ngờ, 40 năm sau, một sự tình cờ mà hai hình ảnh này sống lại thật rõ ràng trong trí nhớ của những người hay quên hiện tại mà nhớ dai chuyện quá khứ. Đọc từng dòng từng chữ câu chuyện của N.A, tôi tin chắc người bạn phóng viên chiến trường, người anh kết nghĩa của Trâu Điên Bùi Ngọc Đường chính là thân phụ của tác giả bài viết “Người Yêu Trâu Điên” và người lính trong tấm hình mà N.A giấu kín trong tập nhật ký nhỏ có phần chắc là Bùi Ngọc Đường!!!

Tác giả N.A. kết thúc lá thư không gửi vì không biết anh Trâu Điên ở đâu bằng lời chúc:

– “Với lòng mong mỏi anh Trâu Điên vẫn còn sống sót đâu đó biết rằng trên mặt đất này vẫn còn có một người nhớ đến anh Trâu Điên ngày xưa.”

Phần tôi xin kết thúc bài viết “Trâu Điên và Người Phóng Viên” bằng lời nhắn:

Cô Ngọc Anh ơi, Trâu Điên Bùi Ngọc Đường, người trong tấm hình mà cô giữ kín trong cuốn nhật ký, đã không thể về dự đại hội TQLC năm 2008 được, Đường không chết nhưng đã nằm lại đâu đó trên chiến trường miền Nam VN, cũng như thân phụ của cô, ông không chết nhưng về với các con bằng thân xác còn nóng hổi, máu chảy ra linh láng!

Tôi tin rằng Bùi Ngọc Đường, người lính trong tấm hình mà cô “nhốt” trong cuốn hồi ký, hay cô nhốt hắn trong tim thì chỉ có hắn biết, hắn sẽ phù hộ cho gia đình cô.

User avatar
macco
Posts: 3541
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Phim tài liệu Vietnam War: Cuộc thảm bại tái diễn -

Giao Chỉ San Jose

Image

Cựu Đại Tá Vũ Văn Lộc Về Phim The Vietnam War: “Chúng Ta Thua Trên Từng Thước Phim”

Cali Today News – Tin tức thời sự chính trị nước Mỹ vẫn tràn ngập trên diễn đàn truyền thông. Thiên tai vừa trải qua với cuồng phong và mưa bão tại miền Đông Nam Hoa Kỳ rồi tiếp đến động đất Mễ Tây Cơ. Bộ phim 10 tập 18 giờ do hai nhà làm phim Ken Burns và Lynn Novick bỏ ra mười năm với 30 triệu mỹ kim mới hoàn tất vẫn làm xôn xao dư luận. Phần lớn các nhà bình luận, các chính khách và nhân vật cộng đồng Hoa Kỳ đều hết lòng khen ngợi. Riêng phần chúng tôi có nhận định khác biệt. Là quân nhân của phe bại trận với niềm đau thương gặm nhấm suốt cuộc đời. Mất nước là mất tất cả. Một lần bại trận và phải đào thoát ngay trên quê hương. Từ đó thấy lại biết bao lần thảm bại tái diễn trên phim ảnh, làm sao mà vui mừng khi nhìn lại vết thương. Sau 42 năm phe tự do thua trận, với bộ phim công phu phổ biến năm nay, cuộc thảm bại trên chiến trường Việt Nam lại một lần nữa tái diễn. Xin có đôi lời đóng góp ý kiến như sau.

Vẫn hình ảnh đau thương cũ: Các nhà làm phim mới đã soạn lại tài liệu cũ. Thêm tài liệu sưu tầm trong thập niên qua. Cắt ráp và bình luận công phu, nhạc đệm xuất sắc. Phỏng vấn khoảng 100 người trong đó có chừng 30 nhân vật từ cả hai phía quốc cộng Nam Bắc Việt Nam. Đặc biệt có những hình ảnh và lời bình luận khen chê cả hai bên. Lần đầu tiên có đề cập đến vai trò của chiến binh Việt Nam Cộng Hòa cũng như vụ Việt cộng thảm sát Mậu Thân. Nhưng sau cùng khán giả của thế hệ hôm nay thuộc thế kỷ 21 đều thấy rằng những nhà làm phim đã gián tiếp xác định sự chiến thắng của Cộng sản Việt Nam là hữu lý và tất yếu. Hình ảnh sau cùng vẫn là một dân tộc chống ngoại xâm và thống nhất đất nước. Dù hy sinh bao nhiêu họ cũng vẫn khoác danh hiệu chống Pháp xâm lược, chiến thắng trận Điện Biên thần thánh. Dủ chết thêm bao nhiêu cũng giữ được hào quang đánh Mỹ giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Bốn mươi năm sau chiến tranh, Hoa Kỳ vẫn còn vẳng nghe tiếng hô vang của hàng triệu thành viên phản chiến. Thế hệ Hoa Kỳ ngày nay làm sao hiểu được những khúc mắc phức tạp của cuộc chiến tranh Quốc Cộng. Trong lãnh vực truyền thông, hình ảnh sống động vẫn có khả năng thuyết phục hơn cả ngàn lời nói. Một bên là chiến binh đồng minh dù là lính Pháp, lính Mỹ hay chiến binh miền Nam mặc quân phục, trang bị đầy đủ được yểm trợ bằng phi pháo hùng mạnh. Phía bên địch toàn là hình ảnh nữ dân quân, vũ khí thô sơ, chân dép áo nâu quyết tâm chiến đấu. Phe ta thua trên từng thước phim. Hình ảnh hàng ngũ lãnh đạo miền Bắc. Ốm yếu khắc khổ, cuộc sống thanh đạm và ý chí chiến đấu mãnh liệt. Tất cả đều đã vào tù ra khám. Trong khi đó phe ta là hình ánh quan lại, xiêm áo lịch sự, xa cách quần chúng, không chứng tỏ được tinh thần hy sinh cho dân và quyết tâm bảo vệ đất nước. Hình ảnh vị tướng VNCH đích thân lạnh lùng xử bắn tù binh trước ống kính của báo chí quốc tế, hình em bé trần truồng chạy bom. Những bức hình đã mang danh hiệu biểu tượng đau thương của cả thế kỷ. Và rất nhiều hình ảnh sẵn có phô diễn những sai lầm dã man của phe ta mà không có chứng tích tội ác của đối phương. Không thể nào có đủ lời lẽ để giải thích nguồn cơn. Dù 40 năm trước hay bốn mươi năm sau, một lần nữa chúng ta thua trận trên từng thước phim.

Không thể tranh luận được với sự thành công.


Chúng ta phải chấp nhận rằng phe cộng sản đã chiến thắng phe tự do trong cuộc chiến Việt Nam. Hoa Kỳ từ tổng thống Johnson thực sự đã từng quyết tâm chiến thắng. Sau vụ hỏa mù trên Vịnh Bắc Việt, quốc hội Hoa Kỳ đã biểu quyết đồng thuận cho tổng thống toàn quyền. Nhưng sau cùng ý chí của chính phủ Mỹ thua ý chí của phe cộng sản. Nga, Tàu và Việt cộng không hề nao núng. Phong trào phản chiến đánh gục ý chí của chính phủ Hoa Kỳ. Mỹ thua trận ngay từ trong lòng dân chúng quốc nội.. Tiếp theo chính thức thua trận trên giấy tờ ký hiệp định Paris 1973. Sau cũng là cuộc bỏ chạy cùng Việt Nam Cộng Hòa trên nóc tòa đại sứ. Trong chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ đã thua hết sức cay đắng, nhưng vẫn còn vượt qua được vì đây chỉ là một chiến dịch trong chiều dài của lịch sử Hoa kỳ. Đối với Mỹ, Việt Nam chỉ là một mặt trận. Một cuộc chiến. Thế giới Tự do thua trong một cuộc chiến nhưng 20 năm sau đã toàn thắng khi liên bang Sô viết xụp đổ tại Nga. Với Nam Việt Nam năm 1972 thắng trận Bình Long, Kon Tum và lấy lại được Quảng Trị. Nhưng thua trận 75 là mất tất cả. Dù sau này một lần hay là 10 lần cờ đỏ phải hạ xuống ở điện Cẩm Linh thì Việt Nam Cộng Hoà cũng đã mất tất cả. Bao nhiêu sự hy sinh trong 21 năm chiến đấu và xây dựng 2 nền cộng hòa của miền Nam đều đổ ra sông ra biển.

Vì đâu nên nỗi: Phía Hoa Kỳ sai lầm hẳn đã học được bài học chiến tranh Việt Nam. Dù trở thành cơn ác mộng nhưng người Mỹ vẫn còn sống. Nam Việt Nam thì hoàn toàn đã chết qua sự sai lầm trong chiến tranh. Đối với miền Nam Việt Nam thì việc thất trận là một thảm kịch vô cùng đau thương, không có điều gì có thể bào chữa ngoài lý do duy nhất là lỗi ở chính chúng ta. Kết quả mất nước là mất tất cả. Lỗi lầm không phải tại đồng minh không quyết tâm, cũng không phải bởi kẻ thù quá mạnh. Lỗi lầm là lãnh đạo ta không đủ sức vượt qua những khó khăn lớn lao và toàn dân không được vận động để quyết tâm tham chiến. Trong cuộc chiến 2 thập niên, trong khi miền Bắc vận dụng toàn dân tấn công thì miền Nam chỉ xử dụng được một phần rất nhỏ để tự vệ. Lãnh đạo lè phè và dân chúng thờ ơ. Tất cả tùy thuộc vào Hoa Kỳ. Mỹ trực tiếp tham chiến đã cứu Việt Nam nhưng đồng thời cũng làm mất Việt Nam.Việt Nam mất khả năng tự chủ. Không dùng hết khả năng vào công việc phòng thủ. Không vận động được dư luận thế giới và đồng minh. Bị đồng minh Hoa Kỳ và thế giới bỏ rơi và chính nhân dân miền Nam cũng bỏ rơi cuộc chiến. Cho đến khi cả chính quyền và nhân dân miền Nam mất nước mới biết là mất tất cả.

Những cuộc chiến sau chiến tranh.

Khi miền Bắc chiếm được miền Nam, hàng trăm ngàn chiến binh bị tù đầy, hàng triệu người miền Nam trở thành dân “Ngụy.” Lúc đó mới bừng tỉnh và tham dự vào hai cuộc chiến sau chiến tranh. Cuộc chiến trong tủ đầy chiến đấu để tồn tại, và không bị khuất phục. Cuộc chiến của người dân bên ngoài tiếp tục chịu đựng phấn đấu để nuôi tù và toàn dân tìm đường vượt thoát. Trong chiến tranh, hàng trăm ngàn chiến binh cộng sản đã được miền Nam Chiêu Hồi. Sau cuộc chiến, hàng trăm ngàn chiến binh VNCH bị tù đầy. Dù bị tuyên truyền và bỏ mặc đói rét. Dù bị hành hạ lao động khổ sai. Dù tuyệt đường tương lai, vô hy vọng có ngày tự do, nhưng tuyệt nhiên không hề đầu hàng cộng sản. Không một ai trở thành cộng sản. Đó là chiến thắng sau chiến tranh.Trong chiến tranh, đa số dân miền Nam vẫn sống trong thanh bình tại các đô thị. Sau chiến tranh bắt đầu cuộc sống phải chiếu đấu khi được kẻ thù “Giải phóng” Đây là lúc toàn dân miền Nam tham gia chiến dịch chiến đấu để đào thoát. Cuộc chiến dành cho tất cả mọi người tham dự. Người già, em bé. Nam phụ lão ấu cùng tìm đường vượt biên. Đàn bà có bầu và trẻ sơ sinh. Tu sĩ và thầy chùa. Các nông dân và các giáo sư, bác sĩ. Trên đường tìm tự do đã hy sinh hàng trăm ngàn người. Tù đầy, sóng gió và hải tặc. Mọi người dù thất bại năm mười lần vẫn tiếp tục lên đường. Đó là cuộc chiến sau chiến tranh.
Ý nghĩa của chiến thắng: Kết quả ngày nay phe chiến thắng trở thành lũ độc tài đảng trị trăm lần tham nhũng, bất công. Kết quả ngày nay sau khi cả ngàn ngôi mộ hoang nằm lại trên các trại tù cải tạo và hàng trăm ngàn người vượt biên nằm dưới đáy biển. Đây mới là lúc luận bàn thắng bại trong chiến tranh Việt Nam. Nếu ngày nay, sau khi thống nhất đất nước, Việt Nam trở thành quốc gia dân chủ tự do không cộng sản. Việt Nam trở thành một con rồng châu Á như Nam Hàn, Singapore, Hồng Kông, Đài Loan..Dân Việt Nam từ Bắc vào Nam đều sống trong tự đó hạnh phúc. Dân trí mở mang, các tệ trạng xã hội được giải quyết. Không kỳ thị về chính trị và tôn giáo. Không quá cách biệt giầu nghèo. Người dân Việt được kính trọng trên 5 châu 4 bể. Được như vậy thì sự thất bại của Nam Việt Nam cũng là chuyện đáng cam chịu. Được như vậy thì cuộc chiến thắng của miền Bắc mới là điều cho Hoa Kỳ và chúng ta cần học hỏi. Nhưng Việt Nam ngày nay là nước độc tài đảng trị, tham nhũng và bị cả thế giới coi thường. Cuộc chiến thắng do đó trở thành vô nghĩa. Mọi hy sinh của người miền Bắc đều trở nên vô nghĩa. Và những tổn thất của miền Nam cũng như sự hy sinh của Hoa Kỳ vẫn muôn đời là những ghi dấu vô cùng cay đắng. Không, chúng ta không thể kết luận là Hoa Kỳ đã chiến thắng trong chiến tranh Việt Nam. Chỉ có thể nhận định rằng Miền Bắc đã chiến thắng trong một cuộc chiến nhưng không đem lại hạnh phúc cho toàn dân.

Riêng tại Hoa Kỳ, không có ai làm phim chiến thắng cho những người bại trận. Không bao giờ có vòng hoa cho người chiến bại. Sau chiến tranh Đông Dương, đại diện Khmer Đỏ với bàn tay diệt chủng giết cả triệu dân bước vào diễn đàn Liên Hiệp Quốc với những tiếng vỗ tay vang dội. Tiếp theo, tiếng vỗ tay lại vang dội nhiều hơn khi đại diện Hà Nội trở thành hội viên chính thức với thành tích đánh thắng 2 đế quốc Pháp và Mỹ. Sau gần nửa thế kỷ, dù thiên đàng Sô Viết đã tan rã, Việt Nam thống nhất đã biến hình ảnh những người nữ dân quân anh hùng trở thành nạn nhân nô lệ tình dục khắp Đông Nam Á. Trong chiến tranh, dù ở bên này hay bên kia, chỉ những người chết mới là người thua cuộc. Nhân chứng không phải là sự thực. Lời bình luận không phài là sự thực và ngay cả những thước phim cũng không phải là sự thực. Dù là phim tài liệu Vietnam War trị giá 30 triệu mỹ kim, 10 năm sưu tầm kéo dài 18 giờ qua 10 phim tập. Sự thực đã chôn vùi cùng những người lính trẻ ở cả hai bên chiến tuyến.

Giao Chỉ, San Jose.

Nguồn - http://www.baocalitoday.com/van-nghe/33552.html
Bài liên quan - Lời phản biện tại buổi trình chiếu sơ lược Phim The Vietnam War (Nguyễn Ngọc Sẵng)

Tác giả: Nguyễn Ngọc Sẵng - Thêm 1 bài phản biện bằng tiếng Anh đăng trên tờ MOTHER JONES tại đây http://www.motherjones.com/politics/2...

User avatar
TheLang
Posts: 1959
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »


Biệt Hải – Những Anh Hùng Không Tên Tuổi


Image

Công Tác Xâm Nhập Cứu Phi Công Hoa Kỳ
Quốc Lộ 9 Quảng Trị Tháng 4-1972 (Mùa Hè Đỏ Lửa)

Để tưởng nhớ đến các bạn bè đang sống cùng cực lây lất tại quê nhà. (Thời gian đã trôi qua trên 30 năm, nên trí nhớ phần nào mai một theo tuổi tác, bài nầy viết theo sự chứng kiến của một số bạn bè trong cuộc và chính “tác giả” tuy nhiên về vấn đề giờ giấc có phần xê dịch, mong các bạn tham gia trong chuyến sẵn lòng tha thứ và giúp bổ khuyết, thành thật cám ơn).

Phong Trần​



Trên bàn những đĩa đồ mồi nóng hổi còn bốc khói tỏa mùi thơm phức, cạnh một cái ly thủy tinh lăn lóc bên lít rượu đế đã vơi hết hai phần chai, chứng tỏ những người trong bàn đã uống khá nhiều. Buổi sáng hôm đó mấy anh em chúng tôi họp mặt tại nhà anh Châu tổng cộng tất cả 5 người. Ngoài tôi và Châu, 3 người còn lại cũng thuộc bạn bè thân quen và hiện đang phục vụ trong các toán thuộc LL/Biệt Hải, vào dịp cuối tuần thế này hầu như chúng tôi, ai nấy đều luôn rảnh rỗi trừ trường hợp bị trực hay bận đi công tác mà thôi. Nên có thói quen anh em hay cứ rũ nhau về nhà anh Châu tụ họp, xem như thông lệ của những thằng vô gia cư đám con dì phước chúng tôi, hơn nữa Châu lại là tay làm đồ nhậu có hạng không thua kém ở ngoài hàng quán, xét về mặt tuổi tác mặc dầu anh lớn hơn chúng tôi và có khá nhiều năm thâm niên hoạt động công tác xâm nhập (bắt đầu từ năm 63) cộng với bản tính xuề xòa ham vui, gia đình cũng tỏ ra quí mến bạn bè mỗi khi chúng tôi có dịp lui tới, nên đa số anh em dù tuy không ở chung cùng toán, nhưng ai nấy đều tỏ ra thích thú mỗi lần có dịp họp mặt nhà anh.Còn nhớ buổi trưa lúc 11 giờ Chúa Nhật Ngày 8. 4. 1972. Bất chợt một chiếc xe Jeep do tài xế Hs / I Tư chạy tới, dừng lại trước cổng nhà xuống xe vội vã đi vào, lúc ấy mọi người đang ngồi vui vẽ nhưng khi nhìn thấy bóng dáng của Tư tất cả lấy ngạc nhiên, cứ ngỡ anh nầy cũng thuộc về diện vô gia cư nên đi tìm vui cuối tuần nơi đám bạn bè, trong số có người mau mắn kéo ghế mời ngồi nhưng anh vội vàng từ chối, đồng thời cho biết lệnh trên gọi riêng tôi và Châu xuống trình diện Bộ Chỉ Huy gấp, để nhận công tác và chính anh sẽ đích thân chở hai chúng tôi, nghe xong mọi người bàng hoàng, riêng tôi nghĩ thầm không hiểu lần nầy đi đâu mà gấp đến thế, vì nguyên ngày hôm qua trong trại chẳng nghe tin tức gì cả. Dù vậy tôi, Châu và số bạn bè vẫn nán lại cạn ly cuối cùng trước khi chia tay từ giã, cùng lúc ý nghĩ vẫn vơ bất chợt thoáng qua biết đâu đây là lần…nên cãm thấy hơi sợ. Vì trước đây vài lần có dịp chứng kiến tương tự một vài thằng bạn thân thương, đã ra đi đột ngột vĩnh viễn không ngày trở lại. Sự chết sống mong manh của nhửng thằng đi toán “Chiều còn, tối mất” nào ai hay biết. Riêng Châu vẫn còn ít nhiều bịn rịn vợ con, dù thế nào cũng phải trấn an đánh tan sự lo âu gia đình, hơn nữa giờ phút này đang sum họp vui vẽ tại nhà. Thử hỏi người vợ nào yên lòng khi tận mắt chứng kiến cảnh chồng con chia ly trong thời chinh chiến. Còn tôi không thuộc diện trên xem ra đi đứng có phần dễ dàng, phút giây bịn rịn của Châu qua mau cả hai đứa ngoan ngoãn nối gót theo người tài xế leo lên xe Jeep cùng nhau ngồi ở phía sau.

Giây phút suy tư trôi nhanh tôi xoay người qua Châu hỏi nhỏ, anh có biết công tác thuộc loại nào không ? Châu bắt đầu thuật lại cho tôi từ đầu câu chuyện. Cách đây mấy ngày trong đêm tổ chức mãn khóa Biệt Hải tại CampFay, khi tiệc vừa nữa chừng có lẽ vì quá vui nên tao thấy Đ/ úy Thọ đứng dậy nói lớn “Lần nầy thằng nào muốn chết theo tao ngoại trừ thằng Châu” (Châu lúc ấy phụ trách huấn luyện cả hai khoái Biệt Hải 70&72. Trong số khóa sinh có cả Đ/ úy Thọ và K) khi tiệc sắp tàn, tao tìm cách gặp Đ/ úy Thọ để hỏi? Và được ông cho biết sơ qua sẵn đó tao giới thiệu mầy cùng đi với tao chuyến này. Còn ngày giờ khởi hành không hề hay biết, vã lại vì ngại an ninh nên tao không muốn đề cập. Nghe xong tôi lặng người giây lát, mọi thắc mắc của tôi kể như hoàn toàn được Châu hóa giãi, nghĩ đến thân tình bạn bè từ lúc anh em quen biết đến nay, mọi vui buồn đều chia nhau san sẽ khiến tôi cãm mến anh nhiều hơn. Tôi và Châu có mặt tại phòng họp BCH / củaTrại 9 đúng 12 giờ trưa. Lúc nầy hầu hết mọi người đã có mặt trước ngoại trừ hai đứa tôi tới trễ, trình diện Đ/úy Thọ xong chúng tôi tự đi tìm ghế để ngồi, lúc này Tr/ toán Thọ đứng trước tấm bảng đen thuyết trình đồng thời giãi thích nhiệm vụ thi hành trong công tác ngày mai. Theo lời ông đây thuộc loại công tác xâm nhập tìm cách giãi thoát một số phi công Hoa Kỳ đang bị mắc kẹt trong vùng do địch kiễm soát, các máy bay của họ đã bị phòng không địch bắn rớt trên không phận cực bắc Quảng Trị hơn 10 ngày qua. Tất cả phi công Hoa kỳ đều nhãy dù đáp xuống đất an toàn, và tìm cách ẩn trốn chung quanh địa điểm dọc quốc lộ 9, phía Bắc sông Cam Lộ thuộc Quảng Trị, hiện vùng đất nầy đã hoàn toàn do địch quân kiễm soát, các phi công vẫn tìm cách liên lạc với thám thính “L 19” trên không vào mỗi đầu giờ, bỡi thế nên có những phi vụ bí mật đã thả những thùng đồ ăn C,ration xuống đất tiếp tế. Tr/ toán Thọ còn nhấn mạnh và ân cần nhắc nhở anh em hãy tránh xa mỗi khi trông thấy những thùng C,ration đó. Lý do có một số hộp được gài chất nổ rất nguy hiễm (chỉ riêng phi công mới biết được ám số an toàn các loại thực phẩm) mục đích đề phòng trường hợp khi cán binh công sản tìm cách thu nhặt. Kế đến Tr/ toán Thọ cầm trên tay cây thước gỗ chỉ vào bản đồ cho mọi người biết, về vị trí đóng quân của cả hai phía địch & bạn trong phạm vi trách nhiệm hoạt động của toán. Hiện nay ở điễm Lô cốt đang có một Đ/ đội thuộc SĐ 3/ BB / QLVNCH đóng quân, tính từ điễm lô cốt trên quốc lộ 9 ngược về khe sanh và phía Bắc bên kia sông Cam lộ nhìn thẳng ra hướng Cữa Việt (Duyên đoàn 16 Hải Quân trước kia, nay đã bỏ) chúng tôi thấy rất nhiều ngôi sao tô đậm mực đỏ, mọc lên san sát biễu tượng chổ đóng quân của các S/ đoàn Bắc Việt, còn lại những ngôi sao màu xanh nằm hướng Đông Nam dấu hiệu QLVNCH thuộc Sư Đoàn 3/ BB trấn đóng có phần thưa thớt, đã làm cho tinh thần một số anh em có phần căng thẳng khi được trông thấy.

Nhớ lại quãng thời gian năm 1970, tôi có dịp tham dự công tác gĩai cứu người lính đơn vị LL/ Đặc Biệt Mỹ ở Mật khu U-Minh tại Cà Mau, dẫn toán vào tận sào huyệt tiểu đoàn Rạng Đông do tên thủ lãnh biệt danh Tư Lưới chỉ huy. Nhưng lần đó không làm tôi cãm thấy ưu tư như chuyến đi này, lý do vì cuộc chiến “mùa hè đỏ lữa 72” bây giờ khác xa lúc đó. Vã lại chuyến này được cấp trên chỉ định tôi tiền sát dẫn toán xâm nhập mục tiêu (mỗi lần xâm nhập đường biển hoặc đường bộ tiền sát viên có bổn phận đi trước dò đường) Chức vụ này đã lắm phen làm tôi hú vía (ban đêm bất cứ vật gì cũng đều đáng sợ) nó cứ theo bám như hình với bóng trong mỗi lần công tác, nên cây tiểu liên gắn nòng giãm thanh luôn hiện hữu trong các ngăn tủ, đến nỗi hàng số khắc trên báng súng đã thuộc nằm lòng tựa như ngày sinh tháng đẻ của tôi. Thời gian còn ở toán Mercury thĩnh thoảng gặp lúc tr/ toán Miễn vui vẽ tôi nói bông đùa, bộ ông muốn thấy thằng em mau sớm gặp bạn bè bên kia thế giới hay sao ? Chuyến nào cũng vậy không hề thay đổi, chẳng những không giãi quyết ông còn trả lời vắn gọn. Tao nghĩ số mầy sống lâu dẫn toán đi đầu mát tay nên chuyến nào cũng về đầy đũ, từ đó về sau miệng tôi cứng hẵn mỗi lần có dịp gặp ông, nghĩ vì “Lệnh phải thi hành” có nói ra cũng chẳng đến đâu. Buổi họp công tác sắp kết thúc lúc này tâm trí từng người hơi phần căng thẳng, sau giờ thuyết trình bất ngờ nghe Tr/ toán Thọ lên tiếng, anh em ai có ý kiến gì không? tất cả trả lời không, kế đến ông nhắc anh em đi tới bàn bên cạnh ghi lại địa chỉ tên họ thân nhân cho rõ ràng khi cần cấp báo, đồng thời đứng chờ lãnh một số quân trang cần thiết cho chuyến công tác gồm có: 2 bộ kaki màu xanh cứt ngựa (loại chính quy Bắc việt thường mặc) 2 dây lựu đạn Mini ( nhỏ ) giày bata, flaregun (loại hỏa châu 6 viên đeo ở cổ) còng tay và C, ration đựng trong bịt Aluminum màu nâu đủ dùng 4 ngày. Ngoại trừ khẩu Ak 47 và 4 băng được lắp đầy đạn, áo phao chân nhái v.v… Nguyên một buổi chiều mọi người đã chuẩn bị xong xuôi mọi thứ, tới giờ kéo nhau xuống phòng ăn tối và trở lại về phòng nghĩ ngơi lấy thêm tinh thần cho sáng sớm ngày mai.

4 giờ 30 sáng ngày hôm sau tất cả nhân viên công tác có mặt đầy đủ chờ trước sân cờ BCH / Trại 9 (tức thứ hai ngày 9. 4. 72) Hai chiếc Trực thăng do phi hành đoàn người Hoa kỳ không biết từ đâu bay tới đáp xuống sân cờ bốc toán, mọi người tuần tự leo lên ngồi vào vị trí các dãy ghế trong máy bay được phi công phụ tới kiễm soát kỹ lưỡng giây an toàn từng người, trong số có cả 2 Cố vấn là Tr/ tá Anderson cơ quan tiếp cứu ( JPRC ) thuộc phòng 2 MacSog 80 từ Saigòn ra và Đ/ úy Tom Norris ( UDT seal, hiện đang làm Cố vấn cho các toán Biệt Hải ) đã có mặt từ trước trên một trong số 2 chiếc Trực thăng. Cả hai máy bay cùng đồng loạt cất cánh bay lên không trung lúc 5 giờ sáng. Khi Trực thăng ở trên cao độ, mọi người cãm thấy hơi lạnh vì cơn gió đầu ngày sáng sớm tinh sương thổi xuyên qua cánh cửa máy bay hắt vào ngay mặt làm tê buốt thái dương, ngồi trong lòng máy bay giờ này có dịp nhìn xuống dưới đất thấy mọi cảnh vật vẫn chìm đắm trong sự yên tĩnh giã tạo của thời loạn ly chiến tranh, đó đây lưa thưa vài ngọn đèn đường ẩn hiện một màu vàng nhạt, giống những cặp tình nhân trong cô đơn tuyệt vọng. Đâu ngờ phút giây nầy có nhiều người cùng cảnh ngộ, đang sắp sữa âm thầm đối diện hiễm nguy bởi chiến tranh đưa tới, trong số có cả anh em chúng tôi.

Sau mấy giờ bay hai chiếc trực thăng nhanh chóng đua nhau bỏ lại Đà thành dấu yêu, vượt qua khỏi thành phố Huế lần lượt lượn quanh mấy vòng trên bầu trời thuộc Thị xã Quãng Trị khoảng 7 giờ 30 sáng, như đang tìm chổ an toàn trước khi đáp xuống sân cờ BTL/ Tiền Phương trong. Ngồi trên cao độ lúc này có dịp nhìn xuống thấy rõ cảnh điêu tàn của làng xã kế cận, hằng trăm hằng ngàn hố bom lớn nhỏ đua nhau đào xới trên nhiều thửa ruộng khiến tất cả trở thành hoang phế, những làn khói đen tỏa mùi khét lẹt bốc cháy dỡ dang từ các căn nhà đỗ nát do pháo của địch tàn phá đêm qua, đủ cho biết tình hình ở đây hiện đang chịu nhiều áp lực nặng nề của phía Bắc quân. Chúng tôi vội mang tất cả dụng cụ súng đạn rời khỏi trực thăng đi vào một nơi góc sân ở phía đằng trước mặt Bộ Chỉ Huy Tiền Phương tìm chổ ngồi chờ đợi, còn Tr/ tá Anderson, Đ/ úy Tom Norris và Tr/ toán Thọ cả 3 đi thẳng vào phòng hành quân họp với Tư lệnh phụ trách trấn vùng hỏa tuyến. Tất cả những hình ảnh vừa trông thấy, đã mau chóng giúp các nhân viên hình dung được mọi điều hiễm nguy những giờ kế tiếp, vài anh em lấy thuốc ra hút hầu giúp trấn an tinh thần, có lẽ thói quen mỗi khi đối diện nghịch cảnh. Tuy lúc này cả 4 anh em cùng ngồi sát kề nhưng mỗi người mang một suy tư khác nhau. Trước mặt cổng BCH là con đường quốc lộ I chạy thông vào Huế, phía bên kia đường hằng trăm lều vải màu trắng của cơ quan Hồng Thập Tự dựng lên san sát thứ tự, nơi dùng làm chỗ tạm trú nhiều ngàn dân tỵ nạn khắp thôn quê chạy về ẩn tránh. Trong thời gian anh em ngồi chờ Tr/ toán vào họp chợt thấy một vị Tướng lãnh ngang qua không hiểu sao ông dừng lại rồi hỏi, các anh có phải chiêu hồi hay không? (có lẽ vì thấy lối ăn mặc các nhân viên giống như cán binh cộng sản) Tất cả chúng tôi đứng dậy chào tay đồng loạt trả lời không. Ông vội hỏi tiếp thế đơn vị các anh ở đâu ra đây với nhiệm vụ gì ? Thưa Ch/ Tướng, chúng tôi thuộc LL/ Biệt Hải/ SPVDH/ NKT, xuất phát từ Đà Nẵng được lệnh ra đây cứu các Phi công Hoa Kỳ lâm nạn. sau khi nghe chúng tôi trả lời, thấy ông lắc đầu tỏ dấu hiệu hoài nghi công tác. Và ông tiếp tục kể sơ tình hình của mấy Phi công Hoa kỳ hiện nay đang gặp khó khăn và lắm phức tạp, mấy ngày trước đây nhiều đơn vị đã dồn hết nỗ lực đi tìm cứu cấp, nhưng không thành công ngược lại còn mang khá nhiều tổn thất, như để muốn kết thúc câu chuyện (vài anh em đến nay vẫn còn nhớ tên “H” của ông tướng trên túi áo) theo ông các viên Phi công Hoa Kỳ này giống những xác chết không hồn, người ta muốn làm rùm beng cốt khích lệ những người còn sống hầu giúp giữ vững tinh thần chiến đấu đó thôi, chứ thật ra người chết rồi thì làm sao biết người sống hiện đang làm gì. Đồng thời ông cho anh em biết trong giờ tới một chiếc thiết giáp M- 113 sẽ chạy tới đón Toán đến điễm công tác, ngoài ra phương tiện trực thăng không thể xữ dụng vì phòng không cộng sản rất nhiều, vã lại hiện tình hình quanh vùng khá phần nguy hiễm. Trước khi chia tay ông không quên cầu chúc tất cả mau sớm thành công và an bình trở về. Cùng lúc thấy Tr/ toán Thọ và 2 Cố vấn Hoa Kỳ từ phòng hành quân đi ra (khoảng 10 giờ sáng) lại gặp chúng tôi cho biết sẵn sàng chuẩn bị chờ Thiết giáp M- 113 tới chở. Trước đó 10 phút lên xe Lê Thanh Tất may mắn gặp được người bà con, và cùng bạn bè với tôi lúc trước theo học khóa Biệt Hải, nhưng anh bị đánh rớt vì không vượt nỗi tuần lễ Địa ngục, hiện có mặt tại đây phục vụ trong đơn vị Kỵ-Binh (thiết giáp) trấn đóng vùng địa đầu Quảng Trị như anh cho biết. Cả 3 chúng tôi được gặp lại nhau trong mấy phút ngắn ngủi không kịp nói lời thăm hỏi, Định nhanh nhẹn mở đầu câu chuyện, Tao biết bọn bây sắp sữa ra vùng công tác, vì mấy thằng bạn M- 113 cho tao hay chính bọn nó sẽ chở toán Biệt Hải ra vùng hoạt động, nghe đến Biệt Hải tao vội tìm tới không ngờ gặp được hai thằng mầy, rồi không bỏ lỡ Định lại thao thao bất tuyệt, hiện nay tình hình quanh vùng hết sức sôi động áp lực Cộng quân càng ngày trở nên nặng nề. Bọn mầy đi chuyến này phải ráng cẩn thận đề phòng, nãy giờ tôi đứng lặng thinh bây giờ có dịp lên tiếng, thế mầy ra đây lâu chưa? Định trả lời vắn tắt từ lúc rời Biệt Hải, trước khi chia tay từ giã Định xoay lại bồi thêm “Đ,M” không hiểu sau lần nầy tao còn cơ hội gặp lại 2 thằng mầy nữa không? rồi dặn dò Tất (người bà con) lần cuối phải hết sức cẩn thận xem chừng lần nầy khó nuốt, lúc đó ngoài hai đứa tôi còn có Châu cũng đứng cạnh đó.

Câu chuyện qua lại có thế thôi nhưng đã vô tình tác động tâm lý cho người nghe không ít nhất là những người trong cuộc. Khuôn mặt Tất cãm thấy đăm chiêu, nhưng rồi mọi ám ảnh cung nhanh tan biến khi tiếng động cơ chiếc M 113 chạy tới càng lúc càng gần đã mau chóng đưa mọi người vào vị thế sẵn sàng. Khoảng 11 giờ trưa, Ngày 9. 4. 72 anh em nhận lệnh ra xe kể cả hành trang được chất gọn phía trong thiết vận, hai cánh cửa sắt đằng sau nặng nề đóng kín do người lính thiết kỵ đứng chờ cẩn thận khóa chặt. Tiếng động cơ M 113 nổ dòn phun ra những cụm khói màu đen khét lẹt, từng vòng xích xoay tròn nghiến chặt mặt đường chiếc Thiết giáp từ từ di động chạy khỏi cổng BCH/ Tiền Phương hết sức mệt nhọc, hình như cả khối sắt cũng đang dỗi hờn bỡi cuộc chiến dai dẵng chưa một lần nghĩ ngơi để được tu bổ. Trên chặng đường dài khúc khĩu lồi lõm do những hố bom rãi rác, con cua sắt vẫn miệt mài băng đồi vượt dóc khiến đôi lúc nhã ra cát bụi bay lên mịt mùng, cuối cùng dừng lại phía sau hông Tiền đồn vào lúc 4 giờ chiều cùng ngày.

Mọi người lần lượt rời khỏi phòng thiết vận M- 113, trước mặt thấy cảnh tượng hết sức thê lương thật đúng nghĩa vùng đất đã bị chiến tranh hoàn toàn tàn phá, chung quanh gần xa không thấy bóng làng mạc ruộng vườn hoặc dấu chân người qua lại cả đến những loài súc vật, hằng ngàn hố bom cũ-mới đào xới khiến từng góc cây ngọn cỏ nằm bật ngỗn ngang khô héo khắp nơi, nhìn cảnh tang thương dâu bể hiện liên khiến lòng mọi người ít nhiều tê tái, đủ biết nỗi niềm cơ cực mà người dân miền Trung gánh chịu do chiến cuộc đưa đến chưa kể thiên tai bão lụt hằng năm cơ hàn biết bao! Ngay trung tâm đĩnh đồi thấy một cái Lô-cốt của Pháp để lại được xây kiên cố theo hình bát giác, chung quanh trổ nhiều lỗ châu mai giúp người đứng trong có thể chiến đấu hoặc quan sát địa thế phía ngoài một cách dễ dàng, nghe anh em kể lai lịch cái Lô-cốt nầy là dấu tích của những người lính Pháp để lại, sau Điện Biên Phủ thất trận tất cả cuốn gói ra đi. Hiện được một Đ/ đội thuộc S/ Đoàn 3 BB. QLVNCH, dùng làm Tiền đồn án ngữ đóng chốt kiễm soát đoạn đường huyết mạch quốc lộ 9, từ ngã Lào ngược về.
Image Phía Tây Bắc dưới chân ngọn đồi có cây cầu bắc qua trên con rạch nhỏ nối liền 2 đầu quốc lộ, anh em Bộ binh cho biết công binh phe ta đã cố tình giật sập trong mấy ngày trước, mục đích cãn ngăn tiến quân và tăng T 54 xâm lăng ồ ạt của các S/ Đoàn Bắc Việt, cách đó không xa khoảng mấy trăm thước hướng Tây Nam chúng tôi trông thấy 6 & 7 chiếc T 54 – 72, của con cháu bác Hồ đã bị các đơn vị QLVNCH dùng M. 72 bắn trúng, hiện nằm ngỗn ngang như đóng sắt vụn, anh em cho biết thêm nhiều xạ thủ Bắc quân bị xiềng chân vào các ổ súng, bị chết cháy trông như những con heo quay thấy thật tội nghiệp, đồng thời cho chúng tôi xem một số thư tờ sách báo gửi cho cán binh do đảng cộng sản và hội mẹ yêu nước bác Hồ tưng bóc, kể cả lương khô anh em tịch thâu sau cuộc lục soát.

Nói về quân số phụ trách đóng chốt tại tiền đồn đó, gồm một Đại đội với cấp số tổng cộng trên dưới 80 người, Chỉ huy bỡi một Tr/ úy Đ/ Đội trưởng (Thiếu Sinh Quân) thuộc S/ Đoàn 3 BB, ngoài ra Đ/ đội còn được tăng phái thêm 2 chiếc tăng loại M 48 ngụy trang rất kỹ đậu phòng thủ quanh gần lô cốt. Khi anh em Bộ Binh trông thấy toán Biệt Hải có cả 2 Cố vấn Hoa Kỳ đi theo hầu như tất cả đều vui mừng phấn khởi, xóa tan sự cô đơn trước bối cảnh hiễm nguy hiện tại, theo mọi người trường hợp bất trắc xãy đến đã có 2 người cố vấn sẵn sàng gọi máy bay đến để yễm trợ cho tiền đồn một cách dễ dàng. Qua mấy phút gặp nhau chào hỏi anh em Bộ Binh vội hối thúc chúng tôi nhanh chóng chuyển các dụng cụ vào trong Lô cốt, vì sợ đề lô cộng sản trông thấy nghe nói hằng ngày bọn nó vẫn bám sát theo dõi. Một vài người vui miệng kể cho chúng tôi biết tình hình mỗi ngày ở đây, những giờ địch quân thường pháo kích, vào mỗi sáng sớm khi anh em vừa thức dậy ra ngoài làm vệ sinh cá nhân, buổi trưa nấu ăn, và xế chiều. Ngoài ra còn nhiều đợt pháo khác trong ngày nếu chúng cãm thấy khả nghi.

Sau khi Đ/ úy Tom Norris thấy nhân viên sắp xếp xong chổ nghĩ ngơi, ông đề nghị với Tr/ toán Thọ muốn cho toán xuất phát (lúc 5 hoặc 6 giờ chiều) không hiểu Tr/ toán Thọ suy nghĩ thế nào xoay qua hỏi ý kiến Châu (Châu cho biết) Có lẽ nghĩ anh là người hiện thâm niên nhất trong số chúng tôi. Châu liền góp ý các hoạt động Biệt Hải xưa nay chỉ chuyên xâm nhập về đêm, thành công hay không đều dựa vào yếu tố bất ngờ. Nhưng với tình hình hiện nay cũng như lộ trình di chuyển xem ra không mấy dễ dàng nhất là đang lúc ban ngày, một điều cũng đáng quan ngại hiện quân Bắc việt quá đông cả mấy S/ Đoàn chính quy từ Bắc mới vào, chúng đang kiễm soát từ tuyến Khe sanh dọc về quốc lộ 9 và có thể còn lan sang những vùng lân cận, sợ sẽ phát giác nhanh chóng bỡi các trạm gác hoặc những chốt của chúng trước khi toán chưa đến được mục tiêu. Nghe sự giãi thích hợp lý Tr/ toán Thọ mau mắn bỏ ngang ý kiến do Tom Norris đề nghị, đồng thời quyết định cho toán khởi hành tối nay, riêng anh em còn lại không có ý kiến, vội tìm cách lo giãi quyết bao tử trước khi mặt trời sắp lặn. Ăn uống xong xuôi kiễm kê lại các trang cụ cần thiết mang theo tối nay đăc biệt súng đạn đầy đủ, mặt trời hướng Tây thật sự đã ẩn trốn sau những dãy núi nhấp nhô. Nghe anh em nhắc đến Khe sanh hiện chúng đang dùng làm chổ để giam giữ các đơn vị QLVNCH khá đông, thĩnh thoãng vẫn thấy nhiều nhóm nhỏ quân ta tìm cách vượt trốn về, và được anh em tiền đồn đón tiếp.Đúng 7 giờ tối toán chuẩn bị khởi hành, bỗng dưới chân đồi cách lô cốt khoảng độ hơn 1000 thước (ước tính theo tầm mắt, trông khá rõ ràng vì hiện đang là mùa hè cho dù mặt trời đã tắt vẫn còn nhìn được) thấy xuất hiện một đoàn xe Tăng T 54 và Molotova của Cộng quân không biết bao nhiêu cái, tất cả đều bật đèn lên sáng trưng nối đuôi nhau chạy trên quốc lộ 9 hướng thẳng về Tiền đồn của Đ/ đội và toán trú đóng, hầu như chúng không biết sợ máy bay oanh tạc hoặc pháo binh QLVNCH , tác xạ khi sắp gần tới cây cầu đơn vị công binh giật sập trước đó, lập tức đoàn xe Tăng T 54 chuyển hướng băng qua nhiều ngọn đồi chạy thọc sâu vào địa giới Quảng Trị. Thấy vậy tất cả nhân viên lẫm bẩm chửi thề mẹ kiếp toán sắp sữa xuất hành, đã bị cô hồn Bắc quân đến áp đão tinh thần. Và ngày hôm sau cũng vậy, lúc 2 giờ chiều từng đoàn Molotova phát xuất từ hướng cửa Việt cũng lần lượt tiến vào, chúng băng qua nhiều cánh đồng hoang sát nách tiền đồn không xa một cách thãn nhiên chẳng hề kiêng sợ làm cát bụi bay lên mịt mờ. Nói tóm lại trong khoãng thời gian này quân Bắc Việt vẫn liên tục thường xuyên di chuyển. Nhất là những ngày toán Biệt Hải có mặt tại đây, điều làm mọi người ngạc nhiên không ít, ngày lẫn đêm không hề nghe tiếng máy bay hoặc pháo binh phe ta bắn tới yễm trợ tiền đồn. Vì thế tình hình quanh vùng ngày càng trở nên căng thẳng đến mức tồi tệ. Vào giờ phút linh cãm không vui thế nầy, đa số đều nhờ hơi thuốc “Basto” xanh giúp trấn an tinh thần. Cho đến hôm nay, dù cuộc chiến đã trôi qua trên 30 năm kể từ tháng 4, 72. Nhưng mỗi lần có dịp nghĩ tới chuyến công tác Biệt Hải ngày đó, cá nhân tôi không khỏi hết lòng cãm phục biết ơn sự hy sinh cao độ của anh em Đ/ Đội thuộc S/ Đoàn 3 B/B trấn đóng trên Lô cốt tuyến đầu quốc lộ 9 Cam lộ (sông Miếu Giang) Quảng Trị năm nào. Phải công nhận sự dũng cãm gan dạ các anh, dù phải chiến đấu trong giây phút cô đơn tuyệt vọng nhưng lòng vẫn sắt son quyết tâm ở lại để bảo vệ vùng địa đầu của miền Nam trong những giờ phút nguy ngập.

(Những ngày sang đây may mắn đọc được tài liệu công tác “BAT-21” giúp biết nhiều chi tiết và tên tuổi của những người phi công một thời được toán Biệt Hải giãi cứu gồm: Đại úy phi công Mark Clack và Trung Tá phi công Hambleton. Theo tài liệu viết khi xác định được điễm Tr/ tá Hambleton ẩn trốn, vào lúc 9 giờ tối ngày 2. 4. 72. Không Quân Hoa kỳ đã lập một vùng “Cấm hỏa lực” (no fire zone) quanh vị trí phi công Tr/ tá Hambleton bị hỏa tiễn SAM bắn rơi với đường kính 27 cây số. Vùng cấm hỏa lực này bao trùm hầu hết các vị trí QLVNCH đang bị địch tấn công, nên vì thế các Đơn vị QĐVNCH không còn được máy bay và pháo binh yễm trợ như thường lệ. Đây là cơ hội bằng vàng đã giúp Bắc Việt chuyển quân vào các tỉnh của tuyến đấu lãnh thổ miền Nam một cách rầm rộ nhanh chóng mà không e sợ. Như đã viết ở trên, Khiến các điểm đóng quân của S/ Đoàn 3 BB sau đó không lâu đã bị cộng quân tràn ngập)

Gần 8 giờ tối, màn đêm bắt đầu buông xuống sắp phủ kín cảnh vật chung quanh, nhường chổ cho những sinh vật sở trường hoạt động về đêm, trong đó có toán Biệt Hải. Tối nay toán áp dụng đội hình di hành hàng dọc mỗi người cách nhau 3 thước theo thứ tự chỉ định ở phòng thuyết trình: Tiền sát dẫn toán đi đầu gồm có: Tôi và Tất, cách 15 thước Tr/ toán Thọ, Tom Norris, còn Châu đến K đi sau hậu vệ. Riêng Tr/ Tá Andy Anderson nhận nhiệm vụ ở lại tiền đồn làm trục 3 liên lạc giữa thám thính L 19 với toán công tác cùng các phi công Hoa kỳ đang ẩn trốn trong vùng đất địch.

8 giờ 20 tối, toán bắt đầu rời khỏi tiền đồn dưới sự hướng dẫn của người lính gác, vượt qua nhiều vòng kẽm gai mìn bẫy phòng thủ quanh căn cứ. Nhờ vào buổi chiều lúc vừa tới tôi có dịp nhìn sơ địa thế. Nên giờ nay tìm hướng lộ trình dẫn toán đi xuống bờ sông Miếu Giang cãm thấy không mấy khó khăn (sông Miếu Giang khoảng cách đôi bờ cách nhau ước chừng 800 hoặc 900 thước, ban ngay đứng bên này bờ Nam có thể trông thấy hơi rõ từng góc cây ở phía bên kia bờ Bắc) Sông được chia thành nhiều nhánh đặc biệt dòng nước được chạy cực mạnh theo nhịp độ thũy triều lên xuống, đứng dưới bờ sông nhìn lên quốc lộ 9 mọi người không thể biết khoảng cách bao xa? Lý do trời tối nên tầm nhìn giới hạn, hơn nữa nhiều cây to cao mọc lên san sát nên đã che khuất phía trước, những lúc thinh vắng anh em vẫn nghe rõ được từng tiếng ho hoặc tiếng khuya động từ chỗ Sư đoàn đóng quân bộ đội cộng sản dội lại. Bầu trời về khuya cãnh vật trở nên tịch mịch thinh vắng lạ thường, ngoại trừ tiếng rên xiết côn trùng rên xiết, tựa như oan hồn “sinh Bắc tử Nam” làm mọi người trong cuộc cãm thấy len lén nỗi buồn cô đơn khi nghĩ đến thần chết vẫn quanh quẩn đâu đây? một vài loài chim đậu yên ngũ trên các nhành cây vụt bay tán loạn khi bị đánh thức. Vô tình làm cả toán giật mình nằm lại vì tưởng bị địch phát giác theo dõi, di hành ban đêm cãm thấy có nhiều khó khăn bất cứ tiếng động nào cũng có thể tạo ra cãm giác lo sợ, bỡi bị hạn chế tầm nhìn duy chỉ tin tưởng vào thính giác giúp mọi người phán đoán sự việc xãy ra cấp thời, những lúc như vậy đã làm hai tiền sát viên hết sức phân vân, tưởng tượng những sự không may có thể đưa tới bất ngờ. Giúp tôi nhanh chóng nãy sinh ý kiến vội vàng thay đổi lộ trình dẫn toán đi xuống dọc theo mé nước sâu ngang đầu gối đôi lúc gặp phải chỗ trũng lên tận tới ngực, tuy có phần chậm hơn nhưng chắc chắn không gây tiếng động hoặc không để lại dấu vết giúp chúng dễ dàng theo dõi.

Đúng 12 giờ 30 (nữa đêm) tất cả đến được mục tiêu không biết toán đã đi được vào sâu bao nhiêu cây số. Sau khi tìm các bụi cây gần đó ẩn núp đồng thời chú ý nghe ngóng về hướng trên quốc lộ 9 mà hiện cộng sản đóng quân cũng như phía dưới dòng sông. Vì trước giờ khởi hànhTr/ toán cho biết tối nay một trong hai người phi công sẽ từ chổ ẩn trốn thả trôi ra theo dòng sông, trong khoảng thời gian từ 12 giờ đến 3 giờ sáng, mọi người cố để mắt quan sát và nhanh chóng tìm cách đón họ một khi phát giác. Đêm nay cả vùng trời tối đen (giống đêm 30 tết) một vài vị sao lưa thưa lấp lánh tựa như ánh sáng của loài đom đom lẽ loi bay đêm, trên các đọt cây lớn nhỏ không hề lay động chứng tỏ thời tiết miền Trung sắp sữa bước sang hè nóng nực oi bấc, khiến cãnh vật chung quanh tịch mịch một cách đáng ngại. Ngoại trừ hơi thở nhè nhẹ từ người đồng đội nằm kế cận hòa lẫn tiếng nước róc rách của dòng thũy triều đang hồi chảy xiết ra hướng đại dương. Bỗng chính giữa dòng sông tôi bất chợt phát giác có chấm đen trôi xuống rất nhanh mỗi lúc một gần, bập bềnh theo dòng nước đang chãy cuồn cuộn chỉ vài phút sau đã thấy chấm đen trôi ngang chổ tôi và Tất (sở dĩ thấy trước vì hiện đang nằm vị trí đầu trong cùng) kể cả tiếng thở phì phào khá rõ xuất phát từ chính vật đen nhưng có phần hơi yếu.Thấy vậy tôi vội ra dấu cho Tất bò nhanh tới thông báo Tr/ toán Thọ biết để kịp thời quyết định, ít phút sau Tom Norris mang chân nhái nhanh nhẹn một mình phóng xuống lội theo, độ 20 phút thấy ông lội trở lại vị trí của toán, có lẽ vì dòng nước trên đà chãy mạnh đã cuốn vật đen đi xa nên không theo kịp. Tất cả sự việc xãy ra khoãng khắc nên anh em chẳng ai đũ thời gian để kịp hành động. Dù vậy vẫn án binh bất động chờ đợi lệnh lạc, tuy không nói ra nhưng mọi người đều nghi ngờ vật đen lúc nãy có thể một trong hai viên phi công nương theo dòng nước trôi ra, không may vuột khỏi tầm tay chờ đợi của toán. Coi như cơ hội hiếm hoi đã bị đánh mất, lúc này mọi người lại nghe rõ tiếng đối thoại giữa Tom Norris và Tr/ tá Anderson, có lẽ đề cập vấn đề diễn biến vừa mới xãy ra. Kể từ lúc phát hiện vật đen đã gần 30 phút trôi qua,Tr/ Toán Thọ cho lệnh anh em rút lui, nhìn mặt đồng hồ dạ quang điễm hơn 2 giờ sáng. Trên đường đi ra toán vẫn theo lộ trình cũ đi dưới mực nước, nhưng vẫn hết sức cảnh giác đề phòng nhất là những chổ nghi ngờ, điều đã làm mọi người quan tâm không ít hiện giờ trời quá tối hơn nữa cây cối rậm rạp thế này, lỡ lọt vào điễm kích của chúng chắc chắc hoàn toàn lãnh đũ.Theo như tin một số dân trong vùng di tãn về cho biết, bọn chúng đang tung ra nhiều nhóm truy tìm gắt gao các phi công Hoa kỳ ẩn trốn trong vùng. Phần tôi từ lúc phát giác vật đen và nghe tiếng thở giống người trôi ra, đầu óc luôn ám ảnh thắc mắc và tự hỏi không biết vật đó phải người hay không? Nên bụi cây nào sắp sữa đi ngang tôi càng để tâm chú ý quan sát, tuy biết niềm hy vọng lúc này hết sức mong manh. Kể từ khi toán nhận lệnh rời điễm kích đến giờ thời gian đã gần một tiếng, thoạt nhiên thấy có bụi cây phía trước nằm sát mé sông cách chổ tôi từ 8 đến 10 thước cả thân cây lung lay khiến mặt nước quanh đó giao động, lạ lùng hơn nữa những cây kế cận vẫn đứng yên tĩnh nên làm tôi giật mình hoãng sợ. Với giác quan nhãy cãm tôi ra dấu Tất biết cả hai đồng loạt nằm xuống nấp sau mô đất, cùng lúc Tất nhanh nhẹn chuyền cho người kế tiếp để kịp thời cùng dừng, trở lại cả 2 cùng chăm chú nhìn về hướng bụi cây khả nghi lắng nghe theo dõi, 10 phút hồi hộp trôi qua nhận thấy ngay điễm phát giác tình hình vẫn một mực yên tĩnh.

Tôi thầm thì với Tất hãy chú ý theo dõi và yễm trợ nếu cần. Tao tìm cách bò sát mục tiêu xác định lại vị trí, không thể nằm chờ đây mãi vì trời sắp sáng đến nơi. Cùng lúc tôi xoay nòng súng Ak.47 nhắm thẳng hướng mục tiêu, ngón trỏ sẵn sàng lãy cò nếu xãy ra đột biến. Khi khoãng cách hai bên thâu ngắn, nhận thấy bụi cây hồi nãy lại rung lên mỗi lúc một mạnh, đồng thời nghe tiếng người phát ra yếu ớt “No, No” bằng (English) từ dưới góc cây, làm tôi không còn phân vân nghi ngờ gì nữa, đích thực viên phi công Hoa kỳ mà chúng tôi đang vượt mọi hiễm nguy tìm kiếm để cứu, hiện tại đang ôm góc cây cách xa tôi 5 thước, ngược lại lúc này người phi công Hoa Kỳ đã thực sự trông thấy cả hai đứa tôi, nhưng vì hình ảnh những toán bộ đội cộng sản tìm bắt đã in sâu tâm trí khiến ông tỏ ra hoãng sợ, một phần đói khát lâu ngày trong thời gian ẩn trốn nên tinh thần sa sút. Khi xác định mục tiêu có phần chắc chắn tôi nằm lại chỗ cốt để mắt theo dõi hành động, không dám kinh động vì sợ viên phi công hốt hoãng trở lại buông khỏi góc cây lần nữa trốn theo dòng nước, hoặc bản năng tự vệ có thể dùng súng colt trong người bắn trả lại. Hiện tôi đã trông thấy lờ mờ viên phi công, phía trên đĩnh đầu dùng khăn quàng cổ ngụy trang phủ kín đến cổ, hai tay ôm chặt lấy góc cây lom khom dưới mức nước sâu đến lồng ngực, mấy phút sau tôi ra dấu Tất trở lại phía sau trình Tr/ toán biết gấp sự việc, không lâu Tr/ toán và Tom Norris cả hai tiến lên. Tôi chỉ vào chỗ bụi cây phát hiện viên phi công đang đứng, khi Tom Norris định được vị trí vội vàng lên tiếng, bất ngờ người phi công từ trong bụi cây nhanh nhẹn bò ra cùng lúc cả hai quỳ xuống ôm chầm lấy nhau, giống như đôi bạn cách xa lâu ngày bỗng nay gặp lại hết rức mừng rỡ, tiếng đứt quãng từ người phi công ngẹn ngào thốt ra “Thank,Thank ” làm mọi người hết sức phấn khởi. Có lẽ ông quá xúc động sau 10 đêm ngày đói khát phần bị bộ đội cộng sản truy bức, tưởng sớm muộn gì cũng sẽ bị bắt không ngờ nay được cứu sống qua sự hy sinh của bạn bè và Đồng Minh chiến tuyến. Nỗi vui mừng nào có thể sánh bằng hai chữ Tự do, tưỡng đã vĩnh viễn mất đi bỗng nay tìm được, riêng toán Biệt Hải đây là phần thưởng tinh thần vô giá, đã vượt tất cả khó khăn nguy hiễm hoàn thành công tác đêm đầu, càng gây niềm tin cho những chuyến kế tiếp. Dù vậy thời gian không thể cho phép ở lâu tại đây,Tr/ toán cho lệnh tất cả rời khỏi chỗ nầy càng sớm càng tốt, quanh đây hiện vẫn trong phạm vi đóng quân của S/ Đoàn bộ đội cộng sản. Khiến mọi người không dám coi thường còn bổn phận phải bão vệ đưa người phi công ra chổ an toàn.

Vào lúc 7 giờ sáng. Ngày 11. 4. 1972 tất cả toán cùng người phi công Hoa kỳ về được dưới triền đồi Lô cốt thuộc vùng đất Tự do. Hiện thời sức khỏe của ông bết bát không thể tự đi, nên anh em kẻ trước người sau thay phiên cõng ông chạy thẳng lên dóc tiền đồn, vì sợ đề lô Cộng sản trông thấy sẽ pháo kích tới, đến nơi thì hầu như tất cả đều cãm thấy thấm mệt vì suốt đêm không ngũ. Khi tất cả bình an ở ngoài cổng gác một số anh em Đại đội đầu tiên trông thấy vội chạy ra phụ dìu người phi công đặt vào trong Lô cốt tránh sự dòm ngó của địch. Vài nhân viên siêng sắn đi tìm những gói cafee trong các hộp C, ration lấy pha nước nóng đưa cho viên phi công Hoa kỳ thể tình chiến hữu, cầm ly cafee trên tay thấy hai mắt ông đỏ hoe rơi lệ, có ở hoàn cảnh nầy mới biết tình chiến hữu nghĩa đồng đội hết sức thắm thiết.

10 giờ sáng cùng ngày, một chiếc thiết vận M 113 xuất hiện không biết từ đâu chạy đến đậu sẵn phía sau Lô cốt dùng làm phương tiện chở người phi công Hoa Kỳ về vùng an toàn. Kể như chuyến đầu toán đã hoàn thành nhiệm vụ. Sau khi người phi công thật sự rời khỏi địa điễm Lo cốt, mọi người tìm khẩu phần cá nhân C,ration ăn uống qua loa, đi tìm giấc ngũ hầu mong lấy sức tiếp tục cho chuyến đêm nay. Phần tôi tìm nằm ở góc phía trong Lô cốt, cãm thấy mệt mõi nhưng không tài nào chợp mắt vì những ám ảnh của tối đêm qua. Đến 2giờ 30 chiều (không nhớ chính xác) nghe loạt đạn đầu do địch pháo tới phát nỗ rền vang chung quanh vòng tuyến những trái còn lại trúng rãi rác trên các miệng hầm cá nhân (bunker) khiến cả lô cốt rung chuyển liên hồi sau mỗi đợt nổ, mọi người đang ở phía trong kể cả tôi xách súng hốt hoãng chạy ra ngoài hầm phòng thủ vì sợ Cộng sản kéo tới tấn công ban ngày. Cùng lúc mấy người lính bộ binh dìu Tr/ tá Andy Anderson và Tr/ toán Thọ từ ngoài đi vào đặt trong Lô cốt tìm cách băng bó vết thương, trên áo quần cả hai lúc này thấm ướt đầy máu, ở góc Lô cốt Tom Norris liên lạc máy vô tuyến tìm phương tiện di chuyển chở các thương binh trở về hậu cứ.
(Theo lời thuật của một số anh em B/ Binh cho biết, khoảng 2 giờ chiều họ thấy hai người đứng trên miệng hầm phòng thủ (banker) cầm ống nhòm quan sát địa thế, có thể đề lô cộng sản trông thấy nên chúng kêu pháo tới)
4 giờ chiều hôm đó một chiếc thiết giáp M 113 khác chạy tới chở hai người bị thương rời khỏi tuyến công tác thể lời đề nghị của Tr/ toán Thọ muốn Châu cùng theo giúp săn sóc vết thương. Như vậy kể như tối nay toán mất hết hai nhân viên cộng thêm người trực máy liên lạc là Trung Tá Anderson, còn lại tất cả 4 người. Không ngờ sự việc xãy ra ngắn ngũi chiều nay đã làm thay đổi hoàn toàn chương trình công tác như toán dự liệu, riêng cá nhân tôi thì rất phân vân cộng với hình ảnh các đoàn xe Molotova và T 54 cộng quân ngày đêm di chuyển quanh vùng đã phần nào ảnh hưởng đến mặt tâm lý. Tóm lại tình hình tại đây mỗi ngày càng trở nên tệ hại không kể nhiều đợt pháo của địch.

Tối nay 4 người còn lại tiếp tục nhận phận sự đi vào giãi cứu Tr/ tá Hambleton, nghe nói ông đang bị thương khá nặng hiện ẩn trốn sâu trong vùng của địch kiễm soát thời gian đã 11 ngày qua, sức khỏe lúc này trở nên yếu kém không thể di chuyển xa được. Nên nhân viên tìm cách đi vào gần chổ ông ẩn trốn. Đồng thời Đại úy Tom Norris sẽ thay Đại Úy Thọ quyền Trưởng toán đêm nay, đã làm tôi và Tất cả hai đi đầu giật mình tỏ ra áy náy nghĩ đến vấn đề ngôn ngữ, lỡ trường hợp xãy ra trên đường di chuyển không biết lệnh lạc ra sao? Nên càng lo sợ (không ngờ chính đây là điễm gây ngộ nhận cho Tom Norris, trong tài liệu BAT- 21 mà cả tôi và Tất không hề hay biết mãi đến bây giờ).

Ngày 11.4.72, Tối nay Tom Norris cho toán khởi hành có phần sớm hơn vào lúc 7 giờ, bên ngoài bầu trời vừa nhá nhem mọi người được lệnh sẵn sàng rời Tiền đồn, đội hình như cũ không thay đổi ngoại trừ số nhân viên lần nầy ít hơn, tiền sát đi đầu gồm: tôi,Tất, đếnTom Norris hậu vệ K, đêm nay lộ trình di hành từ điểm xuất phát xuống mé bờ sông có phần thay đổi vì e ngại mìn bẫy của chúng, nên tôi đi lệnh cách hướng tối qua 40 chục mét, suy nghĩ biết đâu qua bọn chúng chẳng theo dõi sự di chuyển của toán. Sau mấy giờ lần theo đường bờ sông tất cả 4 người tới được điểm hẹn vào lúc 11 giờ đêm, trước giờ khởi hành nghe K nói lại lời củaTom Norris, phi công Hambleton sẽ theo dòng nước trôi ra tương tự như phi công Mark Lack đêm qua. Rút kinh nghiệm của chuyến vừa rồi, nên lần nầy anh em tỏ ra cẩn trọng chú ý nhiều hơn. Thời gian 2 giờ trôi qua toán đến được địa điễm, tất cả 4 người cố nằm chờ đón, nhưng vẫn không thấy tông tích Hambleton thả theo dòng nước như đã cho biết, mặc dầu lúc nầy nước thũy triều đang hồi chảy mạnh. Bỗng Tom Norris cho biết hiện Hambleton không thể rời khỏi vị trí ẩn núp vì về thương quá nặng và ra hiệu mọi người rút lui, cả toán đi lần về được tới trong vòng đai tiền đồn lô cốt (lúc gần 4 giờ sáng) kể từ lúc đó tôi và Tất không còn thấy Tom Norris mà chỉ nghe qua lời K nói lại, họ sẽ đi trở ngược lại bờ sông Miếu giang tìm kiếm ghe, trong khi hai đứa vẫn ngồi lại tiền đồn chờ đợi lệnh mới, tuyệt nhiên từ đó đến sáng không thấy hai người trở lại.

Sáng hôm sau, Ngày 13. 4. 72 lúc 9 giờ. Thấy K từ ngoài đi vào gọi chúng tôi xuống bờ sông giúp cõng Hambleton lên, nhìn thấy thân hình viên phi công tương đối khá cao và gầy, ở chân bị một vết thương khá lâu không thuốc men, làm chung quanh vết thương nhầy nhụa và da thịt trở thành màu tím. Từ mé bờ sông ngược lên hướng Lô cốt đường đi khá dốc, nên ba nhân viên Việt Nam thay phiên người trước kẻ sau phụ cõng và nâng hẵn hai chân, khi đặt ông nằm được phía trong Lô cốt thì áo quần mọi người ướt đẫm do ánh nắng gay gắt của buổi sáng đầu ngày. Chiều hôm đó anh em được lệnh rời khỏi Tiền đồn trở về lại BCH/ Tiền Phương, Quảng Trị. Đầu tiên gặp lại một số anh em B/B làm việc tại các phòng nhân viên hành quân, tất cả lấy làm ngạc nhiên khi nghe tin toán Biệt Hải đạt được thành công, vì trước đó mấy ngày hầu như mọi người kể cả vị Tướng Lãnh không mấy kỳ vọng. Từ khi nhận lệnh thi hành chuyến công tác cứu các phi công Hoa Kỳ lâm nạn trên sông Miếu giang, Cam lộ thuộc quốc lộ 9 Quảng Trị, tháng 4 năm 1972 (mùa hè đỏ lữa) Đến nay thời gian thấm thoát đã trôi qua trên 30 mươi năm, cá nhân tôi cũng như số anh em tham dự, chẳng hề để ý hoặc quan tâm tìm hiểu đến tên tuổi những người phi công mà mình có dịp giãi cứu. Tự nghĩ đây là nhiệm vụ chung của người lính QLVNCH có bổn phận giúp đỡ người bạn Đồng Minh Hoa Kỳ, chẳng may gặp phải hoạn nạn trong lúc góp sức chiến đấu bảo vệ quê hương miền Nam Tự do khỏi bị rơi vào ách thống trị cộng sản. Hơn nữa chính đây là một phần của tiền đồn chống cộng “Thế giới Tự do” như một số nhân vật tên tuổi từng đề cập mỗi khi có dịp. Sau lần công tác giãi cứu phi công Hoa Kỳ ở Cam Lộ Quãng Trị, chúng tôi được nghĩ phép mấy ngày trở lại đơn vị, 28 anh em trong số có tôi và Tất cùng với 3 Sĩ quan gồm Chỉ Huy Trưởng Thiếu tá Nguyễn Hữu Hùng, Đại úy Vũ Ngọc Thọ và Trung úy Trần Văn Từ (gọi Từ đen ở LĐ/ Người Nhái vừa mới thuyên chuyển ra) tất cả 32 người được lệnh về Bộ Chỉ Huy Nha Kỹ Thuật (Saigòn) trình diện, lập thủ tục An-Ninh tiếp gửi theo học khóa đặc biệt UDT seal ở Căn cứ Subic Bay, Hải Quân Hoa Kỳ tại Philippine. Chương trình huấn luyện về kỹ thuật đỗ bộ vào bờ, gồm loại tàu ngầm bỏ túi mỗi cái chỉ chở được 4 người đặt trong sumbmarine “the USS GRAYBACK” ban đêm đẫy ra ngoài sân tàu ngầm giới thiệu nhưng chưa thực tập.

Ngày đầu tiên toán Biệt Hải sắp sữa bước xuống tàu ra khơi thực tập được một Sĩ quan Mỹ phụ trách hướng dẫn cho biết chi tiết về chiếc “USS GRAYBACK” qua lời thông dịch Tr/ úy Đào Văn Tuyên (cựu trưởng toán Romulus) quân số thường trực trong tàu, tổng cộng 105 nhân viên gồm 97 thủy thủ và 8 Sĩ quan do một Trung tá hạm trưởng, đồng thời chỉ dẫn phòng cấp cứu (emergency) khi tàu bị tai nạn dưới độ sâu làm thế nào thoát ra an toàn, phòng chứa các đầu đạn ngư lôi, cách thức lấy nước rữa mặt (mỗi người chỉ được một ly) và vệ sinh cá nhân xữ dụng các nút bấm hơi (air) vấn đề ăn uống thì rất thoãi mái nếu cãm thấy đói đồ ăn lúc nào cũng có sẵn, mọi sự di chuyển đều bị hạn chế nếu không phận sư,ï điều nên nói ở đây vì tàu thường xuyên di chuyển dưới độ sâu nên hay bị ảnh hưởng sức ép của nước, dù mệt mõi ngũ mê thế nào cũng bắt buộc thức dậy lấy tay bịt mũi giãm áp nếu không sẽ bị chóng mặt nhức đầu (có thể ra máu ở mũi) hoặc gây khó thở, ngày đêm chỉ cần nhìn vào bóng đèn (vàng ngày, đỏ đêm) v.v… Những giờ về đêm nhân viên Biệt Hải thường được các UDT Seal hướng dẫn lội ra ngoài huấn luyện xuất phát từ cửa tàu ngầm được gọi phòng ướt (wet room) chia từng toán nhỏ mang bình hơi dưới quyền điều khiển huấn luyện viên của UDT Seal, lặn sâu xuống các lườn tàu của Thiết giáp hạm hoặc Khu trục hạm đậu neo trong vịnh Subic Bay, tập thám sát những vị trí đặt hệ thống bơm nước ra vào hầu giúp tránh được nguy hiễm sức hút cực mạnh của nước, vì tính tò mò muốn biết nên tôi và Châu ra dấu cho nhau, chờ cơ hội huấn luyện viên lội qua cả hai cố nán lại nối cả 4 cánh tay ôm đo ống láp chân vịt để biết lớn nhỏ thế nào, nhưng không thể hết được vì đường kính của láp quá lớn, còn 4 cánh chân vịt mỗi cánh dài hơn hai sãi tay (tức trên 10 feet).

Những ngày cuối tuần nghĩ huấn luyện tất cả Biệt Hải được UDT seal dẫn lên thăm viếng các Hàng Không Mẫu Hạm đang đậu cặp bến bão trì, được người Sĩ quan trực trên tàu đưa chúng tôi đi khắp nơi quan sát, từ hầm máy cho đến sân đáp máy bay có nhiều sợi giây cáp (cable) bắc ngang dùng để kéo giữ máy bay lại mỗi khi đáp xuống, hầm bão quản máy bay, nơi ăn chốn ở, cấp số thũy thủ kể cả nơi làm việc của Tư lệnh, với những chiếc ghế gắn bánh xe được điều khiển tự động chạy qua lại trên các tuyến đường rầy trong phòng điều khiển của Đại tá hạm trưởng v.v… Thời gian theo học giữa tháng Tư đến 11. 8. 1972 dự định sau khi xong khóa tất cả sẽ được gửi trở ra lại hoạt động miền Bắc, như tin tức cho biết trước khi rời khỏi Việt Nam, theo chúng tôi nghĩ nếu lúc đó không xãy ra biến động chính trị tại Hoa Thịnh Đốn, thì chưa biết tính mạng anh em bây giờ ra sao? Vì trong thời gian này Hạm Đội Hoa Kỳ đang phong tõa Hải Cảng Hải Phòng. Ngày mãn khóa có sự hiện diện của Đại Tá Giám Đốc Đoàn Văn Nu và một số Sĩ quan cao cấp Nha Kỹ Thuật từ Sai gòn sang dự, sau ngày đó tất cả được lệnh trở lại Việt Nam và luôn đặt trong tình trạng chờ đợi (trong thời gian anh em Biệt Hải theo hoc, một số các cựu Biệt Hải thuyên chuyển về Đoàn & Sở NKT trước đây, nhậân được tin đã làm đơn xin tái trở lại hoạt động) Điều đáng tiếc chuyến giãi cứu phi công Quãng Trị nếu đem so sánh chuyến Biệt Kích Mỹ nhãy xuống ở Sơn Tây Bắc Việt vào lúc 21 giờ 44 phút sáng, ngày 21. 11. 1970, để giãi cứu tù binh Mỹ xét ra cũng không quá tệ, ít nhiều vẫn thấy thành công. Nhưng đa số nhân viên chẳng một ai nhận được mảnh giấy khen chê bỏ túi, ngược lại một số ít xem đó là của riêng cá nhân, xữ sự thiếu tính chất thành thật.

Mãi đến hôm nay tình cờ đọc được tài liệu công tác ” Bat- 21″ tại sông Cam Lộ, do một vị N/ Trưởng của Sở sưu tầm gởi tới, cũng như tận mắt xem được cuốn Film tựa đề BAT- 21 trình chiếu trong chương trình Cable, biết tất cả sự việc diễn tiến của chuyến công tác đều sai sự thật, đồng thời giúp anh em trong cuộc càng hiểu thêm mặt trái của một số người chỉ biết dựa vào sự hy sinh kẻ khác. Riêng những phi công anh hùng năm xưa từng được giãi cứu từ vùng Cam Llộ Quãng Trị, có bao giờ để tâm nghĩ tới phút giây buồn vui ngày đó hay không? Có lẽ những người bị thua thiệt nhiều nhất vẫn là các chiến sĩ QLVNCH, đã bức tữ bắt buộc phải thua trận hiện đang kẹt lại Việt Nam dưới dạng công dân loại 2 của chế độ bạo tàn Cộng sản.

Mục đích viết bài này chỉ muốn nói lên sự việc và những điều trông thấy, hầu làm sáng tỏ phần nào chuyến cống tác bí mật “BAT- 21” Và xin thành tâm gửi lời ủi an đến bạn bè trong chuyến Cam lộ xấu số kẹt tại quê nhà, ngoài ra không có ý tưởng gì khác. Chúng tôi vẫn xin được gói gém trọn vẹn hai chữ “Âm Thầm” như những ngày còn trong khói lữa trước cuộc chiến 75.

Phong Trần

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

NGÀY TA BỎ NÚI

Vương mộng Long

. . . . Qua tới bờ đông, tôi thủ thế khẩu M16 gác giặc để anh BĐQ bạn yên tâm cột giây cho các toán viễn thám của tiểu đoàn theo chân nhau qua sông. Sau đó các đại đội được lệnh chặt tre làm mảng. Ai biết bơi thì chỉ cần ôm một khúc tre lồ ô là có thể nương theo dòng chảy, tới bờ đối diện không khó khăn lắm. Lúc này cả một khúc sông ồn ào như cái chợ. Nếu có con cá sấu nào bơi gần đó chắc cũng thất kinh hồn vía lo tìm đường tẩu thoát. Tiểu đoàn tôi hoàn tất cuộc vượt sông với một thời gian rất ngắn. Khi bộ chỉ huy liên đoàn bắt đầu xuống mảng thì Tiểu đoàn 82 BĐQ cũng bắt đầu di chuyển. Tôi cho đơn vị đi ngược về bắc, hướng tới một ngọn đồi xanh khá cao. Cách bãi vượt sông chưa tới hai trăm mét là một bãi sình rộng. Cả chục con cá sấu lớn nhỏ đang nằm phơi mình dưới nắng. Thấy đoàn người đi tới gần, chúng hoảng sợ lao mình xuống nước, lội ngược dòng về thượng nguồn. Ngọn đồi xanh mà chúng tôi đang chiếm lĩnh là một rừng tre. Tôi cho quân vượt cái yên ngựa, bố trí trên đỉnh bắc của yên ngựa, nhường cái đuôi yên ngựa cho những đơn vị lên sau. Dưới bờ sông có tiếng lựu đạn nổ. Truyền tin báo Trung tá Thanh liên đoàn trưởng, Trung úy Minh sĩ quan truyền tin liên đoàn và ba người khác bị thương. Ơ hờ khi sưởi ấm đã gây ra tai nạn lựu đạn nổ. Lựu đạn nổ vì sợi giây thun cột mỏ vịt lựu đạn bị cháy trong lúc kíp an toàn đã bị tháo mất rồi. Trung tá liên đoàn trưởng bị mảnh lựu đạn văng trúng ngực và trán. Sau khi băng bó,Trung tá Thanh và những người bị thương được cáng lên chỗ tôi đóng quân.

Sáng 27/3/75, trực thăng từ Đà-Lạt tới bốc những quân nhân bị thương. Cùng đi trên chuyến tải thương này còn có Thiếu tá Hoàng đình Mẫn, tiểu đoàn trưởng TĐ81 BĐQ. Ông Mẫn bị sốt rét cấp tính. Như vậy là chỉ trong vòng hai mươi bốn giờ sau khi rời Quảng-Đức, hai vị sĩ quan chỉ huy của liên đoàn đã ra khỏi vùng. Tôi thấy mới ra quân mà đã bỏ phí hai ngày đường, nên sau khi tải thương xong, tôi cho lệnh đơn vị gấp rút đổ dốc hướng về phía đông. Chiều đó đang đi trên một lối mòn, chúng tôi nghe tiếng gà nhà gáy trong rừng. Vậy là có mật khu VC gần đâu đây? Tôi báo cáo tình hình cho Trung tá Đào đức Châu (k12 VB) liên đoàn phó, lúc này đang Xử Lý Thường Vụ chức liên đoàn trưởng Liên đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi đề nghị ông cho những cánh quân theo sau tôi dừng lại để tôi tập kích cái mật khu trước mặt. Cái khu sản xuất của Thượng Cộng nhỏ tí, với hai chú du kích Thượng đang ngồi ngậm ống vố, không đáng cho một cú xung phong của một đại đội Biệt Động Quân. Hai tên du kích chưa kịp đứng dậy cầm súng đã bị bắn vỡ óc, nằm thẳng cẳng bên lò lửa than nghi ngút khói, dưới chân một cái nhà sàn. Tối đó chúng tôi dừng quân ngay trong mật khu địch.

Khoảng bảy giờ đêm, tôi nghe tiếng người cười đùa huyên náo trong rừng, khu Đại đội 3/82. Tôi và Binh nhì Thọ lần bước về chỗ tiếng cười nói ồn ào. Trung úy Trần văn Phước (ĐĐT3/82) và cả chục BĐQ dưới quyền anh đang quây quần bên một vò rượu cần, vò rượu chiến lợi phẩm. Trự nào cũng xiêu vẹo bước tới, bước lui. Trự nào cũng lè nhè, la hét ồn ào. Tiếng họ cười nói oang oang giữa rừng khuya. Với tôi, thì uống rượu không là một cái lỗi; nhưng say rượu trong khi hành quân thì tôi không tha; dù người đó thân cận như chú Phước. Tôi rút súng bắn tan vò rượu. Những ma men tỉnh rượu ngay lập tức.

-“Cuốn lều! Đại đội 3 cuốn lều! Hướng một ngàn sáu trăm zu lu! Làm ngay!”

Trung úy Phước và “tòng phạm” riu ríu thi hành lệnh. Mười phút sau một khoảng rộng lớn trên tuyến phòng thủ của tiểu đoàn bị bỏ trống. Đại đội 3/82 bị phạt phải dạ hành mở đường. Mãi nửa giờ sau tôi mới bớt giận. Tôi ra lệnh cho Đại đội 3/82 dừng lại tấp vào rừng ngủ. Trong tiểu đoàn này Trung úy Trần văn Phước là người thân cận nhất của tôi. Tháng 11/1972 tôi bàn giao căn cứ Đức-Cơ và Tiểu đoàn 81 BĐQ cho Thiếu tá Hoàng đình Mẫn để về giữ chức trưởng phòng 2/BCH BĐQ QK2 thì Chuẩn úy Trần văn Phước mới mãn khoá Tình-Báo Cây-Mai. Đã có lần tôi gởi Chuẩn úy Phước vào Plei M’rong làm ban 2 cho Thiếu tá Phạm duy Ánh, tiểu đoàn trưởng TĐ63 BĐQ (1973). Thiếu tá Ánh chịu không thấu cái tật rượu vào là rút súng của Chuẩn úy Phước. Cuối cùng Phước lại khăn gói quả mướp về trình diện tôi. Chỉ có mình tôi là biết cách kiềm chế con ngựa chứng này. Chú Phước ở với tôi từ đó cho tới cuối 1973 thì thày trò tôi vào Plei-Me. Chú Phước và chú Minh (sĩ quan truyền tin LĐ24 BĐQ sau này) là hai sĩ quan sau cùng còn ở lại bên tôi, rồi bảo vệ tôi thoát hiểm trong kẽ tóc đường tơ, khi Tiểu đoàn 82/ BĐQ bị tràn ngập trưa 15 tháng Tư năm 1974 trên căn cứ 711. Rồi cũng chính Thiếu úy Trần văn Phước là người đầu tiên cùng tôi đặt chân trở lại trên căn cứ 711 sau khi chúng tôi vất vả hai ngày phản công tái chiếm căn cứ này. Trận đó tiểu đoàn của chúng tôi bị sáu tiểu đoàn của SĐ 320 Điện Biên xa luân chiến. Trong hai năm sau cùng của cuộc chiến, không có trận đánh nào mà không có mặt Phước bên cạnh tôi. Sau trận Plei-Me, Thiếu úy Trần văn Phước được đặc thăng trung úy. Lên trung úy, chú Phước bỏ nghề quân báo, trở lại đời tác chiến làm đại đội trưởng. Đây là lần đầu, tôi nặng tay với Phước. Tôi vào máy gọi cho Phước. Đầu máy bên kia, tôi nghe tiếng người đàn em sụt sịt,

-“Em xin lỗi Thái Sơn! Em xin lỗi anh Hai!”

-“Thôi! Ngủ đi! Chờ mai anh lên với chú!” Tôi cũng thấy mủi lòng, xốn xang,

Tôi lấy điếu Lucky ra hút. Tiếng muỗi đêm vo ve bên tai. Tiếng suối reo rì rào trong khe. Tiếng gió lùa ù ù sau đồi. Trên poncho, lá cây rơi lộp độp. Quanh tôi đủ loại tiếng rừng. Chưa lần nào tôi cảm thấy rừng đêm buồn như thế!

Trăng sáng như ban ngày. Gần chín giờ đêm, trung tá liên đoàn phó cho người tới lều mời tôi lên gặp riêng. Ông Châu nhờ tôi xin trực thăng tản thương cho ông ta ra khỏi vùng. Đại úy Trần dân Chủ, ban 3 liên đoàn cũng xin phép tôi để đi theo trung tá liên đoàn phó. Tháp tùng Trung tá Châu, ngoài Đại úy Chủ còn hai hạ sĩ quan truyền tin liên đoàn.

Sáng 28/3/75, khi hai sĩ quan và hai hạ sĩ quan của bộ chỉ huy liên đoàn vừa yên chỗ trên sàn trực thăng thì dưới bãi bốc xảy ra cảnh lộn xộn, ồn ào. Có một người đàn bà nhất định không chịu lên máy bay. Chị ta vừa khóc thút thít vừa co rụt người lại khi mấy anh lính an ninh bãi đáp tìm cách đẩy chị ta lên cửa trực thăng.

-“Em không về đâu! Em không nỡ bỏ anh ấy giữa rừng!”

Người đàn bà này đã theo đoàn quân của TĐ 81/BĐQ từ ngày đầu di tản. Chị không chịu bỏ người thân. Tay chân chị giãy giụa, miệng chị la bài hải,

– “Em không sợ chết đâu! Cho em ở lại đi! Các anh ơi!”

Nhẹ tưạ lông hồng Cuối cùng, toán giữ trật tự bãi đáp đành chịu thua người đàn bà. Chợt không ai bảo ai, tất cả Biệt Động Quân có mặt trên bãi bốc ngày hôm ấy đã đồng loạt vỗ tay hoan hô người phụ nữ can đảm. Chờ một lúc không thấy ai lên máy bay nữa, tôi ra dấu cho chiếc trực thăng cất cánh.

Chiều đó, khi dừng quân, tôi nhận được một công điện từ Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 Hành Quân chỉ định Thiếu tá Hiện Dịch Vương mộng Long khóa 20 Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam tạm thời giữ chức vụ liên đoàn trưởng Liên Đoàn 24 Biệt Động Quân. Tôi mời Thiếu tá Đàng và Thiếu tá Tài lên gặp tôi để phân nhiệm. Theo đó, Tiểu đoàn 82 BĐQ sẽ mở đường, Tiểu đoàn 81 BĐQ đi giữa, Tiểu đoàn 63 BĐQ có nhiệm vụ đoạn hậu. Đối với Thiếu tá Nguyễn hữu Tài, tôi không gặp trở ngại gì về vấn đề chỉ huy, vì anh Tài là tiểu đoàn phó của tôi trước khi thuyên chuyển qua Tiểu đoàn 81 BĐQ. Anh Trần đình Đàng xuất thân khóa 15 Võ-Bị và phục vụ trong binh chủng Biệt Động Quân từ những năm binh chủng mới được khai sinh. So với Thiếu tá Đàng, tôi là đàn em rất xa, về cả hai xuất xứ, Biệt Động Quân cũng như Võ-Bị (tôi xuất thân từ k20). Tôi xin ý kiến của người Niên Trưởng dễ mến này về việc tôi được chỉ định chỉ huy liên đoàn. Tôi hỏi anh có trở ngại gì khi anh phải nằm dưới sự chỉ huy của tôi không? Anh Đàng trả lời một cách khẳng khái,

-“Chú chỉ huy là phải rồi! Chú thông thuộc địa thế Vùng 2. Chú được cấp trên, cấp dưới tín nhiệm. Anh sẽ nghe theo lệnh của chú. Yên chí đi!”

-“Cám ơn Niên Trưởng!” Tôi xiết tay anh Đàng thật chặt. Trong cơn nguy khốn, chúng tôi thấy thương nhau hơn. Trong hoạn nạn, chúng tôi thấy gần nhau hơn.

Những ngày tiếp theo, dưới quyền chỉ huy của tôi, liên đoàn tiếp tục cuộc hành trình theo dự trù. Cứ theo hướng 1600 ly giác, chúng tôi băng rừng lội suối nhắm về thị trấn BLao. Trên đường chúng tôi đi qua chỉ có tre, mây và lau sậy; trên đường chỉ có dấu chân voi. Địa thế ở đây tôi quen lắm. Thời 1968 tôi đã lặn lội, lùng sục không sót một ngọn đồi nào trong vùng này. Đã bao lần, tôi qua lại trên dải đất từ bờ đông sông Đa-Dung qua Quốc lộ 20 tới cao nguyên Gia-Bắc giáp giới quận Thiện-Giáo, Bình-Thuận. Ngày đó, Trung tá Bùi văn Sâm LĐT LĐ2 BĐQ đã biệt phái TĐ11 BĐQ của Đại úy Hồ khắc Đàm (k16VB) cho Task Force South của Tướng Trương quang Ân, Tư lệnh Sư đoàn 23/Bộ Binh. Tôi lúc đó là đại đội trưởng ĐĐ1 TĐ11 BĐQ dưới quyền anh Đàm. Chúng tôi được trực thăng Hoa-Kỳ tải vào rừng. Tìm mục tiêu, diệt địch. Leo hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác. Mười ngày sau chui ra bãi trống nhận tiếp tế gạo mắm. Rồi lại leo lên trực thăng, đổ xuống bãi khác. Lại tìm mục tiêu. Lại leo hết đồi này tới đồi khác. Lại tiếp tế… Cứ thế, mỗi đợt cả tháng trường, chúng tôi lần mò trong núi. Chỉ những anh bị thương hay sốt rét là có dịp nhìn thấy phố… Bảy năm sau, tôi lại lội trên những con đường mòn ngày xưa tôi đã dẫn quân đi qua. Bảy năm sau, tôi vẫn nhớ đường nào lên Đại-Nga, hướng nào về Tân-Bùi, ngả nào qua Tân-Rai. Lương thực của chúng tôi đã gần cạn. Giầy vớ, áo quần bắt đầu te tua.

30/3/75, mặt trời vừa lên, trong máy nội bộ của TĐ82/BĐQ đã có tiếng người trên trực thăng hối thúc,

-“Yêu cầu Thái Sơn kiếm bãi đáp nhận chỉ thị gấp!”

Lúc đó chúng tôi đang ở gần một bãi ngô cũ. Chiếc trực thăng sà xuống. Người phi công quơ tay ngoắc tôi lia lịa. Tôi bước lên càng máy bay để nghe anh ta nói,

-“Tôi được lệnh Quân đoàn lên đón Thiếu tá về Đà-Lạt. Thiếu tá lên tàu mau đi!”

-“Thế còn liên đoàn thì sao?”

-“Chúng tôi chỉ ‘rescue’ một mình Thiếu tá thôi! Những người khác, bỏ!”

-“Thôi! Nếu thế thì tôi không đi đâu! Tôi đang chỉ huy cả ngàn người. Tôi không mặt mũi nào bỏ đi một mình. Anh về báo với Quân đoàn cố gắng bốc tất cả liên đoàn giùm tôi.” Tôi xua tay,

Nói xong câu đó, tôi bước xuống đất định quay đi thì người phi công cởi giây đai, mở cửa phi cơ. Anh nhảy xuống đất đứng nghiêm trước mặt tôi. Giơ tay chào tôi, anh nói lớn,

-“Tôi không ngờ giờ này quân đội ta còn một vị chỉ huy đáng nể như Thiếu tá! Thiếu tá cho phép tôi chào kính phục ông và nói lời vĩnh biệt ông.”

Người phi công nắm tay tôi lắc lắc mấy cái rồi anh buông tay tôi ra, leo lên buồng lái. Cả phi hành đoàn giơ tay vẫy vẫy giã từ. Tôi cũng giơ cái bản đồ vẫy lại. Chiếc trực thăng cuối cùng của Vùng 2 khuất dần ở chân mây.

Binh nhất Y Don Near mang máy truyền tin nội bộ của tôi lúc nào cũng đi sát bên tôi. Don đã nghe tất cả những lời tôi và viên phi công đối đáp với nhau. Chắc nó đã kể lại chuyện này cho bạn bè. Trưa hôm đó, lúc dừng quân nghỉ chân, vài anh lính Rhadé, Jarai đã đến xúm quanh người chỉ huy của họ,

-“Ông Thiếu tá ơi! Đừng bỏ tụi em, tội nghiệp!”

– “Ừ! Thiếu tá không bỏ các em đâu! Thiếu tá lúc nào cũng ở bên các em. Chúng mình sống chết có nhau!” Nhìn những giọt nước mắt theo nhau lăn trên những gò má đen đủi của thuộc cấp, tôi thấy lòng mình ấm lại.

Chúng tôi đã cạn hết lương thực. Trên đường đi, chúng tôi phải tấp vào những nương rẫy cũ kiếm rau tàu bay, củ chuối, nấu ăn cho đỡ đói. Răng người nào cũng đen thui vì nhựa chuối rừng. Điều khổ nhất phải chịu đựng là, sau khi ăn hoa chuối, cây chuối hay củ chuối thì chất sơ của chuối làm cho chúng tôi mắc bệnh táo bón. Mỗi khi đi tiêu, chúng tôi phải ngồi ngâm hậu môn xuống nước, lấy cây cạy phân ra. Hậu môn đau rát lắm. Đi tiêu xong người nào cũng bước cà-náng, hai hàng. Buổi trưa, tôi đang ngồi bên đường chờ bát canh rau tàu bay của chú Bích thì Thiếu úy Học rón rén tới gần. Học thì thầm,

-“Có con gấu to lắm, trên cây. Thái Sơn cho phép bắn làm thịt nghe?”

-“Ừ! Bắn đi!” Tôi sáng mắt lên,

Học vui vẻ phóng về hướng rừng. Lát sau chú quay lại, mặt tiu nguỷu,

-“Thằng lính gác muốn bắn nhưng lại sợ Thái Sơn la. Đợi khi em xin phép xong thì con gấu đã chạy mất tiêu rồi!”

Tôi thì buồn vui lẫn lộn. Buồn vì mất ăn một bữa thịt gấu. Vui vì tới giờ phút này, tinh thần kỷ luật của đơn vị tôi vẫn chưa bị lung lay. Chúng tôi đang ở bên bờ một con suối lớn. Dưới nước, những con cá đuổi nhau có ngời. Tôi chợt nghĩ ra một ý lạ: Đốt cá! Tôi gọi Thiếu tá Tài và Thiếu tá Đàng sẵn sàng. Tôi ra lệnh cho ba tiểu đoàn tản xa theo dòng nước. Mỗi tiểu đoàn trấn giữ một khúc suối. Nơi đầu nguồn của mỗi đơn vị chỉ cần đốt ba quả lựu đạn M26 là liên đoàn có một bữa cá no nê. Tôi học được cách đốt cá từ khi còn ở Đại đội Trinh-Sát Liên đoàn 2. Vặn phần đầu của quả lựu đạn ra, vứt đi. Bẻ đầu một viên đạn M16 lấy thuốc súng đổ vào lỗ kích hỏa của trái lựu đạn. Đốt thuốc súng cho lửa xanh phụt lên. Quơ qua, quơ lại quả lựu đạn cháy trong lòng nước. Hơi cay làm cho thủy tộc bị đui. Cá đen, cá trắng, lươn, cua, rùa, rắn, ếch, nhái, vân vân, con gì trong nước cũng nổ con ngươi nổi lên mặt nước. Buổi chiều chúng tôi mỗi người được chia một lon Guigoz cá tươi. Sáng mai chúng tôi lại có sức để lên đường.

31/3/75, chúng tôi đang ở trên một ngọn đồi cách Bảo Lộc trên dưới hai chục cây số. Từ trên đỉnh, chúng tôi nhìn thấy thung lũng dưới chân đồi là một mật khu trù phú. Kế hoạch đặt ra như sau: Đại đội 3/82 sẽ tiến sát, rồi bất thần đột kích khu doanh trại chính; mỗi tiểu đoàn sẽ cắt hai chục người tải lương thực về. Kế hoạch đã được thi hành như dự liệu và không có gì trục trặc xảy ra. Đại đội 3/82 thanh toán mục tiêu rất nhanh. Một cán bộ VC quần áo bảnh bao đang ngồi bên bàn chờ ly cà phê phin nhỏ giọt thì bị một viên M16 ghim vào ngực. Hai cán bộ đang cho lợn ăn trưa cũng bị mỗi tên một viên M16 vào ngực. Mấy anh cán binh đang tưới cây trong vườn cũng bị mỗi anh một viên M16 vào ngực. Cái mật khu dưới kia là một trung tâm huấn luyện của Tỉnh-Đội Lâm-Đồng Việt-Cộng. Trung tâm có khoảng trên ba trăm khẩu súng gỗ và cả chục khẩu súng thật. Có một khẩu cối 82 ly với một kho đạn. Tên VC đang chờ uống cà phê có vẻ là cấp chỉ huy. Những tên khác có lẽ là bọn lo công tác hậu cần. Bọn bộ đội bảo vệ trung tâm đã xuất trại vắng. Quân ta làm chủ tình hình một cách lẹ làng. Có một tai nạn lúc xung phong: Hạ sĩ Nguyễn Ba trong toán tà-lọt của tôi đã lủi đầu vào một bụi tre. Một cọng tre khô xuyên vào mắt trái của hạ sĩ. Đói quá, quên đau, hạ sĩ xung phong bắt được một con gà và một gốc sắn rồi mới chịu lấy khăn tay bịt một mắt rút lui lên đồi. Ăn xong bữa thịt gà hạ sĩ mới nhận ra con mắt bị thương đang hành hạ anh ta. Cái cọng tre còn lòi ra khỏi hốc mắt Hạ sĩ Ba cả tấc. Quân y liên đoàn không dám rút cọng tre khỏi mắt Ba vì không đủ phương tiện cứu chữa. Họ chỉ dùng kìm cắt cọng tre ngắn đi cho đỡ vướng. Vốn là một tay viễn thám gan lỳ, người tà-lọt của tôi cắn răng chịu đau, không rên, không khóc. Những ngày sau đó, hạ sĩ đành quàng súng lên vai, hai tay luân phiên che mắt đi theo đoàn tùy tùng của Đại úy Hoàn. Tôi cũng quên dặn dò các cánh quân coi chừng bắn gà, bắn heo có thể gây đạn lạc trúng quân ta. Kết quả, đạn của Đại đội 3/82 đã sượt qua cổ một anh BĐQ TĐ63 BĐQ thay vì trúng đầu một con gà. Người trúng đạn bị thương nhẹ.

Toán tải lương thực sau cùng của liên đoàn đã rút lui an toàn. Mới vài ngày trước, tôi đã chứng kiến cảnh BĐQ hoan hô người đàn bà can đảm của TĐ81 BĐQ trên bãi trực thăng, vì thế tôi không ngạc nhiên khi thấy chị ta cũng có mặt trong đoàn người mặt mày hí hửng đang từ dưới chân đồi hì hục leo lên. Tôi không cho lệnh đốt khu doanh trại vì ngại khói đen bốc cao có thể thu hút sự chú ý của các đơn vị Việt-Cộng ở xa. Tôi không muốn đụng đầu với quân cứu viện của chúng lúc này. Khi rút lui, Trung úy Phước đã sơ ý không phá cơ bẩm khẩu súng cối. Vài giờ sau khi chúng tôi rút đi thì đạn cối 82 ly bắt đầu câu theo đít quân ta. Chúng tôi nhanh chân vượt qua hai ngọn đồi rồi chui vào sâu trong rừng lau sậy. Trời vừa tối. Tôi cho lệnh dừng quân căng lều. Rừng bao la, đạn cối của Việt- Cộng “ùm! ùm!” rơi bâng quơ trong núi.

1/4/75 Lên đường! Sáng nay mọi người đều no bụng. Đoàn quân tìm lại được cái vẻ oai phong, khí thế ngày nào! Đội hình một hàng dọc! Thứ tự như cũ! Cứ theo hướng mặt trời mọc mà đi! Binh nhì viễn thám viên Triệu Tân mở đường. N gười thứ nhì là Thiếu úy Học. Người thứ ba là tôi. Sau tôi là thằng Don. Sau thằng Don… là đoàn rồng rắn lên mây, cả liên đoàn hàng dọc. Đường độc đạo, hai bên là lau sậy và gai mắc cỡ. Nếu cứ tính lộ không trung bình mỗi người cách nhau 3 mét, thì toán đi đầu của tôi cách toán đi chót của Thiếu tá Đàng phải trên 2 cây số. Tới chiều thì chúng tôi bắt đầu đi lên một cái dốc khá cao. Tình hình vẫn yên tĩnh! Trời đẹp quá! Trên không mây trắng vài sợi bay lờ lững. Gió nhẹ như ru. Thông ngàn reo vi vu. Chim chóc hót vang lừng. Nếu là thuở thanh bình thì cảnh này thật lý tưởng cho các thi nhân lang thang đi tìm ý thơ…

“Choác!” Thằng Tân té ngửa! Tôi và Thiếu úy Học khựng lại. Một giây sau tôi và chú Học mới bóp được cò hai khẩu M16 theo phản xạ, nhắm về hướng bụi cây um tùm bên phải dốc. Đạn trúng tảng đá trong bụi rậm. Đạn văng ngược ra đường xoáy trong không khí, kêu “Tăng! Tăng!… Tằng! Tằng!…” rồi… “Xèo!” chui xuống cỏ. Toán viễn thám của Binh nhất Tuấn phóng nhanh lên dốc, vừa chạy vừa bắn. Toán viễn thám chiếm được đỉnh dốc, nhưng tên bắn tỉa đã cao bay. Viên đạn súng trường Nga trúng ngay giữa trán Triệu Tân. Cái nón sắt vỡ. Cái vỏ đạn bằng đồng đỏ còn nóng hổi, nằm trên mặt đất sau tảng đá. Chỉ với một viên đạn, Thượng Cộng đã loại ra ngoài vòng chiến một viễn thám viên lợi hại của đơn vị tôi. Khi đại đội của Thiếu úy Học đã bố trí an ninh xong, chúng tôi tạm dừng để an táng BĐQ Triệu Tân. Thêm một cái thẻ bài mất chủ bị cất trong ba lô của Thiếu úy Hoàng, ĐĐTĐại đội Công Vụ của TĐ 82 BĐQ. T ôi cho liên đoàn chiếm lĩnh ngọn đồi để nghỉ qua đêm. Đêm đó toán viễn thám của Binh nhất Tuấn âm thầm lên đường. Điểm tới là triền dốc cuối ngọn đồi, cách chỗ chúng tôi dừng quân gần hai cây số. Mờ sáng hôm sau một quả Claymore nổ. Tên Thượng Cộng đang nửa đường lên dốc lãnh nguyên trái mìn cơ động, khẩu súng trường bá đỏ văng trên bãi cỏ bên đường: Có vay có trả!

Sáng 2/4/75, vừa xuống tới chân dốc, tôi báo cho hai tiểu đoàn đi sau chuẩn bị đánh lạc hướng địch. Mười năm phục vụ ở Vùng 2, tôi đã hướng dẫn nhiều quân nhân dưới quyền thành thạo nghệ thuật xóa dấu vết khi di chuyển trong rừng. Hôm nay liên đoàn bị một phen vất vả. Đoàn quân đang đi hàng dọc thì được lệnh dừng lại, chuyển thành hàng ngang, đâm thẳng xuống suối. Tới suối lại được lệnh lội hàng dọc trong lòng suối. Lội được khoảng nửa cây số lại có lệnh chuyển hàng ngang leo lên đỉnh. Khi lên tới đỉnh, đoàn quân lại chuyển thành hàng dọc. Phải ma mãnh như thế mới đánh lạc được sự theo dõi của Thượng Cộng. Vì di chuyển vòng vo tránh vùng địch hiện diện nên chúng tôi dạt về hướng nam hơi xa. Buổi trưa, tôi thấy đồn Tân-Rai sừng sững bên phải trục tiến quân của mình. Trên ngọn cột, lá cờ vàng ba sọc đỏ còn bay, nhưng đồn Tân-Rai đã bị bỏ trống. Chúng tôi chỉ đứng xa mà ngó chứ không dám leo lên. Mìn bẫy ai mà lường cho được!

Tôi chuyển hướng về đông bắc. Xế chiều chúng tôi đã ở trên một đỉnh đồi nằm về hướng tây phi trường Con Hinh Đa. Thành phố BLao nằm dưới kia, ngay trước mặt! Từ trong phố vẳng lại tiếng trống múa lân “thùng! thùng!” Trước cửa vài ngôi nhà lác đác cờ bay, cờ nửa xanh, nửa đỏ, sao vàng. BLao đã rơi vào tay giặc! Chúng tôi đành quay sang hướng bắc, tìm đường lên Đức-Trọng, Liên-Khương. Không biết tình hình Đà-Lạt ra sao? Thôi thì, nước còn, ta cứ tát! Hi vọng, có còn hơn không!

Trưa 3/4/75, cánh quân đầu của tôi tới sát Liên tỉnh lộ 8B. Nơi này cách quận lỵ Di-Linh chừng năm cây số. Bên kia lộ là vườn trà. Trà bạt ngàn. Hướng nam con lộ là rừng tre. Chúng tôi núp trong rừng tre. Ngoài đường cơ giới địch chạy ầm ầm. Chờ tới gần tối, tôi đem theo Thiếu úy Học và một toán cận vệ xuống thám sát con đường. Khi chúng tôi đang kẹt giữa đường thì một chiếc xe tải đi tới. Toán cận vệ BĐQ bắn đại vào đầu xe. Chiếc xe bể máy, xẹp lốp ngừng ngay giữa đường. Hai tên VC ngồi ghế trước chết ngay tại chỗ. Chúng tôi chưa kịp kiểm soát trên xe chứa gì thì nghe tiếng đàn bà và trẻ con khóc ré lên trong xe. Xe chở toàn đàn bà và con nít! Tôi không biết vì sao trong chiếc xe Zin của VC lại đầy con nít, đàn bà? Tôi gọi anh em rút êm về hướng cũ. Chúng tôi nhanh chân lui lại hướng nam chừng một cây số, ngủ trong rừng trà. Từ radio, đài BBC loan tin thành phố Đà-Lạt mất. Bây giờ chúng tôi chỉ còn cách bỏ núi, tìm đường ra biển.

Ngày 4/4/75, chúng tôi di chuyển thật chậm trong rừng thông và rừng cỏ hôi. Vùng này nằm giữa Di-Linh và Bảo-Lộc. Hướng tiến bây giờ là 1600 ly giác. Tôi hy vọng tìm được đường tới Liên-Đầm. Rồi từ Liên-Đầm lủi trong rừng tre chuồn về Gia-Bắc, xuống Thiện-Giáo. Trưa đó toán đi đầu của tôi mới ló đầu ra một trảng trống thì nghe tiếng súng trường Nga bắn “tắc! bụp!” Có người đi săn gần đây! Vừa quẹo qua một cái cua đường mòn, Binh nhất Yan đi đầu chạm trán một cán binh Việt-Cộng ngồi câu cá trên một cái cầu ván bắc ngang con rạch nhỏ. Tên Việt-Cộng không ngờ trong rừng còn có quân lính Việt-Nam Cộng-Hoà! Y há hốc mồm nhìn sững cái phù hiệu đầu cọp nhe nanh trên mũ sắt của Binh nhất Yan. “Đoàng!” thằng VC rớt xuống rạch. Nước trong rạch không sâu lắm, cỡ đầu người. Chúng tôi núp trong lùm tre nhìn về hướng đồn điền trà trước mặt. Trời! Việt-Cộng đâu mà nhiều thế! Lều bạt, xe cộ, phòng không, đại bác, xe tank, xe xích kéo pháo và tải đạn, đậu sát rạt nhau theo các đường phân lô trà. Bóng người qua lại lố nhố. Đơn vị CSBV này cũng cỡ một E pháo (trung đoàn). Như vậy gần đây cũng phải có ít nhất là một E bộ binh yểm trợ cho cái E pháo nặng trước mắt tôi! Trên cái đồn điền trà bát ngát đó, chỗ nào cũng có bộ đội. Chúng nói chuyện ồn ào huyên náo tự nhiên như đang ở giữa Hà-Nội. Chẳng đứa nào để ý tới tiếng súng của Binh nhất Yan. Chắc chúng tưởng đó là tiếng súng bắn chim trời, gà rừng của đồng bọn? Trong tình cảnh đó, tôi thấy chỉ có cách áp dụng chước thứ ba mươi sáu trong tam thập lục kế là tốt nhất. Tôi ra dấu cho mọi người đánh bài tẩu mã. Anh Thiếu tá Đàng đi đoạn hậu, còn ở tít đằng sau xa, chẳng hiểu ất giáp gì. Thấy tôi hối hả ra lệnh chém vè về nam càng nhanh càng tốt, anh cũng cho đàn em vắt giò lên cổ chạy theo tụi tôi. Sau đó, nương theo rừng thông, chúng tôi từ từ di chuyển ngược về nam. Tôi dự trù sẽ lấy Quốc lộ 20 làm chuẩn. Nếu thuận tiện chúng tôi đổ dốc xuống Thiện-Giáo. Nếu có trở ngại, chúng tôi sẽ cặp quốc lộ để về Gia-Kiệm. Đêm đó chúng tôi nghỉ chân trên một khu đồi thông. Hướng nam của chúng tôi là những rặng đồi cuối cùng của cao nguyên Bảo-Lộc. Tôi biết chắc chắn rằng bên trái những rặng đồi xanh đó là Đèo Chuối. Rừng chuối, rừng tre vùng này thì, eo ơi! vắt nhiều không đâu bằng!

Trưa 5/4/75, tôi đang suy tính làm cách nào an toàn đưa liên đoàn băng qua Quốc lộ 20 thì trong tần số 47.70 có người gọi Thái Sơn. Tần số 47.70 là tần số đặc biệt của tôi, chỉ có tôi và Trung tá Hoàng kim Thanh LĐT/LĐ24/BĐQ biết. Tần số này chỉ dùng trong trường hợp nguy biến hay bị thất lạc. Một chiếc L19 đang bay ở hướng đông. Chiếc L19 trực thuộc Quân đoàn 3. Trên tàu là Trung tá BĐQ Nguyễn khoa Lộc (k18 VB); anh đang đi tìm tôi và liên đoàn. Anh Lộc cho tôi biết rằng Trung Tá Thanh đã về tới Sài-Gòn. Trước khi nhập viện chữa vết thương, Trung tá Thanh đã tới trình diện Trung tướng Nguyễn văn Toàn, Tư lệnh Quân khu 3 để báo cáo với ông Tướng rằng Thiếu tá Vương mộng Long đang hướng dẫn Liên đoàn 24 BĐQ trên đường tìm về với quân bạn. Tướng Toàn ra lệnh cho Trung tá Lộc đi tìm bốc chúng tôi về. Tôi loan báo tin này cho anh Đàng và anh Tài. Cả liên đoàn như hồi sinh. Sau khi anh Lộc bay đi, tôi cho quân tấp vào bìa rừng nghỉ qua đêm chờ mai ra bãi bốc. Đêm đó là lần đầu tôi, anh Tài và anh Đàng đóng quân chung. Đó cũng là lần đầu chúng tôi có thời giờ kiểm điểm lại quân số một cách kỹ càng sau gần nửa tháng vất vả, gian nan. Tôi cám ơn Niên Trưởng Trần đình Đàng đã phụ giúp tôi một cách rất đắc lực trong vai trò đoạn hậu vô cùng khó khăn. Với những đức tính can đảm, kiên nhẫn, chịu đựng, và khiêm nhường, Thiếu tá Đàng là tấm gương tốt cho những người khác nhìn vào, noi theo. Quân số Liên đoàn 24 Biệt Động Quân còn duy trì toàn vẹn, phần lớn nhờ vào công lao của Niên Trưởng Trần đình Đàng khóa 15 Võ-Bị.

Ngày 6/4/75, Tiểu đoàn 82 BĐQ được Chinook của Quân đoàn 3 bốc ra phi trường Phan-Thiết. Đổ xăng xong, trực thăng chở thẳng chúng tôi về Xuân-Lộc tăng phái cho Tướng Lê minh Đảo (k10 VB), Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ Binh. Hôm sau, hai tiểu đoàn 81 BĐQ và 63 BĐQ cũng được bốc ra Phan-Thiết và đặt thuộc quyền chỉ huy của Tiểu Khu Bình Thuận.

Khoảng năm giờ chiều ngày 6 tháng Tư 1975, tôi đặt chân xuống phi trường Long-Khánh. Một cuộc lui binh nghiệt ngã đã đưa tôi tới chốn này. Quanh đây, tôi chỉ thấy một dải bình nguyên ngút ngàn đồng cỏ. Tìm đâu những rặng Chư-Prong, Chư-Gô suốt mùa sương phủ, mây che? Tôi đã thực sự lìa rừng, xa núi. TỪ NAY VĨNH BIỆT PLEIME!

Tôi hiểu rằng chiến trận không dừng ở đây. Vì tôi biết một tướng hàng đầu Cộng-Sản đã tuyên bố: “Muốn giải phóng Miền Nam, trước hết phải đặt bàn chân phải lên Tây-Nguyên, sau đó đặt bàn chân trái lên Duyên-Hải” (Võ nguyên Giáp) Chúng tôi đã bình thản đợi chờ những trận đánh mới.

Tháng Tư 1975, những người lính của Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân gốc Kinh, Thượng Rhadé, Jarai, Bana của căn cứ Biên Phòng Plei-Me đã chiến đấu một cách tuyệt vọng, nhưng với một phong cách thật tuyệt vời. Chúng tôi đã không bỏ nhau. Theo chân nhau, chúng tôi đã ngã xuống, từng ngày. Máu chúng tôi đã tưới đẫm từng ngọn đồi, từng đoạn đường, từng khu phố để ngăn bước giặc tràn vào Xuân Lộc, Đồng Nai, Sài Gòn (*)

Seattle, ngày 21 tháng Tư năm 2006

(*) “Ngày Ta Bỏ Núi” trong Đa Hiệu 77.

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Ông Sáu Lèo Và Saigon 68

TQLC Captovan

Với lối sống hòa đồng và thân thiện, phong cách chỉ huy rất sát với thuộc cấp nên Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, “bị” đặt cho một tục danh “Ông Sáu Lèo”, cái tục danh quá ư là bình dân, nhưng lại được thuộc cấp gọi với tất cả tấm lòng thương mến và kính phục. Tôi xin theo các thuộc cấp của Ông để được dùng danh xưng “Ông Sáu Lèo” trong bài viết này.
Khoảng trung tuần Tháng 6/2017, cựu Đại Úy Nguyễn Quang... chánh văn phòng Thiếu Tướng Tư Lệnh Binh Chủng TQLC/VN gọi điện thoại cho tôi báo cho biết có toán truyền hình người Mỹ muốn tìm hiểu thêm về việc Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắn tên đặc công VC Bảy Lốp vào dịp Tết Mậu Thân 1968 tại Chợ Lớn, anh nói:
-Trường đạị học Mỹ ở Texas (Briscoe Historical - University of Texas) tài trợ cho Mr Douglas Sloan cùng một toán chuyên viên truyền hình để quay cuốn phim Saigòn.68, họ đang tìm những TQLCVN đã tham dự trận đánh ở Chợ Lớn trong Tết Mậu Thân 1968, để hỏi về vụ Tướng Loan bắn tên VC Bảy Lốp, vậy anh có muốn “đóng phim” không?
-Lại truyền thông Mỹ! Khi còn sống Ông Tướng đã bị truyền thông và phản chiến Mỹ phê bình và phản ứng gay gắt về bức hình này rồi, nay ông đã mất, họ cần gì nữa, hay lại muốn đóng thêm cái đinh vào quan tài của ông chăng?
-Không phải đâu, họ muốn tìm hiểu thêm sự thật để trả lại công bằng cho Ông. Tôi nghĩ anh nên tham gia, ít nhất cũng cần một vài tiếng nói của chúng ta, những TQLCVN đã chứng kiến hoặc biết ít nhiều về vụ này. Tôi sẽ giới thiệu anh với cô Thúy Lan, một người trong toán quay phim và cũng là thông dịch viên, nếu anh muốn.
Chuyện Ông Sáu Lèo bắn tên đặc công VC Nguyễn Văn Lém (tự Bảy Lốp) bị phóng viên Adams chụp hình đã qua nửa thế kỷ rồi (1968-2017), truyền thông và phản chiến Mỹ đã làm Ông Sáu Lèo “lao đao” khi còn sống, lúc Ông Sáu qua đời, ông Adams gởi vòng hoa phúng điếu đến cho gia đình Thiếu Tướng Loan, với lời xin lỗi chân tình:
-“Tôi xin lỗi ông. Nước mắt đang dâng tràn trong mắt tôi”.
Khi còn sống Ông Sáu giữ im lặng trước làn sóng phê bình chỉ trích, ngày nay Ông đang ở trên chốn bình yên, một lời xin lỗi hay trăm lời khen chê, “một nửa sự thật”, chẳng ý nghĩa gì đối với Ông, nhưng “một nửa sự thật” còn lại rất cần thiết để làm sáng tỏ thêm chính nghĩa, tính nhân bản trong công cuộc chống cộng của đồng đội ông, của thuộc cấp ông nói riêng và Quân Đội VNCH nói chung. Vì vậy tôi đồng ý với đề nghị của Quang để nói với toánquay phim Saigon.68 những gì chúng tôi nhìn tận mắt, nghe tận tai, tay sờ vào sự thật. Tôi nói với Quang:
-Nếu thế thì được, bạn nói cô Thúy Lan liên lạc với tôi và cho biết qua sự việc...
Vài ngày sau tôi nhận được email của cô Thúy Lan:
***
ThuyLan Phan <phanthuylanXXX@gmail.com>
To:CAP TO
Jul 20 at 9:24 PM
Kinh goi bac To Van Cap,
Ten cua phan dau cuon phim la Saigon-68. Co the de ten nay, hay co the thay doi.
website: www.Saigon68.com
This is the first part of the film:https://vimeo.xxx
Password: xxx
-Đây la ve ong Douglas Sloan: https://xxx
-Funding, tai tro cho cuon phim tu:
1. Sundance
2. Briscoe Historical - University of Texas.
Cuon phim nay de noi len su that ve Tuong Nguyen Ngoc Loan...
Xin hen gap bac tai...
Cam ơn bac
Thuy Lan
***.
Sau vài lần trao đổi thêm tin tức, tôi và anh KCC đồng ý gặp Cô Thúy Lan, ông Douglas Sloan và toán chuyên viên quay phim tại văn phòng của người “nổi tiếng” Võ Đức Văn. Trong buổi tiếp xúc sơ khởi này ông Douglas và cô Thúy Lan xác định mục đích... và trao đổi với chúng tôi những công việc làm cho buổi quay phim chính thức. Ông Douglas cũng yêu cầu chúng tôi giới thiệu cho gặp thêm những Thủy Quân Lục Chiến có liên quan... nhất là “người trong hình” (tức là Tr/Tá TĐT/TĐ2/TQLC có mặt trong tấm hình khi Tướng Loan bắn Bảy Lốp)
Sau khi được biết mục đích của cuốn phim là tìm hiểu sự thật để trả lại công bằng cho Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan thì chúng tôi nhận lời sẽ tham dự buổi phỏng vấn quay phim. Còn việc Thúy Lan và Douglas muốn gặp “người trong hình”, tức Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TQLC thì hơi khó, bởi vì ông đang tu tại gia.
Những TQLC có thể cung cấp thêm sự thật về bức hình và Tướng Loan gồm có:

Inline image

-Tr/Tá NVĐ...Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2/TQLC, (người trong hình bên phải, đội nón sắt). Hiện nay ông ở San Jose’, nhưng sau khi hiền thê qua đời, ông đã tu tại gia, không tiếp xúc với ai cả.
-Th/Úy KCC...Đại Đội 4/TĐ2, người bắt được Bảy Lốp từ trong chùa Ấn Quang chạy ra.
-Tôi, ĐĐT/ĐĐ1/TĐ2, được biệt phái đi theo Tướng Loan.
-Th/Úy HVQ...ĐĐ1/TĐ2. Nhưng Q. đang bị bệnh, nói năng khó khăn không tham dự được.
(Xin mở ngoặc ở đây: Khi biết HVQ... bị bệnh, ông Douglas, cô Thúy Lan củng đi với cựu Đại Tá Trần Minh Công đã đến thăm Q... tại nhà.. Một nghĩa cử đẹp của phái đoàn khiến tôi thấy cần nói thay cho Q..., vì Q.... là trung đội trưởng của tôi).
Trong ngày quay phim tại chùa BQ, tôi được bỉết có thêm Ông B.. một phi công đã từng bay ra Bắc... với Tướng Loan, và Anh Sáu Trần Minh Công (cựu Đại Tá Cảnh Sát, một cộng sự viên đắc lực và luôn đi sát với Tướng Loan).
Mặc dầu buổi quay phim chỉ có 3 “diễn viên” nhưng chuyên viên thì gần 10 người, máy quay quá nhiều, họ làm việc hết sức cẩn thận, điều chính từng chi tiết về âm thanh, ánh sáng, cho đến cả thế ngồi và động tác của “diễn viên”. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được người đẹp (Cô Thúy Lan) đánh phấn tô son gương mặt sao coi cho được trước ống kính khiến tôi ngượng chín người.
Buổi quay phim kéo dài trong nhiều giờ, từng người riêng biệt nên tôi không rõ Ông B, Anh Sáu Công nói những gì và bằng ngôn ngữ nào, nhưng với tôi, vốn liếng tiếng Mỹ đong không đầy bàn tay, chỉ đủ giao tiếp hằng ngày, còn trình bày vấn đề quan trọng này thì tôi xin nói bằng tiếng Việt và cô Thúy Lan dịch lại cho Mr Douglas nghe.
Đã từ lâu tôi muốn kể chuyện “Mậu Thân và Ông Sáu Lèo” cho độc giả nghe, kể từ đầu tới đuôi, nhưng chưa có cơ hội, nay nhân dịp truyền thông Mỹ, Ông Douglas muốn biết thì bao nhiêu chất chứa bấy lâu nay như tự động tuôn ra, không cần suy nghĩ không cần đắn đo. Tôi nói như đang nhìn thấy khói lửa mịt mù Mậu Thân 68 ở khu vực chùa Ấn Quang Chợ Lớn, như nhìn thấy Ông Sáu Lèo và Bảy Lốp, tai như đang nghe đạn nổ đì dùng. Nhiều lúc cao hứng, tôi vừa nói vừa vung tay như ra lệnh cho binh sĩ tấn công vào mục tiêu khiến Ông Douglas Sloan ngơ ngác vì cô Thúy Lan phiên dịch không kịp, nên Ông Douglas thường ra dấu cho tôi “Stop talking” để ông đặt câu hỏi.
Vì quay phim nên mọi động tác phải phù hợp với chuyên môn và thời gian nên họ stop tôi là đúng, nhưng đối với tôi thì đây lại là một trở ngại lớn khiến tôi không nói được, chưa nói hết những điều cần phải nói, thôi thì tôi đành phải viết ra giấy kể đầu đuôi để tường trình cùng độc giả và may ra góp thêm được chi tiết nào có thể trả lại sự công bằng cho Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan.
***
Trước tiên là xin nhắc qua về Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến (TĐ2/TQLC) tham dự trận chiến Mậu Thân tại Saigòn:
Vào giờ phút thiêng nhất của đân tộc Viêt Nam, đêm giao thừa Tết Nguyên Đán Mậu Thân 1968, VC vi phạm lệnh hưu chiến, đem quân đánh chiếm nhiều thành phố miền Nam VN, trong đó có Sài Gòn! Sáng Mồng Một Tết, TĐ2/TQLC được trực thăng Chinook bốc từ Cai Lậy rồi đổ quân xuống ngay sân cờ của Bộ Tổng Tham Mưu. Sau một ngày, một đêm giải tỏa xong các toán đặc công VC đã xâm nhập vào BTTM thì TĐ2/TQLC được tăng cường cho Tổng Nha Cảnh Sát, dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan để thanh toán VC đang chiếm khu vực chùa Ấn Quang.
Khi chúng tôi đến nơi thì thấy súng nổ giữa Cảnh Sát Dã Chiến và VC, khói lửa ngút trời, đồng bào đang tìm cách thoát ra khỏi vùng lửa đạn. Trong tình trạng hoảng loạn, họ mang theo bất cứ thứ gì có thể cầm tay như manh chiếu, cái chổi, cái nồi mà quên tài sàn quý giá. Tài sản quý giá nhất của đồng bào là con người đã bị VC cướp mất, đó đây, những xác người nằm bên vũng máu!
Đại Đội 1 của tôi và Đại Đội 4 của Đại Úy Vũ Đoàn Dzoan được lệnh bao quanh khu vực các con đường Bà Hạt, Vĩnh Viễn, Trần Nhân Tôn, Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương v.v.. để xiết chặt vòng vây quanh chùa Ấn Quang, nơi VC cố thủ.
Vì khu vực có dân nên chúng tôi không được phép dùng pháo binh hay không quân mà chỉ có vũ khí cá nhân để tiến vào nơi địch đang cố thủ trong những căn nhà kiên cố nên đành “châp nhận thương đau”, vài đồng đội đã nằm xuống! Sau nhiều giờ kiên trì kêu gọi địch đầu hàng và dùng lựu đạn cay, lựu đạn khói (không sát thương, nhưng cay mắt, khó thở) khiến toán VC trong chùa Ấn Quang buộc phải nhảy qua tường bỏ trốn.
Trung Đội 41/ĐĐ4 của Th/Úy KCC đã bắt được vài tên, trong đó có một tên mang súng lục K54 (loại súng của cấp chỉ huy), trong người hắn còn dấu bản đồ có vẽ những vị trí quan trọng trong thành phố Saigon cần phải đánh. Biết đây là tên chỉ huy nguy hiểm, tên gây chết chóc khu vực chùa Ấn Quang và sẽ còn những nơi khác nữa nên Th/Úy KCC vội giải giao hắn lên Ban 2 Tiểu Đoàn và Tr/Tá TĐT/TĐ2 giao tên này cho Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan, đang chỉ huy cuộc hành quân tại đây, để kịp thời điều tra ngăn chặn âm mưu đánh chiếm của chúng ở những nơi khác. Tên chỉ huy này chính là đặc công, là khủng bố Nguyễn Văn Lém, tự Bẩy Lốp. Hắn đã bị Tướng Loan bắn.
Khi nhìn tấm hình Tướng Loan và Bảy Lốp, trước đây nhiều người cũng có câu hỏi tương tự như Ông Douglas hỏi tôi trong những lần tiếp xúc này:
-Vì sao Ông Loan lại bắn Bảy Lốp khi hắn đã bị bắt, ông có thấy không?
Tôi hiểu ý Ông Douglas muốn tìm một sự thật rõ ràng trong vụ này để trả lại “công bằng” cho Tướng Loan nên tôi cũng phải nói thật, không vì bênh vực cho ai mà nói sai tình hình tại chỗ lúc đó:
Việc dí súng dọa bắn một tù binh để khai thác tin tức là chuyện bình thường nơi chiến trường, nên khi nghe tiếng súng nổ ai nấy đều ngạc nhiên giật mình. Tr/Tá TĐT/TĐ2 NVĐ là người giải giao Bảy Lốp cho ông Tướng, nhưng không biết tại sao Bảy Lốp lại bị bắn, vì sự việc xẩy ra nhanh quá.
Tôi đứng trong đám đông xung quanh Bảy Lốp, đang nói chuyện với anh Trương Tấn Bảo, nhiếp ảnh gia phòng Giảo Nghiệm của Tổng Nha Cảnh Sát, (Anh Bảo luôn đi theo Ông Tướng để chụp hình thời sự), thì bất ngờ nghe tiếng nổ, cả hai quay lại thấy... nhưng không biết vì sao Ông Sáu Lèo lại bắn, sự việc xảy ra quá nhanh, nhanh như một tai nạn. Chẳng bao giờ có cái vụ: “Ông Loan mời báo chí đến chứng kiến phiên tòa xử tội...” như một số cây viết tưởng tượng ra cho có vẻ lâm ly bi đát, tàn ác dã man kiểu “tòa án nhân dân”. Sự thật chỉ là một tiếng nổ bất ngờ và một người ngã xuống như hằng chục anh em TQLC của tôi ngã xuống, như hằng trăm người dân ngã xuống giữa hai làn đạn giao tranh trong đó có nhiếp ảnh gia Trương Tấn Bảo**
Inline image
(**Hình Bảo ngồi vespa với máy hình. Khi VC tấn công Saigòn đợt hai, sáng 28/5/68, chúng xâm nhập vào cư xá Phú Lâm A, nơi anh chị Bảo cùng “Ngũ Long Công Chúa” cư ngụ, anh vội bảo chị và các con lánh nạn vào nhà thờ trên đường Lục Tỉnh, còn anh ở lại... Khi im tiếng súng, chị và các con trở về nhà thì thấy Anh Bảo nằm trên vũng máu, hai tay bị trói, vết đạn ở cổ họng, ở bụng, máy hình bể nát bên cạnh xác anh!!!)
Nhiếp anh gia Adams được giải thưởng Pulitzer, được nổi tiếng vì chụp hình Ông Loan bắn đặc công, khủng bố (IS) Bảy Lốp, còn nhiếp anh gia Trương Tấn Bảo chưa chụp được hìnhcác đồng chí của Bảy Lốp, đoàn quân “Giải Phóng” thì anh bị phỏng... và “được” giải thưởng 2 viên kẹo đồng và sợi giây thừng kèm theo nước mắt cùng những tiếng nấc nghẹn của vợ con! Nỗi kinh hoàng đó nào ai hay ai biết, nhưng niềm đau kéo dài mãi, bám theo những người thân yêu của Anh Bảo cho tới ngày nay!
Hai nhiếp ảnh gia, một nằm xuống, một vinh quang vì tấm hình!
Nếu chỉ nhìn phía trước tấm hình của ông Adams rồi trả lời câu hỏi trên thì chưa đủ, mà phải nhìn kỹ “phía sau” thì mới có cái nhìn chính xác và công bằng hơn.
Mỗi tấm huy chương “đều có hai mặt”, mặt trước màu vàng óng ánh chiến thắng vinh quang, “mặt sau” màu đỏ là do máu chảy ra từ thân xác của đồng đội và thuộc cấp đọng lại. Người mang huy chương hưởng tiếng khen: “Giỏi” của đám đông rồi cười sung sướng. “Kẻ” tạo huy chương thì nằm lại đâu đó trong xó rừng góc núi, không còn nghe được tiếng nấc nghẹn của người thân yêu!
Nếu nhìn phía trước tấm hình rồi hỏi: “Vì sao Ông Loan bắn Bảy Lốp” thì cũng nên lật “phía sau” tấm hình rồi hỏi:
-Vì sao Bảy Lốp có mặt tại Saigòn, mang K54 vào chùa ngày Tết Nguyên Đán?
-Vì hắn là một tên khủng bố, một tên “Isis”, không phải là một tù binh chiến tranh.
-Vì sao trong giờ phút thiêng liêng của dân tộc Việt đang đốt pháo, dâng hương, cúng tế tổ tiên ông bà thì súng VC nổ thay pháo, VC đốt nhà thay đốt nhang, thay vì con cháu mời tổ tiên về thì con cháu lại xách quần áo chạy giặc?
-Vì sao 10 người trong gia đình ông Tuấn gồm ông bà cha mẹ con cháu đang quây quân bên mâm cơm ngày Tết thì bị đồng chí của Bẩy Lốp cắt cổ, chỉ một bé trai thoát chết? Bé trai, con ông Tuấn ngày ấy, nay đang là một quân nhân trong quân đội Hoa Kỳ, đó là một nhân chứng sống cho sự thật mà Ông Douglas có thể tiếp xúc dễ dàng.
-Vì sao có “vành khăn tang cho Huế”? Hằng mấy chục ngàn người dân bị đồng chí của Bẩy Lốp tàn sát trong ngày Tết Mậu Thân 1968?
Xin mang lên bàn cân, một bên xác hàng ngàn dân vô tội và một bên Bảy Lốp rồi trả lời những câu hỏi “vì sao” ở trên thì mới chính xác và công bằng.
Ngoài những sự thật kể trên mà ai cũng thấy để có thể trả lời, thì cũng cần biết thêm Ông Sáu Lèo có phải là một người hiếu sát như truyền thông phản chiến kết tội không? Tôi là TQLC nhưng lại “bị” đặt dưới quyền Ông hai lần nên tôi thấy cần nêu ra một vài điểm khác lạ của Ông Sáu Lèo.
Lần thứ nhất: Tháng 5/1966 tại Huế.
Hẳn quý độc giả còn nhớ vào khoảng Tháng 5/1966 xẩy ra vụ “Bàn Thờ Phật Xuống Đường” ở Đà Nẵng và Huế khiến tình hình an ninh miền Trung bi đát. Sau khi Trung Ương đã thay vài vị Tư Lệnh Vùng I mà vẫn chưa ổn định được tình hình mà nguy cơ Miền Trung biến thành “trái độn” hay “vùng tự trị” thì Trung Ương mới đưa Ông Sáu Lèo giải quyết. Kết quả thế nào không cần nhắc lại mà tôi xin kể việc ít người biết:
Hai Tiểu Đoàn 1 vả 2 TQLC được đặt dưới quyền điều động của Ông Sáu Lèo. Khi các con đường trong thành phố bị bàn thờ Phật “xuống đường” khiến lưu thông tê liệt, Ông Sáu ra lệnh cho TQLC giải tỏa với mệnh lệnh phải triệt để thi hành là:
-Mọi quân nhân trước khi thi hành nhiệm vụ phải vái lạy bàn thờ 3 lần rồi mới được phép khiêng bàn thờ vào hai bên lề đường, tuyệt đối tránh mọi hư hại.
Lệnh từ Tr/Tá Chiến Đoàn Trưởng Nguyễn Thành Yên xuống cho Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2 là Th/Tá Lê Hằng Minh rồi xuống đến Đại Đội Trưởng ĐĐ4 là Đ/Úy Nguyễn Xuân Phúc nên tôi là Th/Úy Trung Đội Trưởng TrĐ43/ĐĐ4 cứ thế mà thi hành.
Khi chúng tôi đang lui cui vái lạy và khiêng từng chậu hoa, thùng nước (dưới mỗi bàn thờ đều có 1 thùng nước, không biết để làm gì) và tượng Phật vào lề đường thì Ông Sáu Lèo lại xuất hiện và nhắc nhở:
-“Các chú phải cẩn thận, phải thật cẩn thận, nhớ vái 3 lạy...”.
Từ một vị chỉ huy cao cấp, Ông Sáu đã xuống đến tận nơi đơn vị thì hành cấp thấp nhất để trực tiếp nhắc nhở và kiểm soát, điều này chứng tỏ Ông Sáu lo lắng đến tài sản của dân, đặc biệt là tôn trọng tín ngưỡng, dù tôi không biết Ông theo tôn giáo nào.
Chiều tối đã tới giờ lên đèn mà Huế như một thành phố chết, không ánh sáng điện đường, không người và xe cộ qua lại, chỉ có những đèn “hột vịt”, đèn cầy (nến) lập-lòe giữa lòng đường như những bóng ma, thấy mà rợn người.
Trung Đội 43 của tôi cứ theo y lệnh mà giải tỏa từ đầu đường Trần Hưng Đạo tới cuối đường, dọn đến giữa, nhìn lại phía sau thì thấy đèn nến lại xuất hiện, bàn thờ Phật lại “xuống” đường! Dọn đến cuối thì đèn nến đuổi đến giữa, đến sát sau lưng, phải dọn lại, làm lại từ đầu! Quân và dân cứ như chơi trò “núp-tìm”, buồn mà phải cười. Giữa khuya, “đêm không ngủ”, bao tử hành! Giá như dưới bàn thờ có xôi chuối thì cũng đỡ. Trời đã sáng rồi mà vẫn chưa xong khiến ĐĐT (Đ/Úy Phúc) thúc dục trong máy truyền tin:
-C.. Sao lâu thế? Nhanh lên, xong rồi thì di chuyển về khu chợ Đông Ba.
-Trình Thẩm Quyền chưa xong, dọn rồi họ lại bày ra, giống như bắt cóc bỏ đĩa.
-Không cần biết, ông làm sao thì làm để còn giải tỏa khu vực khác.
Đây là cái lệnh mà các cấp dưới ở chiến trường thường gặp. Mỗi khi trình lên cấp trên tình thế khó khăn, thay vì tìm hiểu tình hình và giải pháp thì thượng cấp ở tít mù xa, ở trên mây thường ra lệnh ngắn gọn: “Không cần biết, phải chiếm cho được mục tiêu bằng mọi giá”! Cái “mọi giá” ấy thường là những máu và nước mắt.
Lệnh trên bảo: “Làm sao thì làm” nên tôi làm theo ý tôi, cho gom bàn ghế, tủ thờ lại, làm vòng rào kẽm gai, thêm vài trái mãng cầu...Không phải mãng cầu gai (xay sinh tố) mà là mãng cầu “gài”, tức gài vài trái lựu đạn M26 xung quanh kèm theo miếng giấy vẽ cái sọ và hai cái xương bắt chéo rồi ghi: “Nguy Hiểm Chết Người, Không Đến Gần”.
Chả hiểu “thầy” bà hay ma quỷ (vc) xúi mà chỉ trong chốc lát đám đông kéo đến biểu tình la hét:
-“Đả đảo lính Thiệu Kỳ giết dân, đả đảo, đả đảo...”
TQLC chúng tôi đã quá quen cảnh đả đảo này trong mấy ngày trước ở trong Đà Nẵng rồi nên cứ “mackeho”, nhưng thật bất ngờ thấy xe jeep Cảnh Sát Dã Chiến chạy đến và Ông Sáu Lèo bước xuống, (thấy Ông đồng bào càng la hét mạnh hơn), Ông nhìn mấy trái lựu đạn gài rồi cau mặt mắng, đủ cho một mình tôi nghe:
-Ai bảo chú mày làm vậy? Nguy hiểm quá, lỡ bọn ly khai vin vào cớ này làm lựu đạn nổ, chết dân là chú “chết” theo, gỡ mấy trái lựu đạn kia ngay đi.
Sau khi trình bày cho Ông biết tình trạng “bắt cóc bỏ dĩa” rồi tôi dẫn Ông đến sát hàng rào, ngay bên trái lựu đạn rồi nói nhỏ:
-Tôi hù thôi, lựu đạn đã rút ngòi nổ rồi, chỉ còn là cục đá.
Sau đó tôi móc trong túi áo ra cho ông thấy mấy cái ngòi nổ, cỡ cái đũa, dài hơn nửa ngón tay, Ông nháy mắt hiểu ý..., nhưng vẫn bảo tôi gỡ lựu đạn cất đi, xong ông dùng loa kêu gọi:
- Đồng bào đừng mang bàn thờ ra đường nữa, làm như vậy là đồng bào cản trở lưu thông, tự hại mình, nếu tái diễn chúng tôi sẽ tịch thu...
Những bàn thờ, tủ, kệ thuộc loại gỗ quý, chẳng ai dám phí của nhưng vì lệnh của “thầy”, loại thầy dùi, không nghe thì thầy dùng dùi đục lỗ tai nên đồng bào buộc phải làm theo, nay Ông Sáu ra lệnh: “dẹp”, thế là đẹp rồi, mau mau khiêng bàn, tủ vào nhà.
Ông Sáu là Tư Lệnh Cảnh Sát, vị chỉ huy cao cấp nhất có nhiệm vụ ổn định tình hình Miền Trung đang bị rối loạn, Ông có nhiều việc quan trọng phải đối phó, việc Ông đích thân xuống đến cấp thấp nhất để ra lệnh chi tiết, kiểm soát là một chuyên khó tin nhưng có thật, và cũng rất...“khó chịu” đối với cấp thừa hành. Đó là vì ông muốn các cấp phải triệt để thi hành đúng lệnh tôn trọng tín ngưỡng, tính mạng và tài sản của dân.
Lần thứ nhất 1966 tại Huế là vậy, còn lần thứ hai năm 1968 tại Saigon thì sao?
Sau khi giải tỏa xong khu vực chùa Ấn Quang và vụ Bảy Lốp, TĐ2/TQLC được lệnh biệt phái một đại đội cho Tổng Nha Cảnh Sát. Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng chỉ định tôi dẫn ĐĐ1 đi theo Ông Sáu.

Thú thật là tôi không thích nhiệm vụ này chút nào, thà đi hành quân với tiểu đoàn còn hơn bị biệt phái. Kinh nghiệm cho biết mỗi khi bị biệt phái đến nơi nào thì nơi đó họ “hành” quân (biệt phái) chết bỏ, vắt chanh vứt vỏ, nay lại phải dẫn quân chạy theo Ông Tướng Cảnh Sát, Ông chạy đi đâu là TQLC phải “chầu” theo đó khiến tôi chán vô cùng! Ông chạy như con thoi, “nơi nào cần thì Ông có, nơi nào khó có Ông”. Ông mặc áo giáp phanh ngực, đầu không nón sắt, vác cây súng đúng tác phong của một chú lính “ba gai”.
Ông nhẩy lên xe jeep cùng CSDC chạy trước, 4 xe GMC chở anh em TQLC chúng tôi theo sau, chạy lung tung khắp nơi, khi Ông đến điểm nóng nào đó thì tôi phải cho quân xuống xe ngay để bố trí chuẩn bị.. thế rồi Ông lên xe jeep chạy đi, nhiều khi chúng tôi theo không kịp, lại phải liên lạc tới lui khiến tôi bực mình.
Một buổi xế trưa đầu Tháng 5/1968, Ông dừng xe tại ngã ba đương Nguyễn Du và Công Chúa Huyền Trân (đường phía sau Dinh Đôc Lập), Ông gọi tôi đến đưa tay chỉ cái “biu-đinh” cao khoảng 8 tầng, đang xây dở dang, nằm ngay bên hông Dinh Độc Lập, tại góc đường Nguyễn Du và Nguyễn Trung Trực, Ông nói:
-Trong cái biu-đinh kia còn một toán VC mà CSDC của “moi” chưa thanh toán được, liệu “toi” có thể giúp “moi” giải quyết được không? Điều quan trọng nhất là làm sao bắt sống được tụi nó.
Ông là cấp Tướng chỉ huy, tôi là cấp Úy biệt phái, lệnh Ông ra là tôi phải thi hành, nhưng kết quả đạt được như thế nào còn tùy thuộc vào tình hình “địch, bạn”. Địch chưa biết, nhưng “bạn” thì có CSDC... Ông Tướng Cảnh Sát lại thân mật “toi-moi”, thay vì chỉ tay 5 ngón ra lệnh, Ông hỏi ý kiến thân tình: “Liệu toi có thể giúp moi...” nên tôi cảm thấy vui vui, cần phải nghĩ cách “giúp” Ông.
VC cố thủ trên biu-đinh cao tầng ngó vào ngay Dinh Độc Lập thì nhức nhối và nguy hiểmquá. Các anh CSDC đã cố gắng hết mình mà chưa chiếm được lại còn bị tổn thất nên Ông Tướng mới dùng TQLC giúp. Tiêu diệt thì dễ nhưng cái khó là Ông yêu cầu phải bắt sống. Bắt sống VC mà lính tôi chết thì sao đây? Nhưng vì danh dự của “Trâu Điên”, của Binh Chủng, tôi phải cố gắng. Để giảm thiểu thiệt hại tối đa, tôi trình Ông:
-Thưa Thiếu Tướng: Chúng tôi sẽ cố gắng bắt sống, nếu họ muốn sống, còn nếu họ muốn chết khiến lính tôi chết theo thì đó ngoài ý muốn. Chúng tôi đã có mặt nạ, áo giáp và khói màu rồi, xin CSDC cung cấp thêm lựu đạn cay và bao vây xung quanh...
Ông Tướng cam kết sẽ có lựu đạn cay ngay, còn bao vây thì CSDC đã xiết chặt rồi. Hơi cay và khói màu không phải vũ khí sát thương nhưng sẽ làm cay mắt, ngộp thở, vì bản năng sinh tồn, địch phải tìm cách thoát thân trừ khi chân bị xích...
Một yếu tố tâm lý hết sức quan trọng khi chúng tôi đi vào chỗ chết để bắt sống VC trước con mắt chăm chú theo dõi của Ông Tướng Cảnh Sát, của anh em CSDC và của đồng bào khiến Th/Úy HVQ... điều động trung đội tiến vào mục tiêu như đóng phim, anh em Trung Đội 14/ĐĐ1 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ: bắt sống 6 tên VC trong tình trạng ngơ ngác, lảo đảo say khói màu như say thuốc lào 888(**).
(**Ngày N/7/2017 khi gặp cựu Đại Tá Cảnh Sát Trần Minh Công tại chùa B.Q.. để Mr Douglas Sloan phỏng vấn và quay phim về Thiếu Tướng Loan, tôi có nhắc lại vụ bắt sống VC này với Đại Tá Công thì Ông ngạc nhiên và thích thú nói: “Không ngờ nửa thế kỷ sau, chúng ta gặp nhau ở đây, ở Saigon Nhỏ tôi mới biết người giúp chúng tôi bắt sống toán VC ngày ấy tại Saigon Lớn lại là anh”).
“Giặc đến nhà đàn bà cũng phải đánh”, VC vào thành, nhiệm vụ của CSDC và các quân binh chủng là phải hành quân giải tỏa, điều đáng chú ý ở đây là lệnh của Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan: “Bắt sống tụi nó”. Điều này chứng tỏ Ông quý mạng sống của con người, dù người đó là thủ phạm gây ra bạo loạn, chiến tranh chết chóc, những người đó sẽ bắn Ông và họ đã bắn Ông!
Ông dẫn đầu mấy xe jeeps CSDC, 4 xe GMC chở TQLC chúng tôi theo sau, đoàn xe dừng lại trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, đoạn nằm giữa hai con đường Phan Đình Phùng (có đài phát thanh) và Phan Thanh Giản (có cây cầu xi măng bắt đầu của xa lộ Saigòn-Biên Hòa), trong khi anh em TQLC chúng tôi đang xuống xe thì Ông và mấy anh CSDC đi vào con hẻm dẫn xuống xóm nhà sàn nằm dọc bên bờ kinh, vài phút sau tôi nghe mấy tiếng “cắc-bù, cắc-bù”.
Nghe “cắc-bù” là tôi biết tiếng súng của VC nên tôi vội ra lệnh cho anh em TQLC nhanh chóng dàn quân tiến vào khu nhà sàn thì cũng là lúc gặp mấy anh em CSDC khiêng Ông ra. Tôi nhìn Ông Sáu sững sờ, không thể ngờ chuyện lại xảy ra nhanh như thế đối với Ông, một vị chỉ huy cao cấp, một cấp tướng, mà ngoài chiến trường chỉ những anh em khinh binh, anh em tiền sát mới thường gặp phải.
Ông ngồi trên bốn cánh tay của hai anh CSDC đan vào nhau, máu thấm ra từ một trong hai chân thõng xuống đong đưa. Tôi biết ông bị thương vào chân, nhưng chắc không sao, bị nhẹ thôi, vì Ông không có vẻ gì là đau đớn cả.
Chúng tôi cẩn thận tiến vào và lục soát hết những căn nhà sàn dọc bờ kinh, không súng nổ, có lẽ vài tên du kích lợi dụng lúc nước con kinh dâng cao nên chúng đã lặn mất tiêu rồi, chỉ tìm thấy một tên bị thương nặng đang thoi thóp chờ chết trong một góc nhà sàn, tên này đã bị thương ở đâu đó được đồng bọn mang về đây cất giấu trước khi Ông Sáu và CSDC tiến vào lục soát.
Quân Đội VNCH đã có những vị tướng bị tử thương ngoài chiến trường khi các vị này điều động quân sĩ từ trên trực thăng, nhưng một vị tướng mà bị thương trong nhiệm vụ của một “tiền sát viên” như trường hợp của Ông Sáu Lèo thì chưa bao giờ xảy ra, một chuyện khó tin nhưng có thật. Chính vì khó tin nên một vài bản tin của những ông ký “giả” không tận mắt chứng kiến đã tưởng tượng ra những tình khúc lâm ly bi đát, nào là một tên VC núp dưới chân cầu Saigòn dùng súng có ống nhắm bắn ông, nào là một giới chức cao cấp Mỹ (CIA) từ trên trực thăng, muốn giết Ông v.v..toàn là những chuyện tưởng tượng không một chút hợp tình hợp lý, nhưng họ đã viết như thế.
Ngoài chiến trường, thành phần bị thương, tử thương nhanh nhất và nhiều nhất chính là các anh em trong tổ tiền sát, trong các tiểu đội trung đội đại đội đi đầu. Ông Sáu Lèo là Tư Lệnh Cảnh Sát cứ phoong-phong dẫn đầu toán CSDC đến những điểm nóng có VC ẩn núp trong thành phố thì lại là chuyện khác, vì Ông Sáu không những là cấp chỉ huy mà còn là người lãnh đạo. Người lãnh đạo luôn sát cánh với thuộc cấp trong mọi hoàn cảnh, đồng lao cộng khổ làm gương khiến cho thuộc cấp tâm phục khẩu phục.
Ông Sáu Lèo là người như thế, không ai hiểu rõ tài chỉ huy và lãnh đạo của Ông Sáu bằng chính thuộc cấp của Ông. Cựu Đ/Tá Cảnh Sát Trần Minh Công nói:
-Chúng tôi biết rõ tài năng của cấp chỉ huy của chúng tôi, vì sao Ông chỉ huy như thế... chúng tôi hiểu tấm lòng của Ông nên kính nể Ông.
Ông Sáu Lèo gốc Không Quân, là Tư Lệnh Cảnh Sát, còn người viết là một TQLC đã đôi ba lần bị biệt phái làm việc dưới quyền Ông và đã hoàn thành nhiệm vụ, dù không được Ông thưởng công một lời khen hay huy chương, nhưng tôi kính phục Ông vì lối sống bình dân, thân thiện và làm gương cho thuộc cấp trong chiến đấu, nhất là luôn luôn tôn trọng tín ngưỡng, tài sản, tính mạng của người dân, kể cả mạng sống của địch quân, đó là tính nhân bản của Ông, của Quân Đội VNCH trong chiến tranh. Chúng tôi kính phục “Ông Sáu Lèo”./.

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Chuyện Người Vừa Đánh Răng Vừa Huýt Sáo

Phạm Thành Châu


Tôi kể chuyện sau đây, làm gì bạn cũng chán, vì nó giống rất nhiều trường hợp đã từng xảy ra, nhưng không kể thì bạn tôi buồn, vì "Mầy ráng kể cho người khác nghe, để họ biết. Đó là kỷ niệm của tao..."
Đây là một chuyện tình. Mà chuyện tình dang dở mới hay, chứ hai anh chị yêu nhau rồi thành vợ chồng thì chán chết. Bạn đã lập gia đình chưa? Cứ soi gương hoặc nhìn trộm "đối phương," thì sẽ thấy những nét thê lương trên gương mặt đau khổ vì sẽ phải sống với nhau đến "đầu bạc răng long!" Chán đến bực nào!

Chuyện phải có đầu có đuôi. Phần đầu chuyện nầy xảy ra ở Việt Nam, trước 1975, phần cuối nằm bên Mỹ, sau năm 2000. Trên hai mươi năm! Coi như từ thế kỷ 20 qua thế kỷ 21!

Ở một tỉnh lẻ miền Trung Việt Nam, có cậu học trò yêu cô nữ sinh. Cậu tìm cách cho cô biết là mình yêu cô ta, nghĩa là tỏ tình, cô ta chấp nhận, và thế là cô cậu yêu nhau. Diễn tiến chuyện tình nào cũng giống nhau. Viết thư, hẹn hò, gặp nhau, cầm tay nhau, thề non hẹn biển... đại khái như vậy. Tỉnh lẻ còn có màn khuyến khích nhau chăm học để xây dựng tương lai. Thế nên, trên bàn học, cả hai đều giành một nửa thời gian để học, một nửa để mơ mộng và viết thư tình. Cậu vâng lời người yêu, học ngày học đêm, học xanh mặt... nhưng tú tài hai, cậu thi rớt (thi hỏng). Vậy là phải vào trường Sĩ Quan Thủ Đức. Trong thời gian trong quân trường, cô cậu vẫn thư từ với nhau, vẫn quyết giữ lời thề chỉ yêu một người.


Khi ra trường, cậu trở thành một chàng chuẩn úy mạnh khỏe, hiên ngang. Chàng xung phong vào binh chủng nhảy dù. Khi ra đơn vị, đi hành quân, rồi đụng độ, chàng chới với, thấy tử thần có thể thò tay chộp mình bất cứ lúc nào nên chàng đâm ra mất tinh thần "Mình cưới em, rủi mình lãnh đạn thì đời em khổ!" Vì thế chàng ít trả lời thư nàng. Nàng thì không thúc giục, trách móc nhưng báo tin rằng cha mẹ nàng "ép duyên" nàng với một người mà nàng "ghét cay ghét đắng"! Nàng càng gửi nhiều thư thì chàng càng cắn răng yên lặng cho nàng yên lòng lên xe hoa. Khi được tin nàng lấy chồng, chàng buồn lắm nhưng nghĩ rằng, mạng mình còn không giữ được, tư cách gì giữ được người yêu. Cứ coi như đã quyết dâng trọn đời mình cho Tổ Quốc thì không còn thắc mắc gì nữa.

Đời lính, sống rày chết mai. Ra trận thì thần kinh căng như sợi dây đàn. Khi dừng quân hay về hậu cứ, phải tìm cách cho sợi dây đàn đó bớt căng, bằng cách nhậu nhẹt, ca hát, vui chơi xả láng. Không nhớ dĩ vãng, không nghĩ đến tương lai... để mai đây lại chuẩn bị hành quân. Cứ thế, ngày nầy qua tháng khác...

Bỗng nhiên, năm 1975, Dương Văn Minh đầu hàng giặc. Ai cũng chưng hửng!? Thế là chàng đi tù.

Chuyện tù Cộng Sản thì đã có nhiều người kể, cả đến khi đi tù về, cũng có nhiều người kể rồi, bây giờ xin qua chuyện đi HO qua Mỹ. Nhân vật nam của chúng ta được Mỹ nhận, được hưởng qui chế tị nạn, nghĩa là được lãnh trợ cấp, được bảo hiểm sức khỏe (medicaid) miễn phí trong khoảng tám chín tháng. Sau đó, chàng xin được một việc làng nhàng gì đó sống qua ngày. Ở Cali. đông người Việt, chàng gặp lại biết bao bạn thân trong quân ngũ, trong tù. Thế là màn hẹn hò nhau nhậu nhẹt lại tái diễn tưng bừng, náo nhiệt. Bạn bè không gọi chàng bằng tên mà bằng biệt danh "Thằng vừa đánh răng vừa huýt sáo." Nguyên do là lúc đi tù, bịnh hoạn, đói khát, người chàng suy sụp, chỉ da bọc xương, mấy cái răng thay nhau rụng dần. Qua đến xứ Mỹ, hàm răng chỉ còn trên danh nghĩa, quân số cỡ tiểu đội trừ. Chịu khó móm mém nhai một lúc thì món gì cũng nuốt được hết. Vấn đề ở chỗ, cái miệng coi rất kỳ. Môi trên, môi dưới lồi lõm, giống cái mép của "cái bánh quai vạc." Khi cười thì chiếc răng nầy đứng xa chiếc răng kia, trông rất mất đoàn kết. Bạn bè xúi "Mầy không nhân dịp cái medicaid (bảo hiểm sức khỏe) mà nhổ hết mấy cái răng cũ, thay hai hàm răng giả vào, ít lâu nữa, hết oe phe (welfair) tiền đâu nhổ răng, thay răng?" Vậy là chàng đến nha sĩ, nhổ ráo trọi. Răng xấu, răng tốt, răng lung lay cho đi chung một xuồng (thời đó chưa có chuyện cấm nha sĩ nhổ răng cả hàm để lấy tiền bảo hiểm). Dĩ nhiên, hai hàm răng giả đó, tối ngủ, tháo ra bỏ vào ly nước cho nhẹ miệng, sáng dậy đánh răng (giả), miệng vẫn có thể huýt sáo vui vẻ. Từ khi đeo hàm răng giả, bạn bè gặp chàng rất ngạc nhiên "Sao lối rày mầy đẹp trai ra vậy?" Chàng cười, đưa hai hàng ngọc trai trắng nuốt "Tao vừa làm răng giả." Chẳng phải bạn bè khen lấy lòng mà các bà sồn sồn cũng vồn vã, thân mật với chàng nhiều hơn trước, đôi khi còn tặng chàng một cái nhìn long lanh, xiêu đình, đổ quán. Khi được nhiều người đẹp để ý, tâm hồn chàng bỗng đâm ra lãng mạn, mơ màng. Thế là chàng muốn nổi bật, muốn thành thi sĩ, ca sĩ, nhạc sĩ... Trước hết, chàng làm thơ. Khổ nỗi, chàng làm chỉ được một câu, câu tiếp theo lại không ăn vần với câu trước. Chàng nghiên cứu thơ Đường, song thất, song thất lục bát, thất ngôn, ngũ ngôn, hò, vè... Chàng vẫn thất bại! Thời may, chàng đọc được một bài báo nói về thơ tự do. Đã tự do thì làm gì chả được, cần gì vần điệu, miễn là đừng vi phạm đến "thơ" tự do của người khác. Thế là chàng làm thơ tự do, đôi khi tự cho là siêu thực. Chàng viết tùm lum ra những câu rất bí hiểm, xong chàng ngắt ra thành từng khúc, xuống giòng và gửi đi các báo. Báo nào chàng cũng kèm một cái check mua một năm báo với điều kiện phải đăng những bài thơ của chàng. Các báo cũng chẳng hẹp hòi gì, cũng có thể họ mặc cảm, nếu không đăng thì chứng tỏ mình chưa đủ trình độ hiểu thơ "siêu thực." Chàng còn giành giụm tiền và ra một tập thơ. Rồi ra mắt thơ, có bạn bè đến dự, có báo chí đưa tin, khen tặng, đăng hình... Có thơ đăng báo, ra mắt tập thơ, đương nhiên chàng là "nhà thơ." Sau khi đã thành thi sĩ, chàng tiến sang lãnh vực ca sĩ. Chuyện nầy dễ hơn. Cứ ca rô kê (Karaoke) hát theo cho đúng nhịp, đúng giọng rồi chờ dịp "hội hè đình đám" là chàng xung phong lên giúp vui. Giọng chàng không hay, ai cũng ngại mời chàng hát, nhưng không cho chàng hát thì chàng giận. Nghe nói ở một tiểu bang miền tây Hoa Kỳ, trong một buổi họp cộng đồng, có một bà xin lên hát, không cho bà hát, bà viết đơn tố ông chủ tịch cộng đồng đem tiền đóng góp của cộng đồng đi nhậu. Mỗi việc đính chính thôi cũng đủ khiến ông chủ tịch xất bất, xang bang. Từ đó, hễ bà muốn hát là hội đoàn nào cũng phải cho bà hát, nổi hứng, bà ngâm thơ. Cũng ở tiểu bang đó, có một bà khác, không cho lên hát, bà ta tố một ông chủ tịch hội đồng hương "thâm lạm" quĩ, ông nầy (là bác sĩ, thiếu khối gì tiền), bực mình, từ chức.

Trở lại chuyện chàng "đánh răng huýt sáo" nầy. Trong các buổi lễ lạc đông người, chàng được long trọng giới thiệu là: Ca sĩ kiêm thi sĩ "Thương Hoài Tiên," ý chàng là để tưởng nhớ một người tên Tiên. Kể ra, "cũng có danh gì với núi sông," đủ cho chàng khoái chí với mấy bà nạ dòng cô đơn. Chàng để tóc dài, ăn mặc cẩu thả một chút cho ra vẻ nghệ sĩ, những nơi đông người (mà có các bà) chàng thường ít nói chuyện, làm ra vẻ suy tư, mắt nhìn xa xôi, mày nhíu lại, thỉnh thoảng lại gật gù, miệng như mỉm cười một mình... vì chàng biết có nhiều bà đang "chiêm ngưỡng"(?!) mình.

Đọc đến đây, tôi biết, bạn chẳng thấy gì đáng cho bạn bỏ mấy chục phút ra để theo dõi. Thì đây. Mời bạn đọc tiếp. Một buổi tối, chàng nghe điện thoại reo. Một giọng nữ bí mật, ỡm ờ.
- A lô! Biết ai gọi đây không?
- Xin lỗi. Tôi đang được hân hạnh tiếp chuyện với ai đây ạ?
- Nghe giọng nói mà không nhớ ra người sao? Không thèm nhớ hay đã quên hẳn rồi?
- Giọng nói thì rất dịu dàng, thân mật và vui vẻ. Ai vậy cà?
- Bé Ti đây! Nhớ ra chưa?

Chàng ngớ ra. Trên đời, chàng đã gặp biết bao Bé Ti. Đó là tên gọi những cô bé còn bé tí.

- Xin lỗi. Người Việt mình, đa số các bé gái đều được gọi là Bé Ti. Người nào rất thân mới tiếp tục gọi Bé Ti khi cô bé đã lớn...

- Trong số biết bao Bé Ti đi qua đời anh, lẽ nào anh không nhớ được lấy một người?

Rồi bên kia đầu giây có tiếng hát "Người đi qua đời tôi, không nhớ gì sao người?"

- Chúa ơi! Tôi làm gì được hân hạnh đó?

- Em không có ý nói nghĩa đen. Anh hiểu chưa?

- Tôi đi lính, trước mặt là kẻ thù, bên cạnh là chiến hữu, rừng núi, sình lầy... đánh nhau túi bụi, họa hoằn lắm, khi dừng quân, mới tán tỉnh, chọc ghẹo cô hàng cà phê mấy câu. Chỉ thế thôi. Qua đây, tuổi già xế bóng, các bà nạ dòng cũng chỉ ban cho vài câu vui vẻ. Tôi làm gì được cái hạnh phúc là có người có cảm tình, để ý yêu thương, lại còn cho "qua đời" nữa? Hay là cô đang chọc ghẹo tôi cũng nên?
Im lặng một lúc rồi có tiếng thở dài.

- Tội nghiệp anh! Nhưng em biết, anh có yêu một người. Nhà thơ "Thương Hoài Tiên" của em ơi! Anh còn nhớ người xưa không?

Thi sĩ kiêm ca sĩ của chúng ta kêu lên.

- Bé Ti! Em Tiên đó hả? Phải em không?

Xin thưa, đây là người yêu tỉnh lẻ của chàng, thời chàng còn là học trò, như đã kể phần trên. Thế là chàng và nàng sôi nổi, trò chuyện với nhau hàng giờ trên điện thoại. Nàng cho chàng biết là đang ở tiểu bang Kentucky với con gái. Chồng chết năm tám ba, sau khi vượt biên qua Mỹ được năm năm. Nàng đến nhà một người bạn, thấy tập thơ của chàng, trong đó có địa chỉ và số điện thoại nên gọi đến chàng ngay. Chàng mời nàng trong dịp Đại Hội Mũ Đỏ, tháng sau, tổ chức ở Cali. đến dự. Chàng hứa sẽ hát tặng nàng nhiều bản nhạc rất hay, rất ý nghĩa. Nàng bảo rằng, thằng con trai nàng đang làm việc ở Cali. nàng sẽ đến dự. Chàng hỏi ngày giờ để đón nàng, nhưng nàng bảo sẽ gặp nhau đêm đại hội cho bất ngờ và thú vị.

Thế là từ hôm đó, cả hai, chàng và nàng đều sửa soạn cho buổi gặp gỡ. Hai người đều có những vấn đề giống nhau, là những biểu hiệu của tuổi già. Tóc bạc, da nhăn và bụng phệ... Chàng và nàng đều đi nhuộm tóc. Nàng cắt ngắn mái tóc, cỡ ngang vai cho giống thời nữ sinh. Chàng có lợi thế ở hàm răng giả trắng nuốt như ngọc trai thì nàng cũng đang chấn chỉnh cho dung nhan mùa hạ đỡ phần ảm đạm. Sau buổi điện thoại độ một tuần, nàng bay về Cali. vào ngay mỹ viện, cắt mắt, căng da mặt, xăm lông mày. Bây giờ thì đôi mắt nàng thụt vào, sâu thẩm, giống mắt cô Ấn Độ, rất đẹp, chỉ hơi phiền là khi ngủ, mắt không nhắm kín được! Trở lại mỹ viện thì người ta bảo "Cắt ra thì dễ, vá thêm vào rất khó, có thể đui mắt"?! Vì thế nàng bỏ ý định nâng ngực và sửa mũi. Vấn đề còn lại là hôm đại hội nàng sẽ ăn mặc như thế nào? Đồ đầm hay áo dài truyền thống? Nàng quyết định mặc áo dài nhung màu tím than, đeo chuỗi ngọc trai (giả) vừa mệnh phụ vừa sang trọng.

Về Cali. nàng để ý tìm chàng, có thấy nhưng không muốn gặp mặt, để giây phút bất ngờ đó cho đêm đại hội. Tối dự đại hội, nàng còn mang thêm kiếng cận (giả), trông vừa trí thức vừa rất lạ để chàng không nhận ra. Khi nàng vào cửa với vợ chồng thằng con trai thì thấy chàng đang lay hoay, sắp xếp cờ quạt, máy móc trên sân khấu, thỉnh thoảng chàng bước xuống chỗ tiếp tân nhìn chừng những khách dự tiệc, mà không biết rằng nàng đã ngồi vào bàn từ trước rồi.

Buổi đại hội nào cũng giống nhau. Giới thiệu chương trình, chào cờ, đọc diễn văn rồi ăn uống và nghe ca nhạc. Không biết chàng có tìm thấy nàng chưa mà chàng không còn sớn sác dòm ngó từng bàn tiệc nữa.

Khi đến giữa chương trình thì người giới thiệu trân trọng mời nhà thơ kiêm ca sĩ Thương Hoài Tiên lên "cống hiến" một bản nhạc. Chàng bước lên sân khấu với cây đàn guitar.

- Tôi xin gửi đến quí vị bản nhạc "Bài Tình Ca Mùa Đông" để tưởng nhớ đến một người bạn cũ, nay không biết phiêu bạt phương trời nào.

Ý chàng làm như chưa tìm thấy nàng, khiến nàng rung động cả tâm hồn. Và chàng cất tiếng hát. Chàng hát không hay lắm, nhưng nhờ bản nhạc hay và nhờ cao hứng trước người xưa, nên giọng chàng hết sức truyền cảm. Nàng ngồi im lặng, đôi mắt gắn chặt lên chàng, nuốt từng lời ca của chàng. Thế rồi nàng gỡ mắt kiếng cận (giả) ra, thò tay cầm một đóa hoa hồng mà nàng đã mua và đem theo và đứng lên, yểu điệu tiến về hướng sân khấu. Chúng tôi, bạn bè của chàng đều được chàng kể cho nghe từ trước, chỉ chưa thấy dung nhan của nàng mà thôi. Thế nên, khi nàng bước đến, chúng tôi chờ lúc nàng tặng hoa cho chàng là sẽ vỗ tay hoan hô. Phần chàng, có lẽ đã thấy nàng, nhưng vẫn vờ như say sưa trong tiếng nhạc, lời ca. "Bài tình ca mùa đông, hát mãi đôi môi lạnh căm. Lòng thì vẫn hẹn cơn đau nguôi ngoai. Sao nỗi nhớ mỗi ngày mỗi đầy!..." Không có cảnh nào cảm động bằng, không có mối tình nào đẹp hơn! Chúng tôi, và cả bạn nữa, biết chắc nàng tặng hoa chàng rồi hai người nắm tay nhau xuống sân khấu, ngồi bên nhau mừng mừng tủi tủi.

Nhưng, một việc bất ngờ xảy ra, đáng lẽ tôi không kể ra đây vì bất nhẫn, nhưng sự thật nó như vậy mới chết chớ!

Khi nàng chuẩn bị bước lên tam cấp, lên sân khấu thì lúc chàng hát đến câu "Êm êm... Ngoài kia nhạc đêm đông..." Chàng cao giọng, miệng há ra, gân cổ nổi lên... Đột nhiên, hàm răng giả đẹp đẽ nhưng quái ác vọt ra khỏi miệng chàng, bay lóng lánh trong ánh đèn sân khấu rực rỡ, sáng chói, lăn vài vòng dưới sàn gỗ rồi nằm tênh hênh trước sân khấu, nơi thường dùng để khiêu vũ. Miệng chàng móm xọm, môi trên thụt vô, môi dưới trề ra. Chàng buông tay đàn, bụm lấy miệng.

Chúng tôi lặng người, bất động, quên cả thở!

Bây giờ! Biết kể tiếp ra sao cho bạn đọc hài lòng đây?

Thôi thì thế nầy. Nàng quay lại, cúi xuống, lượm hàm răng giả, lấy khăn tay đang cầm trong tay lau sơ sài hàm răng rồi bước lên sân khấu, ra dấu cho chàng há miệng ra, rồi nàng nhét hàm răng giả đó vào miệng chàng. Chàng trở lại đẹp trai như cũ...

User avatar
macco
Posts: 3541
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Image

Người Pháo Thủ TQLC trong cuộc chiến 1972 -
Giang Văn Nhân
Sau khi triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế để bổ sung quân số và quân trang quân dụng, đầu tháng 6 năm 1972 TĐ2PB bắt đầu xuất hiện trên chiến trường Quảng Trị.

- Nam Giao đây 21, 4900 cho gần lại 50 thước.
- 21 đây Nam Giao, nhận 5/5

Trên bầu trời, hỏa châu soi sáng khung cảnh trong Cổ Thành, vị trí chốt cùng những cử động hiện rõ trên nền vàng nhạt phía sau lưng.

Sau trái đạn đầu tiên bắn xa mục tiêu Thiếu Úy Nguyễn Văn San lấy phương giác, điều chỉnh ngắn lại. Thảo quay sang Thiếu Úy Lý Hồng Phát, tiền sát viên Pháo Đội E của TĐ2PB/TQLC.

- Anh Phát, phương giác 4900, nhờ anh cho ngắn lại 50 thước.

Rầm, quả đạn nổ trên mục tiêu.
- Nam Giao, tốt quá, cho tiếp tục.

Mục tiêu là chốt địch, cần bắn chính xác, tránh tản đạn vì thế TSV Phát gọi về đài tác xạ.
- Yếu tố cũ, bắn tiêu hủy, khẩu đội 10 quả

Khói thuốc theo hai ngả trổ ra của hầm chữ A toả rộng trong đêm tối, căn hầm này được đào sâu ngay chính giữa nhà, cột gỗ to làm đà và mấy tấm ván của bộ phản làm vách. Bề ngang rộng hơn một thước, dài gần hai thước và cao một thước rưởi. Hai cửa có ngách và bậc tam cấp để lên hoặc xuống. Hơn một nửa nhà bị sập, tuy nhiên phần còn lại của mái ngói vẫn còn che toàn bộ căn hầm và hai lối ra vào. Tường bằng gạch loang lổ, nhiều khoảng bị sụp đổ. Nhà ba gian, cột bằng gỗ tốt, hằn sâu vết đạn cùng các mảnh sắt bay tung ra từ bom và pháo binh. Thiếu Tá Trần Kim Đệ Tiểu Đoàn Phó TĐ3/TQLC, ám danh đàm thoại Đệ Đức, ngồi bệt trên mặt đất, mắt dán chặt vào tấm bản đồ không ảnh Cổ Thành Quảng Trị, bàn tay trái đang kẹp chặt điếu thuốc mà mấy đầu lóng tay bị ám khói màu vàng sẩm, bàn tay phải đang cầm ống liên hợp của máy PRC 25 áp chặt vào lỗ tai. Tiếng rít của đạn đạo 130 ly, 100 ly pháo binh CSBV bủa vây chung quanh, đạn nổ rung nhẹ mặt đất, hất tung mọi thứ hợp cùng mảnh sắt khua trên tole, gạch tạo âm thanh rợn người.

Căn hầm chỉ có ba người nhưng chật chội với năm máy truyền tin để điều động và yểm trợ, cùng một điện thoại hữu tuyến liên lạc trực tiếp bằng bạch văn từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn (cánh A) tới Tiểu Đoàn Phó (cánh B)

Để tránh sự thương vong tối đa, khi màn đêm buông xuống, từng toán nhỏ của đại đội trang bị nhẹ, chính yếu là lựu đạn bò lên thanh toán các chốt của địch. Nguyên Thảo theo dõi từng bước tiến và điều chỉnh tác xạ của các trung đội trưởng dọc bờ thành, nơi địch quan sát và dùng 82 không giật bắn trực xạ xuống đại đội. Loa khuếch đại âm thanh của máy PRC 25 vặn thật thấp, Thiếu Úy Nguyễn Hồng Phát tiền sát viên pháo binh của Pháo Đội E lắng nghe và liên lạc về đài tác xạ pháo đội mọi yếu tố điều chỉnh đến khi bắn hiệu quả.

Thị xã Quảng Trị hứng chịu đạn pháo của cả hai bên. những căn nhà đổ nát có tường gạch được địch cài chốt, bờ thành cao là nơi quan sát rõ ràng mọi sự tiến quân vào ban ngày, điều chỉnh pháo binh yểm trợ các chốt và tiêu diệt quân ta. Vì thế trong tình huống này, người lính TQLC trở nên thành thạo trong việc bứng kiềng chốt của CSBV khi màn đêm buông xuống, ánh sáng loé lên mỗi khi địch tác xạ, giúp ta xác định vị trí chốt để sau đó từng người bò lên ném lựu đạn. Pháo binh TQLC bắn tê liệt các tổ hoả lực yểm trợ chốt của CSBV, địch dần dần bị đẩy vào bên trong cổ thành, vùng kiểm soát của đại đội mở rộng ra sát đường Duy Tân.

Từ lúc hoán đổi vị trí của Đại Úy Bùi Phúc Lộc TĐ8/TQLC (ngày 27 tháng 8 ) chỉ vài lần không quân oanh tạc bên trong cổ thành, nhưng sau đó, các đơn vị TQLC giành giật từng tấc đất, khoảng cách tới tường thành càng thu ngắn lại, vì an toàn nên mục tiêu oanh tạc của không quân là bên ngoài hướng Tây cổ thành (bờ sông Thạch Hản), khu vực toà hành chánh Quảng Trị. Lúc này chỉ còn pháo binh là hoả lực yểm trợ sát cận duy nhất. Ban ngày tiền sát viên xin tác xạ tiêu hủy hay chuẩn định theo sự điều chỉnh của các trung đội trưởng vào các vị trí chốt, do kinh nghiệm nhìn trên địa thế, hoặc bị chúng bắn thiệt hại không thể tiến lên được trong đêm hôm qua. Bây giờ vai trò người trung đội trưởng (điều chỉnh tác xạ) và người tiền sát viên (chuyển đạt yếu tố về hỏa tập) phối họp chặt chẽ với nhau rất quan trọng, đã gây thiệt hại tối đa bên địch quân đồng thời giảm thiểu sự tổn thất cho đại đội tiến lên giành lại từng ô nhà đổ nát.

Mờ sáng ngày 14 tháng 9 năm 1972, trong vùng trách nhiệm của LĐ147 Trung Úy Nguyễn Ngọc Trà Đại Đội Phó/ĐĐ3 chỉ huy hai trung đội vượt hào nước chiếm được bờ thành, ngay lập tức Đệ Đức Thiếu Tá Trần Kim Đệ bước đi như chạy, một tay cầm chai rượu Hennessy, tay kia ông cầm ống liên hợp điều động đại đội Thảo thanh toán mục tiêu, ông cũng không quên cho lệnh tiền sát viên yêu cầu tác xạ ra bờ sông (khu vực trách nhiệm LĐ147) để tiêu diệt địch đang tháo chạy cũng như chặn viện binh nếu có. Thiếu Úy Phát theo chân tiểu đoàn phó leo lên thành. Đệ Đức khui chai Hennessy, rót rượu trên nắp rồi chuyền tay cho anh em binh sĩ. Hớp rượu mừng từ tay Đệ Đức làm lòng mọi người ấm lại, khí huyết rạo rực trong men chiến thắng, Thiếu Úy Phát nhìn mọi cảnh vật bên trong cổ thành, cảm giác sửng sờ giữa thực tế và bản đồ không ảnh trong tay. Là tiền sát viên được đối chứng sự khác biệt rõ ràng đó anh mới hiểu được hiệu quả của pháo binh (TQLC) trong cuộc chiến.

Anh em TĐ3/TQLC hùng dũng vừa tác xạ vừa tiến lên, địch chống cự yếu ớt, nhất là hướng nhà giam tiểu khu, các khẩu M79 bắn dọn đường phía trước, tiếng nổ thật khiếp đảm. Đứng trên tường thành toán tiền sát là nhân chứng của pháo binh trước hình ảnh chiến thắng lịch sử.

Binh chủng Pháo Binh tuyển chọn sĩ quan từ Trường Võ Bị Đà Lạt và Trường Bộ Binh Thủ Đức, nhưng từ khóa 19 VBĐL về sau chỉ còn sĩ quan Trừ Bị được đào tạo thành sĩ quan Pháo Binh. Trước năm 1961, Trường Pháo Binh tọa lạc tại Phú Lợi, tỉnh Bình Dương. Các Khóa 11 Thủ Đức trở về sau được huấn luyện tại Trường Pháo Binh Dục Mỹ. Trong thời gian thụ huấn tại Trường Bộ Binh Thủ Đức, gần cuối giai đoạn 1 có cuộc khảo sát trắc nghiệm, căn cứ vào kết quả đó, những SVSQ có năng khiếu giỏi về toán (ban B) thường có ưu thế được Pháo Binh để mắt tới. Khi đã được chọn, họ sẽ trải qua 6 tháng tại Trường Pháo Binh Dục Mỹ, tại đây họ được huấn luyện và thực tập xin tác xạ, điều chỉnh đưa đạn nổ vào mục tiêu, các phương thức mà người tiền sát viên nhanh chóng xử dụng như Toạ Độ Cực, bắn Lồng Khung…, học căn bản cũng như thực tập T.O.T (Time On Target), họ được học kỷ về địa hình, truyền tin và hiểu biết về quân xa, lúc tốt nghiệp họ sẽ những sĩ quan có ám số chuyên nghiệp Pháo Binh và được phân phối theo nhu cầu của từng đơn vị. Trong thời gian binh chủng TQLC còn là Lữ Đoàn, chỉ có một Tiểu Đoàn Pháo Binh (TĐ/PB) với 3 pháo đội A, B và C. Pháo Đội B và Pháo Đội C được trang bị đại bác 105 ly nòng ngắn, hai pháo đội này thường xuyên yểm trợ cho Chiến Đoàn A (An Dương Vương), Chiến Đoàn B (Bắc Bình Vương) trong các cuộc hành quân tăng phái khắp 4 vùng chiến thuật. Pháo Đội A trang bị đại bác 75 ly sơn pháo chỉ dùng yểm trợ các cuộc hành quân ven đô (vòng ngoài thủ đô Sàigòn). Ba tân sĩ quan pháo binh (khóa 21TĐ) tình nguyện về TQLC, tiếp tục khóa học Quan Sát Viên Phi Cơ (ALO) kéo dài một tháng rưỡi, rồi được Tiểu Đoàn Trưởng Pháo Binh phân phối về 3 pháo đội, Chuẩn Úy Lưu Văn Phúc về Pháo Đội A, Chuẩn Úy Cao Khắc Minh trình diện Pháo Đội B và Chuẩn Úy Nguyễn Thành theo Pháo Đội C. Sau này binh chủng TQLC được nâng cấp sư đoàn, có 3 tiểu đoàn pháo binh, trực tiếp yểm trợ cho 3 lữ đoàn, số lượng sĩ quan pháo binh của mỗi khóa tình nguyện về binh chủng TQLC nhiều hơn. Trước kia pháo đội tăng phái 3 toán tiền sát cho một tiểu đoàn, mỗi toán có 4 người gồm 1 sĩ quan tiền sát viên, 1 hiệu thính viên và 2 binh sĩ lo mọi việc cho tất cả, nhưng sau này vì nhu cầu chỉ còn 3 người mà thôi. Tiền sát viên khi có đủ kinh nghiệm, thời gian, cấp bậc và khả năng, sẽ trở thành Trung Đội Trưởng, rồi lần lượt tiến xa hơn như Pháo Đội Trưởng…

Khóa 13VBQG khi tốt nghiệp, các sĩ quan được chọn tiếp tục học về ngành pháo binh và được đưa sang Trường Fort Sill thuộc tiểu bang Oklahoma Hoa Kỳ ( TQLCVN có Trung Tá Đoàn Trọng Cảo và Thiếu Tá Nguyễn Trọng Đạt). Nhiều sĩ quan pháo binh cũng được thụ huấn tại Trường Pháo Binh Fort Sill sau khi học Basic School của USMC như sĩ quan các tiểu đoàn tác chiến. (Trần Văn Tỷ, Lưu Văn Phúc, Nguyễn Toàn, Hà Minh Công, Đỗ Quốc Dũng...). Riêng khóa học Pháo Binh Cao Cấp chỉ có Thiếu Tá Võ Đằng Phương, Thiếu Tá Nguyễn Hữu Lạc.

Một kỷ niệm khó quên với tiền sát viên pháo binh vào những ngày cuối năm 1971, đại đội 2 hoạt động xa về hướng Tây căn cứ A2 và sát vùng Phi Quân Sự, khu vực tương đối trống trải, có những đám chồi, cây lấp xấp, thế đất thoai thoải lên xuống. Địch quân thỉnh thoảng bắn hỏa tiễn 240 ly từ hướng Bắc trong khu vực phi quân sự vào căn cứ, nhưng tất cả đều rớt bên ngoài, để lại hố có đường kính non hai sải tay. Đại đội cuốn lều di chuyển lúc mờ sáng, đội hình mở rộng lục soát từng mục tiêu (nhận trực tiếp từ SQHQHL mỗi tối). Trên đường đi Thảo lựa chọn vị trí qua đêm, rồi cho một trung đội hoạt động gần đó để giử an toàn. Cơm nước xong xuôi, lúc chập tối lần lượt các trung đội rút về điểm đóng quân đêm. Một buổi trưa, địch pháo kích vào vị trí dùng cơm của Thảo và Thiếu Úy Trần Văn Đức tiền sát viên Pháo Đội I, tiếng depart ngay trong vùng phi quân sự, đạn nổ xa phía trước mặt (từ vị trí súng đến chổ ngồi), Thảo và hai hiệu thính viên tạt xa bên trái và nhảy xuống mấy hố cạn, Thiếu Úy Đức và toán delo phóng vào các hố phía sau. Như đã tiềm ẩn nhập tâm từ lúc nào, không suy tính nghĩ ngợi, Thảo hét to lên.

- Nhảy trái phải, coi chừng ngắn dài.

Thiếu Úy Đức cùng hiệu thính viên và cận vụ A Cửu vọt người lên nhảy vào các hố xa bên phải. Trái thứ hai nổ về phía sau, rồi kế tiếp nổ đồn dập vào giữa (bẻ đôi lồng khung). Tiền sát viên Đức nhanh chóng dùng Toạ Độ Cực phản pháo, trong lúc di động anh phát giác bóng người trên điểm cao Le Mon, anh xin thêm tác xạ vào đó. Những lúc dùng Toạ Độ Cực (phương giác, khoảng cách từ tiền sát viên đến khẩu pháo địch), hoặc xin hỏa tập tiên liệu, quấy rối, người tiền sát viên luôn luôn để vị chỉ huy đơn vị tác chiến xác định toạ độ. Qua yếu tố điều chỉnh từ trung đội trưởng, người tiền sát viên gởi về đài tác xạ của pháo đội yểm trợ trực tiếp cho đến khi đạn nổ trên mục tiêu xin bắn hiệu quả. Do kết quả dựa vào thời gian, thông thường đơn vị tác chiến đánh giá khả năng tiền sát viên, tuy nhiên có những yếu tố ảnh hưởng do thời tiết, hướng và vận tốc thay đổi của gió, thế đất (mềm hoặc cứng) nơi đặt từng khẩu súng của pháo đội… người quân nhân tác chiến không am tường vì thế ước lượng giá trị tài năng người tiền sát viên hoàn toàn không chính xác.

Mọi yêu cầu từ tiền sát viên gởi về đài tác xạ qua sự kiểm soát của sĩ quan tác xạ, từ đây sẽ phối hợp với sĩ quan liên lạc điều không của Không Quân tại trung tâm hành quân lữ đoàn, khi sĩ quan này đồng ý vì không có phi cơ trong vùng được yểm trợ thì yếu tố bắn được chuyển đến khẩu pháo cho tới lúc bắn hiệu quả (trung đội hay pháo đội). Vai trò của người khẩu trưởng rất quan trọng, anh trách nhiệm bảo trì súng luôn luôn được hoàn hảo, huấn luyện nhân viên thuần thục, phối hợp các động tác nhịp nhàng cùng kiểm soát chính xác lượng thuốc bồi. Tốc độ nhanh lẹ bắn phủ đầu đã góp một phần cho chiến thắng trên khắp các mặt trận.

Giống như tất cả những khẩu trưởng khác của đơn vị pháo binh, Trung Sĩ Nhất Phạm Thành Nhân của Pháo Đội I thuộc TĐ3/PBTQLC tốt nghiệp khóa 3/68 Trường Hạ Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tại làng Đồng Đế, quân trường này chính yếu là đào tạo những cán bộ cho quân đội. Trường có tượng người lính màu trắng trong tư thế thao diễn nghỉ trên ngọn núi mà hoàng hôn hiện rõ trên nền trời kết hợp với đường cong uốn lượn của dãy núi như bóng dáng của người con gái, hình ảnh đó được truyền tụng với hai câu thơ:

Anh đứng ngàn năm thao diễn nghỉ
Em nằm xõa tóc đợi chờ anh

Đêm mãn khóa trọng thể với lễ phục uy nghi nơi Vũ Đình Trường, các ngọn đèn pha chiếu sáng thẳng vào tượng. Khóa sinh được lệnh quỳ xuống thì một tiếng nổ thật lớn, liền sau đó trên núi những trái lựu đạn khói đủ màu xanh tím vàng đỏ, tỏa ra từ dưới chân, tượng người lính lung linh mờ ảo trông thật uy nghi.

Trong thời gian thụ huấn, có những bài khảo sát, trắc nghiệm theo khả năng để sắp xếp đơn vị ngành nghề, và khi mãn khóa anh được chỉ định về ngành Pháo Binh. Bốn tháng thụ huấn Trường Pháo Binh tại Dục Mỹ, anh được học chuyên môn về pháo binh, chính yếu là trung ương tác xạ và địa hình. Ngoài ra anh còn được huấn luyện giống như các khóa căn bản của sĩ quan pháo binh về tiền sát để có thể vì nhu cầu chiến trường tạm thời làm tiền sát viên trong tình huống bất khả kháng.

Sau thời gian phục vụ Tiểu Đoàn 61 Pháo Binh trực thuộc Biệt Khu Thủ Đô, đầu năm 1970 anh tình nguyện về Sư Đoàn TQLC. Những yếu tố của tiền sát viên gởi về cho đài tác xạ, qua sự tính toán của sĩ quan tác xạ, hạ sĩ quan tác xạ và nhân viên, là người khẩu trưởng anh sẽ nhận được những yếu tố tác xạ như:

- Độ giạt, góc thăng bằng, số thuốc nạp qua máy truyền tin TA 312.

Sau đó anh đọc cho người nhắm viên ghi độ giạt, người số 1 (giựt cò) góc thăng bằng, người làm thuốc nạp (thuốc bồi), ngoài ra còn có những nhân viên khẩu đội khác có nhiệm vụ nạp đạn vào nòng (khi có lệnh của khẩu trưởng), gắn đầu nổ vào đầu đạn, khui đạn… Người khẩu trưởng có trách nhiệm phải kiểm soát lại các yếu tố thật kỷ càng, chính xác trước khi báo cáo lên đài tác xạ và chuẩn bị chờ lệnh để tác xạ. Khẩu trưởng phải huấn luyện tân binh mới bổ sung về khẩu đội, để họ trở thành một pháo thủ có thể làm bất cứ nhiệm vụ nào, tuy nhiên người nhắm viên (khẩu phó) và người số 1 (giựt cò) thì được chỉ dẫn kỷ càng, quan trọng hơn, với pháo binh luôn luôn nằm lòng “sai một ly, đi một dặm”, hậu quả sẽ không lường được khi gây thiệt hại cho chính quân bạn của mình. Ngoài nhiệm vụ chỉ huy nhân viên của mình, khẩu trưởng còn có bổn phận rất nặng nề và quan trọng nữa là theo dõi thường xuyên tình trạng của khẩu đại bác, các loại đạn, để báo cáo lên sĩ quan tác xạ. Mỗi khi được yêu cầu bắn loại đầu nổ VT (vô tuyến màu lục), phải đích thân khẩu trưởng thực hiện, bởi vì loại đầu nổ này rất nhạy bén và nguy hiểm..

Đa số hạ sĩ quan pháo binh khi về đơn vị sẽ là các khẩu trưởng, các hạ sĩ quan xuất sắc được giao nhiệm vụ hạ sĩ quan tác xạ. Trong đài tác xạ, có một hạ sĩ quan thâm niên, thường là thượng sĩ sẽ là trưởng đài tác xạ và vài hạ sĩ quan cùng binh sĩ. Đài tác xạ được giám sát của sĩ quan tác xạ (sau này gọi là pháo đội phó). Tùy pháo đội trưởng, có pháo đội đặt 1 sĩ quan, có khả năng đặc biệt tính yếu tố chính xác, nhanh chóng... làm sĩ quan tác xạ, còn pháo đội phó sẽ chỉ huy trực tiếp các khẩu đội khi thi hành tác xạ.

Cứ 2 khẩu đội hợp thành 1 trung đội, có sĩ quan thâm niên hơn sĩ quan tiền sát viên làm trung đội trưởng, trung đội phó là những hạ sĩ quan thâm niên, có kinh nghiệm, đã từng là khẩu trưởng

Vào lễ Phục Sinh (30 tháng 3 năm 1972) CSBV bất thần với 40 ngàn quân vượt sông Bến Hải gồm các đơn vị, sư đoàn thiện chiến của Điện Biên Phủ năm 1954, cùng vũ khí tối tân, chiến xa, đại bác của khối cộng sản bất thần tấn công vào 3 trung đoàn của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, toàn bộ Trung Đoàn 57/BB triệt thoái từ Gio Linh về Quảng Trị, đơn vị pháo binh của bộ binh bỏ lại súng trong căn cứ Đông Hà. Pháo Đội I (Đại Úy Phan Văn Kính PĐT) thuộc TĐ3PB/TQLC tại doanh trại Trung Đoàn 2 Bến Hải của Sư Đoàn 3 Bộ Binh yểm trợ trực tiếp cho TĐ3/TQLC và Thiết Đoàn 20CX trấn giữ Đông Hà, các pháo thủ bắn mãnh liệt vào khu vực Gio Linh, dọc trên quốc lộ 1 để sát hại bộ binh và thiết giáp CSBV đang tiến về thị xã.

Sáng ngày 2 tháng 4 năm 1972, chiến xa CSBV chồm lên đầu cầu Đông Hà bên bờ Bắc sông Miếu Giang, TĐ3/TQLC dùng súng M72 bắn vào chiếc dẫn đầu, trong lúc đó các pháo thủ Pháo Đội I tác xạ mãnh liệt yểm trợ, Khẩu Trưởng Phạm Thành Nhân lần đầu tiên được lệnh bắn với thuốc nạp (bồi) 3 anh thấy rất rõ khi những trái đạn nổ tung với khói bụi bay mù trời. Chiếc đầu tiên bị bắn cháy làm đoàn chiến xa CSBV khựng lại, sau đó công binh dùng chất nổ phá sập cầu. Tại căn cứ Tân Lâm (Carroll) trong khi Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 56 kéo cờ trắng đầu hàng, các pháo thủ của Pháo Đội B (Đại Úy Nguyễn Văn Tâm PĐT) thuộc TĐ1PB/TQLC tăng phái vẫn chiến đấu, sau cùng được lệnh, một số thoát ra được, còn lại bị bắt làm tù binh khi quân CSBV tràn ngập vị trí. Đại bác 130 ly của CSBV tập trung pháo kích vào thị xã và vị trí Pháo Đôi I, cuối cùng pháo đội phải di chuyển về tiểu đoàn gốc tại căn cứ Ái Tử.

Bộ chỉ huy TĐ3PB/TQLC (Trung Tá Trần Thiện Hiệu TĐT) đang ở Ái Tử với LĐ258, có Pháo Đội J (Đại Úy Trần Văn Tỷ PĐT) yểm trợ trực tiếp cho TĐ6/TQLC. Ngày 8 tháng 4 năm 1972 TĐ3/TQLC bàn giao vùng trách nhiệm Đông Hà cho Liên Đoàn 5/BĐQ về thay thế tuyến phòng thủ của TĐ6/TQLC. Trung Tá Ngô Văn Định LĐT LĐ258/TQLC điều động TĐ6/TQLC đến hoán đổi căn cứ Phượng Hoàng (Pedro) cùng khu vực hoạt động của 1 tiểu đoàn BĐQ.

Ngày 9 tháng 4 một đơn vị chiến xa CSBV có bộ binh tùng thiết mục đích triệt hạ căn cứ Phượng Hoàng rồi tấn công vào căn cứ Ái Tử, các pháo thủ TĐ3PB/TQLC yểm trợ đắc lực, tác xạ vào giữa đội hình tiến quân của địch. Toàn bộ chiến xa CSBV nằm lại trên trận địa, bị cán mìn trong vòng rào căn cứ Phượng Hoàng, số còn lại bị TĐ6/TQLC, Không Quân oanh kích, pháo binh TQLC và chi đoàn M48/TĐ20CX.

Ngày 1 tháng 5 năm 1972, toàn bộ Sư Đoàn 3 Bộ Binh và các đơn vị tăng phái triệt thoái về hướng Nam, TĐ1PB/TQLC (Trung Tá Đoàn Trọng Cảo TĐT) di chuyển cả 3 pháo đội về phía Nam sông Mỹ Chánh, các pháo thủ TĐ1PB đã yểm trợ cho quân bạn lui quân, đồng thời cản bước tiến của địch quân trong lúc LĐ369/TQLC dàn quân thiết lập phòng tuyến Mỹ Chánh. Các pháo đội phải di chuyển liên tục vì bị địch pháo kích, dù vậy khi đến vị trí mới các pháo thủ nhanh chóng chuẩn bị các yếu tố để tác xạ.

Mờ sáng ngày 22 tháng 5 năm 1972, CSBV xử dụng thiết giáp PT76 và BTR50 có bộ binh tùng thiết chọc thủng phòng tuyến Mỹ Chánh do TĐ105/ĐPQ trấn giữ, vượt sông Ô Lâu đánh vào một bộ phận của TĐ3/TQLC rồi tấn công vào LĐ369 tại Chính An. Hai pháo đội của TĐ3PB là Pháo Đội K (Đại Úy Vũ Quang Vinh PĐT) và Pháo Đội J (Đại Úy Trần Văn Tỷ PĐT) bố trí hai khu vực với lữ đoàn để yểm trợ cho TĐ105/ĐPQ, TĐ3/TQLC trên phía Đông phòng tuyến Mỹ Chánh. Thiết giáp PT76 CSBV hùng hổ tiến vào, các pháo thủ Pháo Đội K hạ nòng trực xạ dùng đạn khói lân tinh với thuốc bồi 7 bắn cháy chiếc thiết giáp dẫn đầu. Kế tiếp một chiếc khác bị hỏa tiễn TOW triệt hạ. Đơn vị phòng thủ của TĐ8/TQLC đua nhau dùng hỏa tiển M72 bắn vào đoàn thiết giáp. Phản lực cơ Phantom từ Đệ Thất Hạm Đội đến oanh kích triệt hạ toàn bộ đơn vị thiết giáp CSBV.

Sau khi triệt thoái khỏi Quảng Trị về Huế để bổ sung quân số và quân trang quân dụng, đầu tháng 6 năm 1972 TĐ2PB bắt đầu xuất hiện trên chiến trường Quảng Trị. Lúc bấy giờ Thiếu Tá Đặng Bá Đạt TĐT, Thiếu Tá Trương Công Thông TĐP với hai pháo đội, Pháo Đội D do Trung Úy Đào Văn Cam PĐT, Pháo Đội F do Đại Úy Trương Công Thuận PĐT, tiểu đoàn có nhiệm vụ yểm trợ trực tiếp các cánh quân thuộc LĐ 147, từng bước chiếm lại những phần đất đã mất từ bờ Bắc sông Mỹ Chánh đến Cửa Việt. Pháo Đội E của Đại Úy Lê Khắc Đông ở lại Phú Bài tiếp tục dưỡng quân và chỉnh đốn lại pháo đội vì bị nhiều tổn thất hơn trong lúc triệt thoái khỏi Mai Lộc.

Ngày 11 tháng 7 năm 1972, TĐ1/TQLC đổ quân xuống Triệu Phong, và sau đó kiểm soát được khu vực này, khống chế con đường huyết mạch tiếp tế của CSBV từ hướng Cửa Việt qua Triệu Phong vào thị xã. TĐ2PB điều động Pháo Đội E do Trung Úy Cao Khắc Minh PĐT (thay thế Đại úy Đông) từ Phú Bài vào vùng hành quân.

Ngày 27 tháng 7 năm 1972, QĐ1 cho TQLC thay thế Nhảy Dù tái chiếm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành Đinh Công Tráng, mà Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh nhân dịp kỷ niệm ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1972 là phải chiếm lại trong thời hạn 90 ngày. Mờ sáng hôm đó, Đại Tá Ngô Văn Định Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 258 TQLC điều động TĐ9/TQLC hoán đổi cho TĐ6/ND tại khu vực ngã ba Long Hưng, TĐ3/TQLC thay thế TĐ5/ND khu vực Trí Bưu. TĐ5/TQLC hoạt động phía Nam cổ thành, TĐ1PB/TQLC, Pháo Đội I của TĐ3PB/TQLC và 1 pháo đội 155 ly thuộc TĐ44PB yểm trợ trực tiếp. Trong lúc đó Trung Tá Nguyễn Năng Bảo Lữ Đoàn Trưởng LĐ147 với 3 Tiểu Đoàn 1, 7 và 8 trách nhiệm bờ bắc sông Vĩnh Định từ khu vực chợ Sãi ra biển Đông, TĐ2PB/TQLC và 1 pháo đội 155 ly của TĐ44PB yểm trợ trực tiếp.

Ngày 7 tháng 9 năm 1972 Liên Đoàn 1 Biệt Đông Quân thay thế khu vực trách nhiệm của LĐ147, Sư Đoàn TQLC dồn hết mọi nổ lực quyết tâm dứt điểm, cổ thành được chia làm đôi, phân nửa hướng Nam giao trách nhiệm LĐ258, và hướng Bắc giao cho LĐ147. Pháo Đội E đến chiếm đóng tại trường học cạnh bờ sông Vĩnh Định, Pháo Đội D rời Mỹ Thủy chiếm đóng vị trí cạnh nghĩa địa thôn Ngô Xá Đông, Pháo Đội F rời Gia Đẳng chiếm đóng vị trí cạnh kho đạn Hội Yên. Như vậy 3 pháo đội của TĐ2PB đóng thành vòng cung chữ C rất thuận lợi cho việc yểm trợ tác xạ cho các TĐ 3, 7 và 8. Lúc này các tiền sát viên điều chỉnh cho đến khi hiệu quả, xin những tác xạ liên tục để cho quân bạn từng bước tiến lên. Ban đêm các TĐ/PB tác xạ quấy rối bên trong cổ thành và thỉnh thoảng tiền sát viên xin tác xạ soi sáng để quân bạn quan sát địa thế trước khi tiến quân. Phía bờ Bắc sông Thạch Hản do hải pháo, và pháo binh 175 ly quấy rối.

Mổi lần quan sát viên phi cơ cho những mục tiêu quan trọng bên trong cổ thành mà họ quan sát được, lập tức các TĐ/PB tác xạ TOT (time on target) lên những mục tiêu nằm trên phần đất trách nhiệm của tiểu đoàn (có sự chấp thuận của Lữ Đoàn và phải không có phi cơ trong vùng). Để thực hiện tác xạ đó, tiểu đoàn trưởng hay tiểu đoàn phó hoặc sĩ quan hành quân huấn luyện các tiểu đoàn pháo binh, điều khiển tác xạ trên hệ thống liên lạc vô tuyến. Các pháo đội phải tính "thời đạo" của từng pháo đội và thi hành theo lệnh đếm thời gian trên hệ thống truyền tin, để đạn sẽ nổ trùm mục tiêu cùng một lúc. Khi TQLC tiến sát bờ thành, không còn xử dụng TOT nữa. Lúc bấy giờ hầu hết các tiền sát viên cạnh các cánh quân xử dụng tác xạ tiêu hủy để triệt hạ chốt và vị trí súng máy, đôi khi phải yêu cầu đầu nổ delay (đầu đạn có hai vị thế chạm nổ và delay).

Vì xử dụng tác xạ TOT nhiều nên các TĐ/PB mỗi ngày tiêu thụ hơn 2000 quả đạn. Trong thời gian này, 2 tiểu đoàn pháo binh được lệnh xử dụng đạn dược thoải mái. Ban đêm quấy rối tối đa lên đầu địch trong thành. Khi TQLC đã lọt hẳn vào trong cổ thành, pháo binh chỉ còn thi hành những tác xạ tiêu hủy theo yêu cầu của tiền sát viên cùng tác xạ soi sáng. Thỉnh thoảng cũng tác xạ phản pháo bên kia bờ sông Thạch Hản.

Pháo Binh TQLC xử dụng loại 105ly Howitzer M1A1 tác xạ rất chính xác, với ưu thế đó các tiểu đoàn pháo binh đã yểm trợ đắc lực cho 2 lữ đoàn đang quần thảo với CSBV trong thị xã Quảng Trị. Chỉ thị của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC là xử dụng tối đa hỏa lực đại bác cơ hữu 105 ly nên trong trận Quảng Trị 1972, mỗi tháng TĐ1PB, TĐ2PB, các pháo đội của TĐ3PB tăng phái bắn trên 200 ngàn quả đạn. riêng nổ lực tái chiếm thị xã và Cổ Thành pháo binh xử dụng 320 ngàn quả đạn, các pháo thủ không còn thì giờ để ăn và chỉ thay nhau chợp mắt.

Sáng ngày 15 tháng 9 năm 1972, lá quốc kỳ VNCH dựng trên Cửa Tây Cổ Thành Quảng Trị, cả Sư Đoàn TQLC reo vui, người dân Quảng Trị mừng mừng tủi tủi, toàn quốc hân hoan, người pháo thủ Pháo Binh TQLC vẫn tiếp tục nạp đạn, giựt cò, tác xạ truy đuổi tàn quân địch đang tháo chạy. Họ hãnh diện trong suốt cuộc chiến đã yểm trợ hiệu quả và giảm thiểu tối đa về nhân mạng cho những đồng đội, chiến hữu của mình cùng mũ beret xanh, cùng màu áo binh chủng. Từng giọt mồ hôi lăn dài xuống những bờ môi đang hé nở nụ cười.

(Trong cuộc hành quân Cửa Việt, Pháo Đội I, Pháo Đội K của TĐ3PB và Pháo Đội A của TĐ1PB, một pháo đội 155 ly tăng phái đã bắn yểm trợ cho Lực Lượng Đặc Nhiệm Tango hoàn thành nhiệm vụ trước giờ ngưng bắn. Bốn ngày sau khi Hiệp Định Ba Lê (27 tháng 1 năm 1973) có hiệu lực, CSBV đã vi phạm, tập trung quân tấn công giành đất cắm cờ. Để yểm trợ Lực Lượng Tango, các pháo thủ bắn không nghỉ tay, có ngày khẩu đội của Trung Sĩ Nhất Phạm Thành Nhân xử dụng một ngàn quả đạn)

Giang Văn Nhân
Hồi Ký Người Lính Tổng Trừ Bị

Post Reply