Cà Phê...Vịt

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image


Đà Lạt Xưa và Nay… Ôi! Niềm Đau!

Tình Hoài Hương

Thật khó diễn tả hết nỗi lòng ưu tư cảm xúc lâng lâng luôn dày vò tâm trí tôi về nỗi bâng khuâng, xao xuyến... khi đứng trên đỉnh đèo nhìn xuống khu vực Krong Pha: phong cảnh hữu tình ngút ngàn, bát ngát mênh mông, thơ mộng cận đường đèo quanh co uốn khúc gập ghềnh, nhấp nhô điệp trùng, cao tận lưng trời chót vót mây trắng ùn ùn bay bay dưới gót chân mình. Đèo Ngoạn Mục hùng vĩ thơ mộng nơi hạ giới xa xa... đã gieo vào lòng tôi bao tình khúc phong trần hoài cảm êm đềm, bâng khuâng suy tưởng mông lung. Tôi đang đứng trên vừng mây vờn sương muối quyện quanh gót chân “nơi bồng lai cao nguyên”, y hệt như trong tranh hồ thủy, tôi mơ màng nghĩ về bình nguyên và cánh đồng lúa lao xao bên dòng sông cạn xa xa ở lưng trời năm cũ.

Nhìn lại ngọn đèo cao ngút ngàn lúc xe đò hổn hển thở khói phì phò đi qua với sự luyến tiếc vô vàn; vì có thể đây là những khoảng lắng phiêu bồng: sau nầy tôi chẳng bao giờ còn cơ may quay trở về chốn nầy, dù là niềm kiêu hãnh vinh quang trong dĩ vãng, dù chỉ thêm một lần im lắng xót xa luyến lưu trong hồi tưởng! Bởi vì 30-4 gia đình tôi lê lết trở về lại thành phố núi, sau ngày mất Đà Lạt, là tôi bị “mất dạy” ; từ khi đổ̉i đời, không còn làm nghề “gõ đầu trẻ”. Thế nên bị thất nghiệp, buộc lòng tôi đưa gia đình đi Sài Gòn, xuống tại Thành Ông Năm, Hóc Môn, để rồi trở nên đói khát dài dài...

Đà Lạt cuốn hút tôi ngàn đời nhung nhớ hoài vọng ước ao. Nơi bỏ ngỏ trái tim tôi dại khờ ấp ủ mộng ngày xanh vui tươi nhí nhảnh mà lại đa tình. Đà Lạt xưa khoan dung dịu dàng mở rộng vòng tay trìu mến, nơi từng ôm trọn tôi vào vũng sương mù lả lướt, buông thả, dạt dào nỗi nhớ niềm yêu trong mỗi phím loan. Tôi nhớ da diết những cánh hoa muôn màu chen chân khoe sắc thắm trong nhiều ngôi nhà ấm áp xinh xinh, nhà nhà trên triền đồi hoặc dưới ven dốc chập chùng ẩn hiện nép mình bên vườn cây ăn quả trĩu trái. Có cây bưởi hoa trắng muốt toả mùi thơm ngào ngạt. Cây hồng mơn mởn. Cây chanh mọng nước. Cây quả mượt-mà ngày ấy cho tôi cảm giác vui vui, lâng lâng êm đềm, thi vị quá chừng!

Trên đường phố quê hương Đà Lạt thân yêu nầy, ngày xưa tôi vẫn đi lại tung tăng, hồn nhiên, vui vẻ nhởn nhơ như cánh bướm buổi sáng mai gặp nắng tươi. Tôi ươm nhiều mộng đẹp như thời son trẻ mới chớm lớn, lòng dạt dào nung nấu sự hoài mong tưởng nhớ: Xin cho tôi được một lần tìm về cội nguồn. Nơi đó mẹ dấu yêu đã à ơi ru con lớn khôn trong chiếc nôi đời ấm áp, đơn sơ hồng hoang mà trữ tình ngọt dịu thân thiết trìu mến dường bao! Tôi nhớ lắm thầy Cao Cự Phúc phổ bản nhạc: "Ngày nào dừng chân phiêu lãng. Khách tới đây khi hoa đào vương lối đi Màu hoa in dáng trời Tình hoa lưu luyến người Bồi hồi lòng lữ khách thấy chơi vơi Ngày nào đường xuân phơi phới Khách ngất ngây thấy hoa nở trên má ai Rồi yêu hoa trên má Mà ghi câu luyến nhớ thành bài thơ … Nhưng rồi mùa hoa tàn. Người hoa sao vắng mãi Bao chiều lòng mong chờ. Đường hoa sao hững hờ Để lòng lữ khách tê tái. Cất bước đi nhớ hoa đào trên má ai Màu hoa in trên má Làm khách lưu luyến mãi Đà Lạt ơi"!

Khi tôi đã thực sự đứng ở thành phố quê hương Đà Lạt ngàn đời dấu yêu nầy, thì tôi không thể nào ngờ! Đà Lạt trong không gian bảng lảng dáng thu bàng bạc trên thành phố buốt giá bây giờ sau 75 - 93 quá lạnh lẽo. Buồn thiu. Ôi! bao năm qua, nay lần đầu tiên tôi nôn nao trông ngóng xôn xao trở về quê cũ, thì... những âm thanh đơn điệu, buồn tênh dội lại lòng mình niềm tiếc thương thác lũ. Gợi lên biết bao điều đau xót, tôi ưu phiền, chán ngán, bơ vơ bàng hoàng khôn xiết. Biển cả đã hoá thành nương dâu, nước mắt bỗng dưng chảy hoài, khiến tôi trở thành một người xa lạ, lạc lõng, cô độc với chính mình. Bước chân lao xao rộn rã tìm về lối cũ đường xưa, mà một thị dân chôn nhau cắt rốn như tôi, từng đi đi về về trong thành phố thơ mộng ấy, giờ đây cảm thấy quê tôi lạ hoắc, lạnh lùng. Tôi lạc bước trên con đường cũ thân thương xưa lòng trống rổng cô độc kinh khủng. Thành phố dấu yêu xưa sao bây giờ trở thành xa lạ với tôi đến thế? Hoài phí đi những mơ tưởng đâu đâu không sát thực tế chút nào.

Quang cảnh thành phố Đà Lạt bây giờ như thành phố chết ngoài nghĩa điạ! Không giống những bộ mặt thân quen xiết đỗi mà ngày xưa tôi thân mật vẫn đi về. Đà Lạt không còn sống động, không nên thơ, chả quyến rũ... vì không có những anh Võ Bị oai phong. Những anh Chiến Tranh Chính Trị kiêu hùng. Không thấy sinh viên Viện Đại-học lịch lãm văn nhã! Không có những nam sinh choai choai, dé dé vui vẻ hân hoan vô tư lự huýt gió lúc đến trường Trung Học. Còn đâu nữ sinh hồn nhiên xinh lịch tung tăng với những tà áo dài tha thướt lượn bay, cặp ôm ngang ngực thong thả đi trên con đường mòn đất đỏ ngoằn ngoèo uốn lên uốn xuống ở đồi thông im mát.

Đà Lạt xưa có những công tư chức ngày xưa cao sang chuyên mặc áo da, áo len đan tay đắt tiền, hoặc mặc bộ veston đen tối tân, sơ mi trắng nõn lủng lẳng cà vạt màu, chiếc quần tây thẳng nếp li và đôi giày thời trang... Đâu rồi những anh lính Nhảy Dù mũ đỏ, những anh Hải-quân với bộ quần áo trắng cao sang. Những anh Biệt Động-quân mũ nâu, Thiết giáp, Thủy-quân Lục chiến, Pháo-binh, Bộ-binh oai dũng... trong những lần họ nghỉ phép, đã ghé tạt về thăm Đà Lạt? Những anh phi công bay bướm lả lướt phong trần ung dung bay lượn trên bầu trời Lâm Viên bãng lãng dáng chiều thênh thang. Họ đi đâu mất hết rồi trên thành phố huyền thoại ngày nào!?

Không gian Đà Thành phai dáng thu bàng bạc bây giờ lạnh tanh. Họ hàng thân quyến, những bạn thời sinh viên, hoặc bạn cùng dạy học với tôi, giờ đây họ lưu lạc phương nao xa hun hút, tôi đã mất tầm nhìn, có thể biền biệt chân trời xa thẳm, xa mất đất rồi chăng?! “Lối cũ ta về dường như nhỏ lại. Trời xanh xanh mãi một màu ấu thơ. Lối cũ ta về, vườn xưa có còn. Hoàng hôn buông xuống thoảng hương ngọc lan. Dù gió có trút lá úa xuống vườn chiều. Bước chân ai đem lang thang về cô liêu. Chốn xa xôi kia mang bao kỷ niệm cũ. Em đã quên hay là vẫn mang theo. Dù cho bên anh nay em không còn nữa. Biết chăng trong con tim anh luôn hằng nhớ. Người yêu ơi nay em đã bỏ anh đi. Sao em nỡ bỏ anh đi mãi…"

oOo

Ngày nay đàn ông Đà Thành thay bộ cánh khác đang đổ xô ra đường kiếm sống, chụp giựt bằng “lao động là vinh quang” một nghề mới toanh thoạt nghe thiệt “kêu, và lạ” : “làm người thồ”, nghề đi vá xe đạp, gánh thuê, vác mướn: Áo quần họ mặc hầu hết tơi tả, cũ mèm, ố vàng, nhàu nát. Mỗi người bạn trai đồng môn của tôi đều có một cây đòn gánh, hai chùm dây dừa cột chặt ở hai đầu gánh. Hành khách chưa kịp xuống xe đò chật như nêm, là lập tức những người đàn ông gánh thuê bu đông đen nơi thành cửa xe, họ kêu mời khách lạ. Mặc cả kỳ kèo giá tiền thuê vác xong, hành khách đi bộ về nhà, người thuê kẽo kẹt quang gánh nặng gồnh mình gánh trên vai gầy, họ im lặng chịu đựng cúi đầu rảo bước.

Toàn người đi bộ là đi bộ. Cả thành phố lác đác chỉ có một vài chiếc xe đò cọc cạch, xe chạy giới hạn từ Thị-xã Đà Lạt đi các nơi. Ở Đà Lạt là nơi nhiều đèo núi, nên ít người mua sắm xe đạp. Ai có xe đạp là chỉ có nước “làm tôi mọi” cho vật. Người ta cỡi lên xe đạp thì ít, mà vác nó lên trên lưng leo dốc cao thì nhiều. Thế nên hồi trước đa số công tư chức ai có tiền chỉ mua xe hơi, honda. Bây giờ trạm xăng không bán một giọt, thì xe với cộ, honda hôn điếc chi cũng bù trớt, nằm ù lì một đống như đống sắt vụn. Chỉ có lèo tèo mấy xe đạp làm xe thồ ọp ẹp, hoặc những “tay cua-rơ” có chiếc xe đạp loại thường thường dùng tập dượt, hầu mong tranh tài trong các chương trình thi đua thể thao toàn quốc trước kia, nay làm xe thồ.

Khu phố Hoà Bình ngày xưa nhộn nhịp, đông vui, sang trọng là thế! Nay tiệm nào cũng cửa đóng then cài im lìm. Hàng hoá đồ đạc thu dọn đâu hết. Sạch bách. Trơ lại những nhúm người ngồi trên vĩa hè, mặt mày lơ láo, họ rù rì to nhỏ, dáo dác nhìn ngược ngó xuôi, mắt mất thần. Họ tụm năm tụm ba ở góc nầy góc kia, dáo dác len lén bày bán những món đồ cũ, đơn sơ và khiêm nhường thấy tội. Đàn bà con “gái... theo thơ Lệ Khánh: "Gái Đà Lạt trời sinh đều đẹp cả”, nay một số qúy bà mặc quần áo lôi thôi lốc thốc, nghèo nàn, họ xuống đường tần tảo bán bưng thúng mẹc bên lề. Họ ngồi bệt trên những bậc tam cấp bán bòn những củ cà rốt, khoai lang, rau rợ bầm dập. Vài ba bà cải nhau om tỏi, chỉ vì những con cá ươn sình vương vãi ra trên vệt nức bên vệ đường. Ngẩn ngơ ngồi xuống mé đường lựa những trái hồng trong mẹt. Tôi nghe bạn hàng xầm xì:

Bà con toàn thể xã ta
Ðồng tâm phấn khởi trồng cà dái dê
Dái dê to mập dài ghê
Năm sau ta cứ dái dê ta trồng (2)

- Mèn ơi! Con tao bệnh, không có tiền mua thuốc uống. Ở đó mà mua phân, mua giống để trồng cà dái dê. Rồi nuôi heo, nuôi gà, tăng gia sản xuất cái nỗi gì! Nhà nước bắt mẹ con tao bưng máy đan của mình, dô trong hợp tác xã đan áo len gởi đi Liên Xô ráo trọi. Cái gì của mình là của “liên bang Xô Viết” mà mầy. Nếu mầy không có máy đan, thì tới đó dùng hai que tre, que gỗ mà đan. Rồi mầy coi, cái tập thể ni lọt dô túi bọn đó mất tiêu. Bọn mình chẳng còn con khỉ khô gì ráo trọi á. Chỉ còn trợn trắng con mắt, cúi đầu và hai bàn tay cầm que đan đan, đâm đâm, thọt thọt... Nghe.
- Thỉnh thoảng trên hợp tác xã đan móc may mặc có phân phối chút thịt heo bụng, ba chỉ, hoặc cẵng chân, đầu cánh gà mà?
- Xời. Đi gánh phân heo để tưới rau ăn, thì có. Bởi vậy nên người ta thèm thịt, nhỏ từng cục nước miếng, thì phải đi ăn trộm, ăn cắp biết nhiêu mà kể xiết, mất cắp ở trong mấy cửa hàng bách hoá như rươi. Của chung mà mầy. Ở nhà dân cũng bị cắp, trộm.
- Mầy hổng thấy sao ke! Con chó nhà tao năm nào ú nù, ú nần, tướng mập mạp đi hổng nỗi. Nay nó ốm tong ốm teo, lông lá rụng xơ xác, đầy ghẻ chóc, rụng hết răng, cũng bị bọn trộm rinh dìa làm thịt mất toi rồi. Mất chó giữ nhà, riết rồi cả xóm không còn chó sủa. Thế nên ai có chút của cải, cũng bay mất toi theo thằng ăn trộm hết. Đảng có mù, đảng cũng thấy chớ.
- Coi chừng nghe mầy. Nói tào lao, tai vách mạch rừng á.
- Bởi dậy... mới có chiện cán bộ lùng bắt người và chó. Người trộm cắp thì cho dô tù. Chó thì cho dô nồi bự. Trời quơi! Nước non chi lạ, dưới dân mất chó, mất heo gà. Trên nhiễu sinh ra đủ thứ chiện cướp cạn tham nhũng, hổng biết sao ta?
- Đừng chọc quê, tao không phải là đứa “cần câu nhân dân”. Mầy đừng lo.
- Ha ha! Tao không có tội mà trở thành có tội, vì cái miệng bép xép. Đời nay có nhiều loại công an nhân dân làm cần câu, đó nghe.
- Trời! Nói cái gì tầm bậy tầm bạ dị hợm vậy. Mầy! Dân cũng nghèo rớt mồng tơi như công an công yết. Chắc có lẽ ai làm “công an nhân dân” thì có đặc biệt nhiều tiền hơn hỉ?!
- Mẹ ui! Nếu được nhiều tiền thì công an nhân dân đâu mặc quần áo có mấy miếng ti vi to tổ chảng đắp trên đầu gối hỉ!
- "Kiểu tân thời" á mầy.

Tôi nhóm chân len lén nhìn qua khu vườn cũ. Hồi ấy tôi đã trồng nhiều hàng hoa hồng rực rỡ màu sắc thành hàng lối thẳng tưng. Những vòm cây ăn quả thắm đẵm sương đêm mọng hạt nước lung linh trên ngọn lá rung rinh. Ngôi nhà thân yêu nầy do tự sức cần lao của ba mẹ làm lụng vất vã. Và, của chính tôi khi chưa lập gia đình đã bán phổi dạy học, dành dụm mà có ngôi biệt thự Mimosa tươm tất. Qua hàng rào gạch thưa, cổng sắt đóng kín cửa có tấm bảng đề “coi chừng chó dữ”.

Đang ngơ ngáo len lén nhìn quanh, thì tôi giật nẩy người khi con chó Bìm Bìm tru hú từng tiếng rít từng cơn trong cổ. Nó mừng như điên cong đuôi chạy lui chạy tới ngoắt lia lịa. Nó chạy mấy vòng trong sân, bỗng chốc chồm hẳn hai chân trước lên ngực tôi, nó quay quắt mừng rỡ, cuống quít khi gặp lại chủ cũ. Nó thò mỏ qua khe rào gạch, cố tìm cách liếm liếm bàn tay tôi. Ngày di tản, tôi không thể mang con chó theo, nên tôi đã cho bác Tân hàng xóm nuôi, (nhà tôi sát vách tường nhà bác, chung một hàng rào xây bằng gạch song thưa). Tôi lòn tay qua song cửa cổng sắt xoa đầu nó hoài. Lúc đó, nó mới chịu đứng yên giây lát, nó rên ư ử đuôi vẫn ngoắt lia lịa. Bác Tân nghe tiếng chó sủa vang đã đi ra sân. Bác càng mừng rỡ chạy tới mở cửa cổng, bác đon đả rối rít chào hỏi tôi. Con Bìm Bìm lanh lẹ chui qua khe hở giữa hai nhà, nó cuộn tròn dưới thềm gạch, mỏ gác lên chân tôi. Mắt nó liếc qua liếc lại, hai tai vểnh lên nghe ngóng. Con chó mà thật có tình nghĩa! Ngoài những đau đớn, hụt hẫng, ngậm ngùi đáng hổ thẹn, nay tôi không còn gì! Thật chẳng còn gì để cho con vật, dù chỉ là một củ khoai tẻo teo!

Có gì đâu. Còn gì đâu nữa! Từ trên đỉnh bình yên an vui ngày hai buổi đi dạy học, nay tôi đã hụp xuống vực thẳm giữa cơn xoáy đục ngầu đen bạc. Hy vọng vỡ tan trong mối thất vọng chua cay, tổn thất dập dồn do thương tổn tình đời để lại. Tôi lặng lẽ ưu phiền ngồi điếng lặng hằng giờ trong góc tối cô đơn, suy nghĩ hết cách mong tìm kế sinh nhai. Tôi giống con chó hoang trốn vào hang hốc, mòn mỏi liếm vết thương mình. Kể từ ngày “đổi đời”, sự sống của gia đình tôi kể như "vong gia thất thổ nổi trôi theo dòng đời chảy xiết". Cuộc cách mạng 75 đã đẩy bật chúng tôi ra khỏi thành phố Đà Lạt. Xa những núi đồi thân yêu, vắng những thác nước suối nguồn mộng mơ. Tôi không còn thấy những hàng hoa anh đào thắm sắc ôm bóng dưới mặt hồ loáng bạc như tráng men.

Nhất là chẳng thể lặng yên vui vẻ nhìn những cụm mây ngà, hồng thắm bồng bềnh bay bay. Mỗi độ hoàng hôn mây óng vàng mịn mượt e ấp rủ nhau về quỳ gối bên ao hồ soi bóng. Chao! Gia đình tôi lâm vào ngỏ cụt không lối thoát, mà số phận tàn nhẫn nghiệt ngã vẫn bám riết lấy chúng tôi. Dù bằng sự can đảm phi thường mẹ trẻ con thơ dắt díu nhau chạy về Sài Gòn, cố gắng "tái thiết" cuộc đời sống lây lất thấp hèn đến độ thê lương trong trại gia binh bỏ hoang. Danh dự vẫn còn, tôi sống thanh liêm và dùng hai bàn tay không cầm ngòi viết, mà dùng làm “cây chĩa ngũ đoản thập toàn”, để tự bới móc tìm cái ăn ngoài xó xỉnh ruộng đồng!

Tôi nâng mình lên cao hơn mặt đất xí xi, hầu hòa đồng cùng những người cùng khổ không manh áo cơ hàn khác. Chúng tôi rất nghèo, đói rách tả tơi thấy thảm thiết lắm. Chính những tháng ngày âm thầm đi trong vũng tối, từ những con đường đất đen đen lên nông trường Lê Minh Xuân không đèn soi, không trăng tỏ, tôi mới có đủ thời gian suy tư kiểm nghiệm những thăng trầm chồng chất muôn vàn đắng cay đời mình dâng cao ngút. Chồng bị “đi tù cải tạo”. Các con lây lất lang thang tả tơi áo quần ngắn củn sờn rách, co ro trên vĩa hè phố Sài Gòn.

Những đứa con của tôi và tuổi thơ vô tội tự bươn bả moi móc mọi thứ để kiếm sống, con đói khát ngủ chập chờn bên hóc tối (để cho bầy con kẻ khác mặc nhiên tới chiếm ngự ngôi nhà đồ sộ của mình, họ thô thiển vui đùa dưới hàng hiên ở ngay nhà của chúng tôi đây). Tôi không hận, không nghe thấy gì, chẳng còn chút sinh khí nào ngoài nỗi điếng lặng lo sợ cồn cào đói khát, đau ốm đang dày vò ruột gan tôi và các con. Nỗi lo sợ bà nội, mẹ con bị bệnh đau, ghẻ chóc, truyền nhiễm dâng đầy ắp, mà không có tiền thuốc men- Hơn là tôi sợ hãi bất cứ thứ mất mác vật chất gì.

Lòng tôi chao đảo vì chiến tranh tương tàn, đùng đùng nổi giận vì những mất mác vô cớ, mà các con thơ mẹ già vợ yếu bỗng dưng vô tình cúi đầu gánh chịu, như tai ách mạch đời ở đâu trút ào ào xuống đầu mình. Trách nhiệm từ ai? Tại sao? Bởi vì đâu? Vì những “dày vò” của ông bà cố tổ mẹ cha chú bác? của những người có trọng trách giữ nước, giữ quê? hay là do trầm thống điêu linh tổ quốc suy tàn, chẳng còn, nên con cháu họ đã ra nông nỗi, làm bàng hoàng sụp đổ cả một chính phủ trong tích tắc thời gian!?

oOo

Tôi cúi đầu uất nghẹn! Đà Lạt diễm kiều quyến rũ một thuở nên thơ tràn lan thi vị, nay không còn là thành phố duyên dáng, hữu tình nữa rồi. Đâu rồi tiếng thông reo vi vu thì thầm cùng gió, sương rung rinh nhè nhẹ thở hơi mát, phả vào không gian bảng lảng dáng thu bàng bạc trên thành phố lạnh lẽo! Tôi đi giữa hai hàng cây anh đào trơ trụi, vài chiếc lá úa lững lờ chao lượn dưới làn sương mỏng là là bay, cuốn theo những hạt mưa bóng mây ẩm lạnh trong không gian ngút ngàn buốt tê. Dường như tôi cảm thấy ngu ngơ, lơ láo nhìn ngó, băn khoăn, thổn thức đớn đau dày vò và cảm thấy thất vọng kỳ lạ. Không tài nào nhấc bước chân lên khỏi mặt đường lồi lõm, tôi cứ đứng lì ở một góc phố như trời trồng, mà mất hồn mất vía. Tôi cảm thấy mình bị lún dần, lún dần vào cõi lạ. Dường như có ai ở dưới vũng bùn sình nặng nề đang giơ tay kéo lôi giật, tôi trì trệ hụp xuống cùng.

Đôi mắt tôi có hai ngấn nước lặng lờ hơi sương, mờ nhoà, mờ hẳn... giọt sương lăn tăn li ti hòa quyện cùng giọt nước mắt xót xa đã chảy xuống hai gò má. Thành phố của tôi ngày xưa ôi là xinh lịch vui tươi, truyền cảm, quyến rũ, thơ mộng là thế. Giờ đây sao quá ngao ngán buồn!? Trước mắt tôi, hiện tại với khoảng trống băng giá, cùng gánh nặng gia đình quầng siết lấy đôi vai gầy đang còng xuống những cố gắng vĩ đại, ngỏ hầu chới với quơ bàn tay gầy cố vươn lên, thấp thỏm giành lại cho mình một tí, dù một tí thôi những gì đã mất. Tôi ngồi bên lề phố Hoà Bình ngửa mặt lên trời mà khóc, mà cười, cười khẩy, vì không sao hiểu nỗi “đời”! Tâm hồn tôi hằn lên vết rạn nứt đau xót khôn tả xiết, xếp lớp lăn tăn bềnh bồng lâng lâng giữa trạng thái nửa tỉnh nửa mê theo sóng đời cơ cực. Gia đình tôi đã lầm than khốn cùng tụt xuống dưới tận đáy xã hội phù phiếm mất rồi.

Đà Lạt xa xưa tự thuở hồng hoang xinh lịch thơ mộng êm mơ là thế, rồi... có một “thời gian điêu đứng vật vã” nên quê tôi đã nghèo nàn và ê chề cũng kinh khiếp đến thế. Nhưng rồi… càng bàng hoàng thảng thốt thay khi Đà Lạt của tôi hôm nay (2016) đã biến mất các rừng thông xanh thẳm, những con suối uốn lượn quanh co dọc triền núi và thác nguồn ngày xưa hoang dã, tự nhiên và thơ mộng êm đềm, thì nay “sinh chứng dị hình xây dựng” những kiểu cách “gán ghép bắt râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Những nhà cao ốc chen chúc, chi chít chen lấn cùng những nhà bần nông lụp xụp (vì các "dịch vụ, nhu cầu sinh kế khẩn thiết" cần "triệt để khai thác" cho ngành du lịch phồn thịnh!!!); nên đâu đâu cũng "tự chế" ra phòng trọ, "mô teo, hô teo..." nườm nượp mọc lên, "lâu đài nguy nga" trên đồi trọc không còn tiếng thông reo vi vu… triền miên (vì chẳng còn cây cối nào có thể sống) không theo quy trình kiến thiết đô thị, thì Đà Lạt bây giờ vụng về và nóng ơi là nóng! Đà Lạt lộn xộn trơ trẽn như bộ mặt của con mèo vá.

Ôi Đà Lạt của tôi… không còn sinh khí hồn nhiên của mạch rừng hoang dại, dường như Đà Lạt nghẹt thở do những nét chấm phá từ bao ngôi nhà nhấp nhô to nhỏ giống "nấm men, nấm hương, nấm mốc, nấm rơm, nấm chó nấm mèo” trên bức tranh thiên nhiên đã loang lổ. Đã thế, số người tôi vừa gặp : thanh niên thiếu nữ trai trẻ, cụ già em bé ngày nay ra đường đều ồn ào, náo nhiệt chen lấn và nói năng cười đùa tự do như chỗ không người, "vui vẻ thái mái; tự nhiên như... người Hà Nội!". Thì quê tôi chìm mất nét hấp dẫn trữ tình và trìu mến trong tim mình! Thế nên tôi đành bùi ngùi, xót xa tiếc ngẩn... và nghẹn ngào ngoảnh mặt quay bước không thể trở về lối cũ đường xưa…

Tình Hoài Hương

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

Giáng Sinh Vẫn Vui Vẻ
Nguyễn Thị Thanh Dương

Mỗi khi mùa Giáng Sinh về gia đình chị Bông đều đón mừng vui vẻ nhưng năm nay chị Bông vui nhiều hơn, nao nức nhiều hơn vì hai con sẽ trở về nhà..

Thằng lớn Chester tốt nghiệp đại học mới rời khỏi nhà vì nhận việc làm ở thành phố khác và thằng nhỏ Ben cũng vừa mới giã từ mái nhà cha mẹ vào ở dorm khi bắt đầu đại học ở Austin.

Căn nhà rộng hơn 3,000 Sqf.. bỗng trở nên trống trải khi chỉ còn hai vợ chồng mà hai vợ chồng lại làm hai ca khác nhau, anh Bông làm bưu điện đi làm từ sáng sớm còn chị Bông làm hãng xưởng ca hai khuya chị về thì anh đã đi ngủ, chỉ có cuối tuần hai vợ chồng mới ?xum họp? đầy đủ.

Trẻ con mỗi đứa một tính đôi khi cha mẹ cũng phải chiều theo ý con một khi nó không đi theo ý mình,.Ben tốt nghiệp trung học loại giỏi được học bổng trường UTA gần nhà chỉ mười phút lái xe nhưng nó thích đại học ở Austin dù học bổng cho ít hơn, tiền ở dorm và ăn uống lại là một món tiền chi phí lớn, hết khoảng 26,000 đồng một năm chưa kể công bố mẹ sẽ lại rong ruỗi từ thành phố Arlington đến Austin thăm con trong suốt 4 năm đại học như thằng anh nó hồi học ở thành phố Houston.

Thăm con bao nhiêu dặm đường xa cả lượt đi lẫn lượt về thì chiếc xe mới sẽ lên miles đủ tiêu chuẩn của Mỹ để liệt vào hàng đồ cũ

Cha mẹ nào cũng đầu tư cả tiền bạc lẫn tình yêu thương cho các con ăn học vậy mà khi con học xong đi làm có biếu cha mẹ chút tiền chút qùa cha mẹ cảm động và hãnh diện làm như con vừa cho mình món qùa lớn lao lắm từ trong túi tiền của nó.

Giáng Sinh năm nay nhất định sẽ là một Giáng Sinh vui vẻ khi lần đầu tiên các con xa nhà và trở về vào dịp lễ lạc này.

Cây Giáng Sinh màu xanh tươi đặt nơi phòng khách gần lò sưởi đã được treo đèn đủ màu sắc xanh đỏ tím vàng, lấp lánh những sợi dây kim tuyến như những hoa tuyết mùa đông bên cạnh dòng chữ ?Merry Christmas? cũng đủ thấy niềm vui rạo rực tràn ngập trong nhà.

Chị Bông đã chuẩn bị một tiệc Christmas Eve thật lộng lẫy, đặc biệt chị sẽ làm món ham với cam với dứa bỏ vào lò nướng theo lời chỉ dẫn của một cô bạn Mỹ làm chung hãng, miếng thịt ham sẽ thêm thơm phức ngọt ngào vì hai hương vị trái cây ấy.

Chị cũng không quên mua món caramel bắp rang và fruitcake, là những món Ben và Chester ưa thích từ thuở ấu thơ đến giờ nên mỗi cuối năm khi thấy ngoài chợ bày 2 món này ra là lòng chị Bông lại nao nao thương nhớ các con, chỉ muốn mua ngay về cho các con vui thích.

Ben đã nghỉ mùa Ðông và về nhà từ ngày16 tháng mười hai cho tới ngày 19 tháng một mới trở lại trường, để gần gũi con trong những ngày này chị Bông đã lấy vacation kết hợp với những ngày nghỉ lễ ở nhà với con.

Chị Bông đang loay hoay treo lại những tấm thiệp treo trên cành cây giáng sinh thì có tiếng chuông cửa reo, Ben hình như đang chờ đợi sẵn nó từ trong phòng computer chạy bay ra:

- Mẹ để con mở cửa, người này của con.

Không lẽ thằng Ben18 tuổi của chị đã có?bồ? chị Bông ngạc nhiện:

- Con nhỏ nào vậy?

- Con không biết.

- Nhưng con biết họ đến đây mà

- Phải, họ đến trao cho con học bổng?

- Con nói gì vậy? mẹ không hiểủ

Ben không kịp giải thích gì thêm, từ ngữ của hai mẹ con đều giới hạn khi nói chuyện với nhau, chị Bông không thể nói nhiều tiếng Anh, Ben không biết nói rành rẽ tiếng Việt, nhưng nó nghe và hiểu tiếng Việt..

Ben vui vẻ chào đón hai người khách lạ vào nhà trong khi chị Bông bàng hoàng lo ngại. Họ là hai thanh niên trẻ, chẳng biết quốc tịch gì mà cả hai đều đen thui, anh chàng cao lớn thì tóc xoăn xòe tròn như cái ổ chim trên đầu, đã thế anh ta còn để bộ râu quai nón ai trông mà không khiếp, anh chàng thấp hơn tuy đeo kính cận nhưng vẫn không làm anh ta trình độ lịch lãm tí nào, hình nhửvẫn có nét gian ác?..

Chị Bông đoán họ không phải là dân mỹ đen ở Mỹ từ đời ông cố ông sơ mà là dân Châu Phi mới định cư sau này. Thật sự họ là ai? đến gặp Ben với mục đích gì?

Nhìn kỹ hai thanh niên da đen chị Bông càng thêm lo sợ, thằng Ben nhà chị học giỏi, nó từng xin được vài học bổng lớn nhỏ, tất cả đều liên lạc giấy tờ thư từ qua bưu điện hay email làm gì có món học bổng nào mà cá nhân đến tận nhà trao tận tay thế này?

Chị xực nhớ đến những tin tức trên ti vi báo chí Việt Nam khuyên hãy cảnh giác với bao trò gian lận lừa đảo trong dịp lễ tết này.

Hai thằng kia đang mang cái ?học bổng mả đến để lừa thằng Ben nhà chị mục đích là chúng vừa trò chuyện vừa ngắm nghía cửa nẻo trong nhà để ra tay uy hiếp khống chế chủ nhà cướp bóc tiền bạc chăng ??. Xưa nay bọn xấu đều biết gia đình Việt Nam nào cũng có sẵn nhiều tiền mặt hay nữ trang trong nhà.

Càng nghĩ chị Bông càng lo sợ, anh Bông thì đã đi làm, chị không thể ngồi yên trước tình hình này nên vội bốc phone gọi cho bà chị chồng ở gần đây để cầu cứu, giọng chị Bông nói không ra hơi:

- Chị ơi, đến nhà em gấp?..gấp?

Bà chị chồng chuyện gì cũng muốn có đầu có đuôi:

- Nhưng em hãy kể chị vấn đề gì chứ?

Chị Bông bối rối diễn tả:

- Chị ôi, hình như nhà em?sắp có cướp ! nhà em đang có hai người lạ, họ là Mỹ đen, chắc có ý đồ?đen tối gì đó?em đang?canh chừng họ, chị đến ngay với em. Có nhiều người chúng sẽ không dám ra tay.

Nói xong chị Bông cúp phone không cho bà chị chồng hỏi thêm nữa. Bà ấy tỉ mỉ hỏi chưa xong chuyện thì tại họa đã đến rồi.

Thế là chỉ vài phút sau bà chị chồng đã sồng sộc đến bấm chuông cửa, vừa thấy chị Bông mở cửa chị chồng đã than:

- Chị vội đi đến nỗi không kịp khoác cái áo lạnh lên người. Chúng nó đâu rồi?

- Suỵt, chị đừng là ầm ĩ kẻo chúng phản ứng ngay mình trở tay không kịp?

Chị chồng hạ giọng nói nhỏ:

- Ừ, chị biết rồi, phen này hai chị em mình sẽ làm chủ tình hình với bọn gian kẻ xấu..

Chị chồng nói thế cho oai, khi vào nhà liếc nhìn hai người khách lạ đang rôm rã nói chuyện với thằng Ben chị chồng cũng thấỷhoảng vía, líu ríu bước vào trong, chị Bông kéo chị chồng đi ra phía cửa bếp thì thầm dù chắc gì hai người khách kia biết tiếng Việt Nam:

- Chúng ta đứng đây nói chuyện và canh chừng họ có bề gì dễ tẩu thoát, em có sẵn cell phone đây, nó mà có hành động gì khác thường thì em sẽ mở cửa chạy bay ra vườn và gọi 911 ngay lập tức.

- Chị cũng có cell phone đây, nếu em ?có bị nó khống chế thì còn chị, chị cũng?chạy bay ra vườn gọi 911 luôn.?

- Bởi vậy có chị em yên tâm hơn dù gì phe ta 3 người phe nó chỉ có 2 người.

Chị chồng thắc mắc:

- Bây giờ em hãy kể chị nghe vì sao thằng Ben biết tụi nó?..

- Thằng Ben lúc nãy chỉ kịp nói với em đây là hai người đến trao cho nó học bổng. Em cứ thắc mắc nãy giờ học bổng gì? sao lại có chuyện đến nhà trao học bổng chứ?

Bà chị chồng hùa theo:

- Chuyện gì cũng phải có giấy tờ văn thư đàng hoàng..Ðúng là phường lừa đảo, năm hết tết đến chúng lợi dụng lúc thiên hạ vui đón ngày lễ mà ra tay đây

Hai chị em nói chuyện mà mắt vẫn không ngớt liếc về phía phòng khách. Chợt anh chàng tóc quăn đứng dậy, chị Bông tim đập thình thịch định tông cửa sau ra ngoài để móc phone gọi 911 nếu thằng Ben không cùng đứng dậy với khách, nó nói với mẹ:

- Anh ấy muốn vào restroom

Ben dẫn anh ta vào một restroom và tiếp tục câu chuyện với người còn lại, vài phút sau anh tóc quăn ra ngoài. Họ vẫn nói chuyện bình thường vui vẻ mặc cho hai người phụ nữ đang sôi sục đề cao cảnh giác với họ?

Vài phút sau thì hai người khách đứng dậy ra về, chị Bông và bà chị chồng cùng chạy đến vờ tiễn khách để nhận dạng họ kỹ hơn có gì còn khai báo với cảnh sát.

Thằng Ben không hiểu nỗi lo sợ của mẹ và bác, khi khách về rồi nó chìa tờ check ra khoe:

- Họ đến trao con học bổng này, là 750 đồng cho năm nay.

Chị Bông cầm tờ cashier check mệnh gía 750 đồng từ nhà băng Chase, nhưng chị dửng dưng:

- Chắc gì có tiền.!

Bà chị chồng cũng cầm tờ check lên ngắm nghía và lạnh lùng nghi ngờ:

- Check gỉa đấy. Bọn lừa đảo còn làm được tiền dollar gỉa nữa kìa. Chắc chúng thấy nhà mình 3 người nên không dám hành động..

Ben ngạc nhiên trước thái độ của mẹ và bác nó:

- Mẹ và bác đang nói gì?

- Mẹ nói cái check này không là thật?bác nói chúng ta đang bị lừa đảo.

Ben bất bình ra mặt:

- Không, không?mẹ và bác không được nghĩ xấu cho họ, đây là real cashier check, không tin chúng ta ra nhà băng ngay bây giờ...

Bác nó phán:

- Ra nhà băng làm gì cho tốn công, tốn xăng.

Chị Bông than:

- Lại còn bị quê nữa chứ.

Ben chạy vào phòng computer lấy ra cái laptop, nó mở ngay ra một trang web và đưa đến gần hai người phụ nữ:

- Con sẽ chứng minh cho mẹ và bác mà không cần ra nhà băng, mẹ và bác đều đọc được tiếng Anh mà?

- Dĩ nhiên, bác còn nhận xét được trang web này giả hay thật nữa đấy..

- Ừ, đọc thì đọc, mẹ và bác sẽ vạch trần sự thật đen tối ra, con khờ lắm, không biết được trò đời đâu.

Hai người phụ nữ cùng tò mò xúm đầu vào đọc trang web theo tay Ben chỉ cố tìm ra bất cứ điều gì sai trái.

Thì ra đây là một foundation nhỏ do hai cá nhân lập ra, foundation của hai người mang tên họ Ấn Ðộ, họ là cựu học sinh của trường trung học Sam tại thành phố Arlington nơi Ben đã học.

Họ đã tốt nghiệp đại học và đi làm, mỗi năm họ đóng góp tiền để thưởng cho một em học sinh giỏi môn toán của trường khích lệ đàn em..

Những năm trước món tiền thưởng là 500 đồng, năm nay họ tăng lên 750 đồng,

Ben lấy tờ check ra và chỉ vào dòng chữ trên trang web:

- Bác và mẹ xem, người ký tên dưới tờ check chính là tên người sáng lập ra foundation này.

Hai người phụ nữ cùng thở phào nhẹ nhỏm và vui mừng. Chị Bông trách con:

- Sao con không kể cho mẹ nghe trước khi họ đến đây làm mẹ sợ qúa trời luôn, mẹ phải gọi bác sang hỗ trợ?..

- Con xin lỗi đã quên chưa kể với mẹ, trước khi họ đến con cũng không biết màu da của họ. Nếu họ không là màu da đen tối thì chắc mẹ không sợ hãi đến thế, phải không?. Họ là người Ấn Ðộ, một anh có bằng PH. D và một anh là kỹ sư, họ đều thành công trong nghề nghiệp. Ông thày dạy môn toán trường trung học của con năm vừa qua đã đề cử con với foundation này.

- Nhưng sao họ lại tử tế mang check đến tận nhà cho con, bởi thế mẹ mớỉhoang mang lo lắng..

- Vì họ liên lạc với con qúa trễ, không thể để qua năm mới nên họ đến nhà.khi biết con đang có mặt ở nhà, ở thành phố Arlington này, nơi họ cũng đang sinh sống và làm việc..

Chị Bông ân hận :

- Vậy mà mẹ đã nghĩ lầm cho người ta. Không biết lúc nãy mẹ mang nước ra mời khách, vẻ mặt lạnh và nặng nề như đá tảng của mẹ họ có nhận thấy không?

Ben kể:

- Hi vọng là họ không để ý. Họ hỏi thăm con về bố mẹ, họ khen cha mẹ người Việt Nam chăm sóc con cái giỏi lắm?

Chị Bông cảm động và ngượng ngùng không biết nói gì với con, lúc nãy lòng chị lo sợ và ghét khách bao nhiêu bây giờ lòng chị ân hận và thương khách bấy nhiêu. Bà chị chồng chắc cũng cùng tâm trạng:

- Chúng ta thật nông cạn và xớn xác, hai anh chàng này gốc Ấn Ðộ thuần chủng nên đen thủi đen thui. Chúng ta chỉ qua màu da mà thành kiến với họ, chúng ta chê người khác kỳ thị trong khi chính chúng ta kỳ thị . Tóm lại không nên đánh gía người khác qua bề ngoàỉ

Chị Bông ví von thực tế :

- Trái mít trái sầu riêng sù sì và gai nhọn mà múi bên trong thì thơm ngon đó?

Bà chị chồng khen ngợi:

-. Hai anh chàng trẻ tuổi này có tấm lòng, dù món tiền nhỏ nhoi nhưng ý nghĩa lớn lao. Thật đáng mến.

Chị Bông trách:

- Phải chi lúc nãy chị hiểu ra điều này, nói ra điều này thì em yên tâm biết bao, em lo sợ một, chị đến làm em lo sợ ?gấp mười lần vì chị còn bi quan và giàu tưởng tượng hơn em nữạlàm em nghĩ ra ngay một mùa Giáng Sinh?hoạn nạn, tiêu điều và thậm chí?đổ máu..

Bà chị chồng bào chữa:.

- Tạỉ bây giờ chị mới suy luận ra.. May qúa ngày Giáng Sinh vẫn vui vẻ với chúng ta

Chị Bông tươi vui nét mặt:

- Ðúng thế, một Giáng Sinh vui vẻ vì thằng Ben học giỏi từ trung học, nay lên đại học những tháng vừa qua nó đều đạt điểm cao..

- Chẳng mấy chốc mà 4 năm đại học sẽ qua đi thằng Ben sẽ ra trường và có việc làm như anh nó.

Chị Bông vui lắm nhưng cũng khiêm nhường:

- Chị chỉ khen các cháu chị chẳng khác nào mèo khen mèo dài đuôi

Chị Bông quay ra nói với Ben:

- Con ơi, con mời hai anh hồi nãy đến nhà mình được không?

Ben ngây thơ:

- Mẹ và bác vẫn chưa tin những gì con đã nói sao? Mẹ muốn kiểm tra họ lần nữa sao?

Chị Bông vui vẻ:

- Ý mẹ muốn mời hai anh ấy vài ngày nữa đến nhà mình dự tiệc Christmas Eve, mẹ rất mong được tiếp họ tại nhà, lần này mặt mẹ sẽ tươi như hoa để gỡ gạc lại hình ảnh mẹ lạnh lùng hôm nay . Có họ ngày Giáng Sinh của chúng ta sẽ càng thêm vui vẻ, chưa có năm nào Giáng sinh vui vẻ như năm này

Ben lại ngây thơ:

- Vì nhà mình có món qùa 750 đồng hả mẹ? vậy lát nữa con sẽ đi ra băng cash tiền đưa cho mẹ nhé.

- Con ơi, vì mẹ đã học được bài học trong cuộc sống, không nên đánh giá ai qua hình dáng bên ngoài và vì con ngoan và học giỏi. Ðó mới thật sự là món quà đặc biệt và niềm vui cho mẹ trong mùa Giáng Sinh này.


( Kỷ niệm với Ben. một mùa Giáng Sinh vui)
Nguyễn Thị Thanh Dương

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

Cái mặt

Tiểu Tử
Con người có cái mặt là quan trọng nhứt.

Thật vậy, nếu lấy cái mặt bỏ đi, tất cả những gì còn lại trên thân thể sẽ không dùng vào đâu được hết và cũng không còn tồn tại được nữa. Không có mũi để thở, không có miệng để ăn… Con người không có cái mặt là kể như “tiêu tùng”!

Trước khi “đào sâu” cái mặt, xin mở dấu ngoặc ở đây để “vinh danh” tiếng Việt : phần lớn những gì nằm trên cái mặt đều bắt đầu bằng chữ “m”, trên thế giới chưa có thứ tiếng nào như vậy hết ! Đây, nhìn coi: trên mặt có mắt, mũi, miệng (mồm), má.

Ở “mắt” có mày, có mi, có mí mắt, rồi mắt mụp, mắt mọng nước, mắt mơ màng, mắt mơ mộng, mắt mờ, mắt mù… Qua tới “mũi”, ngoài “mùi ” ra không thấy chữ “m” nào khác dính vào. Có lẽ tại vì cái mũi nó… cứng khư, không… linh hoạt.

Ấy vậy mà nó – cái mũi – và “chân mày” (cũng kém linh hoạt như cái mũi !) lại được đi kèm với cái mặt để… hỗ trợ cho tiếng “mặt”, trong từ ngữ thông thường: “mặt mũi”, “mặt mày”, làm như nếu nói “mặt” không, phát âm nghe… trơn lùi, nhẹ hều không lọt lỗ tai! Cho nên người ta nói “mặt mũi bơ phờ” , “mặt mày hốc hác”, chớ ít nghe “mặt bơ phờ, mặt hốc hác”.

Bây giờ tới “miệng”, thì có môi, có mép, rồi mồm mép, môi miếng, miệng méo, miệng móm, mím môi, mếu máo, mấp máy, bú mớm, mút mấp…

Đến “má” thì ngoài “mụt mụn” chỉ có “mi một cái” là còn thấy chữ “m” nhè nhẹ phất phơ… Tiếng Việt hay quá!

Trở về với cái mặt. Ông Trời, khi tạo ra con người, ban cho cái mặt là một ân huệ lớn. Nhờ có cái mặt mà con người nhận ra nhau, chồng nhận ra vợ, con nhận ra cha, biết ai là bạn ai là thù v.v… Thử tưởng tượng một ngày nào đó bỗng nhiên không ai còn cái mặt nữa. Nếu có sống được nhờ một sự nhiệm mầu nào đó, thử hỏi con người lấy gì để nhận diện nhau?

Chồng vợ, cha con, bạn thù gì đều… xà ngầu. Vậy là loạn đứt!
Cho nên xưa nay, người ta coi trọng cái mặt lắm. Có người còn nói: “Thà chịu mất mạng chớ không bao giờ để cho mất mặt”!
Vì vậy, rủi có ai lỡ lời chạm tự ái một người nào thì người đó thấy bị… mất mặt, liền đưa một nắm tay lên hăm he: “Thằng đó, bộ nó giỡn mặt tao hả? Tao phải dằn mặt nó một lần cho nó biết mặt tao”.

Rồi, bởi vì cái mặt nó… nặng ký như vậy cho nên khi nói về một người nào, người ta chỉ nhắm ngay vào cái mặt của người đó để mà nói. Nếu ghét thì gọi “cái bản mặt” (Cái mặt mà như tấm bảng thì thiệt tình thấy chán quá! Thường nghe nói : “Cái bản mặt thằng đó tao coi hổng vô!”. Nếu hơi khinh miệt thì gọi “cái bộ mặt” ( “Thằng này có bộ mặt ăn cướp !” ).
Còn khi thương thì cái mặt trở thành “cái gương mặt”
( “Em có gương mặt đẹp như trăng rằm !” ).

Chưa hết ! Khi nổi giận muốn… hộc máu, người ta cũng chỉ nhắm vào cái mặt của đối thủ chớ không chỗ nào khác để “dộng một đạp” hay “cho một dao” hay “phơ một phát” hay…“tạt một lon ác-xít”! Bởi vậy, xưa nay những người có “nợ máu” lúc nào cũng sợ bị “nhìn mặt trả thù”, và hồi thời chống Pháp, những điềm chỉ viên đi nhìn mặt “quân phản loạn” đều lấy bao bố trùm đầu để giấu mặt!

Con người, khi nhìn người khác, lúc nào cũng bắt đầu ở cái mặt (Chỉ có người không… bình thường mới nhìn người khác
bắt đầu ở cái chân hay cái bụng hay cái lưng!) Ở đó - ở cái mặt – ngoài cái đẹp cái xấu ra, còn hiện lên “cái mặt bên trong” của con người. Các nhà văn gọi là “nét mặt”, nghe … trừu tượng nhưng suy cho kỹ nó rất đúng.

Bởi vì chỉ có cái mặt là... vẽ được cái nội tâm của con người thật đầy đủ. Cho nên mới có câu: “Xem mặt mà bắt hình dong” (hình dong ở đây là cái hình dong giấu kín bên trong con người). Cho nên, trên sòng bài, các con bạc thường “bắt gân mặt” nhau để đoán nước bài của đối thủ.

Cho nên mấy “giáo sư chiêm tinh gia” lúc nào cũng liếc sơ cái mặt của thân chủ trước khi nâng bàn tay lên xem chỉ tay, để... định mức coi “thằng cha này nó sẽ tin mấy phần trăm những gì mình nói ”! Thì ra, đời người không nằm trong lòng bàn tay như mấy “thầy” đó nói, mà nó nằm ngay trên nét mặt!

Cũng bởi vì cái mặt nó… phản động như vậy cho nên các “đỉnh cao trí tuệ của ta” đã nâng cao cảnh giác, ẩn mặt một cách... an toàn suốt giai đoạn đấu tranh “chìm” và chỉ “xuất đầu lộ diện” khi toàn dân đã vùng lên nổi dậy.Và các“đồng chí vĩ đại của ta”... thay tên đổi mặt lia chia để đánh lạc hướng kẻ địch, nay để râu mai thay tóc mốt cạo đầu v v …

Họ ôm khư khư cái mặt để... quản lý nó từng giây từng phút, chỉ sợ nó để lòi ra cái mặt thật nhét giấu ở bên trong, riết rồi nó xơ cứng như mặt bằng đất. Đến nỗi vào bàn hội nghị quốc tế, các đối tượng không làm sao “bắt gân mặt” để “đi” một nước bài cho ngoạn mục!

Ở đây, phải nói thêm cho rõ là cho dù trong nội bộ với nhau – nghĩa là giữa “ta” và “ta” - cái mặt vẫn bị quản lý y chang như vậy, bởi vì hành động đó đã biến thành “bản năng” từ khuya.

Vì vậy, đừng ngạc nhiên khi thấy, sau hội nghị, mới “ôm hôn nhau thắm thiết tình đồng chí” mà trên đường về lại khu bộ có cán bộ đã bị “bùm” hay bị “cho xe rơi xuống hố” một cách rất… bài bản, để lại niềm “vô cùng thương tiếc” nằm trên vòng hoa phúng điếu của người đã ra lịnh hạ thủ!

Có khi, chính “đồng chí” này là người thay mặt tập thể, đứng ra… rớt nước mắt đọc điếu văn! Ở đây, ông bà mình nói:“Phải muối mặt mới làm được như vậy”.Thật là chí lý! Cái mặt đã muối rồi thì đâu còn sợ… bị thúi hay bị sình! Ta cứ tỉnh bơ thôi!

Bởi cái mặt nó phản ảnh con người nên hát bội mới “dặm mặt” sao cho đúng với cái “vai”. Để khi bước ra sân khấu, khán giả nhận ra ngay “thằng trung, thằng nịnh, thằng hiền, thằng dữ”… v v. Ngoài đời không có ai dặm mặt, nhưng vẫn được người khác “nhận diện” là: thằng mặt gà mái, thằng mặt có cô hồn, thằng mặt… mẹt, mặt mâm, mặt thớt, mặt hãm tài, mặt đưa đám, mặt trù cha hại mẹ, mặt… mo … v v.

Sau tháng tư 1975, người dân miền Nam đã được Nhà Nước “vẽ lọ bôi hề” thành những khuôn mặt... không giống ai, để đóng vai “nhân dân làm chủ” trên sân khấu cách mạng, trong vở trường kịch “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”…

Trên sân khấu chánh trị Việt Nam bây giờ, trong cũng như ngoài nước, “đào kép” tuy không dặm mặt như nghệ sĩ hát bội nhưng mỗi người đều có “lận lưng” vài cái mặt nạ, để tùy hoàn cảnh, tùy đối tượng mà đeo lên cho người ta “thấy mình là ai” (dĩ nhiên không phải là cái mặt thật của mình.

Rồi cũng “phùng mang trợn mắt hát hò inh ỏi” một cách rất… tròn vai, làm “bà con đồng bào, đồng chí, đồng hương” cứ thấy như thiệt ! Điểm đặc biệt là ông nào bà nào cũng muốn thiên hạ chỉ nhìn thấy có “cái mặt của mình” trong đám bộ mặt đang múa may quay cuồng trên sân khấu.

Vì vậy, họ phải rán bơm cho cái mặt của mình to bằng... cái nia, để thấy họ mới đúng là...“đại diện”! Chẳng qua là họ muốn tạo thời cơ để kiếm cho cái… đít của họ một cái… ghế! Đến đây thì vở tuồng trên sân khấu đang chuyển sang lớp “gà nhà bôi mặt đá nhau” ... Cái mặt đã trở thành “một vấn đề”!

Để chấm dứt bài này, và để được yên thân, xin phép độc giả cho tôi “vác cái mặt của tôi đi chỗ khác”!

Tiểu Tử

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

SÁNG ĐÔI MẮT MÙ ! Con người cần điều gì ? - Cần đôi mắt sáng, cần có ánh sáng. Đôi mắt và ánh sáng như là phương tiện cho cuộc sống mỗi con người.


Dạo đó, khi cả miền Nam đang bấn loạn lên vì cuộc chiến tranh mấy mươi năm sắp đến hồi kết cuộc. Bắc quân hồ hởi tiến mau như chẻ tre. Nam quân rút bỏ, tan rã mau chóng. Những người không am hiểu tình hình chính trị quốc tế thì ngỡ ngàng, ngạc nhiên, không tin được về sự thực đang xảy ra trên đất nước nầy.

Dân miền Nam đua nhau bỏ chạy ra biển, chưa biết sẽ trôi nổi về đâu, cũng chưa biết sẽ đi nơi nào, làm gì mà sống, sống có được hay không. Không cần biết. Cứ chạy trốn đã. Những người nầy đã có một ít hiểu biết hoặc kinh nghiệm sống với cộng sản nên liều chết ra khơi. Mấy cụ già miền Nam vuốt râu nói: “Cộng sản cũng là người Việt Nam mình với nhau, việc chi mà sợ? Cọp nó còn chưa ăn con, huống hồ chi họ với mình cùng tổ tiên, cùng giòng giống. Miền Bắc hay miền Nam đều là anh em với nhau cả mà. Chạy đi đâu làm chi cho mệt.”.

Những người trong chính quyền miền Bắc chắc cũng không hiểu nổi tại sao nhân dân miền Nam sắp được “giải phóng”, sắp được sung sướng, sao mà lại bỏ chạy! E rằng, họ bị Mỹ Ngụy tuyên truyền đầu độc, nên dại dột dong thuyền ra khơi! Họ cho rằng, những người bỏ trốn họ, là loại chây lười, sợ lao động, sợ khổ.

Trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến tranh sắp tàn, bạn của Tâm hối hả đến tận nhà, lo lắng nói:

- Anh sửa soạn hai bộ áo quần. Đem theo một ít thức ăn khô, một chai nước. Tôi đã ghi danh cho anh được xuống xà lan ở Tân Cảng, và sẽ được kéo ra khơi hôm nay hoặc ngày mai.

Tâm trầm ngâm:

-Không đi đâu cả. Tôi sinh ra trên quê hương nầy, và sẽ sống và chết với quê hương.

- Anh chấp nhận sống với cộng sản?

- Anh chưa hiểu ý tôi. Nếu phải chọn tự do và cộng sản thì tôi sẽ chiến đấu để bảo vệ một chính thể tự do. Nhưng nếu phải chọn quê hương và một nơi vô định khác thì tôi chọn quê hương. Đất nước mình đã chịu chiến tranh tàn phá ba mươi năm nay, tan tác, đổ vỡ quá nhiều, bây giờ là lúc toàn dân cần góp tay xây dựng lại quê hương thân yêu của chúng ta. Tôi đã chuẩn bị tinh thần rồi. Chấp nhận đi tù vài ba năm. Nếu phải đi đập đá Trường Sơn thì đá đó cũng để xây dựng đường sá và nhà cửa cho quê hương nầy. Đi ra ngoài, dù có làm được gì thì cũng là làm cho người ta. Tôi chấp nhận mọi gian khổ để đổi lấy cuộc sống còn có quê hương.

Người bạn nhìn Tâm với ánh mắt u buồn:

- Tôi ước mong sao ý nghĩ của anh là đúng, và sau nầy không ân hận.

Tâm quả quyết:

- Tôi sẽ không bao giờ ân hận với chọn lựa nầy. Tôi chọn quê hương.

Nửa tháng sau ngày miền Bắc thắng trận, một ông chú của Tâm, là cán bộ có vai vế, từ Hà Nội vào tiếp thu Sài gòn, ông ghé lại nhà thăm. Ông nầy đã hăng hái tham gia cuộc kháng chiến từ thời khởi đầu năm 1945.

Trong tình thân gia đình, ông bực bội hỏi:

- Sao không bỏ chạy mà giờ nầy còn ở đây? Thế thì khổ đời anh rồi!

Tâm ngỡ ngàng, nhưng cũng quả quyết nói:

- Cháu ở lại để góp một tay xây dựng lại quê hương đổ vỡ. Chỉ mong làm một hạt cát nhỏ trong công cuộc tái thiết đất nước nầy.

Ông chú cười buồn mà nói:

- Ai cho anh xây dựng mà hòng? Anh tưởng dễ lắm sao?

- Cháu không hiểu hết ý của chú.

- Rồi anh sẽ hiểu. Anh phải “kinh qua” mới thấm và hiểu. Chưa thực sự sống trong chế độ, thì dù cho có đọc ngàn cuốn sách, anh cũng còn mơ hồ và đầy ảo vọng.

Tâm mạnh dạn nói mà không sợ ông chú buồn lòng:

- Nếu cháu không lầm thì chú cũng đang là một rường cột của chế độ nầy. Với cái vai vế của chú thì chú cũng có thể tạo điều kiện cho những người yêu mến quê hương nầy có cơ hội phục vụ đất nước. Quê hương nầy là của chung, gia sản của tổ tiên nhiều đời gây dựng lại, không của riêng ai, không của riêng đảng phái nào!

Ông chú cười, ánh mắt có vẻ thương xót người cháu, ông nói:

- Không. Anh nói vậy là chưa hiểu chi về xã hội chủ nghĩa cả. Chú cũng chỉ là một bánh xe trong guồng máy đang vận hành. Bánh xe nào không hoàn toàn ăn khớp, thì bị loại ra ngay, bị vứt bỏ không thương tiếc, bị chà đạp, bị hành hạ, sống không được, chết không xong. Anh không có quyền yêu mến quê hương theo tâm ý của anh. Phải yêu theo lối của người khác vạch ra, hoàn toàn đi trong đường lối đó nếu anh muốn sống còn. Tôi xin anh đừng có nói cái giọng điệu quê hương là gia sản chung cho ai khác nghe, mà không có lợi cho bản thân anh.

Tâm thở dài. Một lúc sau, ông chú nói tiếp:

- Điều cần thiết nhất chú dặn anh là đừng có dại mà thành thật khai báo lý lịch và tội lỗi của mình. Anh đã ở miền Nam thì dù anh có làm gì hay không làm gì cũng có tội với cách mạng cả! Phải tự nhận là có tội và chỉ nhận những tội khơi khơi thôi. Chuẩn bị một bản lý lịch cá nhân, cái gì không lợi thì đừng khai, cái gì giấu được thì giấu. Viết càng ngắn, gọn, rõ ràng càng tốt. Khai cho y hệt nhau, đừng sai chạy. Đó, chú chỉ giúp anh được chừng ấy thôi, anh nhớ cứ làm theo thì bớt được vận hạn khó khăn.

Tâm chấp nhận đi tù cải tạo với sự bình tĩnh, không chút lo lắng, buồn phiền. Anh đã chuẩn bị trước, và đây là chuyện phải đến. Tâm cũng không có ảo vọng đi “học tập” một tháng hay hai tuần như thông cáo do chính quyền phổ biến, nhưng Tâm vẫn mong rằng, anh nghĩ sai. Anh đã chuẩn bị cho một cuộc đời tù tội lâu dài.

Mang theo những vật dụng thật bền, chắc chắn. Những tuần đầu trong trại cải tạo, Tâm thấy bạn bè xài phí những vật dụng mang theo, anh nói với các bạn trong một buổi họp tổ:

- Các anh nên tiêu xài tiết kiệm lại một chút. Đâu đã chắc một tháng là được về ngay!

Các bạn anh nhao nhao phản đối:

- Cách mạng trước sau như một. Anh không tin tưởng chính sách của cách mạng sao? Anh còn tư tưởng lạc hậu lắm. Cách mạng nói một tháng, là một tháng, không sai chạy đâu.

Thấy tất cả bạn bè đều phản đối dữ dội, và nếu cán bộ quản giáo biết được, hay có người báo cáo thì bất lợi cho bản thân, Tâm vội vàng cười giả lả:

- Thôi mà, tôi nói chơi cho vui mà làm anh em sợ. Nói đùa , anh em bỏ qua đi.

- Đùa làm đứng tim người ta. Cách mạng không bao giờ nói sai cả!

Tâm biết anh em sợ, không dám nghe nói sự thực, muốn nuôi ảo tưởng là một tháng sẽ được tha về, nên phản đối lời khuyên của Tâm.

Sau ba tuần mà chưa thấy “bài vở và học tập” chi cả. Đám tù lao nhao tiên đoán rằng, cách mạng sẽ khoan hồng cho về mà không cần học tập lôi thôi. Đoán rằng, họ sẽ phát tài liệu cho anh em đọc vì ai cũng đã có trình độ học vấn khá, không cần phải giảng dạy. Tâm chỉ cười và mong sao cái mơ ước hão huyền của anh em đúng sự thực, chứ trong lòng Tâm, không hề có ảo tưởng nào. Nhiều đêm, khi chín giờ, đèn điện tắt, có tiếng tắc kè kêu vang dội rất rõ trên đồi cao: “Tắc kè. Tắc kè”, anh em diễn dịch ra là có điềm tốt nên tắc kè kêu là “Sắp về. Sắp về!” Có nhiều anh loan tin rằng, mấy đêm nay, xem thiên văn, thấy nhiều sao chiếu đồng quy về hướng Sài gòn, bởi vậy, anh em cũng sắp được tha về nay mai.

Nhiều tháng sau vẫn chưa được tha về mà thời gian tù không xác định, tiếng tắc kè được diễn dịch lại là “Đếch về. Đếch về!”. Một người bạn nói với Tâm:

- Cán bộ luôn luôn nhắc nhở là “yên tâm cải tạo”. Làm sao mà yên tâm khi gia đình còn lắm việc bộn bề, vợ con không biết sinh sống ra làm sao, ngày ra trại chưa được xác định. Thì làm sao mà yên tâm cải tạo được.

Tâm cười và trả lời:

- Yên tâm cải tạo? Đúng, mấy ông cán bộ nói đúng! Yên tâm đi, ngày về còn xa lắm lắm. Đừng nôn nóng, vô ích. Không yên tâm, thì cũng không được gì, bận lòng thêm khổ! Chúng ta bị mắc bẫy rồi, chứ đừng hy vọng, đừng mong ước gì cả. Yên lòng? Nếu có một ngày nào đó, được kêu tên cho ra về thì sung sướng lắm. Nếu chưa đưọc về, cũng đừng mong. Có mong là có bồn chồn, có khổ tâm. Hãy yên tâm đi, yên tâm cải tạo!

Mấy người bạn Tâm bây giờ đã bớt ảo tưởng, nhưng vẫn chưa tắt niềm hy vọng. Họ thường tỏ vẻ bực bội khi nghe các bạn khác đọc các câu thơ:

“Bao giờ cọc sắt nở hoa
Bà Đen hết đá thì ta mới về”

Hoặc

"Khi đi vợ mới mang bầu
Ngày về con đã bạc đầu như cha”.

Nhờ lời khuyên của ông chú đã từng kinh qua dày dạn trong chế độ là đừng dại dột thành thật khai báo nên Tâm được tha tù, về nhà sớm hơn bạn bè cùng trang lứa, cũng mất hơn ba năm, gần với thời gian anh đã tiên đoán và chấp nhận.

Trong thời gian nầy, tình hình lương thực vô cùng khó khăn. Cả nước đều đói vàng mắt, nhà nhà ăn độn khoai sắn, bo bo, mì sợi. Bụng dạ mọi người khi nào cũng lưng lửng, nhột nhạt, có kiến bò, miệng thì luôn thòm thèm. Đời sống thường ngày vô cùng khó khăn. Ít còn ai đủ dại để tin tưởng vào tương lai tươi sáng hạnh phúc. Không biết ai bày, mà bọn trẻ con hàng xóm thường ngêu ngao hát bài ca sửa lời: “...tổ quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá, kể từ giải phóng vô đây, ta ăn độn dài dài, kê từ giải phóng vô đây, ta ăn độn toàn khoai…”

Một lần, nghe cuộc bàn cãi giữa hai ông cậu, ông cậu nhỏ là người đi tập kết ở miền Bắc về, nói với ông cậu lớn tuổi rằng:

- Anh chưa ‘giác ngộ cánh mạng’ thì anh đừng nói, đừng bàn luận về xã hội chủ nghĩa. Phê bình mà chưa biết rõ bản chất, thì đừng nên nói, không có lợi cho anh và gia đình.

Ông cậu lớn tức tối nói:

- Làm sao mà tôi giác ngộ cách mạng của các người được? Còn bản chất của xã hội chủ nghĩa, không nói ra, ai cũng biết là cái gì rồi.

- Anh có biết giác ngộ cách mạng là gì không? Giác ngộ nghĩa là biết rõ, biết đến nơi đến chốn, không phải biết lơ mơ như các anh. Biết cái gì? Biết cách mạng vô cùng nghiêm khắc, tàn bạo, không khoan nhượng. Nghĩa là biết sợ cách mạng trù dập, sợ bị thanh toán, thủ tiêu, sợ bị giam đói, bị bao vây kinh tế, bao vây tình cảm. Tóm lại, giác ngộ cách mạng là biết sợ cách mạng, sợ vô cùng, không dám hó hé chi cả. Cách mạng nói sao, mình nghe vậy, nói theo y như vậy, đừng sai chạy mảy may, đừng để cái lý trí phán đoán sai đúng xen vào. Người giác ngộ cách mạng sẽ dễ sống, dễ thở, và an toàn hơn trong cái xã hội chủ nghĩa.

Ông cậu lớn nói với giọng chán nản:

- Thế thì giác ngộ cách mạng là phải biết hèn nhát, nói như vẹt, mềm như bún. Không kể gì đến sĩ khí, nhân cách nữa sao?

Ông cậu ‘cách mạng’ trả lời:

- Hừ, sĩ khí và nhân cách để làm gì nếu cái bao tử trống không, đói khát hành hạ, vợ con nheo nhóc, xóm giềng xa lánh, hất hủi mình vì sợ liên lụy?

Ngừng một lát, ông nầy nói tiếp:

- Thời nầy, tốt nhất là bịt tai, nhắm mắt mà sống. Đừng bao giờ nói ý nghĩ trung thực của mình cho ai nghe. Có lẽ, tốt hơn hết là đừng có ý kiến chi khác với mọi người. Ai sao mình vậy. Đúng hay sai, thật hay giả, không cần biết đến làm chi. Đó là thái độ khôn ngoan nhất.

Ông cậu lớn tuổi lắc đầu:

- Không được. Phải can đảm nhìn thẳng vào sự thật, và đừng tự dối lòng để giả tin vào lời lừa mị láo khoét. Nếu ai cũng dám nhìn thẳng vào sự thực, nói lên sự thực thì bọn dối trá sẽ không còn đất sống và không còn cơ hội ức hiếp, áp bức kẻ hiền lương. Người miền Bắc và miền Trung khôn ngoan quá, cẩn trọng quá, nên gắng nhịn nhục để sống còn, bởi vậy nên bị ức chế, bị chà đạp, bị dày xéo, không còn thể thống chi cả. Chú ra ngoài chợ Sài gòn mà xem, hay chú lên xe đò mà nghe các bà chửi cho nát mặt, nát mày, có dám bỏ tù hết cả nhân dân miền Nam nầy không? Ban đầu, các anh ‘cách mạng’ cũng hung hăng, doạ dẫm, định áp đặt chính sách cai trị hà khắc như cai trị dân miền Bắc lên vùng đất nầy, nhưng không ai sợ cả, không ai hùa theo lời nói láo khoét. Mấy anh bị hố. Dân miền Nam không hèn nhát đâu!

Ông cậu ‘cách mạng’ hạ thấp giọng:

- Nhân dân miền Nam nầy ăn nói phản động, không có lợi lộc gì cả mà lại hại đến bản thân, gia đình. Nói lời phản động để được cái gì chứ? Anh tưởng chúng tôi đều ngu muội, mù quáng cả, không nhìn thấy và phân biết được sự thực và dối trá sao? Sống theo nếp sống mới thì phải biết ‘nói điều mình không tin, và tin điều mình không dám nói’ Đó là thái độ khôn ngoan, thức thời.

Mỗi ngày, từ sáng tinh mơ, loa đã oang oang kêu gọi dân chúng sống theo nếp sống văn minh. Tâm không biết nếp sống văn minh của xã hội chủ nghĩa ra làm sao, đem hỏi ông một ông chú ‘cách mạng’ khác. Ông hạ giọng thầm thì:

- Cái gì người ta thiếu thì nói nhiều đến cái đó. Văn minh bây giờ là xe chạy bằng than củi, ăn cơm độn khoai sắn, xới vườn hoa trồng rau khoai rau dền, nuôi heo trên tầng lầu chúng cư, áo quần xám xịt một màu, ăn nói một lời giống nhau y hệt. Văn minh mà nhà nước ta đang nhắm đến là làm sao cho miền Nam tiến kịp miền Bắc trong tiêu chuẩn … nghèo đói.

Tâm cười:

- Các ông bà con đi tập kết về khuyên đừng ăn nói phản động. Thế mà lời của chú nghe ra còn phản động hơn ai hết! Thế thì hai mươi mấy năm đi theo cách mạng, chú đã làm được công trạng gì trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa?

Nét mặt ông chú có vẻ tức tối:

- Công trạng cái con khỉ. Vì chú không biết a dua, không hèn nhát nói theo lời lếu láo dối trá của bọn chúng, nên chú bị bao vây, bị cô lập, bị bỏ đói trong hai mươi năm tập kết ra Nghệ An. Chú kiếm sống bằng nghề ‘hớt tóc chui’. Cả nước đã đói cho vàng mắt ra, gia đình chú còn đói hơn ai cả. Con cái không được nhận vào trường, thất học cả đám. Chẳng bị tù rục xương là may mắn lắm rồi cháu à!

- Thế thì xin chú cho cháu một lời khuyên, để sống còn trong xã hội mới nầy.

Ông chú lắc đầu:

- Không còn cách nào để cho các thành phần như cháu sống còn cả, ngoại trừ… ngoại trừ bỏ nước ra đi. Chỉ có con đường đó thôi.

Một năm sau, Tâm đến được bến bờ tự do sau bao lần suýt bỏ mạng trên biển cả./.

Tràm Cà Mau

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Chuyện cổ tích ở bến Bình Đông.
Năm nào khi về đến Saigon, tôi cũng dành một buổi chạy xe về bến Bình Đông. Lần đầu về vào năm 2000, tôi còn có dịp gặp bác Ba Thanh, khi đó cụ cũng đã gần sát tuổi chín mươi, và Triều là bạn học chung với tôi thời trung học ở trường Nguyễn Bá Tòng. Dần dà những chuyến sau về, cụ Ba Thanh đã mất, cụ bà cũng mất sau đó vài năm, và ngay cả Triều cũng lâm bệnh rồi từ trần năm 2016. Căn nhà cổ kính nằm giữa vườn cây trái bây giờ còn lại gia đình Phiệt ( con trai của Triều). Cái liên lạc thân tình của tôi với cả ba thế hệ của gia đình này là một câu chuyện khá dài.
Triều nằm trong nhóm ba đứa thân nhau học chung lớp từ hồi lớp đệ Nhị ( bây giờ gọi là lớp 11) trong đó tôi thì nhà ở gần trường, còn Triều và Mai ở tuốt trong Chợ Lớn. Nhà Mai bên này rạch Lò Gốm gọi là khu Bình Tây, còn Triều nằm bên kia rạch Lò Gốm gọi là bến Bình Đông. Lớp đệ Nhị mà Triều đã có xe Honda đi học thì là gia đình khá giả lắm. Bến Bình Đông và khu Bình Tây nằm song song với nhau phía cuối kênh Lò Gốm, Bình Tây thì có hãng rượu Bình Tây, sát với khu trung tâm thương mại người Hoa ở Chợ Lớn , có chợ Bình Tây, khu bến xe Chợ Lớn là trung tâm xe chở hành khách về các tỉnh miền tây. Bến xe Chợ Lớn khác với xa cảng Miền Tây ở chỗ xa cảng Miền Tây là bến xe khách lớn , chở khách về các tỉnh lỵ như Cần Thơ, Mỹ Tho, Châu Đốc , Rạch Giá, còn bến xe Chợ Lớn đa số là xe nhỏ 16 hoặc 24 chỗ ngồi, nhưng lại chở khách về các địa danh huyện lỵ Cũng là về miền tây, nhưng nếu Xa Cảng Miền Tây chở khách về Đồng Tháp là về bến xe tỉnh Đồng Tháp, thì bến xe Chợ Lớn chở khách về thị trấn Hồng Ngự là một huyện của Đồng Tháp chẳng hạn.
Bến Bình Đông nằm song song với bến Lê Quang Liêm của Bình Tây , nhưng nằm về phía bên kia kênh Lò Gốm. Bình Đông nằm giữa hai con kênh, bên này là kênh Lò Gốm và bên kia là Kênh Đôi. Cách gọi tên các dòng nước này tùy từng đoạn mà có tên riêng, người ngoài thành phố nghe rất khó hiểu. Thực ra là như thế này: Từ Sông Saigon, có hai nhánh rẽ vào phía nam, nhánh trên gọi là Rạch Bến Nghé, nhánh dưới gọi là Kênh Tẻ, hai nhánh sông này gặp nhau và nhập thành một tại Cầu chữ Y, sau đó lại chia thành hai nhánh chạy tiếp về phía nam, một nhánh gọi là kênh Lò Gốm và một nhánh gọi là kênh Đôi. Kênh Lò Gốm và Kênh Đôi nhập vào nhau tại Bình Đông, từ đây dòng kênh Đôi lớn hơn và chảy thẳng ra sông chợ Đệm. Đoạn đường hai bên kênh Lò Gốm khúc gần hợp lưu này toàn là các Chành, các Kho, Phía bên Bình Tây là các chành gạo, nông sản, phía bên kia sông là Bình Đông thì đa số các nhà kho lớn chứa phân bón , thuốc trừ sâu và nông cụ.
Bình Tây sầm uất vì sát với khu thị tứ và các chành xuất nhập gạo lúa nông sản thường xuyên mỗi ngày, còn Bình Đông thì vắng lặng hơn vì mặt tiền đường sát bờ sông dài hằng hai ba cây số đều là những nhà kho lớn, kín cổng cao tường, đàng sau dãy nhà kho đó là khu dân cư , nhưng cũng thưa thớt ít người. Nhà của Triều là một trong vài chục căn nhà hiếm hoi nằm ở mặt tiền đường, ngôi nhà xây cất theo kiểu cố, nằm sâu vào trong, bao bọc quanh nhà là vườn cây khá rộng, nhà Triều trồng rất nhiều Mai, từ trước ra sau, bên phải bên trái đếm ra cả mấy trăm cây lớn nhỏ. Đặc biết ngay cửa chính vào nhà, giữa sân là một cội lão Mai khá lớn, thân cây có lẽ hơn 20 cm, không mọc thẳng lên cao, mà khoảng cao gần 1 mét bỗng gập gãy như hình chữ V ngược một đoạn mới lại vươn lên. Chỗ gập gẫy đó tạo như một mắt cây, xù xì cổ kính, cùng với các nhánh cành khác mọc ra đan chen nhau thành một hình dáng vừa kỳ dị vừa bắt mắt. Khi tôi tới chơi với Triều lần đầu, Cây Mai đã cao hơn tôi khá nhiều rồi, xum xuê những nhóm nụ xanh tươi khỏe mạnh vào dịp gần tết.
Triều gốc là dân Vĩnh Long, gia đình lập nghiệp ở Saigon từ mấy đời là do ba của Triều: Bác Ba Thanh làm công chức ở thành phố. Mẹ Triều buôn bán trái cây ở chợ xóm Củi , gần nhà. Triều là con một, sống với ba má. Triều là dân miền Nam truyền thống, gương mặt bầu bĩnh trắng trẻo và lúc nào nhìn cũng có vẻ như sắp cười, tính tình khoáng đạt rộng rãi, không thích bắt lỗi người khác mà chỉ chọc ghẹo gây cười rồi quên đi .
Những ngày cuối tuần, tôi đạp xe xuống nhà Mai, rồi kéo qua nhà Triều chơi giống như về quê. ở đó chúng tôi thả diều, qua kênh Đôi lặn hụp dưới sình bắt cá Lia Thia, bắt cua bắt ốc rồi về nhà Triều mở tiệc liên hoan.... không có rượu. Ba của Triều tôi gọi là bác Ba người tầm thước, khuôn mặt phúc hậu và rất thương con cùng lúc quý bạn của con, chúng tôi được sống như trong gia đình , rất đầm ấm và vui vẻ. Sau Trung học, chúng tôi chia tay nhau, mỗi đứa đời xô đẩy đi một hướng khác nhau, Triều thì học Sư Phạm, ra trường đi dạy ở gần nhà, Mai thì làm việc ở Phú Giáo, Bình Dương.Tôi thì phiêu bạt lên tới cao nguyên Ban Mê Thuột, thế mà khi có dịp về lại Saigon là chạy đi tìm nhau. Lần nào về cũng có cảm giác như trở về nhà, Bác Ba gái từ sau nhà chạy ra vồn vã: Chèn ơi , bây về hồi nào? thằng Mai biết bây về hôn? ngồi đó đi tao ra trường kêu thằng Triều về.
Tôi đón vòng tay ôm của bác Ba mà ứa nước mắt vì xúc động. kệ lát nó về, kêu nó chi bác, con ở đây tới ngày mai mà.
-Dzậy hả, vậy bây ngồi chơi đó nghe, tao nấu nồi canh chua cho bây nhậu với Ba nó nghe, lóng rầy nó quậy lắm , biết uống bia uống rượu với ổng rồi.
Tiếng xe gắn máy chạy vào sân, rồi tiếng Triều la thất thanh, Trời phải mày không? đi đâu mất biệt không thấy tăm hơi là sao......
Hai đứa ôm chặt lấy nhau, lặng điếng không nói ra lời. Triều quay lại nói với má, con chở nó qua nhà thằng Mai coi có thằng Mai về không nghe má.......
Rồi sau 75, cuộc sống vượt khỏi suy nghĩ bình thường. Bác Ba Thanh đi học tập 3 năm mới về, thân thể mang đủ thứ bệnh mà chẳng biết bệnh gì, chỉ càng ngày càng ốm yếu , đau nhức khắp người. Mai thì lấy vợ ở Phú Giáo và ở lại quê vợ luôn. Tôi về làm công nhân ngay quận 6. Cuộc sống khó khăn từ miếng cơm manh áo nên thời giờ ghé lại thăm nhau cũng ít dần đi. Triều vẫn đi day học nhưng vài ba tháng ghé lại một lần lại thấy thiếu mất một cái gì. Đầu tiên là cái xe gắn máy chuyển thành xe đạp, rồi thì bộ bàn ghế gõ phòng khách thay bằng cái bàn Mica và mấy cái ghế nhựa, rồi thì trên bàn thờ trang trọng xưa đã có vẻ trống trải vì thiếu bộ lư và đôi chân nến bằng đồng, hình như còn nhiều thứ nữa mà tôi không biết, nhưng thái độ niềm nở ân ần thì chẳng khác gì xưa.
Cho đến một lần khi tôi qua, cả nhà im ắng một cách kỳ lạ, tôi đi thẳng vào buồng sau, chỗ bác Ba nằm thì thấy bác Ba gái ngồi trên ghế cạnh giường ôm mặt khóc thút thít, bác Ba trai nằm nhưng cặp mắt vẫn mở, nhìn đăm đắm lên trần nhà. Triều kéo tay tôi bước ra ngoài... Chuyện gì vậy?
Triều thở dài, chỉ vào cây Mai lớn giữa sân, có người tới muốn mua cây Mai này với giá 4 chỉ vàng, mà nhà bây giờ kẹt quá rồi, ba tao bịnh mấy năm nay, giờ má cũng bịnh nữa, nhà không có tiền mà ba tao nhứt định không cho bán, ổng nói chờ ổng chết rồi bán. Nhà còn có cái gì khác mà bán để lo bịnh dược đâu.Tao tính bán lấy tiền lo thang thuốc rồi mua chiếc xe xich lô tối về đạp thêm kiếm tiền....
Lúc đó tôi nhìn quanh vườn mới thấy vườn sơ xác trống trơn, cây cỏ mọc tùm lum, mấy trăm cây Mai trồng khắp vườn hình như đã được nhổ lên đem bán từ hồi nào...Tôi hỏi Bác có nói tại sao không cho bán không ? Triều lắc đầu, ông chỉ không là không. Không bán gì hết, chết thì chịu chứ không bán..
Khuôn mặt của Triều quắt queo, xanh lè, khi tay hai đứa nắm vào nhau, cả hai bàn tay đều lổn nhổn xương , xiết vào nhau đau buốt.
Tôi cậy mình như là con cháu ruột thịt, nên đến bên giường cầm tay bác Ba góp ý, Bác ơi, một đời ta bằng ba đời nó, nay hoàn cảnh chung ai cũng chật vật, số tiền 4 chỉ lớn lắm,có thể lo cho bịnh tình hai bác mà còn có thể tạo ra việc làm cho Triều kiếm sống nuôi gia đình.....
Bác Ba nhìn tôi, nước mắt ứa ra, nói chầm chậm... tao biết bây nghĩ đúng chớ không sai, nhưng cây Mai này tuổi đã hơn trăm năm, là di sản từ thời ông nội thằng Triều, đem về đây trồng ngay bữa má thằng Triều sanh ra nó, hơn vậy, tuy trồng ở đó mà có phải của mình đâu, làm người phải coi trọng lời hứa.... đợi tao chết rồi bây làm gì đó thì làm....
Giọng bác Ba trầm, buồn nhưng dứt khoát, chỉ là chi tiết trồng ở đó mà đâu phải của mình thì tôi không hiểu tại sao mà không dám hỏi. hôm đó đi về mà lòng nát tan, đau xót thương yêu mà chẳng biết làm sao để chia sẻ với Triều.
Bến Bình Đông từ bao đời nay là nơi cặp bến của ghe thuyền miền Tây chở theo hoa kiểng và cây trái. Bên kia sông là bến Bình Tây chuyên về nông sản, lúa gạo. Các loại hoa kiểng chẳng những đổ về Bình Đông dồn dập vào dịp gần Tết , mà thường xuyên suốt năm vẫn có những chuyến ghe lớn chở trái cây đặc sản về cung cấp cho các chợ, cùng lúc hoa kiểng cho các vựa trong thành phố. Các chủ ghe lâu năm khi ghé lại, tạo ra một mối liên lạc thân tình với cư dân trong xóm và nhiều nhà dân trong xóm cũng trở thành nơi tạm chứa các thứ cây kiểng chưa tiêu thụ kịp.
Thời điểm 1980 ở thành phố nơi tôi sống như đang ngồi trên một cơn sóng dữ, cuộc đời mỗi người gánh mọi biến động lớn trên một con thuyền nhỏ, biết bao người đã vượt thoát đi, biết bao người đã chìm đắm xuống và biết bao người như tôi, cắn răng chịu đựng, sống mà chỉ biết sống hết một ngày hôm nay , ngày mai chưa biết. Miếng cơm , manh áo, giấc ngủ, và sự bình an chỉ biết chắc khi buổi sớm mai còn thức dậy được.
Mấy tháng sau, bất ngờ Triều ghé thăm tôi tại chỗ làm. Lần này nụ cười tươi rói, ngồi trên chiếc xe Xích Lô mới toanh, cười hi hí ...Tôi chạy ra mừng rỡ, Bác Ba khỏe lại rồi hả? -Ba má tao khỏe rồi, tao tới báo với mày mấy tháng nữa tao lấy vợ.
Tôi la lên -Úy trời, đứa nào ngu quá vậy? Mày quen nó ở đâu?

Triều kéo tôi vào quán cà phê lề đường và kể lại câu chuyện. Câu chuyện của Triều như thế này.
Ông nội của Triều là Chủ Sự trong tỉnh, là một hào phú ở huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ông có nhiều con nhưng hợp tánh nhất là người con thứ, là ba của Triều, nên cuối đời, ông về sống với vợ chồng con ở tại bến Bình Đông.
Ông thích hoa kiểng và có lòng hào phóng thương người, hôm người con trai có đứa con đầu là Triều vào dịp sát tết Nguyên Đán, ông thảnh thơi đi dạo bến sông , ghe thuyền tấp nập cặp sát mé bờ, ngay trên bờ là các loại hoa kiểng chở lên bày đầy đặc. Ông bất ngờ dừng chân ở một khoảng bày toàn là Mai, cả mấy chục chậu Mai lớn nhỏ , mỗi cây được bọc một bao tải vải bó rễ và đất tưới ẩm. Ông bất chợt nhìn thấy một cây lão Mai khá lớn, hoa kép, mỗi hoa chồng lớp mấy chục cánh vàng tươi rực rỡ tuyệt đẹp. Ông đứng ngắm nghía hồi lâu thì một người đàn ông bước ra chào hỏi. Đây là một cặp vợ chồng từ dưới quê Đồng Tháp chở cây từ vườn lên bán. Ông hỏi giá cây Mai nhưng mắc quá ông không mua. cây Mai bình thường cũng cao lớn như vậy thì giá chừng hai trăm ngàn , mà cây Mai này đòi giá tới ba triệu. Ông hỏi tại sao, người đàn ông lễ phép thưa không phải con thấy bác hỏi ngay cây này mà con nói giá cao, thiệt ra đây là một loại mai đặc biệt mà không chỉ vườn nhà con , nói rộng khắp huyện Lấp Vò của con chỉ có một cây này. Nó là loại Mai Hương, bác chơi hoa nhiều thì bác biết , hoa Mai là loại hoa có sắc mà không có hương, riêng cây này thì bác cứ hửi thử đi , Bông hoa tỏa ra một mùi hương dìu dịu , không phải hương Lài không phải hương Lý mà phảng phất như có chút mùi trầm, càng về đêm mùi hương càng đậm cho tới sáng phai nhạt dần. Ba con dặn cái này cần người hữu duyên, phải giá thì bán không thì đem về nên giá nó mới cao như vậy.

Tưởng chỉ chuyện trò như vậy rồi thôi, ai dè vài bữa sau, trời đã về khuya, ông Chủ Sự đi ngang qua ghe thì nghe tiếng khóc của phụ nữ. Sẵn cảm tình từ lần trò chuyện trước ông ghé qua hỏi thăm, té ra cặp vợ chồng kia cơm ghe bầu bạn đem cây lên bán có dắt theo hai đứa con khoảng 5 tuổi và 7 tuổi, hồi chiều, do bận rộn bán hàng , hai đứa bé chạy giỡn với nhau xẩy chân lọt sông chết đuối cả hai . Không có thân nhân ở gần, tiền bạc vốn liếng không còn, hai vợ chồng ôm nhau khóc ngất, bây giờ phải gấp rút về quê vừa đau khổ vừa khó khăn chưa biết tính sao. Ông Chủ Sự suy nghĩ rồi nói thôi để tui mua mão hết mớ cây vợ chồng bậu đem lên để bậu lấy tiền mua quan quách cho sáp nhỏ rồi về quê. Hai vợ chồng cúi đầu cảm tạ và nói giá bán mão hết số cây là hai triệu. Ông Chủ sự nói vậy sao được, nguyên cây Mai Hương đã là giá ba triệu rồi, mà bán mão cả chục cây còn lại có hai triệu là sao, thôi tui đưa bậu năm triệu để lo việc nhà. Hai vợ chồng kéo nhau quỳ xuống cám ơn và thưa rằng cám ơn ông hào phóng giúp người, nhưng thôi như vầy, năm triệu ông đưa coi như con mượn, về quê rồi khi có được sẽ xin đem lên trả, còn nay tất cả mớ cây con giao hết cho ông, những cây khác thì coi như bỏ, riêng cây Mai Hương xin ông trồng lại chớ đừng bán, khi nào có tiền tụi con đem lên sẽ xin chuộc lại. Ông Chủ sự gật đầu, bậu tính sao cũng được. Rồi ông chỉ tay về phía căn nhà : đó đó là nhà của tui, chừng nào lên dược thì lên.

Đó là lý do vì sao ông Ba Thanh nhất định không cho bán cây Mai trước nhà. Triều kể tiếp, khi gia đình đang túng bấn tới độ có bữa ăn rau muống luộc trừ cơm thì bất ngờ có một cô gái tới hỏi thăm phải đây là ông Chủ Sự không? khi biết chắc đúng, cô gái mới kể tiếp cô tên Ơn, là con gái của ông bà Hai Đậu , quê ở Lấp Vò , Đồng Tháp. Hồi ba mươi năm trước, khi cô chưa ra đời, cha mẹ cô làm vườn và bán cây kiểng, có năm chở ghe bán lên bến Bình Đông vào mùa gần tết giống như vầy, bất ngờ gặp tai nạn làm chết hai người anh chị ở bến sông, có được ơn ông Chủ Sự ở nhà này giúp đỡ nên mới đem được xác về quê. Mấy năm sau thì sanh ra cô, nhưng gia đình làm ăn cũng không khá giả , mới năm rồi người cha từ trần, kể lại cho cô nghe cái ơn khó trả ngày xưa, nay nhờ được mùa lại thêm bán được mấy công đất, nên mẹ cô đưa địa chỉ sai cô lên đây đền ơn đáp nghĩa ngày xưa.

Mẹ của Triều lúc đó lại nảy sanh căn bệnh đàn bà, đi đứng khó khăn thiếu người giúp đỡ, Cô Ơn tự nguyện ở lại ít ngày giúp bà tắm rửa thay đồ. Cô Ơn đưa gia đình số tiền còn nhiều hơn giá 4 chỉ vàng mà còn nhất định không chịu lấy cây Mai Hương về lại dưới quê. Cô nói cây này nó chỉ sống được nhờ người có phước. Nay nó ở đây an lành con lấy nó đi làm chi. Khi thấy má Triều chưa bớt bịnh, cô nhắn tin cho mẹ cô lên thăm, và ở lại sống trong nhà như người thân yêu. Má Triều gần ba tháng sau nhờ có người chăm sóc, nhờ tinh thần thanh thản vui vẻ và nhờ thuốc men chạy chữa đã gần khỏe hẳn. Lâu ngày bên nhau nảy sinh lòng quyến luyến, có bữa, má Triều mân mê tay cô Ơn , bà nói, phải chi bây ưng thằng Triều thì đời tao có phước quá. Cô Ơn cười mắc cỡ, biết ảnh có ưng con không mà bác hỏi vậy? Triều đang nằm chèo queo ngoài bộ ván ngoài sân, nghe thoáng qua chạy vô cầm tay cô Ơn thú thiệt tui ưng cô từ khi cô từ ghe bước lên bờ kìa. Cô Ơn cười e thẹn, hai má đỏ hồng.

Ơn tính tình thuần hậu mà lại giỏi giang chuyện mua bán, khi hai đứa lập gia đình với nhau, Ơn lấy lại cái sạp bán trái cây ở chợ và về quê tạo đầu mối đưa cây trái lên giao hàng bán sỉ cho các chợ trong vùng, Triều ngoài giờ dạy học, thì thành người giao hàng chuyên nghiệp cho vợ, chiếc xe xích lô chuyển thành xe ba bánh phục vụ cho chuyện kinh doanh.

Khi tôi rời Việt Nam vào năm 1995, thì gia đình Triều đã là một gia đình êm ấm, hai bác Ba khỏe mạnh lại, sống nhẹ nhàng thảnh thơi với đứa cháu nội đầu lòng của Triều và Ơn.
Lần này về bến Bình Đông, lại đúng gần mùa Tết, trên bến thì tràn ngập hoa tươi đủ loại, dưới bến thì chen khít với nhau ghe bầu, ghe Rổi, xuồng chèo, thuyền máy hàng hàng lớp lớp sát bên nhau như một hội hoa nửa bờ nửa nước. Tôi ghé vào nhà Triều, căn nhà vẫn là kiến trúc cũ, cổ kính và thanh lịch nhưng nay được sơn phết mới, trang trí thêm cửa kính , máy lạnh, sân vườn tráng xi măng đường đi sạch sẽ, giữa vườn vẫn là cây Mai Hương nay đã cao quá nóc nhà, rực rỡ hoa vàng, tỏa hương thơm ngát. Vợ chồng Phiệt đang xúm xít trang trí bàn thờ quay ra thấy tôi reo lên mừng rỡ ...Bác Bảy về rồi ....năm nay đám kỵ ba con có bác Bảy ba con chắc vui lắm...Trên bàn thờ , di ảnh hai bác Ba nhìn xuống cười hiền hòa, lung linh trong ánh nến thắp trên đôi chân đèn sáng loáng, chiếc đỉnh thờ rực rỡ mầu đồng, thấp bên dưới là khuôn mặt của Triều cười mím chi y hệt như thời chúng tôi còn trẻ trâu.
Tôi hỏi Phiệt , Má mày đâu? Má con đi chợ mua đồ làm tiệc chiều nay đãi bạn bè con .
-Ủa có tiệc gì vậy? tất niên hả?
Phiệt mắc cở ....dạ....dạ.....không ....mừng vợ con có bầu.
Đứng trước hiên nhà, nhìn lên cây Mai Hương cao lớn tỏa hương dìu dịu mênh mang, Phiệt nói sau Tết, má con dâng cúng cây Mai Hương này vô chùa. Má con nói cây lão mai này đã cho gia đình con hưởng phước đã ba đời rồi, "Phước bất khả hưởng tận", nên muốn để tất cả những người có tâm thiện cùng được hưởng phước như gia đình con .
Tôi quay lại nhìn Phiệt, sửng sốt về câu thâm nho Phiệt nói, không biết nó học được từ đâu, tôi nghĩ chắc là từ ông Nội. Như vậy, khoảng cuối năm sau nếu tôi còn đủ sức khỏe về thăm nữa, thì tôi có quen biết với cả 4 đời gia đình Triều rồi đó. Tôi với tay lấy mấy cây nhang và kính cẩn thắp lên trên bàn thờ với lòng thương nhớ và kính yêu thật đầy.

NGUYỄN MINH NỮU

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image


Những Ông Chồng Tội Lỗi

Tram Ca Mau
Hơn một chục bà sồn sồn họp mặt, tranh nhau xôn xao cười nói ồn ào như chim vỡ tổ, ăn uống liên miên không dứt, tâm sự dông dài. Nói qua đủ các đề tài trên trời dưới đất. Rồi chuyển qua chuyện chồng con.
Chị Xuân “khai hỏa”:
– Ông chồng em lười như hủi mấy chị ơi. Không biết tại sao ông trời lại sinh ra được một kẻ lười đến như vậy. Không làm được việc gì nên thân. Nhờ đi mua mấy bó rau răm thì đem về rau húng. Mua trái cây, không khi nào chịu lựa, thò tay bốc đại, đem về toàn cả đồ hư thối. Ngay cả việc đổ rác cũng không xong.

Chị Hạ phụ họa lời chị Xuân:
– Đàn ông, theo em định nghĩa, là một giống vật lười. Chị đừng than thở chi cho mất công. Cứ thử hỏi các chị quanh đây, có ông chồng nào không lười? Thôi, trách móc kết án chỉ là thừa. Tôi hỏi thật chị nhé, ông xã chị lười, nhưng có lười trong chuyện… chuyện phòng the hay không? Đó mới là điều quan trọng nhất.
Các bà ngồi quanh cười hi hi.

Chị Xuân đỏ mặt. Nói lí nhí:
– Lười thì mọi việc đều lười.
– Hừ, lười chuyện phòng the… mà quần nhau có đến sáu đứa con? Nếu không lười e có hai chục đứa hay sao?”
Chị Hạ nói tiếp: “Ông chồng chị đâu có lười bằng chồng chị Hương? Nghe nói ông này lười đến độ những khi nào vợ chồng “vui vẻ” cũng vẫn còn để nguyên cả áo quần. Thế mà chị Hương có bao giờ than ông ấy lười đâu? Này chị Xuân ơi, chị nói chồng chị lười, mà có lười việc sở không? Có lần nào bị đuổi việc vì tội lười biếng chưa?”
Chị Xuân cao giọng:
– Việc sở, ông ấy đâu có dám lười? Lười để bể nồi cơm sao? Lười để cả nhà dắt nhau đi ăn mày? Ở sở, ông ấy chăm chỉ, đi sớm về muộn, đôi khi làm việc sở quên cả giờ ăn trưa đó! Thỉnh thoảng lại còn mang công việc sở về nhà nữa!
Chị Hạ hỏi dồn:
– Về nhà, ông ấy có dạy và kiểm soát việc học của các con hàng ngày không? Có cắt cỏ, tưới cây không? Có sửa chữa nhà cửa điện nước không?
Chị Xuân hừ một tiếng dài:
– Các việc đó mà lười nữa, thì ai lo cho!

Chị Thu lớn tiếng xen vào:
– Tôi thì chỉ mong có ông chồng lười cho đỡ mệt. Ông chồng tôi ham làm vườn quên ăn quên ngủ, quên giải trí, quên hết. Ai đời đi làm việc về, vội vã thay áo quần, chạy mau ra vườn, xới đất trồng cây cho đến khi trời tối mịt thì thắp đèn lên làm tiếp. Mãi cho đến chín mười giờ mới chịu vào ăn tối. Cơm canh nguội lạnh. Thứ Bảy Chủ Nhật, cũng loay hoay ngoài vườn từ sáng sớm cho đến khuya. Vợ con không nhờ được việc gì cả. Quanh năm bốn mùa lăn lóc trong khu vườn. Những khi mưa đổ như trút, gió thét ầm ầm, thì co ro che dù, mang áo mưa, tưởng như bị trời hành. Tôi kêu gào rát cả cổ, cũng không suy suyển, chán quá, tôi cũng không thèm nói năng chi nữa!
– Vườn có rộng không? Ông ấy trồng gì mà quanh năm không hết việc? Một bà tò mò hỏi.
– Khá rộng. Ông ấy cứ bứng cây này, trồng cây kia. Làm non bộ, đắp núi giả, gầy uốn cây bonsai, bắt ống nước, chạy dây điện. Cứ thế mà từ ngày này qua ngày khác, năm này qua năm kia, không bao giờ xong. Những khi đau yếu chưa lành bệnh hẳn, còn ho hen, xịt mũi, cũng ra vườn không kể chi đến nắng gió. Ông ấy còn bảo, nếu không ra làm vườn, bệnh càng khó thuyên giảm, lâu bình phục.
Bà bạn cười cười:
– Chị có biết không, làm vườn cũng là một lối thiền cao độ. Hầu như tất cả các đại thiền sư Nhật Bản, đều say mê việc tạo cảnh. Thiền là đó, chứ không phải đâu cả. Hay là, hay là… chị cằn nhằn quá, nói nhiều quá, nên ông ấy lấy cớ ra vườn lánh nạn. Cho đỡ khổ cái lỗ tai, đỡ phiền muộn chăng?
– Vô duyên chưa? – Chị Thu gắt – Chị cứ suy bụng ta ra bụng người. E rằng, ông chồng của chị cũng không khỏi khổ vì cái miệng hay chót chét của chị đó! Chị Thu thở dài chán nản tiếp: – Ông ấy mê cái vườn còn hơn mê vợ con, mê công việc. Tôi thù ghét cái vườn. Không thèm nhìn đến, có khi cả tháng không bước chân ra vườn, Cái vườn dành mất tình yêu của vợ chồng tôi.

Người bạn vỗ vai chị Thu, dịu dàng nói:
– Có được ông chồng không ham chơi, chẳng rượu chè, cờ bạc, trai gái, đàn địch, chỉ ham làm vườn, lành mạnh như thế, mà vẫn chưa bằng lòng, thì đòi gì nữa? Chị muốn có gì hơn? Chị Thu đáp: – Hạnh phúc. Chị bạn cười mũi: – Hạnh phúc? Hạnh phúc thì phải do chị tự tạo lấy. Cứ ngồi không mà chờ, thì khó có, rồi trách móc người này, kẻ kia. Sao chị không ra vườn, tiếp tay với ông ấy, cùng cuốc xới, trồng trọt, tưới nước, chăm sóc cây trái. Rồi tâm sự, chuyện trò, thì hạnh phúc tự nhiên tới. Chị cứ thử trong vài ba tháng xem sao? Có mất gì đâu. Không chừng rồi chị cũng say mê làm vườn như ông ấy, và từ đó, thuận vợ thuận chồng thì tát biển đông cũng cạn.
Chị Hạ lắc đầu nói ngang:
– Kế sách đó cũng hay. Nhưng tôi có một mưu chước khác, làm ông chồng chị không dám ra vườn nữa. Nếu chị chịu, tôi bày cho. Nhưng sau này xong việc, phải trả công cho tôi hậu hĩ đấy! Này nhé, chị cứ giả vờ yêu mến cây cỏ, thiên nhiên, ra vườn cùng ông chồng, cứ đứng chống nạnh chỉ tay. Đòi cây này phải bứng qua góc vườn, cây kia phải phải chuyển lại gần hàng rào, vồng hoa nọ không thích hợp với vị trí đó, nhổ hết trồng loại hoa khác, cái vòi phun nước phải để qua góc bên trái mới mỹ thuật, cứ thế mà đòi hỏi phê bình đủ thứ chuyện, lải nhải mãi. Tôi đoán, ban đầu ông ấy cũng sẽ làm vài việc theo lời yêu cầu cho vợ vui lòng. Nhưng rồi càng ngày càng mệt, và cứ bị đòi hỏi mãi, ông ấy cũng sẽ chán nản, bực mình và không dám ra vườn nữa. Mấy chị nghe kế sách này có cao không?

Một chị la lớn:
– Không đựợc đâu! Lải nhải và yêu sách mãi, lỡ ông ấy nổi nóng, phang cho một cán cuốc vào đầu thì uổng đời. Đừng có dại. Mấy bà cùng cười vang.
Chị Hạ cười nói tiếp:
– Ông ấy có ăn học đàng hoàng, đứng đắn, đâu phải bọn ba trợn vũ phu mà làm càn! Trong đám chị em chúng ta ở đây, coi bộ chỉ có ông chồng chị Hạ là không có vấn đề. Gia đình vui vẻ hạnh phúc nhất.
Chị Hạ phản đối liền:
– A! Phải “nằm trong chăn, mới biết chăn có rận”. Trông như không có vấn đề gì cả, mà sự thực lại trầm trọng. Ông chồng tôi là một nhà giáo nghiêm nghị, nghiêm nghị trong lớp học, tại trường, nghiêm nghị ngoài xã hội và nghiêm nghị cả với gia đình, vợ con. Lấy nhau mấy chục năm mà chưa bao giờ thấy ông ấy cười. Nụ cười hiếm hoi còn hơn nàng Bao Tự* đời xưa trong truyện Tàu, mà U-Vương phải đốt phong hoả đài, gạt chư hầu về cứu giá, mới có được nụ cười của người đẹp. Ông chồng tôi, chẳng có đẹp gì cho cam. Mẹ tôi nói đùa rằng, hôm nào cả nhà đè ông ra mà thọc lét, để xem ông có biết cười hay không! Người ta bảo, một nụ cười bằng mười thang thuốc Nụ cười quý lắm. Mấy chục năm chưa lần thấy nụ cười trên môi ông chồng. Tôi cũng biết vui, biết buồn, chứ phải gỗ đá đâu mà cứ trơ trơ.”

Chị Đông nãy giờ chưa nói, bây giờ hứng chí cũng góp chuyện:
– Không biết cười còn đỡ. Ông chồng tôi thì mít ướt, thấy chuyện gì cũng cảm động mà khóc được. Những khi xem phim bộ Đại Hàn, cứ khóc thút thít mãi như con nít bị đánh đòn, lau hết cả hộp khăn giấy. Đọc truyện cũng thế, khi đọc đến những đoạn lâm ly, thì khóc oà, bỏ sách xuống, không đọc tiếp được nữa. Đi đám ma bạn bè, gia đình người chết thì tỉnh khô, mà mắt ông thì ướt nhẹp, đỏ lòm, xụt xịt mũi nước. Tưởng như đóng kịch. Có lần trong bữa cơm, ông kể chuyện hai vợ chồng bên Tàu thời Cách Mạng Văn Hoá, đói quá, bà vợ đồng ý để chồng gả bà cho người khác, để có cơm ăn, cho bà vợ khỏi chết đói. Mới kể nửa chuyện, ông khóc oà ra, để chén cơm xuống. Khóc như cha mẹ chết. Đứa con gái nói: “Ơ kìa Ba, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa!” Mỗi lần nghe chuyện gia đình nào tan vỡ, mắt ông cũng đỏ hoe. Lòng ông ấy mềm nhũn, yếu xìu, nên chẳng bao giờ nói “không” với người khác được. Bởi thế cho nên các cô thư ký trong sở tranh nhau, đánh ghen nhau tơi bời. Ông chẳng dám binh ai, bỏ ai. Tôi cũng khổ vì cái tình cảm yếu mềm sướt mướt của ông. Tôi cũng biết sôi máu ghen lên chứ! Đàn bà mà! Chồng của mình, chứ đâu phải là của chung thiên hạ, dù biết ông chẳng bao giờ đủ can đảm để bỏ bê gia đình.

Một bà nói:
– Tôi cứ tưởng ông ấy hiền lành, chứ đâu ngờ đào hoa đến thế!
Chị Đông đáp lại:
– Đúng, ông hiền lành! Nhưng nếu có ai thương, thì ông không nỡ từ chối. Không nỡ làm mất lòng ai. Khi nào tôi cũng cứ dặn lòng, cứ bình tâm mà hưởng hạnh phúc dành riêng cho mình. Không thể nào thay đổi cái mềm yếu của ông chồng, thì cứ chấp nhận. Vì ông rất trân quý gia đình, chăm sóc con cái hết lòng, hy sinh mọi thứ cho vợ, con, và cả người ngoài nữa.

Câu nói của chị Đông như gãi đúng chỗ ngứa của chị Hoa. Chị bắt đầu nở máy thở than:

– Tôi khổ và giận nhất là chuyện ông chồng bao đồng lo việc bên ngoài. Ăn cơm nhà, vác ngà voi. Bất cứ chuyện gì, có ai kêu, vội nhảy nhổm lên mà chạy đến cho kịp. Ai giao việc gì cũng ôm vào làm “chùa” không công, ngày đêm. Rồi tụ họp nhau ăn uống, cà phê, cà pháo liên miên. Lấy tiền nhà chi tiêu cho việc chung thiên hạ. Không có tiền thì cà thẻ tín dụng. Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Mấy cái bóng đèn ở nhà đứt dây tối thui, kêu gào rát cả cổ mới chịu thay. Cái vòi nước cứ ri rỉ long tong hoài, nghe bực đến nhức đầu, không bao giờ chịu sửa. Những người như ông này, có lẽ đừng bao giờ lập gia đình, để sức lực, thời gian mà lo cho việc thiên hạ.”
– Thế thì sao chị lại chịu lấy ông, để rồi bây giờ than van?
– Tôi đâu có biết. Ngày xưa mới quen nhau, đến nhà chơi, ông làm đủ thứ việc, nào là sửa điện, đóng lại cái bàn long chân, bắt ống khóa, mở cái đồng hồ chết ra mà vô dầu, quét vôi tường ngày tết, cưa cây, trồng hoa, chỉ dạy bài học cho các em tôi, đến cả nấu cơm, kho cá, làm đủ việc hằm bà lằng. Chịu khó giống như các cụ ngày xưa đi ở rể. Tôi cảm động lắm, nhưng không ngờ, ở đâu ông ấy cũng hăng hái nồng nhiệt làm việc như vậy cả. Ông ấy sống cho thiên hạ, chứ không sống cho gia đình. Tôi xét đoán sai, chọn lầm người. Đáng ra ông phải dành mọi sự ưu tiên cho gia đình, vợ con đã, rồi nếu dư năng lực, thì giờ, mới lo cho việc chung của thiên hạ.
Một chị la lớn:
– Nghĩ cho cùng, ông ấy là người tốt, có tấm lòng. Đáng khen, không đáng trách. Nếu ai cũng lơ là việc chung, thì xã hội này đi đến đâu? Làm chi có những sinh hoạt xã hội?

Chị Nguyệt có chồng thi sĩ tiếp lời:
– Ông chồng chị Đông, làm việc còn ích lợi thiết thực cho thiên hạ. Chứ như ông chồng em, suốt ngày mơ mơ màng màng, tỉnh không ra tỉnh, say không ra say. Cứ suy nghĩ vẫn vơ tìm vần dệt thơ, quên trước, quên sau. Không nhờ được việc gì. Ban đêm đang ngủ, nằm mơ hay chợt tìm ra một câu thơ lạ, thì vội vàng bật dậy chép liền. Có khi ngồi bóp đầu, bóp trán từ nữa khuya đến sáng, làm được mấy câu thơ. Buổi sáng mặt mũi bơ phờ như người bệnh. Đem ra khoe. Không cần biết hay hay dở, em chê liền. Rồi có trách móc, dằn vặt, thì ông ấy nói rằng ngày xưa, có ông Giả Đào nào đó viết: “Ba năm mới làm được hai câu thơ, ngâm lên một tiếng, hai giòng lệ rơi không cầm được, người tri âm nếu không cùng hưởng, mùa thu sang ta về núi nằm.” (**) Chưa hết đâu nghe các chị. Lại véo vào ngân quỹ tiết kiệm của gia đình mà in thơ, chất đống trong nhà. Rồi ra mắt sách, tốn thêm tiền thuê hội trường, mua nước ngọt, thức ăn, phải có gì cho người ta ăn uống mới chịu khó ngồi lại nghe. Còn phải gởi thơ mời, tốn thêm tiền in thiệp, tiền bưu phí. Cũng phải chi chút chút cho ban nhạc phụ giúp vui, năn nỉ ca sĩ hát “chùa”. Đáng ra em phải tránh xa các nơi ra sách này cho đỡ buồn, tủi, nhưng thấy ông chồng hăm hở tội nghiệp quá, em đi theo ủng hộ. Lại càng buồn hơn. Khách tham dự thì lèo tèo mấy chục người nói chuyện riêng ồn ào, không thèm để ý đến diễn giả đang nói gì, ca sĩ đang hát hò gì. Chỉ bán được mười mấy cuốn thơ cho đám bạn bè thương tình mua ủng hộ. Buổi ra mắt chưa xong, mà khách đã về gần hết.

Đáng ra, họ đã đến, thì ráng chịu khó thêm một chút, ở lại cho đến khi kết thúc, nó lịch sự hơn. Cũng tốn bộn tiền đấy chứ! Cái giống thi sĩ, xem tiền như rơm, như rác, nhẹ bấc. Nhưng mình là con vợ, thì phải xem tiền là cơm, là gạo, là điện, nước. Tiền là mồ hôi nước mắt. Chưa xong, đi đâu cũng lè kè mấy tập thơ, gặp ai cũng hí hửng ký tặng. Ông ấy đâu có biết người ta đem về nhà, vất lăn lóc đâu đó, không đọc, hoặc thương tình lắm, thì đọc phớt một hai bài. Thời buổi này ai rỗi mà đọc thơ?

Chị Hạ khoa tay nói lớn:
– Đáng ra chị Nguyệt phải hãnh diện có ông chồng thi sĩ chứ! Ngày xưa, tôi cứ mơ có được một chàng thi sĩ đem tôi vào thơ, để ngàn năm sau, hình bóng mình cứ thấp thoáng mãi trong văn chương. Chị Nguyệt ơi, ông chồng chị làm văn hoá, đóng góp, thêu gấm dệt hoa cho đời, còn quý gấp trăm, gấp ngàn lần làm ra tiền bạc. Tiền bạc chỉ có mình tiêu xài, và tiêu đi là hết. Văn hóa còn đó, còn mãi mãi, phục vụ cho bây giờ và cho cả ngàn sau. Chị nghĩ sao?

Chị Nguyệt lắc đầu:
– Không, tôi thực tế, tôi chỉ muốn có cơm gạo. Còn mai sau, có xui mà được lưu truyền tán tụng, tôi đã ra ma rồi, đâu biết chi nữa! Ông chồng nhiều lần làm tôi sượng mặt, ông nghe thiên hạ xúi dại, trong các bữa tiệc, ngâm thơ. Đã già rồi mà lời thơ cứ anh anh, em em, khổ đau thất tình, lửa yêu cháy bỏng, quằn quại, trái tim máu me, thân xác vật vã. Toàn cả những hình ảnh ướt át thương đau. Anh em, khổ đau, da diết, với ai đó, chứ đâu phải với tôi! Thử hỏi, bây giờ chúng ta cứ làm thơ thương tiếc người tình xưa, công khai phô diễn cái đớn đau, xót xa cho mối tình cũ, thì các ông có chịu hay không?
– Thôi thôi, đủ rồi. Lý do nào cũng đúng. Một chị lớn tuổi cắt ngang. Rồi chị tiếp lời: “Khổ đau của các chị là chuyện nhỏ, như đi đường đạp gai. Đáng ra phải nhổ cái gai ra, các chị không chịu, để thế mà đi, gai cứ làm nhức nhối mãi. Tôi còn nghe chị Hồng, chị Lê, chị Huệ than thở các ông chồng cứ ôm chặt lấy cái computer suốt ngày suốt đêm, bỏ bê việc nhà. Chồng chị Phương, chị Dung thì say mê thể thao, cá độ, mất hết tiền bạc, nợ nần. Chồng chị Thành tối ngày say sưa bí tỉ, nhậu nhẹt tì tì từ khi mở mắt cho đến khi đi ngủ. Lái xe trong khi say rượu, bị bắt còng tay. Còn chồng chị An, chị Bích, chị Chi thì đóng đinh ở quán cà phê, đánh cờ tướng, nói chuyện chính trị suốt ngày quên ăn trưa, ăn tối. Nào chị Giang, kể cho các bà nghe về nỗi khổ vì chồng con của chị đi nào!”

Chị Giang trẻ nhất trong đám các bà. Mặt mày thanh tú. Nét đẹp kiêu sa của thời con gái chưa phai tàn. Chị bình tĩnh vuốt tóc và thong thả kể:
– Ông chồng em sáu mươi chín tuổi rồi, gặp lại một bà bạn học chung lớp ngày xưa. Bà này là cô giáo cũ của em thời trung học. Khi đi học, chồng em và bà cũng chẳng có tình ý chi với nhau. Có lẽ học cùng lứa, thì các cô xem bọn con trai như em út, và các anh nhỏ cũng không dám chơi leo tơ tưởng tới các đàn chị. Năm trước họ vô tình gặp nhau, cả hai tuổi đều đã xấp xỉ bảy mươi. Thế mà họ lại yêu nhau mê mệt. Em có thể hiểu được ông chồng mình, thứ đàn ông mà trẻ không tha, già không kiêng, vốn tính trăng hoa xưa nay. Em cũng đã chán, hết cả ghen tương từ lâu. Nhưng không hiểu được bà kia, tuổi tác đó, chồng con đề huề, cháu nội cháu ngoại cả chục đứa. Thế mà hai người chơi ngông, mết nhau, say sưa điên cuồng quên hết mọi sự. Ngày nào cũng điện thoại cho nhau vài ba giờ, không biết chuyện đâu ra mà nói nhiều đến thế. Mỗi tuần họ gặp nhau ba lần tại khách sạn, hú hí đú đởn. Em cứ vô tình, không hay biết. Cho đến một hôm, trong lúc say rượu, ông ủi xe vào hàng cây bên đường, bị thương ngất đi. Cảnh sát chở vào bệnh viện. Em kêu hãng bảo hiểm nhờ kéo xe về nhà. Lục thùng xe tìm giấy tờ, thấy nguyên một bao thư mấy trăm trang, in điện thư thư trao đổi qua lại của hai người này. Đọc thư họ, em không khóc, mà chỉ cười, vì họ viết cho nhau lời lẽ tình tứ như còn ở tuổi mười sáu, hai mươi. Già tuổi đó, mà viết được cái tình cảm yêu đương mê muội của bọn con nít, thì họ cũng tài tình đáng phục. Bà ấy liều mạng, nhiều lần viết rằng: “Em sẵn sàng chịu bị cạo đầu bôi vôi, bị lột trần truồng dẫn đi rong bêu rếu và bị ném đá cho đến chết để có được tình yêu của anh”. Ghê khiếp chưa, một cô giáo có trình độ đại học mà rồ dại đến thế. Em hẹn gặp bà, ban đầu bà định chối, nói là bạn cũ gặp nhau nhắc chuyện thời đi học xa xưa. Em đưa cả xấp thư cho bà ấy xem. Bà hết hồn, mặt xanh như tàu lá và run rẩy gần ngất xỉu. Thấy thái độ của bà, em cũng thương hại. Em lên mặt dạy đời cô giáo cũ rằng: “Thưa cô, ngày xưa em kính trọng cái tư cách và phong thái đứng đắn của cô. Có những điều cô dạy, đến nay em còn nhớ. Cô thử nghĩ xem, nếu ông chồng cô, con trai con gái cô, dâu rể và cháu nội ngoại đọc được một phần trong những lá thư này, họ sẽ nghĩ gì, và đối xử ra sao với cô?” Cô ngồi run cầm cập, mặt trắng bệch như xác chết, im lặng, điếng người, có lẽ vì quá xấu hổ, quá sợ, thở dốc từng hồi. Em nói tiếp: “Thưa cô, em ước mong rằng, đừng ai gọt đầu bôi vôi, đừng lột trần truồng dẫn cô đi bêu rếu, và đừng ai ném đá cô đến chết. Đây, cô giữ lấy tập điện thư trao đổi này. Đây là bản duy nhất, em không muốn giữ làm gì. Em thương em, và thương cả cô, vì chúng ta đều là nạn nhân khốn khổ của một ông chồng mất nết. Xin cô hãy thương thầy, ông chồng già đáng kính của cô, đã chia vui xẻ buồn cùng cô, hy sinh cho cô suốt trong gần nữa thế kỷ dài. Cũng đã đi gần hết đời người rồi. Không còn bao lâu nữa.” Em đứng dậy và bước đi, không quay lại nhìn bà ấy.”

Tất cả các bà nghe đến đó, đều nhao nhao lên phản đối:
– Tại sao ngu vậy? Tại sao không chụp ra vài bản, gởi cho ông chồng và các dâu rể của bà để trừng phạt?
Chị Giang bình tĩnh:
– Để làm chi? Nếu không kéo ai lên được, thì cũng đừng nên xô họ xuống hố sâu thêm. Người ta đau khổ, xấu hổ, mà mình cũng chẳng được gì?

Các bà đồng thanh nói:

– Để trả thù, để trừng phạt. Thế thì bây giờ ông chồng của chị ra sao?
Chị Giang thở ra:
– Em không thù, thì trả thù làm chi? Bây giờ ông chồng em vẫn bình thường, vào ra trong nhà như con chó cúp đuôi biết lỗi. Con người đó, trăng hoa phóng đãng khó chừa, nhưng ông cũng còn khá nhiều cái tốt khác mà ít người có được. Em phải biết tự cứu mình, và cứu gia đình. Chắc các chị mới thấy cái bề mặt cư xử nhân từ của em đối với bà ấy mà thôi, chứ chưa thấy cái thâm độc nham hiểm còn hơn cả Hoạn Thư. Nếu em hùng hổ xỉ vả chửi mắng thô tục, thì bà đó ít đau, ít thấm thiá hơn là những lời nói nhẹ nhàng nhân hậu đó.

Bà chị lớn tuổi nhất đám đua hai tay lên trời mà than:
– Ôi sao kiếp đàn bà chúng ta chịu lắm khổ đau như thế này. Tất cả cũng đều do bọn đàn ông gây ra cả. Thế nhưng, thiếu đàn ông, thì đâu có sống bình thường được, đàn bà sẽ khô héo như đem cây trồng vào sa mạc. Nhưng có phải khổ đau trong đời sống vợ chồng, một phần lớn cũng do chúng ta tự tạo ra chăng? Bởi thế, tôi nhớ có gã triết gia cà chớn nào đó viết đại ý rằng: “Nguyện vọng thiết tha nhất của đàn bà con gái là kiếm cho ra một tấm chống, nhưng khi có một tấm chồng rồi, thì họ muốn có tất cả”. Cũng không phải hoàn toàn sai đâu.

Tràm Cà Mau
Ghi chú
*Bao Tự: một người đàn bà đẹp thời Xuân Thu bên Tàu
** Nhị cú tam niên đắc. Nhất ngâm song lệ lưu. Tri âm như bất thưởng. Quy ngọa cố sơn thu.

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

ĐỨA CON DÂU

Bà Năm rất hãnh diện vì Tâm, đứa con trai học hành chăm chỉ. Tâm tốt nghiệp bằng bác sĩ y khoa, thực tâp tại bệnh viện sắp xong, và chuẩn bị đi làm việc.
Tâm thường ôm đàn, búng tưng tưng và hát nghêu ngao.Tâm thường lập đi lập lại những câu hát ca ngợi “người em gái” nào đó. Lời rất dịu dàng, êm ái. Bà Năm nghe Tâm hát mãi, nói rằng:
– Em gái của anh, thì anh la mắng, nạt nộ, sai làm chuyện nầy, bảo làm chuyện kia, còn bắt phạt, bắt quỳ. Còn em gái người ta, thì bốc lên thấu tận trời xanh.
Tâm trả lời yếu đuối:
– Bài hát mà má. Thì rồi em Hương nhà mình, cũng sẽ được mấy anh con trai dại dột khác, bốc lên thấu trời xanh thôi.
– Sao anh không bốc em của anh lên một chút, cho nó vui, sung sướng. Có hơn là đi bốc thiên hạ không?
Bà Năm thường làm hết mọi việc trong nhà ngoài ngõ. Anh con trai chưa bao giờ mó tay vào làm bất cứ chuyện nhỏ nhặt nào trong gia đình nầy, từ rửa chén bát, hút bụi nhà, sửa cái bóng đèn đứt dây, cắt cỏ, quét lá trong vườn. Anh như một người khách thuê khách sạn, trong ngoài, mọi sự đã có người khác lo.
Một buổi sáng Chủ Nhật, bà thấy Tâm đem máy ra, cắt cỏ sân trước nhà. Bà ngạc nhiên, há hốc miệng đứng nhìn đứa con trai đang hì hục, vụng về đẩy chiếc xe cắt cỏ. Xưa nay, anh chưa hề đụng đến việc nhà. Anh đã quen thói. Có nhờ được anh cũng khó khăn, và chưa chắc đã làm. Anh cứ lần khân mãi, rồi quên việc người khác nhờ.. Hôm nay bà thấy Tâm cắt cỏ cẩn thận, cắt đi cắt lại, nghiêng đầu nhìn ngắm mãi, cho đến khi vừa lòng mới thôi. Bà Năm đứng chống nạnh, âu yếm nhìn con:
– Sao hôm nay con giỏi thế? Cắt cỏ giúp cho bố mẹ. Lại cắt cẩn thận, cắt đẹp nữa!
Tâm nhìn mẹ cười, và nói tỉnh bơ:
– Tuần trước, Lam ghé đây chơi, thấy cỏ cao, bảo con sao không cắt cho đẹp vườn.
– Lam là ai?
– Là bạn gái của con.
Bà Năm hừ một tiếng nhỏ tức tối. Con của Bà sinh ra, nuôi nấng, thương yêu, bà nhờ không được, bà nói không nghe, thế mà cái con Lam nào đó, mới mở miệng một tiếng, thì nó lại răm rắp làm. Trong lòng bà, bỗng thấy không ưa cái con Lam kia. Bà cảm thấy hơi buồn
2.
Sáng chủ nhật, bà pha cà phê cho chồng, và pha luôn cho Tâm một ly. Bà biết hai bố con đều ghiền, buổi sáng không có ly cà phê thì xem như mở mắt không ra. Thấy anh con trai không buồn động đến ly cà phê thơm, bà hỏi:
– Sao con không uống liền đi, để nguội mất ngon, hương cà phê bay đi hết.
– Thôi, con không uống cà phê nữa má à. Con đang tập bỏ cà phê.
– Sao vậy?
– Lam bảo con bỏ cà phê! Uống cà phê không tốt.
Nghe con nói mà bà điên tiết, muốn lộn máu lên. Lam là đứa nào, có quyền lực gì, mà làm cho thằng con trai cưng, thương yêu của bà răm rắp tuân lời? Bà thương con, muốn cho con vui, bà ra lệnh:
– Uống đi. Mẹ đã pha ra rồi. Ðừng uống quá nhiều thì thôi, chứ vừa phải, cà phê cũng tốt cho sức khỏe.
Anh con trai cưng của bà, đánh trống lảng, rồi bỏ lên lầu, không đụng đến ly cà phê bà đã pha. Bà Năm bực bội, quậy ly cà phê và uống từng ngụm nhỏ. Bà nói với chồng:
– Thằng Tâm nhà mình thế mà dại gái. Cha mẹ nói cho rát họng, thì không nghe, cái con nhỏ vất vơ nào đó, nói ra cái gì, thì nó răm rắp nghe theo như kinh điển. Thiệt là bực. Con mình sinh ra, dạy dỗ, nuôi nấng, mà nó không xem mình bằng …
Ông chồng bà cắt ngang:
– Thôi bà ơi. Nó cũng đã lớn rồi, khi mới yêu, thì ai cũng vậy, mai mốt sẽ khác. Bà có nhớ không, hồi xưa khi tôi mới yêu bà, tôi cũng nghe theo bà răm rắp …
– Bây giờ thì ông không thèm nghe theo tôi bất cứ chuyện gì nữa. Lại còn nạt nộ, gầm gừ.
– Có chứ, khi nào bà nói đúng thì tôi nghe theo, chứ bà sai, bắt tôi theo sao được? Ngay cả bà nội tôi, nếu nói sai, thì tôi cũng phải thưa lại cho đúng, chứ huống chi là vợ?
– Ừ, bây giờ anh có tôi rồi, thì xem thường nhé!
– Vẫn quý vợ như thường. Nhưng đúng sai, phải làm cho ra lẽ.
Mỗi lần bà thấy Tâm không hớt tóc theo kiểu cũ, lối tóc xửng ra như rễ tre, mà hớt lối mới trông gọn gàng, lịch sự hơn. Bà khen Tâm. Tâm nói rằng Lam không thích kiểu tóc cũ. Nghe mà bà giận, bực mình. Nhưng bà công nhận kiểu tóc mới, con bà trông đàng hoàng hơn.
Mấy tuần sau, khi Hương đi chơi về, báo cho bà Năm biết:
– Mẹ ơi, Con gặp anh Tâm đang bưng thức ăn cho khách tại tiệm Hương Bình. Anh còn cắt rau, nhặt tôm, phụ bếp nữa.
– Mẹ không hiểu con nói gì.
– Tiệm của bố mẹ chị Lam ấy mà! Anh ấy đến đó làm việc, lấy điểm với ông bà già chị Lam.
Bà Năm mặt mày nhăn nhó, thở dài, thất vọng nói:
– Tiền bạc nó đâu có thiếu.. Ở nhà thì chưa bao giờ rửa cái bát. Chưa bao giờ nấu nồi nước sôi giúp mẹ. Chắc cũng làm không công. Thế mà, thế mà …
Ngay tức thì, bà kêu Hương lái xe cho bà đi xem mặt mũi cái con Lam kia ra thế nào, mà sai khiến được ông con cưng của bà như vậy.
3.
Bà Năm hầm hầm đi theo con gái, miệng mím lại. Hương dặn bà đừng vào tiệm, đi ngang qua bên ngoài dòm vô thôi. Hai mẹ con đi qua tiệm nhiều lần. Khi được nhìn thấy mặt đứa con gái tên Lam, bà càng giận hơn. Trở về nhà, bà bứt rứt, đi lui đi tới, chờ anh con trai cưng về; bà sẽ cho một trận tơi bời cho đã giận. Khi Tâm về nhà, chưa kịp thay áo, đã bị bà Năm gào to:
– Khôn nhà dại chợ, việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng. Việc nhà không đụng móng tay vào, ra ngoài thì làm mọi không công cho thiên hạ. Học hành cho giỏi, đỗ đạt bằng cấp nầy nọ, mà vẫn cứ ngu dại như thường.
– Thưa mẹ, mẹ nói gì?
– Thằng ngu! Cái con Lam đó, xấu xí, da ngăm, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, ngực lép, mông teo. Ðã ăn phải bùa mê thuốc lú của nó chưa, mà đi làm mọi cho gia đình nó? Nếu nó đẹp đẽ, nghiêng nước nghiêng thành, mà mê nó, thì không nói làm chi. Xấu xí như vậy, mà cũng mê muội, mới tức chứ. Cha mẹ nói thì không nghe, lại nghe lời đứa con gái vất vơ đó. Tưởng cành vàng, lá ngọc, con vua, cháu chúa chi cho cam, con nhà tiệm ăn …
– Mẹ đừng kỳ thị. Mẹ từng nói với con, nghề nào cũng quý.. Sao bây giờ mẹ chê nghề tiệm ăn? Mẹ thấy Lam xấu, mà con thấy đẹp thì sao? Tùy theo khiếu thẩm mỹ của mỗi người.
Bà Năm cười chán nản, và chế nhạo. Lặp lại một lần nữa, cái nhận xét của bà về cô Lam:
– Ừ, cái khiếu thẩm mỹ của anh lạ lắm, đen điu, trán ngắn, mắt hí, mũi xẹp, miệng móm, người lép kẹp, là đẹp, đẹp lắm. Ha ha ha …
– Nhưng tổng hợp tất cả lại, thì nhìn rất có duyên mẹ à. Con gái, có duyên thì thu hút và hấp dẫn hơn đẹp. Con không cần vợ đẹp. Mấy cô đẹp, thì kênh kiệu, vác cái mặt lên, đòi hỏi đủ điều, và tham vọng không bao giờ ngừng. Họ khó khăn, họ tưởng đâu có cái đẹp là có quyền hành như bà hoàng. Lấy mấy cô nầy làm vợ, mệt lắm, và chưa chắc đã được lâu bền.
Bà Năm há miệng ra vì ngạc nhiên, nhìn ông con trai của bà chòng chọc. Bà nói:
– Khiếp, ăn nói như cụ già tám mươi. Ai dạy cho anh những điều đó? Thôi, anh đã khôn đến vậy, thì mẹ chịu thua.
– Thì ba mẹ vẫn thường nói vậy, và kinh nghiệm riêng của con cũng thấy thế.
Thương và cưng con, bà không muốn con bà thương ai hơn, nghe lời ai hơn là nghe lời bà. Cái ác cảm với cô Lam không làm sao vơi được trong lòng bà.
4.
Những khi Tâm mời Lam về nhà chơi, bà Năm cố tình làm mặt lạnh nhạt, và để lộ ra rằng, bà không ưa cô. Bà còn nói bóng gió xa gần rằng, đàn bà không có ngực, sau nầy khó nuôi con. Ðàn bà vòng mông nhỏ, sinh con khó, hiếm muộn. Lam vẫn vui vẻ, bình thường, làm như không biết bà Năm đang ám chỉ cô. Thấy thái độ của mẹ, Tâm không dám đem Lam về thăm nhà thường xuyên. Ông Năm khuyên vợ rằng:
– Bà càng tỏ ra chống đối, thì chúng nó càng khắng khít. Tình yêu là một thứ kỳ cục, càng có nhiều trắc trở, thì càng nhiều nồng nàn, cháy bỏng. Tình yêu xuôi chèo thuận mái quá, thì cũng không bền. Bà cứ để cho chúng nó tự do tìm hiểu nhau, đừng gây trắc trở, khó khăn, mà sau nầy có hậu quả không tốt, con dâu nó xa lánh gia đình chồng, và mình cũng mất con luôn.
Bà Năm cũng hiểu thế. Nhưng cái ghét bỏ cô Lam vẫn tiềm tàng trong lòng bà. Có lẽ tại vì Tâm nghe lời cô nầy răm rắp, mà không nghe lời bà, là người mẹ đã dành hết yêu thương cho con. Nó coi người khác quan trọng hơn bà. Ông Năm nói rằng, việc chi mà ganh tị tình thương? Khi còn trẻ, thì ganh với bà mẹ chồng, bây giờ thành bà mẹ chồng, thì lại ganh với con dâu.
Cứ cái vòng luẩn quẩn quay đi quay lại mãi, không được gì, mà chỉ gây thêm sứt mẻ, lộn xộn. Dân Á đông, thì mẹ chồng nàng dâu lục đục. Dân Âu Mỹ, thì mẹ vợ và con rễ không ưa nhau. Có cả ngàn câu chuyện chế giễu bà mẹ vợ do các ông viết ra. Như chuyện diễu về ông Adam, thủy tổ loài người, bảo rằng ông nầy là người đàn ông sung sướng nhất, vì ông không có một bà mẹ vợ.
Dù cho bà Năm có bóng gió, nói xấu cô Lam đến mấy, anh con trai cưng của bà vẫn không suy suyển cái tình si dành cho cô nầy. Bà mẹ có dàn cảnh, giới thiệu cho anh bao nhiêu cô gái khác, đẹp hơn, anh cũng không màng liếc mắt đến.
Bà Năm cắn răng chấp nhận cho Tâm cưới cô Lam. Bà tiếc rằng, từ nay những bà bạn có con gái đến tuổi cặp kê, hết o bế bà, bớt nồng nàn, tử tế như xưa.
5.
Sau đám cưới, bà Năm xuống nước năn nỉ Tâm khoan dọn ra riêng. Anh con trai không trả lời dứt khoát, và cho biết tùy theo ý kiến của vợ. Bà Năm phải nói thẳng với cô con dâu rằng, nếu các con khoan dọn ra riêng, thì sẽ tiết kiệm được một số tiền, mua nhà sớm hơn, và tốt hơn.
Cô con dâu vui vẻ trả lời rằng, nếu ba mẹ cho chúng con ở chung trong thời gian đầu, thì chúng con mừng lắm, được ba mẹ cho ở, cho ăn, và gia đình sum vầy, thì vui hơn là tách biệt ra. Câu nói của đứa con dâu làm bà mát ruột. Sau thời gian đầu bỡ ngỡ, đứa con dâu dần dần thích nghi với sinh hoạt của gia đình. Ban đầu, bà Năm nghĩ rằng, lại phải hầu hạ thêm một cô nương nữa. Bà không ngại, miễn sao giữ anh con trai cưng của bà lại trong gia đình là được. Mỗi khi cô con dâu tự ý làm giúp cho ông bà việc gì, bà Năm nói nhỏ với chồng:
– Cô dâu nầy, ưa làm màu lắm.
Ông chồng bà trả lời:
– Thà có đứa con dâu làm màu, còn hơn là đứa ngang ngạnh, không coi ai ra gì.
Nhiều buổi sáng rất sớm, bà Năm nghe tiếng thở phì phò, tiếng huỳnh huỵch ngoài phòng khách, bà tưởng hai vợ chồng anh con trai đang làm trò khỉ. Một lần bà hé cửa nhìn xuống lầu, thấy Tâm và Lam đang múa tay, múa chân tập thể dục. Bà lắc đầu. Con trai bà, chưa thấy tập thể dục bao giờ, nay vì vợ mà tập. Bà cho rằng, con trai mà nghe lời vợ quá, cũng không tốt. Bà thử múa tay, uốn éo thân mình theo các cử động của hai người, bà nghe khoái cảm trong bắp thịt, xương cốt, và tiêu tan bớt rất nhiều mỏi mệt. Không lâu sau đó, nhiều buổi sáng, bà tập thể dục theo con, và cả ông Năm cũng tham gia. Trong phòng khách buổi sáng, theo tiếng hô của Lam, bốn người nhịp nhàng múa tay chân, hít thở trong vòng hai mươi phút trước khi ăn điểm tâm và đi làm việc. Mỗi sáng thứ bảy, chủ nhật, Tâm lái xe ra công viên rất sớm, cùng cha mẹ và vợ, chạy bộ vòng quanh sân cỏ, hít thở không khí trong lành, tập những động tác uyển chuyển.
Sau đó, cùng đi ăn sáng. Bà Năm cảm thấy, nhờ có đứa con dâu mà tình mẹ con của bà gần gũi hơn, sau bao nhiêu năm gần như gián đoạn, kể từ ngày anh bước vào tuổi mười tám, hai mươi.
Hai ông bà Năm trở nên mê cái món cháo gạo lức, nấu đặc rền, ăn với cá nục kho khô, mặn, có tiêu ớt. Ăn vào buổi sáng, do cô con dâu nấu. Ban đầu bà Năm cười cái món ăn nầy của người nhà quê. Nhưng cô dâu nói rằng, đây là món ăn vua chúa, chứ không phải món nhà quê. Sử sách có chép rõ, các ông vua triều Nguyễn rất khoái ăn cháo trắng buổi sáng. Ông bà Năm cũng phải công nhận ăn cháo vừa ngon, vừa tốt cho sức khỏe, bớt được chất béo, chất đường.
6.
Mỗi buổi chiều, bà Năm về nhà trước con dâu chừng nửa giờ. Bà vào bếp chuẩn bị, cắt rau, cắt thịt. Cô con dâu vất xong cái cặp vào phòng, chạy vội xuống bếp, phụ mẹ chồng sửa soạn cơm tối. Thời gian đầu, cô phụ làm các việt lặt vặt, chỉ làm những chuyện mẹ chồng sai bảo. Cô con dâu phụ bếp, dù không phụ được gì nhiều, nhưng bà Năm thấy vui, tự ái của bà không bị tổn thương.. Bà có thể hầu chồng, hầu con, chứ không muốn mang tiếng làm mọi cho cả con dâu. Nhìn thấy cô con dâu vui vẻ, hát hò trong khi làm bếp, bà cũng vui lây.. Thì ra, cô làm với tấm lòng, với sự chia xẻ, chứ không phải miễn cưỡng. Cô con dâu múa dao lia lịa, cắt hành, cắt rau, ớt, nhanh như các anh đầu bếp Tàu chiếu trên truyền hình. Thỉnh thoảng, cô con dâu đề nghị bà Năm nấu món ngon cho cả nhà, ăn chơi cho vui, ăn chơi ngon hơn ăn thật, cô lảnh trách nhiệm nấu các món nầy. Cô nấu phở, bún bò, cháo lòng, hủ tiếu, bánh canh, bún riêu, mỗi chiều ăn một món thay cơm. Cả nhà vui vẻ hơn, ông Năm nói rằng, nấu ở nhà ngon như thế nầy, thì đi tiệm làm gì. Bà Năm học thêm được những bí quyết nấu ăn của cô dâu, và cộng thêm kinh nghiệm cũ, bà nấu càng ngon hơn. Bà mời bạn bè chồng đến, trổ tài nấu nướng. Nhiều người khen và khuyến khích bà ra mở tiệm ăn. Bà con, bạn bè đòi hùn vốn mở tiệm. Bà Năm sung sướng và quyết định thôi việc, ra làm kinh doanh.. Trong một bữa ăn, cô con dâu nói với ông bà:
– Dì Chính bảo rằng, nếu mình ghét ai thậm tệ, muốn trả thù, thì cứ đem tiền cho mượn, xúi họ mở tiệm ăn, cho họ khổ, bỏ ghét. Làm tiệm ăn, khách ít thì lo, khách đông thì khổ, làm một ngày mười sáu, mười tám giờ cũng không hết việc. Nắng cũng lo, mưa cũng lo. Cực lắm, đầu bếp cũng cực, phụ bếp cũng cực, chủ tiệm còn cực hơn. Dì Thu bạn của mẹ con mở tiệm phở, bị ông đầu bếp bóp cổ, phải kêu cảnh sát can thiệp. Ông đầu bếp mệt và cực quá, mà Dì thì quá lo lắng, thúc hối, hỏi han. Ông nổi khùng, bóp cổ Dì. Bố mẹ con, lỡ mở tiệm, không lui được nữa, cực lắm lắm, ông bà mệt quá, gây gỗ nhau hoài. Nếu mẹ muốn mở tiệm ăn, thì hãy suy nghĩ cho kỹ lại. Ít nhất cũng giả vờ đi làm công cho thiên hạ, phụ bếp hoặc làm đầu bếp vài ba tháng cho biết đá biết vàng. Rồi quyết định.
Nghe con dâu nói bà hoảng hồn. Không dám ra làm kinh doanh nữa.
7.
Nhiều hôm, cô con dâu hớt hải chạy về kêu bà Năm thay áo quần ra xe đi gấp, ra phố mua hàng với cô. Vì hàng hạ giá, chỉ còn một hôm nữa là hết hạn. Cô ríu rít khoe rằng có người mách cho biết, hàng hạ xuống trên bảy mươi lăm phần trăm, không mua uổng lắm.
Bà vui vẻ ngồi bên đứa con dâu, cô vừa lái xe vun vút trên xa lộ, vừa nói chuyện vui vẻ. Khi vào tiệm, cô ép bà thử áo nầy, thử váy kia, tíu tít. Rồi cô con dâu dành trả tiền mua áo quần cho mẹ chồng. Để bà khỏi thắc mắc, cô nói:
– Tiền nầy do anh Tâm làm ra, mẹ có quyến xài. Anh Tâm sẽ rất vui, khi biết mẹ dùng tiền nầy.
Sau đó, hai mẹ con rủ nhau đi ăn, ngồi nói chuyện trong quán, và mua thức ăn về cho cả nhà. Có lần bà Năm giận ông chồng, ngồi khóc. Cô con dâu đến ôm bà, vuốt ve và hôn lên trán bà mà an ủi. Cô kéo bà đứng dậy, đi rủ bà lên San Francisco chơi.
Hai mẹ con đi bộ long rong qua chợ Tàu. Khi đã mỏi chân, cô con dâu cùng bà vào quán cà phê, ngồi ở dãy bàn dọn lấn ra trên lề đường cùng uống trà, ăn kem. Ngồi nhìn thiên hạ qua lại, cô con dâu nói với bà:
– Ngồi đây, đôi khi cũng thấy tâm hồn thư thái. Nhìn cái tất bật của thiên hạ, thấy cái nhàn nhã của mình, rồi biết quý cái hạnh phúc đơn sơ mà mình đang có.
Bà Năm cũng thấy vui vui, và quên bớt đi cái giận hờn ông chồng. Cô dâu nói với bà:
– Trời có khi nắng khi mưa, vợ chồng có khi vui khi buồn. Rồi mọi sự đều qua. Khi nào buồn, con đem mẹ đi chơi, giải trí. Hôm nào hai mẹ con mình rủ nhau đi xem chớp bóng, khuya mới về, để cho các ông ở nhà chờ, và đói một bửa chơi. Như vậy, các ông mới biết quý cái không khí ấm áp của bữa cơm bình thường mỗi ngày trong gia đình.
Mỗi buổi sáng, ông Năm đều nhắc rằng, nhờ có cái máy cà phê áp suất do cô con dâu mua tặng, nên ông có cà phê ngon mà uống. Đến sở khỏi phải tốn tiền mua cà phê áp suất bên góc đường. Nhiều hôm cô con dâu mua thức ăn ngon bên ngoài đem về. Ríu rít nói là cô ăn ngon quá, mua về cho cả nhà ăn cho vui. Không cần ăn ngon hay dở, nghe thế là bà Năm đã cảm động. Xưa nay, con bà, chồng bà, chưa hề thấy ngon mà mua về cho bà.
Sau một thời gian ở chung với cô con dâu, đi đâu, bà Năm cũng khoe là bà có thêm một đứa con gái, có thêm một người bạn thân để tâm sự khi vui buồn. Bà nói thêm, từ ngày anh con trai có vợ, gia đình thấy vui vẻ, hạnh phúc và thương yêu nhau hơn. Bà khen anh con trai khôn ngoan và khéo chọn bạn trăm năm. Bà không còn chê cô dâu là trán ngắn, mắt hí, miệng móm nữa.
8.
Một hôm đã khuya, bà Năm thức giấc xuống lầu uống nước, thấy có bóng người thấp thoáng ở sân sau nhà, bà ghé mắt nhìn. Trăng vằng vặc trải ánh vàng xuống khắp vườn. Bà thấy Tâm quàng tay qua vai vợ ngồi tựa ngữa, chân gác lên ghế. Bà nghe tiếng thì thầm:
– Đôi khi thấy mẹ anh thương, và bênh em, làm anh phát ghen lên. Em làm gì mà mê hoặc được mẹ anh đến thế?
Tiếng cô con dâu trong trẻo đáp lại:
– Thương yêu và thông cảm. Đem hết tấm lòng mình ra mà đãi người, rồi sẽ được đáp lại bằng tấm lòng. Nhờ em biết thương yêu ba mẹ anh như ba mẹ ruột, thì ông bà mới thương yêu em như con ruột. Em có thêm một ông bố, một bà mẹ, một cô em, có thêm nhiều tình thương. Từ đó, vợ chồng mình hòa thuận hơn, thương yêu nhau hơn, và lâu bền hơn, hạnh phúc hơn.
Bà Năm len lén trở lại phòng, chíp miệng và nghĩ rằng, bà đã già một đời mà còn ngu dại, cứ ganh ghét với gia đình chồng, ganh ghét với con dâu. Bọn trẻ con ngày nay, có nhiều đứa khôn nứt hạt.

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

KÍ ỨC CHIỀU BA MƯƠI TẾT

Ngưng Thu


Hôm nay được tin bà vợ ông Bách vừa mới được đưa từ bệnh viện về, nghe nói kỳ này chắc không qua khỏi, vì hình như là bác sỹ chạy rồi. Mấy cụ trong xóm bảo nhau:

- Đã ung thư rồi thì khó mà qua lắm.

Đó là một người đàn bà mà tôi nhớ mãi trong đời.


Mẹ tôi vẫn ngồi đó, cái thớt vẫn còn nằm lọt trong cái trẹt nom cũng cũ kỹ lắm rồi, hai hàng nước mắt mẹ cứ chảy dài xuống má. Tôi đứng nhìn mẹ mà không biết nói gì, chỉ biết là thương mẹ lắm, nhưng tôi tính tình vốn hay rụt rè ít khi thể hiện tình cảm ra ngoài bằng cử chỉ hành động mà chỉ biết im lặng quan sát, lúc đó nước mắt của mẹ cũng làm tôi rưng rưng.

Sáng ba mươi tết, nhìn thấy sợi lạc treo cục thịt heo trên đầu bếp, mấy anh em tôi vui mừng đến sướng rơn cả người, mẹ nói là không có tiền mua sắm quần áo tết cho chúng tôi thì cũng hơi buồn chun chút nhưng nỗi buồn đó cũng qua thật nhanh khi biết là không có quần áo mới thì dù gì nhà mình cũng còn có thịt để ăn. Thằng em út tôi mới hai tuổi rưỡi, nhưng cũng khoái nhất món thịt kho với trứng của mợ tôi, mỗi khi cúng giỗ cậu mợ mang sang cho một ít, thể nào mẹ tôi cũng để dành cho nó. Út được mẹ cưng ghê lắm.

- Út oi mà.

Mẹ hay nói thế mỗi lần ôm hôn Út.

Tháng tết này gà trong nhà đẻ cũng đựơc vài ba chục trứng nhưng mẹ đem bán hết chỉ chừa lại cũng tròn mươi quả. Tưởng tượng tới món thịt kho trứng trong mấy ngày tết là mấy anh em tôi quên ngay mọi cái thiếu thốn khác mà cứ là sướng rơn trong bụng. Ôi ! cái mùi thịt mẹ kho thì mới tuyệt làm sao, chỉ nghĩ tới tôi cũng đã chảy cả nuớc miếng.

Trưa đến hơn đứng bóng mẹ mới xong việc chợ đò, vừa gánh cái gánh về đến nhà là mẹ tay xắn áo xắn quần lau dọn nhà cửa làm đủ thứ việc. Ấy là ở nhà đã có mấy cha con dọn dẹp tổng vệ sinh nhà cửa, giặt mùng, giặt mền trước đó mấy hôm rồi. Vậy mà không biết việc đâu ra mà mẹ cứ quần quật suốt. Cũng tới lúc mẹ đem thịt ra chặt kho, tôi đang ở ngoài vườn cùng các em tôi, mấy đứa này đúng là …chỉ thích nghịch đất, mà cũng đúng thôi, con nhà nghèo như anh em chúng tôi có cái thứ trò chơi gì đâu, không nghịch đất em tôi chơi cái gì cớ chứ.

Có tiếng người gọi ngoài cổng. Mấy em tôi còn đang nghịch đất ngoài vườn, tôi là chị lớn nên hay phụ mẹ lo la rầy nhắc nhở và tắm rửa cho các em. Không biết mẹ và người đàn bà đó nói gì với nhau, một lát sau, người ấy đi ra, tay xách cái xâu thịt mà ba tôi treo trên bếp khi sáng. Tôi và các em tôi ngơ ngác không biết chuyện gì xảy ra với mẹ, chỉ thấy mẹ ngồi đó, nước mắt đâu mà mẹ cứ tuôn ra tuôn ra hoài thế không biết, các em tôi ngây thơ không hiểu gì. Đứa út thấy mẹ khóc nên cứ cuống quýt gọi :

- Mẹ ơi ! mẹ ơi !

Mẹ tôi ôm đứa út vào lòng không nói gì cứ thế mà nước mắt tuôn trào. Còn tôi thì cứ đứng ngây người ra đó và nước mắt thì cứ tuôn theo. Tuy không biết gì nhiều, nhưng tôi cũng lờ mờ hiểu có lẽ là bà ấy xiếc nợ mẹ thôi, làm ăn buôn bán quanh năm trên mảnh đất nghèo nàn này mẹ nuôi chúng tôi lớn lên hàng ngày như thế này cũng là quá vất vả. Năm hết tết đến, nợ nần chỗ khất đựơc chỗ không, mẹ không oán trách người đàn bà ấy mà chỉ thương các con không còn thịt thà gì trong ngày tết nữa…

Lúc đó không có ba ở nhà, ba vừa đi đâu đó hình như là có bác bên xóm gọi qua phụ bác làm tất niên. Nhìn mẹ khóc, lòng tôi thật sự rất đau, tôi không hiểu lắm chuyện người lớn nói gì với nhau, nhưng lúc đó tôi đã học lớp năm, nên tôi cũng biết thương mẹ. Tôi hiểu lòng mẹ, mẹ vất vả vì chúng tôi quá nhiều, đời mẹ gian khổ không sao, muốn cho con cái có miếng thịt trong ngày tết mà cũng không thể, mẹ ngồi yên trước cái trẹt cũ mà gương mặt buồn rười rượi. Tôi luôn để mắt tới mẹ, gió từ cửa bếp thổi vào làm tóc mẹ bay phất phơ. Hơn bốn mươi tuổi mà hình như lúc này tôi thấy tóc mẹ trắng đi nhiều, nhìn mẹ ôm em tôi vào lòng, tôi thương em tôi quá và cũng thương mẹ càng nhiều hơn.

Một lát sau đó, mẹ tôi vẫn chưa đứng dậy, cứ ngồi thừ ra trước tấm thớt không còn miếng thịt nữa. Trông mẹ già hẳn đi nhiều lắm. Lại có tiếng người đàn bà khi nãy ngoài cửa trước. Chuyện gì nữa đây? Tôi lo lắng không biết bà ấy sẽ làm gì mẹ tôi nữa, mẹ đã khóc nhiều rồi. Nhưng không, bà ấy đi xăm xăm vào nhà, đi thẳng xuống bếp và tới gần cái trẹt vẫn còn đó, bà thả cục thịt cái bạch xuống ngay tấm thớt gỗ, nhìn mẹ tôi có vẻ hơi bực bực một chút nhưng trong ánh mắt bà ấy là cả sự thương cảm, không nỡ tâm… Chắc là trên đường về bà ấy suy nghĩ thế nào rồi quay ngược trở lại.

Mẹ tôi rối rít cảm ơn bà ấy nhưng bà không nghe và cũng không nhìn mẹ mà cứ thế một mạch đi ra… Mẹ ôm em tôi hôn liên tiếp mấy cái rồi lại ngồi chặt thịt tiếp… Mẹ vui vì chúng tôi vẫn có thịt để ăn, nhưng trong ánh mắt xa xăm của mẹ, tôi nhìn thấy một nỗi buồn vời vợi …



Đám tang bà vợ ông Bách, cả tôi và ba tôi đều đến. Tôi vẫn còn nhớ như in hình ảnh của bà ấy lúc xách xâu thịt đi ra khỏi bếp nhà tôi hơn ba mươi lăm năm về trước. Nhưng mà sao tôi không hề oán ghét bà, lúc đó cũng như bây giờ, khi mà giờ đây bà đã nằm yên bất động và chuẩn bị đi vào lòng đất… Tôi cũng đã thầm cảm ơn bà vì dù sao lúc đó bà cũng đã quay trở lại với xâu thịt trên tay. Con người sống chết là thế đấy. Có những việc làm mà sau bao nhiêu năm người ta vẫn còn nhớ.

Đó là kí ức mà trong đời tôi chẳng thể nào quên… Và có lẽ trong cuộc sống thường ngày, khi chứng kiến sự lớn lên rồi trưởng thành của chúng tôi, lòng bà không hề ray rứt vì cảm thấy mình đã làm rất đúng.

Tôi đưa tay lên ngực mình cầu nguyện. Tôi cầu cho bà ra đi được thanh thản. Gió mùa thu hiu hiu buồn và lòng tôi cũng mang mác một nỗi buồn. Con người sống chết vô thường quá. Thế mới cần phải biết là nên ăn ở với nhau như thế nào trên đời.

Ngưng Thu

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Bệnh Viện và Nghĩa Trang

Image

Chị thì thầm vào tai anh:

“Còn mấy hôm nữa là rằm tháng Giêng chắc mình phải về nhà chứ.”

Anh kéo chiếc mền mỏng lên ngang ngực, chiếc mền ngắn quá, lòi cả nửa ống chân ra ngoài. Anh nhìn chung quanh một vòng, ngượng ngùng co chân lại.

“Về sao được em, phải chờ chứ, còn nước còn tát, mấy hôm nay thằng bé cũng thấy khá hơn một chút.”

Hai vợ chồng đang nằm ngủ ngay trước cửa Bệnh Viện Ung Thư, con trai họ 12 tuổi kiếm được một chỗ nằm chung một giường với một đứa trẻ khác bên trong, (sau khi anh chị đưa cho y tá trực ở đó hai lần hai cái phong bì.) Dưới gầm giường thì có bố mẹ của đứa bé kia rồi, không còn chỗ cho anh chị nữa.

Họ lên đây từ trước Tết, đợi mãi mới tới phiên con được khám. Trong khi chờ thì cứ ngồi, nằm, ngay ở hành lang bệnh viện. Anh chị không phải là cặp vợ chồng duy nhất ngủ ở ngoài này. Số người chờ khám cho thân nhân hay chờ khám cho chính mình nhiều hơn số giường của bệnh viện có, nên người chờ đợi, ăn, ngủ, tràn lan ra tới hành lang.

Image
Nằm Chờ Khám Bệnh

Trời mưa lụt, nước tràn ngập cả trong phòng đợi, người ngồi, kẻ nằm trên những chiếc ghế nhựa trông thật thảm thương. Ngày khô thì chiếu trải la liệt dưới đất. Bệnh Viện mà trông như trại tỵ nạn.
Image
Nước lụt trong phòng chờ ở Bệnh Viện Ung Thư-Hà nội


Image
Bệnh Viện Ung Thư Hà Nội
Anh chị từ Hòa Bình mang con về Hà Nội chạy chữa, thằng bé 12 tuổi đang đi học bỗng ngã bệnh, chữa mãi Bác Sĩ tỉnh nhà không khỏi, thử máu, chụp hình mới biết là bị ung thư màng óc.

Chị lại thì thầm:

“Tết mình đã không có mặt ở nhà để cúng ông bà, thì Rằm cũng phải về cúng Phật chứ anh. Hay em ở lại với con, anh về mấy hôm đi.”

“Anh về cũng chẳng an tâm được. Mấy hôm ngủ ngoài sương thấy em đã bắt đầu ho.Thôi, Trời Phật cũng thông cảm cho mình.”

Chị im lặng một lúc, lại ngập ngừng nói:

“Thôi anh cứ yên tâm về đi, còn bà nội thằng Tí ở nhà nữa, anh về đi kẻo mẹ trông, em biết là mẹ mong anh về lắm.”

Người chồng ngồi hẳn dậy, co hai chân lên vòng tay ôm qua đầu gối, thở dài.

“Ừ, chắc anh nên về, em nói đúng, bà nội thằng Tí đang mong tin lắm. Anh đã chia tiền ra từng gói nhỏ để em tiện chi tiêu. Tiền trả cho Bệnh Viện chữa trị, tiền đưa bác sĩ thì anh để riêng, tiền đưa y tá, tiền lao công anh cũng để riêng.”

Người vợ ngồi hẳn dậy, quấn lại cái chăn cho gọn, thu xếp mấy cái túi đựng cả một gia đình lưu động của mình. Chị nhìn chung quanh một vùng bao quát, trong ánh nắng sớm mai yên tĩnh mọi người chưa thức dậy hết. Họ nằm ngang, nằm dọc, hay xoay chân ngược chiều nhau. Những bàn chân gầy gò, và những cái đầu xơ xác tóc, họ đang ngủ hay đã thức rồi mà vẫn còn nằm im lo lắng bất an. Mặt trời sẽ lên, thêm một ngày chờ đợi, đến bao giờ mới tới phiên mình, hay phiên của người thân mình. Số tiền mang trong túi, cài hai ba cái kim cho chặt, liệu có đủ trả tiền chạy chữa, tiền thuốc và tiền phong bì không?

Nói đến phong bì chị bỗng nhớ, hỏi anh:

“Tiền anh lo đủ rồi nhưng anh quên chưa mua phong bì cho em. Đưa thẳng tiền mặt ra ai đứng gần cũng nhìn thấy, không tiện đâu.”

Anh ngẩn người ra, ừ nhỉ mấy hôm nay bận quá, cứ lo chỗ ăn chỗ ngủ cho con bên trong bệnh viện, cho hai vợ chồng ngoài hành lang, anh quên hẳn việc phải mua sẵn một lố phong bì. Anh nhìn trước nhìn sau thấy một xấp báo còn mới, ai đó vứt sang chỗ anh chị nằm. Anh nhặt lên nói với chị:

“Báo còn mới, em cứ lấy con dao, rọc vuông vức rồi gói tiền vào đó cũng được. Nhưng phải nhớ để riêng vào túi trong, túi ngoài, kẻo nhầm của người này lại đưa cho người kia.”

Chị cười nhẹ:

“Anh đừng lo, tiền thì em cẩn thận lắm.”

Chị đón xấp báo còn mới trong tay anh, báo trong tay thì dĩ nhiên là chữ trước mắt, chị đọc qua một chút trước khi đi tìm dao rọc. Sau mấy phút chị ngẩn người ra, để rơi tờ báo xuống lòng. Anh thấy lạ hỏi:

“Tin gì vậy em?”

Chị không nói, đưa tờ báo cho anh.

Báo chí trong nước cho hay, chính quyền thành phố Hà Nội hôm 1/2 công bố quy hoạch được thủ tướng phê duyệt về xây nghĩa trang “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước; các anh hùng, danh nhân của đất nước”.

Tin cho hay, nghĩa trang Yên Trung nằm dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 cây số về phía Tây, giáp Vườn Quốc Gia Ba Vì; phía Đông giáp đồi núi và đường cao tốc Hòa Lạc-Hòa Bình; phía Nam giáp đồi núi và khu dân cư.

Tổng diện tích nghĩa trang là 120 hécta, gồm khu an táng 72 hécta, với 2,200 – 2,500 ngôi mộ, mỗi ngôi mộ có khuôn viên 25-35 mét vuông và khu đệm cây xanh cảnh quan trên 47 hécta, có sức chứa 5,000 người.

Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước. Thời gian thực hiện dự án khoảng 36 tháng.

Anh đọc tiếp ở một trang khác:

Vẫn theo các báo, với tổng diện tích 120 hectare, tương đương một phường lớn ở nội thành Hà Nội, dự án có vị trí ở huyện Thạch Thất, dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 kilomet về phía tây. Thông tin từ bản quy hoạch cho thấy sẽ có 105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.

Anh đọc xong nhìn sang chị, thấy chị vẫn thẫn thờ nhìn mông lung ra một nơi xa lắc xa lơ nào đó. Anh hỏi:

“Sao vậy em, nhà nước xây nghĩa trang thì dính dáng gì tới mình mà em buồn quá vậy?”

Chị quay lại nhìn chồng, hai mắt mở to:

“Sao mấy ông lớn không nghĩ đến việc xây thêm mấy cái bệnh viện cho người đau ốm, xây thêm trường học cho trẻ em? Họ bỏ ra tới 1,400 tỷ đồng để lo “chôn “ những người chưa chết. Rồi lại thêm 105 gia đình phải mất nhà mất cửa cho họ thêm chỗ. Anh nhìn đi, cả bao nhiêu năm nay bệnh nhân cũng như người thân của bệnh nhân nằm màn trời chiếu đất trước cửa bệnh viện. Trẻ con nghèo không đủ cơm đã đành ngay cả trường lớp cũng thiếu thốn. Có ông lớn nào quan tâm tới không?”

Anh nhìn vợ với cặp mắt thương hại, nói nhỏ:

“Thế bây giờ em định làm gì, em cầm biển ngữ đi biểu tình đòi nhà nước xây bệnh viện, trường học thay vì xây nghĩa trang cho các ông lớn hả. Em có muốn vào tù vì tội chống phá nhà nước, trong khi con em đang bị ung thư không?”

Chị nhìn anh một lúc, không trả lời. Hai con mắt chị ánh lên một nét giận dữ, chị mở tung những cái giỏ ra tìm con dao, chị nín thở rọc tờ báo ra từng miếng nhỏ để làm những cái phong bì, chị dằn mạnh từng nhát dao đi qua những hàng chữ: “nghĩa trang, “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước” “Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước.” “105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.”
Image
Mô hình nghĩa trang cho các cán bộ cao cấp

Chị cắt ngang, cắt dọc tờ báo tưởng như cắt đứt được những dự án làm chị uất ức. Chị cắt được hơn mười cái phong bì, chia ra bốn túi khác nhau, cho bác sĩ, y tá và lao công. Chị biết, muốn cứu con chị thì không thể nào tránh né được cái khoản chi trả thêm này.

Chị nhìn anh đang thu xếp về nhà với mẹ để kịp cúng Rằm. Thật ra chị biết, cúng Rằm chỉ là phụ, việc chính là anh về nhà chạy thêm tiền, số tiền anh chị đem theo được so với số tiền sẽ phải dùng tới cách xa nhau nhiều quá. Nghĩ đến những món nợ sẽ phải trả, chị thấy như có một khối đá đè lên ngực.

Hai con mắt chị vẫn còn ánh lên những tia giận dữ, cái giận dữ của một người hoàn toàn bất lực trước một việc xấu mà sức mình không làm gì được. Một khu nghĩa trang 5000 huyệt mộ. Quan chức cao cấp Đảng ở đâu mà nhiều thế? Chắc chắn các đại gia sẽ có phần mộ ở đây. Có khi cả ca sĩ nổi tiếng có tiền cũng dọn vào. Chưa chắc các danh nhân và anh hùng tử sĩ đã có chỗ, vì phần đông gia đình họ nghèo và họ đã tắt tiếng nói (may ra có một tấm bia chung).

Chị kêu thầm trong ngực. “Bệnh Viện, Trường Học và Nghĩa Trang. Một cái cho người sống, một cái cho kẻ (chưa) chết. Cái nào cần thiết hơn.” Nước mắt chị ứa ra.

Có ai trả lời cho chị không?

Trần Mộng Tú

User avatar
macco
Posts: 3541
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Image


Ở TRỌ

Nguyễn Thị Thanh Dương.
Chị Bông dứt phone với anh thợ làm hàng rào và lẩm bẩm: “ Anh ta cho gía thay toàn bộ hàng rào 6,000 đồng, hao tốn qúa”.
Chị bực mình liếc mắt sang nhà hàng xóm có chung cái hàng rào sau vườn và lẩm bẩm tiếp: “ Mà cái nhà hàng xóm này lại không biết điều”.
Trước đó anh hàng xóm người Mễ đã vài lần thẳng thắn từ chối hợp tác cùng chị Bông thay phía hàng rào chung của hai nhà với lý do hàng rào chưa hư hỏng gì và tiền thì họ chưa có luôn.
Trong vườn chị Bông trồng nhiều cây hoa hồng, mái hiên patio treo chiếc chuông gío nên thơ, nếu được hàng rào đẹp thì khu vườn sẽ càng đẹp thêm.
Cái cell phone chị để trên bàn trong sân patio reo lên, không lẽ anh thợ hàng rào gọi lại…giảm gía? Hay là anh hàng xóm Mễ gọi sang báo tin đã đồng ý làm hàng rào?
Chị Bông vội vàng mở phone, thì ra là chị Huê, người bạn thân thiết. Giọng chị Huê tưng bừng vui:
- Bông ơi, hai vợ chồng mình mới mua một căn biệt thự đẹp mà gía khá rẻ so với thị trường, vợ chồng chủ nhà ly dị cần bán nhà nhanh, ưu tiên cho tiền mặt, mình đủ điều kiện. Tháng sau bạn sẽ đến ăn mừng tân gia nhé.
Chị Bông ngạc nhiên:
- Ơ kìa, nhà Huê đang ở cũng mới cũng đẹp mà lại đổi nhà à?
- Nhà này mới hơn đẹp hơn và sang trọng hơn. Đây đúng là căn nhà ước mơ của mình. Hàng xóm toàn là triệu phú trở lên đó nha.
Chị Huê say sưa tả ngôi biệt thự từ ngoài sân vào bên trong đến cả khu vườn, chị Bông nghe đến đâu choáng váng đến đó. Một tiếng sau buông phone mà chị Bông còn thẫn thờ như người mới bị bỏ bùa chưa tỉnh.
Bất giác chị ngó quanh khu vườn nhà mình bỗng thấy …tủi, gía mà chị giàu có như chị Huê thì đã thay quách toàn bộ hàng rào khỏi cần kêu gọi anh hàng xóm Mễ đóng góp.
Chị Bông đang ganh tị với căn biệt thự chị Huê vừa khoe. Anh Bông lững thững ra vườn và bắt gặp vợ ngồi im lặng trong ghế xích đu, anh thắc mắc:
- Em nghĩ gì mà thẫn thờ ra thế? Lại bực mình vì anh hàng xóm Mễ vẫn chưa chịu chung tiến thay cái hàng rào mới hả?
- Tại anh Mễ và…tại chị Huê.
- Anh biết rồi, bà Huê không khoe stock của bà ấy lên gía thì cũng khoe cửa hàng bánh mì thịt nguội, giò chả, chè cháo của bà ấy doanh thu ngày càng tăng.
Chị Bông thán phục:
- Anh nói đúng đó, cửa hàng chị ấy đắt hàng lắm, dù đã thuê mướn cả chục người mà hai vợ chồng vẫn bận rộn cả ngày, trong khi vợ chồng mình cùng tuổi về hưu như anh chị Huê thì ăn không ngồi rồi chẳng kiếm ra xu nào ngoài mấy đồng tiền hưu.
- Tội nghiệp, anh chị Huê lớn tuổi rồi mà vẫn làm việc đầu tắt mặt tối. Tóm lại giàu có mà vẫn …”khổ” vì kiếm tiền. Anh nghe kể rằng có bà gìa luôn than thở mình mẩy tay chân đau nhức, tai điếc mắt mờ thế mà vẫn …thích mở hầu bao ra đếm tiền, chẳng than mỏi tay đau tay hay mờ mắt gì cả. Thiếu đồng nào bà phát hiện ra ngay.
Chị Bông cãi lại:
- Càng có tiền càng sướng chứ, tội nghiệp gì chị Huê. Vợ chồng chị Huê mới mua một căn biệt thự hơn một triệu, trả tiền mặt nhé. Em nghe mà phát ham, trong khi em muốn thay cái hàng rào chỉ 6,000 đồng cũng không dám làm. Nãy giờ em cứ mơ ước nếu mình trúng số thì sẽ mua căn biệt thự trong khu ấy làm hàng xóm các triệu phú cho oai, hàng xóm với mấy nhà Mễ này chỉ thêm bực mình..
Anh Bông an ủi:
- Hàng rào sau vườn còn tốt chán, anh hàng xóm Mễ từ chối thay mới là đúng rồi. Em đừng “khủng bố” tinh thần nhà anh ta nữa, lần nào gặp mặt họ em cũng hỏi chỉ một câu: “ Anh chị suy nghĩ kỹ chưa? Có thay hàng rào với tôi không ?”. Mà em không nhớ bài thuyết giảng ở chùa hôm nào à, cuộc đời là cõi tạm, chúng ta đang ở trọ trần gian, đòi chi những điều hoàn hảo.
- Anh chỉ chuyên môn bênh hàng xóm, xe nó đậu đầy lề đường, trở ngại lối đi, chướng cả mắt, anh lại khen xe đậu thế này trông…. nhộn nhịp khu phố. Cuối tuần nó tụ họp bạn bè uống bia trước sân mở nhạc tiếng Spanish ầm ĩ anh cũng khen… vui cả khu phố.
- Sống hòa đồng và nhịn hàng xóm một tí có sao đâu.
- Nếu thế em cũng sẽ đậu xe lòng lề đường và cuối tuần tụ họp bạn bè ngoài sân mở ầm ĩ nhạc Bolero Thanh Tuyền Chế Linh, Hương Lan Tuấn Vũ cho hàng xóm Mễ nghe chơi nhá.
- Vợ chồng Mễ hàng xóm hiền lành dễ thương, chả lẽ vì cái hàng rào mà em đành hanh với họ thế à ? Thuyết nhà Phật….
Chị Bông ngắt lời chồng:
- Ôi, anh lại thuyết nhà Phật lắm bi quan, nào đời là bể khổ, đời là cõi tạm, kiếp người mong manh, trở về cát bụi, ai mà đang tuyệt vọng sẽ chẳng muốn kiếp lai sinh. Em muốn như anh chị Huê lúc nào cũng phơi phới kiếm tiền và hưởng đời, muốn gì cũng có. Hay là mình gom góp vốn liếng, vay mượn thêm con cái đầu tư mutual fund hay địa ốc đi anh, chơi stock thì càng kiếm nhanh hơn nữa. Vậy anh muốn cái nào?
- Nghĩa là sao? Mình mua nhà cho thuê hoặc mua mutual fund, hoặc chơi stock đu dây với may rủi ấy hả?
Chị Bông giảng giải:
- Anh nhát gan không chơi stock thì thôi. Mua nhà mình chỉ cần down khoảng 20% và lấy tiền thuê hàng tháng trả mortgage, 10 hay 15 năm sẽ trả xong nợ, căn nhà thuộc về mình. Hay là đầu tư mutual fund chậm hơn nhưng 10 năm sau số tiền đầu tư có thể tăng gấp đôi. Tới lúc đó mình lấy cả vốn lẫn lời ra…mua nhà biệt thự làm hàng xóm các triệu phú luôn.
- Nghe em nói kiếm tiền nhẹ nhàng dễ dàng qúa. Anh…không chọn cái nào cả.
Chị Bông cụt hứng giận dỗi trách:
- Hèn gì số mình nghèo là phải. Suốt đời ở căn nhà xấu này thôi.
- Ai mà chẳng muốn cuộc sống đầy đủ cao sang, anh cũng thích nhà cao cửa rộng lắm chứ, nhưng mỗi người một hoàn cảnh. Bao nhiêu năm nay không giàu có được nói chi tuổi xế chiều.
Rồi anh Bông vỗ về:
- Thôi em đừng ganh đua với chị Huê nữa, mình không có tiền bạc và càng không có thời gian để đầu tư đường dài. Em cứ an phận làm hàng xóm mấy anh chị Mễ, mấy anh chị Mỹ đen như hiện nay đi. Vợ chồng mình là khách hàng thường xuyên của CVS pharmacy tại thành phố này, các nhân viên bán thuốc full time thậm chí nhân viên part time thay đổi soành soạch mà họ còn nhớ tên nhớ mặt mình. Vậy thì hơn 10 năm nữa mình 80 tuổi, bệnh tình mình đi tới đâu? liệu có còn sức khỏe mà hưởng nhà to nhà đẹp không, hả? nếu có thay đổi nhà thì anh sẵn sàng moving đến căn nhà nào ….gần bệnh viện nhất để mỗi lần gọi 911 cấp cứu cho tiện.

***************.
Đến dự buổi tiệc tân gia nhà chị Huê, căn biệt thự lộng lẫy ấy chị Bông khó thể nào quên, vừa trầm trồ khen ngợi vừa mơ ước khi chị Huê dắt khách đi từng phòng giới thiệu, đây là phòng khách của tôi, phòng bếp của tôi, phòng nào cũng đẹp cũng sang.
Bước vào căn phòng ngủ kê hai chiếc giường mà vẫn còn rộng mênh mông với những tủ, gương sang trọng, chị Huê lại hãnh diện sung sướng:
- Các bạn ơi, đây là phòng ngủ yêu qúy của tôi, từ cái giường, khăn trải nệm, gối mền, rèm cửa đều là hàng hiệu….
Bạn bè ai cũng khen vợ chồng chị Huê có phước, con cái đứa nào cũng ăn học thành đạt, gia đình đề huề, anh chị Huê thì giàu có làm ăn tiền vô như nước. Chị Bông hỏi:
- Bao giờ thì anh chị Huê nghỉ bán buôn, ở nhà hưởng nhàn thảnh thơi trong căn nhà đẹp này ?.
Chị Huê phân trần:
- Mình cũng muốn nghỉ lắm. Con cái có công việc của chúng, chẳng đứa nào thích cái nghề bán bánh mì thịt nguội này cả, sang cửa hàng cho người khác thì tiếc rẻ vì công việc làm ăn càng ngày càng phát đạt, tiền cứ chạy vô túi vô nhà băng nên chẳng nỡ ngừng, thôi thì còn sức còn làm, có nhiều tiền tiêu xài cũng sướng tay. Nhờ thế vợ chồng mình mới mua căn biệt thự này dễ dàng.
Chị Huê ghé tai chị Bông khoe thêm:
- Trừ mọi chi phí mỗi tháng vợ chồng mình kiếm mười mấy ngàn, chẳng cần ăn học bằng cấp gì mà tính ra hơn hẳn lương kỹ sư lâu năm, tự mình làm chủ mình và làm chủ gần chục nhân viên từ khâu làm bánh mì, làm giò chả thịt nguội, đến khâu đứng bán cho khách hàng. Thử hỏi là chị có chịu buông bỏ cửa hàng ngồi nhà lãnh vài đồng lương hưu không chứ.
Sau dịp ăn tân gia ấy chị Bông ít có dịp đến nhà chị Huê nhưng thường gặp chị ở cửa hàng bánh mì thịt nguội nổi tiếng ngon nhất của thành phố này. Vợ chồng chị Huê nhanh nhẹn xã giao với khách hàng và tháo vát với công việc, chỉ huy nhân viên đâu ra đấy.
Thế mà một hôm chị Bông nghe hung tin, một người bạn gọi phone báo tin:
- Chị Huê đã qua đời trong giấc ngủ đêm qua vì heart attack.
Trời ơi, một cái chết qúa bất ngờ, không hề báo trước. Chơi thân với chị Huê nhưng chị Bông có nghe chị Huê than thở gì về bệnh tim mạch đâu.
Hay là chị Huê làm việc nhiều qúa nên căng thẳng và kiệt sức, ảnh hưởng đến tim mạch??
Sau đám tang chị Huê, cửa hàng bánh mì thịt nguội trở lại hoạt động bình thường, bạn bè ai cũng ngạc nhiên, tưởng anh Huê mất đi người vợ yêu dấu mấy chục năm bên nhau anh sẽ mất nguồn cảm hứng kiếm tiền.
Vài tháng sau chị Bông đã nghe bạn bè chung của chị Huê truyền nhau tin đồn anh Huê đang “tình ý” với chị Sương nhân viên quản lý cửa hàng.
Đó là một thiếu phụ khoảng 45 tuổi, chị ta là mẹ độc thân của ba đứa con. Được bà chủ tin cậy chị ta nhanh nhẹn khôn ngoan chăm chỉ làm việc và bây giờ thì được ông chủ độc thân ưu ái.
Ai cũng tưởng họ chỉ “tình ý” và bồ bịch cho đời nhau đỡ buồn. Nhưng một năm sau thì anh Huê chính thức đi thêm bước nữa với chị Sương với lý do để có người phụ anh công việc kinh doanh, cứ làm như anh chỉ cần người làm hơn là cần người tình.
Căn biệt thự lộng lẫy của chị Huê nay đã có nữ chủ nhân mới, thêm ba đứa con của chị ta nên cửa nhà đông vui hẳn lên, lúc nào cũng có một hai chiếc xe loại sang đậu trước sân, chiều tối các khung cửa sổ căn biệt thự đều sáng đèn ấm cúng..
Cửa hàng sản xuất bánh mì thịt nguội đã có nữ chủ nhân mới.
Ngày nào chị Huê từng hãnh diện khoe công việc và tiền bạc nay những huê lợi ấy đã vào túi người khác..
Ngày nào chị Huê từng sung sướng khoe căn phòng ngủ xinh đẹp sang trọng, nay căn phòng ngủ ấy cũng thuộc về người phụ nữ khác.
Và người chồng suốt mấy chục năm thân ái chung đôi của chị cũng thuộc về người khác luôn.
Chị Bông thấy xót xa giùm người bạn đã nằm dưới nấm mộ. Chị than thở với chồng:
- Thương chị Huê qúa. Nhớ ngày mới mua căn biệt thự chị Huê hớn hở vui mừng bao nhiêu, chị trang hoàng chăm sóc từng căn phòng, thế mà ở chẳng bao lâu…
Anh Bông lại triết lý nhà phật:
- Chị Huê đã “ở trọ” trong căn biệt thự ấy, chứ có gì là của chị Huê đâu, kể cả bạc tiền và người chồng yêu dấu. Hết thời hạn thì ra đi. Vợ chồng mình cũng đang “ở trọ” trong chính căn nhà của mình đây. Cuộc sống luôn đi bên cạnh những rủi ro bất trắc, tai nạn hay bệnh hoạn có thể đến bất cứ lúc nào. Chúng ta không chết vì tại nạn, bệnh hoạn thì cũng chết vì tuổi gìa sức yếu, mười năm, hai mươi năm nữa thôi căn nhà này sẽ thuộc về ai…
Chị Bông giật mình, anh Bông nói đúng qúa, sau này vợ chồng chị chết đi, con cái đều có nhà riêng và công việc ở xa, chẳng đứa nào có nhu cầu dọn về đây. Căn nhà này sẽ bán đi và thuộc về người khác.
Chị Bông chợt nhớ tới gia đình một người quen biết, sang Mỹ diện H.O. năm 1990, Sau 5 năm làm việc cật lực họ có chút tiền down một căn nhà. Người vợ lãnh đồ từ hãng và may tại nhà, vừa chăm chỉ may vừa lo cơm nước cho chồng đi làm con đi học, chị hết sức tiết kiệm tiền bạc và cả thời gian, ít giao du với bạn bè, thậm chí từng là con chiên ngoan đạo chị cũng “né” màn đi nhà thờ hàng tuần, chỉ đi vào những dịp lễ lớn, vì đi nhà thờ là “tốn kém” , luôn có mục đóng góp đủ thứ, nay món này mai món khác chẳng bao giờ hết việc. Mục đích chính của chị là làm việc tối đa và tiết kiệm tối đa để có tiền trả nợ căn nhà .
Nhà cửa trả xong, vốn liếng bắt đầu rủng rỉnh thì đùng một cái chị H.O lâm trọng bệnh qua đời. Chồng quan niệm con cái đứa nào cũng có ăn học và có gia đình riêng không phải lo cho chúng nữa, ông ta về Việt Nam cưới một cô hàng xóm lỡ thì nhưng vẫn còn trẻ chán so với ông, bán căn nhà cũ đang ở để mua căn nhà khác mới hơn đẹp hơn cho xứng và le lói với người mới.
Chị H.O này cũng “ở trọ” và ra đi “trắng tay” như chị Huê.
Thế là chị Bông lại an phận tìm vui với căn nhà của mình, khu vườn sau hoa lá và chuông gió vẫn đẹp và nên thơ với cái hàng rào cũ mà chị từng muốn thay bỏ chúng.
Một buổi sáng chị Bông mang rác ra sân trước thì thấy chị Mễ hàng xóm cũng kéo thùng rác ra sân liền tươi cười xã giao, bù đắp cho những ngày chị Bông liếc mắt hay lườm lườm sang nhà nó với vẻ lạnh lùng:
- Chị khỏe không? Hôm nay chị không đi làm hả ?
Chị Mễ than thở và e dè:
- Tôi bị mất việc rồi, đang hưởng tiền thất nghiệp. Chị đừng rủ tôi thay cái hàng rào nữa nghe
Xong chị ta nửa đùa nửa thật:
- Chỉ còn chồng tôi đi làm, nhà 4 đứa con, nếu tôi mà thất nghiệp dài lâu thì không có tiền trả mortgage căn nhà này đâu, lúc ấy chị sẽ có hàng xóm mới để rủ họ thay hàng rào mới.
Chị Bông cảm thấy như mình có lỗi và ái ngại qúa. Hoàn cảnh nhà hàng xóm chẳng khá gỉa gì thế mà bấy lâu chị cứ “mặt sưng mày xỉa” ngầm với họ vì cái tội không chịu chung tiền làm hàng rào mới. Chị Bông dịu dàng thân mật:
- Chúc chị mau kiếm được việc làm, còn cái hàng rào chung của chúng ta, đúng như chồng chị đã nói, vẫn tốt lắm, thay làm chi cho phí tiền.



Trong ánh mắt chị Mễ thoáng vẻ ngạc nhiên và vui. Chắc vì lần gặp mặt này chị ta thấy chị Bông đã thay đổi thái độ qúa bất ngờ.
Chị Bông lại thấy anh Bông nói đúng, chẳng có ai dám bảo đảm ở căn nhà của mình dài lâu chứ đừng nói suốt đời. Ngoài cái chết, người ta phải rời xa căn nhà vì hàng đống lý do , vì công việc, vì trường học của con cái hay vì mất job, vì li dị… v..v…và biết đâu chỉ vì…. nhà hàng xóm. Gia đình anh chị Mễ này không chịu nổi mụ hàng xóm khó tính như chị Bông, một ngày nào đó họ cũng sẽ dọn đi cho khuất mắt. ?
Chị Bông chẳng cần cái hàng rào mới đẹp nữa cho hao tốn bạc tiền của mình và của hàng xóm và chị càng không mơ nhà to đẹp cao sang nữa khi tuổi đã xế chiều. Vì nhà to đẹp hay nhà cũ xấu cũng chỉ là quán trọ ven đường đời cho ta dừng chân và một ngày nào đó ta sẽ về nơi yên nghỉ sau cùng đó mới là căn nhà vĩnh cửu của riêng ta.

Nguyễn Thị Thanh Dương.
( Dec. 21, 2017 )

Post Reply