QUÁN BIÊN THUỲ

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Ðêm Giao Thừa Của Những Người Lính Mất Nước

Năm 1981, tôi được gọi tên ra khỏi nhà tù Cộng Sản. Hơn sáu năm tù là tiêu chuẩn thấp nhất cho tù quân, cán, chính, đảng phái, tôn giáo Việt Nam Cộng Hòa

Thông thường, tù được thả về vào những dịp lễ, tết. Tôi ở tù vùng núi rừng tây bắc Việt Nam, được thả về trước tết âm lịch. Ði xe lửa Hà Nội - Sài Gòn, về đến ga Bình Triệu thì đúng vào 29 tháng chạp âm lịch. Tôi đi bộ từ ga Bình Triệu về đường Võ Duy Nghi, Phú Nhuận (Sài Gòn). Khi đi tù, tôi có gửi thư về nhà cha mẹ vợ, ở đường Võ Duy Nghi, là nơi vợ tôi và hai đứa con tá túc, nhưng không thấy trả lời cũng chẳng được thăm nuôi trong mấy năm đi tù. Nhờ sức trai, tôi chịu đựng được chứ mấy ông lớn tuổi mà không có thăm nuôi, bịnh hoạn, đói lạnh, chết gần hết. Tôi từng thấy nhiều ông tù chết, được bó bằng cái chăn rách của ông ta, bỏ lên xe cải tiến, kéo đi trong sân, ra cổng. Hai cái chân khô đét, xanh lét thò ra khỏi xe, nhịp lên nhịp xuống theo bánh xe gập ghềnh, tưởng như người chết nằm rung chân khoái trá được vĩnh viễn ra khỏi nhà tù, lên gò nằm ngủ khỏe, khỏi phải “lao động là vinh quang" .

Khi tôi đến nhà bên vợ, mới bước lên thềm, tôi đã dội ngược. Nghe giọng Bắc Kỳ 75, tôi biết gia đình cán bộ đang ở trong đó. Như vậy, gia đình bên vợ tôi đã bị đánh tư sản, tài sản bị tịch thu, cả nhà bị đưa lên kinh tế mới. Chẳng biết vợ con tôi bây giờ ra sao? Tôi ôm gói đồ tù, gồm quần đùi, khăn lau mặt và bàn chải đánh răng. (Người tù, khi được thả về, tất cả áo quần, mùng màng, lương thực thăm nuôi, thuốc men... đều để lại cho bạn tù, chỉ đem theo vật dụng đi đường) đi lang thang mà chẳng biết về đâu? Anh em ruột thịt chưa chắc đã dám chứa “tù ngụy” trong nhà vì sẽ bị công an các cấp đến hạch sách, hăm dọa thường xuyên, nên tôi chẳng hi vọng gì ở từ tâm của bà con, bạn bè. Có lẽ phải sau tết, tôi đến hàng xóm của gia đình bên vợ hỏi thăm tin tức thì họa may.

Tôi cứ đi lòng vòng trên đường Võ Duy Nghi, Hai Bà Trưng, Hiền Vương với cái bụng trống rỗng, nhìn ngơ ngáo mấy chậu bông tết người ta bày bán trước nhà thờ Tân Ðịnh, chứ không dám nhìn vào mấy tiệm bánh, hủ tiếu, phở. Ðói bụng nên mũi rất thính. Mùi thơm của thức ăn từ các tiệm đó làm chảy nước miếng. Khoảng mười giờ tối, đi rả chân, tôi nằm đại vào một hiên nhà người ta, trên đường Hai Bà Trưng, bên kia đường là nghĩa trang Mạc Ðỉnh Chi. Hai bên lề đường Hai Bà Trưng, giăng đầy mùng của dân kinh tế mới. Họ là dân Sài Gòn, sau năm 1975 bị đánh tư sản. Nhà nước Cộng Sản tịch thu tài sản, đẩy lên kinh tế mới với hai bàn tay trắng, nơi rừng núi hoang vu khai phá đất đai sinh sống, nhưng bịnh và đói, chết dần, họ bỏ về Sài Gòn, ngủ lề đường cùng với dân bụi đời, vô gia cư, cầu bơ cầu bất.

Vừa thiu thiu ngủ, tôi bỗng bị đá vào người rồi có tiếng nạt “Ông nầy. Chỗ của tụi tôi, ai cho ông nằm đây?” Tôi giật mình, lồm cồm ngồi lên, ôm gói đồ tù “Xin lỗi. Tôi tưởng không có ai”. Qua ánh đèn đường, tôi thấy hai cậu trung niên, khoảng bốn mươi tuổi, tướng bậm trợn, đứng chống nạnh nhìn tôi. Khi tôi bước xuống thềm, đi được mấy bước thì bị gọi giật lại “Chú!” Tôi dừng lại, yên lặng quay nhìn “Chú có phải đi tù về không?” “Phải. Mà sao?” “Chú cứ ngủ đây đi. Tụi nầy ngủ lề đường cũng được” “Sao cũng được. Cám ơn”

Làm phật lòng mấy tay nầy chỉ thêm phiền nên tôi phải vâng lời, quay lại, nằm xuống hiên, gối đầu lên bọc tù, nhắm mắt để đó chứ không ngủ tiếp được. Hai tay giang hồ nầy, lẽ ra, có thể nằm phần còn lại của hiên nhà nhưng lại giăng mùng ngủ trên lề đường, gần nơi tôi nằm. Cách giăng mùng của họ cũng đơn giản. Mấy cái túi hay xách, bị gì đó chắn trên đầu và dưới chân, đình mùng cao độ hai gang tay, không chạm mặt người nằm bên trong, thật nhanh và thuận tiện. Hai cậu nằm trong mùng vừa chuyện trò vừa chửi thề rồi cười hắc hắc nghe thật ngang tàng. Tôi nằm nhìn thiên hạ qua lại. Xe gắn máy chạy vù vù, người đi bộ lê dép lẹp xẹp. Tôi không biết ngày mai đi đâu với cái túi trống trơn và cái bụng xẹp lép? Mấy năm tù đã làm cho đầu óc tôi mụ mẫm, chẳng thèm lo nghĩ. Ðến đâu hay đó. Trong tù, sáng nghe kẻng báo thức, dậy ra ngồi trước cửa nhà tù để cán bộ coi tù đếm tù, lãnh mấy củ khoai mỳ hay trái bắp, ăn xong chờ kẻng để sắp hàng ra cổng, lao động. Chiều về, lại mấy củ khoai, trái bắp gì đó, ăn xong, ngồi cho cán bộ đếm tù rồi vô nhà tù nằm chờ giấc ngủ. Cán bộ khóa cửa nhà tù, bỏ đi. Khuya lại thường có bộ đội (vệ binh) mang súng đi tuần rỏn bên ngoài các nhà tù. Tù kiệt sức sau một ngày lao động, đói và mệt rả rời nên ngủ vùi, có thao thức mà nghĩ đến gia đình cũng vô ích. Trong tù, chẳng ai biết ngày giờ, chỉ khi nào được chén cơm trắng với chút mỡ heo hoặc miếng thịt trâu mới biết là ngày lễ lớn hoặc tết nhất. Nghỉ một ngày lao động, ăn chén cơm là biết một năm đã đi qua nhưng không bao giờ tự hỏi mình đã bao nhiêu tuổi rồi? Càng suy nghĩ càng mau chết vì mất ngủ. Nhiều ông lớn tuổi, bịnh hoạn, tối nhắm mắt để rồi sáng hôm sau không thèm mở mắt. Cứ thế mà vào cõi hư vô...

Ðang suy nghĩ linh tinh thì có hai ông xuất hiện, dừng lại trước hiên, nơi tôi nằm. Thấy mỗi ông một gói đồ tù trên tay, tôi biết ngay là bạn “đồng tù” nhưng làm thinh. Một ông thấy tôi nằm lỏ mắt nhìn, bèn hỏi “Anh ơi. Chỗ nầy còn trống, cho tụi tôi nằm đỡ. Ðược không?” “Ðây đâu phải nhà của tôi. Mấy anh cứ tự nhiên” Hai ông bèn bước lên thềm, ngồi xuống, tựa lưng vào tường, duỗi chân, ẹo mình coi bộ mệt mỏi. Họ nói chuyện rù rì nhưng tôi nghe rõ và biết họ cũng từ ngoài Bắc về chung một chuyến xe lửa cuối năm với tôi. Họ đối đáp nhát gừng nhưng vẫn đậm đà tình thân. Họ kể về các trận đánh trong đó có bạn bè, người còn, người mất. Khi nhắc đến người bạn nào đã ngã gục ngoài chiến trường, họ tặc lưỡi, thì thầm “... Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Tôi cũng tốt nghiệp sĩ quan nhưng về bộ binh, nghe họ chuyện trò, tôi biết hai ông là lính dù, một ông là đại đội trưởng, ông kia là sĩ quan pháo binh tiểu đoàn dù. Hình như họ cùng tiểu đoàn nên chuyện trò rất thân mật. Trong câu chuyện, chẳng ai nhắc đến bóng hồng nào mà toàn chuyện lính tráng, đánh đấm. Tuổi trẻ miền Nam lớn lên, vừa xong trung học, buông bút là vào quân trường cầm súng. Họ, đa số chưa có người yêu. Ba lô, súng đạn như người bạn đời, sinh mạng phó mặc cho viên đạn nhỏ bằng mút đũa hay mảnh pháo có khi chỉ bằng cái móng tay quyết định... Tôi may mắn, có vợ con, nhưng bây giờ cũng như không.

Tôi yên lặng nghe hai ông bạn đồng tù trò chuyện và nghĩ vẩn vơ. Khi Cộng Sản miền bắc phát động chiến tranh, đánh chiếm miền Nam, hàng triệu thanh niên trai trẻ lên đường chiến đấu để chống xâm lăng, bảo vệ tự do, an lành cho đồng bào miền Nam với sự trợ giúp của nước Mỹ. Nước Mỹ giúp miền nam Việt Nam để “be bờ” Cộng Sản. Ðột nhiên, từ năm 1973, viện trợ Mỹ giảm dần rồi đến con số không. Một đô la cũng không có. “Nước Mỹ không có bạn, không có thù. Chỉ có quyền lợi của nước Mỹ”. Nghe nói họ bắt tay với Trung Cộng, để miền nam Viêt Nam cho Cộng Sản, đổi lấy gì đó. Thế là miền Nam bị bó tay. Súng không có đạn, máy bay, xe cộ, thiết giáp, tàu bè không có xăng, trong khi đó, cả một khối Cộng Sản quốc tế khổng lồ viện trợ tối đa cho Cộng Sản miền bắc, để họ kéo vào, thoải mái bắn giết quân dân miền nam. Người nào sống sót thì đưa đi tù cải tạo, không có ngày về... Thủ tướng Việt Cộng Phạm Văn Ðồng ra lịnh, đại ý “Không giết tên nào cả. Ðưa hết bọn chúng lên vùng rừng thiêng nước độc, bắt làm thật nhiều, ăn thật ít, chúng sẽ chết dần, thế giới không thể biết được”. (ngay cả khi tù chết, họ cũng cho vùi xác rải rác trong rừng chứ không chôn một nơi nhất định).

Tôi nhớ, sau tháng tư năm 1975. Ngụy quân, ngụy quyền (quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa) phải trình diện ủy ban quân quản để được học tập cải tạo trong một tháng. Mấy tháng đầu chỉ lên hội trường học tập, nghe các cán bộ thuyết trình “mười bài”. Một lần, trong một buổi “lên hội trường”, cán bộ đứng trên bục chỉ tay xuống bọn tù ngồi phía dưới chửi “Các anh là rác rưởi của rác rưởi...” Chửi xong cán bộ hỏi “Có ai có ý kiến gì không?”

Một ông tù xin phát biểu “Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia riêng biệt, có lãnh thổ, có dân, có chính quyền do dân bầu lên, được quốc tế công nhận, không gây thù chuốc oán gì với miền Bắc, vì sao các ông vào bắn giết chúng tôi, bỏ tù chúng tôi còn bảo rằng chúng tôi có nợ máu với nhân dân?...”

Nghe đúng bài mình đã thuộc, cán bộ vui vẻ giảng rằng “Chúng tôi vào giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ. Các anh tiếp tay với đế quốc Mỹ, làm tay sai cho chúng để đàn áp, đánh phá sự nghiệp cách mạng, thống nhất đất nước của đảng và nhân dân ta. Các anh đáng bị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa hết tội. Nay đảng và nhà nước khoan hồng, tập trung các anh vào đây để cách ly các anh khỏi bị nhân dân căm thù, đòi nợ máu các anh đồng thời tạo cơ hội để các anh nhận biết tội lỗi của mình mà lập công chuộc tội, ra sức lao động, học tập để tiến bộ thành công dân tốt xã hội chủ nghĩa, đuợc đảng và nhà nước khoan hồng cho về sum họp với gia đình. Các anh hiểu chưa? Có ai ý kiến gì nữa không?”

Ông tù đó lại giơ tay, đứng lên “Theo như tài liệu cán bộ cho học tập thì. Năm 1959 miền bắc đã mở đường “Trường Sơn 59”, đưa quân vào nam. Năm 1960 đã lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, mãi đến năm 1964, Mỹ mới đổ quân vào Ðà Nẵng. Như vậy, trước khi Mỹ vào Việt Nam, các ông đã nhận lệnh của Nga, Tàu, nhận súng đạn của Nga, Tàu vào bắn giết, giật mìn xe đò, pháo kích vào trường học, chôn sống đồng bào vô tội miền Nam. Như thế thì ai có nợ máu với nhân dân?...”

Nghe chưa dứt câu, cán bộ giận xanh mặt rít lên “Ðem nó đi cùm!” Ông ta bị công an võ trang bao vây quanh đấy lôi đi. Tối đó ông ta bị công an thay phiên nhau đánh đến chết, vất xác trong rừng...

(Sau nầy, trước đền thờ tổng bí thư Lê Duẫn có khắc câu mà Lê Duẫn thường nói “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô Trung Quốc” Câu nói khiến cho quân đội nhân dân Việt Nam (Việt Cộng) ngỡ ngàng. Cựu đại tá Tư Cúc (Lê Cúc) phải kêu lên “Hóa ra quân đội nhân dân Việt Nam là lính đánh thuê cho Liên Xô, Trung Quốc


Lúc đó đã về khuya, đường phố vắng tanh, hai cậu bụi đời đã im tiếng, hình như đang nằm lắng nghe hai ông bạn tù của tôi trò chuyện. Bỗng cái mùng động đậy và hai cậu chui ra, đứng dưới thềm, trước hai ông bạn tù, người thẳng đơ, đưa tay lên chào theo kiểu nhà binh. Một cậu nói lớn “Trung sĩ nhất Nguyễn văn..., đại đội..., trung đội..., trình diện đích thân” Cậu kia cũng đứng nghiêm xưng tên họ, cấp bậc, đơn vị nhưng lại “Trình diện thẩm quyền”. Thông thường, lính gọi sĩ quan cấp trên trực tiếp bằng cấp bậc hoặc các chức danh tùy ý “Ông thầy, đích thân hoặc thẩm quyền...” Thì ra các cậu đều là lính dù. Như một phản xạ, hai ông bạn tù cũng chào tay “Chào hai anh. Hai anh ngồi xuống!”. Hai cậu ngồi trên hiên nhà, chân thòng xuống lề đường. “Tụi em nằm nghe mấy ông thầy nói chuyện mới biết là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa đi tù về”. Một cậu ngậm ngùi “Từ ngày mất nước, các cấp chỉ huy đi tù, tụi em tan hàng, bơ vơ, buồn muốn chết. Tụi em nhớ đơn vị, nhớ cấp chỉ huy, nhớ súng đạn, ba lô... nhớ đủ thứ. Lúc nãy, nằm nghe hai ông thầy nói chuyện, tụi em mừng quá, tưởng như còn đang ở đơn vị”.

“Bộ mấy cậu không bị tù cải tạo sao?”

“Có, nhưng ở địa phương, tụi em bị tập trung một thời gian để nghe chửi là tay sai đế quốc Mỹ, rồi bắt đi nông trường làm thủy lợi, sau đó được đưa sang Căm Bu Chia vác đạn cho bộ đội làm nghĩa vụ quốc tế, đánh nhau với Khờ Me đỏ. Tụi em bỏ trốn về Sài Gòn”

Tôi ngồi lên “Mình nói chuyện có làm phiền chủ nhà không?”

“Ông thầy khỏi lo. Họ ngủ trên lầu. Hai ông bà chủ nhà có con là đảng viên làm lớn, được cấp nhà tịch thu của tư sản. Tụi em ngủ ở đây, giữ gìn sạch sẽ, khỏi sợ trộm cắp nên họ để yên”.

Hai cậu bụi đời thì thầm với nhau rồi cậu trung sĩ đứng lên, trịnh trọng thưa “Thưa, mấy khi thầy trò được gặp lại nhau, tụi em có ý kiến như thế nầy. Tụi em đi kiếm rượu và mồi nhắm để mấy ông thầy và tụi em lai rai đón giao thừa...”

Một ông cười khan “Nghe văn chương của cậu là hiểu ý rồi đó. Tụi nầy vô sản, mấy cậu kiếm xị đế là đủ rồi, khỏi mồi miết phiền phức, tốn kém”

“Không bao nhiêu đâu. Mấy tiệm phở sắp đóng cửa, họ bán xí oách rẻ đui. Mình không lấy họ cũng đổ bỏ”

“Khuya rồi, ai mà còn bán rượu nữa?”

“Ông thầy khỏi lo. Tụi em là mấy con ma, chỗ nào không biết!”.

Buổi “tiệc đón giao thừa” gồm hai xị đế và thau xí oách (xương bò, xương gà) với một cái ly nhỏ để trên một tờ báo được trải ra. Người nầy “dzô” xong một ly thì rót cho người kế tiếp, cứ thế xoay vòng. Nhờ hơi men, những câu nói nhát gừng đã thành rôm rả. Những người lăn lộn chiến trường thường lầm lì, ít nói, chỉ khi có tiếng súng nổ mới kích động được họ xông lên phía trước. Trong chiến trận, chính những người trực tiếp chỉ huy trung đội, đại đội mới là người quyết định chiến trường. Sống chết bên nhau, họ thương yêu nhau còn hơn ruột thịt. Giờ đây, chiến trường đã im tiếng súng, họ là kẻ chiến bại, là kẻ mất nước, bị đối phương khinh miệt, tù đày, hành hạ để trả thù. Người lính Việt Nam Cộng Hòa đã biến mất, chỉ còn lại những con người sống ngoài lề xã hội, vất vưởng, bơ vơ. Nhưng trong tâm tưởng người dân miền Nam, người lính Việt Nam Cộng Hòa vẫn là những người con thân yêu của đồng bào. Lòng biết ơn không hề phai nhạc.

Buổi “tiệc” cuối năm càng về khuya càng thân mật, thỉnh thoảng có tiếng cười. Trong cái gia đình nhảy dù nhỏ đó với bốn thầy trò cùng nhắc lại những ngày chiến đấu đầy gian khổ, sát cánh bên nhau, giúp đỡ, che chở nhau trong những giây phút hiểm nguy, đối diện với kẻ thù... Tất cả đã là dĩ vãng, đã là những kỷ niệm mà họ cố quên. Cả cuộc đời với tuổi thanh xuân đẹp đẽ, sung sức nhất, họ đã dâng cho Tổ Quốc để rồi thành kẻ mất nước. Họ hỏi thăm nhau, ai còn, ai mất, những “ông thầy” trong đơn vị nầy, đơn vị kia. Cấp chỉ huy không thể nhớ hết binh sĩ dưới quyền, nhưng lính thì không bao giờ quên những “thẩm quyền” đã chỉ huy mình.

Ngoài đường đã vắng bóng người. Ðường phố như ngủ say dưới ánh đèn vàng vọt. Lúc đó đã vào khuya. Ðột nhiên, trong đêm vắng, vài tiếng pháo nổ lẻ tẻ, vang đến từø chợ Tân Ðịnh. Rồi như cùng hẹn trước, tiếng pháo đồng loạt nổ vang khắp nơi. Giờ giao thừa. Mọi người đón mừng chúa Xuân bằng những tràng pháo và lễ vật trên bàn thờ, trước cửa nhà. Bọn lính tráng chúng tôi, trước đây không bao giờ biết đến năm mới, năm cũ vì thường xuyên hành quân nơi rừng sâu, núi thẩm, họa hoằn đi ngang qua một xóm làng xơ xác nào đó, nhìn đồng bào nghèo khổ vì chiến tranh, thấy họ chẳng có gì để đón xuân mà ngậm ngùi, nay bỗng nhiên nghe tiếng pháo mà tưởng như thời còn chiến tranh, nhất là mùi thuốc súng mà người ta lấy thuốc đạn ra làm thuốc pháo. Suốt dọc hai bên đường Hiền Vương, đường Hai Bà Trưng tiếng pháo nổ liên tục chen lẫn với tiếng pháo tống, pháo đại khiến bản năng người lính bị kích động. Chúng tôi tưởng như mình đang bị bao vây bởi kẻ thù với những họng súng đang hướng về chúng tôi mà khạc đạn. Từ trên lầu, nơi chúng tôi đang ngồi, chủ nhà thòng xuống một dây pháo dài, nổ rang, những viên pháo đại rơi xuống đất, nổ chát chúa, xác pháo bắn vào chúng tôi, khói pháo mịt mù, nồng nặc mùi thuốc súng. Mùi thuốc súng khiến thần kinh những người lính chúng tôi càng thêm căng thẳng. Hai cậu cựu binh như bị đồng nhập, tay nắm lại, cằm bạnh ra, mắt trừng trừng nhìn hai ông cựu sĩ quan. Một cậu chồm tới, thét lên trong tiếng nổ hỗn loạn “Ðích thân! Ðích thân ban lệnh đi. Chả lẽ nằm đây chịu chết sao?”. Tôi quay nhìn. Hai ông cựu sĩ quan dù lắc đầu, mắt nhìn trừng trừng vào khoảng không trước mặt. Rồi nước mắt họ ứa ra, trào xuống gò má xương xẩu, long lanh ánh chớp của pháo nổ.

Bỗng, một ông (sĩ quan dù) kêu lên, giọng điềm tỉnh. - “418, đây 314, xin tác xạ, hết”

Ông ngồi bên cạnh (sĩ quan pháo binh), trả lời.
- “314, đây 418, xin tác xạ, hết”.

Thế rồi cuộc trao đổi truyền tin diễn ra.

- “Lệ Hằng, phải 1.5, lên 2.3 một khói nổ chạm. Bắn khi sẵn sàng, hết”

-“Lệ Hằng, phải 1.5 lên 2.3, một khói, hết”

- “Hướng 800, gần lại 100. Một khói, hết”.

- “Hướng 800, gần lại 100, một khói, hết”

- “Hỏa tập cận phòng. Năm tràng, bắn hiệu quả, hết.

- “Năm tràng, bắn hiệu quả, hết” ...

Giọng hai ông bạn tù của tôi vẫn mạch lạc, điều động nhịp nhàng pháo binh yểm trợ như trong một trận chiến sắp nổ ra. Tôi hình dung một đại đội dù đóng quân trên một ngọn đồi, địch quân theo dõi, bao vây và tìm cách tràn ngập. Các toán tiền đồn gọi về báo động. Toàn đơn vị đã sẵn sàng chờ địch. Hai ông cựu sĩ quan dù như đang cùng hồi tưởng lại một một kỷ niệm chiến đấu nào đó đã xảy ra và hai cậu cựu binh cũng là những người đã từng tham dự những trận đánh đẫm máu...

Cuộc trao đổi truyền tin trong tiếng pháo giao thừa vẫn tiếp tục. Hỏa tập như càng lúc càng kéo gần vị trí đóng quân trong khi tiếng pháo vẫn chát chúa, khi xa, khi gần. Rồi tiếng pháo cũng lơi dần. Người chủ nhà trên lầu đã đốt hết dây pháo, nhưng ông ta lại gắn thêm một dây pháo nữa, lần nầy ba bốn phong pháo được chập vào với nhau nên pháo nổ càng dữ dội, và như cao hứng, những căn nhà kế bên cũng đem pháo ra đốt tiếp. Tiếng nổ càng dồn dập, khói súng càng mịt mù. Ông bạn tù lại cao giọng

-“Các hỏa tập cũ đều kéo vào 50, sẵn sàng bắn, vị trí sắp bị tràn ngập, hết”

-“Hỏa tập cũ kéo vào 50, bắn, hết” ...

Cuộc trao đổi trở nên căng thẳng, gấp rúc khiến tôi nhớ lại những trận tấn công biển người của đối phương. Hỏa tập thường được kéo vào sát vị trí phòng thủ để chặn địch tràn ngập. Hai cậu cựu binh ngồi chết sửng, thỉnh thoảng cựa quậy như không chịu đựng được các bắp thịt và thần kinh đang căng lên hết mức.

Vẫn giọng bình tỉnh.
-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí. Hỏa tập tối đa, nổ chụp ngay trên đầu tôi, hết”

-“Xin 314 nhắc lại, hết”

-“418, đây 314, địch tràn ngập vị trí, hỏa tập tối đa ngay trên đầu tôi, hết”

Giọng ông pháo binh khàn khàn, nghẹn ngào.
- “Bắn trên đầu bạn ư?”

-“418, đây 314. Có bao nhiêu ông phang hết lên đầu tôi. Ðó là lời cuối cùng”

-“314, đây 418, xin xác nhận lại. Nghe tôi không? Xin 314 trả lời... Vâng, hỏa tập tối đa trên đầu bạn. Vĩnh biệt 314”...

Tiếng pháo giao thừa đã dứt. Cả thành phố im lặng như đang mặc niệm tử sĩ. Vẳng lại từ xa vài tiếng nổ lẻ tẻ, rời rạc rồi lịm dần, tưởng chừng như chiến trường đã bị kéo trôi đi xa, chỉ còn lại cảnh bình địa hoang tàn.

PHẠM THÀNH CHÂU

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

Hồi ký của Y SĨ TRƯỞNG TIỂU ĐOÀN 2 NHẨY DÙ

50 năm, một nửa thế kỷ của cuộc đời đã trôi qua từ khi tôi về đảm nhận chức vụ Y sĩ Trưởng TĐ2ND. Trí nhớ cũng phôi pha theo thời gian. Thế nhưng một chặng đường gần 6 năm đội chiếc mũ đỏ vẫn là một dấu ấn khó quên, vì đó là một giai đoạn của tuổi thanh niên đầy nhựa sống, tích cực hăng hái đóng góp bàn tay bảo vệ Tự do cho Quê hương, vừa gian lao vừa hãnh diện.
Chiến tranh Quốc gia – Cộng sản từ năm 1965 bắt đầu sôi động dữ dội. Rối loạn chính trị miền Nam tạo cơ hội thuận tiện cho quân chính qui Bắc Việt dễ dàng xâm nhập khắp thôn ấp và các vùng ven đô thị.
Sau 7 năm dùi mài kinh sử, chúng tôi là Sinh viên Quân y hay Dân y trưng tập đều được phân phối về các đơn vị chiến đấu hay các Bệnh viện dã chiến để băng bó các vết thương của bom đạn.
Làm sao tránh khỏi lo âu và xúc động khi chỉ nội trong năm 1964 – 65 mà đã có 7 Y sĩ hy sinh tại chiến trường. BS Đoàn Mạnh Hoạch ngã gục trước lằn đạn địch ở Quãng Ngãi 1964. BS Trương Bá Hân/TQLC tử trận ở Bình Giả 1964.
Image Các đàn anh chỉ hơn tôi có một lớp, mới ngày nào cùng nhau thực tập trong Bệnh viện Chợ Rẫy, Bình Dân, v.v.. có anh là nội trú xuất sắc, xứng đáng là bậc thầy trong Y nghiệp, hứa hẹn một tương lai sáng lạn, thế mà cũng bị hy sinh tại trận địa mấy tháng sau khi đáo nhận đơn vị.
Sinh viên Quân y vào năm cuối được liên tục luân phiên gác xác các đàn anh tử trận trong năm 1965 :
– BS Phạm Bá Lương ngã gục ở Bầu Bàng.
– BS Nguyễn Văn Nhứt tử thương khi đoàn xe di chuyển bị phục kích ở rừng cao su Dầu Tiếng.
– BS Trần Thái hy sinh tại Bà Rịa.
– BS Trần Ngọc Minh, Y sĩ Trưởng TĐ5/TQLC bị đâm vào ngực trong một trận xáp lá cà với Việt cộng tại Thăng Bình.
– BS Đỗ Vinh, Y sĩ Trưởng TĐ5ND bị mảnh pháo trúng ngay vào đầu khi đang săn sóc thương binh. Ngày đưa tang, Thiếu tá TĐT/TĐ5ND Ngô Quang Trưởng và Quân nhân các cấp, các đơn vị bạn ngậm ngùi thương tiếc tiễn anh ra mộ huyệt. Tôi vẫy tay chào anh, từ bỏ anh em quá sớm. Chiếc áo Hoa rừng và Mũ đỏ của binh chủng hào hùng thiện chiến vẫn có một mãnh lực hấp dẫn máu giang hồ, điếc không sợ súng của chúng tôi, ba thằng bạn xuất thân từ xứ Huế, học cùng lớp, ăn cùng mâm, ở cùng phòng trong trường Quân y Chợ Lớn. Lê Văn Châu, con của Tướng Lê Văn Nghiêm, tức là nhà văn Trang Châu, còn có biệt danh là “Châu cá ngựa” vì anh có mặt tại trường đua Phú Thọ hằng tuần – Đoàn Văn Bá, tục gọi là “Bá điên” còn được gọi là “I‘homme des situations difficiles”vì anh bạo ăn bạo nói, chỗ nào gặp khó khăn với cấp trên là có anh. Anh bị kẹt lại trận Mậu Thân ở Huế trong chuyến nghỉ phép về thăm nhà, được quân đội Mỹ giải cứu trong gang tấc, đưa anh về căn cứ MAC-V, giúp giải phẫu cứu mạng rất nhiều Quân nhân Mỹ bị trọng thương và được tuyên dương tưởng thưởng huy chương Bronze Star Hoa Kỳ. Còn tôi, được các bạn gán cho biệt danh “Đoàn cái bướm” vì tôi viết bài “Thằng Cu hay Cái Bướm” đăng nhiều kỳ trong Đặc san Tình Thương của Sinh viên Y Khoa thời ấy.

Bảng hiệu “BỆNH XÁ ĐỖ VINH” nền trắng chữ đỏ mới toanh, còn ướt màu sơn treo trên khu nhà bằng gạch hai tầng của Bệnh xá Nhảy dù 50 giường không làm chúng tôi sợ sệt mà còn cảm thấy một cái gì vinh quang khi trình diện thụ huấn khóa 68 Nhảy dù vào tháng 8/1965. Ba thằng bạn thân, không ai dám rủ ai vào nơi nguy hiểm, đều có mặt.

Cổng trại Hoàng Hoa Thám thẳng tắp con đường tráng nhựa rợp bóng mát của hai hàng cây đưa đến các dãy doanh trại xây bằng gạch vững chắc sơn màu vàng, ngay ngắn sạch sẽ là con đường quen thuộc, thân thương của chúng tôi từ dạo ấy.
Bóng dáng các đàn anh đeo bằng “nhảy dù điều khiển” như BS Văn Văn Của, BS Trần Tấn Phát… kích thích lòng tự ái liều lĩnh của chúng tôi trong niềm cảm phục kính nể. Chiếc Mũ Đỏ được đội lên đầu sau 3 tuần huấn luyện ướt đẫm mồ hôi, bò lết, hít đất, nhảy chuồng cu và 6 sauts nhảy dù ở Hóc Môn-Củ Chi. Cánh hoa dù T10 xẹt mở rộng lộng gió tung bay mát rượi trong bầu trời trong xanh ôm trọn một phần của vũ trụ bao la là những giây phút thần tiên ngắn ngủi của người lính Mũ Đỏ. Sau đó thì nguy hiểm bắt đầu rình rập. Saut đêm bị hủy bỏ vào phút chót vì tình hình an ninh bãi nhảy không cho phép, có người lính nhảy xuống bị mất tích không tìm ra dấu vết.. “NHẢY DÙ – CỐ GẮNG” là một khẩu hiệu có mãnh lực xô chúng tôi ra phóng ra cửa máy bay sau tiếng hét “Go” của Huấn luyện viên, và là châm ngôn giúp chúng tôi vượt qua chặng đường hành quân vất vả, cực nhọc. “Nhảy Dù – Cố Gắng” gắn bó theo giúp chúng tôi suốt cả cuộc đời, nào là khi bị hành hạ xài xể trong trại tù cộng sản, nào là khi gặp sóng gió, bão tố, ói mửa trong chiếc ghe nhỏ trên đường vượt biển tìm tự do, khi lao động chân tay để có tiền mua sách học lấy lại mảnh bằng hành nghề, khi đau ốm bệnh hoạn và cả khi tu tập chuyển hóa tâm linh.

BS Lê Trọng Tín biệt phái về làm Y sĩ Trưởng TĐ1ND – Lê Văn Châu TĐ6ND – Đoàn Văn Bá về TĐ7ND – Trần Trọng Nghị về TĐ9ND và tôi về TĐ2ND.
TĐ2ND là 1 Tiểu đoàn tân lập đóng ở Bà Quẹo, sát nách phi trường Tân Sơn Nhất, không xa cổng trại Hoàng Hoa Thám. Thế là tôi may mắn được ở ngay Sàigòn, sớm tối được về chăm sóc vợ đang mang bầu. Vợ tôi còn là sinh viên trường Dược. Lương Y sĩ Nhảy dù phải gói gém lắm mới đủ sống.

Lần xuất quân thử thách đầu tiên của tôi vào cuối năm 1965 lại là với chúc vụ Y sĩ Trưởng/TĐ3ND thay thế BS Nguyễn Đức Liên đi phép về hậu cứ. Trời Sàigòn 4 giờ sáng còn mờ sương, chiếc C123 rù máy xé tan bầu không khí tĩnh lặng, lạnh lùng cất cánh rồi đáp xuống phi trường Qui Nhơn sau hơn một giờ bay. Phi cơ há miệng đằng đuôi nhả ra hơn trăm binh sĩ súng đạn đầy mình sẵn sàng ra bổ sung cho chiến trường Tam Quan, Bồng Sơn. Phi đội Trực thăng tiếp tới gắp chúng tôi đưa thẳng vào chiến địa còn hôi tanh mùi máu và thuốc súng, bay sà sát rừng dừa xơ xác ngả nghiêng cháy xám.
Y sĩ Trưởng Thiếu tá Hoàng Cơ Lân dẫn tôi vào chào Tướng Tư Lệnh Dư Quốc Đống trong một căn lều. Ông đang ở trần, mặc quần xà lỏn, đen đui đủi, vây quanh bởi các sĩ quan của Bộ chỉ Huy, mồ hôi nhễ nhại. BS Liên đón tôi về trạm cứu thương TĐ3ND tạm trú dưới một mái nhà tôn đầy dấu đạn. Các Y tá còn bận rộn thu dọn y cụ vì công việc tản thương vừa mới được hoàn tất tối hôm qua. Thiếu tá Hưng TĐT, nước da rạm nắng có vẻ âu lo. Đại úy TĐP Trần Quốc Lịch người cao to, đầu trọc lóc trông rất “ngầu”, sau này ông lên đến cấp Tướng chỉ huy Sư đoàn. Hằng ngày tôi làm dân sự vụ, khám bệnh, phát thuốc, chăm sóc ngay cả các bà đang có bầu mà tác giả không ai khác là những du kích địa phương. Lòng nhân đạo của người Y sĩ không phân biệt bạn hay thù. Tôi thương người dân, tôi thương những trẻ em lớn lên ở vùng đất mất an ninh này, không biết đâu mà lựa chọn. Tôi thông cảm nỗi khổ của họ khi sinh sống trong vùng xôi đậu.

Đồi 10, một ngọn đồi nổi tiếng khó tiến chiếm vì Cộng quân đào hầm địa đạo từ chân đồi lên đến đỉnh đồi và đặt thượng liên nhắm bắn vào trực thăng bao vùng xạ kích yểm trợ – Một ngọn đồi đẫm máu đã được ghi vào chiến sử.
Chuẩn úy Lê Hồng, xuất thân từ Hạ sĩ quan, là Sĩ quan Ban 3 tiểu đoàn sau khi thụ huấn xong khóa sĩ quan đặc biệt về. Người anh nhỏ con nhưng giọng nói Quảng Bình rõ ràng chắc nịch qua máy truyền tin vang to suốt cả ngày đêm để điều động các Đại đội đang lục soát quanh vùng. Là người lính chăm chỉ, gan dạ và khuôn phép, anh leo dần lên đến chức vụ TĐT/TĐ1ND rồi Trung tá Lữ đoàn phó khi tàn cuộc chiến. Tôi cảm phục sự nhẫn nhục của anh khi thấy anh bất chấp nặng nhọc lao động khuân vác trong một tiệm tạp hóa vùng Arlington, VA để sinh sống và nuôi ý chí cương quyết về giải phóng quê hương thoát khỏi gông cùm cộng sản. Ước nguyện không thành, anh bỏ xác tại vùng biên giới Thái-Lào trong niềm thương tiếc khôn cùng.

Trạm Y tế TĐ2ND nằm trong một gian nhà tiền chế của doanh trại, mái tôn nền đất. Y tá Trưởng, thượng sĩ “Hưng mù”, đeo kính cận dầy cộm, có nhiều kinh nghiệm từ hồi còn là Y tá trong quân đội Pháp, tháo vát và khéo xã giao, giúp tôi và đội Y tá trên dưới 20 người dọn dẹp phòng ốc, sắp đặt dụng cụ thuốc men. Vài ba anh lính trẻ khai bệnh lậu đái ra mủ vì không được hướng dẫn dùng bao cao su khi giao hợp với “chị em ta” phân trần: “Đời lính xa nhà mà bác sĩ”. Tôi làm quen dần với các sĩ quan bộ chỉ huy và các đại đội. Chuẩn úy Võ Văn Thu, nguyên là Y tá TĐ5ND vừa thụ huấn khóa sĩ quan Thủ Đức trở về nắm giữ chức vụ sĩ quan Hậu cứ, thường lui tới thăm hỏi và giúp đỡ trạm Y tế. Anh được ông TĐT, cũng xuất thân từ TĐ5ND, tin cậy thương mến và nâng đỡ vì tinh thần phục vụ đắc lực của anh. Chức vụ cuối cùng của anh là TĐT/TĐYT/SĐND với cấp bậc Trung tá. Nghe nói ngày di tản qua Mỹ, sống ở Washington State, giữa xứ lạ quê người, tinh thần anh bị suy giảm. Anh cạo gió cho con anh khi nó bị ho cảm. Mấy lằn vết đỏ sau lưng và trước ngực làm cho cô giáo nghi anh đánh đập ngược đãi trẻ con. Anh phản kháng khi cảnh sát đến còng tay anh. Vì quá uất ức, anh treo cổ tự tử trong tù.

Đại úy Lê Quang Lưỡng, vừa mới được thăng chức Thiếu tá mấy tháng trước, nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND. Ông là người chiến binh mang nhiều thương tích và chiến tích, vào sinh ra tử biết bao nhiên lần với những chiến công như An Lộc, Mậu Thân, Hạ Lào, v.v. oanh liệt vẻ vang. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gắn cấp bậc Chuẩn tướng và bổ nhiệm ông nắm chức vụ Tư Lệnh/SĐND vào năm 1973 (?).

Ngày đoàn quân xa trên 30 chiếc chở Tiểu đoàn tân lập về Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp Bà Rịa để thụ huấn, chưa kịp ra tới đầu xa lộ Biên Hòa thì xui xẻo gặp lúc cộng sản pháo kích vào thành phố Sàigòn. Vài ba quả nổ tung toé rớt ngay trên đường Phan Thanh Giản giữa lúc dân chúng tấp nập đi làm buổi sáng. Cảnh tượng hỗn độn và hoảng hốt vì mọi người hối hả chạy tìm chỗ ẩn núp sau mấy gốc cây. Đoản xe bị khựng lại, mãi hơn giờ sau mới tiếp tục lộ trình về đến nơi đến chốn an toàn.

Sau 3 tháng huấn luyện, Tiểu đoàn được chuyển về đóng quân ở vòng đai Sài Gòn, vùng Tân Quý, Hóc Môn, Bà Điểm.
Tiểu Đoàn phó, Đại úy Trần Kim Thạch, nhỏ con, bị thương ở háng nên khó khăn khi ngồi vệ sinh. Ông xuất thân từ Hạ sĩ quan của Nhảy dù Pháp, vui tính, lanh lẹ và can đảm. Một buổi chiều, trời chạng vạng tối, tôi thấy ông hối hả cười vang chạy bộ thình thịch về bộ chỉ huy với hai người lính cận vệ, trên vai mỗi người còn mang thêm một khẩu AK. Tiểu đoàn phó mà chịu chơi nằm lại phục kích bên bờ lau sậy sau khi cả Tiểu đoàn tảo thanh lùng địch đã rút trở về. Hai năm sau ông nắm chức vụ TĐT/TĐ2ND ghi thêm nhiều chiến công oanh liệt cho Tiểu đoàn. TĐ2ND đã đủ lớn mạnh để chuyển vận ra vùng địa đầu giới tuyến.

Ngày quân xa chở Tiểu đoàn từ Huế ra Quảng Trị, một đoạn đường dài hơn cả cây số khi gần đến làng Mỹ Chánh, bị cày nát và còn nóng hổi vết tích bom đạn đầy mảnh vụn của xe bị cháy đen hòa với máu đỏ. Ruộng lúa hai bên xơ xác tơi bời ngả nghiêng, dấu vết của TĐ2TQLC bị phục kích mới ngày hôm qua. Thiếu tá TĐT/TĐ2 Trâu Điên Lê Hằng Minh hy sinh ngay từ phút đầu. Đoàn quân xa dè dặt, thận trọng chậm rãi di chuyển trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Không khí ngột ngạt. Đến thành phố Quảng Trị, tôi bị choáng váng, ngộp thở vì ngọn gió Lào độc địa thổi về. Hôm sau, trực thăng vận thả Tiểu đoàn xuống các ngọn đồi trống vùng Cùa, những ngọn đồi mọc đầy những bụi hoa sim tím. Những cánh hoa còn ướt sương mai long lanh trong nắng sớm. Tôi ngắt hoa ép vào quyển nhật ký hành quân và thầm đọc bài thơ “Những đồi hoa sim tím” của Thi sĩ Hữu Loan, mong rằng ngày tôi về vẫn còn gặp nàng…

Toán Tiền sát báo cáo bắt được một cán binh Việt cộng đang ngơ ngác cầm bản đồ và ống nhòm quan sát trận địa. Khai thác cho biết Tiểu đoàn Cộng sản đang trên đường xâm nhập. Chiều về, Tiểu đoàn di chuyển ra khỏi làng và đóng quân trên dãy đồi cao thấp nối tiếp thoai thoải. Chập tối, Ban 3 Tiểu đoàn báo cáo mất liên lạc với Tiểu đội nằm lại phục kích trong làng. Tôi duỗi chân nằm thẳng trên cỏ, đếm sao lấp lánh trên trời và thiếp đi, rã rời chân tay. Thình lình nửa khuya, địch nổ súng ồ ạt la hét: “Hàng sống, chống chết” bò lên tấn công. Giao tranh cận chiến ác liệt. May thay cây thượng liên của chúng đặt trên đồi cao hướng về bộ chỉ huy và toán quân y kế cận chưa kịp khai hỏa thì bị binh sĩ Nhảy dù tiêu diệt. Phi cơ phản lực liên tiếp thả bom Napalm vào khu rừng dưới đồi. Xác địch banh thây cách chỗ tôi nằm không quá 50 thước. Băng bó, tản thương không ngừng tay. Ngay tối hôm đó, đài cộng sản oang oang nêu thành tích là đã giết được 15 lính ngụy Dù, một con số chính xác mà Ban 3 Tiểu đoàn vừa mới báo cáo thiệt hại về Sư Đoàn buổi sáng sớm. Phải chăng có nội tuyến nằm ngay trong trong BTL/SĐND?, tôi đắn đo suy nghĩ.
Image Về trạm dưỡng quân ở Đông Hà, tôi gặp BS Vũ khắc Niệm, Y sĩ trưởng TĐ8ND. Hai anh em rủ nhau đi uống bia cho đỡ thèm khát dưới cái nắng nóng gay gắt của miền Trung. Một chai bia cao hiệu con cọp ướp lạnh giá 50 đồng. Tôi lục lọi mãi hết trong các túi bộ đồ trận lôi ra đếm được 49 đồng. BS Niệm cho tôi thêm 1 đồng.
Tiếng nổ của cây súng AK nghe có phần chát chúa và khiếp đảm hơn cây súng Carbine M1, M2 cổ lỗ sĩ hay bị kẹt đạn. Trung cộng và Liên sô âm thầm trang bị cho Bắc Việt vũ khí ngày càng tối tân hơn. Đến cuối năm 1966, khi đóng quân ở làng An Hòa ngoài thành phố Huế, TĐ2ND mới được Ngũ Giác Đài phê chuẩn viện trợ súng AR-15, AR-16 thay thế.

Hạnh phúc của người lính trận lội bộ dài ngày khi được về dưỡng quân vùng khá an ninh rất đơn giản là tháo được đôi giày trận và đôi vớ hâm hẩm hôi thối, chùi được các ngón chân mốc meo, rửa được bộ sinh dục bầy nhầy và lắm khi là móc được cục phân cứng như đá ra khỏi hậu môn vì ăn thiếu rau, uống thiếu nước, không có thì giờ đi đại tiện. Lính Nhảy dù bị bệnh trĩ nhiều là vì nguyên do như thế. Bộ đồ trận tanh tanh mồ hôi và dơ bẩn giặt phơi chưa kịp ráo thì có lệnh di chuyển.

Một tuần phát lương khô gạo sấy chất vào ba-lô. Tình báo cho biết địch vượt sông Bến Hải xâm nhập vào phía nam vùng phi quân sự.. Tiểu đoàn lại được trực thăng vận đổ quân xuống sát hàng rào McNamara. Xa xa về phía Tây, bụi khói bay ngút trời do B52 rải bom ầm ầm nghe ghê rợn. Cả tiểu đoàn di chuyển đội hình hàng một xuyên rừng rậm đầy gai góc theo bước chân của khinh binh đi trước phát quang. Chim chóc và côn trùng vắng tiếng hót. Cái im lặng khá rùng rợn khi dừng chân ngủ đêm.
Thằng Y tá tên Dân thân cận của tôi sửa soạn đào hầm cá nhân cho “ông thầy”. Một nhát xẻn nhấn xuống là một ánh lửa tóe lên vì chạm vào đất đầy sỏi đá. Tôi không đành thấy nó hì hục cực nhọc nên ngăn nó dừng tay, chấp nhận số mạng rủi ro. Chiếc võng treo thấp đu đưa ru tôi vào giấc ngủ đầy mộng mị chết chóc. Vào khoảng 2 giờ sáng, địch pháo kích hàng loạt súng cối, tung tóe sấm sét vào vùng đóng quân. Một quả 60ly chớp nổ cách chiếc võng khoảng 10 thước, hất tôi lăn ngã xuống đất. Tôi cảm thấy đau rát nơi hai mông, đưa tay sờ vào thì đỏ ướt máu. Tôi đã bị thương nhưng biết mình còn sống. Giọng ông TĐT vang lớn giữa những tiếng pháo kỉch còn nổ vang:
– “Bác sĩ, bác sĩ, tôi bị thương”.
Tôi do dự định chạy đến nhưng thằng Y tá cận vệ thấy nguy hiểm níu tôi lại và trả lời lớn :
– Thưa Thiếu tá, “BS cũng bị thương”.

Đại đội Trưởng Thạch Văn Thịnh xui xẻo bị một quả rơi đúng chỗ ông nằm. Doanh trại từ đó mang tên của người Đại đội Trưởng đầu tiên của TĐ2ND bị tử trận. Trung đội trưởng Trần Công Hạnh dẫn Trung đội ngang bộ chỉ huy và tiến về phía địch, nơi đặt pháo. Chiến đoàn Trưởng Đào Trọng Hùng la hét điều quân. Ông nổi tiếng là người chỉ huy can đảm không bao giờ khom lưng tránh né đạn khi lâm trận mà đạn biết tránh né ông. Chiếc khăn đỏ quấn quanh cổ được xem như là bùa hộ mạng. Một bên lưng đeo khẩu súng lục chỉ huy, một bên kia đeo một bi đông rượu đế, đường đường một đấng. Bác sĩ Hà tục gọi là “Hà chảy”, người ông dong dỏng cao, Y sĩ trưởng TĐ8ND vừa đi vừa ôm bàn tay bị thương vừa chửi thề: “Địt mẹ, tao có muốn về Nhảy dù đâu mà bị thương như thế này”. BS “Hà chảy” là dân y trưng tập, học cùng lớp với tôi, chưa kịp bổ đi đơn vị nào khi ra trường thì lại miễn cưỡng bị trưng dụng tạm thời vì Nhảy dù thiếu Y sĩ. Y tá xuôi ngược chăm sóc thương binh, trực thăng liên tiếp đáp xuống tản thương.

Mỗi lần hành quân 2-3 tháng về hậu cứ là quân số Tiểu đoàn hao hụt hơn phân nữa. Tiểu đoàn Vương Mộng Hồng – Khối Bổ Sung phân phối về Tiểu đoàn nhiều tân binh chưa kịp hoàn tất xong khóa nhảy dù.
Vùng I, vùng giới tuyến sùng sục dầu sôi lửa bỏng. Hành quân bấy giờ không còn là cấp Tiểu đoàn lẻ tẻ mà là Chiến đoàn gồm 2-3 Tiểu đoàn che chở yểm trợ cho nhau. Hành quân với thiết vận xa của Việt Nam Cộng Hòa hay với chiến xa lội nước của Hạm Đội 7 Hoa Kỳ tăng cường thường dễ dàng hơn khi tiến chiếm mục tiêu và ít bị thiệt hại.

Cuộc hành quân “nhảy dù trận” của TĐ2ND xuống đồng bằng sông Cửu Long vào giữa năm 1966 có lẽ là saut nhảy xuống trận địa cuối cùng của binh chủng Nhảy dù vì sau đó trực thăng là phương tiện đổ quân nhanh chóng và ít nguy hiểm. Cả một rừng chiếc “nấm” úp xuống khoảng ruộng nước bao la. Tôi xếp dù an toàn gom vào một chỗ với Đại đội 20 rồi tiếp tục bì bõm tiến theo đoàn quân. Vì bất ngờ nên địch quân không kịp bắn lên trong lúc chúng tôi còn lơ lửng trên trời trong buổi sáng sớm như trong phim “The Longest Day” khi quân đồng minh nhảy dù xuống Normandie. Chạm súng lẻ tẻ với du kích, địch tránh né rút vào rừng tràm. Vũng nước nào cũng có tôm có cá giúp cho chúng tôi có thêm thực phẩm tươi phụ trội.

Tổ chức SĐ Nhảy Dù từ năm 1966 đã nâng cấp số từ Liên đoàn thành Sư đoàn. Đại đội Quân y Nhảy dù thành Tiểu đoàn Quân y Nhảy dù. Bệnh xá Đỗ Vinh 50 giường thành Bệnh viện Đỗ Vinh 100 giường. Pháo binh, Truyền tin… nâng quân số từ Đại đội lên Tiểu đoàn. Chiến đoàn đổi thành Lữ Đoàn gồm 3 tiểu đoàn khi hành quân cho kịp với chiến tranh leo thang ngày càng khốc liệt.

Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam đóng gần bộ chỉ huy TĐ2ND ở vùng Tân Quý. Các Đại đội phân chia đóng ở các thôn ấp chung quanh. Tình báo cho hay Tiểu đoàn đặc công cộng sản mò về sát vòng đai Sài Gòn, thuộc xã Vĩnh Hạnh, Vĩnh Lộc. Lệnh hành quân lục soát ban ra. Trung đội tiền phong do Trung đội Trưởng Trần Công Thọ vừa ra trường khóa 20 Võ Bị Đà Lạt chạm súng. Cả Tiểu đoàn tiến lên tốc chiến tốc thắng đẩy địch bỏ chạy rút vào vùng kinh lạch Đức Hòa, Đức Huệ để lại gần 100 xác và súng ống đủ loại. Thiếu úy Trần Công Thọ bị ngay một viên đạn giữa đỉnh trán, chết ngọt lịm không kịp trăn trối, nằm cách chỗ tôi không quá 20 thước. Tôi đưa tay vuốt mắt anh, không thấy chảy máu, mặt anh còn tươi tắn như thiên thần ngủ quên. Nhạc phẩm “Tạ từ trong đêm” của Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết lên để riêng tặng anh. BS Bùi Thế Cầu, nguyên Thiếu tá Y sĩ trưởng TĐ5ND đang nắm giữ chức vụ Tỉnh trưởng tỉnh Gia Định cùng giới chức hành chánh dân sự cao cấp và báo chí tháp tùng thực thăng xuống ngay trận địa để chứng kiến tận mắt và tán dương. Danh tiếng TĐ2ND nổi như cồn trên trang đầu các tờ báo Sàigòn. Đại đội 23 tập hợp nhiều Trung đội trưởng họ “TRẦN” trẻ trung, gan dạ, thương mến nhau như anh em ruột thịt. Một Trần Công Thọ đã rơi rụng. Một Trần Duy Phước cũng rụng rơi năm sau đó, còn lại Trần Công Hạnh leo dần đến chức vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ2ND. Đại đội trưởng Trần Công Danh rời Tiểu đoàn chuyển hoán về đơn vị khác – Đại đội trưởng Phạm Kim Bằng bị thương hư một mắt – Đại đội trưởng Trần Như Tăng bị thương gãy chân – Đại đội trưởng Nguyễn Văn Được giã từ vũ khí ở vòng đai Sàigòn. Ngày tiễn anh ra mộ huyệt có 3 bà mặc áo quần đen dài chít khăn tang trắng sụt sùi sau quan tài – Đại đội trưởng Lê Văn Mạnh Đại đội 20 lên cầm chỉ huy TĐ2ND một thời gian. Toán Y tá của tôi gần 2 năm trời không ai bị hy sinh trừ một vài bị thương nhẹ. Tôi khâm phục tinh thần gan dạ của Y tá Nhảy dù, luôn luôn xông vào tuyến đầu ngay dưới lằn đạn địch để băng bó vết thương cho đồng đội. Y tá trưởng Thượng sĩ Hưng “Mù” được Y tá trưởng Trung sĩ nhất Be về thay thế. Anh Y tá trưởng mới này cũng thuộc loại“chì” không kém.

Hành quân vùng Củ Chi – Hậu Nghĩa thường bị mìn bẫy nguy hiểm. Một chiếc Chinook chở gần cả đại đội bay sà sà sát mặt đất để tránh khỏi bị bắn tỉa khi đổ quân. Thế mà xui thay, viên Đại úy Cố vấn Mỹ mới về Tiểu đoàn, ngồi cạnh ông Tiểu đoàn trưởng là người duy nhất bị trúng một viên đạn bắn lên xuyên qua, chết ngay tại chỗ.
Vùng I chiến thuật lại khẩn điện về Bộ Tổng Tham Mưu cầu viện các binh chủng tổng trừ bị như Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến. Dân chúng vùng Huế, Quảng Trị, Đông Hà an tâm khi có sự hiện diện của các binh chủng này. Tổng trừ bị gì mà ăn dầm ở dề tháng này qua tháng nọ giống như là Địa Phương Quân.

TĐ2ND trở lại Huế, hành quân lần này có Trung đội Thiết giáp M113 yểm trợ. Những “con cua khổng lồ” dàn hàng ngang dậm chân trước một địa thế nghi ngờ. Trung đội khinh binh tiến sát vào hàng rào tre cao vút dày đặc của làng Đông Xuyên – Mỹ Xá, quận Quảng Điền. Im lặng đến ngộp thở. Chưa thấy động tĩnh thế nào cả. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn dè dặt từng bước. Đợi đến khi thấy các cần câu của máy truyền tin PRC25 của bộ chỉ huy gần kề thì địch khai hỏa. Thiết giáp đã dàn hàng ngang rồi ầm ầm nhào tới khạc đạn đại liên xối xả vào mục tiêu. Lính Nhảy dù xung phong như sóng vỡ bờ. Lựu đạn thi nhau ném vào các hầm hố mới thanh toán được các ổ thượng liên mà xạ thủ bị còng chân tử thủ với nhau. Lựa đến khi trời tối địch nương theo kinh rạch để mà chém vè, rút sâu vào làng. Nhiều xác địch và vết máu để lại trên đường tháo chạy. Các binh sĩ mang máy theo bộ chỉ huy bị thiệt hại tính mạng khá nặng. Ông Tiểu đoàn trưởng vẫn bình tĩnh điều quân. Thiết giáp không bị hư hại chiếc nào cả. Trực thăng rọi đèn tải thương trong đêm tối. Mồ mả quanh bờ làng là nơi che chở cho chúng tôi gối đầu qua đêm.

BS Trần Lâm Cao tháp tùng các Sĩ quan Bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 theo trực thăng tản thương từ Quân Y viện Nguyễn Tri Phương đáp xuống trận địa khi chiến trường đã thu dọn xong buổi sáng. Một chiến thắng quân địch sát nách thành phố Huế làm chấn động người dân thị thành. Chiến thắng nào mà không đổi lại bằng xương máu.

Viết đến đây lòng tôi bỗng chùng vì xúc động. Những khuôn mặt người lính thân thương đó hiện rõ trong ký ức của tôi. Họ nằm xuống vì vết đạn vào đầu, vào tim, vào phổi nằm la liệt trước mặt tôi. Người Y sĩ Tiểu đoàn hoàn toàn bất lực trước những vết thương không có phương tiện cứu chữa. Tôi xin cầu nguyện cho các anh an giấc ngàn thu và không hận thù. Chúng ta đều chia sẻ một đau thương chung của vận nước nổi trôi.

Tôi bàn giao toán Y tá cho BS Trần Lâm Cao làm tân Y sĩ trưởng TĐ2ND vì đáo hạn nhiệm kỳ 2 năm phục vụ Tiểu đoàn.
Tôi được thăng cấp Đại úy và nhận nhiệm vụ mới là Y sĩ trưởng Đại đội 3/QYND, thường đóng chung với bộ chỉ huy Lữ đoàn 3 ND của Trung tá Nguyễn Khoa Nam khi đi hành quân. Sau này ông là Tướng Tư lệnh vùng 4 và tuẫn tiết không chịu đầu hàng địch. Danh thơm của ông ấy còn vang mãi trong hậu thế.

Tin dữ từ mặt trận đưa về. BS Nghiêm Sĩ Tuấn học cùng lớp, là BS dân y trưng tập, tình nguyện về TĐ6ND, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn nhiệm kỳ phục vụ cấp Tiểu đoàn bị tử trận tại Khe Sanh khi đang săn sóc thương binh. Anh đã 2 lần bị thương, một ở Dakto, một ở Cao Lãnh. BS Lê Hữu Sanh, bạn cùng khóa, người thường được chọn cầm cờ đi hàng đầu trong các cuộc diễn hành của trường Quân y vì dáng anh cao lớn, tử trận khi anh đang làm Y sĩ trưởng một Tiểu đoàn TQLC.
Cuối năm 1970, tôi giữ chức vụ Y sĩ trưởng Bệnh viện Đỗ Vinh/SĐND và được thăng cấp Thiếu tá.

Khoảng tháng 3/1971, tôi đang thụ huấn tại Bệnh viện Brooks Hospital, thành phố San Antonio, Texas thì nhận được tin nhiều Y tá/TĐ2ND hy sinh tại mặt trận Hạ Lào. Lòng tôi quặn thắt.
Tôi rời binh chủng Nhảy dù về phục vụ tại Quân Y viện Nha Trang để được gần gia đình. Chiếc Mũ đỏ và bộ hoa dù vẫn còn quyến luyến cho đến khi tôi giải ngũ vì đắc cử Nghị viên Thành phố Nha Trang năm 1974.
Viết những dòng kỷ niệm của nửa thế kỷ trước không sao tránh khỏi thiếu sót và nhầm lẫn, rất mong các bạn đọc đính chính và thông cảm.
Tôi xin nghiêng mình tưởng niệm những Quân nhân Binh chủng Nhảy dù đã nằm xuống, những người lính chỉ biết tiến không lùi dù trước hỏa lực mạnh của địch quân.

Tôi xin cảm phục và tưởng niệm người lính chiến sĩ vô danh của Nhảy dù bắn súng vào họng tự sát khi miệng còn nhai cơm sáng 30 tháng 4 tại hẻm tôi ở 147/8 Trần Quốc Toản, một hình ảnh hào hùng không thể quên.
Tiếp nối làm Y sĩ trưởng TĐ2ND là BS Vương Bình Dzương, BS Bùi Văn Đạt, BS Tôn Thất Sơn, BS Lê Minh Tâm, BS Nguyễn Đức Mạnh, BS Nguyễn Kiêm, các anh hứng pháo Cộng sản sau này còn dữ dội hơn tôi nhiều.
Trước tôi, BS Võ Đạm là một trong 3 Sĩ quan thuộc bộ chỉ huy TĐ7ND còn sống sót trong trận Đồng Xoài.

Sau tôi, BS Tô Phạm Liệu, ông BS cầm súng như dân tác chiến, cũng là 1 trong 3 Sĩ quan thuộc bộ chỉ huy còn sống sót ở ngọn đồi Charlie, ngọn đôì đẫm máu chôn xác TĐT/TĐ11ND Nguyễn Đình Bảo.
BS Đường Thiện Đồng sống sót trận Hạ Lào, hốc hác lội bộ về thấu tiền trạm.
BS Vũ Văn Quynh, BS Nguyễn Văn Thường, v.v… trốn tù cải tạo bị xử bắn, và còn, còn rất nhiều nữa mà người Y sĩ nhảy dù đã chia sẻ.
Tôi xin thán phục tinh thần Nhảy dù bền bỉ của các BS Mũ đỏ Trần Văn Tính, Phạm Gia Cổn, Lê Quang Tiến… nắm giữ chức vụ Chủ tịch BCH/TƯ/GĐMĐVN Hải Ngoại để nối vòng tay lớn, tương thân, tương trợ.
Tôi không thấy ngượng ngùng khi BS Mũ xanh Trần Xuân Dũng ca tụng các Y sĩ Nhảy Dù, Y sĩ TQLC là “những Hiệp sĩ của thời đại, những Đường Sơn Đại Huynh trên tiền tuyến lửa.”

Tôi không quên cám ơn các Chi Hội trưởng GĐMĐ vùng Hoa Thịnh Đốn như anh Nguyễn Văn Mùi, Lý Thanh Phi… thường nhắc tôi tham dự buổi cơm cuối năm của Gia Đình Mũ đỏ tổ chức để góp chút tình gửi về cho Thương Phế Binh Nhảy dù còn ở quê nhà.
Tôi cũng không thể nào quên nhắc đến tên các đàn anh như Y sĩ Đại tá Hoàng Cơ Lân, người anh cả nghiêm minh và vui tươi, Y sĩ Đại tá Bùi Thiều, con người tài hoa và là người điều hành xây dựng Bệnh viện địa đạo ngay trong căn cứ Khe Sanh mà báo chí Mỹ khen phục.

Bốn chữ “Giữ Đời Cho Nhau” của BS Lê Quang Tiến nhắn trong Đặc San 70 để thực hiện số báo đặc biệt về QYND/SĐND làm sống dậy trong tôi những năm tháng đùa với tử thần.

Có nếm mùi cực khổ, tù đày rồi mới thấy Độc lập – Tự Do là quý. Có lâm vào cảnh đói rách, nguy hiểm rồi mới thấy tình Huynh Đệ Chi binh là quý.
Xin nói thêm vài lời nữa là nếu không đọc quyển “Y sĩ Tiền Tuyến” của Trang Châu, không đọc bài viết của Phan Nhật Nam, của Trương Đăng Sỹ trong Đặc San Mũ Đỏ #70 thì e cũng khó ngồi mài miệt cả tuần để viết nên những trang giấy này.

Mũ Đỏ Trần Đoàn

Y sĩ Trưởng TĐ2ND

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Màu áo Hoa Rừng

Bạch Hổ – Trình bày: Ngô Nhật Tùng

Thân tặng các Thiên Thần Mũ Đỏ, Mũ Nâu, Mũ Xanh nói chung

Phải Anh là áo rằn ri
Ra đi nào biết mấy trăng mới về

Image

Sau trận tấn công “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972 của quân Cộng sản Bắc Việt, chính quyền VNCH ban hành lệnh tổng động viên. Năm đó tất cả các trường đại học trên khắp miền Nam điều đóng cửa cho đến khi có lệnh mới, nhiều phân khoa mở kỳ thi cuối năm gấp để một số sinh viên khỏi phải nhập ngũ. Tôi được đưa vào trường Bộ binh Thủ Đức, theo học khóa 6/72, một số đông bạn bè đi trước đã theo học các khóa 3, 4, 5/72. Kể từ khi các sinh viên trình diện nhập ngũ, trường Bộ binh nhận vào liên tục, cứ hai tuần vào một khóa, cho đến khóa tôi là khóa chót chỉ có hơn 400 sinh viên sĩ quan, tông đó có một số kỷ sư và giáo chức.

Lúc đó tôi chưa có gia đình, mới có người yêu nên thường viết thư và… rất mong thư. Chuyện bí mật từ từ đổ bể ra, mới đầu mấy thằng bạn thân còn tìm cách “phá thối” , chọc quê. Sau đó mỗi lần tôi viết thư cả bọn xúm lại “gà” cho tôi, có đứa làm “thầy dùi” cho ý kiến… “Sao mày không gửi cho nàng một tấm ảnh?… Tao thấy mày có nét huynh trưởng lắm!” Nghe cũng êm tai, bạn bè bảo sao tôi làm vậy… thế mới chết! Nhận được thư hồi âm tôi vội vàng lẻn vào phòng vệ sinh làm thủ tục đọc thư… phải đọc trong ngày mới thấm, thư tình của nàng chắc phải thơm! Lời lẽ trong thư có vẻ vui, nàng đã nhận được ảnh… mắt tôi mở to ra nơi hàng chữ “Sao mà trông anh giống Babylac quá vậy! Hồi đó anh uống Guigoz có nhiều không?” Đọc đến lần thứ ba cho chắc ăn, khỏi quên, tôi tức tốc quay trở lại phòng nghĩ thầm trong bụng… cũng tại mấy thằng bạn cho ý kiến tai hại! Thật là bậy bạ! Lúc ra trường tôi phải làm một chuyện gì ghê gớm… để cho nàng biết tay, không dám coi thường thôi nữa.

– Khi gần ra trường, mấy thằng bạn thân Hải, Hùng, Thạnh tình nguyện về Nhảy Dù, rủ tôi đi theo. Ê Hiếu! Đi Nhảy Dù với tụi tao… Đội beret đỏ cho nó oai.
– Tao chọn Biệt Động Quân!

Mấy đứa còn làm bộ thương hại:

– BĐQ phải học khóa Sình Lầy cực lắm!

Tôi chưa biết trả lời sao thi thằng Hưng đã chen vào.

– Thằng Hiếu định làm Cọp…! Tụi bay cứ rủ nhau đi Nhảy Dù, thế nào cũng có ngày ngã vỡ mặt hết cả đám.

Bọn tôi bốn mươi người được Phòng 3 BCH/BĐQ gửi ra TTHL/BĐQ Dục Mỹ học khóa 58 “Hành Quân Biệt Động Rừng Núi Sình Lầy” thường gọi là Rừng Núi Sình Lầy hay Sình Lầy vì trong thời gian huấn luyện, cực nhất là lúc đi học ở căn cứ đồng lầy. Trong ngày khai giảng, huấn luyện viên hù khóa sinh “Khi nào các bạn đen bằng bức tượng đồng đen người lính BĐQ trước cổng, khi đó là lúc sắp mãn khóa. Trong khóa này không có ngày Thư Bẩy, Chủ Nhật, các bạn phải học tối thiểu 12 giờ mỗi ngày, và đặc biệt về kỹ thuật tác chiến ban đêm…”

Thực vậy, mỗi ngày thức từ lúc 5 giờ sáng tập thể dục, trong lúc trời vẫn còn tối, TTHL/BĐQ vẫn còn chìm trong giấc ngủ. Các khóa sinh thuộc hai khóa Viễn Thám và Sình Lầy đã ba lô, súng đạn trong hàng ngũ chạy rầm rầm qua phố Dục Mỹ ra đến TTHL Lam Sơn, vừa chạy vừa hô to “Ta là Biệt Động… Biệt Động diệt cộng. Sát!” Chẳng biết bà con, những người buôn bán nơi phố Dục Mỹ có ngủ được hay không? Có điều tôi dám chắc là họ không cần phải có đồng hồ báo thức ở trong nhà.
Image Thêm một điêu nữa là các khóa sinh thường có tật đếm lui… còn lại 41 ngày… còn lại 40 ngày v.v… Khóa huấn luyện chia làm hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn một, 21 ngày phần “Căn bản Biệt Động Quân”, học từ sáng cho đến 10 giờ đêm trở về TTHL. Giai đoạn hai là phần “Đi căn cứ”, các khóa sinh sẽ được huấn luyện về kỹ thuật tác chiến qua ba căn cứ Rừng, Núi và cuối cùng là căn cứ Đồng Lầy.


Ngày thứ 21, trong ngày cuối của giai đoạn căn bản, khóa sinh được huấn luyện về “Mưu sinh, Thoát hiểm và Đào tẩu”. Để thêm phần quan trọng, sĩ quan huấn luyện “nồ” tụi tôi “Các anh mặc bộ đồ rằn ri, bị Việt cộng bắt được… có quỳ xuống lậy… tụi nó cũng để cho một viên vào đầu!” Xui hôm đó trời mưa to, cả khóa bị mưa ướt như chuột, chiếc ba lô dường như có bỏ thêm đồng vào chứ không phải chỉ có đạn (khóa Sình Lầy, Viễn Thám đem theo đạn thật vì phải lội rất xa, ra khỏi vòng đai an ninh của huấn khu Dục Mỹ… biết đâu gặp mấy anh du kích bất tử). Đến 6 giờ chiều cả bọn kéo nhau ra dưới chân núi Đeo, chia toán 4 người và được lệnh vượt núi trở về điêm tập trung ở phía bên kia. Bốn người trong tổ vừa chạy lên núi vừa đếm số để khỏi lạc nhau (toán nào cũng chạy, chạy thực sự vì nếu để trời tối sẽ không thấy đường leo núi). Lên được lưng chừng thì trời tối, bọn tôi phải dò dẫm tìm đường mòn dẫn lên đỉnh núi. Phải mất một tiếng đồng hồ nữa mới lên tới đỉnh, cả toán đồng ý ngồi nghỉ chút rồi tìm đường đi xuống. Trời tối đen như mực sau trận mưa hồi chiều, tôi cởi chiếc ba lô ra cho nhẹ tấm thân, thầm nghĩ… Trường Bộ binh Thủ Đức quả là thiên đường so với TTHL/BĐQ này, bây giờ cho phép tôi chạy bộ về lại trường Thủ Đức chắc tôi cũng làm ngay. Mà không phải chỉ riêng tôi mơ ước, có lẽ cả đám… những cựu SVSQ mà tối nào cũng đi câu lạc bộ uống cà phê, tán dóc.

Căn cứ Đồng Lầy, ra đến đây tôi làm đúng theo lời dặn của các bậc tiền bối học khóa trước, lôi trong ba lô ra một bộ quần áo mới mặc vào, còn bộ cũ giờ đã tả tơi, tìm một bụi cây nào đó ven rừng gởi lại làm kỷ niệm. Giầy MAP, ba lô cũng rách, rán lết cho tới ngày mãn khóa. Thực vậy, 21 ngày qua, tụi tôi không có thì giờ tắm rửa, đánh răng, rửa mặt. Mỗi khi di chuyển qua một dòng suối, ai cũng lội xuống rửa mặt, kỳ cọ vội vàng rồi đi tiếp. Hèn chi mấy em ngoài phố Dục Mỹ nói rằng quen với mấy ông BĐQ chẳng khác chi giây với hủi (cùi), lấy BĐQ có khác nào trao duyên lầm tướng cướp. Câu này, hồi mới lâop gia đình, bà xã thỉnh thoảng có lập lại cho tôi nghe, bây giờ thì… chán quá rồi, mà cũng đã hết thuốc chửa.
Image Tại căn cứ Đồng Lầy, ngoài những môn học như ở căn cứ Rừng, Núi về kỹ thuật xâm nhập căn cứ vùng hành quân, phục kích, phản phục kích, đột kích lúc rạng đông, đi phương giác đêm, tấn công đêm. Khóa sinh còn được huấn luyện thêm về cách sử dụng xuồng cao su, chiếc xuồng này coi vậy chứ nặng… ngàn cân, đâu phải giỡn. Hôm thực tập đi phương giác đêm, khi toán của tôi ra đến quốc lộ 21 (từ Ninh Hòa đi Ban Mê Thuộc), quần áo ướt sũng, lúc đó đã quá 12 giờ đêm, không cần phải cho phép, cả toán nằm ngã lưng lên ba lô ngủ một giấc cho đến khi tiếng còi tập hợp réo lên. Ở căn cứ Sình, tụi tôi được ngủ nhiều lắm là 5 tiếng đồng hồ mỗi đêm. Sau khi về đến căn cứ phải chùi súng, canh gác… một người phạm lỗi, cả trung đội khóa sinh bị đem đi nhúng nước có lúc 2, 3 giờ sáng (căn cứ Sình Lầy gọi là “hít nước” chớ không phải là “hít đất”).

Ngày mãn khóa học tụi tôi đứa nào cũng đen ra, người nào trông cũng gió sương, gầy hơn nhưng bên trong là một khối thép đã rèn luyện xong. Về đến Sài Gòn trong bộ đồ “hoa rừng” mới, beret nâu mới, giầy mới, vào đến trong nhà, người nhà mới nhận ra. TTHL/BĐQ Dục Mỹ đã lột xác thư sinh của tôi để trở thành một người chiến binh thực sự. Tụi tôi sau khi trở về trình diện BCH/BĐQ được 48 giờ phép, sau đó được đưa ra các tiểu đoàn BĐQ đang hành quân trên bốn quân khu để thực tập. Phải đi qua hai tiểu đoàn trước khi nhận đơn vị mới để trở thành một trung đội trưởng. Thời gian nhung lụa đã qua, 48 giờ phép sẽ trôi qua nhanh, chiều hôm đó tôi đến thăm nàng. Trên đường về tôi ngẫm nghĩ… bây giờ nhìn thấy tôi trong bộ quân phục tác chiến “ác liệt” thì thế nào nàng cũng “rét”! Quả nhiên…

– Ủa! Anh về hồi nào vậy? Sao không viết thư cho em biết trước?

– Anh mới về tới. (BĐQ chuyên môn đánh đêm… ngu gì báo tin trước!)

– Sao anh mặc đồ gì… ghê vậy! Bộ anh định…. dọa ai đây? Eo ơi! Ai mà dám ngồi gần anh!

* * *

Đó là chuyện Mầu Áo Hoa Rừng năm xưa. Bây giờ thì tôi đã… thấm đòn. Thỉnh thoảng kiếm được cớ để đi uống cà phê, tán dóc với mấy ông bạn, bà con tưởng tôi ngon lành, vẫn còn phong độ.

– Chà BĐQ đi đâu một mình thế ? Bảnh ghê!

– Bảnh mẹ gì! Thỉnh thoảng mới được vợ dúi cho một ít tiền…!

Sợ bàn bè, anh em chê cười tôi vẫn phải dấu là chút nữa đây, khi về nhà tôi phải đưa vợ đi chợ, dọn dẹp nhà cửa, hút bụi, đổ rác, giặt hai giỏ quần áo to tướng…
Image Thỉnh thoảng lỡ trớn đi nhậu với bạn bè về khuya. Vừa vào tới nhà tôi đã bị lãnh chưởng tới tấp… toàn là những câu mà tôi đã phải nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần. “Tôi vô phúc mới vớ phải anh! Đàn ông gì mà cuối tuần nào cũng tụ họp, nhậu nhẹt…” Có lẽ nàng coi chuyện lấy tôi là làm việc phúc đức, công quả, từ thiện… và còn tai hại hơn nữa là còn học lại với mấy người bạn của nàng, với phía bên gia đình tôi. Điêu tốt về tôi nàng hay quên hay cố tình quên rằng mặc dầu đi lính nhưng tôi đã lên trên đại học trước nàng hai niên… chứ đâu phải dốt, mà bây giờ sang đây tôi đã chịu khó đi học lại và đã có bằng cấp cao hơn nàng.

Người ta thường nói “Đẹp trai không bằng nói dai… Nói dai không bằng mặt chi!” Tuy nhiên tất cả vẫn thua thằng “liều mạng”. Binh chủng BĐQ đã tập cho tôi tình liều mạng… Sẵn có dăm ba chai bia ở trong người, tôi cũng… hết ngán nàng. Cứ tỉnh bơ như người Hà Nội, giả câm, giả điếc lên sa lông nằm, từ từ tụt đôi giầy ra… ngả người làm một giấc cho đến sáng.

“… Ta Biệt Động Quân danh lừng bốn phương… Biệt Động Quân SÁT!”

Bạch Hổ

User avatar
macco
Posts: 3541
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Phúc Ấm Con Ban
Tác giả: Du Tử Nguyễn Định
Tác giả cho biết ông là cựu sĩ quan VNCH, khoá 8/68 Sỹ Quan Trừ Bị Thủ Đức, phục vụ tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II, bị bắt tại Ban Mê Thuột ngày 14 tháng 3 năm 1975; Đến Mỹ tháng 4/2005, Hiện cư ngụ tại Carlsbad, California.

++++

Tôi đến Mỹ rất trễ, đến từ một quốc gia thứ ba, nên ba mươi năm sau ngày mất nước tôi mới đặt chân lên xứ cờ hoa. Văn hóa và hệ thống xã hội nơi đây có những khác biệt so với nơi tôi đã sống, và điều dễ thấy nhất là nếp sống của xã hội Mỹ như vội vàng, cạnh tranh, và tấp nập hơn, so vơi nơi tôi đã sống, êm đềm và lặng lẽ.

Người Việt ở đó ít hơn, nếp sống và sinh hoạt của gia đình còn mang nhiều nét truyền thống của nơi chôn nhau cắt rún. Người ta rất thân tình và chân tình khi bắt gặp nhau nơi công cộng, giáo đường hay chùa chiền. Và nhất là những lúc được thông báo có người Việt từ nước khác tới định cư, là những người già, những người có phương tiện, tình nguyện đưa đón, hướng dẫn các thủ tục nhập cư, những giấy tờ cần thiết cho một đời sống mới.

Có lẽ đất Mỹ, nơi tôi đang sống, có cái khung cảnh xa lạ hơn, vì những núi đồi trùng trùng điệp điệp, đôi lúc cho tôi cái cám giác như đang đi trên đèo Ngoạn Mục, quảng đường từ Phan Rang lên Đà Lạt một thủa nào. Cảm giác êm ái đó làm tôi liên tưởng tới khu đồi mà dòng Donbosco tọa lạc, nơi có hoa Anh đào nở rộ mỗi bận Xuân về, màu hoa rực rỡ giữa núi đồi hùng vĩ đầy thơ mộng của Cao nguyên.

Cũng đã mấy chục năm bỏ lại quê hương, bỏ cả những chiều lộng gió của núi rừng Đà Lạt và Di Linh, không hiểu những nơi chốn ấy bây giờ đã thay đổi ra sao, màu chè xanh của Bảo Lộc còn xanh như màu xanh ngày củ, Khu chợ Hoa Đà Lạt, hay bờ Hồ Xuân Huơng còn dương liễu rũ xuống ven bờ, mà những hồn thơ ngày đó đã ví von như mái tóc thề của mấy cô sơn nữ Cao nguyên. Bao nhiêu đã mất, bao nhiêu còn giữ, bao nhiêu còn nhớ được trong tâm trí của trang lứa chúng tôi.

Cái mất mát hẳn nhiên đã làm chúng tôi đau đớn xót xa, nhưng chưa chắc đã bằng những chua chát, bẽ bàng, mà trang lứa chúng tôi phải gánh chịu trong cuộc sống tuổi già trên đất nước xứ người.

Tôi đến Mỹ như đã nói là rất muộn màng so với nhiều đồng đội, và những người bạn thân tình thủa nào cũng đã tản lạc mỗi đứa một nơi, và ở đây, trong vòng 50 dặm vuông hay vài trăm dặm dài, tôi cô đơn không bè bạn. Mỗi ngày, ngoài việc nhổ cỏ vườn sau, nhặt lá vườn trước, đưa đón bốn cô cháu đi học, tôi chỉ còn biết đi bộ, nhìn đồi núi nối tiếp nhau trên thành phố này để mơ mộng về núi rừng quê tôi, nơi mà hàng chục năm tôi và đồng đội chung sống, có khi gian nan, mà cũng có lúc thật thơ mộng. Và rồi trong một trường hợp ngẩu nhiên, tôi đã gặp được bác Thụy, một người Việt Nam cô độc, cũng lạc lỏng đến nơi này như tôi.

Cũng là một thói quen như nơi tôi đã từng sống, hễ gặp được người nào mà tôi đoán là dân nước tôi, thì tôi không ngại ngùng đến làm quen, và câu hỏi đầu tiên của tôi thường là " Ông nói được tiếng Việt nam không" " Nếu người đó trả lời họ là người Việt thì tôi nhất định rất vui mà hỏi chuyện. Tôi quen bác Thụy cũng trong trường hợp tương tự.

Từ lần gặp đó, tôi hay tìm tới bác vào mỗi cuối tuần hoặc là những khi bác gọi tôi đến, và lúc nào bác cũng mở đầu bằng câu " chúng nó đi cả rồi ", ý của bác là các con đã đi làm hết. Tình thân của chúng tôi từ đó ngày càng thân thiết hơn, bác kể cho tôi 12 năm trong quân đội, phục vụ cho một đơn vị Quân báo, hoạt động trên lảnh thổ Quân Đoàn I, bị thương nhiều lần, nhưng lần nào cũng may mắn qua khỏi. Bác đến Mỹ không thuộc diện HO, vì thời gian bác được thả, Phòng công tác nước ngoài thuộc công an Thành phố Hồ Chí Minh ở 161 Nguyễn Du, Quận I, còn đóng cửa, nên bác vượt biên, bị bắt cho đến khi Chương trình HO được thực hiện, bác vẫn còn ở trong tù, do vậy bác đến Mỹ theo Chương trình Đoàn Tụ, con gái bảo lảnh hai vợ chồng nên không được hưởng một trợ cấp nào của Chính phủ Mỹ như diện HO, tất cả đều do thân nhân bao bọc.

Thời gian ở lại Việt Nam, bác đi dạy học, cũng như trước khi động viên bác là một Giáo sư dạy Vật Lý tên tuổi tại Sài Gòn, lương giáo viên tuy không khá, nhưng cũng đủ cho hai vợ chồng bác sống tạm qua ngày, nhất là bác được các trung tâm chuyên Lý mời cộng tác, nên dạy cả sáng, chiều và tối , Vã lại mỗi năm, các con bác gởi cho một vài trăm đô la vào dịp Tết, hai vợ chồng lại dành dụm mua một chỉ hay 5 phân vàng hầu dùng cho việc ma chay sau này, cho đến năm 2003, con gái bác viết thư báo tin cho biết là đã làm hồ sơ bảo lảnh cho ba má, bác cũng chẳng hy vọng gì, vì thời gian đợi chờ dường như đã quá mòn mỏi, vã chăng tuổi đã cao, đi đâu cũng chỉ kiếm hai bữa cơm mà thôi, nên gần như vợ chồng bác không nghĩ tới chuyện ra đi, cho đến năm 2006, bác được gọi bổ túc hồ sơ, rồi cuối năm đó, bác được phỏng vấn, theo bác kể thì có lẽ vì lợi tức của con gái bác cao, nên họ cho đi nhanh và rồi đầu tháng 4 năm 2007 bác được sang Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình, nhưng tính cho đến nay, bác vẫn chưa hội đủ điều kiện thi nhập Quốc tịch Hoa Kỳ .

Thời gian đầu sống với con cái vui vẻ lắm, vì còn mới, tình cảm còn mới, mọi thứ còn mới và còn mới là còn vui vẻ, rồi từ từ bác được một người quen giới thiệu đi làm Asembler cho một hảng điện tử, lương $10/ giờ, hai vợ chồng già thật là hạnh phúc, cứ cuối tuần là hai ông bà rủ nhau đi WaltMart hay Target mua áo quần và đồ chơi cho các cháu, nhưng rồi kinh tế ngày càng suy thoái, sau gần hai năm làm Asembler, bác mất việc làm, không có cách nào xin được việc khác, vã chăng, những người trẻ còn chưa xin ra việc làm thì ông già 63 tuổi như bác dễ gì tìm được việc, nên bác đành xin tiền thất nghiệp, và được hưởng thất nghiệp hai năm, khoảng thời gian này bác cho biết rất là buồn, suốt ngày vợ chồngcứ mong cho hai đứa cháu đi học về để chơi với cháu cho đỡ buồn, rồi thì cứ vườn sau sân trước, vợ chồng thi nhau nhặt cỏ, tưới cây, hay lên đồi lượm những viên đá hình dáng đẹp đem về lót quanh mấy bụi hồng cho hết thời gian.

Bác cũng năng nổ đi tham gia sinh hoạt các hội đoàn, như hội người già, Hội SQ/TBTD, nhưng rồi tiền trợ cấp thất nghiệp hết, và khó khăn đến với bác bây giờ là tiền đổ xăng, bác không biết xin ai hai chục bạc để mua xăng, bác nói, một đôi khi bổng dưng nghe thèm một tô phở, nhưng cũng không cách nào có được, "Ông ạ, có đêm tôi không ngủ được chỉ vì nghĩ tới mùi ngò gai và rau quế bỏ vào tô phở mà chảy nước miếng hoài không ngủ nổi, thèm như là thèm được ăn đường lúc ở trong trại tù ".

Tình cảm con người hình như rất mỏng manh, không phải bền chắc, và rất dễ gãy đổ, từ tình vợ chồng, cha con hay anh em, và nghèo đói là mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với tình cảm. Cổ nhân cũng đã từng nói "phú quí sinh lễ nghĩa, bần cùng sinh đạo tặc", cái gì người ta bảo "tiền tài như phấn thổ, nghĩa trọng như thiên kim" có chăng, chỉ là trong đạo đức kinh hay sách vở của Thánh hiền mà thôi. Không có tiền, nguyên lý nào cũng bị bỏ quên, đạo đức nào cũng dư thừa, và tình cảm nào cũng mai một. Đặc biệt là ở một xã hội mà mọi nền tảng đều lấy lợi nhuận làm chuẩn.

Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục và hy sinh. Con cái ở chung với cha mẹ là tự nhiên, nhưng cha mẹ ở chung với con cái lại ưu phiền, vì lúc nào cũng phải nhìn mặt mủi con cái, phải xem chừng nó vui buồn bất chợt ra sao. Muốn mở cái TV cũng phải lựa lúc nó vui vẻ, muốn mở cái CD nghe nhạc cũng tùy thời cơ nó buồn hay giận, lại còn phải coi sóc con cái cho chúng, nhỏ thì cho đi tiêu đi tiểu, rửa đít, cho ăn, tắm giặt. Lớn thì đưa đón tới trường, có khi còn bị chưởi mắng, đành chỉ biết cúi mặt dấu nước mắt đi. Họa hiếm lắm, chúng cho vài ba trăm bạc vào dịp lễ nào đó thì lại coi như phúc ấm chúng ban cho.

Con cái ở nhà cha mẹ thì hạnh phúc, cha mẹ ở nhà con cái thì nhẫn nhục, chính là chổ này.

Một buổi sáng bác gọi tôi tới nhà, chỉ cho tôi một tờ giấy con gái bác viết để lại trên bàn cho bác, tôi cầm lên đọc :

"Theo luật bên nầy, chủ nhà có quyền gọi cảnh sát đến bắt buộc người thuê phải ra đi, nếu người chủ đã thông báo cho người thuê hai lần bằng thư. Ba không trả tiền nhà, nhưng con cũng coi ba như người thuê nhà, đây là lần thứ hai con yêu cầu ba dọn ra, ba đừng ép con phải gọi cảnh sát".


Tôi đọc đến đây, bổng nhiên nước mắt tôi trào ra, bác nhìn tôi và nấc lên thành tiếng, bác cũng bật khóc. Tôi ôm hai vai bác và nói "Hãy yên tâm, không có luật như vậy đâu, nếu cô ấy gọi cảnh sát, bác có thể nói cô ấy ngược đãi người già, con bác chỉ hù bác thôi". Và rồi bác bắt đầu kể cho tôi nghe hết tự sự.

Thoạt đầu là gạo, chúng nó than phiền, "nhà người ta một năm chỉ tốn hai bao gạo thôi, sao nhà mình mỗi tháng một bao", Tôi mở casette ngồi ngoài garage nghe nhạc, ngoài garage thì nóng, tôi mở cửa bên hong ra cho bớt nóng, nó đóng lại, và bảo mở cửa chuột chạy vào nhà. Tôi hiểu ý là nó sợ tốn điện, tôi tắt casette vào nhà.

Ông cũng biết, ở bên này, người già chỉ lấy cái TV làm bạn, nhưng nó mắng vào mặt tôi và bảo không biết xài thì đừng xài, TV cứ mở hoài chịu sao nổi, thế nào cũng có ngày TV bị cháy.

Mỗi ngày, chúng nó đi làm về trễ, có khi 7:30 hay 8:00 tối mới về đến nhà , và tôi đều cố gắng ăn trước để không chạm mặt chúng nó trong bữa ăn, ăn trước thì thú thật chỉ ăn sơ sài cho no bụng thôi, thức ăn của chúng tôi không dám đụng vào, vợ tôi thì chờ cho chúng ăn hết đã, cái gì còn lại bà ấy mới ăn, chúng tôi chỉ dám ăn những thức ăn thừa thải mà thôi. Công việc lặt vặt trong nhà như lau dọn, rửa chén bát, đưa đón các cháu, chúng tôi đều làm hết, nhưng nó bảo với tôi là tội nghiệp thằng chồng nó phải còng lưng gánh hai ông bà già. Những ngày nghỉ, hay cuối tuần, vợ chồng con cái chúng đi ăn tiệm, những năm đầu khi cháu út chưa thể gởi đến trường, thì chúng còn gọi vợ tôi đi ăn với chúng, những ngày lễ Tết cũng tặng quà cho vợ tôi, nhưng từ khi cháu út lớn rồi, chúng cũng lơ là với vợ tôi luôn, cho đến sau này, chúng lạnh lùng đến như bỏ mặc, vợ tôi buồn quá đành đi tìm chổ giữ trẻ ở một tiểu bang khác, nên ông tới nhà không thấy vợ tôi là vậy.

Bác lấy dưới gối ra một lá thư khác đưa cho tôi, bác bảo lá thư không có một chút tình người, thú thật tôi không dám đọc hết, nhưng trong trí tôi như vẫn in sâu những dòng này "ba người ta chết thì con cái khóc lóc tiếc thương, nhưng nếu ba chết con sẽ thở ra một cách nhẹ nhỏm. Con thật không muốn bảo lảnh ba sang Mỹ đâu, chỉ vì bắt buộc mà thôi, Ba hãy dọn ra đi để còn một chút gì gọi là tự trọng".

Tôi cũng tự hỏi mình, bác đi đâu bây giờ" Một đồng bạc cũng không có, bà con, bạn bè cũng không luôn, bác dọn đi đâu" trong khi bác lại chưa phải là công dân Hoa Kỳ, làm cách nào để có thể xin trợ cấp, tôi đành an ủi bác, thôi bác cứ yên tâm, điều quan trọng bây giờ là hãy nhịn, nhẫn nhục đó mà, cứ coi như ngày nào bác bị bắt tại mặt trận, Việt cộng hành hạ bác kiểu gì, nhục mạ bác ra sao, bác cũng ngậm bồ hòn, thì nay, với con gái, bác ngậm lại bồ hòn một lần nữa đi rồi từ từ hãy tính.

Một ông già tóc đã bạc hết rồi, nước da đã ngã màu đồi mồi, tay chân đã lọng cọng, dễ gì xin được một việc làm trên một đất nước đầy dẫy nhân lực và cạnh tranh.

Tôi biết có rất nhiều cơ quan, tổ chức thiện nguyện, sẵn lòng tiếp những người khó khăn, nhưng với hoàn cảnh của bác, thật không có tổ chức nào có thể giúp đỡ, vì có tổ chức nào có nhà cửa, cơm áo, để cung cấp cho bác trong lúc này, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái, ngân sách các cơ quan, giáo dục, y tế hay xã hội ... đều bị cắt giảm. Và tôi chỉ còn một con đường để đi, đó là dẫn bác tới Sở Xã hội, để xin cấp thẻ EBT ( Electronic Benifits Transfer), tức là mỗi tháng, Sở Xã Hội bỏ vào trong thẻ EBT $200 USD cho bác mua thực phẩm, gạo rau cá thịt, nước uống, trái cây...

Nhận được thẻ EBT bác liền hỏi nhân viên Xã Hội là có thể mua ngay thức ăn được không" và thực phẩm là những thứ gì" Người người Cán Sự Xã Hội nhìn tôi, tôi dịch lại lời bác và nói thêm rằng, bác không có gì ăn từ hôm qua cho đến nay. Người Broker xin phép đi ra một lúc, rồi quay trở lại đem theo phần ăn trưa của cô để tặng bác. Quả thật tôi cũng xúc động rơm rớm nước mắt khi nói câu đó với người broker. Đúng là một miếng khi đói, bằng một gói khi no, bác cúi đầu cám ơn người Cán Sự Xã Hôi mà như muốn khóc.

Tôi đem bác đi mua thực phẩm để hướng dẫn bác cách dùng thẻ EBT. Lần mua thử nghiệm đầu tiên của bác là 2 ổ bánh mì và 2 hộp cá Sardines rồi bác và tôi ra Parking chui vào xe ngồi ăn bánh mì cá hộp.

Tôi thật không hiểu rõ những tư tưởng nào đã đến với bác, nhưng mà nỗi xúc động của bác thì tôi biết là rất mãnh liệt, vì nước mắt bác đã chảy đến nỗi dùng hết một hộp khăn giấy của tôi để trong xe, tôi ngồi yên để bác khóc và suy nghĩ về mình, không hiểu có một lúc nào đó tôi lại như bác hôm nay. Trên đất nước tạm dung này, những người già đã trở thành gánh nặng cho con cái, những người già đã bị lãng quên hay bị xua đuổi của gia đình, mà xã hội dù có nhân đạo tới đâu cũng khó kham nỗi với số người cao niên ngày càng nhiều.

Một lần tôi đưa bác đi tái khám bệnh phổi, tôi ngồi chờ bác ở phòng đợi thật lâu, và khi bác trở ra cùng với một vị bác sĩ người Việt còn trẻ, vị bác sĩ này lấy ví ra 3 tờ bạc 20 đồng và nói "cháu chỉ còn bao nhiêu tiền mặt, nhưng cháu có một căn phòng trống trong Building này, có Microwave, khi nào bác cần thì gọi cho cháu, bác hãy nhớ là bác còn chúng cháu ở đây. Ông quay sang nhìn tôi và dặn chú làm ơn để ý tới bác này với, người già nào cũng có một nỗi khổ khi sang đây."

Suốt quãng đường về tôi cứ mãi suy nghĩ về người bác sĩ đầy lòng nhân ái ấy. Y thuật và y đạo, điều nào được người ta coi trọng hơn trên đất nước này. Tôi hỏi bác Thụy về vị bác sĩ ấy, được biết ông ta tên là DR. Albert H. Lee, chuyên khoa về phổi, là bác sĩ đang làm việc tại hai bệnh viện lớn ở thành phố này, và rất được bệnh nhân quý trọng cả về chuyên môn lẫn đạo đức.

Bác Thụy cho biết, thường ngày bác dậy rất sớm vì không ngủ được, có đêm bác chỉ ngủ 3 tiếng đồng hồ, rồi cứ suy nghĩ lung tung về chuyện đời, chuyện gia đình, về thời gian đi tù cải tạo, thời gian đi dạy dưới chế độ cộng sản.

Bác kể sau khi được thả ra tù, vì tốt nghiệp đại học trước 1975, nên bác không bị đuổi đi Kinh Tế Mới, mà được kêu đi dạy. Là một giáo sư dạy Lý Hóa nhiều năm, kinh nghiệm đặc biệt về phương pháp dạy Luyện thi, nên các Trung Tâm Luyện thi dạy ngoài giờ đều mời bác cộng tác, bác dạy cả sáng, chiều và tối, nhờ đó mà gia đình bác có được cuộc sống tương đối so với những anh em khác đi học tập về, và các con bác cũng từ đó mà học đến nơi đến chốn trước khi ra nước ngoài.

Trước ngày sang Mỹ, bác bán đi căn nhà, thu gom tài sản lại, cũng đựoc vài ba chục ngàn đô la, đều đem cho con hết, bây giờ nếu quay về, không còn nhà để ở, và biết lấy gì làm kế sinh nhai, vì tuổi đã cao rồi, làm sao xin được việc làm, đó là chưa nói tới những phiền toái khác từ xã hội, thật là tiến thoái lưỡng nan, bác tâm sự.

Có một buổi trưa tôi tìm tới bác, chứng kiến bữa cơm trưa gọn gàng của bác mà mủi lòng, một tách uống cà phê đong đầy Oat Meal, đổ vào một tô lớn, rót nước nóng từ bình thủy ra, khuấy đều chừng 2 phút, chờ nguội và ăn, không cần nước mắm hay xì dầu, hoặc một loại gia vị nào khác. Bác bảo từ khi có thẻ EBT, tôi không còn lo thiếu xì dầu nữa, nhưng nhịn được cái gì hay cái đó, với lại bác sĩ bảo ăn mặn cũng không tốt.

- Bác ăn như thế này mỗi ngày sao "

- Vâng, chỉ vậy thôi, tôi đâu có cần gì thêm, chỉ cần một căn phòng nhỏ, đủ đặt một cái giường là được rồi, thế nhưng đời tôi quả là cùng khổ, mà thực ra tôi đâu có cầu sống lâu, sống thọ, sống không có gì vui, thì chết đâu có gì buồn, sỡ dĩ tôi vẫn đi bác sĩ là vì tôi sợ đau đớn, cũng như tôi không đủ can đảm để tự tử, còn chết ư, tôi nghĩ tới rất thanh thản, trên đời tôi không còn gì mê luyến thì chết đi tôi đâu có gì tiếc nuối, chỉ cầu sao cho được chết thật nhanh, không đau đớn, đó là nguyện vọng duy nhất còn lại của tôi.

Thường thường bác hay kể cho tôi về những bữa cơm dã chiến của bác, như bữa ăn của những người lính ngoài mặt trận. Bác mua một cái bếp gas nhỏ bỏ trong túi vải mang theo bên mình mỗi khi đi bộ, một bình thủy nước sôi, một tách cà phê Oat meal, một cái tô và muổng. Buổi trưa ngồi vào một góc nào đó trong Park, nơi người ta cho phép nướng BBQ, bác mở hộp cá ra, hâm nóng bằng bếp gas chừng 2 phút, rồi đổ nước sôi trong bình thủy vào tô và khuấy Oak meal lên ăn, bác chỉ về nhà vào xế chiều, làm thức ăn tối và nấu nước sôi đổ vào bình thủy, chuẩn bị thức ăn cho ngày hôm sau, và những việc này luôn luôn làm xong trước khi con gái bác về nhà, ăn chiều xong, bác lại chui vào căn phòng nhỏ dấu mình trong đó, để không phải gặp mặt con gái nghe nó nói nặng nói nhẹ và đuổi nhà.

Bác tâm sự rằng, đôi lúc muốn ôm mấy đứa cháu một chút, nhưng thật rất khó, vì chúng nó sợ má la, lâu lâu con cháu lớn lén vào phòng ông, đưa ngón tay lên môi làm dấu với ý bảo ông im lặng, ngồi chơi với ông một lúc rồi chạy ra. Có những khi chúng nó vào phòng ông, má nó biết được là la mắng chúng liền. Ông cháu gặp nhau như đi thăm tù cải tao, thật là một hoàn cảnh đặc biệt hiếm hoi. Nghe bác kể lại, tôi đành tìm cách an ủi bác, kể cho bác nghe về những đứa cháu phá phách của tôi, mọi thứ trong phòng tôi mỗi ngày được xếp theo một kiểu, computer của tôi được load đầy các games "comp của ông ngoại dễ xài hơn, con thích games trong comp của ông ngoại hơn" thế là cái computer của tôi bận dài dài, chỉ trừ khi chúng đi học. Cho nên chơi với cháu chưa hẳn là hạnh phúc đâu bác ạ.

Bác kể cho tôi những bữa cơm chấm xì dầu thật cảm động. Mới đầu bác hỏi tôi :" Ông có bao giờ mút xì dầu chưa "" Tôi trả lời là tôi không hiểu ý bác. Bác kể lại vào những tháng bác chưa có thẻ EBT, bác ăn cơm với xì dầu hiệu đậu nành, nhưng không dám chan vào chén cơm, chỉ hai miếng cơm mới nhúng đầu đủa vào chén xì dầu một lần và mút lấy đầu đũa, vì nếu chan vào chén cơm hay mút nhiều lần thì sẽ hết mất, không có tiền mua nữa. Những ngày tháng ấy, anh Hồng, ngày xưa ở Biệt Động Quân, và một thời làm Chỉ Huy Trưởng Căn Cứ Rừng Lá, trước ngày mất nước anh về Phủ Thủ Tướng, mỗi lần ghé thăm, anh thường mua xì dầu, rau muống, Broccoli cho tôi, tôi còn nhớ mãi, bây giờ anh move đi xa rồi, cách đây cũng vài ba tiếng lái xe nên anh không thường tới nữa, mà cũng tội nghiệp, anh ấy cũng chỉ sống với mấy trăm đồng tiền già mà thôi, nhưng khi nào tới cũng đưa tôi đi ăn phở, hay có khi anh mua sẵn 2 tô phở mang đến đây hai anh em cùng ăn. Nghĩ lại, chỉ có những người lính mới thương nhau và đùm bọc nhau trên đất nước tạm dung này.

Ông biết không, vào những ngày tháng đó, có khi tôi rất thèm bánh tráng có vừng đen, hay cơm trắng và xì dầu, mà phải là xì dầu đậu nành, đủ cho tôi ăn không sợ hết. Những đêm nằm không ngủ được, tôi lại ao ước có được một ổ bánh mì của chợ Vons để ăn, tôi thèm mùi thơm của bánh mì chưa kịp nguội, hoặc giã đã nguội đi, tôi lại thèm vị ngọt của bánh khi nhai còn thấm trên đầu lưỡi của mình, thèm đến chảy nước miếng.

Nghe bác kể, tôi thực sự không cầm được lòng mình, lại nghĩ tới thời gian đi tù cải tạo, tôi cũng đã từng thèm được ăn một bữa khoai mì cho thật no, và chỉ mơ ước ngày được thả về, tôi sẽ bảo vợ mua khoai mì cho tôi ăn một bữa cho đã thèm.

Khi thiếu thốn, con người sẽ thèm đủ thứ, cho nên nghe bác kể, tôi thực sự hiểu được cảnh ngộ ấy, và hiểu được sâu xa nỗi lòng của bác, chỉ có một điều mà không ai ngờ được, đó là sống trong một siêu cường bậc nhất, mà người dân chỉ thèm một ổ bánh mì khong cũng không có để ăn, cái ước mơ nhỏ nhoi ấy đã ở dưới mức tầm thường rồi, vì kể cả những người vô gai cư trên thành phố này, cũng không ai có một ước mơ như bác Thụy. Có ai quanh đây đang lâm vào tình cảnh của bác hay không tôi không rõ, cũng có thể có người bị gia đình hắt hủi, con cái bỏ rơi và xua đuổi, nhưng đến một đồng xu dính túi cũng không có thì tôi không tin.

Rồi một ngày bác nhờ tôi chở đi xin việc, bác đọc được một mẫu rao vặt đăng tin cần một người đứng tuổi, có sức khỏe, để săn sóc một ông già 83 tuổi, bị bệnh mất trí, bao ăn ở, tiền lương sẽ thương lượng.

Tôi chở bác tới địa chỉ tìm gặp chủ nhà, cô chủ nhà tiếp chúng tôi và hỏi :

- Chú xin hay chú này xin"

- Tôi, bác nhanh nhẩu trả lời.

Chủ nhà dẫn chúng tôi đến phòng ông cụ, cô cho biết ông cụ đã quên hết mọi thứ, cần giúp ông cụ ăn uống, đi tiêu, đi tiểu, thay quần áo, và tắm cho ông cụ. Mọi sinh hoạt của ông cụ đều cần được giúp đỡ, nhất là về đêm, ông cụ hay thức dậy đi quanh quẩn trong nhà một mình, những lúc như thế cần có người bên cạnh, đề phòng khi ông cụ bị té. Nhiều khi ông cụ đi tiêu, đi tiểu trong quần mà không biết. Và cô hỏi:

- Chú có thể giúp ba tôi được không " Hay chú làm thử vài ngay, vì có người nhận làm nhưng một hay hai ngày sau lại bỏ vì không chịu được tính tình của ông cụ.

- Không đâu, tôi làm được, tôi rất thích người già và trẻ con, cô cứ để tôi làm.

- Vâng, vậy chú có bằng lái xe không cho cháu xem thử"

Bác lấy bằng lái xe đưa cho cô chủ, cô ta xem xong rồi trả lại bác, cô nói, ba cháu nặng 65 ký Không hiểu chú có thể đỡ nổi không, chú làm thử một vài ngày đi, nếu không được, cháu vẫn tính lương cho chú.

Lương tháng là $800, bao ăn ở, mỗi tuần nghỉ một ngày, tốt nhất là thứ 7, cái giường phía trong là của ba cháu, chú nằm giường ngoài. Thức ăn hàng ngày cháu nấu sẵn để trong tủ lạnh hay trên bếp, chú muốn ăn thứ gì cứ ăn tự nhiên.

Mỗi ngày ba cháu uống 12 loại thuốc, ăn cơm trưa, chiều, sáng. Ba cháu uống cà phê, khi chú pha cà phê, nên để nguội rồi mới đưa cho ba cháu, vì ba cháu thích khuấy cà phê bằng ngón tay rồi mút. Thuốc thì cháu sẽ viết tên, liều lượng, giờ uống để trên bàn, chú cho ba cháu uống đúng giờ là được rồi.

Sau khi chủ nhà và bác bàn bạc công việc xong, tôi chở bác ra về, hẹn thứ 2 tuần tới là bắt đầu đi làm. Thoạt đầu bác có vẻ rất vui vì tìm được công việc, nhưng một lúc sau, tôi thấy bác khóc, bác như bị hụt hơi cứ nấc lên từng tiếng, tôi lo sợ nên tìm cách đưa bác vào một shop bên đường, đậu xe lại và hỏi bác :

- Sao bác lại buồn"

- Con người ta thì thuê người săn sóc cho cha, còn tôi thì bị đuổi ra khỏi nhà đi chùi đít cho thiên hạ, ông nghĩ xem có tủi không"

Nói xong câu này bác lại khóc lên thành tiếng. Tôi ngồi im để bác khóc cho hết cơn xúc đông rồi mới bảo bác, mỗi người có một số phận, một đoạn trường, và một nỗi niềm phải gánh, không ai có thể có hạnh phúc hoàn toàn, chỉ có ông cụ 83 tuổi ấy mới thực sự hạnh phúc, vì ông đã quên hết mọi sự, đã không còn biết mọi sự.

Làm cha mẹ, được con cái yêu thương, gia đình hòa thuận dĩ nhiền là điều tốt, nhưng điều tốt hơn là tự vấn lương tâm xem mình đã hết lòng với con cái hay chưa cũng là điều rất quan trọng . Nỗi đau khổ bị con cái bỏ rơi hay xua đuổi chưa hẳn đã lớn hơn nỗi đau đớn khi phải nhìn thấy con mình chịu đau khổ, Không hiểu bác có nghĩ như tôi không"

Bây giờ ở là mùa Hè, rải rác đó đây, trên những đồi hoang quanh nhà tôi đã trổ lên vài chùm hoa dại, màu vàng như hoa Cúc, càng làm tôi nhớ đến quê hương mình, như ngày Thu trên rừng núi cao nguyên, những khóm Quỳ hoang cũng nở vàng như vậy trên những triền đồi, và càng nhớ đến người sĩ quan thám báo bây giờ không phải đang nhật tu trận liệt, hay chăm sóc một đồng đội kém may mắn, mà là đang chăm sóc một cụ già mất trí. Cầu xin cho người sĩ quan ấy như lời vị Tổng Tư Lệnh đã từng nói : "Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đa năng, đa hiệu, và đa dụng."

Du Tử Nguyễn Định

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Nhớ lại “Tháng Ba gãy súng”
Bùi Văn Phú
Tựa bài viết này cũng là tên một tác phẩm của Cao Xuân Huy, một sĩ quan Thuỷ quân Lục chiến, viết về những ngày cuối cùng của cuộc chiến ở miền Trung Việt Nam, nơi ông chiến đấu cho đến khi cùng nhiều đồng đội bị bắt làm tù binh vào cuối tháng 3 năm 1975.

Với nhiều người Việt, nhất là những người lính Việt Nam Cộng hòa thì tháng 3 năm 1975 đánh dấu sự bắt đầu một khúc quanh lịch sử, với Ban Mê Thuột rơi vào tay bộ đội cộng sản ngày 10 tháng Ba, từ đó lãnh đạo miền Nam có những quyết định di tản chiến thuật sai lầm đầy máu và nước mắt, từ cao nguyên về Nha Trang, từ Đà Nẵng vào Sài Gòn để rồi dẫn đến một ngày cuối tháng Tư đau buồn.

Tác phẩm “Tháng Ba gãy súng” được xuất bản năm 1985, sau khi tác giả vượt biển và được định cư tại Mỹ năm 1983.
Image
Cao Xuân Huy và tác phẩm của ông viết về cuộc di tản khỏi Huế cuối tháng 3/1975
Cao Xuân Huy nhập ngũ năm 1968, khi vừa tròn 21 tuổi, theo lệnh tổng động viên được ban hành ở miền Nam sau các đợt tấn công của cộng sản vào Tết Mậu Thân.

Đây là cái nhìn về những ngày cuối của cuộc chiến tranh Việt Nam qua con mắt của một sĩ quan trẻ thuộc một đơn vị được coi là tinh nhuệ nhất của quân đội cộng hòa, của cựu trung úy Đại đội phó Đại đội 4, Tiểu đoàn 4 Thuỷ quân Lục chiến.

Trong lời mở đầu của tác phẩm, tác giả viết: “Tôi không phải là một nhà văn, mà tôi chỉ là một người lính, lính tác chiến đúng nghĩa của danh từ, và những điều tôi viết trong quyển sách này chỉ là một câu chuyện, câu chuyện thật một trăm phần trăm được kể lại bằng chữ.”

Câu chuyện được ông ghi lại là khoảng thời gian từ 15 tháng Ba, lúc tác giả đang nghỉ phép ở Sài Gòn và tìm cách trở về đơn vị hiện đóng quân ở cây số 23 phía bắc Huế, cho đến ngày 27 tháng Ba, khi ông theo đoàn tù binh gồm những người lính Việt Nam Cộng hòa vừa bị bắt sau một cuộc rút lui vô cùng ngỡ ngàng theo lệnh cấp trên.

25 tháng Ba, 1975 Huế rơi vào tay cộng sản Bắc Việt. Những người lính không được lệnh bảo vệ mà phải rút lui, trong đó có đơn vị của trung úy Cao Xuân Huy đang nằm chờ ở bờ biển để được di tản vào Đà Nẵng. Đêm 26 rạng ngày 27 tháng Ba, ông và những người lính còn lại của đơn vị bị bắt làm tù binh.

Được dẫn đi dọc Quốc lộ 1 từ Huế về hướng bắc và trên đoạn đường đó nhiều tù binh đã bị bộ đội xử bắn tại chỗ. Cao Xuân Huy thoát chết là nhờ số mệnh, nhờ ông ngoại phù hộ như tác giả đã kêu cầu nhiều lần khi đối diện với tử thần.

Ông đã sống để kể lại những gì mình chứng kiến trong 12 ngày đêm ở tuyến đầu miền Nam Việt Nam qua cách viết chân thực, trong đó rổn rang những tiếng chửi thề, ngập hơi rượu, tình đồng đội và những cái chết nhẹ tựa lông hồng là điều rất thực về người chiến binh trong đơn vị của ông.

Những kinh hoàng của cuộc triệt thoái – hay rút lui, di tản chiến thuật – được kể lại bằng ngôn ngữ thật nhất. Máu, thịt vương vãi. Đầu chẻ làm hai. Người chết dưới xích xe tăng, chết giữa thành sắt của những con tàu. Những người lính bất tuân lệnh bị xử bắn ngay tại chỗ. Những người lính Thuỷ quân Lục chiến can trường không muốn để bị địch bắt làm tù binh, trên đường rút lui không còn hi vọng, vì biết đã bị bỏ rơi, nên cứ ba bốn người ôm nhau rồi cho nổ lựu đạn để cùng chết.

Khi chờ di tản đơn vị có những chuyện khó ai hiểu được. Một cô sinh viên văn khoa Huế với đầy đủ giấy tờ chứng minh, bồ của một người lính, cứ nhất định đòi đi theo người tình và thỉnh thoảng khóc lóc lớn tiếng, vái lạy tứ phương khiến có người nghi ngờ cô là cán bộ cộng sản được gài vào đi theo đơn vị. Hay hình ảnh một nhà tu đầu trọc, mặc áo cà sa đeo súng đi bắt tù binh Việt Nam Cộng hòa.

Câu chuyện lịch sử quân đội mà Cao Xuân Huy muốn ghi lại là một lữ đoàn Thuỷ quân Lục chiến, binh chủng thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, bị một đại đội Việt Cộng bắt làm tù binh. Sự thất bại nhục nhã đó là một dấu hỏi lớn mà lãnh đạo miền Nam phải trả lời cho những thế hệ mai sau.

Sau “Tháng Ba gãy súng” xuất bản lần đầu năm 1985, Cao Xuân Huy chỉ viết thêm một tác phẩm nữa là “Vài mẩu chuyện” phát hành trong năm 2010, vài tháng trước khi ông qua đời ngày 12/11/2010.

Cũng với lối viết giản dị nhưng rất thực về chiến tranh, về mơ ước hoà bình, về đời sống tù cải tạo mà ông đã trải qua 4 năm rưỡi trong đó. Đọc truyện “Người muôn năm cũ” để thấy ảnh hưởng của chiến tranh tâm lí mà đài Mẹ Việt Nam đã có sức mạnh làm lung lay tinh thần chiến đấu của bộ đội miền Bắc với giọng cô Hiền thường xuyên nhắc đến chuyện “sinh Bắc tử Nam”.

Câu chuyện gặp gỡ giữa tác giả và một anh bộ đội miền Bắc sau giờ ngưng bắn, vào ngày 28/01/1973, cho thấy người Việt hai miền ai cũng mơ ước đất nước hòa bình. Nhưng anh bộ đội đã phải thay đổi thái độ ngay khi một đồng chí khác tiến đến gần chỗ hai người đang đứng nói chuyện với nhau. Để rồi chỉ chốc lát lại bắn giết mà anh bộ đội gốc Hà Nội chắc đã tử trận sau đó. Bi thảm của chiến tranh tưởng như chấm dứt với Hiệp định Ba-Lê 1973, nhưng nỗi oan nghiệt của hòa bình lại ùa tới.

Hệ quả của cuộc chiến với bao oan hồn của người dân, người lính còn ám ảnh tác giả qua câu chuyện “Chiếc lưỡi câu” ma quái.

Cao Xuân Huy chưa bao giờ viết văn khi còn ở trong nước, ông chỉ viết khi ra đến hải ngoại. Trước ông, trong cuộc chiến đã có những bút ký chiến tranh của Phan Nhật Nam là “Mùa hè đỏ lửa”, “Dựa lưng nỗi chết”, “Tù binh và hoà bình”; của Trang Châu với “Y sĩ tiền tuyến” hay của Nguyên Vũ với “Đời pháo thủ”, “Sau bảy năm ở lính” là những tác phẩm đem đến cho người đọc hình ảnh chiến đấu can trường, cùng tình đồng đội, tình cảm gia đình, thương yêu và mơ ước hoà bình đến trên quê hương của người lính cộng hòa.

Nhưng vì sao những người lính đã chiến đấu trong 20 năm để bảo vệ miền Nam bị buộc phải buông súng. Đến nay vẫn chưa có được những lí giải.

Những ngày cuối tháng Tư 1975, Sài Gòn tràn ngập người di tản từ Đà Nẵng, từ Huế, Nha Trang. Họ như mất thần, khóc lóc kể lại những cảnh chết chóc tang thương trên đường di tản bằng tàu, bằng đường bộ. Những câu chuyện chưa đánh giặc đã phải bỏ chạy làm ngạc nhiên nhiều người. Nhưng dân và cả lính không ai hiểu nổi.

Rồi chiến tranh chấm dứt ở đó vào ngày 30 tháng Tư, 1975. Những người lính ở lại chấp nhận cuộc đổi đời với tù tội trong các trại học tập cải tạo. Bên ngoài xã hội đời sống khó khăn với khoai sắn, bo bo, mì sợi. Văn nghệ sĩ, trí thức bị đàn áp, bắt giam.

Việt Nam dưới ánh sáng xã hội chủ nghĩa trong hơn bốn thập niên qua đã khiến hàng triệu người bỏ quê hương ra đi vì không chấp nhận ý thức hệ cộng sản. Điều nghịch lý là nhiều người từng đứng về phía kẻ thù của Mỹ nay cũng đang rời bỏ thiên đường để mưu tìm cuộc sống nơi đất Mỹ.

Và tầu chiến Mỹ nay đã trở lại Đà Nẵng, như lính Mỹ đã từng đổ bộ lên đây hơn nửa thế kỷ trước, giữa lúc chiến tranh đang gia tăng cường độ để be bờ, ngăn chặn Trung Quốc bành trướng.

Trong chuyến ghé Đà Nẵng của hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson hôm đầu tháng 3/2018, thủy thủ Mỹ đã xuống phố hát “Nối vòng tay lớn” và mời gọi dân chúng cùng đồng ca. Đây là bài ca đã được chính tác giả là nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hát trên đài Sài Gòn trưa ngày 30/4/75 để chào đón bộ đội cộng sản vào thủ đô Sài Gòn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Xem cảnh này trên trang Facebook của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Daniel Kritenbrink, tôi thầm cám ơn những người lính cộng hòa đã bảo vệ miền Nam và tự hỏi những người bộ đội cộng sản có bao giờ nghĩ đến hệ lụy mà họ đã để lại cho đất nước từ ngày 30/4/1975 đến nay.

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Chuyện xứ Mỹ của tôi
Friday, January 12, 2018

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Ông sinh năm 1952, dân Sài Gòn, cựu sinh viên Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam, một trung đội trưởng tác chiến. Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương binh ... Bài viết là tự sự về chuyện chọn vùng an cư trên đất Mỹ.
***

Gia đình tôi đến Mỹ năm 1993 đến nay 2016 đã được 23 năm, vì hoàn cảnh sinh sống chúng tôi phải di chuyển qua nhiều nơi chốn, thế nên biết thêm được nhiều điều về nước Mỹ.

Thoạt đầu đến Mỹ chúng tôi cư ngụ tại thành phố Hawthorne - nam Cali vì do bà chị giúp đỡ sponsor cho. Ở đây chúng tôi share phòng với nhà chị, vợ chồng con cái dồn vào một phòng nhỏ tí thật bất tiện rồi dần dà cũng quen. Ở Hawthorne, vợ chồng tôi đi đến trường chuyên dạy nghề nail để học lấy cái bằng. Rồi kể từ năm 1995 chúng tôi sinh sống bằng nghề này, một nghề duy nhất cho đến bây giờ.

Cali là nơi sinh sống lý tưởng cho người Việt Nam khí hậu mát mẻ quanh năm như Đà Lạt. Ở VN có món ngon gì thì Cali cũng có đủ, có khi còn ngon tuyệt hơn nữa vả lại thực phẩm được kiểm tra rất nghiêm ngặt nên không sợ độc hại như bên nhà. Ra đường gặp toàn người Việt đi đâu cũng nói tiếng Việt thoải mái, sống trên đất Mỹ mà hoàn cảnh sống gần như VN.

Chỉ kẹt một điều nghề Nail ở Cali bị cạnh tranh rất dữ, nên giá "bèo" hơn các Tiểu bang khác nhiều lắm nhất là so với các Tiểu bang miền Bắc. Thứ hai nhà cửa Cali lại rất mắc mỏ, có người ví von bán một căn nhà ở Cali đem tiền qua Tiểu bang khác mua được hai căn nhà. Vợ chồng tôi lúc đó đã trung niên e rằng khó lòng mua nổi một căn nhà cho dù trả góp.

Sau 4 năm ở Cali vợ chồng con cái lại đùm túm qua Tiểu bang khác, về thành phồ Joliet thuộc TB Illinois, một thành phố nhỏ gần Chicago cách đó khoảng 1 giờ lái xe.
Chúng tôi đến Joliet vào mùa đông thấy tuyết bay đầy trời mà lòng kinh hãi. Tất cả cảnh vật đều phủ một màu trắng toát và lạnh kinh hồn. Cảm nghĩ đầu tiên của tôi về Joliet đây là nơi chốn không thể sống lâu dài được, chỉ sống tạm bợ để kiếm tiền rồi chuồn thẳng.

Có lẽ hầu hết người VN đều rất sợ lạnh đồng thời lại rất sợ cái khung cảnh u buồn của mùa đông, cảnh buồn người có vui đâu bao giờ, bầu trời âm u màu chì kéo dài suốt 6 tháng khiến người ta cảm thấy chán chường, không còn cảm thấy muốn sống háo hức nữa cho dù nơi đây chúng tôi kiếm rất nhiều tiền. Sau 5 năm, chờ cho con gái học xong lớp 12 chúng tôi quyết định đi về miền nắng ấm tiểu bang Florida.

Ngày đi, bao nhiều đồ đạc sắm sửa tạm bợ vất đi hết chỉ mang theo quần áo và đồ dùng cần thiết. Xong xuôi, chúng tôi lên xe bấm 3 hồi còi dài để giã từ Joliet, giã từ vùng tuyết trắng lạnh lùng. Sau đó giong ruổi qua một quãng đường dài 1200 miles để đến Jacksonville – Florida.

Tôi chọn Jacksonville vì muốn trốn cái lạnh cái buồn nơi miền Bắc và xuôi nam để hưởng nắng ấm mặt trời quanh năm. Ngoài ra, ở đây tôi còn có một người bạn rất thân từ hồi Trung học, muốn gần gủi bạn bè cho vui. Té ra không phải vậy chúng tội bận rộn tíu tít với công việc, đâu có thời gian mà gặp gỡ nhau nhiều. Lâu lâu tiệc tùng họp mặt uống vài chai bia và tán gẫu dăm ba câu chuyện, rồi chia tay ai về nhà nấy.

Chúng tôi ở Jacksonville thấm thoát được 13 năm một thời gian khá dài cho một nơi chốn. Trước nay chưa khi nào chúng tôi ở một chổ lâu đến như vậy. Hàng năm vào ngày Labor Day chúng tôi thường hay kéo xuống Tampa, thăm gia đình người em trai của tôi cách đó 4 giờ lái xe.


Có một lần không biết nghĩ sao, em tôi nói:" Khi nào anh chị về hưu, xuống đây mua một ngôi nhà, có mảnh vườn bao quanh, tha hồ mà trồng trọt vui với tuổi già. Tampa khí hậu nóng ẩm quanh năm, trồng cây gì cũng được." Nghe nói như thế, giống như mọt tia chớp lóe lên trong đầu tôi:" nếu có thú vui này, sao không về Tampa sinh sống, càng sớm càng tốt !" Ở Jacksonville, mùa đông đôi khi lạnh dưới không độ C, trồng cây gì cũng chết, ngoại trừ cam bưởi.

Thế rồi một lần nữa và có lẽ lần cuối cùng, chúng tôi quyết định dời về Tampa. Sau đó, chúng tôi tiến hành hai công việc, mua ngay một căn nhà tại Tampa và sau đó bán căn nhà tại Jacksonville. Công việc mua bán không đơn giản, cũng may em dâu tôi làm nghề địa ốc, nên mọi chuyện rồi cũng suôn sẻ. Đồng thời đóng cửa tiêm Nail gọi người đến cho hết đồ đạc.

Rồi ngày dọn nhà cũng đã đến, công việc dọn nhà lần này nhọc nhằn hơn hai lần trước. Bởi lẽ các lần trước, chúng tôi chủ trương sống tạm bợ nên không sắm sửa gì nhiều bây giờ ngổn ngang trăm thứ. Suốt một tuần lễ, cả nhà tập trung cao độ đóng gói đồ đạc vào các thùng giấy, rồi bưng bê ra gara chất đống chờ người đến bốc dỡ. Có chuyện khôi hài khi dọn nhà, ngày nào vợ chồng cũng cãi nhau, ông muốn vất hết những đồ không dùng đến, còn bà thì cứ ôm theo hết, nhất quyết không buông bỏ. Có người ví von rằng, một lần cháy nhà bằng hai lần dọn nhà, để nhằm nói lên nỗi nhọc nhằn khiếp đảm của việc dọn nhà. Cho đến nỗi, có người dọn nhà chỉ một vài lần là đủ tởn, thề không bao giờ dọn nữa, trong đó có tôi.

Tampa nằm ở khoảng giữa và thuộc bên bờ Tây của Florida, nó nằm trên một vịnh nhỏ có tên là Tampa Bay, vịnh này thông ra vịnh Mexico khổng lồ. Tampa có dân số trên 1 triệu người, đứng hàng thứ 3 tại Florida, sau Miami và Orlando. Tuy có dân số cao nhưng diện tích lại nhỏ hơn các thành phố khác cho nên dân cư cảm thấy đông đúc hơn, luôn luôn lúc nào cũng thấy xe cộ chạy dày đặc trên đường. Thời tiết Tampa có bốn mùa rõ rệt, mùa Thu cũng quét lá mệt nghỉ, mùa Đông cũng hơi hơi lạnh khoảng 50 độ F (khoảng 10 độ C) mùa Hè nóng hừng hực trên 90 độ F (32 độC).

Căn nhà ở Tampa của chúng tôi đã trên 30 tuổi, nhà nhỏ chỉ có 1,100 sqf (khoảng 100 mét vuông), cũng có 3 phòng ngủ và 2 phòng tắm, giá mua là 129K. Căn nhà sơn 2 màu xanh trắng, mặt ngó thẳng ra hướng Đông, đúng cái hướng mà các Thầy Tử vi khuyên tôi nên chọn cho hạp tuổi, không biết có đúng như vậy không, thôi thì có kiêng thì có lành. Trước và sau nhà có 2 cây sồi (oak) cổ thụ tỏa bóng mát trông thật đẹp, nhưng ngặt một điều là không trồng trọt gì được dưới tàn cây của chúng. Cây sồi được coi là tài sản cảu Florida, tỉa nhánh mé cành thì không sao, còn muốn đốn bỏ phải xin phép.

Khi dọn nhà đi thì chứa đồ đạc ở trong thùng, khi đến chỗ mới thì dỡ đồ đạc ra để xếp vào các nơi, cả nhà xúm lại làm suốt ngày, khoảng 2 tuần sau thì tạm ổn. Đến cuối tháng, nghe điện thoại reo, tôi nhấc lên thì được biết có người chủ tiệm Nail được bạn bè giới thiệu bèn gọi đến mời vợ chồng tôi đi làm. Thế là yên phận sống trong căn nhà mới.
Bước ra mảnh vườn, chủ trước họ trồng cây kiểng um tùm trông phát ớn. Tôi kêu một anh Mể tới dọn dẹp, anh chàng này ngơ ngác không biết nói tiếng Anh, muốn bàn công việc phải nói qua điện thoại với vợ hắn.
Anh Mễ ra giá tiền công là 500 đô, tôi chẳng biết gì nên cứ gật đầu bừa cho xong. Trước nay tôi có nghe nói đàn ông Mễ có sức khỏe kinh người, bây giờ khi tận mắt chứng kiến cái cảnh anh Mễ này làm việc mà kinh sợ, sợ anh ta ngã lăn ra chết bất tử. Anh ta làm việc dưới trời nắng như đổ lửa và ghê gớm ở chổ, suốt từ sáng tới chiều anh ta chớ hề nghỉ tay. Tới trưa tôi chạy đi mua cho anh một cái bánh hamburger, anh ta nhai nhồm nhàm xong nốc cạn lon Coca, rồi hì hục làm tiếp. Anh ta cứ làm như thế suốt 3 ngày trời, khuôn mặt bình thản, không than vắn thở dài gì hết, mọi chuyện đều bình thường đối với anh ta. Thiệt đáng nể.
Dọn dẹp mảnh vườn xong, tôi chưa biết chỗ nào bán cây ăn trái để mua về nhà trồng.
Thời may con gái có người bạn giới thiệu cho Khu Chợ Trời bên thành phố St Petersburg. Nằm kề cận Tampa có 2 thành phố vệ tinh là St. Petersburg và Clearwater. Cả ba tạo thành một hình tam giác, từ nhà đi qua hai nơi này khoảng nửa tiếng.

Theo sự hiểu biết của tôi, thành phố St. Petersburg gọi tắt là St. Pete. (phe ta kêu là Săn Pí) tuy nhỏ hơn Tampa, nhưng không hiểu sao người Việt lại quần tụ đông hơn, chợ búa và nhà hàng Việt Nam đông hơn bên Tampa. Chợ tuy nhỏ cũng có bán đủ thứ hàng, cũng có quày thịt cá tươi sống, cũng có đủ các loại to go như bún mì phở... còn các loại ăn chơi thì ê hề. Nhà hàng VN cũng nho nhỏ, có nhiều nơi cũng có thức ăn ngon nổi tiếng. Tóm lại sinh hoạt của người Việt nơi St. Pete khá nhộn nhịp.

Từ Tampa qua St. Pete phải chạy qua cây cầu Howard dài 6 dặm, cây cầu rất đẹp, đẹp ở chỗ cầu chạy sát mặt biển, khiến ta có cảm giác sóng biển đang vờn bên má mình, đến giữa thì cầu nhô lên cao cho tàu thuyền qua lại. Sáng sớm chúng tôi chạy qua cây cầu này, rồi nhìn qua hai bên, mặt biển lặng im xanh ngắt và trải rộng mênh mông tới chân trời, có những chiếc thuyền rẽ sóng ở xa xa, đã tạo nên một khung cảnh kỳ thú tuyệt đẹp. Từ đó mỗi sáng sớm Chủ nhật, chúng tôi đi qua cây cầu để đến Chợ Trời, chưa bỏ qua một lần nào hết.

Khu Chợ Trời (Flea Market) St. Pete, nằm trên một khu đất rộng, khung cảnh nhộn nhịp bát nháo như bất cứ Khu Chợ Trời nào khác, tuy nhiên mọi nơi đều sạch sẽ, không hề thấy ai xả rác. Những người bán hàng, họ dựng lều hoặc che dù san sát nhau, người người đi lại tấp nập. Vợ chồng tôi khi lần đầu tiên đến đây, chỉ đi dạo một vòng là trong lòng bỗng nhiên cảm thấy vui thích lắm.

Theo tôi, Chợ Trời St. Pete là một nét văn hóa đặc sắc của vùng vịnh Tampa. Sau này khi có bạn bè đến thăm viếng, chúng tôi đều đưa đi thăm Chợ Trời và mọi người đều rất thích thú, kể cả người từ VN qua. Tôi thấy người mua kẻ bán ở đây rất đông người Việt và kỳ lạ một điều, những người Việt hiện diện tại đây đều có gốc gác từ miệt Đồng bằng sông Cửu Long, không hề thấy ai nói giọng Bắc giọng Trung ( hay là có nói mà tôi chưa gặp) Phần lớn những người này lại xuất thân từ vùng đồng quê chứ không ai xuất thân từ thành phố, cho nên giọng nói của họ nghe quê rặc và rất thiệt thà chơn chất, nói sao bán vậy, chứ không hề nói thách một tiếng nào.

Tôi hỏi cô bán hàng trái cây: "Nhãn này giá bao nhiêu tiền một pound vậy cô?" Cô cười đáp: "Dạ, 3 đồng "gửi" một pound". Tôi nói giỡn: "Sao mắc vậy?" Cô ta cười lỏn lẻn: "Em bán "ghẻ ghề" mà anh chê mắc !"
Tôi cười lớn: "Cha! cái giọng này sao nghe giống dân Rạch giá quá vậy ta?" Cô ta cũng cười theo: " Dạ đúng vậy, em quê Giồng Riềng- Rạch Giá đây anh".
Có một số người Việt lớn tuổi ở St. Pete không xin đi làm hãng được, bèn ở nhà trồng rau, nuôi gà vịt rồi mang ra chợ trời bán. Nhà cửa ở vùng này rất cũ kỹ và nhỏ xíu, nhưng được cái là có đất khá rộng chung quanh nhà, cho nên thoải mái trồng trọt.

Ngoài những thứ thường thấy như rau cải, bầu bí, khổ qua... người ta còn thấy bày bán ở đây những thứ khó tìm như: rau càng cua, bông so đủa, bông điên điển, cọng bồn bồn, rau nhút, rau muống nước (loại rau này tôi chưa từng thấy ở những nơi khác)... Có nhà nuôi gà vịt "đi bộ", hay ấp trứng vịt lộn cũng mang ra chợ bán. Trái cây thì tràn ngập các loại trái cây VN, vùng đất này trồng mãng cầu, nhãn, thanh long rất tốt, ngoài ra còn có ổi xá lị, trái li ki ma, mít, xoài...

Xoài ở St. Pete có loại trái mập ú, trông ô dề xấu xí, nhưng khi ăn thì có mùi vị thơm ngon, hột lại nhỏ xíu, rất đặc sắc. Vú sữa cũng có, nhưng trái nhỏ tí như trái chanh, ai cũng chê chẳng thấy ai mua. Hầu hết các loại cây trái VN đều trồng được ở vùng này, ngoại trừ sầu riêng, chôm chôm và măng cụt.

Chúng tôi đi dạo qua khu bán cây ăn trái. Anh chủ khu này tên Sang, khoảng 40 tuổi người quê Bạc Liêu, hiện làm chủ một nông trại khoảng 20 acres (acre - mẫu Anh, cở 4000 mét vuông). Anh Sang chuyên nghề ghép cây ăn trái. Mấy cây nhãn, bưởi, cam, quít... cây thấp lè tè mà trái treo lúc lỉu trông thật "đã" mắt. Anh chàng này bán cây nổi tiếng khắp vùng Tampa. Những cây ăn trái của Sang thuộc loại hàng "độc". Anh ta có những loại xoài mà không chỗ nào có được, như một loại xoài lạ, khi trái còn xanh thì chua tê lưỡi, nhưng khi chín thì thơm ngon không thể tả, và lạ lùng không biết làm sao anh ta cũng có xoài cát Hòa Lộc của Mỹ Tho.

Có loài mận VN, khi còn non trái có màu xanh, khi chín tới có màu hồng đào, cắn vào miệng nghe dòn tan ngọt lịm. Anh ta có đủ thứ cây ăn trái khác như hồng dòn, hồng mềm, cây bơ quả nhỏ mà béo ngậy, quít đường Cần thơ, bưởi Biên Hòa... tất cả đã được anh ta tuyển chọn công phu nên mua cây của anh ta chúng tôi đều rất yên tâm về chất lượng.


Đi dọc dài, người đi lại nhộn nhịp vui chưa từng thấy. Ngoài người Việt, còn có một sắc dân đặc biệt khác cũng chiếm số đông ở đây, đó là người H'mong, xuất phát từ vùng núi non của nước Lào ( lạ nhỉ ! không hiểu sao họ lại ở đây) Trong khi người Việt nói chuyện với nhau huyên thuyên bằng tiếng Việt, thì người H'mong cũng không kém ồn ào bằng tiếng nước họ.

Chỗ kia, có một anh người Việt chở nguyên một xe truck dừa xiêm đổ xuống một đống lớn, ai thích trái nào anh ta sẽ chặt dừa, xong cắm ống hút vào đưa cho khách, khách vừa đi vừa uống trông rất vui. Nơi khác người ta xúm xít quanh một cái bàn, chờ mua gỏi Thái Lan của hai vợ chồng người Thái, gỏi làm bằng đu đủ bào, cà pháo tươi, đậu phọng rang, trộn với nước chanh và mắm ba khía, mùi vị ngon khá lạ. Có người Việt kia đi chày tôm ngoài sông rồi đem ra chợ bán, tôm chứa trong thùng cooler, nghe anh ta rao hàng, tôm nhỏ giá 2 đô rưởi, tôm lớn 7 đô một pound. Có chỗ bán cá, bán hoa lan, bán nước mía tươi ép tại chỗ... Tất cả đã tạo nên một bức tranh hết sức sinh động và hấp dẫn của Chợ Trời St. Pete.

Lần hồi, tôi khuân về nhà lũ khủ các loại cây ăn trái, mỗi thứ một cây: xoài, nhãn, bơ, trái vải, quít đường, bưởi... rồi chạy ra chợ mua mấy bao phân bón vào gốc. Hàng ngày tôi ra vườn tưới tắm cho cây, cây lớn lên như thổi, đâm chồi ra lá xum xuê, một thời gian ngắn sau cây ra hoa kết trái, trái nhỏ tí trông dễ thương làm sao.

Trồng cây là một thú vui thanh tao, bởi vì không phải là mong tới ngày ăn quả, mà vì một niềm vui khác, khi trong lòng cảm thấy có một sợi dây tương thông thân ái với cây trái trong vườn nhà. "Cám ơn hoa đã vì ta nở. Thế giới vui từ mỗi lẻ loi". (Tô Thùy Yên)

Thành phố vệ tinh thứ hai của Tampa là Clearwater, một thành phố du lịch, nhà cửa mắc mỏ nên dân Việt ít người dám sống ở đây. Con đường dẫn vào thành phố tuyệt đẹp cũng có một cây cầu dài khác chạy sát mặt biển băng qua vịnh Tampa, trên đường có những lối rẽ cho ai muốn câu cá thì ghé vào. Hai bên đường có trồng hai hàng cây cọ trông rất thơ mộng, con đường chạy thẳng ra vịnh Mexico. Ngày cuối tuần, người ta ở các nơi kéo đến tắm biển đông nghịt như ở Nha trang bên quê nhà. Lúc đầu chúng tôi cũng ngại ngần chuyện tắm biển, nhưng sau đó thấy người người thản nhiên xuống tắm, đủ sắc dân, đủ dạng người, đủ lứa tuổi... nên chúng tôi cũng kéo xuống tắm cho vui. Té ra biển ở đây rất tuyệt, nước biển trong xanh và phẳng lì chứ không hề có sóng dữ, nước biển lại ấm áp, chứ không lạnh cóng như biển Cali. Khi đã tắm được một lần là coi như vượt qua rào cản ngại ngùng, từ đó cứ dăm ba tuần chúng tôi lại kéo đi tắm biển, rất khoan khoái và thư giản.

Tôi về Tampa đến nay đã được gần hai năm. Không biết có phải vì đất trời phong thủy vận hợp với mình hay sao, mà từ khi về đây tôi thấy trong người sảng khoái lắm. Đêm về, lên giường là ngủ một mạch đến sáng, điều này trước kia chưa hề có nơi tôi. Trong thời gian ở Jacksonville vì nặng nợ cơm áo gạo tiền, đêm đến tôi trằn trọc mãi thuốc ngủ lúc nào cũng thủ trên đầu giường, cho nên có thời gian dài tôi mang bệnh anxiety (bịnh lo sợ). Tôi cũng có đọc nhiều bài viết khuyên người ta nên biết buông sả khi lớn tuổi, phải tu đạo này hay theo đạo nọ, theo vị Thầy này hay theo vị thiền sư kia. Nhưng theo tôi tất cả chỉ là vô ích, khi người ta chưa tìm được một hoàn cảnh sống thích hợp thì khó mà tìm được sự an lạc trong đời thường. Đêm về tôi lắng nghe toàn thân, nghe nỗi sung sướng khoan khoái lan tỏa khắp người mình, hình như Thiên đường ở ngay trong lòng mình chứ không phải đâu xa xôi. Cám ơn Nước Mỹ, đã tạo cho tôi điều kiện tìm thấy hạnh phúc đích thực ngay trong đời thường.

Tôi lại nghĩ lan man sang chuyện khác. Trên cõi đời này có hàng triệu triệu người mong ước được đến sinh sống trên đất Mỹ. Đồng thời cũng có triệu triệu người căm ghét nước Mỹ. Tôi còn nhớ biến cố 911 khủng bố tấn công nước Mỹ, phần lớn loài người đều sững sờ kinh ngạc và biểu lộ lòng thương xót đến nước Mỹ. Nhưng không phải là tất cả, trong những giờ phút đầu tiên của biến cố, người Palestine đã đổ ra đường hò reo mừng rỡ cho thắng lợi của những người tử vì đạo. Có một phái đoàn báo chí một nước Á Châu lúc đó được mời đến thăm viếng Mỹ.

Khi biến cố xảy ra họ đang đứng trong Trung tâm Báo chí, và đã có thái độ hân hoan vui mừng trong khi đất nước này đang chìm trong đau khổ. Ngay lập tức họ đã bị trục xuất ra khỏi nước Mỹ và vĩnh viễn những con người này không bao giờ được phép đặt chân đến Mỹ. Vui mừng trước nỗi đau của đồng loại là hành vi man rợ, cho nên họ rất xứng đáng nhận lãnh hình phạt này. Nước Mỹ không hề đụng chạm đến đất nước họ, chỉ vì nước Mỹ giàu mạnh hơn, và dân Mỹ sống sung sướng hơn dân nước họ, chỉ đơn giản vậy thôi. Nhà văn NNN đã viết một câu rất hay:"... Có những người không chịu nổi sự thành công của người khác. Bởi vì họ cứ coi sự thành công của người khác là sự thất bại của chính mình."

Người Việt cũng vậy, có rất nhiều người mê Mỹ và cũng có rất nhiều người ghét Mỹ. Từ sau biến cố 1975 người Việt đã tìm mọi cách để đến Mỹ. Sau khi phong trào vượt biên chấm dứt người ta tiếp tục ra đi bằng nhiều cách, hợp pháp hay bất hợp pháp. Hợp pháp là đi theo con đường bảo lãnh thân nhân, cha mẹ, vợ con, hôn thê, hôn phu và sau này thêm diện đầu tư. Bất hợp pháp bằng cách du học du lịch rồi ở lại luôn, hay tìm cách kết hôn giả với người có quốc tịch. Giả thử có người mất vài chục ngàn đô cho công việc bất hợp pháp này, thì suy cho cùng họ còn quá lời. Cái lời trước mắt là con cái được hấp thụ một nền giáo dục ưu tú nhất thế giới, nếu còn ở trong nước mà muốn cho con đến Mỹ du học hàng năm phải tốn khoảng 20 ngàn đô. Còn nữa, món lời lớn nhất không thể tính bằng tiền bởi vì nó vô giá, đó là được sống trong môi trường xã hội quá lý tưởng, mà người Mỹ đã cố công gầy dựng từ hồi mới lập quốc cho đến bây giờ.

Một xã hội nề nếp, tất cả mọi đường lối chính sách đều rất minh bạch. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không có giai cấp nào, một thế lực hay đảng phái nào được đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Mọi người sinh ra đời đều được tôn trọng như nhau, đều có cùng một cơ hội tiến thân như nhau. Cho nên nếu anh nghèo, anh thất bại, anh học hành ngu dốt, là do anh chứ không phải do lỗi của xã hội, không hề có cảnh con quan thì được làm quan, con sãi ở chùa thì quét lá đa. Một xã hội có tính ưu việt vượt trội quá xa những xã hội khác, tôi không dám kể ra đây nhiều nữa sợ nhiều người chạnh lòng.

Có người Việt chưa hề đặt chân đến nước Mỹ ngày nào, nhưng cũng ghét nước Mỹ thậm tệ. Hàng ngày họ xem phim ảnh, thời sự tin tức, họ thấy những cảnh bạo lực ghê rợn cướp của giết người hay sexy khêu gợi, hay mấy vụ cảnh sát bắn chết người da đen... xem riết rồi họ đâm ra ghê tởm nước Mỹ, và còn cho rằng những người Việt qua tới Mỹ rồi đi làm những chuyện xấu xa, là do:" Quít trồng ở Giang Nam thì ngọt, mang trồng ở Giang Bắc thì chua..." đúng là dạng người ếch ngồi đáy giếng.

Có người cứ mở miệng ra là chửi Mỹ như tạo ra cho mình một style lạ, hay chứng tỏ ta đây cũng có một thời "chống Mỹ cứu nước" nhưng thật ra không phải vậy, họ nói một đằng làm một nẻo. Đây là một trường hợp điển hình, hãy nghe nghệ sĩ Kim Tuyến nhận xét về nghệ sĩ Bạch Tuyết: "BT thù ghét nước Mỹ nhưng tại sao lại thích đi Mỹ. Cho con học ở Mỹ rồi lại lấy vợ Mỹ. Phải chăng BT muốn tìm một bãi đáp an toàn sau này ở Mỹ..."
Bạch Tuyết & con trai bà tên Quốc (đang sống ở Mỹ), trong ngày 8-3- 2016 tại Việt Nam.

Trong cộng đồng người Việt tại Mỹ có một hạng người không giống ai. Nếu họ là người homeless, hay cuộc đời gặp toàn thất bại thì không có gì đáng nói. Đàng này họ sống trên đất Mỹ đã vài chục năm, làm ăn sinh sống khá thành đạt cũng có của ăn của để, con cái học hành thành tài. Vậy mà hễ cứ có dịp là họ chửi Mỹ, nào là làm ra bao nhiêu tiền, bảo hiểm và sở thuế ăn hết, chủ tư bản bóc lột đến tận xương tủy (câu này sao nghe quen quen!) Có người thấy vậy chướng mắt bèn nói móc họng: "Nếu ông thấy sống ở Mỹ có quá nhiều điều không ưng ý, thì ông nên về Việt Nam sinh sống để khỏi vướng mắc đến những điều này." Lặng thinh! không nghe câu trả lời, những người này rất xứng đáng mang cái tên là "ăn cháo đá bát".

Suy cho cùng, để cảm nhận thật sự nước Mỹ phải có thời gian để cho cái "chất Mỹ" nó ngấm vào người. Chứ còn chỉ đi du lịch hay thăm thân nhân vài ba tháng, hay được bảo lãnh qua Mỹ sống vài năm, thì thật tình chưa biết gì nhiều về nước Mỹ. Những người đó cảm thấy nước Mỹ sao chán ngắt, vừa buồn hiu vừa lạnh lùng. Đi đâu cảnh vật cũng từa tựa như nhau, giống y như câu thơ của Nguyên Sa:" Trời trên đất khách buồn vô hạn. Trăng rất quen mà vẫn chẳng quen." Thời giờ lúc nào cũng eo hẹp, cặp mắt cứ láo liên ngó đồng hồ. Không hề có cảnh sáng cà phê cà pháo cả tiếng đồng hồ, chiều lai rai bia bọt, kiếm người tán gẫu không phải dễ. Cái xứ gì mà người ta phải ôm đồm đủ thứ nợ: nợ nhà, nợ xe, nợ thuế, nợ bảo hiểm, nợ thẻ tín dụng... Cho nên có rất nhiều người Việt qua Mỹ một thời gian rồi lại quay về cố quốc.
Muốn cái "chất Mỹ" nó ngấm vào người theo tôi nghĩ cũng phải mất cỡ 5 năm. Khi nào người ta thấy nỗi nhớ nhà nó dịu lại, nhìn cảnh vật chung quanh không còn thấy buồn như trước. Vào mùa Đông trời chớm lạnh ra đường thản nhiên vận áo T shirt, điều đó có nghĩa là không còn sợ lạnh như những năm tháng đầu đến Mỹ. Ra đường gặp ai bất kể lạ hay quen đều gật đầu chào:" Hello! How are you doing". Nói chuyện với người Mỹ không còn dùng body language nữa. Ăn uống không còn thuần túy: bún bò Huế, hủ tíu, mì phở... mà còn thích hamburger, hog dog, pizza, sushi, pasta...

Khi nào cảm thấy vui với cái vui của nước Mỹ và buồn với cái buồn của người Mỹ, là coi như không còn có thái độ bàng quang như trước kia, là biết con người mình đã đổi khác. Cuối cùng một điều quan trọng nhất, là khi ta quay về cố quốc, lòng chợt bàng hoàng thảng thốt, đất nước không còn giống như trong tâm tưởng nữa rồi, mọi chuyện đời đều đã thay đổi... và một ý nghĩa buồn rầu nẩy ra là mong sao sớm trở về nước Mỹ. Như ai đó đã nói một câu như là chân lý: "Nước Mỹ không phải là Thiên đường, nhưng là một nơi đáng sống nhất trên cõi đời này".

Ngô Đình Châu

User avatar
saohom
Posts: 2205
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Image

BỘ QUÂN PHỤC CŨ

Phạm Tín An Ninh

Tôi gặp và quen anh trong một trường hợp khá bất ngờ, có thể nói là hơi kỳ cục. Vợ chồng tôi đến thăm và ở lại nhà cô con gái út hai tuần. Cháu vừa mua được căn condo trong một khu nhà mới xây ở thành phố Anaheim, cách Khu Disneyland chỉ một con đường. Đêm nào, bọn tôi cũng ra balcon ngắm pháo hoa được liên tục bắn lên từ khu giải trí nổi danh này. Căn nhà nhỏ khá xinh và ở trong một khu an toàn, cô con gái út rất thích. Nhưng chỉ sau vài hôm, cứ đến một hai giờ khuya thì cả nhà phải thức giấc, bởi tiếng lục đục ở căn nhà tầng trên. Âm thanh của một vật cứng nào đó gõ xuống nền nhà. Không đều đặn, năm ba phút một lần, dù nhẹ nhưng cũng đủ làm buốt trong đầu.

Sáng hôm sau, cô con gái nhờ tôi lên nói chuyện với chủ nhà, yêu cầu chấm dứt các tiếng gõ khó chịu vào giữa khuya ấy, để chúng tôi không bị mất ngủ, đặc biệt cô con gái phải đi làm khá sớm.


Sau hai lần bấm chuông, một người đàn ông mở hé cửa, gật đầu chào. Rất may, lại là một đồng hương. Chưa nói chuyện với chủ nhà, nhưng tôi đã thoáng hiểu được nguyên nhân gây ra tiếng động. Ông ta chống hai cây nạng gỗ. Mọi bực tức trong tôi bỗng dưng biến mất, những lời “cảnh cáo” tôi dự định sẽ nghiêm mặt nói với ông cũng tan biến theo. Tôi lễ phép chào ông, bảo là tôi ở tầng dưới, muốn đến thăm và làm quen với người đồng hương láng giềng. Ông nở nụ cười, làm rạng rỡ phần nào khuôn mặt khắc khổ, đã có nhiều vết nhăn, một phần được che phủ bới mái tóc dài bạc trắng. Ông mở rộng cửa mời tôi vào nhà. Tôi hơi khó chịu với mùi khói thuốc lá và cả mùi rượu.

- Anh ở đây một mình? Câu đầu tiên tôi hỏi.

- Vâng, thỉnh thoảng có cô con gái đến thăm. Cháu ở trên Riverside, cách đây khoảng gần một giờ lái xe.

Căn nhà nhỏ một phòng ngủ, phòng khách chưng bày đơn giản. Điều làm tôi chú ý là hai tấm ảnh treo trên vách, phía sau bàn ăn. Một tấm là chân dung của một người lính, tấm kia là ảnh gia đình. Thấy tôi chăm chú nhìn, anh cười, bảo là ảnh của anh và vợ con anh lúc xưa. Anh chống nạng đứng lên, như có ý mời tôi đến xem.

Tôi tròn mắt ngạc nhiên, tấm ảnh chân dung là một sĩ quan trẻ, mang cấp bậc thiếu tá, trông khá đẹp trai, phảng phất nét hào hùng. Trên ngực mang khá nhiều huy chương. Tấm ảnh kia anh chụp với người vợ xinh đẹp và hai đứa con kháu khỉnh. Lòng tôi bỗng chùng xuống, như vừa chạm vào một vết thương cũ. Tôi bất giác quay người lại, đứng nghiêm đưa tay chào:

- Xin chào niên trưởng

Anh tròn mắt bất ngờ, rồi đưa tay ra bắt tay tôi. Sau này, tôi được biết tấm ảnh chân dung này anh chụp sau khi được thăng cấp thiếu tá tại măt trận Quảng Trị tháng 10 năm 1971, khi anh đang là tiểu đoàn phó, thay vị tiểu đoàn trưởng bị trọng thương, chỉ huy đơn vị phá vòng vây địch, tạo một chiến thắng lẫy lừng.

Chúng tôi trở nên đôi bạn thân thiết kể từ hôm ấy. Hình như giữa chúng tôi có điều gì đó cùng “tần số” với nhau. Trước đây anh sống rất âm thầm, khép kín, không muốn gặp gỡ tiếp xúc một ai, kể cả những người quen biết cũ. Sau này, cứ mỗi lần đến nhà cô con gái tôi đều ghé thăm anh, mang theo cho anh một ít nem chua Ninh Hòa mà anh rất thích. Anh say sưa kể cho tôi nghe một thời hào hùng trong binh nghiệp. Anh nức nở khi nhắc tới những vị đàn anh, những đồng đội hào hùng đã phải hy sinh oan khiên tức tưởi, đặc biệt trong trận chiến Hạ Lào- Lam Sơn 719. Người được anh nhắc đến nhiều nhất, ngưỡng phục và thương tiếc nhất là Cố Đại Tá Lê Huấn, một vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi nổi danh, tốt nghiệp Khóa 18 VBĐL mà có một thời anh được phục vụ dưới quyền.

Anh bảo tôi vào phòng ngủ để anh cho xem một kỷ vật. Anh bật đèn lên tôi ngạc nhiên khi thấy một bộ quân phục. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đây là một bộ quân phục tác chiến đã cũ, có những vết sờn rách, được giặt ủi cẩn thận và treo trong một cái tủ kính nhỏ. Loại tủ để chưng bày. Anh mở cửa tủ và cẩn thận lấy bộ quân phục, ôm vào người một cách trang trọng. Đôi mắt mơ màng như đang tìm về một quá khứ xa xăm nào đó. Anh thốt ra môt giọng trầm buồn. Dường như là để nói với chính anh hơn là với tôi, người đang đứng ngay trước mặt anh:

- Đây là bộ đồ trận của anh ấy, anh Lê Huấn.

Sau chiến thắng lẫy lừng tại Căn Cứ O’Relly, khi tiểu đoàn anh dưới tài chỉ huy tài ba của Trung Tá Lê Huấn đã đánh tan một lực lượng địch cấp trung đoàn của Sư Đoàn 304 BV, tháng 8/1970 tiểu đoàn lại đánh một trận khốc liệt với một đại đơn vị khác cũng của Sư Đoàn 304 BV này tại Hải Lăng, Quảng Trị. Khi ấy anh đang là đại đội trưởng thâm niên nhất của tiểu đoàn. Cả hơn một trung đoàn địch, sau nhiều đợt tiền pháo kinh hoàng đã đồng loạt xung phong nhằm tràn ngập vị trí đóng quân của tiểu đoàn 4/1. Trung Tá Lê Huấn rời khỏi hầm chỉ huy, đích thân điều động đơn vị quyết chiến trước một cuộc thư hùng sinh tử. Từng đợt địch quân bị đốn ngã ngay trước giao thông hào, nhưng bọn chúng như là những con thiêu thân lao vào lửa, lớp này ngã lớp khác lại xông tới. Nhờ sự chiến đấu kiên cường của đơn vị anh, và đặc biệt dưới sự chỉ huy tài tình và gan dạ của vị tiểu đoàn trưởng lừng danh, đã ngăn chặn, tiêu hao và cầm chân địch trước khi được những phi vụ không yểm, đánh trên đầu địch. Những trận không kích gây thiệt hại nặng nề cho địch nhưng cũng làm bị thương một số binh sĩ của đơn vị, vì khoảng cách giữa ta và địch quá gần. Anh là một trong những người bị trọng thương hôm ấy. Trời tối và mưa lớn, lưới phòng không dày đặc, không tản thương được, Anh Lê Huấn ra lệnh ban quân y mang anh vào nằm trong hầm chiến đấu của anh Huấn để được tương đối an toàn và băng bó chữa trị cấp thời. Thấy máu và bụi bặm thắm đầy bộ chiến y ướt đẫm nước mưa của anh, vị tiểu đoàn trưởng bảo người lính cận vệ lấy bộ áo quần trong ba-lô của mình mang đến thay cho anh. Khi tản thương về Quân Y Viện Nguyễn Tri Phương, nhiều bác sĩ cứ tưởng anh là Trung tá Lê Huấn, bởi bảng tên và cả cái lon trung tá còn nguyên trên ngực và cổ áo.

Vết thương chưa lành, nằm trong Quân Y Viện mà lòng anh rất nôn nao khi biết tin đơn vị tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719. Một kế hoạch qui mô với sự tham chiến của hầu hết các đơn vị chiến đấu thuộc Vùng I: Sư Đoàn 1BB, các đơn vị Thiết Giáp, Biệt Động Quân, cùng với các Lữ Đoàn Nhảy Dù và TQLC. Anh khao khát được có mặt cùng đơn vị trong trận chiến đặc biệt này, nhưng vết thương ở chân phải là trở ngại chính để bắt anh phải nằm lại ở đây.

Anh theo dõi từng ngày từ khi cuộc hành quân bắt đầu. Các tin tức không vui từ chiến trường, những tổn thất nặng nề của quân ta sau khi các căn cứ 31, 30 lần lượt thất thủ. Đại Tá Thọ, Lữ Đoàn Trưởng Nhảy Dù cùng nhiều cấp chỉ huy của ta bị lọt vào tay giặc. Một số đã tự sát để giữ tròn khí tiết.Từ các kế hoạch hành quân tồi tệ mà địch quân gần như biết trước để chuẩn bị trận địa đến việc thiếu thống nhất ở các cấp chỉ huy đã góp phần cho sự thảm bại. Điều đau đớn nhất đã làm tim anh thắt lại khi nghe tin Tiểu Đoàn 4/1 của anh nhận lãnh trách nhiệm nặng nề, làm lực lượng chặn hậu để cho Trung Đoàn rút lui khỏi căn cứ Lolo trong tình trạng bị bao vây nguy khốn. Anh bật khóc khi nghe tin Trung Tá Lê Huấn, vị tiểu đoàn trưởng trẻ tuổi tài năng đã lẫm liệt hy sinh, và cả tiểu đoàn chỉ còn 32 binh sĩ sống sót trở về! Anh nghĩ từ nay sẽ vĩnh viễn không còn gặp lại người chỉ huy mà anh ngưỡng phục và hằng mong được tiếp tục phục vụ dưới quyền. Anh nhớ tới bộ quân phục mà Trung Tá Lê Huấn đã đưa cho anh thay khi anh bị trọng thương cách đây vài tháng, anh còn chưa kịp trả lại, và bây giờ thì không còn có cơ hội để trở về khổ chủ. Anh quyết định giữ lấy bộ quân phục này như một kỷ vật thiêng liêng trong cuộc đời mình. Và sau đó dù phải trải qua bao nhiêu thăng trầm, khốn khổ, nhất là sau ngày nước mất nhà tan, anh vẫn luôn trân trọng bộ quân phục mà anh nghĩ có mang hồn thiêng của anh Lê Huấn và của cả những đồng đội đã hy sinh.

Sau khi xuất viện, anh được bổ sung đến một trung đoàn khác giữ chức vụ tiểu đoàn phó. Tháng 10/ 1971 anh thăng cấp Thiếu tá tại mặt trận. Cuối năm anh lên nắm tiểu đoàn thay thế vị tiểu đoàn trưởng bị thương, sau đó được theo học khóa quân chánh. Một thời gian sau, vết thương cũ ở chân phải tái phát. Sau khi chữa trị anh đi khập khiễng. Hội Đồng Giám Định Y Khoa xếp anh vào loại 2, không chiến đấu được. Được đề nghị bổ sung về Phòng 3 Quân Đoàn, nhưng anh xin đi làm chi khu phó cho anh tiểu đoàn trưởng cũ, bây giờ là quận trưởng của một quận miền núi. Quận lỵ là một tiền đồn chiến lược, nằm tại một vị trí trọng yếu khống chế cả con đường tiếp liệu của Cộng quân, nên bọn chúng tìm mọi cách để san bằng. Gần cuối năm 1974, Cộng quân mở nhiều đợt tấn công biển người nhằm chiếm quận lỵ, vị quận trưởng bị thương nặng. Anh đã phối hợp với các đơn vị bạn tăng cường, trực tiếp chỉ huy điều động cuộc phản công rất oanh liệt giữ vững được phòng tuyến qua nhiều cuộc tấn công qui mô của địch. Nhưng tổn thất của ta khá nặng và đạn dược dần dà cạn kiệt, trong lúc Cộng quân luôn được tăng cường, cuối cùng anh phải mở đường máu, rút lui trước khi căn cứ bị địch quân tràn ngập. Anh bị thương nặng ở chân, điều kỳ lạ là ngay tại vết thương cũ. Nhờ kinh nghiệm chiến trường và hai người lính nghĩa quân rất trung thành và khôn ngoan giúp đỡ, thay phiên cõng anh thoát khỏi vòng vây truy lùng của địch. Anh được đề nghị thăng cấp đặc cách lên trung tá, nhưng sau đó bị cưa mất chân phải. Nỗi đau đớn vì phải mất đi một phần thân thể chưa nguôi, thì cái đau đớn tột cùng cũng vừa ập đến: Tháng 3/75, cả Vùng I bỗng chốc lọt vào tay Cộng sản, Sư Đoàn 1BB, đơn vị nổi danh mà anh luôn hãnh diện phục vụ trong gần cả một đời binh nghiệp cũng tan tành, rồi cả miền Nam mất vào tay giặc. Những đồng đội từng chiến đấu, một thời sống chết cùng anh bỗng dưng tan tác như chỉ sau một cơn ác mộng.

Mất một cái chân, nhưng anh vẫn bị tù đày nghiệt ngã trên bảy năm trong nhiều trại tù của bọn Cộng sản man rợ. Ra khỏi tù anh lại mất cả gia đình. Người vợ xinh đẹp ngày nào đã gởi đứa con gái lớn, năm tuổi, cho bà nội già, bồng theo đứa con trai ba tuổi, lẳng lặng sang sông về một nơi nào đó. Gia tài một đời binh nghiệp của anh giờ chỉ còn mỗi một bộ đồ trận, chiến y của người chỉ huy mà anh từng kính yêu đã hy sinh. Trước khi vào tù, anh căn dặn mẹ anh phải giữ kỹ bộ quân phục này cho anh với bất cứ giá nào, bởi đó là một kỷ vật quý giá nhất còn lại của đời anh. Theo đề nghị của mẹ, anh đồng ý cho bà tháo ra và đốt đi cái bảng tên và cấp bậc may trên áo.

Có lẽ từ lâu lắm mới có người chăm chú ngồi nghe, nên anh say sưa kể cuộc đời mình. Đôi lúc sụt sùi, nước mắt tưởng đã khô cằn, bỗng ràn rụa trên khuôn mặt khắc khổ già nua, và từng giọt rơi xuống bộ quân phục anh đang ôm ấp trong lòng mình.

- Sau này anh có dịp nào gặp lại chị nhà và đứa con trai? Tôi hỏi.

- Bà đã có chồng khác từ lâu rồi, đang sống ở Âu Châu. Tôi buồn nhưng không trách. Ngại đụng chạm tới hạnh phúc riêng của bà, và cả vết đau trong lòng mình nên không muốn liên lạc. Còn đứa con trai có sang thăm tôi hai lần, nhưng cháu vẫn nhìn tôi xa lạ lắm. Cũng phải thôi, vì khi tôi vào tù thì cháu chỉ mới lên ba, trong ký ức của cháu có lưu lại một chút hình ảnh gì của tôi đâu. Riêng con gái tôi có sang thăm mẹ và em cháu vài lần.

Nói dứt câu, anh cúi xuống như muốn giấu riêng nỗi xúc động.

- Anh có thường cảm thấy cô đơn và tiếc nuối những ngày xưa?

- Cũng có chứ, nhưng lâu rồi thành quen và gần như không còn muốn nhớ tới nhiều chuyện cũ.

Tôi đưa tay nắm chặt bàn tay anh thay cho một lời an ủi khó nói thành lời. Bỗng anh ngước lên, mở to đôi mắt:

- Điều buồn của tôi bây giờ là thấy một số trong đám anh em mình mất đi khá nhiều sĩ khí, có thằng còn khốn kiếp đã vì chút lợi lộc nhỏ nhen mà chạy hùa theo giặc, nịnh bợ thô bỉ, quên mình từng hãnh diện là sĩ quan của những binh chủng hào hùng. Nhìn bọn chúng múa may khóc lóc làm trò trước mặt bọn cộng sản mà tôi muốn buồn nôn!

Tôi cười:

- Anh bận tâm tới những kẻ ấy làm gì. Trong tập thể nào lại không có những con sâu, tồi tệ, bán rẻ linh hồn. Cũng có thể là những thăng điên. Nhưng đó cũng chỉ là vài trường hợp cá biệt. Cũng như nước Mỹ vừa có tên phản quốc Edward Snowden, đang trốn ở Nga-Sô. Theo tôi, đại đa số anh em mình vẫn còn giữ được tấm lòng, tình huynh đệ và trách nhiệm với quê hương đất nước chứ!

Bỗng đôi mắt anh sáng lên:

- Điều vui và an ủi tôi nhiều nhất là các tổ chức gây quỹ giúp anh em thương phế binh sống khốn khổ ở quê nhà. Đặc biệt là các buổi Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh thành công tốt đẹp. Thấy anh em nhà binh mình cùng bà con tham gia hưởng ứng nhiệt tình, tôi mừng và cảm động lắm. Ở bên nhà các cha thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn cũng đã can đảm, hết lòng an ủi và làm sống dậy niềm tự hào của những anh em thương binh bất hạnh, tôi cảm phục vô cùng. Có bao nhiêu tiền dành dụm tôi đều nhờ cô con gái gởi về phụ với các cha.

Tôi cười, biểu lộ sự đồng tình. Định nói thêm đôi điều để khoe về những đóng góp phần mình, bỗng nghe anh hỏi:

- Bạn ở Âu Châu, sang Mỹ một thời gian, chắc đã thấy trong đám anh em mình bây giờ cũng nhiều người bon chen danh lợi. Mà tội nghiệp thay toàn chỉ là danh hão! Thấy mà phát ngượng! Nhiều ông tướng ông tá có danh thời trước, sang đây lại đầu quân làm tướng phường tuồng cho mấy cái chính phủ tự xưng tự diễn. Trong đó có cả những ông ngày xưa từng là cấp chỉ huy của mình. Ngán ngẫm thật. Giấy rách mà cũng chẳng còn cái lề nào để mà giữ nữa!

Tôi cười. Chưa kịp nói một lời an ủi, bỗng thấy anh sa sầm nét mặt:

- Điều buồn nhất là thiên hạ lạm dụng bộ quân phục một cách đến lố bịch.Đám cưới, sinh nhật, tiệc tùng nhảy nhót mà cũng có người mặc quân phục. Có lần tôi thấy có ông mặc quân phục, mang cả lon lá và đầy huy chương lên truyền hình để quảng cáo thuốc cho một ông thầy thuốc Nam tự nhận mình là bác sĩ! Tôi xấu hổ và giận đến tím cả mặt. Tối hôm ấy, tôi ôm bộ quân phục này của anh Lê Huấn mà thấy lòng xót xa vô hạn.

Nhớ lại một câu chuyện liên quan tới bộ quân phục đã xảy ra tại đất nước Na-Uy, nơi gia đình tôi đang định cư, tôi kể cho anh nghe:

- Tháng 11 năm 2004, bà Kristin Krohn Devold, Bộ Trưởng Quốc Phòng Na-Uy, đến viếng thăm binh sĩ thuộc các đơn vị quân đội Na-Uy tham chiến tại Afghanistan trong lực lượng NATO. Bà được ca ngợi là một nữ bộ trưởng can đảm đã đến thăm binh sĩ khi chiến trường đang ác liệt nhất. Nhưng sau khi tin tức và hình ảnh về chuyến viếng thăm này được chiếu trên đài truyền hình quốc gia Na- Uy (NRK), bà bị nhiều sĩ quan và binh sĩ Na-Uy phàn nàn, phản đối khi thấy bà mặc quân phục từ một chiếc trực thăng bước xuống thăm một đơn vị tác chiến Na- Uy, và cả khi được Thủ Tướng Afghanistan, Hamid Kazai tiếp đón tại thủ phủ Kabul. Báo chí cũng góp phần tranh luận và tỏ ra bất bình về sự kiện này. Hầu hết cho rằng bà chưa hề ở trong quân đội, nên không được phép sử dụng quân phục, dù trong bất cứ chức vụ hay hoàn cảnh nào. Những quân nhân cho rằng bộ quân phục còn có tính thiêng liêng, bởi nhiều chiến binh đã hy sinh trong bộ quân phục này. Mặc dù bà và một số cơ quan chính phủ lên tiếng biện minh, viện lý do vì sự an toàn cho bà trong một hoàn cảnh đặc biệt, nhưng vẫn không được chấp nhận. Cuối cùng bà phải bắt buộc lên tiếng chính thức xin lỗi quân đội và cả dân chúng Na-Uy về điều này.

Nghe tôi kể xong, anh đưa bộ quân phục đang cầm trong tay lên như để khẳng định một điều gì.

- Đúng như thế, bộ quân phục đối với tôi luôn là một kỷ niệm thiêng liêng. Có biết bao đồng đội của tôi hy sinh đã được liệm với bộ quân phục thấm đẫm máu đào của họ. Xin đừng lạm dụng và làm đau lòng họ.

Sau lần gặp gỡ đầu tiên này, tôi còn đến thăm anh một vài lần nữa, và bảo cô con gái, “bác ấy là người tốt, một sĩ quan đáng kính, con nên thường thăm nom và giúp đỡ bác những điều cần thiết”. Hôm đến chào từ giã anh để trở về lại Na-Uy, tôi mang biếu anh hai chai rượu đỏ loại tốt. Tôi khuyên anh, khi nào buồn thì uống vài cốc cho nguôi ngoai, không nên uống nhiều rượu mạnh và hút thuốc lá, có hại cho sức khỏe. Anh nở nụ cười, nhưng bỗng trở nên buồn bã:

- Anh đi rồi, tôi lại cô đơn, chẳng còn ai tâm sự.

Hôm đó, tôi ở lại với anh tới hơn một giờ khuya. Chống nạng tiễn tôi ra cửa, anh bắt tay từ giã nhưng giữ khá lâu, không muốn tôi đi. Tôi cười, bảo nhỏ:

- Anh cố dỗ giấc ngủ, đừng thức dậy nửa đêm, uống rượu chống nạn đi quanh nhà. Bọn tôi ở tầng dưới cũng mất ngủ với anh luôn.

Anh gật đầu, cười thông cảm.

Sáu tháng sau, khi trở lại Mỹ, tôi liền đến thăm anh. Bấm chuông mấy lần không ai mở. Tôi không còn nghe tiếng động của đôi nạng gỗ gõ xuống nền nhà như mọi khi. Buổi chiều, cô con gái đi làm về, cho tôi biết là anh ấy bị ung thư gan ở thời kỳ cuối. Con gái của anh đã đưa anh vào bệnh viện Fountain Valley từ tuần trước. Tôi lái xe xuống ngay bệnh viện. Anh nằm bất động. Khi tay tôi chạm vào anh, anh mở hé mắt nhìn tôi và miệng cố nở nụ cười, méo mó. Thấy anh cười mà tôi muốn khóc. Trông anh tiều tụy và hốc hác quá. Nhưng anh rất bình tĩnh, như ngày xưa khi đối diện trước quân thù. Anh muốn ngồi dậy, nhưng không còn đủ sức. Tôi ngồi bên cạnh, đưa tay xoa trên ngực anh, bảo anh cứ nằm nghỉ.

- Bác sĩ bảo tôi không còn nhiều thời gian nữa, ngày mai phải xuất viện về nhà để gia đình lo hậu sự – Anh nói bằng một giọng thì thào, yếu ớt.

Khi nhắc đến hai chữ gia đình, anh lại cười, chua chát:

- Lại gia đình…!

Hiểu ý anh, tôi nói đùa cho anh vui:

- Phải nói là đại gia đình, vì ngoài cô con gái ra, anh còn có chúng tôi nữa. Cứ yên tâm mà đi. Nhớ dọn sẵn một bãi đáp cho ngon lành, chờ tôi đáp xuống sau anh nghe.

Chiều hôm sau anh được xe bệnh viện đưa về nhà. Cô con gái túc trực bên anh. Tôi cũng luôn có mặt. Anh ngỏ ý muốn uống với tôi một ly rượu đỏ. Cô con gái ngần ngừ, nhưng thấy tôi ra dấu gật đầu, cô rót hai ly rượu, một ly mời tôi và một ly cô cầm đưa vào miệng cha cô. Cuối cùng chúng tôi cũng cạn ly. Không ngờ đó là ly rượu từ biệt. Tôi bỗng nhớ tới lời của một bài ca cũ : “bạn ơi, quan hà xin cạn chén ly bôi, ngày mai tôi đã… đã đi xa rồi…”

Khuya hôm đó anh trút hơi thở cuối cùng. Cô con gái cho biết anh ra đi rất yên ả. Không trăng trối một lời gì. Chỉ để lại một mảnh giấy nhỏ với vài chữ ngoằn nghèo: “Nhớ liệm ba bằng bộ quân phục trong tủ kính, nghe con”.

Đám tang thật đơn giản theo ý muốn của anh. Mấy lần anh dặn dò cô con gái không được đăng cáo phó hay báo tin cho ai biết. Tại nhà quàn, ngoài cô con gái của anh và cậu bạn trai người Mỹ, chỉ có vợ chồng tôi cùng cô con gái út. Một nhà sư già tụng một thời kinh trước khi đậy nắp quan tài. Tôi đứng nghiêm đưa tay lên chào anh. Anh nằm uy nghiêm trong bộ quân phục, khuôn mặt ánh lên nét hào hùng. Tôi có cảm giác như anh vừa chết tại chiến trường. Không có bất cứ một nghi lễ nào, nhưng tai tôi như đang văng vẳng tiếng kèn truy điệu và khúc nhạc Chiêu Hồn Tử Sĩ.
Đứng nghiêm chào anh một lần nữa, khi quan tài đưa vào lò thiêu. Mọi thứ đều trở về với cát bụi. Lòng tôi bỗng rộn lên một niềm vui bất chợt, khi nghĩ anh sắp được gặp lại anh Lê Huấn và những đồng đội cũ, những chiến sĩ đích thực đã rất xứng đáng với bộ quân phục oai phong của QLVNCH. Họ đã tạo cho bộ chiến y một điều gì đó rất thiêng liêng.

User avatar
bichphuong
Posts: 569
Joined: Mon Apr 25, 2016 12:10 am
Been thanked: 1 time

Post by bichphuong »

Image

Thiếu Úy HUỲNH VĂN THÁI Và BẢY CHIẾN BINH NHẢY DÙ
30041975Thiếu úy Huỳnh Văn Thái và bảy người lính Nhảy Dù dưới quyền đã chọn cái chết để đền nợ nước ngày 30/4/75

Tốt nghiệp từ trường Bộ Binh Thủ đức (khóa 5/69), Huỳnh Văn Thái đã chọn binh chủng Nhảy Dù. Ai không sợ chết, nhưng nếu phải hy sinh tính mạng mình cho tổ quốc thì đó lại là một vinh dự không phải người nào cũng làm được như Thiếu Uý Huỳnh Văn Thái và bảy chiến binh Nhảy Dù thuộc quyền anh đã chứng minh

Tôi không biết nhiều về các anh nhưng sự lựa chọn của các anh đã tạo nên một thiên anh hùng ca bất tử bởi vì dứt khoát không dễ dàng chấp nhận đi vào cái chết một cách bình thản. Vậy mà các anh đã làm được điều đó. Tôi buồn rầu thú nhận rằng tôi đã không có được dũng khí như các anh để rồi giờ đây ngày qua ngày sống trong hổ thẹn tầm thường.

Tất cả nhân vật trong câu chuyện của tôi chỉ là hư cấu. Ngoại trừ Thiếu Úy Thái, những anh hùng còn lại không lưu một dấu tích nào .Các anh tên gì, bao nhiêu tuổi, sinh quán ở đâu ,cha mẹ vợ còn anh em ra sao ?

Đội chiếc nón với hàng chữ Tổ Quốc Danh Dự Trách Nhiệm , các anh đã thực thi đúng từng nét và hành động của các anh đã chứng minh quân đội VNCH là một Quân Đội Anh Hùng.

Phúc cho đất nước đã nuôi dưỡng các anh, phúc cho cha mẹ đã sinh ra các anh, phúc cho quân đội, trường học đã tôi luyện các anh, phúc cho anh chị em cùng máu mủ với các anh, và trên hết phúc cho dân tộc Việt Nam đã có những người con như các anh

Tôi viết những giòng chữ này để bài tỏ lòng ngưỡng mộ đối với hành động anh hùng của các anh Th/U HVThai và bảy người lính Nhảy Dù anh hùng và biết bao Tử Sĩ đã chọn sự tuẫn tiết “ Thà Chết Không Đầu Hàng Giặc “ ngày 30/4/1975

image015

Thái ngồi xuống vệ đường. Anh bâng khuâng nhìn chung quanh những người đồng đội. Họ đã theo anh tới tận giờ phút này. Những người lính Dù mặt mày hốc hác, nhưng chưa nghe ai mở miệng thở than.

Thằng Tăng Thiện Minh, chín tháng làm Nhảy Dù mà mắt vẫn còn ngơ ngáo non choẹt. Học hết lớp chín tình nguyện ghi danh đi lính chỉ để được “đội Bê Rê Đỏ”. Nó xin làm đệ tử anh bởi vì “em khoái cái mặt ngầu của thiếu úy”. Thằng nhỏ mới mười chín tuổi, người Hoa, còn có bà mẹ ở Chợ Lớn và mấy anh chị em làm ăn khấm khá, sẵn sàng chi tiền để nó được ở hậu phương làm lính kiểng. Má nó khóc hết nước mắt khi nó cứ nhất định đăng lính.” Má à, tui đi lính rồi chừng nào hết diệc cộng tui dề đới má mà. Má khóc goài dậy?” Nó nhăn mặt, cố dấu mấy giọt nước mắt khi nói .

Thái đốt một điếu thuốc. Anh lắc đầu từ chối chén cơm thằng Minh mới nấu. Thằng nhỏ cứ năn nỉ “thiếu úy ăn chút gì đi, từ sáng giờ…” Thật ra cả hai thầy trò chưa có gì trong bụng, nhưng Thái không thấy đói. Anh chỉ mệt.

Thượng Sĩ Nguyễn Năm ngồi bệt xuống bên cạnh Thái. Ba mươi hai tuổi, là người già nhất trong trung đội. Quê anh ở tận ngoài Trung, Phú Yên . Mười hai năm đội mũ đỏ, trải qua biết bao chiến trường đẫm máu vẫn sống sót. Một vợ ba con giờ không biết lưu lạc nơi đâu từ lúc cuộc di tản mở màn. Năm hỏi nhỏ “ Tính sao thiếu úy?”.Thái trả lời “ Từ từ ông ơi, biểu tụi nó nghỉ ngơi chút đi” . Anh kính trọng người thượng sĩ mà lính trong trung đội thường gọi đùa danh xưng Bố Già. Kính trọng tuổi tác và kinh nghiệm chiến trường , mấy lần đó máu.

Thái đứng dậy, anh bước tới chỗ một người lính đang nằm ngủ thoải mái ngay dưới một tàng cây. Anh đá vào đùi người lính:

-Ê Hưng, đưa tao điếu thuốc mày.

Người lính ú ớ :

-DM để ngủ chút coi!

-Ngủ chàng hảng như mày việt cộng nó thiến dái.

Hưng dụi mắt, nó ngồi nhỏm dậy khi nhận ra Thái:

-Xin lỗi ông thầy, tại mệt quá!

– Lỗi phải gì mày ơi, cho tao điếu thuốc coi.

Thằng nhỏ nhoẻn cười, móc gói Quân Tiếp Vụ nhàu nát trao cho Thái. Cũng như Tăng Thiện Minh, Trần Ngọc Hưng chỉ mới vừa mười chín tuổi . Quê Hưng ở đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Bạc liêu . Không nhậu nhẹt, nhưng khi có độ thì nốc rượu đế như uống nước lã. Hưng học đến lớp mười một, thi rớt Tú tài nhưng từ chối đi học Hạ Sĩ Quan Đồng Đế. Thằng Minh vẫn thường chọc “DM mày ngu, mang lon Trung Sĩ không đã hơn làm lính trơn sao?” Hưng chỉ cười hềnh hệch “ Tao khoái đội mũ đỏ hơn đeo cánh gà Bộ Binh”

Thằng Cậy xốc lại dây ba chạc, túm lấy cục đá nhỏ chọi về phía Hưng. Tụi nó vẫn còn rất con nít, dù đứa nào đụng với việt cộng ít nhất cũng một lần. Nguyễn Cậy, Bắc Kỳ di cư năm mươi tư, con ông Nguyễn An và bà Trần thị Mùi. Cậy nhỏ người, nhưng rất chắc thịt. Nó đã từng vác một thằng bạn bị thương chạy mấy cây số đường rừng để trở về đơn vị. Công Giáo chính tông, hễ ở hậu cứ thì nó chẳng bỏ ngày lễ Chúa Nhật nào. Có lần Thái thấy nó lần chuỗi bằng ngón tay, miệng thì lâm râm đọc kinh. Đợi cho nó cầu nguyện xong, Thái hỏi đùa “ Mày bắn việt cộng mà đọc kinh cái gì?” Cậy bẽn lẽn “Thầy mạ em bảo thế, mà em không bắn chúng thì chúng cũng chẳng để em sống” . Hai mươi hai tuổi đời, chưa từng một lần yêu, lính Nhảy Dù mà cứ gặp em gái hậu phương thì mặt đỏ như gấc. Chưa bao giờ Thái thấy Cậy đánh lộn trong đơn vị, trong khi hễ về thành phố thằng Minh và thằng Hưng lại đi kiếm chuyện với tụi sắc lính khác hoặc Cảnh Sát Dã Chiến. Cậy luôn sẵn sàng bênh bạn, cứ nghe rủ là đi. Mà nó đánh lộn ra gì, một mình nó có lần đã nện hai thằng CSDC nhừ tử. Bị Quân Cảnh Nhảy Dù bắt nhốt, Thái đã đi lãnh nó ra. Lúc gặp Thái nó lí nhí “Xin lỗi Thiếu úy“ . Thái chửi “ DM mày, tao đá mày chết mẹ mày cho chừa thói ba gai” ( anh muốn chính anh “dạy” lính của mình hơn là để người khác làm nhục tụi nó.) Một lần Cây xách hai trái lựu đạn đi tìm bọn du đảng chỉ vì nghe thằng Hưng nói bị tụi nó chặn đường chém bằng mã tấu . Nó tâm sự suýt chút nữa thì nó đã nghe lời mẹ đi tu, cái thằng Bắc Kỳ Nguyễn Cậy hai mươi hai tuổi đời , ba tuổi lính tới giờ phút đó vẫn chưa biết đi chơi đĩ như thế nào. Tội nghiệp nó và những thằng như nó, chưa biết yêu đã biết cách giết người.

Thạch Sơn đang lúi húi gây lò lửa nấu cà phê.Thái nhìn những người lính chung quanh mình. Họ đã chia với anh từng điếu thuốc, từng ngụm nước. Họ là máu, là mủ của anh. Thái biết họ sẵn sàng nhảy lên đỡ đạn cho anh từ phát súng bắn tỉa của địch. Anh thương họ, và họ cũng thương anh. Anh nhớ mẹ, nhớ thằng em mười bốn tuổi ở nhà, chỉ hăm hở cho mau lớn để được đi lính Nhảy Dù. Anh nhớ lần anh đã nói với nó “linh Nhảy Dù khổ lắm mày ơi, lúc nào cũng chỉ Cố Gắng ‘ mà thôi. Nhảy Dù Cố Gắng, tâm niệm của binh chủng đè nặng trên vai người lính VNCH bốn mươi chín kí-lô-gam thịt cộng thêm gần ba chục kí-lô-gam trang bị. Anh có hối tiếc khi chọn binh chủng này chăng? Không! Thái biết rõ điều đó.

Thạch Sơn mang ly cà phê bốc khói tới trước mặt anh “ Ông thầy húp một chút cho tỉnh” “Mày điệu nghệ quá Thạch Sơn” Thái mỉm cười thầm cảm ơn người lính. Thạch Sơn, Miên thứ thiệt, đeo sợi thẻ bài có kèm cái răng nanh heo rừng bự chảng. Quê Châu Đốc, Thạch Sơn không được đi học ngày nào, không biết chữ, mỗi lần lãnh lương phải điểm chỉ. Sơn là người ít nói nhất trong trung đội. Lầm lì, gan dạ, đánh nhau chỉ thích xung phong tuyến đầu. Cha bị việt cộng chặt đầu vì có chân trong hội đồng người Việt gốc Miên lúc Sơn chỉ mới mười ba tuổi. Mẹ Việt Nam bán cá khô ở chợ quận, mỗi lần lãnh lương lại nhờ Thái gởi tiền về cho mẹ. Chưa bao giờ nghe Sơn nói căm thù việt cộng, nhưng hề có đánh nhau mới thấy sự căm thù căng tràn trên đôi mắt Sơn. Nó như một con trâu cui nổi điên chẳng biết sợ chết là gì. Nhiều khi xung phong nó chạy trước, bỏ xa trung đội gần cả trăm thước. Nó chẳng bao giờ tâm sự bạn bè chỉ trừ có Thái . Nó nói“Tui coi ông thầy như anh tui” ”Vậy mày đưa tiền lương của mày cho tao xài đi “ ,Sơn bẽn lẽn “Tui không gởi tiền cho bà già thì tui đưa hết cho ông thấy rồi.” Người nó lực lưỡng, mình xâm đầy bùa chú chữ Miên. Vậy mà có lần Thái thấy nó khóc “Tui nhớ má tui quá ông thấy ơi…”

Thằng Cường la lên :

– Ê Sơn, pha nhiều nhiều cà phê cho tao ké với

– Con C. mày muốn uống thì pha lấy mà uống, thằng làm biếng!” thằng Hưng lên tiếng.

– Ông nội mẹ mày nghe Hưng, Việt cộng nó xả AK vô đầu mày nghe Hưng

Hưng trả lời.:

– Nó có tới được đây thì tao cũng bắn chết mẹ nó rồi

Mấy thằng nhỏ như chó với mèo, chửi nhau hàng ngày. Chửi đó, nhưng đứa nầy sẵn sàng sống chết cho đứa kia, giữa chúng nó như có một sợi giây vô hình buộc chặt lại với nhau. Cường người SaiGon, quận Tư, tính tình hệch hạc, cười nhiều nói nhiều, nó thường chọc thằng Cậy “Dm mấy thằng Bắc kỳ rau muống ăn cá rô cây “. Rồi nó ngân nga “Bắc Kỳ ăn cá rô cây, Ăn nhằm cứt chuột chết cha Bắc kỳ “ .Thằng Cậy trả đũa “Địt Mẹ mày thằng Nam Kỳ giá sống, sẽ có ngày ông đổ mắm tôm vào cái mồm thối của mày.“

Trước đây Cường ra bùng binh Saigon đăng TQLC. Ở quân trường vài tuần rồi trốn về nhà. Lần sau nó lại mò ra bùng binh Saigon lần nữa. Lần này nó chấm Thiên Thần Mũ đỏ. Lý do nó bỏ TQLC vì nó sợ nước, sợ phải học bơi lội.

Nguyễn Văn Cường, cái tên rất bình thường, có thể trùng hợp hàng triệu người Việt Nam trẻ khác. Nhưng Cường không bình thường –theo cái nghĩa bình thường- nó thích chiến trận, thích đánh nhau. Chỉ vì nó ham sôi động chứ không phải nó thích giết người. Nó có hàng trăm biệt tài mà một trong số đó là gài mìn bẫy. Mỗi lần đóng quân trong rừng thế nào cũng có vài con ”nhạn là đà” vướng vào bẫy của nó. Cùng tuổi với thằng Cậy, nhưng Cây nghiêm trang báo nhiêu thì Cường lại chọc phá đùa giỡn bấy nhiêu .Cường có người yêu tên Nguyễn Thị Đoan Trang, nữ sinh Gia Long, lớp mười một. Mỗi lần nhận được thư nàng nó khoe với cả trung đội. Trắng, nhỏ nhắn ,có mái tóc dài và đôi mắt đẹp. Nó tâm sự với Thái “Kỳ này chắc em lấy nó quá thiếu úy, dự đám cưới của em nghe thiếu uý “. Binh nhất Nguyễn Văn Cường cũng có những giây phút không đùa giỡn chút nào.

Y Kron, đen như khúc than Nông Sơn. Để nó đứng cạnh Thạch Sơn không biết thằng nào chiếm giải nhất về màu da lọ nghẹ. Xạ thủ M60 của trung đội, sức nặng khẩu súng và mấy dây đạn đeo chung quanh người, chẳng thấm tháp gì với tướng tá dềnh dàng, cao lớn . Y Kron không hút Quân Tiếp Vụ, nó có loại thuốc lá riêng , mùi ngay ngáy như cỏ khô. Dân tộc Thượng Ra Đê, nhưng nói tiếng Việt rành rọt, dù vẫn còn âm điệu của người miền núi. Hai mươi bảy tuổi, một vợ hai con, đứa lớn nhất vừa tròn năm tuổi.

Y Kron thường ngồi một mình, hút thuốc nhìn về phía xa vời nào. Đôi lúc Y kron cất lên vài câu hát của người dân tộc buồn tha thiết. Thằng Hùng vẫn thường chọc “Dm Y kron mày hát cái đách gì vậy, ông nội tao cũng không hiểu nổi “ , hắn chỉ cười vu vơ. Có lần Thái hỏi dò:

– Mày có muốn đào ngũ về nhà với vợ con không Y Kron?”

Hắn nhìn thẳng vào mặt Thái :

– Ớ ông thây, tui thương cái lính nầy a, tui ghét cái viet công a, tui thương mấy thăng nầy, tui thương ông thây. Cái vơ cái con tụi tui cũng thương mà tui không đao ngu đâu..

Thái biết Y Kron nói thật. Anh cố gắng hết sức để xin cho Y Kron được về phép. Nhưng tình hình chiến sự kiểu này chắc cũng còn lâu. Lần cuối cùng Y Kron cầm giấy phép về thăm gia đình vợ con chính hắn không nhớ nổi.

Có tiếng súng xa xa vọng lại . Thái nhổm dậy, bảy người lính trong trung đội cũng hành động như anh. Họ chụp lấy súng vào thế tác chiến. Huỳnh Văn Thái, hai mươi bốn tuổi, thiếu úy Nhảy Dù Quân Lục Việt Nam Cộng Hòa. Sĩ quan trung đội trưởng tốt nghiệp khóa 5/69 trường Bộ Binh Thủ Đức với thứ hạng trung bình. Tình nguyện về Nhảy Dù sau khi ra trường. Má đã không dấu được nỗi lo âu khi thấy con mặc đồ rằn ri, đội bê rê đỏ về thăm má. Trước đây khi Thái chưa vào quân trường, bà vẫn tụng kinh gõ mỏ trước bàn thờ Phật ngày ba lần. Số lần tụng niệm tăng lên khi Thái chính thức gia nhập quân đội. Bây giờ, nhìn con trong bộ quân phục thì bà chẳng còn thì giờ để làm gì nữa ngoài việc ngồi suốt trước bàn thờ khấn xin cho con được bình an. Thái thương mẹ, nhưng biết làm sao? Anh yêu điều anh đã lựa chọn. Ba anh,bình tĩnh hơn, chỉ khuyên anh nên cẩn thận.“Thưa ba, con biết, nhưng đạn tránh mình chứ mình làm sao tránh được đạn?” Thái nhớ má, nhớ những lần về phép nhìn thấy mặt má vui lên, má cứ tíu tít quanh anh hỏi han dồn dập “Có mệt không con, có đói không con, con về bao lâu?” Má không muốn anh trả lời, má chỉ muốn anh cảm nhận tình mẹ thương trào ra từ trái tim của má .

Thế nào rồi má cũng nấu cho anh nồi canh chua thật nhiều ớt như anh vẫn thích. Má ơi, con nhớ má quá.

Thái không thể quên được gương mặt buồn rầu lo âu của má ngày anh phải trở về đơn vị. Anh ôm má thật chặt, anh không muốn nhìn thấy má khóc, bởi vì anh biết mình cũng sẽ khóc theo. Thiếu úy Nhảy Dù không thể mềm như con gái. Thằng em anh cứ quấn lấy anh, nó không nói gì hết, nhưng anh nhìn thấy ánh mắt đầy ngưỡng mộ của nó. Nó thích đội bê rê đỏ trên đầu. Rồi đây nếu chiến tranh còn kéo dài, mà sẽ còn phải khóc để đưa thêm một đứa con vào trận chiến.

Cả trung đội căng mắt nhìn trước mặt. Bảy người lính Nhảy Dù cùng với trung đội trưởng của họ sẽ giữ vững phòng tuyến cho tới viên đạn cuối cùng. Nhảy dù cố gắng, họ đã cố gắng tới tận cùng từ ngày đội lên đầu chiếc mũ đỏ. Cố gắng nằm chịu dưới mưa đạn pháo kích của việt cộng, cố gắng lấy một chống mười trên những trận tuyến máu tràn mặt đất. Cố gắng cõng bạn bị thương chạy về đơn vị khi bị tràn ngập. Còn một hơi thở lính Nhảy Dù còn phải cố gắng. Việt cộng biết điều này, họ vẫn cố tránh nếu có thể để khỏi đụng với Nhảy Dù. Đường xâm nhập từ Bắc vào Nam có ba điều làm họ sợ hãi: B52, Biệt Cách Nhảy Dù và Nhảy Dù. Sinh Bắc Tử Nam là điều chắc chắn nếu lính Cộng Sản gặp một trong những hung thần trên.

Một gương mặt thoáng hiện lên trong đầu óc Thái. Hồ thị Cẩm Vân, sinh viên Chính Trị Kinh Doanh năm thứ hai Viện Đaị Học Đà lạt. Họ gặp nhau tình cờ, yêu nhau tình cờ và nay thì xa nhau cũng rất tình cờ.Thái không biết bây giờ Vân và gia đình đang ở đâu kể từ ngay cả miền Nam phải di tản chiến thuật. Lúc trước phương tiện liên lạc giữa họ là thư từ, nầy thì không còn nữa. Vân mảnh mai như một dải lụa, giong nói miền Trung xứ Huế ngọt ngào. Có lần Thái hỏi đùa : ”Anh Nam Kỳ giá sống, em Trung Kỳ mắm ruốc, vậy mai mốt con mình nó sẽ là cái gì .. kỳ? chắc nó sẽ kỳ cục quá!!” “Ơi anh nầy, ốt dột quá“ Vân dẫy nẫy.

– Coi lại cây M72 của mày đi Thạch Sơn, tụi nó có tăng đó.

Thạch Sơn cười, tay lắc lắc chiếc nanh heo :

– Ông thầy khỏi lo, tui nhắm không có trật mà

– Dm thằng nào ngon dô đây!- tiếng thằng Hưng phụ họa.

Cả trung đội mấy chục người nay chỉ còn có tám thầy trò với nhau. Thái nhớ thằng Hòa, tình nguyện ở lại cản đường , chỉ kịp quẳng hai trái lựu đạn nổ được một băng M16 thì chết. AK cày nát ngực nó. Hòa chết, mặt nhăn nhó thảm hại, nằm chàng hảng giữa đường. Bạn bè cố gắng đào một lỗ cạn chôn tạm. Trung đội mất liên lạc, tự tìm lấy cho mình phương thể ứng xử. Giờ thì chỉ có một con đường – Mầy ngon mầy dô đây – Thái nghiến răng. Anh kiểm tra lại vũ khí. Mỗi người lính Dù còn lại bốn băng , hơn chục trái lựu đạn, hai M72, một M60 với hai dây đàn. Vậy là có đủ vốn để chơi rồi. Kỳ này thế nào anh cũng có lời.

” Mở liên lạc coi, …” Thái hy vọng sẽ còn một cấp trên nào, một đơn vị nào có thể liên lạc được. Ít nhất lúc đó anh sẽ dễ tính toán hơn. Tiếng se sẻ từ máy PRC25 của thằng Minh vẳng ra khi nó đang cố dò tần số.

Bỗng nhiên từ máy phát ra tiếng nói “ Tôi Dương Văn Minh .Yêu cầu anh em bỏ súng chờ bàn giao…” Cái gi?..Thái la lên ” Vặn lớn lên coi Minh …Chờ bàn giao….” Thằng Cậy mếu máo :

– Mình thua rồi thiếu úy ơi ,

Thằng Hưng hét lên :

– Thua cái con C. – nước mắt nó chạy dài trên gò má.

Thạch Sơn quăng ca cà-phê mặt tái mét. Thái cảm thấy lùng bùng lỗ tai. Cái gi? Thua à? thua việt cộng à? đã đánh đâu mà thua? anh nhớ tới những người lính trong trung đội đã chết, anh nhớ tới Hoa ,tới Bằng, tới Tốt. Máu anh căng tràn trong cơ thể. Anh ước anh có thể nổ một phát súng vào đầu Dương Văn Minh

Thái hit một hơi dài cố lấy lại bình tĩnh. Tính mạng của bảy người lính còn lại ở trong tay anh. Thượng sĩ Năm lo lắng hỏi “Tính sao thiếu úy?” “ Còn tính sao nữa, buông súng đầu hàng thôi “ Thái gắt gỏng. Thật ra anh đã có một lối thoát cho chính mình. Anh thở dài, nhìn mấy người lính “ Tụi bay lại đây “. Họ quây quần chung quanh anh. Thái bình tỉnh nói :

– Tụi bây nghe rồi đó, mình là lính, lệnh trên sao thì mình phải theo. Giờ phút này mình thua rồi, tụi bây bỏ súng xuống, rồi thằng nào muốn về nhà thì cứ đi. Không ai chỉ huy ai nữa.Tụi bây hiểu chưa?

– Ơ tui không biết cái đầu hàng a, tui ghét việt cộng, tui đánh chết việt cộng, tui không đầu hàng , Ykron lên tiếng.

– Giờ phút này tao hết trách nhiệm, tụi bây cứ về nhà

– Vậy còn thiếu úy tính sao? Thằng Minh mếu máo

– Tao ở lại. Dm bắn hết đạn tao tự xử tao

– Em theo ông thầy, – thằng Minh la lên.

Thằng Hưng cười toe toét :

– Ông thầy, cho em bắt tay cái, mình Nhảy Dù mà ông thầy.

Thằng Cường rút trái lựu đạn ngắm nghía :

– Thua việt cộng nhục lắm ông thầy, còn mày, mày tính sao Sơn?”

Thạch Sơn lẩm bẩm :

– Ai sao tui vậy

– Rồi ai làm bậy mày cũng làm theo hả Sơn? Cường cười toe toét. Đến nước này mà nó vẫn còn giởn đuoc.

Thái nghiêm nghị :

– Anh em hãy suy nghĩ cho kỹ, phần tôi thì xong rồi, nhưng anh em còn có gia đình để lo. Tôi không muốn vì tôi mà anh em suy nghĩ ẩu tả. Lần đầu tiên Thái gọi họ là anh em và xưng tôi.

– Tôi chọn màu áo này để chiến đấu, tôi cũng sẽ chết với màu áo này. Tôi không thể đầu hàng, không chịu thua

– Lính Nhảy Dù đâu có chịu đầu hàng , ông thầy. Thằng Minh nói.

Thái quay sang thượng sĩ Năm :

– Còn phần anh , về với vợ con anh đi anh Năm, và bỏ qua cho những gì mà tôi đã làm anh buồn

— Thiếu úy, thật sự tôi khuyên thiếu úy và anh em suy nghĩ cho kỹ. Còn đánh đấm gì được khi lãnh tụ tối cao đã đầu hàng. Nhưng thật tình mà nói, tôi không thể bỏ anh em. Cả trung đội như huyết nhục của tôi, nay chỉ còn lại mấy mạng, làm sao tôi bỏ đi được. Tùy thiếu úy, nếu ông ở lại, tôi cũng ở lại.

Cả đám nhao nhao sau lời nói của Nguyễn Năm, Thượng Sĩ Nhảy Dù bị thương tích, nhưng vẫn sống sót qua bao trận đánh “ Chơi tới luôn đi thiếu uý “.

Thái đưa mắt nhìn, giọng anh đầy xúc động:

– Cảm ơn anh em, Nhảy Dù Cố Gắng

– Nhảy Dù Cố Gắng ,cả nhóm hét lên.

Thái vạch kế hoạch :

– Sức mình có thể chơi dài dài được, mình nằm đây chờ nó. Hễ xe tăng nó vô thổi cho hai trái M72. Cứ dùng lựu đạn khử mấy thằng tùng thiết. Tập trung hỏa lực M60 với M16, nhưng đừng phí đạn dược. Làm được không tụi bây?

– Nhảy Dù Cố Gắng mà ông thầy.

Thái căng mắt nhìn về phía trước. Anh đã quyết định và tự nhiên anh cảm thấy thanh thản. Anh chưa từng tâm sự với ai về lý do anh đã chọn Nhảy Dù. Anh đã nhìn thấy những người lính Mũ Đỏ chiến đấu như thế nào trong trận Tết Mậu Thân. Anh cũng đã nhìn thấy hình ảnh những người lính Dù miền Nam, binh chủng mà bọn Việt cộng vẫn tuyên truyền thích ăn gan uống máu tù binh, đút từng miếng bánh cho VC bị bắt, đốt cho họ từng điếu thuốc. Tính chiến đấu dũng mãnh làm địch khiếp sợ nhưng lại rất nhân đạo khi đối phương đầu hàng đã làm Thái cảm phục và ngưỡng mộ. Anh chọn chiếc nón đội trên đầu, anh phải bảo về danh dự cho chiếc nón đó

Tám người lính chờ đợi. Họ không nhìn thấy quân thù tiền về hướng họ. Anh không thể chờ đợi mãi, anh cũng không thể buông súng. Anh chỉ còn một cách:

– Anh em sẵn sáng chưa?

– Sẵn sàng rồi thiếu úy

– Lời cuối tôi muốn nói với anh em: Tôi cảm ơn anh em đã theo tôi đến tận giờ phút này. Nước mình đã mất, tôi đã không làm tròn bổn phận với Tổ Quốc Dân Tộc. Tính khí tôi cũng không cho phép tôi đầu hàng chịu nhục với kẻ thù. Nay tôi chọn cho riêng tôi cái chết để đền nợ nước. Thái ngắt lời, giọng anh run run vì xúc động “ Tôi biết anh cũng có cùng ý nghĩ, nhưng giờ phút chót anh em vẫn có quyền quyết định ,và bất cứ quyết định nào của anh em tôi cũng tôn trọng. Tôi không oán trách anh em gì hết.

– Em theo ông thầy ,Thằng Hưng mếu máo

– Em cũng vậy ,

Thằng Cậy, thằng Cường tiếp lời.

– Còn tao ,t ụi bây bỏ đi đâu?

Tới phiên Tăng Thien Minh, người Việt gốc Hoa, nhà có của ăn của để, nhung khoái làm “Nhảy Dù” hơn lính kiểng

– Ơ, tui thương cái ông thầy ,cái ông thầy đi đâu tui theo đó,

Y Kron quả quyết.

– Chết thì thôi, sợ gì ,

Thạch Sơn mân mê chiếc nanh

– Đây là lần đầu tiên tôi thua mấy thằng việt cộng ,thiếu úy . Thượng Sĩ Nhảy Dù Nguyễn Năm uể oải.

– Được rồi, vậy anh em quây quần lại đây ,Thái nói, giọng anh tỉnh táo đến đáng sợ:

– Tôi sẽ đếm một hai ba rồi tôi sẽ rút chốt hai trái lựu đạn. Đó là cách cuối cùng anh em mình sẽ đi với nhau. Anh em đồng ý không?

Bảy người lính gật gù, họ tự động làm thành một vòng tròn, người nầy sát với người kia. Đến phút cuối họ vẫn còn muốn ôm được nhau trong vòng tay.

Thái nhớ đến má, nhớ đến ba, nhớ đến đứa em trai. Hết rồi nhóc ơi, hết còn cơ hội đăng lính Nhảy Dù, hết còn cơ hội đội nón bê-rê đỏ. Chăm sóc ba má dùm anh nha nhóc. Ba ơi má ơi, con sẽ về thăm ba má trong mơ. Vân ơi, anh yêu em.

Thượng Sĩ Nguyễn Năm chợt nhớ kỳ lương tháng này ông đã kịp gởi về cho bà xã. Vậy là mẹ con nó cũng ấm cúng. Ông không buồn, ông chỉ hận vì bao nhiêu năm đánh nhau đây là lần đầu tiên ông thua trận.

Binh nhất Tăng Thiên Minh mỉm cười. Ít nhất cũng được chết trong quân phục Nhảy Dù. Minh nói thầm với má “ Má à, con dề dồi nè, má đừng khóc nữa”

Binh nhất Trần Ngọc Hưng cười toe toét ” Giởn chơi sao em , anh đâu có đào ngũ, bỏ bạn bè với ông thầy của anh được. Không sao, anh sẽ về thăm em luôn, nhớ chăm sóc ba má dùm anh”

Hạ sĩ Nguyễn Cậy đọc một kinh Lạy Cha, ba kinh Kính Mừng một kinh Sáng Danh để Vinh Danh Thiên Chúa “ Lạy Chúa con ,con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa. Xin Chúa gìn giữ thầy mẹ con. Ave Maria con yêu kính mẹ.”

Binh nhì Nguyễn Văn Cường. chợt nhớ mình còn thiếu tiền hai ly cà phê đá chưa trả lần dưỡng quân kỳ trước. Bé Ba ạ, thông cảm cho lính đi em.

Hạ sĩ nhất Ykron mắt bâng quơ nhìn xa xa, miệng thì thầm lời hát quê hương rừng núi . Trong đầu người lính Thượng chất phác chỉ hiện lên ý nghĩ “ Ơ tui ghet viet cong”

Trung Sĩ Thạch Sơn mân mê chiếc nanh heo rừng “ Tao sẽ đầu thai trở lại để chơi tiếp với tụi bay”

Tiếng đếm của Thiếu úy Nhảy dù Huỳnh Van Thái, hai mươi bốn tuổi đời , ba tuổi lính hãnh diện dã chiến đấu tới cùng cho Tổ Quốc bang Danh Dự và Trách Nhiệm nghe rõ mồn một “ Một, hai, ba…”. Và đến tiếng thứ ba, anh rút chốt luu đạn…

nguoiviettudo

User avatar
nangchieu
Posts: 2053
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Image

Hãy cùng nhau hãnh diện mình là công dân Việt Nam Cộng Hòa!

Nguyễn Trọng Dân

(Danlambao) - Ngày kỷ niệm 43 năm Quốc hận 30 tháng Tư năm nay mở ra một bước tiến mới cho tinh thần Việt Nam Cộng Hòa.

Lần đầu tiên tại Dinh Độc Lập, vào năm nay, người ta thấy có triển lãm di tích của cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng với nhiều bài viết bàn về sự thăng trầm của dinh Độc Lập. Cuộc triển lãm này đem đến nhiều chi tiết, sự thật về Việt Nam Cộng Hòa trong nỗ lực ngăn cản thảm họa Cộng Sản. Khác với cuộc triển lãm “Cải Cách Ruộng Đất” vào bốn năm trước tại Hà Nội, do bị nông dân khiếu kiện đất đai ồ ạt tràn về biểu tình khiến phải đóng cửa sớm, cuộc triển lãm về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Dinh Độc Lập có thể kéo dài đến thêm hai năm nữa.

Những di ảnh về gia đình cụ Diệm thể hiện một niềm hãnh diện về bản sắc dân tộc, về ý chí tự cường và ước vọng tự do hòa bình phú cường của dân tộc Việt trước mắt mọi người. Từ cuộc triển lãm này, giới trẻ ngày nay tự nhiên lại hỏi, "tại sao Hồ Chí Minh chưa bao giờ bận đồ quốc phục mà chỉ bận đồ cán Tàu? Đứng đầu một nước mà sao kỳ vậy?"

Di ảnh về gia đình cụ Diệm trong Dinh Độc Lập còn mở ra ánh sáng cho mọi người thấy về nỗ lực của cụ Diệm khi tìm cách an cư lạc nghiệp hàng vạn người dân miền Bắc di cư vào Nam tỵ nạn Cộng Sản sau năm 1954.

Ước tính có khoảng hơn 800 ngàn người miền Bắc đã di cư vào Nam sau năm 1954.

Một miền Nam nông nghiệp đã quá thành công trong việc khai điền lập ấp cho hàng vạn người dân miền Bắc tị nạn Cộng Sản, di cư vào Nam sau Hiệp Định Geneve 1954. Hơn 43 năm, người ta thấy các vùng kinh tế mới XHCN vắng bóng, đổ vỡ và nghèo sơ xác nhưng các làng mạc của người Bắc di cư năm 1954 vẫn sầm uất ở miền Nam Việt Nam cho đến bây giờ.

Dinh điền Cái Sắn được cụ Diệm thiết lập cho hơn 45 ngàn người, hầu hết nghề nông với nhiều chợ búa được dựng lên, ngay ở các đầu kinh như kinh A, kinh B, kinh Tân Hiệp, kinh Cái Sắn. Nam Bắc sống chung một nhà, hơn 60 năm qua, trong đó có 43 năm trầm mình trong Quốc Hận, vùng dinh điền này vẫn trù phú, người dân vẫn một lòng chờ đợi ngày CNXH bị xóa sổ.

Còn Hố Nai thì sao?

Từ một vùng đất nóng, không người ở, nhờ nổ lực giúp đỡ của chính phủ Ngô Đình Diệm đối với người di cư an cư, đã trở thành một vùng đất sinh sống trù phú cho đến giờ này; góp phần không nhỏ trong việc đánh gục nền kinh tế bao cấp XHCN Mác Lê mà CSVN áp đặt lên đầu lên cổ người dân Việt Nam Cộng Hòa từ năm 1978 đến hết năm 1990.

Hố Nai được thành lập vào khoảng năm 1957 bởi chính phủ Ngô Đình Diệm, đến nay là đã 61 năm. Người dân sống ở Hố Nai hiếu khách, cần cù chịu khó, cương quyết giữ vững truyền thống dân Việt.

Vào giai đoạn mà CSVN gọi là “Quá Độ,” chiếc áo dài quốc phục Việt Nam bị vắng bóng, bị dẹp hẵn ở mọi công sở, trường học, đường phố, chợ búa nhưng ở Hố Nai thì không! Người ta vẫn thấy hàng trăm giáo dân trong tà áo dài đi lễ mỗi sáng hoặc cuối tuần ở Hố Nai, bất chấp CSVN đang đẩy đời sống người dân Việt Nam Cộng Hòa đi vào cùng cực nghèo khó đến mức nào.

Hố Nai nổi tiếng với đủ mặt hàng tiểu thủ công nghệ và nông nghiệp như các loại thùng thiếc, bánh đa, bánh phở, mì sợi khô, bán rộng khắp các tỉnh thành miền Nam, nhất là ở Sài Gòn. Đó là chưa kể chợ búa, mua bán giao thương vô cùng nhộn nhịp. Việt Cộng không thể nào dẹp được Hố Nai mà phải nương theo sức sống kinh tế và danh tiếng của Hố Nai để lấy thuế mà nuôi cán bộ đảng viên.

Nếu đem so sánh Hố Nai với các khu kinh tế mới của CSVN đặt lên miền Nam sau năm 1975, thì rõ ràng, Hố Nai là một chiến thắng vinh quang không cần tiếng súng của Việt Nam Cộng Hòa trước chủ nghĩa CS trong con mắt người dân.

Ngã Ba ông Tạ, Tân Bình, Long Khánh, và còn bao nhiêu địa danh định cư khác được hình thành dưới thời cụ Diệm, suốt bao nhiêu năm qua, những nơi này vẫn vươn lên trù phú, đời sống kinh tế sinh động bất chấp khó khăn trù dập cướp bóc của CSVN.

Bốn mươi ba năm qua, các vùng "kinh tế mới" của CSVN đã chết!

Bốn mươi ba năm qua, nền kinh tế Quá Độ XHCN cũng đã chết!

Bốn mươi ba năm qua, nền kinh tế "định huớng XHCN" đang giãy chết!

Đến sau cùng, chỉ có nền kinh tế Việt Nam Cộng Hòa, một nền kinh tế theo định hướng dân tộc: tự do, công bằng và phú cường cho mỗi người dân thì vẫn sống. Sống trong thực tế khó khăn, sống ở tương lai đầy triển vọng!

Bốn chữ "Việt Nam Cộng Hòa" cũng đã thay thế dần ngôn từ xảo trá "Mỹ ngụy" mà CSVN cố nhồi sọ giới trẻ, giới trí thức trong nước bấy lâu nay qua mọi hệ thống báo đài, sách vở. Giới trí thức XHCN đành lòng bẽ bàng mà buộc phải "nhìn vào sự thật."

Khi tiếng súng lặng yên, dối trá và chính nghĩa không thể nào nhầm lẫn được nữa! Chiếc xe tăng T 54 đã thúc thủ trước sự thật, sự thật về một Việt Nam Cộng Hòa can trường đương đầu với hỏa lực của toàn khối XHCN để cưu mang duy trì vẻ đẹp của làng quê, tình tự yêu thương dân tộc trước thảm họa Cộng Sản.

Cũng sau đúng 43 năm, sự trở lại của HKMH Carl Vinson tại Đà Nẵng, với hình ảnh các quân nhân Hoa Kỳ hát hò kêu gọi "nối vòng tay lớn" đầy thân thiện càng làm cho cả một hệ thống lý luận tuyên truyền về tội ác "đế Quốc Mỹ" bị đổ vỡ. Giới trẻ Việt Nam đã bắt đầu nêu lên câu hỏi về bản chất của sự "giải phóng", nhất là hiện trạng thuyền nhân Việt Nam sau năm 1975 kéo dài với cả triệu người Việt bỏ xứ. Ai thật sự là tay sai của ngoại bang đây khi đảng ta đã hy sinh bao nhiêu thế hệ trẻ để đánh Mỹ cho Chủ Nghĩa Xã Hội, cho Liên Xô và Trung Cộng?

Cũng trong năm nay, Tổng thống Trump đã tuyên bố lấy ngày 7 tháng 11 chính thức làm ngày tưởng niệm các nạn nhân của Cộng Sản. Lời tuyên bố này của một vị tổng thống Hoa Kỳ là sự thừa nhận một cách gián tiếp giá trị cống hiến và hy sinh của dân tộc Việt Nam Cộng Hòa cho hòa bình của thế giới tự do không Cộng Sản. Sự phản bội lầm lẫn của Hoa Kỳ trong quá khứ đối với Việt Nam Cộng Hòa không còn có thể giấu nhẹm hay lấp liếm được nữa! Sự phản bội này sẽ đi vào sử như là một bài học quý giá cho hậu thế, mà ý nghĩa lớn nhất của bài học này là họng súng và mưu mô không thể chôn lấp được khát vọng chính nghĩa của tự do và quyền tự quyết dân tộc của bất cứ dân tộc nào. Chỉ khi Việt Nam Cộng Hòa được phục hồi lại, thì các giá trị căn bản của nhân bản, danh dự của Hoa Kỳ mới thực sự được khôi phục.

Tranh chấp tại biển Đông đang gia tăng, tranh chấp mậu dịch Mỹ -Trung đang gia tăng, kỹ thuật kỹ nghệ của Hoa Kỳ đang bị Trung Cộng trộm cắp từng ngày. Các nguyên tắc mậu dịch căn bản đang bị Trung Cộng lừa đảo thay đổi. Hoa Kỳ nay đã chính thức coi Trung Cộng là kẻ thù nguy hiểm nhất của mình. Nhiều hậu quả tai hại nghiêm trọng khác về an ninh quốc phòng do Trung Cộng gây ra cho Hoa Kỳ ngày hôm nay khiến Hoa Kỳ phải trả giá rất đắt. Những hậu quả này là hệ lụy của sự phản bội Việt Nam Cộng Hòa gây ra! Bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hòa lương thiện chí tâm chống đỡ Cộng Sản để dung dưỡng Trung Cộng. Nay quả báo đã hiện rõ! Cũng vì vậy, lời tuyên bố của tổng thống Trump chính là một sự nhìn nhận sai lầm của nước Mỹ trong quá khứ! Phe phản chiến đã biến mất, giới truyền thông giối trá đã im lặng. Ác nghiệp của quá khứ nay thành quả báo. Hơn bao giờ hết, giá trị chính nghĩa và hợp pháp hợp hiến của Việt Nam Cộng Hòa trước công pháp thế giới đang mặc nhiên hiện rõ, không còn là những dự đoán bàn luận mơ hồ nữa. Cái gì của Việt Nam Cộng Hòa thì phải trả lại cho Việt Nam Cộng Hòa!

Suốt bốn mươi ba năm, nhạc của Việt Nam Cộng Hòa lan khắp các hang cùng ngõ hẻm của Việt Nam. Giới nghèo khó hát rong trên khắp các nẻo đường Việt Nam ngày nay hát toàn nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa hay nhạc Vàng Việt Nam Cộng Hòa kiếm tiền mưu sinh qua ngày. Không có một bài nhạc tuyên truyền nào của CSVN được đem ra hát giữa chợ đời xin chút từ tâm bố thí cả! Nếu hát loại nhạc này thì không ai cho tiền cả! Phải chăng nền văn hóa Việt Nam Cộng Hòa đã và vẫn còn tiếp tục cưư mang những thân phận nghèo khó trong tình tự của dân tộc.

Có đôi khi chúng ta phải tự hỏi, phải chăng những người nghèo khó hát dạo này là Bồ tát hóa thân, đứng khắp đường phố ở Việt Nam, từ Nam chí Bắc, giữa trời trưa nắng gắt, hát nhạc lính Việt Nam Cộng Hòa không mệt mõi cho mọi người nghe đề hồn nước được mãi còn, đề tình người được mãi gìn giữ, để văn hóa nước nhà không bị phôi phai? Những người đi ngang cho tiền, ai cũng có bộ mặt ngậm ngùi trắc ẩn, trắc ẩn vì cái nghèo của người hát dạo hay trắc ẩn cho chính mình chưa nhìn thấy hồn nước sống dậy, chưa nhìn thấy tình tự và chính nghĩa Việt Nam Cộng Hòa sống dậy?

Bốn mươi ba năm trôi qua, những ai nằm xuống thì đã nằm xuống, những ai còn thì vẫn tiếp tục đấu tranh bảo vệ tình thần Việt Nam Cộng Hòa, thế hệ sau tiếp thế hệ trước, một quyết tâm đấu tranh mà nhà tù hay hệ thống tuyên truyền CNXH không thể nào lay chuyển được. Nước chảy đá mòn, trong khi chủ nghĩa CS cứ mỗi ngày bị bêu rếu, tàn lụng dần trong xã hội, thì ánh sáng trong tâm thức về Việt Nam Cộng Hòa cứ mỗi ngày mỗi nhân rộng. Nhân rộng từ giới nghèo đến giới giàu, từ dân đến đảng viên, từ Nam ra Bắc.

Chồng chất với nhiều căng thẳng thanh trừng đấu đá nội bộ vì tiền tài, quyền lực, đảng CS đã làm mất dần niềm tin ở quân đội, ở CA. Những người lính tại ngũ sẽ tự hỏi tại sao họ phải chiến đấu để bảo vệ đảng thay vì bảo vệ dân tộc. Một khi cả dân tộc đã quen dần với việc đặt câu hỏi, thì sự vô tri bắt đầu bị đổ vỡ. Toàn bộ đảng Cộng Sản VN ngày nay như con rắn già nằm bất động chờ bị toàn dân vùng lên tiêu diệt.

Hàng loạt các vụ bắt bớ những ai đấu tranh đơn độc không làm giảm đi ảnh hưởng ngày một lớn mạnh Việt Nam Cộng Hòa. Việc anh Dũng ra tòa bận đồ có biểu tượng cờ Vàng với hàng chữ " it's in my DNA" càng cho thấy CS đã không còn hy vọng gì để có thể chôn sống Việt Nam Cộng Hòa trong nhận thức của người dân Việt được nữa.

CSVN lầm tưởng nghĩ rằng sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa là nhờ vào họng súng.

Không! Sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa nằm ở nhận thức, nằm ở khát vọng nhìn thấy Việt Nam tự do, tự cường và công bằng cho mỗi người dân!

Sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa nằm ở tình thương dân tộc và văn hóa!

Với năm tháng, chiếc xe tăng T54 ủi sập dinh Độc lập vào ngày 30 tháng Tư năm 1975 sẽ nằm bất động như mộtđống sắt vụn vì dân tộc Việt Nam không cần chiến thắng của chủ nghĩa Mác Lê, mà ngược lại dân tộc này đang cần thấy ngày quật khởi thật sự của Việt Nam Cộng Hòa, một sự quật khởi từ cõi vô tri để tìm về nhận thức, một sự quật khởi từ hung ác để tìm về tình thương dân tộc đầy thánh thiện, một sự quật khởi của những người con Việt Nam từ gông xiềng độc tài để lấy lại tư do dân chủ và công bằng.

Bốn mươi ba năm, CSVN đang hấp hối và lần đầu tiên, ngày Quốc Hận năm nay cho chúng ta thấy sự trở lại của Việt Nam Cộng Hòa không còn là một hy vọng, một giấc mơ mà là điều đang đến, sẽ đến và không còn có thể cản lại được nữa!

Việt Nam Cộng Hòa muôn năm!

“In front of the Yellow flag, we believe!”

Hãy cùng nhau hãnh diện mình là Công dân Việt Nam Cộng Hòa!

01.05.2018

Nguyễn Trọng Dân
danlambaovn.blogspot.com

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

MỘT TRUNG ĐỘI TRƯỞNG NGHĨA QUÂN Rất vui được nói chuyện với chú. Chú có thể cho biết tên tuổi, cấp bậc, đơn vị
– À , tôi tên Nguyễn Văn Ba, Trung Đội trưởng Nghĩa Quân, sáu mươi sáu tuổi
– Ngày 30/4/75 chú còn ở trong quân đội ?
– Tới ngày 6/5/75…
– Nghĩa là chú vẫn cầm súng sau 30/4/75 ?
– Tụi tôi vẫn chiến đấu mặc dù đã biết có lệnh đầu hàng
– Chú nghĩ gì về cuộc chiến tranh VN ?
– Rất đơn giản : bên mình (VNCH) phải tự vệ vì bị bên kia (VC) tấn công. Hễ buông súng là chết….
– Chú có thể giải thích rõ hơn một chút
– Tụi nó đánh mình, phá hoại nhà cửa đất nước mình, bổn phận mình là phải chống trả để tự vệ. Cũng giống như bị cướp vào nhà, mình không muốn vợ con bị hại thì mình phải chống lại.
– Nhiều người cho rằng chiến tranh VN là chiến tranh ý thức hệ, chú nghĩ sao ?
– Ý thức hệ cái con mẹ gì. Lính VNCH chiến đấu để tự vệ, chiến tranh ý thức hệ là sản phẩm của mấy cha mấy mẹ trí thức chồn lùi, sa lông. Mấy cha mấy mẹ muốn chứng tỏ mình học giỏi , thông minh hơn người khác nên chế ra vụ ý thức hệ để hù con nít…
– Vậy đánh nhau giữa Bắc Việt và Nam Việt không phải do ý thức hệ ?
– Để tôi cho em một thí dụ dễ hiểu: nếu Cộng sản miền Bắc (CSMB) không xúi dục đám Giải phóng miền Nam (GPMN) và không đưa lính vào phá miền Nam liệu chiến tranh có xảy ra hay không ? Nếu tụi nó cứ ở yên ngoài đó mà xây dựng chủ nghĩa Cộng Sản, dân miền Nam có đi lính không ? Trả lời được câu này em sẽ thấy chẳng ý thức hệ con mẹ gì hết !
– Có người lại cho rằng chiến tranh VN là nội chiến, chú đồng ý không ?
– Theo suy nghĩ của tôi nội chiến là người cùng một nước đánh nhau vì tranh dành hay bất đồng gì đó. VNCH và VNDCCH (CSMB) là hai nước độc lập đâu phải anh em trong nhà .
– Nói về anh em trong nhà lại có người cho rằng miền Nam và miền Bắc đánh nhau theo kiểu huynh đệ tương tàn. Chú nhận xét thế nào ?
– Đó là ý nghĩ của đám trốn lính . Tụi nó là thứ hèn nhát sợ chết nên phải chế ra vụ huynh đệ tương tàn để từ chối đi lính . Tụi nó nại cớ không muốn bắn vào anh em.
– Một người viết cho rằng VNCH điên cuồng chống Cộng. Tác giả này còn đưa ra hình ảnh của hai nhân vật mà tác giả gọi là đại diện của hai quân đội. Một anh tên Lưu Quang Vũ lính miền Bắc , và Nguyễn Bắc Sơn của VNCH. Tôi xin phép đọc thơ của cả hai cho chú nghe (đọc thơ)…
– ĐM thằng nào viết ngu vậy ?
– Chú có vẻ tức giận… xin cho biết lý do…
– VNCH mà điên cuồng chống Cộng thì đâu có chính sách chiêu hồi, đâu có bắt tù binh cả trăm ngàn nuôi ăn cho mập rồi trao trả ? thằng cha này chắc chưa bao giờ cầm súng ! Cũng chưa bao giờ biết rõ về VC. Chú em về biểu chả đọc bài của Trần Đức Thạch, cựu lính trinh sát VC về vụ thảm sát ở miền Đông. Hèn gì VNCH mất sớm chỉ vì còn có nhiều người quá khờ khạo và ngu xuẩn. Cha tác giả này chắc không biết vụ tết Mậu Thân, Đại Lộ Kinh Hoàng… Tui nói cho chú biết VC được chính huấn là đằng trước mũi súng của tụi nó kể cả con gà con chó đều là kẻ thù. Cho nên chúng giết dân vô tội không gớm tay. Được bao nhiêu người trong lính VC giống như ông Lưu Quang Vũ nào đó ? còn cha Nguyễn Bắc Sơn làm thơ để giải sầu chứ đâu có sĩ quan nào đem bi đông rượu đi hành quân. Lính khát nước cần nước chứ đâu cần rượu, hơn nữa giữa trận tiền mà say rượu thì chỉ huy sao được ? Mạng sống của lính nằm trong tay mình, đâu có giỡn được ?
– Xin phép hỏi chú câu khác : chú có thể kể lại diễn biến những ngày cuối cùng tại sao chú vẫn còn cầm súng cho tới sau 30/4 ?
– Tôi là Trung đội Trưởng Nghĩa Quân. Nhiệm vụ của tôi là đóng đồn ở địa phương. Có mười tám anh em dưới quyền tôi.. Ngày đầu hàng tôi biết tụi du kích sẽ không tha mạng nếu bị bắt sống , do đó tôi ra lệnh anh em giải tán về nhà. Còn tôi thì xách cây M16 vô rừng . Tôi tính thí mạng cùi nếu bị phát giác trước sau gì cũng chết vậy nên chọn cái chết cho đáng. Trong số mười tám anh em có sáu thằng tình nguyện theo tôi
– Rồi sau đó thì sao ?
– Khi thấy êm êm tôi nói tụi nhỏ giải tán , trốn đi xứ khác đừng trở về nhà…
– Vậy là chú không trở về nhà ? Chú có ân oán gì với du kích địa phương không ?
– Thì chiến tranh mà, tránh sao được….
– Vậy có lần nào chú bắn tù binh khi bắt sống không ?
– Để tôi kể cho em nghe vụ này : một lần lính đi phục tóm được du kích dẫn về trình diện tôi. Thằng du kích cỡ khoảng mười bốn mươi lăm tuổi, nhìn đã thấy ngờ ngợ. Tới chừng hỏi ra mới biết là con trai của thằng Ba Cội…
– Ba Cội là ai vậy ?
– Bạn cùng quê, lớn lên nó theo VC… Nó là Đội Trưởng du kích, tụi tôi thỉnh thoảng cũng chạm nhau..
– Rồi chú xử con Ba Cội ra sao ?
– Xử gì, con nít mà... tôi đá đít , bạt tai nó mấy cái rồi đuổi về . Tôi biểu nó : nói với tía mày có ngu thì ngu một mình đừng xúi dại con mình đi theo… Vụ này ban Hai Chi Khu làm hồ sơ chuyển tôi lên Quận. Cũng may ông Quận biết tánh khí tôi nên vỗ vai cười rồi cho tôi về. Ổng biếu tôi chai rượu nói : Tôi biết anh mà anh Ba….
– Sau này chú gặp lại Ba Cội không?
– Không, Ba Cội chết rồi. Bị Thám Sát Tỉnh dứt…
– Còn con Ba Cội ?
– Nghe nói nó qua Công An bây giờ làm lớn lắm. Thời gian tôi trốn, nó có ghé nhà vợ tôi hỏi thăm . Có cho mấy chục kí gạo. Nghe nói nó có cám ơn tôi ….
– Rồi chú ra trình diện hay bị bắt ?
– Bị bắt. Trốn hoài mệt quá, cũng mấy năm sau nhớ vợ con mò về thăm …
– Chú bị bao lâu ?
– Sáu năm tám tháng mười bốn ngày !
– Vậy sao chú không xin đi HO ?
– HO gì tôi, mình đâu phải sĩ quan, mà chữ Anh chữ U mình đâu có biết gì…
– Sau khi trở về nhà chú có bị khó dễ gì không ?
– Nói thiệt chú nghe, VC nó ghét lính Tổng Trừ Bị (ND, TQLC, BDQ...) một , nó ghét tụi tôi mười. Lính đánh giặc xong rồi rút còn tụi tôi, đây là tài sản vợ con xóm giềng, địa phương mình nên tụi tôi sống chết cũng cố thủ, tụi nó đánh hoài mà không chiếm được. Nó đì tôi sói trán, nhưng mình thua rồi thì cứ làm câm làm điếc mà sống
– Chú có cơ hội nào gặp lại mấy anh em dưới quyền ?
– Có, hai thằng em giờ nghèo lắm, còn ba thằng đi vượt biên. Tội nghiệp, huynh đệ chi binh thỉnh thoảng hùn tiền gởi về cho mấy đứa nghèo.
– Họ có giúp chú không ?
– Có, mà tôi không nhận. Vợ con buôn bán cũng sống được, để dành cho mấy đứa em khổ hơn mình
– Xin phép chú được hỏi một câu về chính trị: Có vài người đang hô hào hòa hợp hòa giải với VC chú nghĩ sao ?
– Tôi cảm ơn chú em đã tôn trọng mà hỏi tôi , cỡ TĐT Nghĩa Quân học hành bao nhiêu . Nhưng như tôi đã nói hòa hợp hòa giải là anh em trong nhà có chuyện xích mích mới ngồi xuống mà nói chuyện. Còn đàng nầy nước mình (VNCH) bị nước khác (VNDCCH, CSMB) đánh chiếm thì làm sao mà có chuyện đó. Tôi hỏi chú em : Tàu lục địa đánh chiếm Tây Tạng, Duy Ngô Nhĩ… liệu dân mấy nước đó có chịu hòa hợp hòa giải với Tàu không ?
– Bây giờ nói chơi cho vui một chút, chú biết Nguyễn Tấn Dũng chớ?
– Biết…
– Thí dụ nếu ngày xưa chú đi kích bắt được NTD thì chú làm sao, cha này nghe nói trước đây cũng là du kích mà..
– NTD cũng cỡ tuổi tôi . Hồi đó có bắt được chắc cũng bớp tai đá đít vài cái rồi gởi về cho ban Hai.
– Nếu chú biết trước NTD sẽ là TT sau nầy chú tính sao ?
– Làm sao biết được ? Nhưng như chú em nói nếu có thiên lý nhãn thấy được vị lai tôi sẽ tính cách khác !
– Cách nào chú có thể cho biết…
– Bị mật quân sự mà chú em, làm sao cho biết được …thì cũng cỡ như người nhái Mỹ với Osama Bin Laden vậy thôi
(cười...)
– Vậy chớ bây giờ hỏi vui chú em điều này: đố chú em biết đám mới về hưu kỳ rồi (NTD, TTS, NSH…) đang làm gì ? Bí hả ? Tụi nó đang viết kiến nghị ! Thằng CS nào về hưu cũng giỏi viết kiến nghị hết.
(cười...)
– Cụng ly cái chú Ba..
– Tôi thấy chú lớn tuổi rồi và cũng đã cống hiến phần vụ của mình cho Tổ Quốc . Giả sử bây giờ nếu đất nước (VNCH) cần, chú dám cầm súng trở lại không?
– Già rồi , giờ chỉ nghỉ ngơi vui với con cháu. Nhưng nếu phải chiến đấu để lấy lại đất nước VNCH từ bất cứ ai chết tôi cũng chịu chú à. Súng không nỗi thì cầm dao, bất cứ cái gì….
– Chiến tranh qua rồi giờ nghĩ lại chú có thấy căm thù lính bên kia không ?
– Không, lính chỉ biết theo lệnh. Căm thù là căm thù đám lãnh đạo. Đám này đã lừa gạt lính của nó vào trong nầy chết cả triệu. Cả triệu gia đình ngoài kia mất người thân đến nỗi không có cái xác mà chôn. Hồi đó thiếu gì dịp bắn chết tù binh rồi quẳng xuống sông phi tang mà mình làm không được, ngoài chiến trường bắn nhau thì OK nhưng bắt tù binh rồi tôi chuyển qua cho ban Hai thẩm vấn coi như mình xong nhiệm vụ. Cũng là con người với nhau cũng có gia đình, cha mẹ, vợ con sung sướng gì bắn người đã ngã ngựa ?
– Theo chú những người CS có nghĩ như vậy không ?
– Tôi đã nói rồi, tụi nó được chính huấn coi mỗi thứ trước đầu súng là kẻ thù cần phải giết hết. Thương binh của nó nó còn giết phi tang huống hồ gì lính mình. Bởi vậy mình thua nó vì phía bên mình còn nhân đạo quá !
– Dạo này có nhiều cuộc biểu tình về môi trường mà lượng người tham gia không đông. Có vẻ như dân Saigon rất thờ ơ cho chính tương lai của đất nước và của gia đình họ. Chú có ý nghĩ gì không ?
– Giỡn hoài chú em mày ! Để tôi nói cho chú em mày rõ : dân Saigon thứ thiệt thì hoặc là ở nước ngoài hoặc là chết tù chết biển hết. Còn dân “Saigon“ bây giờ đa số toàn tụi Ba Ke 75. Tụi nầy thừa hưởng biết bao quyền lợi từ “bác" và “đảng“ đâu có ngu gì chống ! Cỡ phân nữa Saigon bây giờ là dân nguyên thủy VNCH thì VC hết nước sống !
– Chắc chú biết chuyến thăm của Obama. Ổng còn ghé ăn bún chả rồi thăm chùa Tàu gì đó ở Saigon…
– Biết chớ, có điều Tổng Thống của chú em đi lộn chỗ ! Đáng lẽ ổng phải ghé mấy cái quán “phở chửi” “cháo mắng” để biết văn hóa của Xã Hội Chủ Nghĩa. Thay vì viếng chùa Tàu ổng nên đi thăm Nguyễn Trường Tô và Sầm Đức Xương (mấy thằng cô hồn các đãng môi giới và mua trinh nữ sinh) để học thêm về “đỉnh cao trí tuệ của loài người”…
– Chú Ba vui quá ! cảm ơn chú về cuộc nói chuyện này. Chú có muốn nhắn gì với anh em không ?
– Ai ?
– Những người lính cùng chung chiến tuyến ngày xưa
– À, vậy thì tôi xin có chút lời : Thưa anh em tôi Nguyễn Văn Ba, TĐT Nghĩa Quân xin có lời chào hỏi anh em mình : Tôi chỉ muốn nói là tôi hãnh diện từng chiến đấu dưới cờ của VNCH như anh em. Tuổi trai trẻ của tụi mình đã không phí phạm. Tôi cũng có nhiều dịp gặp anh em thương binh thỉnh thoảng ngồi uống cà phê, hút điếu thuốc. Anh em coi vậy chớ hãnh diện lắm vì đã cống hiến phần thân thể mình cho đất nước. Khổ thì có khổ, nhưng tới ngày chết tụi tôi còn ở trên quê hương không bao giờ mất đi niềm hãnh diện từng là người lính VNCH. Đi dân nhớ ở dân thương phải không các chiến hữu ?

Post Reply