QUÁN BIÊN THUỲ

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

19/6: nhớ đến những người cầm súng

Image
Cac chien si tieu doan 37 biet dong quan tai phong tuyến khe sanh
nguoiviettudo
Hồi trước năm 75, VNCH có những đơn vị quân đội mà hễ nhắc đến là lính CS e dè, tránh được thì tránh . Những đơn vị này ( Tổng Trừ Bị ) chưa kịp ngồi nóng đít ở hậu phương lại có lệnh nhảy trở vô rừng để giải tỏa, hạ áp lực hoặc truy đuổi. Chuyện thường nhà binh .

Trước khi gia nhập lính Tổng Trừ Bị nhiều khi chỉ là một anh học trò cân nặng trong ngoài chưa quá bốn mươi lăm ký, đi bộ chừng nửa cây số đã thở hồng hộc, vậy mà ra đơn vị khoác lên mình đồ bông mấy cha từ sĩ quan tới binh nhì bỗng trở thành những con cọp rừng , cọp biển hoặc thiên thần. Họ biến đổi hoàn toàn như vậy bởi màu cờ sắc áo, tình đồng đội. Đụng trận chỉ biết thằng trước mặt, đằng sau và hai bên, quên hết cha mẹ vợ con . Chung quanh toàn đám liều thì mình có nhát gan cũng chẳng làm sao khác được. Thằng Năm xung phong liệng lựu đạn vào hầm VC lượm hai AK thì thằng Bẩy cũng đâu có ngán. Mầy dớt AK tao chụp B40 thằng nào cũng có phần.

Thành ra đụng với lính xanh cỏ đỏ ngực , VC tránh voi chẳng xấu mặt nào.

Không phải VC thiếu lính liều , nhưng đa số là con nhà nông suốt đời sống ở đồng ruộng , mới đẻ ra đã thấy ảnh Hồ Chí Minh và những tấm băng ron rực máu. Mẹ nhai cơm đút cho chưa kịp cảm ơn mẹ đã phải cảm ơn bác và đảng trước. Đám này mới trên dưới mười bảy đã tình nguyện ra trận để giết sach Mỹ Ngụy , thỏa mãn căm thù mà lãnh đạo đã tốn bao nhiêu công sức nhồi nhét vào đầu. Khi ra trận chúng cũng húc như những con trâu điên, kiểu tấn công biển người học lóm từ đàn anh Tàu Cộng, kết quả phơi thây như rác khắp chiến trường. Một bên người lớn chín chắn, không quân pháo binh yểm trợ đầy đủ, chiến thuật chiến lược học hành đàng hoàng đánh nhau với một đám con nít điên cuồng cứ xông lên phía trước nhờ thuốc Tàu Hùng Tâm thì bên nào sẽ thắng?

Rất nhiều tác giả viết về lính chính quy hay Tổng Trù Bị của VNCH , nhưng cũng có vài đơn vị khác mà mỗi lần đụng trận VC rất rầu rĩ. Họ là lính “ phân nửa “ ( bán chính quy ), nhưng đụng vào thế nào cũng bị u đầu sứt trán.

Ở phía Bắc Sài Gòn có một đơn vị như vậy. Hồi nằm trại giam tôi gặp sáu anh em Nghĩa Quân đóng chung một đồn. Chúng tôi nói chuyện nhiều với nhau mới biết lý do tại sao VC thù các anh em hơn lính Nhảy Dù. Nghĩa Quân có cái triết lý rất đơn giản nầy : đất của mình, cha mẹ vợ con họ hàng thân thuộc của mình, để tụi nó chiếm được nó giết hết. Mình là đàn ông con trai, cầm nổi cây súng thì cũng phải bảo vệ tài sản vô giá đó bằng bất cứ giá nào.

Nhiều khi bị tấn công anh em cũng rất nao núng vì địch đông hơn và vũ khí ngon lành hơn, nhưng buông súng đầu hàng là tự sát, chi bằng cứ chống cự biết đâu trong cái chết còn tìm ra sự sống. Hầu như lần nào bị công đồn triết lý này vẫn đúng

Thành ra dù với phương tiện vũ khí thô sơ, lực lượng lớn của VC cũng rất khó lòng dứt được đồn bót của anh em. Chỉ có hai mươi tám anh em với nhau nhưng khi đụng chuyện lực lượng trở thành gần một đại đội đủ, “ Nghĩa Quân “ vợ tiếp tay súng với chồng, “ Nghĩa Quân “ con cái lo vận tải đạn dược. Ba lần VC tấn công ba lần thất bại, để lại nhiều xác đồng bọn.

Hồi xưa nếu VNCH đầu tư nhiều vào Nghĩa Quân, tiếp tế đầy đủ cho họ chắc VC hết đất sống. Thiếu thốn phương tiện Nghĩa Quân vận dụng mưu trí và gài bẫy, du kích địa phương kể cả chính quy BV dính chấu bỏ mạng đều đều.

Một đơn vị khác mà sau Mậu Thân mới được thành lập, nhưng cũng ít nhiều gây thiệt hại và khó chịu cho VC là NDTV. Họ chỉ được trang bị thô thiển như Nghĩa Quân nhưng trở thành những tay súng trợ thủ đắc lực một khi chạm địch hoặc tạo ra nhiều khó khăn cho VC trên đường chuyển vận .

NDTV ở những vùng ven đô đã tạo nhiều thành tích chiến công rất đáng tuyên dương . Họ không có lương nhưng biết rất rõ nhiệm vụ của mình, nhất là ở những xóm đạo hoặc chiến khu của các giáo phái .

Như lực lượng NDTV khu vực Hố Nai Gia Kiệm, với carbine M2 thời WWII của quân đội Mỹ đối đầu trực diện trước AK47, B40 thậm chí xe tăng ( 30/4/1975) . Họ chiến đấu như lính chính quy bởi vì nhiều vị chỉ huy là những cựu chiến binh giải ngũ đầy đủ kinh nghiệm và luôn sẵn sàng trong trường hợp có biến

Một câu chuyện khác về Thiếu Sinh Quân. Những cậu nhỏ tình nguyện vào môi trường quân đội và được rèn luyện đầy đủ từ văn hóa tới quân sự để trở thành chiến binh kiểu mẫu sau này. Khi các cậu ra trường , sẵn sàng nhận lãnh trách nhiệm quân đội giao phó nối bước cha ông. TSQ đi trước vào quân đội người nào cũng mang vẽ vang về cho trường mẹ.

Vị “ Anh Cả “ là Thống Tướng Lê văn Tỵ, Tướng năm sao đầu tiên và duy nhất của cả nước. TSQ đối xử với nhau như anh em ruột, ông niên trưởng dạn dày chiến trận chăm sóc dìu dắt “ thằng em “ vừa rời ghế nhà trường . Ai chưa biết câu chuyện của Tr. Sĩ TSQ Vũ Thế Quang ( đàn em) với Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn ( niên trưởng) trong những ngày cuối cùng khi cả hai bị bắt ở hầm chỉ huy nên vào Google để đọc chuyện này, bởi vì những hùng sử như thế không dễ gì bị quên lãng

Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn là Anh Hùng của VNCH, của chúng ta. Dân miền Nam ngưỡng mộ kính trọng ông vì tinh thần Tổ Quốc , Dân Tộc, đồng thời bởi những lời khẳng khái với quân thù, thể hiện rõ tính nhân bản của Quân Lực VNCH . ( “ Nếu chúng tôi chiến thắng, chúng tôi sẽ không đối xử với các anh như những gì các anh đang làm với chúng tôi “)

Một vị cựu TSQ khác cũng rất nổi tiếng là Đại Tá Đặng Phương Thành, người chỉ huy trận đánh thắng hai trung đoàn VC nổi tiếng ở Long An . Đại Tá Thành được ân thưởng Đệ Tứ đẳng Bảo Quốc Huân Chương , vì thế sau này VC đã trả thù ông đến chết bằng cách tra tấn. Anh hùng trong TSQ không ít bởi vì họ đã được tôi luyện bảy năm trời trong trường Mẹ từ khi còn thiếu niên do đó trình độ quân sự chính trị của họ có thể nói dày dạn hơn những người lính bình thường.

Trận chiến cuối cùng ở Vũng tàu là một bằng chứng . Dù không còn sĩ quan hướng dẫn, chỉ huy, như rắn mất đầu, nhưng đàn anh lớp trên đã điều động những chú nhỏ ở các lớp dưới tiếp tục chiến đấu. Cuộc chống trả đơn độc của họ chận đứng hẳn bước tiến quân làm thiệt hại đáng kể đối phương. Lần đầu tiên TSQ đánh nhau với địch , buộc chúng phải bỏ mạng một số trên chiến trường trong giờ phút chúng đã cầm chắc chiến thắng trong tay.

Đâu phải chỉ đánh cho VC sưng đầu bể trán, TSQ còn buộc địch phải chấp hành điều kiện đầu hàng của mình. Điều kiện như thế nào ?

“ Để chúng tôi nghiêm chỉnh chào Quốc Kỳ lần chót và sẽ đội ngũ chỉnh tề ra về “ . Còn nếu “ Các anh không chịu thì chúng tôi sẽ chiến đấu tới cùng “ Có quân đội thất trận nào làm được điều đó?

Lính CS chắc không dám lấy thân mình đền nợ nước nếu họ thua trận. Cứ nhớ đến đàn anh Võ Nguyên Giáp bị hạ nhục từ bộ trưởng quốc phòng giáng xuống chức bộ trưởng phòng chống thai thì đủ biết khí phách của lính VC ra sao. Tướng còn như thế, đàn em làm được cái gì?

Thành ra vào miền Nam đi ăn cướp, lính VC không chỉ gặp những chiến binh đúng nghĩa, họ cũng rầu thúi ruột trước vài lực lượng mà vũ khí và nhân lực không thể coi là một đơn vị quân sự thực thụ. Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, Thiếu Sinh Quân với Carbine M1, M2, Garant M1, M3A1 thời Eisenhower vẫn sẵn sàng đối đầu và trong nhiều trường hợp đã thắng trận bởi vì : “ Mình thua nó ( VC ) là mình ( bao gồm gia đình, hàng xóm láng giềng ) CHẾT!! ”

Bọn cuồng đảng cuồng Hồ sẽ đặt câu hỏi “ Nếu thế tại sao lính VNCH thua trận? “ . Trả lời:

– Trong chiến tranh VN Hoa Kỳ là nguồn tài trợ chính, VNCH không thể gây dựng một nền công nghệ quốc phòng

Tại sao ?

– CSBV đã khởi động một cuộc chiến tranh xâm lược, phá hoại chế độ Cộng Hoà. Để tự bảo vệ mình VNCH đã huy động mọi nguồn tài , nhân vật lực vào cuộc chiến, không còn thành phần trù bị . ( hết vốn )

Tại sao nhận viện trợ từ người Mỹ ?

– Bởi vì ngoài họ ra không ai đủ giàu có để đưa tay giúp đỡ VNCH chống lại xâm lược .

Tại sao lại có những hình ảnh lính VNCH đu càng máy bay để thoát ra khỏi chiến trường ?.

– Đó là chuyện bình thường trong mọi cuộc chiến tranh trên thế giới . Bị tràn ngập, bị tàn sát vài cá nhân hoảng hốt ( VC cũng tranh nhau chạy trốn trước hỏa lực phi pháo khủng khiếp của Mỹ và VNCH) .

Tuy nhiên không thể dựa vào đó để đánh giá một quân đội.:

– Nếu QLVNCH yếu kém ( và dân VNCH yêu VC như chúng tuyên truyền hoang tưởng ) Sài Gòn đã thất thủ ngay từ những ngày tết Mậu Thân ( không đợi đến 1975 ).

– Nếu QLVNCH yếu kém , An Lộc đã mất từ những ngày đầu bị vây hãm, các vị chỉ huy quân sự đã không trụ lại, trấn giữ, và bảo vệ thành công một thị trấn tan nát vì đạn pháo của VC . ( cần nhớ người bắn cháy chiếc tăng T54 đầu tiên ở Ẩn Lộc LÀ MỘT LAO CÔNG ĐÀO BINH!!)

– Nếu QLVNCH yếu kém VC đã làm gỏi đất nước nầy ngay từ sau khi TT Ngô Đình Diệm và các bào đệ bị giết chết và tình trạng chính trị hỗn loạn nhiễu nhương ở khắp mọi nơi

Vậy tại sao cuối cùng rồi VNCH cũng chịu thua?

– Trong chiến tranh ai nhận yểm trợ đầy đủ dồi dào người đó cầm chắc cái thắng. CSBV ngày càng được khối anh em dồn mọi nỗ lực tiếp tế để tận diệt VNCH đang bị Mỹ cắt hết quân viện . QLVNCH không thể ra chiến trường đánh nhau với địch bằng giàn thun hoặc tầm vông vạc nhọn. Đưa đến thua trận không phải là do tinh thần chiến đấu suy sụp trong quân đội mà bởi thiếu hụt quân khí và sự hoảng loạn của giới lãnh đạo.

Nếu được chỉ huy tốt lính VNCH chiến đấu dũng mãnh như đã chứng minh ở Long Khánh. Nhờ vào tinh thần của Tướng Lê Minh Đảo, Tướng Trần Quang Khôi sư đoàn 18 và các đơn vị tháp tùng đã đánh VC một trận để đời và làm chùng hẳn bước tiến của chúng,( nhiều đơn vị 81 BCND, ND… vẫn tiếp tục chiến đấu ngay giữa thủ đô Sài Gòn trước và sau khi nhận lệnh đầu hàng của ông DVM).

Phần viết thêm:

Dùng vũ khí để giết hại dân lành đàn bà trẻ em không thể được coi là quân nhân, như trường hợp của Caley ở Mỹ Laị.

Thành tích VC ngon hơn nhiều:

– Tàn sát gần ba trăm đồng bào Thượng ở Dakson bằng cách thiêu sống

– Tàn sát gần sáu ngàn dân vô tội ở Huế

– Và ghê tởm nhất pháo binh VC nã đại bác trực tiếp vào đoàn dân chạy loạn trên Đại Lộ Kinh Hoàng Quảng Trị.

ISIS ở Mosul ( Iraq ) cũng triệt để áp dụng chiến thuật này: bắn sẻ, nổ bom, giật mìn dân tị nạn bất kể đàn bà con nít.

Hai thằng (VC và ISIS ) có cùng một thầy chăng?

http://quanvan.net/nguoiviettudo-196-nh ... -cam-sung/

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Cái lon Guigoz


Hình như ai đến đây cũng đều giấu đi thân phận và cảm xúc của mình, tôi cũng vậy. Buổi sáng từ 7 đến 8 giờ đoàn xe bus đi gom mọi người cao tuổi ở rải rác quanh vùng chở đến đây và 1 giờ trưa chở về, vì từ 1 giờ trưa đến 6 giờ chiều còn một ca sinh hoạt khác.

Ở Mỹ này có nhiều chuyện ngộ: có nhà giữ trẻ và cũng có nhà giữ người già, mỗi tuần từ thứ hai đến thứ sáu. Thứ bảy và chủ nhật họ ở nhà một mình hoặc có phước có phần ở chung với cháu con!

Tôi nghỉ hưu gần một năm nay, từ Pennsylvania về New Jersey để được gần con cháu. Mấy đứa nhỏ thấy tôi buồn nên xin cho tôi vào đây để gặp gỡ đồng hương cao niên cho vui. Nhưng sau vài tuần tôi muốn “cáo lão qui điền” vì ở đây… chán quá. Ngày nào cũng y chang như vậy: sáng vô điểm danh, ký tên, ngồi vô bàn của mình ăn sáng, rồi tập thể dục nửa tiếng, rồi chơi đá banh thùng, thảy vòng vịt, chơi bingo, nói chuyện dưới đất trên trời… Khoảng 10 giờ đến 10 giờ rưỡi được cho uống sữa, uống juice, ăn kem..rồi chờ ăn trưa, rồi xếp hàng ra xe bus về nhà.

Chắc tôi phải nói thêm về cách làm việc ở đây. Điều kiện được đưa vào trung tâm này phải trên 65 tuổi và có Medicaid và trong diện nghèo. Có nhà ở thì OK nhưng nếu có xe thì trị giá xe không quá năm ngàn đô la và trong nhà bank không có quá hai ngàn. Trung tâm này ở thành phố Cherry Hill, New Jersey với cái bảng hiệu “Prestige Adult Medicare Daycare”. Như vậy ở đây có bác sĩ trông nom sức khỏe, dĩ nhiên là bệnh tật sơ sài thôi, và sẵn sàng giúp mọi người gọi 911 để vào bệnh viện miễn phí.

Đã gọi là “nơi giữ người già” nên người nào cũng hom hem, lụi đụi, không bệnh ít cũng bệnh nhiều. Ở nhà buồn quá không ai trông nom nên tìm vào đây để giải sầu. Tôi là một trường hợp đó, nhưng tôi không vui mấy vì người Việt Nam ít quá, chỉ chiếm khoảng 10%, số còn lại là Mễ Tây Cơ và người Mỹ gốc Phi Châu. Lúc nào họ cũng ồn ào nói cười, kêu gọi nhau hoặc nhảy cà tưng theo nhạc của họ.

Người đời thường nói khi trở về già người ta giống như con nít từ sinh hoạt cá nhân mỗi ngày hay sinh hoạt vui chơi. Họ cũng tranh nhau trong giờ chơi để thắng điểm để được trung tâm phát tiền… âm phủ. Đó là tiền giả để cuối tuần dùng tiền đó mua những vật dụng trong nhà như xà bông rửa tay, xà bông giặt, kem đánh răng, giấy vệ sinh… Cứ nhìn họ vui vẻ đi shopping tại chổ với vẻ vui mừng như trẻ được quà chúng ta thấy được “già y như trẻ” là vậy. Để rồi, lúc ra về họ phải è ạch mang mấy thứ lục cục đó lên xe. Tài xế phải phụ giúp mấy vị đó mang lên xe nào là wheelchair, gậy chống, khăn áo lùng chùng…

Trung tâm này nằm trong khu biệt lập, xa đường chính nên khá yên tĩnh. Phòng sinh hoạt chính khá rộng với mười mấy cái bàn tròn rộng phủ khăn và trên bàn lúc nào cũng có chậu hoa… ni-lông cũng khá sáng đẹp. Bên trái là văn phòng, sau văn phòng là phòng nghỉ ngơi của các cụ khi thấy mệt. Quí vị vào phòng này sẽ thấy lòng mình buồn tênh vì vài người già nằm trên ghế dài trùm chăn, hơi thở mệt nhọc. Tôi cũng là người cao tuổi nhưng còn linh hoạt hơn họ đôi chút, nghĩ rằng rồi mình cũng sẽ nằm thở dốc như họ một ngày không xa!

Bàn tròn của người Việt Nam lùi vào phía trong của gian phòng rộng, lác đác chừng năm bảy người, toàn là đàn ông.Nghe nói lúc trước có vài phụ nữ Việt Nam nhưng họ xin đổi xuống ca chiều có nhiều người cùng xóm cho vui.Bàn của chúng tôi có hai vị tuổi 82 còn lại cũng trên dưới 70.Mọi người đều xuề xòa, duy chỉ có một ông lúc nào mặt cũng hằm hằm, hình như không mấy có thiện cảm với tôi.Thằng cha này lúc nào cũng trầm tư biếng nói, ít cười và đặc biệt lúc nào cũng có cái mũ nồi trên đầu. Có lẽ hắn nhỏ tuổi hơn tôi và có tên là Hiền mà mặt mày chẳng hiền chút nào, giống như dân đứng bến hay ít ra cũng là dân chợ trời hay dấm dúi bán chui á phiện! Không ai biết gì về gã, đó là lý do tôi không vui khi đến đây. Về phía đám đông Mexico và Mỹ Phi Châu kia thì lúc nào cũng như cái chợ chồm hổm, ăn uống nói chuyện ồn ào, nếu có chút nhạc thì loi choi nhảy múa như điên!

Kể ra họ còn có chút vui. Sao đám Việt Nam chúng tôi lại eo sèo đến thế? Nhiều lúc tôi tự hỏi: “Tuổi già sống khắc khoải như thế này đề làm gì, đang chờ đợi điều gì, nếu không phải chờ… ngày về với đất?” Có khi cũng không cần đất cát gì, chỉ đốt thành tro bụi rồi rải ra biển lớn. Thế là xong.

Tôi định rút lui khỏi cái câu lạc bộ này nếu không có một sự việc xãy ra hôm tuần trước.

II.

Thật ra, tôi cũng là người già nhưng khác hơn mấy ông già Việt Nam này đôi chút.Tôi xin vào đây để làm thiện nguyện, giúp người già Việt Nam thông dịch vì đa số họ không rành Anh ngữ, chủ yếu là tôi muốn tìm bạn đồng hương. Thành phố này khá yên tĩnh, ban ngày vẫn nghe được tiếng chim hót trên cành cây cao và ban đêm chừng 4 giờ rưỡi sáng chúng đã líp chíp quấy rầy tôi rồi. Thức giấc vì tiếng chim tôi thấy tuổi già trôi qua thật nhanh và từng bước chân đi của mình cũng chậm dần.

Buổi sáng hôm đó, tôi mang theo lon nước chanh gừng vì cảm thấy cổ họng đau rát. Đặt cái lon guigoz lên bàn, tôi đã thấy thằng cha mũ nồi ngồi thu lu một góc rồi. Lão già này không ưa tôi nên ít khi chào hỏi nhau. Hôm đó Hiền lại chào tôi rôm rã và nói nhanh:

- Ủa, ông cũng ở K5 Vĩnh Phú sao?

A, thì ra trên cái lon guigoz tôi có khắc chữ K5-VP. Tôi gật. Lão cười nụ, méo xệnh:

- Tui ở Nghệ Tỉnh, quê hương…

Lão định nói “quê hương bác Hồ” nhưng tôi ngăn lại.Tôi không muốn nghe hết câu.Bổng tôi thấy nét xúc động trên gương mặt tối hù của gã. Lần đầu tiên, gã kéo cái mũ nồi đặt lên bàn.Mớ tóc bù xù, lốm đốm muối tiêu của gã rớt xuống vùng trán với những “luống cày” sắc nét. Chỉ có đôi mắt mang nét quả quyết, và không… hiền chút nào!

Rồi câu chuyện bắt đầu. Chúng tôi nhận ra nhau, chúng tôi là những người lính già thua trận, tù tội, xương máu, hận thù đau đớn trải dài từ Bắc xuống miền Đông Nam Nam phần từ trước 1975. Hiền nói về mình, về gia đình tan nát của mình và… nói luôn nỗi oán hận cuộc đời mà Hiền vẫn còn đeo đẵng cho đến hôm nay.

Hiền lôi tôi ra ngoài nói là đi dạo, nhưng thật tình, hắn muốn trút bầu tâm sự ôm ấp từ lâu.Đi chán mỏi chân, hai thằng già ngồi trên ghế đá bên hông khu nhà với ly cà phê nguội ngắt.Hắn nói giọng từ tốn, chậm rãi, đôi mắt mơ màng như đang sống với quá khứ không mấy vui vẻ của đời mình.

- Khi rời quân trường, tôi gặp người này, theo lời giới thiệu của người chị họ và kết hôn sau đó vài tháng, đây là cuộc hôn nhân gán ghép vì tôi muốn thoát ra cái gia đình “u tối” của mình. Giữa tôi và cô ấy không có thứ tình nào hết, không là tình bạn học, không là tình yêu. Anh cũng hiểu rằng giữa năm 1973 chiến tranh Việt Nam leo thang với những trận đánh ác liệt. Chúng ta là những người lính, cái chết cận kề bên lưng…

Tôi chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng ngắt lời Hiền:

- Theo chú, cuộc hôn nhân này không toại nguyện?

Hiền gật, nói nhanh:

- Chính thế. Gia đình nàng giàu có, muốn con gái có một tấm chồng, trong khi tôi muốn có một chổ dung thân những ngày về phép. Gia đình cha mẹ tôi không là tổ ấm, đó là ổ của bài bạc, rượu chè, cuộc sống lem luốc… Tôi muốn trốn chạy, tôi đã sai lầm. Cuộc hôn nhân không tình yêu… cho nên đổ vỡ sau đó là chuyện tất nhiên.

Tôi ngồi thừ, lẳng lặng nghe Hiền nói tiếp:

- Sau đó, chúng ta vào tù sau tháng 4/75 như anh biết… và vợ tôi chưa hề đến thăm tôi một lần nào. Chúng tôi có một đứa con trai, và khi tôi ra tù, bà ấy thẳng thừng đề nghị ly dị vì không chịu nỗi sự nghèo túng, vất vả. Lúc đó, đôi dép lào đứt quai hay vỏ xe đạp xì lốp cũng không có tiền mua dép hay bơm xe, thì… làm sao giữ được hạnh phúc gia đình? Tủi nhục lắm anh ơi… Ôm đứa con nhỏ, tôi phải làm đủ mọi thứ nghề đề nuôi con. Căn nhà trước đó đã thay người chủ mới. Nhờ sự cứu giúp của người bạn học cũ, cha con tôi mới sống sót được đến ngày nay!

Hiền thở dài, không nói thêm gì nữa. Tôi không biết nói gì để an ủi Hiền, chỉ vỗ vỗ vào lưng bạn và trở vào câu lạc bộ.

Từ đó chúng tôi trở thành đôi bạn rất thân. Hiền có vẻ vui tươi hơn trước. Mỗi lần đến thăm Hiền, tôi đều cảm thương cho hoàn cảnh bạn: Căn apartment nhỏ với cây đàn và chú chó Lucky thân yêu. Hiền thật sự cô độc với tuổi già hiu quạnh của mình. Có lần tôi bạo dạn hỏi Hiền:

- Qua đây hơn 20 năm, sao chú không tìm được người bạn đời khác?

Hiền cười cay đắng:

- Anh thử nghĩ coi, lon lá không còn, tiền bạc không có, đàn bà nào yêu cho nổi? Thật ra tôi sợ. Con chim bị đạn một lần thường sợ những cành cây cong… Thằng Hiếu bây giờ hơn 40, có vợ con ở NY city, tôi không muốn con mình bận bịu nên ở đây một mình. Trong những ngày lễ ở Mỹ này, thằng con tôi ghét nhất ngày lễ Mẹ, Mothers Day. Hiện nay bả còn ở Saigon, giàu có lắm nhưng thằng Hiếu không nhìn. Nó nói với mọi người rằng mẹ nó đã chết từ lúc nó hai tuổi. Bả đổ thừa cho hoàn cảnh bỏ chồng bỏ con. Cái đau khổ của tôi là bả lại lấy thằng cha bí thư huyện ủy!

Nếu mượn bài hát “và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy để nói về Hiền cũng không sai chút nào.Mỗi ngày gặp nhau, tôi đều nói với Hiền về niềm tin và tìm thấy lẽ sống cho những ngày còn lại.Hiền đàn rất hay.Tiếng đàn guitar điêu luyện ấy đã trở nên thân thuộc với tôi và mọi người khi có lễ lộc ở “day care” này. Hiền vui hơn mọi ngày, cho đến một hôm…

Tôi nói với Peter, giám đốc trung tâm tôi vắng mặt hai ngày vì phải lo thu xếp việc nhà. Tôi phải đi phi trường JFK ở NY city để đón vợ tôi. Bà ấy về Việt Nam hơn tháng nay đón cô em định cư qua Mỹ. Đơn bảo lãnh từ 2004 đến nay cô ấy mới được đến vùng đất tự do này. Hiền nói với tôi giọng vui vẻ:

- Nếu không gì bất tiện, niên trưởng cho em theo cho vui?

Tôi nghiêm nghị:

- Đi với tôi thì OK, nhưng đề nghị với cậu là bỏ đi từ niên trưởng. Tủi nhục quá mà, đau khổ quá mà niên trưởng với niên chảng gì. Cứ gọi tôi là anh Phúc phải gọn không?

Trên đường đi Hiền nói với tôi về thành phố New York mà cách đây hơn 20 năm, cha con Hiền ngơ ngác đến đây do sự sponsor của người tiểu đoàn trưởng cũ. Hiền cũng cho tôi biết gia đình người con trai đang sinh sống ở Brooklyn đường ra phi trường. Tôi nói:

- Cậu có muốn tranh thủ thăm con cháu không?

Hiền xua tay nói nhanh:

- Thưa không anh, chúng nó đi làm cả. Tụi nó sẽ về thăm tôi ngày lễ Fathers Day sắp tới đây.

Đến nơi trời choạng tối. Hai anh em giúp người mới đến đem hành lý ra xe. Tôi vội vã giới thiệu với Hiền:

- Đây là Ngọc, bà xã tôi, và đây là cô em tên Nguyệt.

Bỗng nhiên Nguyệt la lớn:

- Trời ơi anh Hiền, phải anh là Hiền Tân Định không?

Hiền chết trân. Một giây sau hắn gật đầu lia lịa:

- Đúng, tôi là Hiền. Hiền Tân Định đây!

Những bàn tay không rời nhau. Tôi nói mau:

- Mời mọi người lên xe. Lên xe rồi nói chuyện sau. Trời tối rồi, về đến New Jersey chắc phải chín mười giờ đêm!

Bây giờ Ngọc mới lên tiếng:

- Vậy ra hai người quen nhau sao?

Nguyệt nói dòn dã:

- Chị Ngọc quên sao, hồi đó văn nghệ liên trường Petrus – Gia Long – Võ Trường Toản – Trưng Vương năm em học Đệ Tam, chị Đệ Nhất Gia Long đó, anh Hiền này ở Petrus Ký đoạt giải nhất đơn ca!

Đến phiên Ngọc la vui:

- Trời đất, đó là năm 1967, em nhớ giỏi quá. Ờ ha, 50 năm rồi mọi người ơi!

Hiền rôm rã:

- Cám ơn Nguyệt vẫn nhớ tôi. Bây giờ già hết rồi, dâu biển nhiều rồi…

Nói xong Hiền thở dài:

- Bây giờ tôi già lắm rồi, Nguyệt nhớ tôi thật là giỏi. Cám ơn Nguyệt. Hồi đó hình như Nguyệt cũng đoạt giải thưởng phải không?

- Dạ em giải nhì. Cho nên em nhớ anh là vì hồi đó em “cay cú” với thằng cha Petrus!

Mọi người cười vang.

III.

Cuối tuần, gia đình các con ào về nhà vợ chồng tôi để mừng mẹ và dì từ Việt Nam mới sang, nhân thể bày tiệc mừng sinh nhật 62 của dì Nguyệt. Nguyệt đã hơn 60 nhưng trông bề ngoài chỉ chừng hơn 50 vì nàng độc thân không phải lo lắng tất bật chuyện chồng con. Bà xã tôi nói rằng, Nguyệt là em kế của bà nhưng từ lúc thanh niên 20-30, nàng không hề nghe Nguyệt nói gì về bạn trai hay có quen biết và yêu đương một người đàn ông nào. Nguyệt chỉ mải mê học vấn và làm việc. Nguyệt có bằng thạc sĩ kinh tế và giảng dạy ở các trường đại học ở Saigon. Bây giờ, nàng hưu trí từ tuổi 55.

Một điều lạ lùng nhất là Hiền đến nhà tôi hôm nay, khác hẳn mọi ngày. Một tay ôm cây guitar và một tay ôm bó hoa hồng lớn làm cả nhà tò mò đoán già đoán non. Dĩ nhiên, hoa hồng tặng sinh nhật Nguyệt, chứ không phải tặng Ngọc, bà xã nhà tôi.

Mấy đứa con gái tôi cười rúc rích, ra chiều đắc thắng.

Trong bữa ăn chúng tôi chỉ nói chuyện Việt Nam, hỏi thăm sức khỏe nhau. Vợ chồng tôi bận bịu chơi với cháu ngoại, hai đứa con gái lo việc dọn dẹp dưới bếp. Hai đứa rể bận không đến được, nên khách chỉ là Nguyệt và Hiền.

Hai người này thích ca hát văn nghệ từ hồi còn đi học nên thử giọng hát hò với nhau. Hiền đàn hát thật hay. Nguyệt ngồi nghe mơ màng. Tiếng đàn, tiếng hát dứt mọi người ùa ra phòng khách vỗ tay cổ vũ. Hiền cười vui rạng rỡ nhưng có chút ngượng ngùng.

Bây giờ tôi mới ngắm kỹ Hiền. Chàng già này bữa nay sao khác hẳn. Cái mũ nồi biến mất. Mái tóc bạc cũng thế. Hôm nay sao nó thay hình đổi dạng nhanh thế: râu tóc gọn ghẽ, nhẵn nhụi, quần áo thẳng nếp, giày tây bóng loáng y như chú rể ra mắt nhà vợ. Cái gì, điều gì đã thay đổi thằng cha mà tôi từng ghét quá ghét trước đây?

Câu chuyện có lẽ dừng ở đây được rồi. Kết cục thế nào tùy độc giả. Nhưng, với con mắt của người lính già lăn lóc gió sương như tôi, tôi thấy Hiền như được hồi sinh. Người đàn ông đau khổ với tuổi già hiu quạnh như Hiền, ngày tối vào ra với con chó Lucky là bạn, với cây đàn guitar réo rắc những cung bậc bi thương, sầu não đó, đã vực dậy vì tình bạn, tình “huynh đệ chi binh” và có thể, hắn sẽ tìm được một tình yêu cuối đời? Có thể lắm chứ. Cuộc đời ơi hãy mĩm cười với bạn tôi!

Ban đầu, Nguyệt định ở New Jersey với chúng tôi vài tuần, sau đó, sẽ đi Cali ở với đứa cháu. Nhưng, có lẽ nàng thay đổi ý định khi tôi “bày trò” nhờ Hiền chở Nguyệt đi làm giấy tờ và những yêu cầu của người mới đến Mỹ. Cầu mong hạnh phúc sưởi ấm hai tâm hồn đơn lẻ bấy lâu!

Cám ơn “Prestige Adult Medicare Center” đã kết nối tôi và Hiền, cám ơn cái lon guigoz của một thời lao tù khổ sai tăm tối… để chúng tôi tìm đến nhau trong tình người, tình chiến hữu. Cái lon guigoz này tôi sẽ làm quà cưới nếu hai “đứa già” này trong tương lai quyết định cùng nhau “đi trọn đường trần”.

Tháng 6/2017

Song Lam

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »

Trò chơi tai hại
Tôi vào Sài Gòn để theo học khóa Đại Đội Phó Chiến Tranh Chính Trị, theo nhu cầu của Bộ Tổng Tham Mưu lúc bấy giờ đòi hỏi mỗi cấp Đại Đội trong đơn vị tác chiến phải cử một Sĩ quan Đại Đội Phó theo học khóa này. Sau khi học xong trở về đơn vị thì sẽ là sĩ quan Đại Dội Phó kiêm nhiệm Chiến Tranh Chính Trị cho đơn vị mình.

Tôi đang là Pháo Đội Phó của một Pháo Đội Tác Xạ Pháo Binh thuộc Sư Đoàn 22 Bộ Binh đang hoạt động vùng chiến trường Bắc Bình Định chen lẫn Vùng Kontum, Pleiku. Nhận được Sự Vụ Lệnh đi thụ huấn là mừng lắm vì có được thời gian nghỉ xả hơi, vừa đi vừa về cũng phải 3 tháng, nhất là đang có người yêu tại Sài Gòn thì không còn gì hạnh phúc cho bằng.


Trong suốt khóa học, hễ cứ đến cuối tuần là được gặp người yêu ruột, ôi sung sướng lắm. Sở dĩ tôi nói người yêu ruột cũng vì có phân biệt đẳng cấp nhiều loại (người yêu để dành cưới, người yêu chỉ để đi “rước đèn” dạo phố sau những trận đánh được nghỉ phép một hai ngày, hoặc người yêu không bao giờ dạo phố và không bao giờ tính chuyện tương lai (chuyện của Lính dài dòng lắm).

Người yêu của tôi ở Sài Gòn thì cưng như trứng mỏng và để dành cho ngày “Ghép chung tên thiệp hồng” nên những ngày học Chiến Tranh Chính Trị như là vàng son một thuở của đời lính tác chiến.

Trong cùng khóa học này có trung uý Lâm Xuân Thảo là người bạn Pháo Binh 155 ly khác tiểu đoàn với tôi (105 ly) nhưng cùng một Pháo Binh Sư Đoàn. Chúng tôi thường gặp nhau trong những lần yểm trợ chung cho một cuộc hành quân nào đó trong vùng. Là bạn bè thân nên gặp nhau ở Sài Gòn trong cùng một khóa học thì mừng lắm.

Đến ngày mãn khóa học, trường Chiến Tranh Chính Trị bao giờ cũng tổ chức buổi lễ Sinh Nhật Tập Thể cho cả khóa như là hình thức mãn khóa, phát bằng cho học viên trúng tuyển sau khi sát hạch cuối khoá. Tổ chức Sinh Nhật Tập Thể cũng để làm Bài mẫu cho học viên khi về đơn vị biết cách mà thực hiện cho đơn vị mình.

Trong ngày này có tiệc tùng, có bánh Sinh Nhật cho cả 200 người ăn chưa kể quan khách, Tướng Tá được mời đến dự, coi cũng xôm tụ lắm, đèn cầy không thể thiếu và quá nhiều cùng với hoa tươi.

Một quang cảnh choáng ngộp màu sắc của hoa chen lẫn màu sáng rực của đèn cầy, tôi có cảm giác lung linh huyền ảo, mà từ ngày nhập ngũ đến giờ chưa bao giờ thấy.

Sau khi phát bằng tốt nghiệp xong, mọi người đang chờ nhà trường cấp phát Sự Vụ lệnh để trở về Đơn vị. Hoa và đèn cầy vẫn còn đầy dẫy khắp nơi, buổi lễ đã kết thúc nhưng hiện trường vẫn còn nguyên. Tôi rời khỏi phòng ngủ Sĩ Quan đi ra ngoài đứng dọc hành lang trung tâm huấn luyện, nơi đang có nhiều người cũng chờ như tôi tụ tập từng nhóm chuyện trò trước khi chia tay với những người bạn mới quen trong khoà học. Chiếc túi đựng quân trang to lớn hơn thân người của tôi, dài cũng hơn một mét tôi nhét đầy cứng trong đó đủ thứ áo quần lính, giày dép cùng mọi vật dụng khác của một quân nhân khi thuyên chuyển đơn vị. Nó có hình tròn giống như thân một con người, và chiếc nón sắt thì không còn chỗ nhét nên để rời riêng ở ngoài. Tôi để cái túi hình tròn ấy và cái nón sắt trên chiếc giường ngủ của tôi, loại giường đôi hai tầng bằng gỗ trong các quân trường nào cũng có.

Sau một lúc lang thang bên ngoài để xem động tịnh gì về chuyện nhận sự vụ lệnh, ai cũng nôn nao nhận cho mau để rời sớm nơi đây, nhất là tôi còn lại thời gian rất ít cho lần gặp gỡ sau cùng dành cho người yêu trước khi trở về vùng chiến trận.

Tôi trở lại căn phòng ngủ, một cảnh tượng trước mắt làm tôi choáng váng lạnh xương sống, một cảm giác rợn da gà chạy lan trên xương sống, mắt tôi nhìn mà cứ tưởng đang trong mơ. Tôi vốn không tin dị đoan, nhưng hình ảnh này thú thật làm tôi sợ quá, biết đâu đây là điềm báo trước cho số phận của tôi trong những ngày kế tiếp sau khi về đơn vị và tham chiến?
“Ai đã cố ý đùa giỡn một cách vô ý thức đến như thế này?”, tôi hỏi nhanh trong đầu trong khi lòng đang giận lắm. Tôi nghĩ ngay đến thằng Thảo, chỉ có nó là thằng bạn thân duy nhất trong thời gian ở đây, những người bạn khác mới quen không thể nào dám làm như thế này. Tôi cả quyết như vậy và không cần tìm hỏi Thảo. Cả một đám đông người đa số đều mang cấp bậc Trung uý, chỉ có một hai ông Thiếu uý đứng vây quanh chiếc giường ngủ của tôi.

Xung quanh thành giường được cắm những cây đèn cầy dở dang hồi nãy làm Sinh Nhật tập thể, giờ được thắp sáng lên cùng với hai cây lớn hơn trên đầu giường. Một tấm bảng chừng ba gang tay hình chử nhật bằng giấy bìa cứng màu trắng viết tên tôi đậm nét màu đen: “Cố Đaị Uý Nguyễn Trãi” nằm gọn gàng chính giữa tấm bảng ấy. Tấm bảng được dán lên vách tường trên đầu giường. Hoa tươi từng bó nhỏ xếp đều khắp xung quanh giường, đặc biệt trên đầu thì cắm hai bình hoa hai bên tấm bảng tên tôi.

Chính giữa giường là cái túi đựng quân trang của tôi đặt nằm dọc ngay ngắn cùng với cái nón sắt nằm kế tiếp, trông như hình thù cái đầu người ta và thân người. Bên trên được phủ kín tấm Poncho (loại áo mưa nhà binh mà bất cứ ai mới nhập ngũ cũng đều được cấp phát).

Nhìn vào chiếc giường y chang như có một thi thể vừa ngã xuống trên chiến trận nào đó được phủ kín tấm Poncho, trên đầu thi thể ấy đã ghi xác nhận rõ tên và cấp bậc của người vừa vĩnh viễn ra đi.

Hình ảnh này rất quen thuộc trong tôi từ năm đầu tiên mới ra trường về Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 231 Pháo Binh tại Ban Mê Thuột. Thỉnh thoảng có Sĩ Quan nào trong Sư Đoàn chết, tôi và một người sĩ quan nữa được phân chia luân phiên đi gác xác, mỗi phiên gác hai tiếng đồng hồ bất kỳ ngày hay đêm. Có lần trúng vào 12 giờ khuya đến 2 giờ, đêm ấy mưa, từng cơn gió rít lên mái nhà tole nghe rợn người. Căn nhà tiền chế của Trung Đoàn 45 Bộ Binh dùng làm nơi để tạm 15 xác chết từ binh sĩ đến sĩ quan đã chết hơn mười ngày trước đây mãi tận trên Di Linh Đà Lạt trong một trận đánh khá ác liệt. Xác của những quân nhân xấu số này đã phải vất vả lắm mới đem ra được khỏi vùng giao tranh cộng với trở ngại chờ phương tiện di chuyển từ Di Linh về Đà Lạt và từ Đà Lạt về Ban Mê Thuột là bản doanh hậu cứ của Trung Đoàn 45. Do đó các xác chết đã sình thúi, mùi hôi nồng nặc mặc dù nghe nói đã có bọc kẽm bên trong.

Một dọc các quan tài xếp hàng ngang trong căn nhà tole có vách che nhưng vách không cao tận mái nhà mà chỉ lửng hơn hai phần ba. Các chỗ ra vào hai bên vách có nhiều và để trống không có cửa, gió cùng với mưa thay nhau tạt vào, tiếng rít của gió từng cơn tạo nên thứ âm thanh ma quái, mùi hôi thúi nồng nặc.

Tất cả các quan tài đều được thắp sáng bằng những bóng đèn điện tròn màu vàng không sáng mấy nằm trên những thanh sắt ngang dọc trên trần nhà cùng với ánh sáng lung linh của những cây đèn cầy cắm trên nắp quan tài. Phía trước mỗi quan tài đều có một vòng hoa thương tiếc đầu tiên của Trung Đoàn đặt ngay ngắn cùng với tên và cấp bậc của người ngã xuống kèm theo câu Tổ Quốc Ghi Ơn phía trên.

Tôi vốn rất sợ ma từ nhỏ, nhưng đã gác xác nhiều lần nên cũng dạn dĩ bớt. Tuy nhiên lần này tôi ớn lạnh xương sống và thấy sợ thiệt tình vì cái không khí ma quái làm sao ấy. Cũng may mà mỗi lần gác xác như vậy bao giờ cũng có hai sĩ quan với nhau mặc quân phục tiểu lễ ( loại quân phục màu vàng của Trường Bộ Binh Thủ Đức, với mũ Cascette dùng để đi nghỉ phép cuối tuần trong thời gian thụ huấn).

Tôi nhìn người bạn đang chung nhiệm vụ với tôi cũng tỏ vẻ sợ sệt ra mặt, không ai nói với ai, làm ra vẻ bình thường đứng hai bên chiếc quan tài của một sĩ quan, lặng lẽ gồng mình với thế Thao Diễn Nghỉ.

Khoảng chừng 30 phút đi qua bỗng dưng chúng tôi nghe tiếng rắc rắc thật lớn phát ra từ một trong những quan tài. Tim tôi đập mạnh vì hồi hộp, chưa định thần được là tiếng kêu gì và phát ra từ đâu. Tôi quay đầu nhìn thằng bạn coi xem phản ứng của nó ra sao, mặt nó cũng tái mét lộ hẳn sự sợ sệt. Cả hai cùng chung một ý nghĩ, cùng cảm giác nhưng không ai nói với ai lời nào. Bỗng tiếng rắc kế tiếp vang lên, tôi chợt nghĩ rằng có một nắp quan tài nào đó đang bật ra và một xác người từ từ ngồi dậy …..

Bên ngoài trời vẫn mưa và gió mạnh, khí hậu miền cao nguyên đang lạnh nhiều thế mà tôi đã thấy những giọt mồ hôi lăn từ trên ót xuống dưới lưng. Chỉ kịp nói sang người bạn đứng bên kia quan tài (chúng tôi bao giờ cũng đứng hai bên đầu quan tài): “CHẠY”, và tự động tôi chạy lẹ ra cửa mà không dám nhìn lại phía sau. Tôi cũng thấy người bạn như phản xạ tự nhiên chạy theo. Hai đứa chạy nhanh đến chiếc xe Jeep cách đó khoảng 20 mét và nổ máy chạy nhanh mặc cho nhiệm vụ không hoàn thành và không hề sợ bị cấp trên phạt.

Bây giờ nhìn lại chiếc giường của tôi đã từng ngủ nhiều đêm trong suốt khoá học lại thấy tên tôi, thấy những hoa tươi cắm trên đầu giường, và xung quanh giường chen lẫn với đèn cầy sáng trưng mang tôi trở về với bốn năm trước trong hình ảnh ghê rợn, cũng màu sáng vàng vọt, cũng đèn cầy, cũng hoa tươi và nhất là tiếng kêu RẮC của chiếc quan tài.

Thú thật tôi sợ quá, tôi hình dung đây là điềm báo trước đối với tôi mai này khi trở về đơn vị. Hình ảnh gác xác năm nào trở về nhanh trong trí, tôi thấy như có ai đang chạy đuổi sau lưng… Tim đập mạnh nhịp thở không đều, tôi giận run người. Tôi nhìn một lượt xung quanh thấy mọi người cười to, như hả hê khoái chí lắm với thành tích sáng tạo này. Họ tìm một cơ hội để vui đùa, sao vô ý thức đến không hiểu nổi.

Tôi giật mạnh chiếc Poncho, kéo cái túi quân trang cùng chiếc nón sắt xuống đất, đồng thời vói tay giật mạnh tấm bìa giấy cứng ghi tên tôi ném mạnh xuống đất trong thái độ giận dữ, nhanh như cắt tôi dùng bàn tay gạt thật nhanh các đèn cầy và hoa rơi tung tóe. Tôi muốn xoá tan ngay đi hình ảnh ghê rợn này để không còn chứng tích của một điềm báo xúi quẩy kéo dài thêm hơn với hy vọng chưa hiệu nghiệm trong thế giới tâm linh. Những người đi chiến đấu dĩ nhiên khi lâm trận đều hầu như không sợ và không nghĩ đến cái chết lúc bấy giờ, mà chỉ biết làm sao diệt được kẻ thù và một phần vì mùi khói thuốc súng làm hăng say thêm.

Nhưng với bối cảnh hiện tại không phải đang đánh nhau, không có mùi khói thuốc súng, nhất là nhìn thấy thi thể của mình nằm trong Poncho, nhìn thấy tên mình với hoa và đèn cầy, làm sao không lạnh cả người, không giận cho được.

Biết ngay là thằng Thảo đùa với mình và cố tạo trận cười cho bạn cùng khoá trước giờ chia tay, tôi đã cố ý hành động phản kháng bằng cách phá tan mọi thứ trên chiếc giường như là gởi thông điệp: “Tao không bằng lòng mày làm như thế!” Sau khi ném các thứ xuống giường tôi lặng lẽ ra ngoài hàng hiên cho đỡ tức. Tôi biết Thảo và đồng bọn đang vui sướng lắm, nhưng tôi lại không hề nhìn vào mặt bất cứ người nào đang hiện diện ở đó, những gương mặt vô cùng đáng ghét đối với tôi lúc này.

Tôi bỏ ra ngoài hành lang và nghĩ rằng cử chỉ giận dữ của tôi vừa rồi đã đủ làm cho Thảo, hay chúng nó hiểu và ý thức được sự quan trọng về điều đùa giỡn như thế là rất tai hại (tự nhiên làm cho mình tin dị đoan, như một điềm xấu được báo trước). Tại sao nó có thể ngu ngốc đến độ như vậy nhỉ, tôi giận run lên, nhưng tôi cũng tự nhủ “mình đã phản ứng như vậy cũng đủ rồi”, và lòng cố xua đi hết hình ảnh vừa xảy ra.

Khoảng mười lăm phút sau, tôi trở lại căn phòng và yên tâm là mọi thứ đều trở lại bình thường. Nhưng hỡi ôi tất cả đều diễn lại như cũ. Vẫn đèn cầy sáng trưng, vẫn “cái thân người” nằm đắp kín dưới tấm áo mưa nhà binh, vẫn có tấm bảng đề tên tôi hồi nãy tôi đã quăng xuống đất, giờ được gắn trở lại như trước. Hoa tươi vẫn rộ khoe sắc khắp xung quanh giường. Tôi vẫn nhìn thấy tôi đang nằm chết ở đây một lần nữa.

Tôi không ngờ là Thảo hay cả bọn này đùa dai quá, quái ác quá trong sự đau khổ của tôi. Nếu lúc ấy trong tay tôi có súng chắc không kềm hãm nổi cơn tức nghẹn lên tới cuống họng. Tôi sững sờ đến độ tưởng mình trong mơ, không tin vào mắt mình có thật đã nhìn thấy hình ảnh ghê rợn này một lần nữa chăng? Thú thật tôi sợ quá, vì nó được lập lại như thể một điều xác nhận rằng chắc chắn tôi sẽ chết trong nay mai khi trở lại chiến trường.

Đang lúc khói lửa mịt mù, những tràng AK nổ ngay trên đầu, những quả đạn súng cối 61 ly, 82 ly của địch rớt sát bên tôi đã nhiều lần nhưng chưa bao giờ tôi cảm thấy sợ như bây giờ tôi đang sợ. Cái hình ảnh một thân người nằm yên dưới lớp nhựa màu ô liu của tấm áo đi mưa nhà binh, xung quanh cắm đầy đèn cầy lung linh huyền hoặc cùng với vô số hoa tươi dọc theo thân người, và ngay trên đầu có hai cụm hoa cắm đứng song song với hai cây đèn cầy phía trong và cao hơn một chút là tấm bảng đề tên người tử trận, giống y như cái bàn thờ tạm thời dành cho người vừa ngã gục sau trận đánh mà chưa kịp di chuyển hình hài về hậu cứ.

Cái hình ảnh quen thuộc này tôi đã chứng kiến nhiều lần trong suốt bốn năm lính, giờ đây cái xác ấy chính lại là tên tôi “Cố Đại uý Nguyễn Trãi”. Nó tự động thăng cấp cho tôi lên một cấp nữa, nhưng có chữ cố phía trước để dành cho quân nhân vừa tử trận, làm sao tôi không rợn da gà được! Giận quá tôi dùng hết sức mạnh của mình, hai tay nhấc bổng chiếc giường lật nghiêng một bên cho tất cả đổ tung rơi xuống nền nhà như trút cơn giận. Những hoa những đèn cầy đổ lăn lóc và cháy dở. Tôi thấy có những đôi giày trận vội chạy đến đạp lên những đèn cầy cho tắt đi vì sợ cháy căn phòng. Tôi muốn xóa đi dấu vết tên tôi trên tấm bảng giấy nên chụp thật nhanh và xé nát ra từng mảnh như bày tỏ nỗi căm giận ghê gớm lắm.

Không đủ bình tĩnh để quan sát những khuôn mặt đang cười toe toét, tôi vội chụp lấy cái nón sắt và túi quân trang kéo lê ra khỏi phòng như cố không cho chúng nó có phương tiện đùa tiếp. Từ đó tôi không bao giờ bén mảng vô trong phòng ấy nữa và không biết cảnh cũ có tái điễn hay không vì tôi rất sợ nhìn cảnh ấy lần nữa.

Trở về đơn vị tôi hoàn toàn không nhớ những gì đã xảy ra trong ngày cuối cùng tại Trường Chiến Tranh Chính Trị trong Biệt Khu Thủ Đô.

Một tháng sau đó đơn vị tôi là Pháo Đội 105 ly trấn đóng trên căn cứ Dakto, một căn cứ hoả lực nằm giữa đường chạy từ Tân Cảnh (Kontum) đến tiền đồn Benhet (gần ngã ba biên giới Việt Miên Lào). Từ Tân Cảnh trước khi đến căn cứ hỏa lực Dakto phải ngang qua căn cứ Phượng Hoàng, một căn cứ do quân đội Mỹ thiết lập trước đây, có cả phi trường cho máy bay C130 đáp để tiếp tế vũ khí đạn dược, lương thực cho cả vùng Tam Biên này gồm có cả những căn cứ trên các đỉnh núi cao, như căn cứ 5, căn cứ 6, căn cứ Charly mà chỉ mấy hôm sau này Đại tá Nguyễn Đình Bảo đã “ở lại vĩnh viễn”.

Căn cứ Phượng Hoàng tương đối an ninh dù bây giờ đã bỏ trống không có quân trú đóng, chỉ còn lại dấu vết của một phi trường dã chiến hoang tàn. Tôi thường hay lái xe xuống phố Tân Cảnh chơi hay mua sắm những gì cần thiết trong một hai tiếng đồng hồ những khi tình hình yên tĩnh, và khi chạy ngang qua Phượng Hoàng đều yên tâm là rất an ninh, vì nó cũng nằm sát Bộ Chỉ Huy Tiền Phương của Sư Đoàn 22 Bộ Binh trú đóng trong doanh trại chung của Trung Đoàn 42 Bộ Binh kế cận quận lỵ Tân Cảnh.

Mấy ngày nay tình hình trở nên ồn ào hơn, các cánh quân Nhảy Dù, cùng với những cánh quân của Trung đoàn 47 và Trung đoàn 42 xin tác xạ yểm trợ liên miên. Tin tình báo cho biết Sư Đoàn Sao Vàng và Sư Đoàn 320 Bắc Việt đã kéo về hoạt động quanh vùng này.

Đang bắn yểm trợ cho các cánh quân bạn đụng địch thì nhận được công điện từ Trung Tâm Phối Hợp Hỏa Lực Sư Đoàn 22 Bộ Binh gởi đến ra lệnh cho pháo đội tôi chuẩn bị di chuyển một trung đội PB 105 ly đến chiếm đóng vị trí Căn Cứ Phượng Hoàng. Phải sẵn sàng ngay bây giờ và chờ khi có lệnh di chuyển.

Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn Trịnh Lê Triễn còn nói rõ: “Hãy giao cho trung đội của Trung Uý Trãi nhận nhiệm vụ này”, vì tôi là trung uý thâm niên nhất trong pháo đội, vừa là Trung Đội Trưởng kiêm Pháo Đội Phó và là Sĩ Quan Tác Xạ có nhiều kinh nghiệm. Ông Trung tá này là vị Tiểu Đoàn Trưởng của tôi ngày tôi mới ra trường tại Ban Mê Thuột giờ đây chỉ định đích danh tôi kéo trung đội đến Phượng Hoàng trong chiều nay.

Tôi nhớ lại điềm xấu mà thằng Thảo cũng trung uý trung đội trưởng kiêm Pháo Đội phó như tôi đã bày cái trò để cười cho thoả thích ngay ngày mãn khóa Chiến Tranh Chính Trị. Không lẽ giờ đây được ứng nghiệm? Tôi đã cho lệnh Trung Đội chuẩn bị “Thế Lên Đường”.

Chuyện nhà binh ra trận mạc sống chết là chuyện thường tình, chỉ lo lắng khi chưa lâm trận, nhưng trong lúc giao tranh thì hầu như mọi người đều hăng say chiến đấu mà không sợ gì cái chết sẽ đến với mình.


Thế nhưng khi nhận lệnh “Thế Lên Đường” đến căn cứ Phượng Hoàng chiều nay, lòng tôi bỗng bồn chồn âu lo có cái gì vương vấn trong đầu, và liên tục hình ảnh chiếc nón sắt, cái túi xách nhà binh được phủ trong chiếc Poncho và đầy dẫy đèn cầy cùng hoa cắm đầy xung quanh “thi thể tôi kèm với cái bảng tên tôi “Cố Đại Uý Nguyễn Trãi” cứ chập chờn. Tôi cho rằng đó là điềm báo trước cho số phận của tôi trong cái lệnh chiều hôm nay sao?

Tôi tự trấn an thầm kín trong lòng “coi dó là chuyện tào lao, đừng để ý nữa để yên tâm chờ lệnh từ Đài Tác xạ cho biết: “di chuyển”.

Mãi đến hai tiếng đồng hồ sau, vẫn không thấy động tĩnh, tôi vào Đài Tác Xạ bắt máy hỏi Bộ Chỉ Huy Pháo Binh Sư Đoàn Tiền Phương ra sao với lệnh DI CHUYỂN vừa qua.

Lúc này họ cho biết đã thay đổi lệnh và đưa súng 155 ly đến đó thay vì 105 của tôi. Tôi không tìm hiểu đơn vị nào đã thay tôi vừa kéo đến căn Cứ Phượng Hoàng.
Ngay đêm hôm đó lúc 10 giờ điện văn “XIN TÁC XẠ” tới tấp gởi về tôi bắn yểm trợ cho Căn Cứ Phượng Hoàng bị tấn công tràn ngập biển người. Bắn suốt đêm cho tới 5 giờ sáng mới tạm ngưng trong khi quân tiếp viện đang tiến vào Căn Cứ truy đuổi Cộng quân.

Qua hệ thống vô tuyến tôi đã biết Trung Uý Lâm Xuân Thảo khoá 21 đã vĩnh viễn nằm xuống sau khi bị tràn ngập bởi những quả beta của địch. Và chính trong cuộc yểm trợ này buộc lòng phải bắn đầu nổ cao ngay trên căn cứ theo lệnh của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn để diệt địch.

Tin Trung Uý Lâm Xuân Thảo ngã xuống làm tôi lặng người, tiếc thương cho bạn và tự hỏi “tại sao có sự thay đổi lệnh để rồi nó chết thay cho tôi?” và tôi cũng liên tưởng tới trò chơi lúc ngày ra trường khoá học Đại Đội Phó Chiến Tranh Chính Trị.

Đúng là cái số của tôi chưa chết.

Nguyễn Trãi

User avatar
TheLang
Posts: 1959
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Tiểu Đoàn 92 B.Đ.Q/BIÊN PHÒNG

Ngày 24-4-75, Tiểu đoàn 92/BĐQ chúng tôi từ khu Bàu Hàm, được lệnh rút quân về vùng Hố Nai, Biên Hòa.
Theo lịch trình sẽ nghỉ dướng quân 3 ngày, để chỉnh đốn đơn vị và để các cơ quan kết nghĩa đến ủy lạo

Image

Ta Biệt Động quân nung rèn chí trai
Khí phách hiên ngang diệt thù xây tương lai .
Ngày 24-4-75, Tiểu đoàn 92/BĐQ chúng tôi từ khu Bàu Hàm, được lệnh rút quân về vùng Hố Nai, Biên Hòa. Theo lịch trình sẽ nghỉ dướng quân 3 ngày, để chỉnh đốn đơn vị và để các cơ quan kết nghĩa đến ủy lạo (nhưng chúng tôi có nghỉ bao giờ đâu). Suốt từ tháng 11-74 cho đến nay, tiểu đoàn thường xuyên tham dự hành quân và tùng thiết cho Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh, như Chiến đoàn 312/Thiết Giáp/LĐ3KB, do Trung Tá Dương Kều làm Chiến đoàn trưởng (ông Trung Tá này cao lêu nghêu do đó mới có biệt danh Dương Kều)

Chúng tôi và CĐ 312 di chuyển từ vùng Tân Uyên, Biên Hòa đến Gò Dầu Hạ, rồi Bắc quận Khiêm Hanh, Truông Mít, rừng cao su Suối Sâu (nối liền với quận Dầu Tiếng) như cơm bữa. Sáng còn ở rừng Tân Uyên, chiều ngủ đêm ở vùng Gò Dầu Hạ. Nhưng có một điều tôi không hiểu nổi, cứ 4 ngày tiếp tế một lần do sĩ quan Hoả thực hướng dẫn. Trong chuyến tiếp tế, có lúc được thêm mươi người lính đi phép về đáo nhậm tiền tuyến, chuyện này là chuyện thường của Tiểu đoàn – Tuy nhiên, tôi không hiểu nổi là mỗi lần tiếp tế thường có vài người vợ con lính ở trại gia binh tháp tùng. Tôi thấy khó chịu vì không giữ được bí mật quân sự. Lẽ dĩ nhiên, là Tiểu đoàn trưởng có rất nhiều âu lo cho đơn vị mình. Khi nào tôi cũng mong muốn mình đem tiểu đoàn đi hành quân, quân số tối đa là 540 người, khi mình về thì cũng đem đủ người về (không phải tôi là người yếm thế). Sung sướng nhất là thấy gia đình vợ con lính ở trại gia binh tràn ngập hạnh phúc – nhưng có khi nào đủ đâu – Như vậy, đời lính chyện chẳng may xảy ra hàng ngày, nên quá tầm thường đối với họ

Các anh có nghĩ rằng khi Tiểu đoàn hành quân, dừng quân nhận tiếp tế, đêm về, thì thế nào đi nữa cũng có một vài gia đình lính, quây quần quanh một chiếc poncho, che nắng che mưa cho chính họ và gia đình họ – Thú thật với các anh, tôi không thể cầm nước mắt và nghĩ rằng, sao quê hương mình lắm khổ đau do bọn CS gây nên làm vậy !

Những người lính, họ cũng hy sinh vì quê hương, hy sinh vì cấp chỉ huy, hy sinh cho gia đình, để mong rằng con của mình được đi đến trường ê a như những đứa trẻ khác. Nhưng ước nguyện đó có thành không ? – Thưa các anh, tôi dám nói là không thành, vì người lính chỉ biết rằng hôm nay mình còn sống và luôn cầu nguyện như vậy. Không một ai trong chúng ta biết ngày mai sẽ ra sao. Hôm nay tôi ngồi viết lại những dòng chữ này là một may mắn cho gia đình tôi, phúc đức đó âu chũng có kẻ nhận được và cũng có kẻ không. Làm trai thời loạn, tôi cũng như những bạn khác, cầm súng để bảo vệ quê hương. Trong chúng tôi,không một ai nghĩ mình là những con dê tế thần “chính trị” cả. Nếu có người nghĩ như vậy, chắc chắn rằng không có một chiến trận hào hùng nào mang lại cho họ khi kết thúc. Tôi đã đi hơi xa rồi đấy – Trở về với TĐ92/BĐQ…

Một trong những trại Dân Sự Chiến Đấu chuyển qua binh chủng BĐQ – Được gọi là Tiểu đoàn Biên Phòng, kể từ ngày 30-11-1970. Gọi là Tiểu đoàn, nhưng quân số không quá 300 người, kể cả các sĩ quan do Lực lượng Đặc biệt chuyển đến – Tiểu đoàn 92/BĐQ quá son trẻ, đóng quân tại căn cứ Tống Lê Chân, một điểm chiến lược để ngăn chặn nguồn tiếp tế của VC vào khu Tam giác Sắt, cũng như án ngữ vùng Mỏ Vẹt, mà cục R của VC đóng bản doanh. Trại Tống Lê chân, một trong những trại được thiết lập dọc theo biên giới Việt-Miên, thuộc lãnh thổ Vùng 3CT – Vị trí trại Tống Lê Chân nằm giữa hai tỉnh Tây Ninh và Bình Long .

Tiểu đoàn 92/BĐQ cũng bị nhiều tổn thất đáng kể, khi rút quân ra khỏi tiền đồn Tống Lê Chân, nơi mà VC đem cả Sư đoàn/Trung đoàn chủ lực, bao vây một thời gian dài 311 ngày. VC nghĩ rằng thế nào cũng tiêu diệt được TĐ 92/BĐQ – Nhưng trên thực tế, TĐ 92/BĐQ vẫn sống và sống đến ngày 30-4-75. Trung Tá Lê Văn NG…người tiền nhiệm đã nghiên cứu và đề nghị Tiểu đoàn triệt thoái vào đêm 11-4-74. Cuộc rút quân được thi hành rất bí mật, giờ “G” là yên lặng vô tuyến để địch không phát giác được đơn vị khi rút lui. Đến khi VC hay được thì TĐ đã rời xa căn cứ – Cuộc rút quân lịch sử này có cả hai phi hành đoàn trực thăng của Căn cứ KQ Biên Hòa bay vào tiếp tế, bị bắn rơi không thể ra được. Mãi đến sáng ngày 12-4-74, vào khoảng 09h00 sáng, BTL/Quân đoàn III/QK3 mới bắt được liên lạc với TĐ92/BĐQ trên hệ thống hành quân , khi này Tiểu đoàn chỉ cách Chân Thành khoảng chừng 5 cây số – Cuộc rút quân xuyên qua rừng rậm, dưới sự rình rập của địch quân, bất cứ lúc nào cũng có thể bị tấn công.

Trong cuộc rút quân lịch sử này, Tiểu đoàn đã chạm súng và đoạn chiến với địch và đã có thêm 14 binh sĩ tử thương và 34 bị thương. Cuối cùng TĐ đã về tới Chân Thành, chúng ta có thể nói đây là một phép lạ, tất cả các thương binh và tử thương binh, đều được mang vê đầy đủ. Riêng chỉ có 3 binh sĩ chịu ở lại để nghi binh cho Tiểu đoàn đã hy sinh vì Tổ quốc.

Tưởng cũng nên nhắc lại TĐ lúc bấy giờ chỉ vỏn vẹn có 254 chiến sĩ BĐQ, 4 binh sĩ Pháo binh, 12 Lao công đào binh chiến trường và 7 nhân viên thuộc hai phi hành đoàn trực thăng bị bắn rơi. Tổng cộng 275 người, nhưng thật sự tham chiến chỉ có hơn 100 người, còn lại là thương bệnh binh, khả năng chiến đấu đã bị yếu đi rất nhiều vì bị vây hãm quá lâu ngày .

Tiểu đoàn 92/BĐQ đã làm rạng danh QLVNCH nói chung và binh chủng BĐQ nói riêng với bốn chữ “VÌ DÂN QUYẾT CHIẾN” . VC cứ tưởng rằng TĐ 92/BĐQ dễ bị tràn ngập, khi đã bị bao vây gần cả năm trời, thiếu thốn mọi thứ , thật là một miếng mồi béo bở cho chúng. Nhưng miếng mồi đó đã thoát hiểm một cách thần tình, làm chúng sững sờ, tiếc nuối.

Khi về đến Chân Thành và vài tuần sau đó BCH/BĐQ/QK3 đề nghị cho TĐ đi học bổ túc đơn vị tại TTHL/BĐQ Dục Mỹ. Đây là một dịp để Tiểu đoàn được bổ sung quân số, tái trang bị cũng như huấn luyện bổ túc đơn vị. Lúc này TĐ được giao cho Trung Tá Nguyễn H… từng làm Trưởng Phòng 3 BCH/BĐQ. Trung Tá luôn có mặt trong các bài học của đơn vị, từ cấp Trung đội, Đại đội đến Tiểu đoàn .

Bốn tuần lễ trôi qua thật mau lẹ, TĐ trở về tham dự những cuộc hành quân tại địa khu của BTL/QĐ3/QK3. Tiểu đoàn nhận nhiệm vụ HQ diệt chốt tại địa bàn quận Phú Giáo, phía Bắc Biên Hòa, giáp ranh với sông Đồng Nai. Sau đó TĐ được lệnh tùng thiết cho CĐ 305 rồi CĐ 312 thuộc BTL/Lữ đoàn 3 Kỵ Binh ở vùng rừng núi Tân Uyên. Ngoài ra TĐ cũng đã HQ vùng Đất Quốc, vùng núi Kỳ Lân đã gây nhiều tổn thất và khó khăn cho VC thâm nhập khu phía Bắc Biên Hòa. Vì vậy, như tôi đã nói trên, TĐ đã di chuyển từ vùng Tân Uyên Biên Hòa, đến vùng Gò Dầu Hạ, thuộc vùng SĐ 25/BB trấn giữ như cơm bữa. Và trong cuộc HQ vào Truông Mít ban đêm, TĐ đã tùng thiết cho Chiến đoàn 312, bị VC phục kích bằng đại liên, B.40, B.41 và AK 47 trên đường di chuyển vào Truông Mít . TĐ và Thiết Giáp đã phản công mãnh liệt, tuy nhiên 1 Thiết vận xa bị cháy vì B.40, các quân nhân TG và BĐQ trên xe đều bị tử thương. Riêng vị Tiểu đoàn trưởng TĐ 92/BĐQ bị thương nặng ở chân phải, nên phải tải thương và tôi đã chỉ huy TĐ từ giờ phút này

Trong một cuộc HQ vào phía Bắc quận Khiêm Hanh, khi TĐ di chuyển ra cùng với CĐ312 (-) bị VC phục kích cấp Trung đoàn. Thật sự mà nói tương quan lực lượng giữa ta và địch thì địch đem cả Trung đoàn để tiêu diệt TĐ này. Cũng may, sáng hôm đo, ĐĐ2/TĐ92 BĐQ đi bên phải, báo cáo thấy có hai đường giây điện thoại và hỏi ý kiến tôi, tôi ra lệnh cắt đứt 2 đường giây điện thoại đó và buộc vào gốc cây sát đất. Vì vật từ điểm phục kích của địch, đến BCH/HQ địch không liên lạc được. Không đầy 10 phút sau thì TĐ và Thiết vận xa chạm địch, quân ta đã phản kích quyết liệt. Trong khoảng thời gian hơn một tiếng rưỡi đồng hồ, TĐ và Thiết vận xa làm chủ tình hình, VC phải tháo chạy và có vài VC bị bắt cùng khẩu đội 12 ly 7 phòng không. Tổng kết trận phản kích này, chúng ta đã tịch thu được 2 khẩu 12 ly 7 phòng không, 6 B.40, 5 B.41 và 24 AK.47. Cũng là lần đầu tiên trong cuộc chạm súng này, TĐ đã tịch thu được một SA.7 hỏa tiễn phòng không mang vai. Tiểu đoàn đã trả giá 6 tử thương và 24 bị thương, không tính thiết vận xa .

Sau đó TĐ hành quân vào vùng Suối Sâu, đồn điền cao su nối liền với quận Trị Tâm. Địch đã xử dụng súng 82 ly không giật, bắn bay pháo tháp M.48, làm tử thương Thiếu Tá Chi đoàn trưởng và Đại úy ĐĐT/ĐĐ2/TĐ92BĐQ cùng 5 binh sĩ khác. Một kinh nghiệm cho thấy, thiết giáp rất khó khăn khi vào rừng cao su. Tuy ĐĐT/ĐĐ2 tử thương, nhưng vị Thiếu úy ĐĐP đã giữ vững tinh thần binh sĩ và ĐĐ3 đã ở bên cạnh, cùng nhau phản công, kết quả thu lượm được 5 B.40, 6 AK.47. Sau trận này, TĐ di chuyển về vùng Long Khánh, gần ngã ba Dầu Giây. Tiểu đoàn đã có mặt ở ấp Bàu Hàm và núi Sóc Lu. TĐ luôn bị VC bám sát để tiêu diệt, nhưng với tinh thần bất khuất và nhờ vào tin tình báo chiến thuật của P.7, Tiểu đoàn đã ngăn chặn kịp thời những cuộc tấn công của địch vào ban đêm.

Trong đêm 26-4-75, VC đã tấn công Trường Bộ binh Long Thành. Tiểu đoàn cùng TĐ 64/BĐQ/BP được lệnh giải tỏa Trường Bộ binh và quốc lộ từ trường Bộ binh đến Long Thành .

Những đoàn người chạy loạn từ quận Long Thành về Biên Hòa và Sàigòn là trở ngại lớn lao cho Tiểu đoàn. Tin tức người chạy loạn cho biết, quận Long Thành đã bị VC tràn ngập. Đoạn đường từ Trường Bộ binh đến quận Long Thành vào khoảng hơn 12 cây số, nhưng không thể tiến được. Chiều ngày 27-4-75, Tiểu đoàn được điều động về vùng Hố Nai và trông cảnh phi trường Biên Hòa đốt cháy mà lòng thắt lại. Cho đến sáng ngày 28-4-75, Tiểu đoàn tham dự một cuộc họp hành quân (chót) tại trại Lữ đoàn 3 Kỵ Binh. Sau khi họp xong, vị Tư lệnh V3CT, trước khi lên trực thăng đã nói: “Kể từ giờ phút này, có việc gì thì các anh cứ hỏi Thiếu Tướng KH…” .

Chiều ngày 29-4-75, Tiểu đoàn đã tham dự một trận đánh, tôi cho là rất ngoạn mục: Làm sao phải chiếm được cầu Hang Biên Hòa – Trong lúc này, cầu Hang đang bị một Trung đội VC đóng chốt – Không ngoạn mục sao được, dân chúng vùng Tân Vạn, toàn là lò gạch, đối diện với hậu cứ Tiểu đoàn chạy dài ra tới ngã ba xa lộ Biên Hòa . Dân chúng vùng Tân Vạn trước giờ chỉ biết hậu cứ Tiểu đoàn ở gần cầu mới Biên Hòa, họ chưa thấy BĐQ đánh giặc, đã kéo nhau ra xem TĐ92/BĐQ đánh chiếm cầu Hang. Binh sĩ TĐ 92/BĐQ đã tiến hàng ngang và yểm trợ rất chính xác, cho các tay xử dụng lựu đạn diệt chốt – Mỗi chốt của VC đã bố trí 1 B.40 và 2 AK.47 hầm trú ẩn là chữ V ngược – Khi nhổ xong những chốt ở cầu Hang, TĐ đã có 1 tử thương và 6 bị thương, đều được di tản về bệnh viện Cộng Hòa .

Tối ngày 29-4-75, dừng quân tại cầu Hang, Biên Hòa, tôi không sao chợp mắt được. Theo lịch trình BTL/QĐ3/QK3 sẽ rút khỏi Biên Hòa lúc 1 giờ đêm – Tôi nhắc nhở ĐĐ đóng quân ở cầu Hang phải cẩn thận khi đoàn xe đi qua – Đoàn xe qua cầu cùng với tiếng loa VC kêu gọi các Binh sĩ BĐQ nên đầu hàng .

Ngày 30-4-75 như các bạn và các niên trưởng đã biết, Tiểu đoàn cùng chung số phận ấy – Hạ màn.

K.T. 8-04

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Bút ký Mũ Đỏ, Mũ Đen

Đoàn Phương Hải
Tưởng nhớ anh Năm Nguyễn Đình Bảo, Nguyễn Đức Dũng, và những anh hùng Mũ Đỏ, Mũ Đen đã vị quốc vong thân tại Damber.

Gửi N/T Bùi văn Lộc – Lê Văn Mễ, Phạm Đức Hùng, Phan Cảnh Cho, và những chiến hữu Mũ đỏ, Mũ đen, Công binh… đã tham chiến tại Damber để nhớ những ngày ngút ngàn máu lửa.

Với sự yểm trợ, tiếp tay không giới hạn của khối Cộng Sản Nga, Tầu, Cộng Sản Việt Nam xua hàng chục Sư đoàn bộ binh cùng hàng ngàn xe tăng đại pháo quyết tâm xâm chiếm nhuộm đỏ miền Nam.

Hàng chục ngàn dân lành vô tội đã chết tức tưởi, oan khiên trong dịp Tết Mậu Thân, trên “Đại lộ kinh hoàng”, trên phố trên nhà, trên ruộng trên nương vì bom đạn. Quê hương dân tộc quặn mình trong bão lửa chiến tranh.

Để ngăn cản giặc thù, Quân lực miền Nam đã anh dũng chống trả giặc thù trên khắp 4 vùng chiến thuật. Không một địa danh nào có bóng Cộng quân mà không có gót giầy của người lính miền Nam tìm tới truy lùng tiêu diệt.

Nhằm phá vỡ hậu cần, an toàn khu của địch trên lãnh thổ Kampuchia. Giữa năm 1970 quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã liên tiếp truy kích, tiêu diệt địch trên lãnh thổ của xứ Chùa Tháp. Đầu năm 1971 các lưc lượng thiện chiến đã vượt biên đánh sang Hạ Lào, phá vỡ, tiêu diệt toàn bộ kho tiếp liệu, hậu cần, đại bản doanh, an toàn khu của Cộng Sản Việt Nam.

Sau hơn 2 tháng hành quân, vừa từ Hạ Lào trở về, Trung Tá Nguyễn Đình Bảo K14 Võ Bị, mang theo hơn chục năm kinh nghiệm chiến trường từ Lữ đoàn I Nhảy Dù được lệnh về chỉ huy Tiểu đoàn 11 Nhảy dù.

Sau thời gian ngắn chỉnh trang đơn vị, để ra mắt khai quân, 11 Dù đã trực thăng vận tiêu diệt gọn 2 Tiểu đoàn Cộng Quân bao vây căn cứ Hưng Đạo trên quốc lộ 22 chạy dài từ tỉnh lỵ Tây Ninh đến biên giới Việt Miên.

“Song kiếm trấn ải” 11 Dù tiến quân vào căn cứ trong tiếng reo hò, mừng tủi của anh em binh sĩ và gia đình sau hơn 2 tháng bị Cộng quân tấn công, bao vây và pháo kích đêm ngày.

Chiến thắng ngoạn mục đầu tay của quan Năm Nguyễn Đình Bảo làm nức lòng binh sỹ, mang khí thế mới về cho đơn vị.

Thừa thắng xông lên 2 Tiểu đoàn 11 và 5 Dù tiếp tục hành quân tiêu diệt địch quanh trại Lực Lương Đặc Biệt Thiện Ngôn, Lò Gò, Xóm Dứa, Xa Cát và Xa Cam.

Cuối tháng 10/1971, đang hành quân quanh căn cứ hoả lực Pace ngay sát biên giới Việt Miên thì 11 Dù được lệnh tùng thiết với Thiết đoàn 18 Kỵ binh vượt biên tiến chiếm mật khu Damber trên đất Kampuchia.

Dưới ánh nắng như thiêu như đốt, đất bụi đỏ ngầu, thì trên pháo tháp chiến xa, bên dàn máy truyền tin tua tủa “ăng ten” ngắn, dài, một người lính tầm thước với khẩu Colt 9 vắt ngang chiếc áo thung xám ngay trước ngực, đang sang sảng ra lệnh, chỉ huy. Đột nhiên ông giơ tay chào rồi nhảy xuống xe khi thấy Trung Tá Nguyễn Đình Bảo, Tiểu đoàn Trưởng TĐ11/ND đứng dưới gốc cây đang giơ cao tấm bản đồ. Hai người lính phong trần siết chặt tay, nhìn nhau rồi cùng phá ra cười.

– Niên trưởng “Đại Lộc”, lâu lắm anh em mình mới làm ăn chung, kỳ này vào Damber, chắc gay lắm phải không?

– Damber thì lúc nào chả gay, khúc xương khó nuốt, an toàn khu, bản doanh đầu não của Công trường 7 và 9 địch quân. Năm ngoái Thiết đoàn tôi và Mũ nâu Biệt động quần thảo suốt mấy ngày đêm với Trung đoàn Cộng quân tại “Miếu ông Sành”. Kỳ này mình phải nghiền nát Damber ra mới được!

Quan Năm mũ đỏ vung tay tự tin, rồi quay sang giới thiệu Thiết Đoàn Trưởng Thiết Đoàn 18 Kị binh, Thiếu Tá Bùi Văn Lộc Khóa 13 Võ Bị với Mễ, tôi, các Đại đội trưởng và ông Lang Tây Tô Phạm Liệu.

Xếp Mũ đen với biệt danh “Tầy Quầy”, lừng danh trận mạc trong binh chủng, người đẫy đà, da đen sạm vì phong trần, sương gió, cất tiếng cười sang sảng, quay sang bắt tay chúng tôi.

Tình tự Võ Bị từ ngày nhập trường ăn cơm lính, cho nên dù xếp Mũ đỏ, khóa 14, lon tuy cao hơn, nhưng vẫn một điều “Niên trưởng, hai điều Niên trưởng” xưng hô với xếp Mũ đen.

Đang đấu hót tưng bừng thì ông đàn anh Khóa 6 Võ Bị, Đại tá Trần Quang Khôi, Chỉ huy trưởng Thiết giáp vùng III chiến thuật đáp trực thăng xuống ngay trận địa.

Trải rộng tấm bản đồ hành quân với chi chít tình hình, trục tiến quân xanh đỏ của ta và địch, Đ/T Khôi bàn luận kế hoạch hành quân, vạch rõ mục tiêu là phá hủy hậu cần, tìm và tiêu diệt cho được Bộ Chỉ Huy Công trường 7 Cộng quân đang có mặt tại Damber.

Thung lũng Damber dài gần hai chục cây số bên liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7 trên đất Miên, nằm lọt trong những cánh rừng trùng điệp cây cao rậm rạp bao quanh. Tuy nhiên địa thế Damber lại tương đối trống với rất nhiều gò mồi, cây cối lúp súp, phủ đầy cây leo rậm rạp nhưng không cao quá đầu người. Băng ngang thung lũng là một con suối khá lớn, mùa này nước đã cạn nhưng đất rất dễ bị lún, gây khó khăn cho chiến xa di chuyển.

Trên quốc lộ 7, nhiều toán công binh chiến đấu, xe ủi đất của ông đàn anh Lâm Hồng Sơn mới gặp khi đi họp hành quân, đang vất vả phá hủy mìn bẫy, sửa chữa cây cầu chiến lược trên trục tiến quân.

Đoàn cua sắt trải rộng đội hình ào ào băng ngang những cánh đồng cỏ non. Làng mạc thôn xóm thanh bình, hiền hòa sau lũy tre, bên những hàng thốt nốt hoa trắng như hoa cau, cao thẳng, ngả nghiêng theo gió nổi bật trên nền trời.

Lính Dù không phải lội bộ nên thích thú cười đùa trên chiến xa, đang tiến quân như chẻ tre, càn quét qua các mục tiêu. Sau khi lục soát quanh căn cứ hỏa lực Hồng Hà ngay ngã ba liên tỉnh lộ 75 và quốc lộ 7, thì lực lượng xung kích Dù và Thiết kỵ chia làm 2 cánh.

“Mê Linh” Lê văn Mễ, Thiếu Tá Tiểu đoàn phó TĐ11ND và Đại Đội 114 của Trung úy Phan Cảnh Cho, phối hợp với Thiết vận xa M 113 giải tỏa, thanh toán áp lực địch đang ngày đêm pháo kích, bao vây tấn công căn cứ hỏa lực Hồng Hà. Sẵn sàng tiếp ứng cho mũi xung kích của Trung Tá Bảo và Thiếu tá Lộc đánh thẳng vào mật khu Damber.

Xếp Mũ đen có vẻ thắc mắc, ngạc nhiên khi thấy chúng tôi lúc nào cũng “Anh Năm, Anh Năm” xưng hô với xếp Mũ đỏ, mà không gọi bằng cấp bậc.

– Mấy chú em trong đơn vị ít khi kêu tôi là Trung Tá, lúc nào cũng xưng hô là Anh Năm, Anh Năm! Nghe mãi thành quen, thân mật, gần gũi như anh em trong nhà. Image Nguyễn Đức Dũng, Hoàng Ngọc Hùng, Phạm Đức Hùng, Ba Đại úy Đại Đội Trưởng lừng danh Mũ đỏ, dầy dạn chiến trường, cùng xuất thân Khóa 22 Võ Bị, đang phối hợp với 2 Chi Đoàn Trưởng Mũ đen lừng danh trận mạc là “Bắc Đẩu” và “Phi Điểu” ào ào tiến quân trực chỉ Damber.

Địa thế vùng hành quân bắt đầu thay đổi khi một số chiến xa M 41 bẵng qua cây cầu lớn trên liên tỉnh lộ 75 vừa được Công binh sửa chữa. Ngay dưới cầu là một con suối khô, chạy từ Đông sang Tây ngang qua thung lũng Damber. Địa thế trở ngại cho chiến xa khi phải băng qua khu vực thấp và lún dưới lòng suối cạn, nhưng với thiết vận xa M113 thì không có gì trở ngại.

Với cái nhìn sắc bén, tinh nhậy của nhiều năm xông pha trận mạc, đàn anh mũ đỏ, mũ đen nhận ra ngay đây là tử điểm quyết định chiến trừơng, nên quyết định lựa một Trung đội Nhảy dù gồm toàn những tay súng gan dạ, kinh nghiệm cùng mình, và Sĩ quan liên lạc pháo binh nằm lại để nghe ngóng tin tức địch quân.

– Địch sẽ phục kích tại đây khi Chiến đoàn kéo quân trở ra! Mình sẽ dùng không quân, trận địa pháo và hỏa lực hùng hậu của Thiết giáp nghiền nát chúng tại đây!

Anh Năm gật gù cười, khoái trá nói với chúng tôi, giống như khi anh nheo mắt mó trúng con nhất vạn, ngửa bài ù toàn hàng trong canh mạt chược trên đồi Mũ đỏ, hay những lần đóng quân trong vườn Tao đàn đầy cây cao bóng mát, nườm nượp “khách giang hồ” lui tới ghé thăm.

Sau cả ngày tiến quân, tiêu diệt vài toán trinh sát nhỏ của địch. Chiến đoàn đóng quân quanh ngôi chùa cổ.

“Tubip” Liệu, anh Năm và tôi, ngồi trên M113, nhìn nắng chiều trải những giải mây ngũ sắc giăng ngang lũy tre, vắt ngang mái chùa cong, nhuộm hồng khu nhà sàn trong xóm. Xa xa, trên bờ đê, lũ trẻ mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu bên mấy nhà sư áo vàng nổi bật trên cánh đồng nhuộm ánh tà dương đang lững thững về làng, trông thật thanh bình, êm ả. Nếu không có chiến xa gầm thét, không có xích sắt quần nát ruộng nương, không có vỏ đạn đồng rải sáng bờ đê, xác người cong queo trên ruộng vườn kinh lạch, thì những người dân quê hiền lành kia nào ai biết đến chiến tranh!

Qua khỏi Miếu Ông Sành, (T/Tá Phan Văn Sành K17 Đà Lạt, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 30 BĐQ tử thương khi đụng địch gần ngay miếu. Anh em Mũ nâu tiếc thương đặt tên Anh cho ngôi miếu cổ) là hàng chục xác chiến xa cháy đen nằm rải rác trên cánh đồng. Mũ sắt, giầy trận, nón cối, dép râu vương vãi trên chiến điạ. Thiếu tá Lộc cho biết hồi đầu năm, hai Trung đoàn chủ lực của địch đã phục kích chiến xa và lực lượng hành quân ngay tại đây, gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên.

Lại thêm một ngày bình yên trôi qua, tình hình yên tĩnh một cách đáng ngại. Chưa có chỉ dấu nào là 2 Trung đoàn của Công trường 7 có mặt trong vùng hành quân, theo như không ảnh và tin tức tình báo cấp cao của Quân đoàn ghi nhận.

– Anh Năm, địch cố tình tránh né không muốn đụng?

– Thì chúng cố tình dụ mình vào thật sâu rồi mới dốc toàn bộ lực lượng phục kích khi mình kéo quân ra. Hình như địch đã biết trước kế hoạch hành quân. Liên lạc toán trinh sát coi có nghe ngóng động tĩnh gì không? Nhớ ghi kỹ tọa độ, sẵn sàng pháo binh yểm trợ cho tụi nhỏ.

Đêm ngột ngạt yên tĩnh trong tiếng kinh, tíếng mõ văng vẳng từ ngôi chùa gần khu đóng quân.

– “Khều”! Năm ngoái, Tiểu đoàn 7 Nhảy dù đụng ở khu nào vậy?

– TĐ7ND cùng Thiết đoàn 5 của Trung Tá Thoàn là mũi xung kích cho Chiến đoàn 333 đánh qua Soài Riêng, vào Damber đụng lớn ngay trong khu này và thắng một trận lớn ở Phum Longieng.

Có đêm mới 2, 3 giờ sáng, Đại Tướng Đỗ Cao Trí đã đáp trực thăng ngay trận địa, bất ngờ ra lệnh cho Dù và Thiết kỵ ào ào đánh vào Damber tạo nhiều chiến thắng lớn.

Sau khi góp ý, bàn thảo thêm kinh nghiệm, mọi người im lặng tìm giấc ngủ với những suy nghĩ vẩn vơ.

Tiếng gầm thét của chiến xa, phá tan buổi sáng mờ sương khi ánh dương chưa lên khỏi hàng cây thốt nốt bên lũy tre làng. Tới gần trưa thì lực lượng hành quân đã càn quét hết các mục tiêu chỉ định tại Damber mà không gặp sức kháng cự nào đáng kể của địch!

Dù và Thiết kỵ dừng quân quanh ngôi chùa cổ. Vừa bước chân vào sân chùa thì đã thấy sư cụ chủ trì cùng đám dân quê cả trăm người gồm ông già bà cả, đàn bà con nít khóc như ri, đang run rẩy sợ sệt qùy lạy như tế sao.

Chúng tôi ngỡ ngàng vội đỡ tay hòa thượng đứng lên và chắp tay xá lại. Trên khuôn mặt gầy gò, đen sạm già nua, đôi mắt sâu ẩn dưới cặp chân mày bạc trắng nhuốm lên nét chịu đựng đau buồn.

Mặc dù mấy anh lính Miên trong đơn vị đã giải thích cho nhà sư và dân chúng biết mục tiêu của cuộc hành quân là tìm diệt Việt Cộng nhưng họ vẫn vừa lạy vừa khóc!

Hình ảnh ngôi đình, đứa bé đội chiếc mũ nồi đen, nắm chặt tay mẹ bên đám dân làng run rẩy, sợ sệt quỳ lạy đám lính Tây Lê dương ở nhà quê miền Bắc mấy chục năm trước hồi tôi còn bé chợt thoáng hiện về!

Lịch sử đang vô tình tái diễn. Ngày xưa tôi là một đứa bé ngơ ngác run rẩy, vái lạy đám lính Lê dưong. Ngày nay tôi đang là một người lính Nhảy dù đứng nhìn bầy trẻ đói gầy, đen đúa xá lạy chúng tôi trên một quê hương xa lạ!

Image
Trung Tá Nguyễn Đình Bảo (phải), Tiểu đoàn trưởng cùng tác giả, Đại Uý Đoàn Phương Hải (trái), sĩ quan hành quân,
thuộc tiểu đoàn 11 Nhảy Dù tại Damber, Campuchia 1971.
Tuổi thơ Việt Nam trong thời loạn lạc, sợ xe tăng thiết giáp, vết giầy đinh trên bờ đê, khóc thất thanh khi thấy lửa cuồng bạo đốt cháy xóm làng. Ngày nay, những đứa bé, những người dân Miên khổ nạn kia cũng đang run sợ khi bom đạn đốt hừng hực đốt cháy quê hương!

Thấy dân làng và bầy trẻ nhỏ run sợ, thiếu đói, nghèo nàn bên dăm ba củ khoai, một ít cơm độn bắp với những vết thương máu mủ tanh hôi đang làm độc trên thân thể.

Anh Năm, “Đại Lộc”, ra lệnh cho tiền trạm xin trực thăng chở gạo sấy, đồ hộp, thuốc men vào vùng hành quân.

Xế trưa hôm đó những người lính mũ đỏ, mũ đen, gom dân lại để cấp phát lương thực. Băng bó, chữa trị những vết thương mưng mủ đang làm độc trên mình những người dân khốn khó và những đứa bé đen đúa gầy gò, khổ nạn của chiến tranh.

Nhìn những đôi mắt ngây thơ trẻ dại, rạng rỡ hân hoan nhai kẹo cao su, thè lươĩ liếm môi cho hết chút đường cát trắng, chậm chậm cắn miếng thịt heo. Mắt long lanh, đứng ngẩn người để cảm thấy vị ngọt, mùi thơm đang từ từ tan tận kẽ răng, ngấm sâu vào từng thớ thịt với những nụ cười hồn nhiên ánh mắt vui sướng, trông mới sót sa tội nghiệp làm sao!

Chắc đã lâu lắm chúng mới có một ngày no đủ. Vài đứa bạo dạn lại gần chiến xa, sờ sờ mó mó, khiến tôi nhớ lại hình ảnh tuổi thơ với chiếc quần đùi nâu đứng bên đường số 6, nghếch mũi ngửi cái mùi ngái ngái thơm thơm của dầu săng khi lại gần chiếc xe nhà binh.

Đêm im vắng, trời trong cao, lóng lánh muôn ngàn tinh tú. Văng vẳng tiếng tụng kinh ê a hòa với tiếng mõ khoan thai đều đều của sư cụ và mấy chủ tiểu trên chùa.

Gối đầu lên ba lô, ngả lưng trên nền gạch dưới mái hiên chùa, chúng tôi kể cho nhau nghe những ngày Tây về làng, theo bố, mẹ chạy loạn, tản cư, từ Cống thần, Chợ đại về tới Phủ Lý, Hà Nam..

Quê hương tôi sao quá đọa đầy! Ngàn năm đô hộ chống Tầu, trăm năm Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi chống đánh Nhật, chống Tây. Năm 1954, đất nước chia đôi, yên ổn vài năm rồi lâm cảnh nồi da sáo thịt, huynh đệ tương tàn vì chủ nghĩa Cộng sản, vì mộng nhuộm đỏ giang san của người anh em miền Bắc!

Nghe tiếng đạn bom từ thuở lọt lòng, tham dự chiến tranh cầm súng bóp cò khi tuổi đời vừa đủ lớn đủ khôn!

Nếu vương quốc Cao Miên không cho phép Cộng quân lập an toàn khu trên lãnh thổ để tiến đánh miền Nam, thì chắc chắn xe tăng, đại pháo và những người linh miền Nam sẽ không có mặt trên xứ sở xa lạ nghèo nàn này!

Nhấm nháp ly cà phê nóng đầu ngày, khi những vệt nắng ban mai nhảy múa lung linh trên pông sô, bên tiếng hót trong cao của bầy chim chích chòe trên mái tam quan. Lòng thanh thản vì vừa qua một đêm yên tĩnh, không có tiếng súng, tiếng bom. Tôi lẩm nhẩm cầu xin may mắn cho đơn vị khi bứơc vào chùa giã biệt vị sư già.

Chiến xa lăn xích hướng về lại căn cứ hoả lực Hồng Hà để trở về quê mẹ. Hình ảnh dân làng và bầy trẻ đang giơ tay vẫy thấp thoáng bên lũy tre.

Nắng đã lên quá đỉnh đầu, không khí oi bức nhột nhạt khó chịu. Sau mấy tiếng đồng hồ quần nát vùng hành quân, chiến đoàn phân tán quân quanh bìa rừng để chờ tiếp tế lương thực, đạn dược và săng nhớt. Trực thăng võ trang bay lượn bao vùng cho mấy chiếc Chinnok đáp xuống tiếp tế. Hai ba chuyến thả hàng xong xuôi, chuyến cuối cùng đang là là trên mặt đất thì đột nhiên phòng không, cối 82 và hỏa tiễn của địch từ nhiều hướng khác nhau nhả đạn như mưa. Một Chinook trúng đạn sau đuôi, bốc cháy như một cây đuốc khổng lồ.

Trực thăng võ trang bao vùng nhào lên nhào xuống bắn phá vị trí pháo của địch.

May là rớt gần mặt đất nên phi hành đoàn Mỹ từ trong trực thăng chạy kịp ra khỏi thân tầu, trước khi trực thăng phát nổ. Lính mũ đen ào tới xịt bình chữa lửa lên mình mấy anh phi công Hoa Kỳ rồi kéo họ nhào xuống hệ thống phòng thủ.

Vì địa thế bằng phẳng toàn bụi rậm và rừng cây thấp nên phi cơ quan sát nhận ra vị trí súng của địch, chỉ điểm cho khu trục tới tấp nhào xạ kích, đánh bom trong màn lưới phòng không địch từ nhiều vị trí.

Mấy thiết xa M48 chất đầy săng nhớt mới tiếp tế may mắn không bị cháy, đang chạy ngang chạy dọc bơm săng, bơm dầu cho chiến xa.

Phi hành đoàn chiếc Chinook trúng đạn đang liên lạc qua hệ thống Mỹ để chờ trực thăng bốc ra.

Trời đã về chiều, đoàn quân di chuyển qua vị trí khác tìm địa thế đóng quân đêm.

“Tubip” Liệu đang chữa trị cho mấy quân nhân bị thương nhỏ to với ông bạn Bác sỹ quân y bên Thiết giáp.

– Bắt đầu vất vả rồi đó, đi chung với mấy ông mệt bỏ mẹ, lúc nào cũng ầm ĩ đầy mùi săng nhớt, phun khói đầy trời, nằm phơi bụng, phơi lưng lên cho chúng pháo. Chỉ được cái khỏe là đỡ phải lội bộ, hỏa lực ăn trùm thiên hạ và nhất là đầy đủ mấy ông Bud, ông 33 (bia Budwiser và bia 33)!

– Nhưng cũng dễ thành than lắm ông ơi! Mới chưa đầy một năm về đơn vị mà thiết đoàn đã đụng lớn cả chục lần, “rang muối” gần chục xe rồi đấy ông ơi !

Ngoài tuyến phòng thủ lính tráng đang đào hầm hố, dựng lưới chống B40 ngay trước đầu xe.

Quá nửa đêm khi mọi người đang say ngủ thì bỗng choàng mình tỉnh giậy, lăn xuống hố vì những tiếng nổ kinh hoàng cày tung đất đá ngay sát bên tai.

Tiếng nổ của hỏa tiễn, của cối 82 nghe ngắn, tê lạnh, buốt sắt đến hãi hùng. Cái âm thanh quen thuộc giống như tiếng mở nút chai nghe rõ mồn một từ góc rừng, kèm theo là những tiếng rít, tiếng hú rợn người của hỏa tiễn 122 đang quơ lưỡi hái tử thần sé gío bay đến vị trí đóng quân.

Mặc dầu đã qúa quen thuộc với những cơn mưa pháo khủng khiếp ở Hạ Lào, ở vùng hỏa tuyến. Thế nhưng cái giây phút cực kỳ ngắn ngủi, căng thẳng thần kinh trong lúc đạn đang bay tới mục tiêu vẫn làm cho thần kinh căng thẳng, tức ngực và khó thở! Vừa nghe đạn nổ đằng trứớc, đằng sau, bên trái, bên phải, thì lại hồi hộp, miệng đắng lưỡi khô khi nghe tiếng rít của đợt pháo tiếp theo. Cứ như thế mà chờ mà đợi, phó thác cho số mệnh!

Đột nhiên một tiếng nổ chát chúa kinh hoàng làm rung chuyển cả xe. Tai tôi ù đi, tối tăm mặt mày khi toàn thân văng lên đập vào thành xe. May là có thói quen khi nghe tiếng pháo là chụp chiếc mũ sắt lên đầu, nên không hề hấn gì cả. Ngay bên canh Trung tá Bảo cũng đang ôm ngực chống tay, dựa vào thành xe.

Lệnh lạc, báo cáo vang lên trong máy, “Bảo Ngọc” chụp ống liên hợp liên lạc với “Đại Lộc” và các đại đội ngoài phòng tuyến.

Bỗng có tiếng báo cáo của toán tiền đồn cho biết là Việt cộng tập trung rất đông, đang dàn quân, đào hầm hố, bố trí theo bờ suối, sát đường.

Vì sợ bị lộ vị trí nên toán tiền đồn sau khi đã quan sát, theo dõi và cho tọa độ vị trí địch, xin rút ra điểm hẹn trước khi trời sáng.

Mặc cho pháo vẫn tiếp tục rơi, thân thể còn đang ê ẩm. Anh Năm và tôi như vừa được uống một liều thuốc hồi sinh, quên cả đau, dán mắt vào vị trí địch quân trên bản đồ để phác họa trận địa pháo trút lên đầu địch.

– Đúng ngay chóc là thế nào chúng cũng phục kích mình tại đây. Tao sẽ dùng chiêu “Gậy ông đập lưng ông, tiền pháo hậu xung” mà địch vẫn thường dùng, để mưa pháo và bom lên đầu chúng. Hỏa lực sẽ thiêu đốt sạn đạo Damber. Công trường 7 Cộng quân sẽ tan nát, thảm bại trong trận thư hùng quyết tử này!

Anh Năm vừa nói, vừa khoanh tròn, di tới di lui cây viết chì mỡ trên tấm bản đồ, ngay vị trí địch một cách đầy tin tưởng.
Image
Ban Tham Mưu/Hành Quân chiến trường Damber 08/1971
Có tiếng C 47 Hỏa long vào vùng thả hỏa châu, đại liên 6 nòng như bò rống xả đạn vào vị trí địch, nhờ thế mà pháo địch im tiếng.

Vừa chui ra khỏi xe tôi đã điếng hồn vì trái hỏa tiễn 122 ly nổ ngay cạnh đào một hố sâu bên thành xe. Mảnh pháo chém đứt xích thiết xa, cây đại liên 50 trúng mảnh cong vòng văng xuống đất.

– Anh Năm, mình hên thật, chút xíu nữa là đi đứt. Kỳ này hành quân về Anh phải cúng heo và rời cột cờ đi chỗ khác!

– Mấy thằng tụi mày sao lúc nào cũng lèm bèm, tối ngày tìm đọc ba cái trò bói toán, tử vi, luận bàn cứ như thánh sống làm tao điên cái đầu!

Tubip Liệu mới từ xe bên cạnh chui ra phán thêm một câu.

– Đệ nhất phong thủy miền Nam, “Diễn tiên sinh”, khi được xếp lớn đón lên coi doanh trại đã lắc đầu nói là bộ chỉ huy nằm trên thế đất sát chủ. Đã thế sân cờ lại còn đối diện với Nghĩa trang quân đội. Nếu không dời ngay xuống phía Nam trông ra bờ sông thì lành ít dữ nhiều, chắc anh còn nhớ chứ anh Năm!

– Nghe nói Phủ đầu rồng, Dinh Thừa tướng, Bộ Tổng tham mưu, một số đại quan văn võ trong triều muốn thăng quan tiến chức, hưởng đủ bổng lộc trời ban, đều phải năm lần bảy lượt xin yết kiến “Diễn tiên sinh”, đó anh Năm!

– Ông Cần, Ông Tĩnh lựa Bộ chỉ huy và sân cờ, tao mới về có lựa chọn gì đâu! Nhưng chẳng biết đó là điềm vui hay điềm buồn, điềm lành hay điềm xấu cho quốc gia, mà Phủ đầu rồng, dinh Thừa tướng lại tin vào bói toán tử vi. Nay con rùa đặt chỗ này, mốt hồ nước, giả sơn đặt chỗ kia. Mình là dân quanh năm đánh đấm, trước khi xuất quân lại tin phong thủy, gieo cầu, cúng bái cầu xin thì còn đánh đấm giặc giã gì nữa!

Tôi ngước lên cao, trời trong ngập ánh trăng, cần ăng ten, đại bác, bóng người quanh pháo tháp lung linh di chuyển ngã dài theo ánh hỏa châu. Đại liên 6 nòng từ máy bay vẫn như bò rống vạch ngang vạch dọc từng giây đạn lửa đỏ rực trong đêm, xen kẽ với tiếng phòng không từ nhiều vị trí địch khác nhau bắn lên máy bay, đạn lửa đuổi nhau giữa bầu trời đầy sao vẽ thành bức họa chiến tranh lạ mắt.

Để chắc ăn cho cuộc tấn công vào sáng ngày mai, chúng tôi xin mấy “thảm” B52, nhưng Bộ chỉ huy cho biết là không có, và sẽ dành ưu tiên pháo binh, không quân cho trận điạ.

– Sáng rồi, mình “thượng đài” nhập trận đi anh Năm!

– Báo cho Mê Linh đón tụi nhỏ tiền đồn và sẵn sàng trong đánh ra, ngoài đánh vào, kẹp địch ngay chính giữa.

-Tụi nhỏ đã gặp phe ta rồi, hôm qua Mê linh làm ăn lớn, tiêu diệt nguyên một đại đội đặc công đánh vào căn cứ, tịch thu nhiều vũ khí và tài liệu của địch.

Trời sáng dần, ngồi trên pháo tháp chiến xa tôi nhấc ống nhòm nhìn về khoảng rừng trước mặt. Dọc theo tỉnh lộ, khu rừng lau đầy hoa trắng ngả nghiêng uốn mình theo gío, cảnh vật im vắng trong làn sương mỏng ban mai.

Sau những gò mối, lùm cây, bên bờ suối, giờ này chắc địch quân đang ẩn mình dưới giao thông hào. Chắc chúng cũng đang hướng ống nhòm, căn góc độ, dựng biểu xích, mở khóa an tòan của đủ loại vũ khí chờ Thiết giáp và Nhảy Dù tiến vào mục tiêu.

Tôi chợt nghĩ đến gia đình, một thoáng Saigon, mái ấm gia đình mờ mịt cuối chân mây.

Sau khi đã bàn thảo với “Đại Lôc” xếp Mũ đen, lệnh lạc rõ ràng cho các cánh quân. Trung tá Bảo vỗ mạnh vai tôi, xiết chặt hai tay vào nhau, ý như bóp nát địch quân. Ngay lúc đó là hàng ngàn tiếng rít sé gió của 3 pháo đội pháo binh Nhảy Dù của ông “Lước Hốc Môn” từ nhiều vị trí khác nhau “T.O.T” chụp đạn xuống mục tiêu. Rừng cây đất đá, bụi lửa tung lên cao khi đạn pháo xoáy vào lòng đất. Lẫn trong tiếng nổ hẳn có những đôi mắt trợn trừng lẫn với tiếng gào thét đớn đau. Máu thịt, cốt xương sẽ tan từng mảnh tung lên cao, vướng trên cành cây ngọn cỏ, hay vùi sâu trong lòng đất.

Hàng ngàn đạn pháo, hết đợt này đến khác vẫn đang xé gió cày tung vị trí Bắc quân.

Pháo vừa ngưng thì phi cơ quan sát L19 từ trên cao nhào xuống mục tiêu hướng dẫn khu trục oanh kích trận địa.
Image Từng đoàn khu trục, âm thanh rít bên tai, lao từ trên cao thả hàng chuỗi bom chụp trên trận địa rồi kéo cánh lên cao, trông rõ bộ đồ bay màu cam và chiếc nón bay của các phi công bạn.

Rừng cây bùng lên trong biển lửa khi bom “Napalm” chạm mặt đất hừng hực thiêu đốt cây rừng.

Phòng không địch bắn lên phi cơ, vẽ những bông hoa khói, xám đen, nổ như pháo bông dầy đặc quanh thân tầu.

Đúng là địa ngục rực lửa, lửa từ lưng trời rót xuống, lửa từ mặt đất bốc lên, lửa vàng chói hừng hực, cuồng bạo đốt cháy cỏ cây, thiêu hủy thân xác con người. Tất cả chỗ nào cũng chỉ nghe tiếng đạn tiếng đạn bom, chỗ nào cũng chỉ toàn lửa và lửa.

Phi cơ lắc cánh chào quân bạn bay khỏi vùng. Chiến trường còn đang bốc khói là Thiết giáp và Nhảy Dù xả đủ loại hảo lực ào ào xung phong vào trận địa.

Mặc dù bị nhồi giập vì pháo binh, bị đốt ngập trong biển lửa, nhưng đủ loại hỏa lực đại liên, B40, B41, đại bác không giật của địch vẫn nhả đạn như mưa vào đoàn cua sắt đang ào ạt tấn công.

Bị dồn vào tử lộ không lối thoát thân nên địch liều chết tử chiến tới cùng. Xạ thủ phòng không bị xích chân vào đại liên 37 ly nhả đạn như mưa chống trả.

Phối hợp nhịp nhàng nhị thức Bộ binh, Thiết giáp, kể cả chiếc xe ủi đất lớn của công binh cũng đang giơ nghiêng lưỡi cày bằng sắt dầy ngăn đạn cho lính Dù nhào lên thanh toán mục tiêu. Đây là lần đầu tiên trong bao nhiêu trận chiến lính Dù mới thấy cảnh lạ lùng khi anh tài xế can đảm, gan dạ, say khói súng cùng mũ đen, mũ đỏ lái xe ủi đất xông trận.

Ác chiến kéo dài từ sáng tới chiều. Mùi thuốc súng, mùi da thịt khét lẹt từ hàng trăm xác địch cháy đen. Xương thịt máu me nhầy nhụa đỏ lòm trong mắt xích chiến xa văng lên pháo tháp làm tôi muốn ói trước cảnh tượng khủng khiếp và ghê rợn.

“Tubib” Liệu và toán y tá quần áo đầy máu sau mấy gò mối lớn đang cấp cứu cho các thương binh.

Khi những tia nắng chiều vàng đỏ cuối ngày, lướt thướt kéo ngang rừng cây, nhuốm đỏ thành cầu, thì trận chiến cũng vừa tàn.

Bùn lầy, cỏ tranh, khu rừng hoa lau trắng đỏ ngầu màu máu, xác địch ngổn ngang, co quắp cháy đen.

Dăm ba chiếc nón sắt rằn ri móp méo lủng sâu vết đạn nằm bên những chiếc nón cối ngụy trang đầy lá cây rừng bên bờ lau sậy xào xạc gío chiều.

Trận chiến nào cũng có mất mát thương vong. Đại úy Nguyễn Đức Dũng Đại Đội Trưởng/ Đại đội 111/ TĐ11ND cùng gần 30 mũ đỏ, mũ đen đã hy sinh, và khoảng 10 thiết xa bị bắn cháy.

Tựa bên pháo tháp chiến xa nhìn về phía rừng cây, tôi như đang thấy những cánh rừng thông bạt ngàn xanh ngắt trên Đà lạt. Như thấy Dũng trong bộ đại lễ trắng đang quỳ xuống, đứng lên trong ngày lễ mãn khoá trên Vũ đình trường. Xa xa Lâm Viên đỉnh hùng vĩ giữa trời xanh… Tiếng gió, tiếng kèn, quyện với giọng ngâm buồn u uẩn bên ngọn lửa thiêng bập bùng trong đêm Truy điệu…

“Mô đất lạ chôn vùi thân bách chiến.

Máu anh hùng nhuộm thắm lá cờ Nam!

Sau khi tham dự hành quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào trở về. Vì nhu cầu công vụ, nên Dũng đang là một Sĩ quan sáng giá của Tiểu đoàn 5 Nhảy dù được lệnh thuyên chuyển về làm Đại Đội Trưởng cho TĐ11ND. Cả đơn vị không ai là không nhớ dáng dấp thư sinh, đẹp trai, hay mắc cỡ, mặt đỏ bừng như con gái của Dũng. Chính vì hiền lành dễ thương, lúc nào cũng cười, nên Dũng nổi tiếng đào hoa ttrong đám bạn bè, và thường bị các cô trêu chọc.

Đất lạ Damber đã cướp mất người anh hùng tuổi trẻ. Nguyễn Đức Dũng, khóa 22 Võ Bị. – Người “Thích mặc quân phục từ nhỏ, và đội Nón Đỏ khi ra trường”

Người sỹ quan Dù can đảm, tháo vát trẻ trung, chưa thỏa chí tang bồng thì đã bỏ đồng đội bỏ anh em!!!

Ngủ yên đi Dũng! Và nhớ kéo dù theo gió bay về quê cũ Bắc Ninh, nơi chốn bình yên, nơi dòng sông tuổi nhỏ, phụ lưu sông Đáy, sông Hồng cuồn cuộn phù sa. Nơi có giọng hò Quan Họ, hội Lim, nơi cất tiếng khóc chào đời, nơi không binh đao thù hận.

Trên đồi Mũ đỏ Long Bình, dưới giàn hoa dưa tím phất phơ bay trước căn phòng nhìn xuống ngã ba sông Đồng Nai mênh mông uốn khúc bên làng Cao Thái đầy cỏ nội hoa rừng, thoảng mùi thơm khuynh diệp sẽ mãi mãi vắng thiếu bóng anh!

Đêm đó Chiến đoàn dừng quân ngay trên trận địa, người sống và người chết ngủ vùi cạnh bên nhau.

Nằm yên trên võng, tôi lơ đãng nhìn những ngôi sao đổi ngôi sẹt ngang bầu trời, để nghe hơi thở, khói súng chiến trường lắng đọng trong tim.

Ngoài kia tiếng rên la đau đớn của thương binh ta và địch, đang gọi tên người thân, chống chọi từng giây từng phút với tử thần, còn có tiếng rên la, trăn trối của một sĩ quan thương binh miền Bắc nghe rất lạ tai!

Chữ nghĩa, ngôn từ đã hoàn toàn đổi thay từ khi chúng tôi xa đất Bắc di cư vào Nam năm 1954. Đêm nay, người thương binh địch, quê quán Hà đông, cùng tuổi, cùng quê với tôi. Biết đâu thuở nhỏ lại chẳng biết nhau bên gốc đa đầu làng, chơi với nhau trước sân đình, bên giếng nước, khi mới dăm bảy tuổi. Anh thương binh đang thều thào gọi tên vợ con khi biết mình khó lòng sống sót với viên đạn xuyên ngang lồng ngực. Tấm hình đen trắng mộc mạc của cô gái quê với hàng chữ thương yêu gửi tặng chồng khi vượt Trường Sơn. Tấm ảnh vấy máu, đang nằm trong đôi tay khô héo, khi Tubip Liệu lấy ra từ trong túi đặt lên tay anh.

Dù mũ đỏ, mũ đen, dù nón cối dép râu, hay Bắc, Trung, Nam, khi nhắm mắt xuôi tay thì xác thân đều sẽ rã mục hình hài làm xanh tươi cây lá. Gió núi mưa rừng sẽ gột sạch máu xương. Chim chóc, muông thú sẽ kéo về. đời sống sẽ trở lại, thôn ấp xóm nhà, lũy tre, ruộng đồng, cây trái, sẽ xoá mờ đi vết tích chiến tranh.

Tôi nằm đong đưa trên võng chập chờn nghĩ tới vợ con, để biết mình vừa sống còn qua trận chiến.

Với mấy trăm xác địch nằm ngổn ngang khắp nơi trên chiến địa. Đại liên phòng không, cối 82, B40, B41, đại bác không giật và hàng trăm cây AK sắp đầy như củi trên 4 chiếc M548. Trung đoàn địch trấn giữ Damber kể như bị xóa tên trên bản đồ trận liệt.

Dưới ánh nắng gay gắt, chói chang hầm hập nung người của xứ chùa Tháp, mùi hôi của xương thịt người chết mặc kẹt trong xích xe bắt đầu xông lên khó chịu.

– Hôi quá! Cả ngày ăn ngủ trên xe sao mấy anh chịu nổi!

– Thì cũng quen đi thôi!

Nói xong người lính Mũ đen rít hơi thuốc thơm Quân Tiếp vụ, từ từ nhả khói giọng nặng chĩu u buồn.

– Chiến tranh mà! Mới đó mà tôi đã qua 8 năm chiến trận. Không biết còn đánh nhau cho tới bao giờ! “Đi đêm mãi chắc cũng có ngày gặp ma”!

Tiếng máy truyền tin oang oang chuyển lệnh cho đòan quân rời vùng, tiếp tục hành quân giải tỏa liên tỉnh lộ 7.

Mấy con qụa đen cất tiếng kêu quang quác, đang đứng rỉa lông trên nòng cây đại bác cong queo, cạnh vòng hoa kẽm gai trên mấy chiếc chiến xa cháy đen ngoài cánh đồng.

Đã hơn hai tháng miệt mài trong lửa đạn. Tôi đang nhớ Saigon, nhớ vợ con. Nhớ dàn hoa giấy đỏ trước nhà, và những con chim gi, chim chích chòe mỏ đỏ, cánh đen bay chuyền trong buổi trưa hè. Tự nhiên tôi thèm tô phở, ly cà phê, hơi thuốc. Nơi cuối trời, bếp lửa gia đình mờ mịt cuối phưong Nam…

****

Chiến tranh càng ngày càng nghiệt ngã. Quê hương, sông núi quặn chìm trong bom đạn. Tuổi trẻ miền Nam hết lớp này đến lớp khác gục ngã, hy sinh trên núi trên rừng, trên ruộng trên nương… lấy xương trắng máu đào để bảo vệ miền Nam.

Sau chiến thắng Damber, hơn nửa năm sau, một số bạn bè, đệ huynh trong trận chiến này đã lần lượt hy sinh trong mùa Hè bão lửa 1972.

Tháng 12/4/1972 Trung tá Nguyễn Đình Bảo vĩnh viễn nằm lại trên đỉnh Charlie vùng ba biên giới quân khu II, sau một tuần lễ tử chiến đẫm máu với 2 Trung đoàn 64 và 48 của Sư đoàn 320 Cộng quân.

Đai úy Hoàng Ngọc Hùng ĐĐTT112/TĐ11ND hy sinh ngay trước sân nhà, nơi anh cất tiếng khóc chào đời, sống những ngày ấu thơ êm đềm ngoài Quảng Trị. trong trận chiến tái chiếm Cổ Thành 6/1972.

Chi đoàn Trưởng Thiết Kỵ “Phi Điểu” hy sinh trong trận ác chiến tại đồn điền Krek, Kampuchia.

Chi đoàn Trường Chiến xa Bắc Đẩu chiến đấu tới hơi thở cuối cùng tại Hải Lăng!

Hình ảnh các anh như đang sống lại trong tôi khi cùng nhau xông pha trận mạc.

Xin thắp nén hưong lòng để tuỏng nhớ các Anh

Trận chiến đã nằm sâu, phai nhạt dần theo tuổi đời, năm tháng, thời gian từ hơn môt phần tư thế kỷ. Nhưng vì “Nhớ bạn bè, nhớ anh em”, nên người viết cố ghi lại hình ảnh đệ huynh của một thời chiến trường xưa cũ. Xin lượng tình tha thứ nếu như có điều gì sơ sót.

Memorial Day, Bắc Cali
Đoàn Phương Hải

User avatar
VuPhong
Posts: 2909
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Trả nợ ân tình

Phạm Tín An Ninh

Đầu mùa hè, vợ chồng tôi đến thăm gia đình cô con gái và ở lại chơi khoảng một tháng. Vợ chồng cháu phải đi theo sở làm, một công ty lớn, di chuyển đến thành phố Las Vegas, và vừa mua được ngôi nhà ở vùng ngoại ô, với khu vườn khá rộng nằm bên bờ hồ Mead. Đây là thành phố du lịch có những sòng bài nổi tiếng. Tôi không hứng thú mấy với chuyện bài bạc, nên chỉ ghé lại các nơi này một vài lần cho biết. Hơn nữa, dù mùa hè chỉ mới bắt đầu, mà khí hậu đã nóng bức, tôi ngại ra ngoài, chỉ muốn nằm nhà nghỉ ngơi và đọc sách. Thỉnh thoảng ra vườn tưới cây hay xuống bờ hồ hóng mát và ngắm trời xanh.
Một hôm, trước khi đi làm, cô con gái đưa cho tôi cái chi phiếu, nhờ giao lại cho người làm vườn. Tiền trả cho ông hàng tháng. Cứ ngày thứ ba mỗi tuần là ông ghé lại làm việc ở khu này, cắt cỏ, tỉa cây và dọn dẹp, làm vệ sinh hồ tắm. Cô con gái còn bảo, bác ấy rất đàng hoàng tư cách, mọi người ở đây đều rất tin cậy và quí mến bác. Tuần trước, tôi cũng đã trông thấy ông đến làm việc trong vườn, nhưng vì ngoài trời khá nóng và đúng lúc đang mải mê đọc một cuốn sách, nên tôi chưa có dịp gặp ông.

Khi thấy ông gom dụng cụ bỏ lên xe, tôi nghĩ ông đã xong công việc, mở cửa bước ra chào, cám ơn và đưa cho ông cái chi phiếu, bảo cô con gái nhờ trao lại. Thấy trên mặt đầm đìa mồ hôi, tôi mời ông vào nhà uống với tôi một lon bia lạnh. Ông nhìn đồng hồ, đưa tay phủi ít bụi cỏ vướng trên áo quần, ngần ngừ, định từ chối. Tôi nắm tay ông kéo lại bộ ghế nhựa nằm dưới gốc một cây bơ phủ bóng, bảo:
– Hay là mình ngồi ở đây để anh thoải mái hơn.
Tôi chạy vào nhà lấy bia, nghe tiếng ông nói vọng theo:
– Tôi chỉ uống với anh đúng một lon, để tí nữa còn phải lái xe đi

Tôi mang bia và mấy cái nem chua ra. Chúng tôi vừa uống bia vừa nói chuyện. Đúng như lời cô con gái, ông là một người hiểu biết và có tư cách. Mái tóc bạc màu muối tiêu và khuôn mặt đượm buồn mang ít nhiều khắc khổ, đã không làm mất đi cái vầng trán cao, đôi mắt sáng, khuôn mặt biểu hiện một con người khí khái và nghị lực. Ngồi với nhau khoảng hơn mười phút, ông cám ơn và đứng dậy xin cáo từ vì còn phải sang làm vườn cho các nhà kế cận. Ông bắt tay tôi và hẹn thứ ba tuần sau ông sẽ đến sớm để tâm tình nhiều hơn. Dù chưa biết nhau nhiều, nhưng qua cái bắt tay, tôi có cảm giác là ông cũng có chút cảm tình, quí mến tôi.

Lần thứ hai gặp nhau, chúng tôi có nhiều thì giờ tâm tình và biết về nhau nhiều hơn. Chính điều này đã làm chúng tôi trở thành bạn, khá thân tình.
Trước kia, anh phục vụ trong Binh chủng Lực Lượng Đặc Biêt. Sau khi binh chủng này giải thể anh được bổ sung cho một đơn vị Biệt Động Quân. Một năm sau anh được thăng cấp thiếu tá. Bị thương trong một cuộc hành quân qua Cam Bốt, anh được thuyên chuyển về một Tiểu Khu miền duyên hải Quân Khu 2, quê anh, và phục vụ ở đây cho đến ngày mất nước.
Vợ của anh là cô giáo dạy ở trường tiểu học quận lỵ. Ngày anh vào tù vợ anh mang thai đứa con đầu lòng hơn năm tháng, và cũng không được “lưu dung” trong chế độ mới bởi ảnh hưởng lý lịch của chồng.
Sau đó, hững ngày cuối tuần rảnh rỗi, anh thướng hú tôi sang nhà anh chơi. Anh bảo:- Tôi thường ở nhà một mình, ông cứ sang đây, bọn mình nhậu thoải mái và kể chuyện xưa chơi.

Căn nhà cũ nằm giữa khu vườn khá lớn có nhiều cây ăn trái, và những khóm hoa được anh cắt tỉa rất công phu. Có cả một hòn non bộ, nước chảy róc rách, trông rất yên ả, thơ mộng. Cùng độ tuổi với anh, nhưng tôi thua anh rất xa về chuyện cần cù với bàn tay khéo léo. Nhìn khu vườn nhà, tôi biết là anh đã bỏ ra rất nhiều thì giờ và công sức. Lần nào đến chơi, anh cũng làm cơm, nướng thịt và hai anh em uống cạn mấy lon bia. Có khi tôi phải ngủ một giấc, đến gần tối mới về nhà. Một lần, được tin anh bị bệnh, vợ tôi theo tôi đến thăm anh, giúp anh làm vài món ăn và dọn dẹp nhà cửa bếp núc.
Mấy năm sau này, từ khi cô con gái sinh đứa con đầu lòng, vợ chồng tôi thường xuyên lên ở giúp cháu, nên thường gặp anh hơn và dần dà trở nên thân thiết như anh em.

Quen biết đã khá lâu, nhiều lần đến nhà thăm và tâm tình với anh, nhưng chúng tôi chưa hề gặp vợ anh, chỉ biết chị ấy qua tấm ảnh gia đình treo trên vách, anh bảo chụp cách đây hơn mười năm, sau một thời gian định cư ở Mỹ. Trong ảnh, ngoài vợ chồng anh còn có ba đứa con, hai trai một gái.Chị là một người phụ nữ đẹp, trông có nét đài các. Một đôi lần tôi có hỏi, anh ngần ngừ, bảo là vợ anh thường đi làm xa, vắng nhà. Tôi nhớ có lần anh đã kể việc vợ chồng anh có mở một quán ăn ở đâu đó, sau một thời gian đến định cư ở vùng này.

Nhìn tấm ảnh, tôi khen:
– Trông ông bà rất đẹp đôi. Lúc trẻ chắc chị nhà là cô giáo hoa khôi của một trường nào đó. Mấy cháu cũng đều rất dễ thương.
Anh ngượng ngùng một tí, rồi làm tôi bất ngờ:
– Đây là bà vợ thứ nhì và hai cháu lớn là con riêng của bà. Chỉ có thằng nhỏ nhất là con chung của bọn tôi.
Tôi tò mò, không kịp giữ ý:
– Chắc bà chị trước đã qua đời khi còn ở Việt nam?
– Không, bà vẫn còn sống và đang ở trên Houston.
Tôi vội vàng nói lời xin lỗi. Thấy tôi tròn mắt ngạc nhiên, anh giải thích:
– Bà bỏ tôi sau hơn một năm vào tù, lấy một người đàn ông khác, sau đó dắt theo đứa con gái vượt biên từ năm 1979.
Trầm ngâm giây lát, anh nói tiếp:
– Và từ đó bà không hề liên lạc với tôi, mặc dù có vài lần tôi viết thư riêng nhờ người mang đến cho bà, để chỉ hỏi tin tức đứa con, nhưng không hề nhận được hồi âm. Bây giờ, nếu còn sống, đứa con gái của tôi cũng đã gần bốn mươi tuổi, nhưng chắc chắn nó không hề biết tôi là cha của nó.
Tôi cố tìm một lời an ủi:
– Với vợ con và niềm hạnh phúc mới sau này, chắc anh cũng đã nguôi được nỗi buồn?
Anh cười:
– Thực ra khi mới biết tin, dĩ nhiên tôi buồn lắm, nhưng rồi sau đó lại mừng cho mẹ con bà. Chứ nếu ở vậy mà chờ tôi, thì cuộc đời của mẹ con bà không biết sẽ ra sao? Lúc còn ở trong tù, đêm nào tôi cũng nằm cầu nguyện cho mẹ con bà được yên lành, hạnh phúc với gia đình và quê hương mới. Tiếc là khi ấy tôi không thể liên lạc được để nói lên điều này cho bà được yên lòng.
– Tôi nghĩ điều đó chắc không còn cần thiết, bởi đã đối xử cạn tình với anh như vậy, chắc bà cũng chẳng có hối hận điều gì.
Anh trầm ngâm:
– Xem vậy chứ đàn bà cũng dễ xúc cảm, nặng lòng trắc ẩn lắm. Dù gì, tôi cũng thấy thương và tội nghiệp cho bà.
Đến chơi khá nhiều lần, nhưng vợ chồng tôi chưa bao giờ gặp người vợ của anh bây giờ. Một hôm chúng tôi bất ngờ và vô cùng ngạc nhiên khi nghe anh tâm sự về bà:
– Bà ấy rất ít khi có ở nhà. Bà sống ở các sòng bài. Khi nào không kiếm được tiền bà mới về đây, nhưng sau đó, khi có được đồng nào bà lại đi ngay. Trước kia, tôi bỏ ra tất cả tiền bạc dành dụm và vay mượn thêm của ngân hàng để sang lại cái tiệm ăn, cho bà làm chủ. Buôn bán cũng khá lắm, nhưng sau đó phải bán để trả nợ cho bà. Đồ đạc trong nhà này, cái gì còn bán được bà cũng đã bán hết, nên chẳng còn một thứ gì đáng giá.
– Sao anh và các cháu không khuyên giải, can ngăn bà? Vợ tôi hỏi.
– Cũng may, tôi đã cố gắng hết sức lo cho hai cháu đầu, con của bà được vào đại học. Cả hai đều học xa nhà, nên tôi tìm cách nói dối để các cháu yên lòng mà học hành, còn thằng con trai út, lúc ở với tôi còn nhỏ, nên chẳng chú tâm điều gì, cứ tưởng mẹ nó đi buôn bán làm ăn. Sau này, khi thấy cháu lớn khôn, không muốn ảnh hưởng đến chuyện học hành và tương lai của nó, tôi gởi cháu vô nội trú một trường Công giáo. Không thấy mẹ, lâu lâu cháu cũng hỏi thăm, không biết là cháu có biết gì không, nhưng chẳng thấy nó buồn hay thắc mắc điều gì. Tôi nghĩ có cho các cháu biết cũng vô ích, chỉ làm hại các cháu. Hơn nữa, khi đã lâm vào con đường cờ bạc rồi, cũng giống như thuốc phiện, khó mà quay lại được.
– Đến bây giờ hai cháu lớn cũng chưa biết? Tôi hỏi anh.
– Sau khi tốt nghiệp, hai cháu về nhà sống một thời gian chờ xin việc. Lúc ấy hai cháu mới biết. Năn nỉ, can ngăn, rồi làm dữ cũng đều vô ích. Sau này hai cháu có việc làm rồi lập gia đình, ra ở riêng. Khi hết tiền bà chạy đến xin, xin vợ không được bà xin cả chồng. Tội nghiệp hai thằng chồng đều là Mỹ hết. Cuối cùng tụi nó sợ quá, phải dọn nhà đi nơi khác và không cho bà biết. Sau này, thấy tôi quá khổ sở với bà, hai cháu rất giận mẹ, đề nghị rồi hối thúc tôi bỏ bà, chuyển đi nơi khác ở. Hai cháu thương tôi, lúc nào cũng xem tôi như cha ruột và luôn tỏ ra biết ơn tôi đã hết lòng lo lắng cho hai cháu.
– Chắc anh không nghe theo hai cháu, nên bây giờ vẫn còn ở lại đây. Tôi hỏi
Anh cười, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra:
– Không được! Tôi bảo với hai cháu là ba còn nợ mẹ rất nhiều, mà dù có phải khổ sở, chịu đựng suốt cả đời vì mẹ con, cũng chưa trả hết được. Hơn nữa đã là vợ chồng, ba đâu có thể nhẫn tâm bỏ bà trong lúc bà bị sa lầy.
Sau đó anh ngồi kể cho vợ chồng tôi nghe:
– Bà là cứu tinh của tôi. Trước kia, có một thời nhà cha mẹ bà ở gần nhà tôi.

Bà là con một của một gia đình giàu có. Khi ra tù, vợ con đã bỏ đi, tôi không có chỗ để ở, lại mang theo bệnh tật từ trong tù, nên chẳng làm được việc gì. Không hiểu sao lúc ấy bà lại cưu mang tôi, và can đảm lấy tôi làm chồng. Lúc ấy bà có tiền, làm chủ một vựa trái cây và buôn bán thuốc tây, cà phê. Lúc đầu, thấy tôi khổ sở, bà nhận tôi vào làm công và bảo dọn tới nhà bà ở vì căn nhà sau, có một phòng bỏ trống. Cả hơn nửa năm tôi mới khỏe lại và bắt đầu phụ giúp công việc buôn bán với bà. Nhưng bà chỉ giao cho tôi lo việc sổ sách. Bà thường lo lắng chăm sóc cho tôi, và cuối cùng tỏ tình với tôi. Khốn khổ hơn là có một tay cán bộ kiểm lâm CS từ miền Bắc chuyển vào, đã theo đuổi, tán tỉnh bà, thỉnh thoảng mang đến cho bà những bộ bàn ghế được đóng bằng gỗ quí, nhưng bà nhất quyết chối từ. Ban đầu hắn tưởng tôi là người làm công hay bà con trong nhà, nhưng sau này, khi biết bà đã lấy tôi, hắn tìm mọi cách hãm hại tôi. Bà bỏ tiền mua cả đám công an, nên tay kiểm lâm sợ, bỏ cuộc. Hơn nữa nghe nói hắn đã có vợ con ở ngoài Bắc. Có lần tôi hỏi, vì sao bà thương và lấy tôi khi tôi trong cảnh thân tàn ma dại. Bà cười, bảo là ngày xưa, lúc còn là cô con gái mới lớn lên bà đã thầm yêu tôi, bà thích lính chiến, nhất là bộ áo quần bông với cái bê-rê xanh của LLĐB, oai hùng lắm, nhưng tôi không để ý đến bà. Đúng vợ chồng là cái số. Sau này bà lấy một thương gia, nhưng ông mất sớm. Nhờ vậy, sau 75, bà còn giấu được một số vàng để bây giờ có vốn buôn bán nuôi con.

Những lần chính quyền địa phương gọi tôi, diện tù “cải tạo” đang trong thời quản chế, đi làm công tác thủy lợi, bà đều thuê người đi làm thay. Sợ bọn chúng cưỡng bách tôi đi Vùng Kinh Tế Mới, bà làm hôn thú và dù rất khó khăn, bà cũng chạy cho tôi được vào chung hộ khẩu với gia đình bà. Với lòng biết ơn và quí mến, tôi đã hết lòng yêu thương bà và hai đứa con của bà. Tôi dạy kèm thêm, nên hai cháu đều là những học sinh giỏi của trường, luôn vâng lời, lễ phép dễ thương. Tôi xem hai cháu như con ruột của mình. Một năm sau, chúng tôi rất vui mừng khi có một đứa con chung, là thằng con trai, giống tôi như đúc. Tuy nhiên, cứ mỗi lần nhìn nó, tôi lại nhớ đến đứa con gái đầu lòng với người vợ trước. Từ lâu rồi tôi không liên lạc đươc, nên chẳng biết bây giờ nó ra sao. Chỉ mong ông trời thương, để có một ngày cha con được gặp lại.

Anh ngừng câu chuyện ở đây, lim dim đôi mắt, nhưng ngay sau đó lại nở nụ cười. Tính anh như thế, tôi chưa khi nào thấy anh buồn điều gì lâu. Tôi thầm nghĩ, khi người ta chịu đựng quá nhiều thử thách trong cuộc đời, thì dường như buồn vui gì cũng như nhau thôi.
Tôi cười theo anh, và nói đùa:
– Không ngờ ngày xưa ông anh cũng đào hoa ghê. Đến bước đường cùng mà vẫn có người đẹp yêu tha thiết.
Anh quay sang tôi cười, giải thích thêm:
– Bọn mình là lính mà. Người lính lại càng không thể phụ ơn những người đã từng cưu mang, sống chết với mình. Cũng như anh em mình đâu có thể quên những đồng đội đã chết, đã hy sinh một phần thân thể vì mình, phải không?
Tôi im lặng, không trả lời, chỉ thấy thương và càng quý trọng anh. Người lính chưa bao giờ bại trận, nhưng cuối cùng đã phải làm người thua cuộc. Qua bao nhiêu thử thách vẫn còn giữ được cái sĩ khí, lòng bao dung và nhân cách của mình.

Những lần gặp tôi, trong các câu chuyện anh thường nói về chuyện lính. Anh kể cho tôi nghe những trận chiến mà anh đã từng tham dự. Từ lúc những buổi đầu trong các toán Delta, sau đó đóng đồn biên phòng, rồi sau này ra Biệt Động Quân, và cuối cùng là Địa Phương Quân. Anh say sưa kể từng chi tiết, địa danh, từng tên của những người lính đến các cấp chỉ huy. Trong lãnh vực này, trí nhớ của anh lại trở nên phi thường. Tất cả như nằm sẵn đâu đó trong lòng anh. Nhiều lần anh bảo với tôi là anh đã sống với nó, với cái quá khứ ấy. Anh còn ví von: “lúc trước ông nhà thơ Phùng Quán đã từng tâm sự là khi ngã nhờ vịn những câu thơ mà đứng dậy, còn với tôi thì đã bao lần thất chí, đã nhờ những hình ảnh quá khứ này để có thể đứng lên. Không có một thời làm lính, một thời trong chiến trận, chắc tôi đã quỵ ngã từ lâu rồi.”
Cuối cùng thì vợ chồng tôi cũng gặp được bà vợ bây giờ của anh. Mùa hè năm ngoái, anh làm đám cưới cho cậu con trai út. Đứa con chung duy nhất của hai người. Cô dâu lại là con của một người bạn HO của anh, mà tôi cũng quen biết, vì từng ở chung một trại tù ngoài Bắc. Anh nhờ vợ chồng tôi đi họ bên phía đàng trai, và phụ giúp anh sắp xếp công việc trong ngày hôn lễ. Ngày đám cưới, chúng tôi đến nhà anh sớm hơn giờ hẹn để phụ sắp xếp bàn thờ và lễ vật. Rất bất ngờ khi thấy có cả chị ra đón bọn tôi ngoài cửa. Có lẽ anh đã giới thiệu trước ít nhiều về vợ chồng tôi, nên chị nở nụ cười thật tươi chào đón và gọi đúng tên chúng tôi. Vợ chồng tôi khá ngạc nhiên, bởi chị khác hoàn toàn với hình ảnh người đàn bà mà chúng tôi tưởng tượng bấy lâu nay với không mấy cảm tình. Xinh đẹp, vui vẻ nói năng lưu loát, và dễ thân thiện. Chỉ có ốm hơn so với trong ảnh, và thoáng một chút mệt mỏi, bơ phờ. Buổi chiều, trong tiệc cưới, khi người MC giới thiệu gia đình nhà trai, anh chị cùng vợ chồng hai cô con gái bước lên sân khấu đứng bên cô dâu chú rể, cúi đầu chào khách. Tiếng vỗ tay của thực khách như thay cho lời hâm mộ một gia đình đẹp đẽ, hạnh phúc. Tôi bỗng thấy một chút xót xa, tiếc nuối trong lòng và thầm mong là biết đâu nhờ đám cưới của cậu con trai, mà chị sẽ trở về với con người cũ, để hai người còn có bên nhau trong hạnh phúc ở những năm tháng cuối đời.

Cuối tuần sau ngày đám cưới, anh đưa chị ghé đến chơi, mang biếu chúng tôi hai chai rượu và một hộp trà. Anh bảo là quà “lại quả” hôm đám cưới, anh chị chia cho chúng tôi để mừng cho hai cháu. Khi vợ tôi ngồi chỉ cho chị cách thức làm nem Ninh Hòa, mà chị rất thích, anh rủ tôi ra ngoài vườn, vui mừng bảo là chị ấy đã hồi tâm, vì sau ngày đám cưới thấy các con hạnh phúc vui vẻ, sau đó các cháu tâm tình khuyên giải bà, nên từ bỏ mọi thứ đam mê sai lầm để sống với tôi trong tuổi già, vợ chồng săn sóc hôm sớm có nhau. Anh hy vọng lần này bà đã thức tỉnh. Hơn nữa tuổi tác cũng đã nhiều, bà thấy sức khỏe sa sút thường hay mệt mỏi.Tôi nắm hai tay anh mừng rỡ, và nói vài lời, ngưỡng mộ sự bình tĩnh, chịu đựng và tấm lòng bao dung của anh. Tôi lấy trong túi áo ra bốn tờ vé số Power Ball vừa mới mua trưa nay. Đặc biệt số độc đắc xổ chiều nay, sẽ hơn ba mươi triệu Mỹ kim. Tôi chia cho anh ba tờ, bảo:
– Hy vọng ông trời sẽ cho thêm anh chị điều may mắn.
Anh cười:
– Cám ơn bồ, nhưng thường là “phúc thì bất trùng lai, mà họa thì vô đơn chí!”
Tiễn anh chị ra xe, bắt tay nhau trong tiếng cười rộn rã.

Khoảng ba tuần sau, anh gọi phone báo cho chúng tôi một tin không vui. Chị ấy đang nằm trong bệnh viện. Bác sĩ vừa khám phá chị bị ung thư vú trong thời kỳ cuối. Vì quá lâu, không khám bệnh, nên không phát hiện được, bây giờ đã di căn, không biết có cần giải phẫu hay không. Chúng tôi chạy lên bệnh viện thăm chị. Thấy chúng tôi, chị nở nụ cười, nhưng trông khá mệt mỏi, bơ phờ. Anh luôn bên cạnh, đút thức ăn, săn sóc an ủi chị. Anh bảo tối nào, theo yêu cầu của chị, anh cũng ngồi bên cạnh đọc các chuyện chiến trường, chuyện lính cho chị nghe.

Bệnh viện quyết định không giải phẫu, chỉ cấp cho một số thuốc để đưa chị về nhà. Các cháu đều về thăm. Sống bên cạnh chồng cùng đầy đủ các con, chị vui và hạnh phúc lắm. Chúng tôi đến thăm, dù không được khỏe, nhưng chị rất tỉnh táo, nằm kể cho các con nghe về cuộc đời mình, ân hận đã có một thời sa ngã vào con đường bài bạc, làm khổ sở và xấu hổ gia đình. Chị cũng nắm chặt tay anh, nói rất yêu và biết ơn anh đã hết lòng lo lắng đùm bọc vợ con trong những năm tháng khó khăn, xin anh tha thứ về thời gian chị đã có lỗi lầm.

Anh ngồi bên cạnh, cúi xuống hôn trên trán chị:
– Lúc nào anh cũng yêu em, cầu xin ơn trên cho em sống khỏe mạnh để anh tiếp tục lo lắng, trả nợ cho em. Món nợ ân tình lớn lao, mà cả đời này anh cũng không thể trả hết được cho em.
Nước mắt của chị ràn rụa trên đôi gò má hóp. Tôi thầm nghĩ đó là những giọt nước mắt của hạnh phúc. Cho dù có chút xót xa.
Chị đã mất vào khuya hôm ấy. Theo lời anh kể lại, suốt đêm anh nằm với chị, ôm chị trong vòng tay rồi ngủ mê lúc nào không biết. Khi giật mình thức dậy thì chị đã ra đi tự lúc nào.
Vợ chồng tôi có mặt trước khi đưa chị vào nhà quàn bệnh viện. Chị nằm như đang say ngủ, nét mặt bình yên, thanh thản.
Và lần đầu tiên tôi nhìn thấy anh khóc.

Phạm Tín An Ninh

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên
The Forgotten South Vietnamese Airborne

By Barry R. McCaffrey
August 8, 2017
Lời nói đầu:

Vào năm 1993, trong quyển tự truyện “It Doesn’t Take a Hero”, Đại Tướng Norman H. Schwazkopf đã dành nguyên một chương để viết về cảm nghĩ, thời gian ông phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam; Năm 1995, tác giả Michael Martin (Command Sergeant) xuất bản quyển Angles in Red Hats: Paratroopers of the Second Indochina War, gồm nhiều hình ảnh và bài viết của các cựu cố vấn Hoa Kỳ phục vụ trong Sư Đoàn Nhảy Dù; Năm 2009, Đại Tá hồi hưu Robert L. Tonsetic viết quyển “Forsaken Warriors: The Story of an American Advisor who Fought with the South Vietnamese Rangers and Airborne, về những kỷ niệm thời chinh chiến, phục vụ trong vai trò cố vấn với hai binh chủng này, Tiểu Đoàn 42 và 44 BĐQ, và Tiểu Đoàn 2 Dù; Đến năm 2012, Đại tá hồi hưu Mike McDermott viết quyển sách “True Faith and Allegiance: An American Paratrooper and the 1972 Battle for An Loc”, về thời gian ông có mặt với Tiểu Đoàn 5 Dù trong trận đánh An Lộc; Vào tháng 5 năm 2014, Thiếu Tá hồi hưu John J. Duffy viết tập thơ “The Battle for ‘Charlie”, về trận đánh Đồi Charlie của Tiểu Đoàn 11 Dù; Cuối năm 2014, Đại Úy Gary N. Willis phi công Hoa Kỳ, từng bay biệt phái cho Sư Đoàn Nhảy Dù viết quyển “Red Markers, Close Air Support for the Vietnamese Airborne, 1962-1975”, về các phi công bay yểm trợ không yểm, liên lạc với các cố vấn Hoa Kỳ trong các tiểu đoàn Nhảy Dù, cho những trận đánh của binh chủng Nhảy Dù. Cả sáu quyển sách này đều đề cao sự chiến đấu dũng mãnh của các người lính Nhảy Dù Việt Nam.

Những tưởng các quyển sách vừa nêu trên đủ nói lên được tấm lòng của các viên cố vấn Hoa Kỳ, dành cho các người bạn Nhảy Dù Việt Nam của họ. Nhưng, mới ngày hôm qua, ngày 8 tháng Tám, Đại Tướng hồi hưu Barry McCaffrey đã dành một sự ngạc nhiên cho người Việt tị nạn chúng ta, khi ông viết một bài viết ngắn trên báo New York Times [cho độc giả Hoa Kỳ], viết về những người lính Nhảy Dù Việt Nam, với tấm lòng cảm phục và sự tiếc nuối vô bờ.
Tôi xin phép chuyển dịch và đặt tựa bài viết: “Có Một Binh Chủng Nhảy Dù Bị Lãng Quên”.


Tôi đến Việt Nam vào tháng Bảy năm 1966, và cho nguyên cả năm sau tôi làm việc cố vấn với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam. Đó là năm cuối mà chúng ta nghĩ là đang chiến thắng. Đó là năm cuối mà chúng ta có thể định nghĩa điều mà chúng ta nghĩ chiến thắng là như thế nào. Đó là năm của chủ nghĩa lạc quan, của gia tăng quân số và nhận lãnh cuộc chiến từ người Việt – và con số thương vong của Hoa Kỳ cũng cao hơn.

Vào cuối năm 1967, có 486,000 quân nhân Hoa Kỳ trên chiến trường. Con số lính Mỹ tử trận năm ấy gần như gấp đôi con số của năm 1966. Giữa tất cả các sự việc đó, sự hy sinh, lòng dũng cảm và việc hiến dâng của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho đất nước họ hầu như đã biến mất từ ý thức của giới truyền thông và chánh trị Hoa Kỳ.

Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, mà tôi đã tham gia với tính cách là viên cố vấn phụ tá cho tiểu đoàn, là một đơn vị chiến đấu ưu tú. Cho đến năm 1967, các người lính Nhảy Dù, với quân phục ngụy trang và mũ đỏ riêng biệt, đã lên đến 13,000 quân nhân, tất cả đều là lính tình nguyện. Những người như chúng tôi được vinh dự làm việc với họ, rất kinh ngạc bởi lòng dũng cảm và chiến thuật táo bạo của họ. Các viên sĩ quan và các hạ sĩ quan thâm niên là những người lính rất tài năng và có đầy kinh nghiệm chiến trường; thật là một điều dễ quên khi biết các người lính Hoa Kỳ là mới mẻ đối với đất nước Việt Nam, trong khi nhiều người trong bọn họ đã có mặt với cuộc chiến từ năm 1951.

Là các viên cố vấn, chúng tôi thường làm việc như một cán bộ hay sĩ quan liên lạc từ cấp tiểu đoàn và chiến đoàn/lữ đoàn. Chúng tôi đã dành một năm để chuẩn bị tại California, tính luôn cả 16 giờ đồng hồ của mỗi ngày để học về văn hóa và ngôn ngữ tại học viện Defense Language Institute. Tôi cũng hoàn tất xong khóa, học và hiểu để nói tiếng Việt. Các chiến thuật về phản du kích và huấn luyện hệ thống về võ khí thời Đệ Nhị Thế Chiến mà người Việt vẫn còn sử dụng thì học tại căn cứ Fort Bragg, North Carolina.

Chúng tôi làm việc với một vai trò rộng lớn; phối hợp yểm trợ pháo binh và không yểm, sắp xếp trực thăng chuyển quân và cứu thương, và cung cấp tin tức tình báo cùng giúp đỡ về tiếp liệu. Chúng tôi không cho lịnh, và chúng tôi không cần phải làm vậy. Các người bạn đồng nhiệm là những người đàn ông mà chúng tôi ngưỡng mộ, và họ vui thích có được chúng tôi – và hỏa lực Hoa Kỳ – cho họ. Chúng tôi dùng thức ăn của họ. Chúng tôi nói tiếng họ. Chúng tôi tin tưởng hoàn toàn vào họ. Tôi thường có một người lính Nhảy Dù mang máy truyền tin, và anh cũng là người lính cận vệ.

Thông thường, một toán cố vấn cấp tiểu đoàn như tôi bao gồm ba người: một viên đại úy Lục Quân Hoa Kỳ, một viên trung úy và một viên hạ sĩ quan, thường là một trung sĩ. Các viên trung sĩ là thành phần nồng cốt. Trong khi các sĩ quan sẽ thay phiên: đến và đi; các viên trung sĩ ở lại với các đơn vị được chỉ định cho họ cho đến cuối cuộc chiến – hay cho đến khi họ hy sinh, hay bị loại khỏi chiến trường.

Lần tôi được giới thiệu về Việt Nam lại là một kinh nghiệm đầy xương máu. Chúng tôi chuyển quân bằng các chiếc giang đỉnh Hải Quân và trực thăng của Lục Quân Hoa Kỳ, vào một con sông sình lầy của vùng đồng bằng Cửu Long, nằm ở phía nam Sài Gòn. Đây là trận chiến chả có vinh quang, chiến đấu và chết chìm dưới sình lầy dơ bẩn và nước mặn. Không có một chút phiêu lưu mà chúng tôi đã cảm giác khi học một khóa học của Biệt Động Quân. Ông đại úy của tôi, là một sĩ quan chuyên nghiệp và cũng là người cố vấn trưởng tài năng, tử trận. Về lại căn cứ, tôi giúp mang thi hài ông xuống trực thăng. Nhưng đây chỉ là một khởi đầu.

Sau bốn tháng trong ‘tua’ với Nhảy Dù, chúng tôi liên quan đến một trận đánh lớn và đẩm máu, tiếp sức cho các đơn vị Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ phía bắc Đông Hà, gần bờ biển, nằm về hướng bắc của Nam Việt Nam. Hai trong các tiểu đoàn của chúng tôi được trực thăng vận vào vùng Phi Quân Sự, tìm kiếm và chận đứng một đoàn quân quan trọng của Bắc Việt, đang di chuyển về hướng Nam. Công tác này trở thành ba ngày chiến trận khốc liệt và đầy máu. Viên cố vấn trưởng bị hy sinh. Người hạ sĩ quan dũng cảm, Thượng Sĩ Rudy Ortiz bị trúng đạn đầy người. Anh kêu tôi lắp băng đạn vào khẩu súng M-16 của anh và đặt súng lên ngực, để cho anh có thể “chiến đấu cho tới chết” như những người lính còn lại của chúng tôi (may mắn, anh thoát chết).

Chúng tôi có cả trăm thương vong và gần như bị tràn ngập. Nhưng những người lính Nhảy Dù chiến đấu dũng mãnh và bền bỉ. Trong lần nguy khẩn, với sự yểm trợ của không yểm và hải pháo, chúng tôi tái phản công. Viên tiểu đoàn phó vẫn bước thẳng người trong lúc đạn bay đầy quanh để đến ngay hố cá nhân tôi. “Trung Úy”, ông bảo tôi, “đây là giờ phút chúng ta mất mạng”. Tôi vẫn cảm thấy rợn da khi nhớ tới những lời nói của ông.

Trong chiến trận, lính Nhảy Dù không bỏ rơi đồng đội đã chết hay bị thương trên chiến trường; ngay cả võ khí cũng vậy. Trong một trận đánh khác, Tommy Kerns, người bạn cùng khóa tại trường West Point là một người to lớn, chơi football cho trường, bị thương nặng và bị kẹt trong một cái rãnh hẹp. Những người lính Nhảy Dù Việt Nam đang ở với anh, nhỏ con hơn anh nhiều, đã cố gắng nhưng không thể kéo anh ra khỏi rãnh. Thay vì rút lui và bỏ mặc anh, họ giữ vững tuyến và chiến thắng cuộc chiến đấu hung tợn cho cái thân xác to lớn của anh. Anh thoát chết nhờ vào lòng dũng cảm của họ.

Các viên cố vấn Hoa Kỳ và hầu hết các đơn vị của Sư Đoàn Nhảy Dù đóng quân ngay và chung quanh thành phố Sài Gòn. Chúng tôi yêu thích sức sống và sự náo nhiệt của thành phố. Chúng tôi yêu thích văn hóa, ngôn ngữ và luôn cả người Việt. Chúng tôi hãnh diện một cách điên cuồng về tính cách của chúng tôi với Mũ Đỏ. Chúng tôi biết chắc là cả thế giới đã ghen tương về nhiệm vụ của chúng tôi – chúng tôi đang làm việc chung với đơn vị ưu tú nhứt của đất nước. Được trả lương với chiến trận và cộng thêm bằng dù, chúng tôi có vẻ như có cả đống tiền. Chúng tôi sống trong những tòa nhà có máy lạnh. Chúng tôi còn trẻ trung, có một chút ít khờ dại, nhưng luôn mạnh bạo. Các viên đại tá, trung tá Hoa Kỳ chỉ huy đám cố vấn là những người lớn tuổi, trầm tĩnh và là những người đàn ông dày dạn chiến trường; họ đã từng là những chiến binh Nhảy Dù đánh những trận đánh tệ hại hơn trong thời Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến Tranh Triều Tiên.

Đời sống cố vấn trong Sư Đoàn Nhảy Dù rất khó mà đoán biết cho được. Công việc của sư đoàn là phục vụ với tính cách tổng trừ bị, luôn được mang đến chiến trường bất cứ lúc nào mà các viên tư lịnh cảm thấy tình hình nguy kịch. Một tiểu đoàn Nhảy Dù hay nguyên cả một chiến đoàn/lữ đoàn sẽ được báo động cho cuộc chuyển quân khẩn cấp trong lúc giữa đêm. Chúng tôi sẽ ngồi chật cứng bên trong các chiếc vận tải cơ của Không Quân Hoa Kỳ hay Không Quân Việt Nam, các chiếc máy bay đang đậu với máy nổ vang, từng hàng dài tại căn cứ Không Quân Tân Sơn Nhứt, sát cạnh Sài Gòn. Đạn dược sẽ được cấp phát, có đôi khi, cả dù nữa. Một kế hoạch chiến trường gấp rút ban hành.

Và rồi – hỗn loạn, địa ngục mở rộng. Các tiểu đoàn sẽ được mang đến những chỗ nào mà họ cần đến. Chúng tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào, và sẽ biết được chúng tôi đang ở giữa một trận chiến. Rất nhiều viên cố vấn và cả ngàn người lính Nhảy Dù mà tôi đã chiến đấu chung đã không trở về lại từ trong các cuộc hành quân đó. Tôi vẫn có thể nhìn thấy các gương mặt non trẻ ấy. Đại Úy Gary Brux, Đại Úy Bill Deuel, Trung Úy Chuck Hemmingway, Trung Úy Carl Arvin. Người lính mang máy rất trẻ của tôi, Binh Nhứt Michael Randall. Tất cả đều hy sinh. Dũng Cảm và Tự Hào.

Việt Nam không phải là “tua” đầu chiến trận của tôi. Sau khi tốt nghiệp từ trường Võ Bị West Point, tôi gia nhập Sư Đoàn 82 Nhảy Dù cho sự can thiệp “khủng hoảng” Dominican Republic vào năm 1965. Chúng tôi được mang đến một hòn đảo và dẹp sạch đám Cuba – cảm hứng nổi dậy của bọn cộng sản, và ở lại như một đoàn quân bảo vệ hòa bình. Chúng tôi đã nghĩ chiến trận là như vậy, và rồi chúng tôi trở về lại căn cứ Fort Bragg, và mong mỏi được đến Việt Nam – nhiều viên trung úy trong tiểu đoàn chiến đấu của tôi nhảy lên chiếc jepp, lái thẳng đến Bộ Tư Lịnh Lục Quân ở Washington để tình nguyện cho chiến trường Việt Nam. Chúng tôi đã nghĩ sẽ bị bỏ lỡ chiến trận.

Giờ thì chúng ta đã biết câu chuyện kết thúc ra sao. Hai triệu người Việt đã mất mạng. Hoa Kỳ mất 58,000 và có 303,000 thương vong. Hoa Kỳ sa vào cuộc nội chiến đắng cay và rối loạn về chánh trị. Lúc ấy thì chúng tôi không biết gì hết. Tôi rất lấy làm hãnh diện được chọn phục vụ với Nhảy Dù Việt Nam. Người vợ đẹp đẽ mới vừa cưới mà tôi rất thương yêu, biết tôi cần phải đi. Cha tôi, một viên Tướng của Lục Quân, sẽ vinh danh tôi, nếu tôi chẳng may tử trận.

Tất cả các sự việc này đã biến mất đi 50 năm trước đây. Các người lính trong Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam, những người đã may mắn thoát khỏi việc sụp đổ của miền Nam Việt Nam, hoặc là trốn thoát qua ngả Cam Bốt [Thái Lan] hay trải qua cả một thập kỷ trong các trại “cải tạo” tàn bạo kia. Gần như hầu hết những người đó rồi cũng đến được Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Chúng tôi có một hội cố vấn người Mỹ cùng các chiến hữu người Việt, và có cả một Đài Tưởng Niệm cho các Cố Gắng của chúng tôi tại Nghĩa Trang Quốc Gia Arlington. Tại nơi ấy, chúng tôi gặp gỡ mỗi năm và nhớ lại những kỷ niệm đã cùng nhau chiến đấu, như thế nào. Chúng tôi đội Mũ Đỏ. Chúng tôi cười vang với các câu chuyện xưa kia, nhưng có một điều rất đau lòng là chúng tôi đã mất mát quá nhiều, và điều ấy lại là con số không, không có được một sự đền bù, tưởng thưởng nào.

Nhiều người đã luôn hỏi tôi về các bài học trong chiến trận tại Việt Nam. Những người trong chúng ta đã từng chiến đấu chung với Sư Đoàn Nhảy Dù Việt Nam là những người không bao giờ lên tiếng. Tất cả những điều chúng ta luôn nhớ và biết đến là sự chịu đựng dũng cảm và lòng quyết tâm của các Binh Nhì Nhảy Dù Việt Nam, những người lính trẻ luôn thẳng bước vào chiến trận. Họ không có được các tượng đài vinh danh, chỉ trừ trong tâm tưởng và ký ức của chúng ta.

Barry McCaffrey (@mccaffreyr3) served as an adviser in the Vietnamese Airborne Division. He retired as a four-star general, later served as the Clinton administration drug czar and is now a national security commentator for NBC News.
Link: https://mobile.nytimes.com/…/o…/south-v ... borne.html
Link: https://www.nytimes.com/…/opin…/south-v ... borne.html
.............
Little Saigon/9 tháng 8 năm 2017
Phuc Nguyen

kalua
Posts: 833
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Mùa Hè Đỏ Lửa

Bùi Đức Tính

Hạ đến mang theo nắng ấm. Nắng ấm trở về trong mong đợi, sau tháng ngày dài qua mùa tuyết rơi, gió lạnh. Lá thêm xanh thẫm nhựa sống từ ánh mặt trời. Nắng ấm cho cánh hoa rực rỡ màu, cho làn da trần được đậm sắc. Không một ngày có mưa rơi từ giữa tháng sáu sang đến tháng bảy. Sang tháng bảy, trời càng gay gắt nắng, có ngày nóng đến 26 độ C. Nắng nơi đây không nóng bằng ở Việt Nam, nhưng cũng đủ cháy rát lớp da trần. Không biết áo lụa Hà Đông ngày nào của Nguyên Sa có làm cho nắng nơi đây “chợt mát” hay chăng? Mùa hạ nơi đây không giống như ở Việt Nam. Nắng ấm nơi đây có cái gì đó thiếu vắng không sao tìm lại được của nắng Sài Gòn trong ký ức. Người xa quê hương ngoảnh nhìn về phương Nam bên kia bờ Thái Bình Dương, xôn xao nhớ thương như Lê Uyên Phương “Khi Xa Sài Gòn”

“Sài-gòn bây giờ trời mưa hay nắng
Sài-gòn bây giờ ai khóc thương ai
Sài-gòn giới nghiêm che kín đêm dài
Sài-gòn khói bay, Sài-gòn nắng đổ
Sài-gòn đã buồn như trời sớm mai”


Sớm mai, chưa thấy ánh mặt trời. Cơn mưa đêm hôm qua có làm dịu bớt nóng bức kéo dài suốt cả tháng dài, nhưng không đủ để dập tắt tất cả các đám cháy rừng trên khắp tỉnh bang. Đã có hơn ngàn khu rừng bị hoả hoạn. Lửa thiêu huỷ một diện tích cây rừng cùng nhà đất lân cận rộng gần 9000 cây số vuông. Cái nóng gay gắt suốt nhiều tuần dai dẳng đã nung cây cỏ khô khốc, trở thành những mồi lửa, chờ đợi lửa để bừng cháy. Ngoài các nguyên nhân thiên nhiên, rừng bị cháy còn do con người gây ra, vì tàn thuốc hút bị quăng liệng bừa bãi bởi những kẻ vô tâm.

“The next stop is King George Station!…”

Tiếng nói trên loa êm nhẹ, vừa đủ lớn để đánh thức những người đang mơ màng gật gù ngủ, để biết là sắp đến trạm King George. King George Station là trạm cuối cùng của tuyến đường Expo Line. Expo Line là một đoạn đường thuộc SkyTrain, dài 36.4 Km, gồm 24 trạm. SkyTrain là hệ thống vận chuyển tốc hành hoàn toàn tự động dài nhất ở Canada và trên thế giới. SkyTrain còn được biết đến trong kỷ thuật vận chuyển tự động có trên thế giới với Skybridge, cầu bắt qua sông Fraser có đường dây cáp dài nhất dành riêng cho xe điện. Expo Line khởi từ trạm Waterfront ở Downtown của thành phố Vancouver, chạy qua các thành phố Burnaby, New Westminster để đến trạm sau cùng là King George thuộc thành phố Surrey. Tuy không bằng ngồi trên “roller coaster” của tuổi trẻ, nhưng cũng rất thú vị đối với những du khách trung niên; khi đứng nhìn qua khung kính ở đầu toa, xem đoàn xe điện bốn toa lao đi với vận tốc có lúc đến 80 km, uốn lượn từ đường rầy cất cao bên trên đường phố chui xuống lòng đất, quanh co xuyên qua đường hầm ở bên dưới thành phố rồi lại phóng trở lên và vượt qua sông Fraser trên Skybridge để sang Surrey.

Từ đường rầy xe điện cao bên trên mặt đất nhìn xuống, thành phố Surrey trong buổi sáng sớm cuối tuần thật yên bình và tươi mát. Đoàn xe nghiêng nghiêng uốn cong để lượn quanh sang trái, Holland Park bên dưới hiện ra với màu sắc và khung cảnh của ngày lễ hội mùa hè. Hàng hàng lớp lớp lều trắng rộng lớn dành cho gian hàng trong hai ngày Hội chợ Đa Văn Hóa của Surrey, Surrey Fusion Festival. Hàng năm có đến hơn 40 quốc gia tham dự Hội Chợ này. Đây là hội chợ quy tụ nhiều sắc dân, đa văn hoá thành công và lớn nhất ở Canada.

Năm nay, cũng còn sự hiện diện của gian hàng dưới tên gọi Việt Nam!

Cộng sản lợi dụng văn hoá để trục lợi cho mưu đồ chính trị. Họ trưng bày cờ cộng sản của Việt Nam và của bọn quan thầy cộng sản Tàu, như để giới thiệu với thế giới: Việt Nam bây giờ là một tỉnh bang của Trung Cộng!

Có phải chăng những kẻ phục vụ cho đảng cộng sản đã bán lương tri, hãnh diện với kỳ công bán nước?

Cho dù họ từ đâu đến hay chỉ là những người dân địa phương, vì lý do nào đó mà can tâm phục vụ cho đảng cộng sản Việt Nam, đem cây cờ đỏ sao vàng cấm vào vết thương chưa bao giờ lành của những người đã vượt thoát chế độ cộng sản. Sự hiện diện của màu cờ máu man rợ trong ngày vui lễ hội đã là những tàn thuốc lá cháy đỏ của những kẻ vô tâm quăng vào niềm đau xót khô cằn và đốt cháy yên bình trong lòng người tỵ nạn cộng sản nơi đây.

Mùa hè năm 76, miền Nam Việt Nam cũng đỏ lửa. Những ngọn lửa bừng cháy từ tháng Tư năm trước chưa tàn lụi lại chợt bùng lên đỏ rực.

Ngày 2 tháng 7 năm 1976, danh xưng Sài Gòn của thủ đô miền Nam bị cộng sản bắt đổi tên!

Sài Gòn phải mang cái tên của kẻ đã từng nộp đơn xin cộng tác với chế độ thực dân Pháp để rồi bị Pháp từ chối, bèn quay sang phục vụ cho đế quốc đỏ; kẻ làm tay sai cho quốc tế cộng sản để thực hiện mưu đồ bành trướng chế độ cộng sản bản xứ ở các nước Đông Dương, tại Việt Nam. Sài Gòn phải mang tên của con người đã đẩm máu đồng bào bị giết một cách man rợ trong các cuộc đấu tố, thanh trừng. Không riêng tên gọi Sài Gòn, rất nhiều đường phố quen thuộc, mang tên những danh tướng trong lịch sử của dân tộc như Nguyễn Huệ, Lê Văn Duyệt, Phan Thanh Giản, Trần Quốc Toản, … cũng bị thay thế bằng những cái tên xa lạ, chỉ gắn liền với chế độ cộng sản. Ngay cả, Công Lý và Tự Do là hai danh từ mang nhiều ý nghĩa cao đẹp, được nhân loại quý trọng và người dân hy sinh xương máu mình để bảo vệ công lý và tự do của quốc gia. Thế nhưng, công lý và tự do lại là hai trong những điều làm cộng sản sợ hãi và căm thù; sau khi cưỡng chiếm miền Nam bọn chúng đã nhanh chóng thay tên hai con đường Công Lý, Tự Do ở Sài Gòn thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Đồng Khởi.

Trong phút chốc, lịch sử trăm năm của Sài Gòn đã bị cộng sản thiêu huỷ.

Mùa hè lại đỏ lửa!

Từ khi quân cộng sản cưởng chiếm miền Nam năm 1975, dòng người vượt rừng vượt biển vẫn nối nhau. Không chỉ ở miền Nam, mà từ khắp 3 miền trên quê hương Việt Nam, người ta liều lĩnh ra đi, bất chấp đòn thù tra tấn, tù đày, kể cả phải đánh đổi tính mạng để được sống tự do. Lắm người từ năm 1954 đã từng phải bỏ thân quyến cùng thôn làng ở miền Bắc để chọn cuộc sống tự do ở miền Nam. Không ít người đã từng vượt qua hiểm nguy để trốn thoát các đồng chí cộng sản của mình để hồi chánh, tìm về với chính quyền miền Nam tự do.

Trong đoạn “TỪ ĐỘNG ÔNG ĐÔ ĐẾN ĐỒN CẢNH SÁT DÃ CHIẾN”, trong Hồi ký Tôi Tìm Tự Do, Hữu Nguyên kể lại một cách trung thực cuộc đời đầy đau khổ, uất ức và ân hận của ông khi sống trong chế độ cộng sản, cũng như những nguy hiểm, may mắn khi ông cương quyết đi tìm tự do vào mùa hè đỏ lửa năm 1972.

“Đầu năm 1972, cộng sản Hà Nội một lần nữa, chuẩn bị ráo riết mở chiến dịch xâm lăng VNCH thật quy mô. Tại mặt trận Quảng Trị, Thừa Thiên, Cộng sản tập trung 3 sư đoàn chính quy trong đó có sư đoàn 324B. Lúc đó tôi chỉ là người lính binh nhì thuộc đại đội thông tin hữu tuyến của sư đoàn 324B. Đơn vị của tôi được lệnh tiến lên Động Ông Đô, một căn cứ pháo binh của QLVNCH lúc đó đã triệt thoái. Tuy trước đó khoảng nửa năm, tôi đã theo sư đoàn 324B vô tận vùng rừng núi Nam Lào, rồi trở ra Bắc, nhưng đây là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy quân trang, quân dụng của QLVNCH. Và chính những cuốn sách truyện, những trang báo, những tờ tạp chí, cùng những tấm hình, những vật dụng cá nhân, vứt bừa bãi trên Động Ông Đô vào thời gian đó, đã giúp tôi thấy được cuộc sống tự do của người dân, người lính VNCH. Điều này đã giúp tôi quyết định đi tìm tự do.

Điều quan trọng nữa khiến tôi đi tìm tự do là lúc đó, tôi thiệt ngạc nhiên và hoảng sợ khi chính mắt tôi chứng kiến những người bộ đội thuộc đại đội bộ binh, không phải binh chủng pháo binh, xúm vô mầy mò, sử dụng những khẩu pháo 105 ly, bắn bừa bãi về phía thị xã Quảng Trị. Tôi không biết những viên đạn pháo 105 ly trong những ngày “mở màn mùa hè đỏ lửa” đó, có gieo tai tóc tang thương cho người dân Miền Nam nào không, nhưng chỉ nhìn những người lính bộ đội hò hét, cười đùa, nhảy múa bên cạnh 3 khẩu pháo 105 ly, coi những phương tiện giết người bừa bãi đó như những đồ chơi, tôi hiểu rằng, cuộc chiến tranh của người cộng sản không những là cuộc chiến xâm lăng, mà còn là cuộc chiến gây tội ác bừa bãi. Chính những gì tôi được chứng kiến trong những ngày ngắn ngủi tại Động Ông Đô, đã khiến tôi thêm quyết tâm rời bỏ hàng ngũ cộng sản bằng mọi giá.

Nhưng rời Động Ông Đô như thế nào để không bị chỉ huy và những người bộ đội khác phát hiện? Và trong hoàn cảnh hai bên đang giao tranh quyết liệt như vậy, liệu khi gặp tôi trong bộ đồ bộ đội, nón cối dép râu, những người lính, người dân VNCH có chịu để tôi sống hay không? Nếu tôi đi ban ngày, tôi dễ dàng trở thành mục tiêu cho cả hai bên. Nếu tôi đi ban đêm, sự bất ngờ xuất hiện trong đêm tối của tôi cũng cực kỳ nguy hiểm. Và liệu tôi có nên mang theo súng, lựu đạn, hay chỉ đi chân tay không? Nhất là chiếc nón cối trên đầu là dấu hiệu vô cùng nguy hiểm, khiến tôi có thể ăn đạn dễ dàng, trước khi tôi kịp thốt nên lời… Từ Động Ông Đô, ban ngày cũng ban đêm, tôi nhìn về hướng đông và thấy được thị xã Quảng Trị. Ban ngày thì nhìn thấy thị xã ở xa tít tắp chân trời. Ban đêm thì ở đó là cả một vùng ánh sáng hắt lên, đầy quyến rũ. Tôi giống như một con thiêu thân, khao khát ánh sáng tự do. Và tôi hiểu, với tấm lòng chân tình của tôi, với quá khứ cuộc đời đau khổ của tôi, với những kinh nghiệm đau thương của một người cha bị đấu tố địa chủ, và 5 người chị ruột đang ở trên mảnh đất Miền Nam, tôi tin tưởng, một khi tôi đặt chân trên vùng đất tự do của Miền Nam, tôi sẽ được đối xử tử tế trong vòng tay thương yêu của những người bạn, những người anh, người chú, người bác…. Tôi là con thiêu thân đam mê tìm đến vùng ánh sáng tự do, nhưng sẽ không chết gục như con thiêu thân, mà sẽ được lột xác để hóa thành bướm…”

Từ trạm King George, nhìn sang bên kia đường, người ta đã thấy cờ vàng tự do cùng những biểu ngữ phản đối sự hiện diện của cờ cộng sản Việt nam trong Surrey Fusion Festival. Cờ vàng, biểu tượng của tự do, tung bay trong gió từ cổng vào đến gian hàng bên trong hội chợ của Vietnamese Canadian Community, Cộng đồng người Việt Nam tại Canada. Màu cờ tự do rực sáng ánh vàng, vươn cao ngang hàng quốc kỳ của các quốc gia hiện diện. Cờ vàng trên quốc phục trong đoàn diễn hành của Vietnamese Canadian Community.

Không có cờ đỏ sao vàng trong đoàn diễn hành năm nay!

Những tuổi trẻ bị hổ thẹn, lúng túng che dấu mặt khi phải diễn hành với cờ đỏ sao vàng năm trước, năm nay đã từ chối diễn hành cho Việt nam cộng sản. Chế độ cộng sản đã bị nhân loại vạch trần tội ác và chính người dân trong nước căm hờn, khinh bỉ.

Mùa hè đỏ lửa!

Lửa thiêu đốt sinh mạng và tài sản.

Nhưng lửa cộng sản bạo tàn không bao giờ huỷ diệt được niềm tin và chính nghĩa của tự do và nhân quyền cho Việt Nam.

Bùi Đức Tính

User avatar
ngayngo
Posts: 1208
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Vì sao VNCH không còn là ‘ngụy quân ngụy quyền’?
21/08/2017
Phạm Chí Dũng
Tháng Tám năm 2017, lần đầu tiên từ thời điểm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, đã diễn ra một sự kiện rất đặc biệt và hoàn toàn chưa có tiền lệ: Bộ sách Lịch sử Việt Nam - đã “nhìn nhận công lao nhà Mạc cùng chúa Nguyễn và các vương triều nhà Nguyễn, không gọi chính quyền Việt Nam cộng hoà là ngụy quân, ngụy quyền như trước, chỉ đích danh quân Trung Quốc xâm lược Việt Nam...”.

Tin tức trên được báo Tuổi Trẻ đăng ngày 18/8/2017.

“Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam”


PGS. TS Trần Đức Cường, nguyên viện trưởng Viện sử học, chủ tịch Hội khoa học lịch sử VN, tổng chủ biên bộ sách Lịch sử VN, đã trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ với một nội dung đáng chú ý: “Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam… Trước đây, khi nhắc đến chính quyền Việt Nam Cộng hoà, mọi người vẫn hay gọi là ngụy quân, ngụy quyền. Nhưng chúng tôi từ bỏ không gọi theo cách đó mà gọi là chính quyền Sài Gòn, quân đội Sài Gòn. Lịch sử phải khách quan, phải viết thế nào để mọi người chấp nhận”.

Diễn giải của ông Trần Đức Cường cũng là phát ngôn đầu tiên, hoặc đã có nhưng rất hiếm hoi, của một quan chức bậc trung về “Chính quyền Việt Nam cộng hoà là một thực thể ở miền Nam Việt Nam”, dù được báo Tuổi Trẻ cẩn trọng giải thích là “bên lề buổi giới thiệu sách…”, tức có thể hiểu là phát ngôn này không phải được phát ra trên diễn đàn chính thức.

Bằng chứng quá rõ về tính hiếm hoi trên là kể từ Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị đảng cầm quyền về “thực hiện công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài” từ năm 2003, kèm theo chủ trương “hòa hợp hòa giải dân tộc”, chỉ đến năm 2015 mới le lói một cách nhìn ngấm ngầm trong nội bộ đảng về “thực thể Việt Nam Cộng Hòa”, nhưng từ đó đến nay lại chưa có một phát ngôn chính thức nào của giới quan chức về điều này, càng không có bất kỳ đảng văn hay văn bản pháp quy nào đề cập đến vấn đề được xem là rất nhạy cảm chính trị này. Trong thời gian đó, hệ thống tuyên truyền của tuyên giáo đảng và công an vẫn sắt máu duy trì cụm từ “ngụy quân ngụy quyền”, đặc biệt thể hiện trên các diễn đàn của giới dư luận viên, tuy mật độ nhắc đến cụm từ này có thuyên giảm đôi chút.

Nhưng dù “thực thể Việt Nam Cộng Hòa” không hoặc chưa phải là phát ngôn hay chủ trương được chính thức công bố, hiện tượng bộ sách Lịch sử Việt Nam không còn xem Việt Nam Cộng Hòa là “nguỵ quân ngụy quyền” vẫn là một sự xác nhận gián tiếp về tính chủ trương chưa được công bố, cùng lúc được “bật đèn xanh” từ một cấp trên nào đó.

Vậy “cấp trên” đó là cơ quan nào? Là ai?


Ai và vì sao?

Thông thường và theo “đúng quy trình”, người ta nghĩ ngay đến Ban Tuyên giáo trung ương. Còn “cao” hơn nữa chỉ có thể là Ban Bí thư hoặc Tổng bí thư.

Thế nhưng điều trớ trêu là từ trước đến nay, hầu hết phát ngôn công khai của giới chóp bu Việt Nam, từ Tổng bí thư Trọng trở xuống Trưởng ban Tuyên giáo trung ương Võ Văn Thưởng hay các quan chức cấp cao khác…, đều chưa từng xác nhận “thực thể Việt Nam Cộng Hòa”.

Dấu chỉ duy nhất về “hòa hợp dân tộc” liên quan đến Tổng bí thư Trọng được tiết lộ chỉ là việc vào đầu năm 2017, nhân vật này đã “gật” với đề xuất của Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Hữu Thỉnh về “mời tất cả các nhà văn hải ngoại, kể cả những người đã cầm bút phục vụ chế độ cũ, về dự ‘Hội nghị hòa hợp dân tộc’ dịp giỗ tổ Hùng Vương”.

Chưa có bằng chừng nào để khẳng định rằng Nguyễn Phú Trọng là người chủ xướng cho hội nghị đặc biệt trên, trong khi từ đó tới nay ông Trọng còn phải “căng mình” đối phó với đủ thứ chuyện đấu đá trong nội bộ đảng cùng nhiều mầm mống khủng hoảng kinh tế và xã hội. Và cả với cuộc khủng hoảng đối ngoại mới nhất mang tên “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh”…

Cần nhắc lại, “Hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” đã phải gánh chịu một thất bại - một phá sản cay đắng. Ngay sau khi ông Hữu Thỉnh phát ra tuyên bố về này, khắp các diễn đàn trong nước và đặc biệt ở hải ngoại đã phản ứng như sóng lừng. Rất nhiều ý kiến của nhà văn, nhà báo hải ngoại cho rằng sự kiện này về thực chất chỉ mang tính “cuội.” Họ tung ra một câu hỏi quá khó để trả lời rằng Nghị Quyết 36 của Bộ Chính Trị về “công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài” đã ra đời mười mấy năm trước mà hầu như chưa làm được gì cả, nhưng tại sao đến nay mới sinh ra mới cái cử chỉ như thể “chiêu dụ người Việt hải ngoại” như thế?

Nhiều ý kiến từ hải ngoại cũng thấu tim gan “đảng quang vinh” về chuyện suốt từ năm 1975 đến nay, đảng chỉ quan tâm đến “khúc ruột ngàn dặm” nhằm hút đô la “làm giàu cho đất nước” càng nhiều càng tốt, nhưng ai cũng hiểu là không có đô la thì chế độ không thể nào tồn tại.

Nhưng lại quá hiếm trường hợp trí thức của “khúc ruột ngàn dặm” được đảng ưu ái tạo cho đất dụng võ ở quê nhà. Sau hơn bốn chục năm “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,” vẫn còn quá nhiều cảnh kỳ thị của nhà cầm quyền Việt Nam đối với giới trí thức và văn nghệ sĩ hải ngoại. Nhiều trí thức hải ngoại ôm mộng trở về Việt Nam để “cống hiến,” nhưng cuối cùng đã phải chua chát biệt ly khỏi “vòng tay của đảng.” Nếu tạm gác lại nhu cầu đô la, “khúc ruột ngàn dặm” đã chẳng có gì khác hơn là “ruột dư”…

Một câu hỏi “day dứt” khác: tại sao không phải những năm trước mà đến năm nay - 2017 - đảng mới lấp ló xác nhận gián tiếp về “thực thể Việt Nam Cộng Hòa”?

Sự thật quá hiển nhiên là giờ đây, tình trạng chính trị và kinh tế của đảng cầm quyền là khó khăn hơn bao giờ hết. Sự bế tắc gần như toàn diện như thế đã khiến đang manh nha phát sinh một luồng tư tưởng cùng một số quan chức buộc phải nghiêng dần theo xu hướng “cải cách”. Trong những “cải cách” đó, lần đầu tiên từ sau năm 1975 đã bộc lộ tín hiệu có vẻ đôi chút thực chất về “lấy lòng người Việt hải ngoại”.

Kể cả làm thế nào để đạt được một thâm ý sống còn hơn hết thảy: cộng đồng người Việt ở các quốc gia, đặc biệt ở Mỹ, sẽ “để yên” cho nhiều quan chức và thân nhân quan chức Việt Nam ung dung rửa tiền, mua sắm nhà cửa, kinh doanh và hưởng thụ cuộc sống ở xứ sở tượng trưng cho lối thoát, nếu tình hình trong nước “có biến”?

“Những người lính ở phía bên kia chiến tuyến”

Nằm trong khoảng giữa của “hội nghị hòa hợp dân tộc về văn học” tháng 4/2017 và bộ sách giáo khoa Lịch sử Việt Nam tháng 8/2017, lễ kỷ niệm “Ngày thương binh liệt sĩ 27/7” năm 2017 lại có cái gì đó là lạ…

Ngày 25/7/2017, tại Hà Nội, Trung tâm Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chứng tích chiến tranh, Quỹ Mãi mãi tuổi 20… tổ chức hội thảo khoa học “Những bức thư thời chiến với truyền thống và văn hóa dân tộc”.

Điểm nhấn của cuộc hội thảo trên là nhà văn Lê Thị Bích Hồng tìm được ở những lá thư thời chiến tinh thần và khát vọng hoà hợp dân tộc của những người lính “Việt cộng” và cả những người lính Việt Nam Cộng hòa “phía bên kia”.

Báo chí nhà nước bình luận: Khát vọng hòa hợp dân tộc, góp phần hàn gắn vết thương chiến tranh cũng là động lực để nhà văn Đặng Vương Hưng đưa vào tuyển tập những lá thư thời chiến của những người lính ở phía bên kia chiến tuyến.

Khác với một số lần “trình diễn” trước với cụm từ “chế độ cũ”, lần này có đôi chút “cách tân” hơn khi cuộc hội thảo trên và được báo chí nhà nước đưa tin đã lấp ló cụm từ “Việt Nam Cộng Hòa” như một hàm ý thừa nhận chế độ chính trị ở miền Nam trước năm 1975.

Chỉ sau hội thảo trên một ngày, Đài truyền hình Việt Nam như thể “vô tình” phát hình ảnh những người lính VNCH và lính quân giải phóng lồng với nhau, nhân kỷ niệm ngày thương binh liệt sỹ 27/7…

Một tiền đề “tự chuyển hóa”?

Tháng Tám năm 2017. Hiện tượng bộ sách Lịch sử Việt Nam gián tiếp xác nhận “thực thể Việt Nam Cộng Hòa” có thể được xem là một sự kiện lịch sử, và có thể là một tiền đề dẫn đến một giai đoạn “tự chuyển hóa” về quan điểm chính trị của đảng, hay nói chính xác hơn là bắt đầu từ một bộ phận nào đó của đảng cầm quyền. Tiến trình chuyển đổi này có thể nhanh hơn hoặc tăng tốc vào năm sau - 2018.

Ngân sách đang hiện ra nhiều dấu hiệu cạn kiệt nhanh khó lường. Trong tình thế hầu hết các nguồn “ngoại viện” đều đóng cửa, không “tự chuyển hóa” thì đảng thì đảng sẽ.. hy sinh.

Bối cảnh của thái độ dần thừa nhận “khúc ruột ngàn dặm” lại đậm đà dấu ấn “thu nhập ngân sách”: sau 23 năm tăng trưởng liên tục, lượng kiều hối do “kiều bào ta” gửi về Việt Nam đã sụt giảm nặng nề vào năm 2016, chỉ còn 9 tỷ USD so với 13,5 tỷ USD của năm 2015. Vào nửa đầu của năm 2017, lượng kiều hối thậm chí còn “suy thoái tư tưởng” ghê gớm hơn, đến mức cho tới thời điểm này Tổng cục Thống kê còn không dám công bố con số kiều hối về Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2017.

Trong khi đó, một dự báo của Trung tâm nghiên cứu Pew của Mỹ còn cho thấy trong năm 2017 này, lượng kiều hối về Việt Nam có thể chỉ còn 5,4 tỷ USD. Tức “tụt hậu” đến chẵn một thập kỷ…

Một bài toán quá khốn quẫn đang dựng đứng: nếu không thu hút được đủ nhiều kiều hối của “kiều bào ta”, chính phủ đào đâu ra ngoại tệ mạnh để bù đắp hố nhập siêu đến năm chục tỷ đô la từ Trung Quốc và trả nợ nước ngoài hàng chục tỷ Mỹ kim mỗi năm?

User avatar
MatVit
Posts: 829
Joined: Fri Sep 02, 2011 9:18 pm

Post by MatVit »

Image

Nhảy Dù

Song Thao

Nhảy Dù, tôi quen từ khuya. Những ngày nhỏ ở Hà Nội, lũ học sinh chúng tôi thường lang thang ra bờ đê chơi đá bóng.
Trên bãi cát bên bờ sông Hồng có một khu tập luyện của lính Nhảy Dù. Một căn chòi cất bằng gỗ cao lênh khênh có chiếc thang gỗ sần sùi để leo lên. Bên kia căn chòi giống như một căn nhà nho nhỏ trên miền thượng du được nâng cao là một chiếc cửa tò vò, bên ngoài cửa là một sợi giây cáp bằng thép được nối thoai thoải sang một chiếc cột thấp hơn ở phía xa. Trên sợi giây có những chiếc ròng rọc. Gần phía cuối sợi giây, giáp với chân cột là một chiếc hố nông được đổ đầy cát. Chúng tôi say mê coi những tân binh nhẩy dù leo lên thang, chui vào căn chòi rồi thả người nắm vào chiếc ròng rọc tụt xuống theo sợi giây cáp. Người nọ tiếp nối người kia trông như một dòng người bị treo trên giây. Khi tụt tới chỗ hố cát là phải buông người nhảy xuống cho đúng thế. Anh nào làm sai là bị ông Trung Sĩ thưởng cho một cú quất đích đáng bằng chiếc roi mây lúc nào cũng nhịp nhịp trên tay ông. Nhiều anh loạc choạc té lăn quay ra chẳng theo bài bản trông lúng túng tức cười. Nhưng vui hơn là lúc coi các tân binh nhẩy từ trên phi cơ xuống. Chiếc máy bay, đúng hơn chỉ là thân chiếc máy bay được kê trên bệ cao, sẵn sàng nuốt vào cả chục người. Dưới máy bay cũng là một hố cát. Mọi người tiến ra cửa máy bay nhẩy xuống. Có những anh nhát gan cứ đứng ì ra ở cửa không dám nhẩy. Chiếc roi trên tay ông trung sĩ lại có việc làm. Tuổi trẻ ngây ngô và ác độc của chúng tôi chẳng bao giờ bỏ qua mà không cười lăn lộn với nhau khi nhìn thấy những anh chàng nhát gan nhịp nhịp nơi khung cửa máy bay mà chân không dám nhẩy ra khỏi cửa. Những tiếng cười… bất nhân của chúng tôi vang vang từ ngày nọ tới ngày kia mà không chán.

Nhảy dù, tôi quen từ khuya. Bà cô tôi đi may trong trại Nhảy dù ở Hà Nội. Chiều chiều, anh em chúng tôi thường đón bà đi làm về trong tư thế tranh dành rất dữ dội. Bà thường mang về cho chúng tôi những mẩu vải dù đủ màu. Những miếng vải mỏng, trơn mềm, màu sắc rất nổi. Chúng tôi dùng những sợi giây dù nhỏ, kéo từ trong ruột những sợi giây lớn, cột vào bốn góc miếng vải vuông, đầu giây kia túm vào một cục chì hay lõi cuộn chỉ, làm thành những cánh dù tí hon. Chúng tôi thi nhau cuộn chiếc dù nhỏ, tung lên trời cho dù mở ra, bay là là xuống. Có những lúc cột chặt quá, dù không mở ra được, tức giận, mặt đỏ tía tai trước những câu chế nhạo không lấy gì làm êm tai.

Nhảy Dù, tôi quen từ khuya. Đầu năm 1970, tôi bước chân vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung để thụ huấn 9 tuần quân sự. Chiếc GMC vừa đổ những chàng trai còn chưa hết ngơ ngẩn khi giã biệt cuộc đời dân chính xuống cổng trại, chúng tôi đụng ngay vào một đoàn quân đang chạy di hành với ba lô trên vai. Người nào người nấy mồ hôi nhễ nhại. Không hiểu họ đã chạy bao nhiêu vòng sân trại rồi. Những bước chân nặng chình chịch như không còn lết nổi vẫn cố nuốt từng phân chiều dài của đoạn đường còn lại. Những khuôn mặt đỏ ké đẫm ướt mồ hôi có những chiếc miệng uể oải hô theo từng bước chân nặng nhọc. Nhảy Dù cố gắng! Nhảy Dù cố gắng! Nhảy Dù cố gắng!

Nhảy Dù, tôi thân thuộc khi bạn tôi, Bùi Quyền, gia nhập binh chủng này sau khi tốt nghiệp thủ khoa Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Hồi đó, chúng tôi còn đang học lớp Đệ Nhị C trường Chu Văn An thì Bùi Quyền và một vài anh bạn khác rời lớp học tình nguyện gia nhập quân đội. Từ đó, chúng tôi ít khi gặp nhau. Khi Bùi Quyền chinh chiến khắp các vùng đất nước chúng tôi chẳng có thời giờ nhìn thấy mặt nhau. Nhưng hình Bùi Quyền trên báo thì tôi có thấy nhiều lần. Anh đã trở thành một cấp chỉ huy tài giỏi của một binh chủng khét tiếng. Một “Thiên Thần Mũ Đỏ” được nhiều người biết đến.

Thiên thần mũ đỏ ?Những con người phong sương, đi đứng dềnh dàng này coi bộ khó mang hình ảnh thiên thần quá! Thiên thần trong trí tưởng của mọi người thường là những hình ảnh dịu hiền, thanh tịnh, trắng trẻo, có đôi cánh nhẹ nhàng bay lơ lửng trên trời. Mũ đỏ cũng có cánh. Chiếc cánh gắn trên mũ, trên tay áo.

Những chiếc cánh không ở trên lưng có lẽ đã làm lạc đường bay của các thiên thần khét mùi thuốc súng này. Thiên thần trinh trắng bay lên, thiên thần mũ đỏ bay xuống! Làm thiên thần nhởn nhơ trên bầu trời, tay chắp trước ngực, chân chẳng bao giờ đụng đất coi bộ khó vui. Thiên thần mũ đỏ cứ tà tà bay xuống, mông rồi chân đụng đất, trần tục vậy mà xem ra “fun” hơn. Chiếc nón sắt ngập tràn rượu đế, khói thuốc nhả mù mịt, đồng đội vỗ vai nhau nghiêng ngả, tiếng chửi thề, tiếng văng tục đệm vào những câu nói, phê biết mấy. Tiền lính tính liền, nhưng đời lính thì tính sao được? Nay còn nghiêng ngả bên nhau, mai đụng trận biết có còn trở về không? Tình lính là một thứ tình bất an nên luôn luôn đậm đà. Một đồng đội nằm xuống, cả một đoàn quân ngỡ ngàng. Thương anh em nhưng cũng thương mình. Mũi tên hòn đạn không có mắt nhưng những người lính lúc nào cũng cho nhau những ánh mắt bạn bè. Nhất là lính của những binh chủng cứ đâu có tiếng súng nổ là nhào tới.

Một ngày thứ Bảy, Nguyên Vũ, mũ đỏ vắt ngang trên cầu vai áo trận, nhào tới tòa soạn Thời Nay, mặt mũi lầm lì đỏ kệch, rủ Khánh Giang và tôi kiếm chỗ ngồi nói chuyện chơi. Chúng tôi chạy xe tới quán Cái Chùa. Ba chai 33 vừa được khui ra trên bàn, chưa ai nhắp được một hớp nào, Nguyên Vũ đưa cặp mắt đờ đẫn đảo quanh. Tròng mắt anh nháng lửa. Tay anh đặt trên khẩu súng lục dắt trong bụng. Tôi nhìn theo. Một thanh niên ăn diện đúng mốt, sơ mi trắng thẳng nếp, cà vạt tiệp màu với chiếc quần, bộ râu quai nón cắt tỉa kỹ lưỡng, cặp kính đen đắt tiền trên mặt, đang trầm ngâm trước ly cà phê. Nguyên Vũ dợm đứng dậy. Khánh Giang ấn anh xuống. Chuyện gì vậy? Trông cái thằng kia chướng mắt quá, moi phải cho nó một viên! Thôi đi cha nội, uống đi! Có lẽ Nguyên Vũ đã tắm rượu từ trước ở đâu rồi, giọng nói anh đẫm men. Khánh Giang nheo mắt với tôi. Cho moi mượn khẩu súng chút coi! Nguyên Vũ cười cười. Nhưng anh cũng đưa tôi khẩu súng. Tôi đút con chó lửa vào túi. Nhìn tôi cười cười như nhìn một đứa bé, Nguyên Vũ đứng dậy, tiến đến anh thanh niên đúng mốt ăn chơi Sài Gòn. Mặt anh chàng tái mét. Nhanh như một con sóc, Nguyên Vũ móc cặp kính Rayban ra khỏi khuôn mặt phì nộn, bóp nát trong. Máu từ trong lòng bàn tay Nguyên Vũ rỉ ra nhỏ xuống đất. Anh thanh niên hoảng hốt lủi nhanh ra cửa. Trở lại bàn, Nguyên Vũ thản nhiên móc khăn ra thấm máu. Mẹ nó chứ, ai đánh giặc cho nó ngồi làm cha thiên hạ ở đây! Đại đội moi vừa đụng lớn, đi mất gần hai chục con cái! Mắt anh như có nước mắt.

Ngày đó, tôi hiểu tâm trạng của anh. Anh là một người lính mũ đỏ cầm bút. Cái đau trong mất mát của anh là cái đau của nghĩ ngợi lao lung. Năm 1993, gặp lại Nguyên Vũ ở Houston, anh tặng tôi cuốn Xuân Buồn Thảm anh vừa tái bản, đọc xong, mặc dù chuyện xảy ra nơi quán Cái Chùa đã trên hai chục năm, tôi lại càng thông cảm với anh hơn. Chuyện chiến trường chính là chuyện địa ngục! “Trận địa pháo địch tái hoạt động mãnh liệt đêm 23 rạng 24 tháng 2. Trọn ngày hôm sau, hàng ngàn pháo địch nã vào căn cứ 30 và 31. Tám giờ sáng ngày 25, địch khởi sự tấn công. Khoảng hai giờ trưa, Đại Úy Đương, pháo đội trưởng B-3 Dù, báo cáo tăng địch xuất hiện dưới chân đồi và đích thân bắn trực xạ nát hai chiếc. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 3 Dù anh dũng giữ từng thước đất, từng giao thông hào. Nhưng thịt xương không đủ ngăn chặn xích tăng. Sáu giờ chiều, khi cơn mưa lớn đột ngột phủ dầy cảnh vật Khe Sanh, căn cứ 31 mất liên lạc. Mắt những sĩ quan tham mưu Dù đỏ hoe. Ai nấy như thu nhỏ lại, dính cứng trên mặt ghế. Căn hầm chỉ huy chợt rộng thênh thang, im vắng như huyệt địa. Không có một phép lạ nào cho những người lính Dù tội nghiệp đó. Phép lạ họa chăng chỉ đến với đám người may mắn thoát khỏi căn cứ, để một tuần lễ sau thất thểu lả mệt tìm về căn cứ A Lưới, ứa nước mắt mừng tủi trước khi gục lả trong vòng tay chào đón của các chiến hữu”.

Sau 1975, địa ngục một lần nữa đến với những mũ đỏ trong những cái gọi là Trại Học Tập Cải Tạo mà thực chất là những trại khổ sai đẫm máu và tủi nhục. Sau 14 năm ngục tù trong đó có cả những năm bị kiên giam, Mũ Đỏ Phan Nhật Nam đã luận về những ngày tù không tội trong cuộc nói chuyện với nhà văn Hoàng Khởi Phong trong cuốn Cây Tùng Trước Bão: “Phần tao, bề gì cũng là một sĩ quan Nhẩy Dù, nếu họ muốn tao chết như một Con Vật thì cách hay nhất là tao sẽ chết như một Con Người. Để có thể sống như một con người, như một cây sậy biết suy nghĩ đó, con người nhà văn của tao trồi lên. Không có giấy và bút, mà văn chương đặc biêt là truyện dài, trong hoàn cảnh đó nhiều lắm tao chỉ có thể dàn dựng ra cốt truyện mà thôi. Đâu có thể nhớ nhẩm được. Mày nhắc đến nhà văn lớn của nước Nga là Alexandre Solzhenitsyn, mày nhắc đến cuốn Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovitch và cách hình thành tác phẩm đó. Đây là một cuốn sách được viết trong thời gian nhà văn lớn của nước Nga, của nhân loại đi ở tù. Tao cũng biết quyển sách đó không phải viết nhẩm, mà là viết truyền khẩu. Có nghĩa là ông ta không bị kiên giam như tao, ông ta được sống chung với các bạn tù. Nếu mày bị biệt giam mày sẽ hiểu được giam chung với đồng loại là một hạnh phúc. Thật đúng là một hạnh phúc khi mày còn thấy những người bạn ốm đói, rách rưới, thều thào như những bóng ma ngay cả trong thanh thiên bạch nhật”.

Nhảy Dù cố gắng! Chỉ có cố gắng những mũ đỏ mới giữ được mầu mũ. Và ngay cả khi mũ đỏ không còn trên đầu, Nhảy Dù vẫn cứ cố gắng! Bác Sĩ Mũ Đỏ Trương Văn Như là người Mỹ gốc Việt duy nhất trong số 12 vị bác sĩ vừa được Ban Cố Vấn Tổ Chức Y Sĩ thuộc Hội Đồng Các Dân Biểu Đảng Cộng Hòa Mỹ ra quyết định vào ngày 04 tháng 12 năm 2004 tuyên dương là Bác Sĩ Xuất Sắc Năm 2004 vì các cống hiến cho sự nghiệp Y khoa phục vụ cộng đồng. Tên của Bác Sĩ Như đã được ghi trên đầu bảng gồm toàn các bác sĩ Mỹ chính gốc. Cuộc đời của Mũ Đỏ Trương Văn Như là một cuộc đời đầy những cố gắng. Thân sinh của Bác Sĩ Như là một nhạc sĩ đánh đàn cổ nhạc và mơ ước của ông chỉ là muốn con trai mình trở thành kép hát. Nhưng năm 10 tuổi, chú bé Như đã bỏ vùng đầm lầy Vàm Cống để lưu lạc tìm cơ hội học tập. Năm 1962, sau khi học hết cấp Tiểu Học, cậu bé Như một mình phiêu lưu lên Sài Gòn giúp việc nhà và lo mua đồ cúng quảy cho một ông thày bói để kiếm cơm đi học từ lớp Đệ Lục đến hết Tú Tài 1 tại Trường Hồ Ngọc Cẩn. Sau đó, Trương Văn Như qua giúp việc nhà cho một người giầu có để có cơ hội tiếp tục học Tú Tài 2 tại Trường Chu Văn An. Năm 1967, anh thi vào trường Đại Học Y Khoa và gia nhập ngành Quân Y để có thể tiếp tục việc học. Ra trường năm 1974, anh chọn binh chủng Nhảy Dù và phục vụ cho tới khi mất nước. Vào tù Cộng Sản 2 năm, khi được thả ông đã vượt biên. Ông vào Mỹ định cư tại Orange County năm 1984. Những năm định cư đầu tiên, Bác Sĩ Như phải trần thân làm nhiều nghề khác nhau kể cả làm nail! Nhưng với ý chí và với sự cố gắng sẵn có của một mũ đỏ, ông học lại và chính thức được cấp bằng bác sĩ Y khoa của Hoa Kỳ vào năm 1995. Ông hiện là trưởng Khối Y Khoa tại Công Ty Mac Beam Inc. chuyên phát minh và sản xuất các loại máy Y khoa trị liệu dùng tia Laser có công xuất thấp. Ông có thể nói rành các thứ tiếng Việt, Triều Châu, Phúc Kiến, Quan Thoại, Nhật, Anh, Pháp và Tây Ban Nha.

Nhảy Dù là cố gắng. Có chiếc mũ đỏ trên đầu hay không, họ vẫn cố gắng. Suốt cuộc đời. Cố gắng cho mình, cho Đồng Đội, cho Đồng Bào, cho Đất Nước!

Song Thao

https://www.tvvn.org/nhay-du-song-thao/

Post Reply