Chuyện Tù Cải Tạo Cộng Sản

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Chuyện Tù Cải Tạo Cộng Sản

Post by linhgia »

Lê Thơm

Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------
Lời mở: Tôi ra khỏi trại cải tạo, mười lăm năm rồi. Tôi vẫn nhủ với lòng, hãy quên những ngày khốn khổ ấy đi. Quên để mà sống. Trí nhớ của tôi bây giờ tồi lắm. Tôi quên nhiều chuyện, nhưng chuyện trong tù tôi không sao quên được. Nó hằn sâu trong tâm tôi, như cây đinh đóng vào cột xương sống, làm dấu mốc thời gian. Mỗi lần trí nhớ cục cựa, là mỗi lần đau.
Sau mỗi lần viết về trại tù CS, tôi lại tự nhủ với lòng, đây là bài cuối cùng, không nhắc đến nữa. Nhưng nó như cái bóng đen ám ảnh tôi hoài. Và tôi lại viết về nó. Tôi viết như người kể chuyện, để giải toả nỗi ám ảnh. Giải toả theo kiểu của anh thợ hớt tóc, trong truyện Một Ngàn Lẻ Một Ðêm, phải đào lỗ mà la lớn lên rằng, "Ông vua có lỗ tai lừa!" Tôi không xây dựng thành một cái truyện ngắn của người làm nghệ thuật viết văn. Tôi chỉ kể chuyện về trại tù CS. Nói bao nhiêu cũng thấy thiếu. Còn người đọc thì cảm thấy quá thừa. "Biết rồi. Khổ Lắm. Nói mãi."


Trong cái bị làm bằng bao cát của Lê Thơm mang bên hông, có xác một con chó con. Nó bị bóp cổ chết vào trưa nay. Chuyện này, chỉ hai người biết: Lê Thơm và tôi. Giết một con chó nhỏ không khó, nhưng mạo hiểm mang ra cổng trại là một thử thách lớn dành cho kẻ bạo gan.

Con chó lông trắng đốm đen, đẹp như con chó giả nhồi bông. Nó thân thiện với tất cả mọi người. Ðưa tay, tróc lưỡi vài cái, nó chạy đến quấn quít. Nó ngây thơ trong trắng lắm. Nó không có tội gì cả. Vậy mà nó bị giết. Cái số nó chết yểu, nên trời xui đất khiến nó lân la gần gũi với những con ma đói. Người ta nuôi nó để ăn thịt. Nếu nó không chết bây giờ, thì ngày 2 tháng 9, cũng chết bởi tay thằng chủ của nó. Từ đây tới ngày ấy, đâu còn bao lâu? Chỉ sáu tháng nữa thôi. Sau sáu tháng phù du, rồi cũng bị đem ra tế thần cho mấy ông cán bộ đánh chén say sưa, mừng ngày độc lập. Chết như thế là chết lãng nhách. Thôi thì hy sinh ngay bây giờ, còn được ý nghĩa phục vụ nhân sinh.

Mấy hôm trước, Lê Thơm nói: "Tao có kế hoạch ăn no, với điều kiện mày phải hợp tác."

Tưởng gì chứ được ăn no, tôi hợp tác liền. Miếng ăn bây giờ, là vấn đề quan trọng hàng đầu. Khi đói, bộ nảo tuột xuống nằm trong cái dạ dày. Mọi suy tính đều hướng về miếng ăn, phục vụ cho cái dạ dày. Từ đó, người ta bộc lộ hết bản năng sinh tồn. Mà bản năng sinh tồn, thì người và vật giống nhau.

Tuy thế, tôi vẵn hỏi lại cho rõ: "Kế hoạch thế nào?"

"Mày đấm một cú thật mạnh vào chỗ này." Hắn nghiêng đầu qua một bên, chỉ vào quai hàm.

"Chi vậy? Thằng khùng!"

"Tao muốn dưới mang tai sưng lên, để khai sưng quai bị."

"Và được nghỉ lao động?"

"Nghỉ lao động là cái chắc. Nhưng mục đích chính là kiếm ăn."

"Nói rõ hơn coi?"

Lê Thơm xít lại gần tôi: "Dạo này, sáng trưa chiều, đều sắn. Ngày nào cũng sắn. Trường kỳ sắn. Nhiều thằng ăn sắn, quai hàm bạnh ra. Có thằng ma lanh, lấy tay chà xát đỏ lên, rồi khai sưng quai bị. Y tá tưởng thật, cho nó ra ở nhà cách ly, ngoài hàng rào."

"Ở cách ly, vẫn đói."

"Bên hông nhà cách ly, hàng rào bị phá một khoảng bằng cái lỗ chó chui. Nếu được ở cách ly, ban đêm tao chui lỗ chó, đột nhập nhà kho, trộm nếp."

"Chơi trò mạo hiểm, dễ mất mạng. Mày nhớ vụ thằng Khánh nửa khuya chui rào, ra nương moi khoai lang, bị bắn bể đầu gối, phải cưa chân lên tận háng không?"

"Ðó là nó chui từ trong ra ngoài. Còn tao chui từ ngoài vô trong."

"Ngoài hay trong cũng vậy. Vệ binh đi tuần thấy bóng người lấp ló ban đêm, nó nổ súng không thương tiếc."

Vụ thằng Khánh thế này. Nó là đại uý pilot. Những thằng Không Quân thường to con. Vào tù, càng to con càng bất lợi. Ăn uống cùng một tiêu chuẩn, thằng to con đói nhiều hơn thằng nhỏ con. Vào một đêm đông miền thượng du, trăng sáng lắm. Khánh chui rào, mò vào nương moi khoai lang. Cán bộ đi tuần tra an ninh bắt gặp con ma đói. Cán bộ bảo Khánh đứng nghiêm, rồi chỉa họng súng vào đầu gối của Khánh, bóp cò. Khánh bị bể khớp xương đầu gối, quỵ ngay tại chỗ. Cán bộ vào báo động, tập họp cả trại điểm danh. Anh em tù cải tạo không hiểu chuyện gì. Một lúc sau, vệ binh khiêng Khánh vào, bỏ nằm giữa sân trại. Cấm, không ai được đến gần. Trời đông lạnh buốt. Khánh nằm đau nhức rên la suốt đêm. Sáng ra, Khánh được khiêng lên bệnh xá của đoàn 779. Bệnh xá cũng chỉ có mấy thứ lá cây hái về từ ngoài rừng, sao làm thuốc nam. Hai người tù phục vụ ở bệnh xá, là bác sĩ của chế độ cũ miền Nam, cũng đành bó tay. Phải chuyển Khánh đi nơi khác. Khánh được võng đi cả ngày đường, qua bao nhiêu sơn khê đồi núi mới ra tới bệnh viện Yên Bái. Tám tháng sau, Khánh về lại trại, với cái chân cụt gần tận háng. Anh em ngồi nghe Khánh kể chuyện, đều khiếp vía. Tại bệnh viện Yên Bái, người ta trói tay chân Khánh vào giường, rồi cưa chân mà không có thuốc tê mê gì cả. Danh từ chuyên môn gọi là "giải phẩu sống". Khánh đau quá, ngất đi mấy lần. Giải phẩu sống lần đầu, vết thương nhiễm trùng sưng tấy lên và làm mủ. Giải phẩu sống lần thứ hai, người ta cho Khánh uống rượu đế đến say mèm, rồi mới cưa. Khánh nói, có rượu vào, cảm thấy ít đau.

Nhắc chuyện của thằng Khánh, cũng không làm Lê Thơm nao núng.

"Ðừng doạ tao. Ðấm một cú đi." Lê Thơm nghiêng đầu, đưa quai hàm chờ đợi.

Tôi đẩy ra: "Cú đấm của tao, có thể làm mày tréo bản họng. Mày tự đấm mày đi."

"Tao làm rồi. Nhưng tự đấm mình, tao không dám mạnh tay. Mày giúp tao hoàn thành kế hoạch."

"Kế hoạch của thằng khùng!"

Nói xong, tôi bỏ đi. Lê Thơm cụt hứng, chửi thề.

Hai ngày sau nữa. Ăn trưa xong, anh em vào lán nằm nghỉ ngơi. Lê Thơm, và tôi còn ngồi lại ở nhà ăn. Con chó nhỏ quanh quẩn dưới chân. Nó mới xuất hiện khoảng hơn nửa tháng nay. Từ trên khung, nó hay chạy xuống trại trong giờ ăn.

Nhìn con chó một lúc, Lê Thơm chợt nẫy ý lạ: "Thịt con chó này."

Tôi trợn mắt: "Ðừng đùa. Chó cán bộ trại phó đấy."

Hắn cương quyết: "Chó cán bộ, cũng xơi."

"Làm sao ăn?"

"Tao có cách. Mày dụ nó ở đây. Tao lấy cái bao cát."

Tôi chưa kịp đồng ý hay không. Hắn chạy vụt đi.

Tôi nhìn con chó. Tội nghiệp! Nó không biết gì cả. Tôi đưa tay. Nó liếm. Tôi vuốt đầu. Nó quíu tai lại. Tôi vỗ nhẹ trên lưng. Nó nghểnh cổ, lim dim đôi mắt. Quỷ thần trời đất ơi! Nó dễ thương như vậy, ai nở lòng nào giết cho đành?

Lê Thơm cầm bao cát, hấp tấp chạy lại: "Nhanh lên!"

Tôi lắc đầu.

Hắn mở rộng miệng bao giơ ra, giục: "Nhanh! Bóp cổ, thồn vào."

Không còn suy nghĩ nữa, tôi chụp cổ con chó, siết mạnh. Nó giãy giụa, quào bốn chân trong không khí. Lê Thơm túm chân, tròng vào bao cát.

Hắn nói: "Tiếp tục bóp."

Nếu có kẻ nhìn thấy, hậu quả khốn nạn sẽ không lường nổi.

Tôi kêu lên: "Kinh quá mày ơi! Tha nó đi."

Tôi buông tay. Con chó vừa kêu "ẳng" một tiếng, đã bị Lê Thơm siết cổ lại liền.

Tới giờ xuất trại lao động buổi chiều, cả đội xếp hàng đôi, lần lượt ra cổng. Cán bộ trực trại, và quản giáo đứng ngay cổng kiểm soát. Vệ binh coi tù, mang súng đi sau cùng. Lê Thơm lảnh việc nấu nước cho đội. Hắn quảy cặp thùng, mang bị đựng chó bên hông, thản nhiên đi ra cổng. Tôi vái thầm, cầu trời cho hắn thoát. Và hắn thoát thật. Tôi thở phào, nhẹ cả người.

Ra đến hiện trường lao động, mọi người túa vào rừng chặt nứa. Rừng xanh mênh mông. Ðồi núi chập chùng. Vệ binh mang súng đi qua đi lại ngoài bìa rừng, canh tù làm việc. Lê Thơm chọn thế đất tương đối bằng phẳng. Việc đầu tiên, hắn đào một cái hố nhỏ. Ai cũng tưởng hắn đào bếp lò. Nhưng thật nhanh, hắn cho con chó xuống, và lấp đất lại. Bên trên, hắn đốt một đống lửa, nấu nước. Ðó là chuyện hắn kể sau này.

Trong giờ giải lao. Tôi tới chỗ nấu nước. Lê Thơm múc cho tôi một ca nước sôi. Nhìn quanh, không thấy có dấu hiệu gì chứng tỏ Lê Thơm nướng chó.

Tôi hỏi nhỏ: "Chó đâu?"

Hắn chỉ vào đống lửa.

Tôi lấy cớ mồi lửa đóm hút thuốc lào, dùng cái que cời than lên, vẫn không thấy chó.

Hắn bảo: "Ði khỏi chỗ này ngay. Ðừng làm tụi nó sinh nghi."

Tôi tin tưởng vào tài ứng biến của Lê Thơm. Xưa kia, hắn là thiếu tá, có thời làm quận trưởng quận Chợ Lách, tỉnh Vĩnh Long. Ngày nay vào tù, hắn nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh mới, lanh lợi trong mọi vấn đề. Nhất là cải thiện, hắn nhanh như sóc. Trong đội, không thằng nào qua mặt được Lê Thơm. Thoáng thấy đó, biến đó không ngờ. Hồi hắn còn trong tổ làm vườn. Giờ trưa, mọi người đều nghỉ ngơi. Hắn lúi húi moi khoai lang, đem xuống suối rửa, nhưng mắt vẫn rảo quanh quan sát. Hắn thấy Thu Sứt từ những bụi cây đàng xa, đang rình mò theo dõi hành động của hắn. Tay này mang quân hàm trung uý, có người anh vào Nam làm giải phóng, và bỏ mạng trong trận chiến mùa hè năm 72, ở Bình Long. Bao nhiêu hận thù, Thu Sứt trút lên đầu anh em tù cải tạo. Sở dĩ Thu Sứt có biệt danh này, là do cái môi bẩm sinh bị sứt, phải vá lại. Vì thế cái miệng chum chúm, làm cho cái mặt luôn luôn mang nét quạu quọ như người đang hờn giận. Có lần, Thu Sứt bắt gặp anh Năng đang cải thiện. Thu Sứt gọi về, bắt Năng đứng giữa bốn vệ binh vây quanh. Thu Sứt hạ lệnh cho bốn vệ binh bề hội đồng. Năng bị đấm văng bên này, bị đá giạt bên kia, giống như những cầu thủ giao banh. Cuối cùng, Năng gục xuống ngất xỉu, được khiêng về trại cho anh em tù săn sóc. Sau thành tích ấy, Thu Sứt nổi danh là hung thần ác sát. Trong trại còn một người nữa, cũng nổi danh không kém Thu Sứt. Ðó là chàng trung sĩ vệ binh Nương Mặt Ngạnh. Thật ra, anh ta tên là Lương, nhưng do nói ngọng thành Nương, và do xương quai hàm bạnh ra, nên có biệt danh là Nương Mặt Ngạnh. Khi dẫn tù đi lao động, anh ta cầm theo chiếc gậy bằng cây giang, trông như khúc đoản côn. Ðã nhiều lần anh ta quất thẳng cánh vào anh em tù cải tạo. Ai từng bị đòn của Nương Mặt Ngạnh cũng đều ẹo xương sống. Thành tích của Nương Mặt Ngạnh ở hiện trường lao động rất đáng gờm. Anh ta bắt tù đứng trên triền núi. Thế núi dốc, anh ta đứng phía trên. Sau vài câu đay nghiến, bỗng Nương Mặt Ngạnh đá thốc dép râu vào mặt người tù. Bất ngờ không kịp chống đỡ, người tù ngả vật ra, sặc máu mũi. Trong kỳ cả trại học tập về chính sách khoan hồng nhân đạo của đảng và nhà nước, anh em tù phản ảnh chuyện này lên ông trại trưởng. Ông trại trưởng bảo: "Chính sách của đảng và nhà nước trước sau như một. Nhưng các anh quá quắc, không trừng trị không được." Thế là huề! Ðảng và nhà nước vẫn tiếp tục chủ trương khoan hồng nhân đạo. Anh em tù vẫn tiếp tục bị trừng trị.

Trở lại chuyện Lê Thơm khi bị Thu Sứt theo dõi. Hắn biết nguy tới nơi rồi. Hắn cho tất cả khoai lang vào thùng tưới, đi lên. Ở đằng xa, Thu Sứt nương theo những bụi cây đi tới, quyết bắt tại trận tên tù đang cải thiện. Lê Thơm chờ cho Thu Sứt đi khuất sau chòm cây, hắn trút thùng khoai xuống hố ủ phân bắc. Rồi quay xuống suối như đang tiếp tục xách nước tưới rau. Phân bắc là cứt người, ủ lại để bón rau. Hố phân bắc đầy giòi bọ, và mùi rất khắm.

Thu Sứt xuất hiện, khi Lê Thơm đang múc nước dưới lòng suối.

"Anh kia! Làm gì đấy?"

"Xách nước tưới rau."

"Anh rửa gì dưới suối?"

"Tôi có rửa gì đâu?"

"Láo! Anh vớt tất cả đem lên đây."

"Có gì mà vớt?"

"Khoai lang."

"Làm gì có?"

"Hãy mò xuống, vớt lên."

Lê Thơm mò xuống, vớt lên những sỏi đá."

Tức quá, Thu Sứt xăn quần lội xuống suối. Mò chỗ cạn không thấy, Thu Sứt mò ra sâu hơn, ướt cả quần, vẫn không thấy. Thu Sứt quay lên, mặt hầm hầm bảo Lê Thơm về ngay, trình diện trên khung.

Tại khung, Thu Sứt đưa tờ giấy, bình mực, và cây bút cho Lê Thơm, bảo: "Viết kiểm điểm."

Lê Thơm hỏi lại: "Chừng nào nộp giấy?"

"Chiều nay."

"Không kịp. Tôi còn phải đi lao động."

"Cho anh nghỉ việc buổi chiều. Ở lại lán viết kiểm điểm."

Lê Thơm viết, đại ý rằng từ ngày đi cải tạo, hắn luôn phấn đấu để trở thành người tốt. Cán bộ bảo viết kiểm điểm. Nhưng hắn không biết kiểm điểm về vụ gì? Mong cán bộ chỉ dẫn.

Buổi chiều. Lê Thơm đem giấy lên nộp. Thu Sứt đọc xong, vỗ bàn: "Kiểm điểm về vụ cải thiện khoai lang. Biết chưa?"

"Nhưng tôi đâu có cải thiện khoai lang?"

"Có. Anh phải viết rằng anh có cải thiện khoai lang. Nghe rõ chưa?"

"Vâng. Tôi rõ. Xin cho biết chừng nào nộp giấy?"

"Cho anh nghỉ việc sáng mai, viết kiểm điểm. Trưa hôm sau nộp."

Thu Sứt đưa Lê Thơm tờ giấy khác. Anh ta yên chí sẽ căn cứ vào nội dung tờ kiểm điểm, nện cho Lê Thơm một trận mập mình, và cùm vào nhà kỷ luật.

Lần thứ hai, Lê Thơm viết rằng: Tôi đang đứng dưới suối xách nước tưới rau. Cán bộ nghi ngờ tôi đang rửa khoai lang. Và ra lệnh cho tôi phải viết có cải thiện khoai lang. Tôi tuân lời cán bộ, nhận có cải thiện khoai lang. Nhưng thật sự tôi không dám làm chuyện vi phạm nội quy như thế."

Trưa hôm sau. Thu Sứt đọc kiểm điểm của Lê Thơm xong, xé toạc tờ giấy, giận dữ: "Viết láo lếu thế này, thì sao gọi là tự giác?"

Lê Thơm bình tĩnh: "Tôi viết theo lệnh của cán bộ."

Thu Sứt gầm lên: "Câm họng. Cút ngay! Lần sau, dù có lủi giỏi như chạch cũng không thoát."

Trong tù, Lê Thơm dám "giỡn mặt" cán bộ, quả là lớn gan. Tôi phục hắn. Nói theo Thu Sứt, hắn lủi giỏi như chạch. Hắn đã thoát không phải một lần, mà nhiều lần sau nữa. Chỉ một lần sau cùng, hắn không thoát được. Và lần không thoát được ấy, đưa Lê Thơm đến sự tử vong. Tôi đã nói về trường hợp Lê Thơm bỏ mạng, trong một truyện khác.

Tối hôm thịt con chó, trời vừa nhá nhem, Lê Thơm khều tôi ra ngoài đầu hồi. Hắn mở cái bị, lôi ra con chó cứng đơ, dính đầy đất cát. Hắn lột da, xé miếng thịt đưa tôi. Chưa bao giờ ăn thịt chó, tôi nghe nhờn nhợn trong cổ khi cầm miếng thịt.

Lê Thơm bảo: "Ăn đi. Nguồn protéin bổ dưỡng vô song."

Hắn nhai ngấu nghiến. Tôi bắt chước ăn thử, thấy ngon. Tôi nghĩ, với sự đói khát lâu ngày, bất cứ món gì cho vô miệng cũng thấy ngon. Thằn lằn, rắn mối, cào cào, châu chấu, ốc sên, dế nhủi đều ngon, và cũng là nguồn protéin cần thiết cho cơ thể. Ðặc biệt, có con sâu màu trắng thường rúc trong gỗ mục, toàn thân nó chứa một chất sữa rất béo. Con sâu vô danh này, tù đặt tên là con Magarit. Có thể nói con Magarit là sâm động vật, giá trị không thua sâm thực vật của Ðại Hàn.

Hai chúng tôi ăn đến nửa con chó, thì đụng phần thịt sống. Bởi khi chôn con chó xuống đất, phía trên nóng nhiều làm thịt chín, nhưng không đủ sức chín tới phía dưới.

Lê Thơm nói: "Ăn luôn. Người tiền sử vẫn ăn thịt sống."

Tôi đề nghị: "Cắt ra từng miếng nhỏ, cho vào lon Guigoz nấu."

"Mang ra mang vô cổng trại, nguy lắm."

"Tới phiên tao mạo hiểm. Tao sẽ nấu ngay đêm nay."

Ðêm ấy, tôi lần mò trong bóng tối, vào nhà bếp cời than đặt vào hai chiếc lon Guigoz. Xong, lại quay về lán ngồi đợi thịt chín. Khi lấy lon về, cũng phải ra vào hai bận. Công việc chỉ có thế, nhưng vô cùng nguy hiểm. Vệ binh rình rập đâu đó, thấy bóng người ra khỏi lán mà không cầm theo cây đèn dầu, chúng sẽ bắn, nếu không chết cũng bị thương. Tôi tin con người có số mạng. Dù ở tù, nhưng ngôi sao chiếu mạng của tôi còn sáng lắm. Quỷ thần che chở cho tôi trong mọi trường hợp bất trắc hiểm nguy.

Ngay trong đêm, Lê Thơm và tôi thanh toán sạch luôn hai gon Guigoz thịt. Con chó nhỏ được chôn kín vào nơi không trời không đất. Hoàn toàn mất dấu.

Khi ăn, tôi nói: "Nghĩ tội con chó quá, mày ơi!"

Lê Thơm nói: "Cũng bởi tình cảm tiểu tư sản như thế, mà hôm nay mới vào tù."

Tôi lại nói: "Miếng ăn tưởng chừng rất nhỏ nhoi. Nhưng có lúc người ta dám đem cả sinh mạng mình ra thử thách. Xem thế, đủ biết cái ăn là quan trọng vô cùng."

Lê Thơm gạt ngang: "Ðừng triết lý vặt, ăn mất ngon, con ạ!"


Vài hôm sau, ông đại uý cán bộ trại phó cầm sợi dây cột chó, xuống trại vào giờ ăn trưa. Ông đi quanh quẩn tìm kiếm.

Ông hỏi: "Các anh có thấy con chó của tôi chạy xuống đây không?"

Mọi người im lặng.

Lê Thơm lên tiếng: "Con chó nào, cán bộ?"

"Con chó trắng đốm đen."

"Có phải con chó nhỏ không?"

"Ðúng rồi."

"Ồ... Lúc trước, nó vẫn thường chạy lại đây. Hai ngày nay không thấy."

"Hôm qua, tôi còn cho nó ăn. Mới mất hôm nay thôi."

Lê Thơm sốt sắng: "Tôi sẽ để ý. Nếu thấy, tôi giữ nó lại, báo cho cán bộ."

Ông trại phó lắc đầu thất vọng: "Chắc bị cáo vồ rồi."

Nói xong, ông quay đi.

Lê Thơm thầm thì với tôi: "Mình thịt con chó đã hai ngày. Nó nói hôm qua còn cho chó ăn. Bọn này hễ mở miệng ra là nói láo. Chuyện lớn chuyện nhỏ đều láo."
Last edited by linhgia on Sat Mar 19, 2005 5:18 pm, edited 2 times in total.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Chuồng Người

Post by linhgia »

Chuồng Người

Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------

Chỉ còn vài ngày nữa là thu hoạch xong vụ mùa. Tôi được miễn đi lao động, vì cái chân đau. Hôm qua lúc chuyển lúa vào bồ, tôi vô ý vấp ngã nơi bậc thềm nhà kho. Mặc dù đã được nắn bóp, sửa trặc, nhưng khớp xương mắc cá chân vẫn sưng đỏ, đau nhức.
Khi các đội đã xuất trại, tôi chống cây gậy ra cửa, đứng nhìn lên sân trại. Giữa sân có đặt ba cái thùng phuy, dùng chứa phân người. Sau một đêm bài tiết của anh em trong trại, phân được xúc từng gánh đem đổ vào thùng. Hàng ngày, người của đội rau xanh sẽ chuyển ba cái thùng này bằng xe cải tiến đến vườn rau. Ðổ phân xuống hố, lấp phủ lên một lớp đất. Ủ phân. Một thời gian sau, phân từ màu vàng như đất sét nhão, biến thành màu xám như bùn, đã tới lúc có thể dùng được, xúc lên làm phân bón rất tốt. Phân được chế biến kiểu này gọi là phân Bắc. Mới đầu, anh em đội rau xanh rất tởm phân Bắc, nhưng thời gian lâu dài, tiếp xúc mãi thành quen, thấy cũng không có gì đáng gớm ghiếc, và khám phá ra cái công dụng tuyệt vời của nó. Chỉ cần rau muống nếm một chút phân Bắc, rau trở nên xanh tốt, tăng trưởng rất nhanh.

Từ trong đội cải tạo hình sự, có hai tên cầm que đi đến thùng phuy. Nó bươi móc thứ gì trong đó. Một trong hai tên này, tôi quen. Hồi mới quen, tôi hỏi nó:

- Mày tên gì?

- Ný!

- Tên ngộ quá! Họ gì?

- Nê !

- Cái gì? Làm gì có họ Nê?

- Có chứ! Rất nhiều!Tên họ của cháu: Nê văn Ný
.
Tôi chợt hiểu, bật cười:

- Mày nói ngọng. Tên họ của mày là Lê văn Lý.

- Người miền Nam của các chú thường nói thế. Ở đây chúng cháu gọi Nê Văn Ný!

Từ đó trở đi, tôi cũng gọi nó là thằng Ný.

Thấy nó bươi móc trong thùng phuy, tôi kêu lớn:

- Ný! Mày làm cái gì đó?

Nó quay lại nhìn tôi, rồi bỏ cái que, đi lại gặp tôi.

- Hôm nay sao chú được nghỉ?

- Tao bị bong gân chân. Còn mày?

- Cháu chờ để trưa gánh đồ ăn thông tầm cho đội!

- Mày tìm gì trong thùng phân?

- Nhà bếp vừa đổ rác trong ấy. Cháu kiếm chút rau cải vụn.

- Ăn uống dơ bẩn, có ngày bỏ mạng con ơi!

- Cháu mang về rửa sạch, cho vào ca cống, đun sôi, vi trùng nào chả chết!

Tôi nhìn thân hình gầy gò, cái mặt hốc hác của nó, và nghĩ đến mình. Tôi có khác nó gì đâu. Cùng một hoàn cảnh khốn khó, người ta không cần tỏ lòng trắc ẩn cho nhau.

Ðứng tần ngần một lúc, nó hỏi:

- Chú có thuốc nào, cho cháu xin một bi!

-Vô đây!

Tôi dẫn nó vào lán, ngắt trong cái bọc nhỏ, cho nó một bi thuốc lào. Rít xong hơi thuốc, nó nói:

- Hôm nay, đội cháu có mấy thằng được chỉ định nên khung, mổ nợn cho cán bộ bồi dưỡng. Cháu không được đi. Tiếc thật!

- Mổ lợn đâu có gì thích mà mày tiếc?

- Thích chứ! Ðược xơi thịt!

- Cán bộ cho ăn hả?

- Không. Làm gì có người tốt thế!

- Vậy ăn bằng cách nào?

- Khi được chỉ định đi mổ nợn, thằng nào cũng phải măc hai nớp quần. Nớp trong được bó sát vào bìu dái như cái quần xì của người miền Nam. Ðến núc xẻ thịt thì xén vài cục, nén dấu vào quần, dưới bìu dái. Trước khi về, cán bộ bắt đứng xếp hàng, mò xét khắp ngườii, nhưng không mò dưới bìu dái. Thế nà thoát!

-Tụi mày tài thật!

- Cách này dùng mãi, bị phát giác. Chúng nó bắt cởi đồ, chỉ còn độc cái quần trong, thò tay sờ vào quần, sờ nắn trong háng, nhột bỏ mẹ. Bắt gặp có dấu thịt, chúng nó dần cho nát đòn và cùm vào nhà kỷ nuật.

- Khó khăn, nguy hiểm như vậy, tụi mày không sợ?

- Trong khó khăn nẩy sinh sáng tạo. Chúng cháu nghĩ ra được cách giấu thịt, chỉ có trời biết.

Nó ngừng lại, chỉ tay vào túi tôi:

- Chú cho cháu thêm bi thuốc!

- Mày có tài thật, đang kể chuyện tới hồi gây cấn là ngừng lại, đòi thứ này, thứ nọ.

Dù cằn nhằn nhưng tôi vẫn ngắt cho nó bi thuốc lào thứ hai. Nó cẩn thận cho bi thuốc vào nõ điếu, châm mồi lửa, rít một hơi dài...Tôi giục:

- Kể tiếp đi. Cái mánh lới giấu thịt của mày!

- Thằng nào được chỉ định đi mổ lợn, khi trở về đội cũng phải nạp cho thằng đội trưởng hai cục thịt bằng ngón chân cái. Không có, nó thụi vào bụng cho thổ huyết!

- Tao không muốn nghe chuyện thằng đội trưởng của tụi mày. Hãy kể phương pháp dấu thịt mà mày cho rằng sáng tạo.

- Vâng! Phương pháp này không cần phải chuẩn bị đồ nghề gì cả. Lúc xẻo thịt, nếu cán bộ không để ý, cứ xén từng cục, cho vào mồm xơi tươi!

- Ăn thịt sống hả?

- Vâng! Xơi thịt sống thì đã có sao?

- Tụi mày ăn uống như người tiền sử!

- Người tiền sử nà người xứ nào mà ăn uống như chúng cháu?

- Chẳng phải xứ nào cả! Ðó là tổ tiên của chúng ta nhiều triệu năm về trước. Khi chưa tìm ra lửa, loài người phải ăn thịt sống.

- Ðấy! Họ vẫn khoþe mạnh, sinh tồn đến ngày nay. Cọp beo cũng thế!

- Hãy nói vấn đề lấy thịt. Tụi mày ăn tại chỗ, nhưng làm sao lấy về cho thằng đội trưởng?

- Chúng cháu xén sẳn vài cục, khi có nệnh về nà cho vào mồm nuốt ngay. Bọn cán bộ dù có con mắt thánh cũng không bắt gặp. Xét xong, chúng cháu vội về đội, móc họng, nôn ra niền, nạp đủ số cho thằng đội trưởng.

- Rồi thằng đội trưởng ăn bằng cách nào?

- Hắn rửa cục thịt sạch chất nhớt, cho vào ca cống, đun lên nà có được bữa ăn ngon.

Nói xong, thằng Ný đứng dậy:

- Cháu phải về gánh cơm cho đội thông tầm. Cái chân chú đau, không nên đi đứng nhiều.

Nó quay lưng, ra khỏi lán.

Nhìn đôi vai gầy guộc của nó rút lại như đôi vai cuþa người bệnh ho lao, tôi gọi: -Ný! Mày trở lại lấy vài bi thuốc laòo, đêm nay hút cho đỡ lạnh!

Vào những ngày cuối năm, trời bỗng dưng trở lạnh. Mưa phùn lất phất trên những vòm cây. Ðồi nương ẩm đục. Ngày hai mưới chín tháng Chạp, được phép trại trưởng, các đội khỏi phaþi xuất trại lao động bên ngoài. Thay vào đó, anh em được giao công tác dọn dẹp và làm vệ sinh trong trại, chuẩn bị đón Tết.

Tôi đang ngồi nhổ coþ dọc theo những chân tường ngăn chia các đội. Thăng Ný đi ra. Hôm nay nó mặc bộ đồ lành lặn, sạch, mặt hiện niềm vui. Tôi nói:

- Chưa Tết mà ngó mày, tao đã thấy mùa xuân!

Nó báo tin: - Cháu được mẹ từ Vĩnh Yên nên thăm. Bộ đồ này cháu mượn của thằng bạn, để mẹ cháu không nhìn thấy cháu rách. Cháu đang chờ cán bộ dẫn ra nhà thăm nuôi.

- Mày ngon rồi! Vừa có đồ ăn của trại, vừa được mẹ tiếp tế thêm. Tết này mày huy hoàng!

- Vâng! Huy hoàng thật! Cháu không ngờ may mắn đến thế!

Khoảng hai giờ chiều, cán bộ dẫn thằng Ný về trại, tay ôm bụng, mặt nhăn nhó, tái nhợt. Ngờ nó bị trúng gió, tôi theo nó vào lán. Nó năm vật lên sạp, lăn lộn, kêu đau bụng và lạnh. Tôi hỏi mượn mấy thằng bạn của nó ve dầu nóng để cạo gió.

Thằng đội trưởng hình sự đứng nhìn một lúc, nói:

- Chả phải trúng gió đâu! Nó bị bội thực đấy! Móc họng nôn ra là khỏi ngay!

Nhiều thằng khác lao nhao:

- Nôn ?đi! Nôn đi!

Thằng Ný trườn về bìa sạp, rướn cổ, thò đầu ra ngoài, cho ngón tay vào miệng. Có thăng la lớn:

- Hãy khoan!

Và nó chạy ra ngoài, đem vô một cái thau bằng nhựa, bưng thau kề sát miệng thằng Ný:

- Hãy nôn vào đây!

Thằng Ný móc họng, ụa mữa. Ðồ ăn lẫn nhớt dãi tuôn trào xuống thau. Thằng bưng thau bóc lên những miếng thịt còn dính lòng thòng nhớt dãi, đưa lên miệng ăn. Một thằng khác đang đói cũng ăn.

Có thằng nhăn mặt: - Gớm quá!

Thằng bưng thau nói:

- Gớm gì? Từ bụng kia sang bụng nọ mà thôi!

Sáng mồng một Tết, mọi người quy tụ ra sân trại coi anh em văn nghệ trình diễn. Có đàn và trống xập xình vui tai. Tôi gặp thằng Ný đang lóng ngóng coi hát. Tôi hỏi:

- Mày khỏe hẳn chưa?

- Hôm sau nà khỏe ngay!

- Mẹ mày thăm nuôi, sao tao thấy mày đi vào tay không?

- Nhà cháu nghèo, không có tiền sắm sửa. Thăm nuôi là thăm cho có nệ thế thôi! Mẹ cháu chỉ mang cho cháu một con gà nuộc, và một cân xôi.

- Sao không đem vô trại, để dành ăn từ từ?

- Nếu đem vô trại, mấy thằng đầu gấu, chúng nó giành giựt cả. Thế cháu mới xơi hết tại chỗ!

Tôi trợn mắt:

- Mày ăn hết một lần hết con gà và cân xôi?

- Vâng! Không còn cách nào khác! Lúc thì dư thừa phải nôn ra, bây giờ thì đói.

Nhìn thằng Ný, tôi thấy nó đang tàn tạ, khô héo dần. Nó không có mùa Xuân.

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re:

Post by linhgia »

Lò Cừ Nung Nấu Sự Ðời

Lâm Chương

--------------------------------------------------------------------------------

Thằng con trai út của tôi tên Lâm Bình, ngoại hiệu Cu Ðen, vừa tròn mười tuổi. Sau khi cắt bánh mừng sinh nhật và hát bài Happy Birthday, nó tuyên bố rằng, từ đây không còn muốn nghe ai gọi tiếng Cu kèm theo tên Ðen nữa. Mấy thằng bạn nhỏ của nó, ngoài những đứa Việt Nam, còn có Mỹ, Tàu, Ðại Hàn, Thái Lan và Phi luật Tân. Những thằng này không biết tiếng Việt. Cu Ðen phải làm thêm một màn thông dịch bằng tiếng Anh.
Nghe xong, chúng trố mắt nhìn nhau, không hiểu lý do.

Một thằng nhỏ Việt Nam, chỉ tay xuống háng: "Cu là cái này."

"Thế còn Ðen?" "Black."

Chừng như chúng hiểu ra cái nghĩa Cu Ðen, nên phá lên cười muốn vỡ nhà.

Cu Ðen trừng mắt: "Tụi mày cười, tao không chơi với tụi mày nữa."

Một thằng Mỹ con, đề nghị: "Bỏ chữ Cu, thêm chữ Ny sau tên Ðen, thành Danny."

Một ý kiến hay, được Cu Ðen chấp nhận, và cả bọn vỗ tay tán thành. Từ đó, thằng con tôi trở thành Danny, một cái tên ngoài giấy tờ khai sinh. Kỷ niệm sinh nhật năm thứ mười, cũng là kỷ niệm ngày đổi tên. Nhưng cái tên mớI này, cũng chỉ có giá trị với những thằng bạn của nó thôi. Còn cả nhà đã quen với tên cũ, không ai chịu gọi nó bằng Danny. Mỗi bên nhượng bộ một chút. Thằng nhỏ hết thấy khó chịu. Và người nhà cũng không ngượng miệng phải gọi một tên mũi tẹt da vàng bằng tên Mỹ. Chỉ gọi là Ðen. Tiếng Cu đã lỗi thời, đi vào quá khứ. Thật ra, cu còn có nghĩa khác, chứ không phải đơn thuần hàm chỉ bộ phận sinh dục của giống đực. Trong trường hợp con tôi, cu có nghĩa là đứa bé trai. Nhưng khi nhạo báng nhau, người ta không chịu hiểu theo cái nghĩa này.

Không phải tùy hứng mà đặt tên con là Cu Ðen, một biệt hiệu ngoài giấy tờ khai sinh. Tất cả đều có nguyên nhân của nó.

Tôi có đứa con gái đầu lòng, đặt tên Khuê. Loay hoay tìm chữ lót. Thị Khuê, thường quá. Ngọc Khuê, có vẻ cải lương. Sao Khuê, tên nghe được, không trùng với ai. Nhưng nếu có người hỏi nghĩa là gì, thì trả lời làm sao? Trên trời có vì sao nào là sao Khuê không? Tôi mở từ điển Hán Việt ra, tra chữ khuê, thì thấy khuê là một vì sao trong nhị thập bát tú. Thế là yên chí, đặt tên con gái là Lâm Sao Khuê.

Năm Sao Khuê chập chững tập đi, thế nước đổi thay. Tôi gặp hồi mạt vận, sa chân xuống hầm tai vạ. Thế mà trước đó một năm, lão thầy bói lừng danh ở Sài Gòn, dám đoan chắc rằng sang năm Ất Mão, đời tôi sẽ lên như diều gặp gió.

Lão lý luận nghe rất phấn khởi: "Cậu đang đi lính, lại thuộc tuổi Ngọ. Vậy cậu là con ngựa thứ dữ. Ngựa chiến, chứ không phải ngựa kéo xe tầm thường. Gặp năm Mão là năm con mèo. Mèo là con vật quanh quẩn xó bếp, dám đâu cự lại ngựa nòi? Ngựa cứ thênh thang đường ngựa, mèo chỉ trơ mắt ngó mà thôi."

Thấy tôi còn đang bồi hồi vì một tương lai rực rỡ, lão bồi thêm cú chót để giữ vững niềm tin. Lão chồm về phía tôi, nói nhỏ như sợ có người nghe thấy: " Nói thật với cậu, ai thuộc tuổi Tí, mà bước sang năm Mão, thì đời thê thảm lắm. Mèo là khắc tinh của chuột. Chuột gặp mèo, nếu không vong mạng, cũng lắm tai ương."

" Người tuổi Tí đến đây coi quẻ, thầy có cho họ biết điều đó không?" Tôi hỏi.

Lão ra vẻ hốt hoảng: "Ấy chết! Mình đâu nỡ báo tin buồn quá sớm. Ðể cho con người ta vui được ngày nào hay ngày ấy."

Trời xui đất khiến, trong tù, tôi gặp lại lão thầy bói. Lão ở tù vì cái tội bày trò mê tín dị đoan.

Tôi nhắc lại chuyện cũ, và nói: "Con ngựa chiến sút móng, không "dzọt" được. Gặp con mèo, đành phải hoán đổi vị trí. Ngựa lui vào nằm co xó bếp, nhìn mèo diệu võ dương oai."

Suy ngẫm một hồi, lão thầy bói nói: "Ngày ấy, cậu không cho tôi biết một chi tiết hệ trọng trong gia đình. Ðứa con gái của cậu tuổi Sửu. Nó ra đời thì cậu thất thế. Con trâu là khắc tinh của con ngựa. Trâu ngựa không thể cùng chuồng. Trâu vào, ngựa phải ra đi. Nếu ngựa ở lại, sớm muộn gì cũng bị trâu chém đổ ruột. Cậu đi tù là xui, nhưng xa con trâu thì tính mạng được bảo toàn, khỏi bị triệt"

Một lần khác, ông lại thủ thỉ với tôi: "Sau nhiều đêm chiêm nghiệm, tôi mớI thấu được lẽ thiên cơ. Nói để cậu yên tâm. Tụi nó không làm gì mình được đâu."

Tôi chán: "Ở tù, bị hành xác, đói gần chết. Óng bảo tụi nó không làm gì được mình?"

"Ối..., chỉ là chuyện nhỏ, không đáng kể. Ðời người, ai lại không có lúc hoạn nạn. Cậu có nghe câu sấm truyền "Mã đề, dương cước, anh hùng tận" không?"

"Có nghe, nhưng mỗi người giải đoán một kiểu. Chẳng đâu vào đâu."

"Này nhé. Nhiều người giải thích, mã đề là chân ngựa, hoặc móng ngựa, đều không hợp với câu sấm. Nói theo Hán tự đàng hoàng, mã đề là ngựa cất lên. Nguyên câu có nghĩa thế này, ngựa cất lên, dê bước tới, anh hùng tận số. Chỉ còn ba năm nữa là tới năm Ngọ, tụi mình sẽ vùng lên. Nhất là tuổi Ngọ của cậu mà lại gặp năm Ngọ, sẽ phất rồng gặp mây. Khởi sự sang năm Mùi, tụi nó sẽ chết không đủ đất chôn."

Tôi ngồi im lặng. Biết những gì lão thầy bói nói là chuyện hão huyền, nhưng vẫn muốn nghe như một an ủi trong những ngày buồn thảm.

"Tụi nó khoác lác huênh hoang tự xưng anh hùng. Ứng với điềm trời, anh hùng tận. Mình mất Miền Nam, nhữngngười không thông đạt ý trời, bỏ chạy ra nước ngoài. Những người còn lại bị tù, nhưng tướng tinh vững như bàn thạch. Chờ vài năm nữa thôi. Ðể rồi cậu coi, tụi nó chạy đâu cho thoát? Ngày quật khởi thành công, những anh tướng anh tá từ ngoại quốc sẽ lục tục quay về, nhưng chỉ được đứng chầu rìa, không cho tham gia vào chức vụ gì cả. Lúc đó, vàng thau đã tỏ rồi."

Bám lấy hy vọng mà sống. Ba năm không thấy gì. Gọng kềm siết mạnh hơn. Bốn năm trôi qua. Ðời càng thê thảm. Lão thầy bói bỏ xác trong tù. MườI năm sau, tôi về quê cũ, lao đao khốn khó. Ðứa con gái đầu lòng, Lâm Sao Khuê mười hai tuổi, xạm mốc, ốm o, gầy mòn. Dù nghèo nàn cơ cực, nhưng tôi vẫn muốn có thêm thằng con trai nối dõi.

Vợ nói: "Khổ quá, còn đẻ làm chi?"

Tôi nói: "Phải đẻ."

"Nếu không được con trai?"

"Tiếp tục đẻ nữa. Chừng nào ra thằng con trai thì thôi."

Năm sau, vợ sinh con trai. Có người bảo tôi tù rạc nhiều năm, tinh lực bị vắt cạn, tưởng không còn đủ sức có con. Tôi nói, hạt giống của tôi rất tốt, chỉ cần gieo xuống mảnh đất mầu mỡ là nẩy mầm ngay. Ðược dịp tán dóc, tôi còn bày cho mọi người cái phương pháp sinh con trai, con gái theo ý muốn. Với điều kiện, khi làm tình phải theo đúng bài bản chỉ dẫn. Kết quả, nhiều đứa bé ra đời. Có người được như ý, có người không như ý. Cũng may, ai sinh con, hễ thấy mặt thì thương. Dù không như ý, nhưng không có đứa bé
nào bị bóp mũi, hoặc thả trôi sông.

Thằng con trai nối dõi tông đường, tôi đặt tên Lâm Khang. Xui cho thằng này. Gặp thời tai kiếp, tôi nghèo quá, phải bồng con đi ở đậu dưới chái hiên, bên hông nhà của một người quen. Chái hiên lợp tôn. Chung quanh chắn gió bằng những mảnh bìa carton. Chỉ chừa cái cửa ra vô, nhỏ như lỗ tò vò. Bên trong, đặt vừa vặn một chiếc giường. Trưa mùa hè, chui vào gian phòng nhỏ này, nóng hừng hực như lò lửa thiêu người. Thằng con tôi khóc hoài, không chịu ngủ. Tôi phải treo chiếc võng cho nó nằm, dưới bóng mát cây xoài. Trưa trưa, vợ ngồi đưa võng, hát những câu ru con buồn não nuột:

Má ơi, dừng gả con xa
Chim kêu vượn hú, biết nhà má đâu?
Chim xa cành còn thương cây nhớ cội
Người xa người tội lắm, ngưới ơi.

Nghe thảm quá, tôi kêu lên: "Em ơi, đừng rên rĩ những câu đứt ruột ấy nữa. Hãy hát nhạc vàng cho nó nghe."

Vợ nói: "Hát nhạc vàng, bị Công An còng đầu."

"Thì hát nhạc đỏ, nhạc cách mạng."

"Anh nghĩ con mình có chịu được với loại nhạc thế này không? Ai nhanh tay vót bằng tay em. Bao mũi chông nhọn hoắt căm hờn..."

Tôi xua tay: "Thôi, thôi. Thằng nhỏ mà nghe nhạc này, lớn lên nó sẽ mọc nanh thành quỷ, hút máu người."

Tôi xin được cái radio cũ, ngày ngày cho nó nghe đờn ca vọng cổ. Lâm Khang được hai tháng tuổi, bi tướt. Mỗi ngày, năm ba lần chảy té re chất nước lợn cợn màu vàng nhạt. Mấy bà già láng giềng bảo nó bị đẹn ỉa, phải lể đẹn mới xong. Thằng nhỏ bị căng họng, kéo lưỡi, lể bằng kim may. Nó giãy giụa, khóc gần đứt hơi tím mặt. Tôi nóng ruột, không cho điều trị theo phương pháp cổ truyền nữa. Hai tháng rưởi. Nó tiếp tục lên cân, nhưng
vẫn còn tướt. Tôi quyết định đem con đi khám ở bệnh viện Nhi Ðồng I. Sau khi nghe tôi nói nó bị ỉa, bác sĩ cho nhập viện ngay, khỏi cần khám.

Chẳng biết khoa con tôi nằm, là khoa gì. Khi nói chuyện với nhau, mọi ngườI gọi là Khoa Ỉa. Cũng có lý. Ðã có Xưởng Ðẻ, thì có Khoa Ỉa là chuyện bình thường. Vào đây, tôi mới thấy hết được cái tính "khó khăn khắc phục" của nền y khoa xứ mình. Phòng lớn, chứa hai mươi giường. Mỗi giường, có hai em bé nằm thoi thóp. Một đứa nằm đầu trên, một đứa nằm đầu dưới. Chưa kể một số khác, trải những manh chiếu nhỏ, nằm dưới sàn. Con tôi may mắn, được nằm trên giường, chỗ của một bé gái vừa "đi đứt". Mặt giường trảI nylon, để các em tiểu tiện không bị thấm xuống nệm. Cái ghê tởm là đứa này ỉa, chảy tràn ướt lưng đứa kia. Khiếp! Sau hai ngày, tôi đem con xuống nằm dưới sàn. Nhường chỗ trên giường cho một người vừa mới ẳm con đến. Người ấy cám ơn tôi. Trong một nơi chốn, người ta bon chen tranh giành từng chút, chịu nhường nhau một tiện nghi nào đó, lòng tốt ắt phải có lý do.

Mỗi buổi sáng. Mọi người phải ẳm con ngồi sắp hàng trước phòng bác sĩ, chờ khám theo thứ tự. Bác sĩ Khoa Ỉa, không bao giờ bước chân vào phòng bệnh nhân. Dụng cụ hành nghề của bác sĩ, võn vẹn một quyển sổ ghi toa thuốc, và một cái ống nghe. Mang ống nghe như một dấu hiệu biểu trưng cho cương vị bác sĩ, chứ không phải để sử dụng. Vì thế, đi vào phòng ăn, hoặc vào quán tạp hoá trong khu vực bệnh viện, bác sĩ cũng đeo ống nghe, để phân biệt vớI người thường. Và một điều đáng nễ khác, khi khám bệnh, bác sĩ không hề đụng tay vào người các em bị ỉa. Có lẽ, am tường môn vi trùng học, nên
tuyệt đối giữ vệ sinh. Ông chỉ liếc sơ qua cái mặt đờ đẫn, là biết được bệnh trạng ra sao. Tay viết lia lịa lên mảnh giấy, rồi xé cái rẹt, trao cho thân nhân người bệnh. Ðây là cái toa thuốc, nhưng tôi không đọc được chữ gì cả. Giống những ký hiệu về âm nhạc. Nếu gộp chung nhiều cái toa, trao cho một nhạc sĩ, có thể đàn được bản nhạc hay.

Mọi người kháo với nhau: "Ông này là bác sĩ ngụy của mình hồi trước, được cách mạng lưu dụng."

"Sao biết?"

"Nhìn cách viết thì biết ngay. Bác sĩ cách mạng, viết chậm như rùa. Bác sĩ mình, viết nhanh như gió."

Tôi tin tưởng "bác sĩ mình". Cầm toa thuốc lên Phòng Y Dược. Chắc cô phát thuốc cũng là "dược sĩ mình" đã quen đọc ký hiệu, nên liếc qua cái toa, biết ngay thuốc gì. Cô mở lọ này, trút chai kia, trao tôi một bụm thuốc.

Thằng con tôi mới hai tháng rưởi, làm sao nuốt nổi một bụm thuốc thế này? Hình như thuốc nội hoá cần lượng hơn phẩm.

Một số người xấu miệng nói, đôi khi chỉ là bột mì, tinh chế thành viên. Dù mỉa mai chế độ, nhưng không phải không có lý. Câu nói hàm chỉ được một phương cách trị bệnh bằng tinh thần. Từ lâu rồi, ngành y khoa đã thừa nhận rằng, kết hợp yếu tố tinh thần, trong việc điều trị bằng thuốc men, cũng đem lại kết quả rất khả quan. Người xưa còn biết, cái tâm ảnh hưởng rất lớn đến cái thân, nên chủ trương lấy tâm làm gốc. Thân tâm không lìa nhau. Hễ tâm bệnh thì thân bệnh.

Tâm vừa máy động, họa phúc liền sinh
Ðiềm đạm hư vô, bệnh nào phát khởi.

Quỷ vương lộng hành thời mạt pháp. Trật tự xã hội xô bồ rối loạn. NgườI người lao đao, cái tâm vọng động không yên, nên sinh lắm bệnh tật. Ra đường, thấy thiên hạ tất tả ngược xuôi, mặt mày lo âu hoảng hốt. Những khuôn mặt ấy, trước sau gì cũng vào bệnh viện. Và vào đây, mới biết thế nào là ý nghĩa của những viên thuốc trị về tâm.

Tôi nhớ lúc còn trong tù, mọi thứ bệnh: nóng lạnh, nhức đầu, đau bụng, ỉa chảy, yếu tim, nám phổi, ho hen..., tất cả đều được cấp phát cùng một loạI thuốc Xuyên Tâm Liên. Vậy, Xuyên Tâm Liên là thuốc về tâm, trị bá bệnh. Ai chịu, thì tiếp tục sống. Ai không chịu, thì chết. Chết vì tâm bệnh, chứ đâu phải vì thuốc? Hiện nay, chưa có một nước văn minh hiện đại nào trên thế giới, chế được loại thuốc trị bá bệnh, như Xuyên Tâm Liên của nước Việt Nam ta.

Ðã nói đến tài ứng biến, và sáng tạo thần sầu của cách mạng, phải nói cho hết, Trong thời gian đi tù, có lần tôi bị chứng bệnh kỳ lạ. Ðầu gối sưng nhức, và đái gắt. Dùng Xuyên Tâm Liên cả tháng trời không khỏi. Có lẽ, tâm bệnh quá trầm trọng. Tôi năn nỉ y tá của trại, cho tôi lên nằm bệnh xá để điều trị.

Y tá nói: "Muốn chuyển lên bệnh xá, phải ghi rõ bệnh gì? Nhưng anh khai lung tung, tôi không đoán ra, làm sao chuyển?"

Tôi cố nài: "Xin cứ ghi bừa vào một chứng gì cũng được, lên đó rồi tính sau."

Suy nghĩ một lúc, y tá hỏi: "Khi còn làm lính ngụy, anh có bị bệnh xã hộI không?"

"Bệnh xã hội là bệnh gì?"

"Chẳng hạn như tiêm la, lậu mủ, giang mai, mồng gà..."

"Có bị vài lần." Tôi nói.

Y tá gục gật đầu: "Anh đái gắt. Tôi ghi là bệnh tiêm la tái phát nhé?"

"Nhưng phải cho tôi biết tiêm la có hiện tượng ra sao, để tôi khai với bệnh xá."

"Cái bệnh này gây đau nhức dương vật, nếu không điều trị kịp thời, con vi trùng sẽ ăn mất cu."

Tôi cầm mảnh giấy lên nộp cho bệnh xá. Rồi sắp hàng, ngồi cùng với những anh em các trại khác quy tụ về đây. Chờ kêu tên. Bác sĩ xướng danh từng người, kèm theo chứng bệnh.

Tới phiên tôi, bác sĩ gọi: "Nâm Chương. Bệnh tiêm na."

Tôi đứng lên. Bao nhiêu con mắt kinh ngạc mở lớn, đổ dồn về phía tôi như dò hỏi. Vào tù cả năm rồi, làm sao thằng này chui ra ngoài được, chơi đĩ đến nỗi mắc bệnh "tiêm na"? Tôi nóng ran cả người vì ngượng.

Bác sĩ hỏi: "Có đau nhiều không?"

Tôi nói: "Chỉ đái gắt, và đầu gối sưng nhức."

"Bậy! Từ dương vật, sao lại chạy xuống đầu gối?" Ông đưa ngón tay chỉ:

"Vào phòng tiêm thuốc cho khoẻ."

Ðúng là lương y như từ mẫu. Ông không hạch hỏi lôi thôi, cũng không hề tỏ ra khó chịu vì căn bệnh xã hội của tôi. Ông chỉ lo cho sức khoẻ bệnh nhân.

Vào phòng tiêm. Tôi thấy nhiều chai nước ngọt hiệu con cọp, và xá xị hiệu con nai, sắp đầy trên những ngăn kệ. Có chai chứa nước màu xanh, có chai chứa nước màu đỏ. Miệng chai được bịt kín bằng miếng nhựa nylon, có quấn dây thun.

Anh y tá hoà hai thứ nước xanh đỏ vào chung trong một cái ly. Ðưa cây kim vô ly, bơm đầy ống tiêm. Mỗi người bệnh, được tiêm một ống như thế. Không biết chất gì, khi tiêm vào da thịt, nghe đau thấu trời.

Tôi hỏi: "Thuốc này trị bệnh gì?"

Y tá đáp gọn: "Bê một, Bê Mười Hai. Tăng cường sinh lực."

Buổi sáng nào, chúng tôi cũng được tiêm một ống B1, B12. Có điểm danh từng người, trốn tiêm cũng không khỏi. Ðặc biệt những người bệnh nặng, còn được truyền nước biển. Y tá túc trực cả ngày, săn sóc và theo dõi bệnh trạng. Lương tâm nghề nghiệp có thừa, nhưng tôi e rằng phần lớn thuốc men ở đây, chỉ có giá trị về mặt tinh thần.

Một hôm mưa to. Anh y tá dầm mưa, đem tấm poncho (loại áo đi mưa của quân đội ngày trước) ra căng giữa trời. Phía dưới, anh đặt cái thau hứng nước. Cái thau lại đặt cao lên, trên một chiếc ghế đẩu, tránh nước dưới đất bắn vào thau. Tôi phụ anh làm công việc này, đồng thời có cớ tắm mưa luôn.

Anh dặn: "Những thau nước hiệp đầu, bỏ đi. Chỉ lấy nước tinh khiết hiệp sau thôi."

Tôi hỏi: "Anh lấy nước uống?"

"Không. Dùng vào việc khác."

"Việc gì?"

Anh nói: "Làm nước truyền. Tiếng Tây, gọi là sê rum. Miền Nam các anh, gọi là nước biển. Chúng tôi, gọi là nước cất." Và anh giải thích. "Muốn điều chế nước cất. Cho nước lả vào nồi, nấu sôi lên. Nước bốc thành hơi. Hơi chạy qua một cái ống thông hơi, ngâm trong hồ nước lạnh. Gặp lạnh, hơi tụ lại thành nước. Nước này gọi là nước cất, rất tinh khiết, dùng truyền cho người bệnh. Nước mưa cũng qua một quá trình như nước cất thôi. Anh có học về sự hình thành của mưa chứ?"

"Vâng. Hồi nhỏ có học."

"Ðấy. Nước ao hồ sông biển, gặp nắng bốc thành hơi. Bay lên thành mây, gặp lạnh thành mưa. Thế thôi."

Do hàng ngày lân la trò chuyện với anh y tá, mà chúng tôi cảm tình nhau. Anh là người hiền lành, chơn chất đáng mến. Tôi nói với anh về hoàn cảnh đất nước phân tranh, về tình trạng gia đình ly tán. Anh thông cảm và thích tôi, dành cho tôi nhiều tiện lợi. Anh nói, bất cứ lúc nào tôi thấy mệt, anh cũng sẵn sàng vô cho tôi một chai nước cất. Tôi ghi nhận lòng tốt của anh, nhưng không bao giờ dám mệt.

Lúc mới vào Khoa Ỉa, con tôi còn lanh lợi tỉnh táo. Mỗi ngày tôi nghiền một bụm thuốc viên, đổ vào họng thằng nhỏ. Bốn ngày sau, nó nằm im thiêm thiếp, ỉa nhiều lần hơn.

Khi ẳm con lên cho bác sĩ "liếc qua" tình trạng bi quan của nó, tôi nói: "Thưa bác sĩ. Bên ngoài bệnh viện có bán thuốc ngoại. Xin làm ơn cho toa thuốc ngoại, để tôi đi mua..."

Giữa chốn đông người, "bác sĩ mình" trừng mắt, điểm ngón tay vào mặt tôi:

"A... a..., đầu óc vọng ngoại, luôn luôn tôn sùng nước ngoài. Cái gì của nước ngoài thì ca tụng, cho rằng tốt đẹp. Cái gì của nước ta, thì chê bai rẻ rúng. Anh không muốn dùng thuốc bào chế của nước ta, thì đem con vào đây làm gì?"

"Thưa bác sĩ. Thằng nhỏ không bớt bệnh, tôi xin đổi thuốc, chứ không có ý gì khác."

"Tôi là bác sĩ, tôi biết cách giải quyết. Không cần anh phải chỉ dẫn. Uống thuốc, phải chờ thuốc thấm, từ từ bớt bệnh. Trị bệnh tiêu chảy, không như đóng một cái vòi nước mà ngừng được ngay. Anh hiểu chứ?"

Thế là tôi lại tiếp tục lảnh một cái toa thuốc, viết toàn bằng ký hiệu âm nhạc. Và tôi cũng biết rằng, giữa tôi và "bác sĩ mình" không còn đứng cùng về một phía nữa. Ông đã giác ngộ tư tưởng cách mạng rồi.

Tôi bàn với vợ, đem con ra khỏi bệnh viện, tìm phương khác chữa trị. Không thể để thằng nhỏ nằm lây lất ở một nơi thiếu điều kiện vệ sinh của Khoa Ỉa. Nhưng ngay đêm đó, nó lên cơn sốt. Thôi, muộn rồi! Nó đã nhiễm trùng. Tôi đau đớn vì đã đem con dìm vào cái ổ vi trùng. Bây giờ, chết sống gì cũng phải nằm lại đây. Tôi vội chạy đi tìm y tá, xin cô báo cho bác sĩ trực hay.

Giữa khuya. Cô đang đọc tiểu thuyết, ngẩng đầu lên, nói: "Trẻ em bị nóng sốt là chuyện thường. Có gì mà ông hốt hoảng thế? Ông tưởng lúc nào cũng có thể làm phiền bác sĩ trực được sao?"

"Mấy hôm trước, nó không sốt. Bây giờ bị nhiễm trùng."

"Mới bị sốt lần đầu, lại càng không đáng lo. Còn chuyện bị nhiễm trùng hả?

Ông có nhìn thấy con vi trùng bu vào con ông không?"

Tôi năn nĩ: "Nó bị sốt cao độ cô à. Xin cô làm ơn xuống nhìn một chút, coi có cách nào giải nhiệt được không?"

"Sao ông biết sốt cao độ? Bộ ông là cái nhiệt lượng kế hả? Tôi có xuống nhìn cũng vậy thôi. Tạm thời, ông lấy cái khăn ướt đắp lên trán đứa bé. Chờ sáng mai, trình với bác sĩ để ổng quyết định."

Tôi còn đang chần chừ chưa đi. Nát lòng không biết tính lẽ nào.

Cô y tá bồi thêm: "Coi kìa. Ðiệu bộ ông giống con gà mắc đẻ. Mười mấy năm trong nghề, tôi gặp quá nhiều người như ông. Chuyện một chút xíu thôi, cũng quýnh quáng la làng, kêu réo giật ngược y tá bác sĩ. Làm như y tá bác sĩ thiếu nợ các người vậy."

Nhìn cái miệng chót chét của cô, tôi nộ khí xung thiên. Trong một lúc bốc đồng, tôi muốn có cây súng đại liên, bắn chết mẹ hết cả lũ y tá bác sĩ của bệnh viện này. Tôi nghiến răng, quay trở lại phòng bệnh, thấy vợ đang ngồI cúi đầu ủ rủ dưới chân con. Tôi hằn học nói với vợ về sự tức giận của mình.

Vợ van: "Tôi lạy anh. Hãy ráng giữ bình tĩnh. Biết được thái độ bất mãn của anh, người ta ghét, người ta sẽ giết con mình."

Sáng nay. Lại bồng con sắp hàng ngồi chờ khám bệnh bệnh. Mỗi ngày, bác sĩ chỉ xuất hiện, ngồi sau bàn làm việc trong vòng một giờ đồng hồ. Còn hai mươi ba giờ khác, đố ai tìm thấy mặt ông. Tất cả, ông đều giao cho y ta, và vài ba sinh viên y khoa thực tập. Mà y tá, thì dữ hơn nhân viên phòng thẩm vấn, chua hơn giấm.

Trong khi chờ đợi, tôi lan man hồi tưởng lại những ngày ở bệnh xá của trạI tù. Bác sĩ y tá ở đây, thuộc đơn vị của bộ đội Miền Bắc. Họ đã thực hiện một ca mổ đặc biệt đến nỗi, nếu không chứng kiến tận mắt, người nghe tưởng như bịa chuyện, khôi hài cho vui. Người bạn tù tên Sang, nằm chung phòng với tôi. Anh đang mạnh khoẻ, bỗng một đêm, ôm bụng kêu đau ầm ĩ. Cơn đau càng lúc càng dữ dội, phải đưa anh lên bệnh xá. Nửa đêm, bác sĩ y tá mở cuộc họp khẩn cấp, và quyết định mổ bụng anh Sang. Cơ sở còn nghèo nàn thiếu thốn, lấy căn phòng học cũ, làm phòng mổ. Không có điện, phảI đốt đèn cầy soi sáng. Không có thuốc gây mê, phải dùng tạm thuốc tê, tiêm vào da bụng. Anh Sang trần truồng nằm ngửa trên chiếc giường, được kê cao lên ngang thắt lưng. Phần hạ bộ, che bằng chiếc khăn lông màu cứt ngựa. Thấy chuyện lạ, những người bệnh chúng tôi bỏ ngủ, lóng ngóng bên ngoài của sổ, nhìn vào. Bác sĩ y tá đứng vây chung quanh giường bệnh. Sau khi lấy bút nguyên tử kẽ một lằn trên bụng bệnh nhân, bác sĩ kẹp lưỡi dao trong hai ngón tay, rạch dài theo nét kẽ. Dao giải phẫu là cái lưỡi lam cạo râu, trời ạ! Ông cẩn thận rạch đi rạch lại nhiều lần, mới banh được cái bụng ra. Bên ngoài, có anh khiếp quá, không dám đứng coi. Hai người y tá đứng hai bên giường, kéo chằng vết mổ mở lớn. Bác sĩ, với bàn tay không đeo găng nhựa, thò vào trong bụng anh Sang, sờ mò tìm kiếm một thứ gì đó.

"Trời ơi!" Anh kêu.

Bác sĩ nói: "Im! Ðể bác sĩ làm tốt."

Trong khi bác sĩ tiếp tục mò tìm, thỉnh thoảng anh Sang đưa tay gãi chỗ này chỗ nọ.

Bác sĩ nói: "Nằm yên! Ðể bác sĩ làm tốt."

"Muỗi cắn."

"Cắn chỗ nào, bảo y tá gãi cho anh."

Anh Sang ngóc đầu lên, nhìn bụng mình. Y tá đè đầu xuống.

Bác sĩ nói: "Ðừng nhìn. Ðể bác sĩ làm tốt."

"Bác sĩ mò cái gì mà đau quá vậy?" Anh hỏi.

Bác sĩ nói: "Ðừng hỏi. Ðể bác sĩ khám phá."

Thỉnh thoảng, anh Sang nói: "Muỗi cắn chân phải."

Y tá gãi chân phải.

Anh Sang lại nói: "Muỗi cắn gò má."

Y tá gãi gò má.

Anh Sang cứ nói muỗi cắn hoài. Không biết muỗi ở đâu kéo đến nhiều thế. Có lẽ nó đánh hơi được mùi máu.

Bác sĩ ngó ra cửa sổ, nói: "Có anh nào đấy, chạy xuống phòng vệ binh, xin hộ cây nhang muỗi."

Một người trong chúng tôi chạy đi. Lúc sau đem đến một bó nhang hơn mườI cây. Y tá thắp nhang, đặt dưới gầm giường mổ. Từ đó trở đi, anh Sang hết kêu muỗi cắn.

Nửa giờ đồng hồ trôi qua. Bác sĩ ngẩng lên, nhè nhẹ lắc đầu thất vọng, trán lấm tấm mồ hôi.

"Chả thấy gì!"

Anh Sang lại ngóc đầu, nhìn bụng. Y tá đè đầu xuống.

"Không thấy gì thì may lại giùm tôi." Anh lo lắng.

Bác sĩ an ủi: "Yên chí. Chúng tôi cố gắng làm tốt cho anh."

Rồi tất cả bác sĩ y tá kéo đến một chiếc bàn cuối góc phòng, ngồi thì thầm thảo luận. Ðể lại một người y tá bên giường với anh Sang. Bụng anh được đậy lại bằng một chiếc khăn lông màu trắng, dính đầy máu đỏ. Anh nằm im lặng. Không biết ngủ hay thức.

Trời đã khuya lắm. Ngoài cửa sổ, vài người lặng lẽ trở về chỗ ngủ. Ðôi ba anh em còn lại, ngồi xuống thềm hiên. Ngó lên khoảng trời mênh mông. Con trăng xế về bên kia mái trường học cũ. Mùa trăng tháng Chạp, lạnh đục màu sương.

Trong phòng. Thảo luận một lúc lâu, Bác sĩ y tá quay lại giường mổ. Loay hoay bơm thuốc vào ống tiêm.

Anh Sang hỏi: "Bây giờ làm gì nữa?"

Bác sĩ nói: "Tiêm thêm thuốc tê. Thuốc cũ sắp hết công hiệu rồi."

Tiêm thuốc xong. Lại cầm lưỡi dao lam.

Anh Sang: "Mổ nữa hả, bác sĩ?"

"Thêm tí nữa thôi. Ðừng sợ." Bác sĩ trả lời.

Ông rạch vết mổ dài ra. Thò tay bụng mò tìm.

"Nhè nhẹ. Ðau quá, bác sĩ ơi." Anh rên lên, và ngóc đầu nhìn.

Bác sĩ nói: "Không được nhìn. Tôi phải che mắt anh."

Một người y tá cầm chiếc khăn nhỏ vắt ngang qua mắt anh Sang.

Mọi người im lặng theo dõi bác sĩ. Ông làm việc chăm chú và tận tâm. Có lúc, ông nghiêng đầu, lim dim đôi mắt như lắng nghe một âm thanh vo ve nào đó, có thể tiếng muỗi, hoặc một tín hiệu khác thường từ những ngón tay truyền đạt. Dù không nhìn thấy bàn tay, nhưng ai cũng biết rằng, những ngón tay của ông đang động đậy, rà mò tìm kiếm trong bụng anh Sang.

Bỗng ông reo lên mừng rỡ: "Ðây rồi. Ðây rồi."

"Cái gì vậy, bác sĩ?" Anh Sang hỏi.

"Khám phá ra rồi. Chính nó."

"Nó là cái gì?"

"Sau này sẽ biết. Mọi chuyện sẽ xong ngay. Yên chí đi."

Bác sĩ ngẩng lên, thở phào, mặt rạng rỡ. Dường như cơn mệt mỏi từ đầu hôm đến giờ, bỗng chốc tiêu tan.

Thấy chúng tôi đang đứng lố nhố ngoài cửa sổ, ông nói: "Các anh không được thức khuya quá. Hãy về chỗ ngủ, để giữ sức khoẻ."

Chúng tôi trở về phòng. Ðồng hồ chỉ đúng ba giờ khuya. Không biết chuyện gì xảy ra sau đó.

Sáng ra. Vài người muốn vào phòng mổ thăm anh Sang.

Y tá không cho: "Anh ấy còn mệt lắm. Phải để anh ấy nghỉ ngơi. Mai thăm cũng không muộn."

Chúng tôi đứng ngoài nhìn vào. Mặt anh Sang tái mét. Hai mắt nhắm nghiền. Anh được đắp bằng chiếc Poncho Light của anh, mang theo từ ngày đầu đi cải tạo.

Hai ngày sau, anh Sang được đưa về nằm chung phòng với chúng tôi. Cả tháng trời, anh chưa ngồi dậy được. Mọi sự đại tiện của anh đều do y tá trực giúp đỡ. Nâng anh lên, đặt anh đặt ngồi vào cái bô kế bên giường. Ðổ và rửa bô cũng do y tá đảm trách. Nhiều lần, chúng tôi ngõ ý muốn phụ với anh y tá trong việc đỡ đần chăm sóc anh Sang, hoặc thay anh làm công việc vệ sinh, đổ cứt rửa bô. Nhưng anh từ chối.

"Các anh đang bệnh, không nên làm việc này. Ðây là nhiệm vụ của tôi."

Hàng ngày, bác sĩ xuống phòng thăm bệnh. Ông ngồi cả buổi bên giường, nói chuyện và an ủi anh Sang. Ông cho biết, anh ăn phải một mảnh kim khí nhỏ, phải mổ dạ dày để lấy ra. Chúng tôi biết mảnh kim khí này từ đâu. Anh em nhà bếp thường dùng bùi nhùi bằng kim khí của một xưởng tiện sắt thép nào đó, để lau chùi chảo nấu ăn. Vì sơ ý, làm sót lại một mảnh vụn lẩn trong cơm. Một sơ ý nhỏ, nhưng đã để lại một tai hoạ lớn cho đời anh Sang.

Trong khi ngồi nói chuyện với chúng tôi, ông thường kể về những ngày gian khổ trên đường Trường Sơn, làm việc trong điều kiện vô cùng thiếu thốn. Từ đó, ông sang qua vấn đề anh em trong bệnh xá.

Ông nói: "Ðứng trên quan điểm cách mạng, các anh là kẻ thù. Nhưng dướI mắt một người thầy thuốc, các anh là những bệnh nhân. Chúng tôi phục vụ bệnh nhân theo lương tâm của người thầy thuốc."

Cái quan điểm và lương tâm của ông, làm chúng tôi ngạc nhiên thực sự.

Còn ở đây, các bác sĩ y tá đều là người của chế độ cũ, được lưu dụng làm việc cho bệnh viện. Không biết họ đứng trên quan điểm nào, và lương tâm gì đối với bệnh nhân?

Thấy tôi cứ mãi đặt những vấn đề vớ vẫn, không thực tế chút nào, vợ nói:

"Anh phải đứng ngoài. Bác sĩ mà nhìn thấy cái mặt nhăn nhó của anh, thì con mình sẽ lâm nguy."

Tôi dặn:" Em phải cho ổng biết, thằng nhỏ bị sốt."

"Ðừng xía vô chuyện này, để em lo."

Tới phiên, vợ tôi ẳm con vào gặp bác sĩ. Tôi đứng ngoài. Nhìn.

"Hôm nay thế nào?" Bác sĩ hỏi.

Vợ nói: "Dạ thưa. Nó lên cơn sốt trong đêm."

"Sao biết?"

"Dạ, sờ thấy nóng."

"Y tá sẽ đo nhiệt độ. Nếu nóng thật, phải truyền nước biển."

Ông liếc nhìn thằng nhỏ trước khi cúi xuống ghi những nốt nhạc.

Vợ ẳm con ra, trao mảnh giấy cho tôi, hỏi: "Anh coi thử, bác sĩ có thay đổI thuốc không?"

Tôi nói: "Có đọc được chữ gì đâu, mà biết hôm qua khác với hôm này?"

Gần trưa, cô y tá (không phải y tá trực trong đêm) vào phòng. Cô cho cái nhiệt lượng kế vô miệng con tôi, rồi đi kiểm soát từng giường bệnh. Cô vừa hướng dẫn cách săn sóc em bé, vừa la lối mọi người về sự ăn ở thiếu vệ sinh. Muốn thực hiện vệ sinh, phải có điều kiện tiện nghi. Nhưng chúng tôi thiếu thốn mọi bề. Chẳng hạn, trong nhà cầu chỉ có duy nhất một vòi nước giặt giũ, mà người giặt thì quá đông. Mỗi người đem đến một đống tã lót. Nhiều người chen nhau. Người trước, kê tấm tã vào sát vòi nước mà vò. Người sau, cũng đang vò một tấm tã phía dưới, hứng nước từ tấm tã phía trên đổ xuống. Con vi trùng ỉa được dịp luân lưu từ em này sang em khác qua những tấm tã.

Ði giáp một vòng thăm bệnh, cô y tá quay lại rút cái nhiệt lượng kế từ miệng thằng nhỏ, đưa lên ánh sáng.

"Nhiệt độ trung bình. Sao ông bảo bị sốt?" Cô trừng mắt nhìn tôi.

Tôi nói: "Hồi hôm, nó sốt. Bây giờ, hạ rồi."

"Hứ! Ðừng có báo cáo ẩu nghen."

Tôi vớt vát: "Thật mà. Hồi hôm, nó sốt."

"Nói lung tung, làm rối điên cái đầu. Ai biết đường nào trị cho con ông? Nó có thế nào, lỗi cũng tại ông đấy!" Cô ngoe nguẩy bước ra khỏi phòng.

Trời ơi! Nếu không vì sự an nguy của đứa con, chắc tôi bóp cổ chết con y tá này.

Cho đến một ngày, tính mệnh thằng con tôi, hắt hiu như ngọn đèn trước gió. Dù không yêu cầu, nhưng bác sĩ cũng cho một cái toa riêng mua thuốc ngoại. Lúc này, trước mặt ông, tôi không dám vọng ngoại, nhưng ông lại bày vẽ cho tôi thực hiện tinh thần vọng ngoại. Ông bảo phải mua thuốc ngoại ở hiệu thuốc này..., địa chỉ này..., để tránh mua lầm thuốc giả. Chao ôi! Thuốc trị bệnh mà cũng có kẻ dám làm giả mạo. Tội này, tương đương với tội sát nhân. Tôi cầm cái toa hớt hãi chạy ra đường. Nhiều con buôn thuốc dạo,
chận lại thăm hỏi mời chào. Chẳng biết tôi còn tỉnh hay điên? Sao nhìn mặt người nào, tôi cũng thấy phảng phất cái vẻ tàn ác của quân bất lương cướp của giết người.

Con tôi được đưa vào phòng cấp cứu, có máy điều hoà không khí. Có lẽ vì muốn chứng tỏ đây là căn phòng đặc biệt, nên người ta điều chỉnh nhiệt độ ở mức khá thấp. Vào phòng, tôi có cảm tưởng vào một mùa đông lạnh giá.

Tôi nói: "Lạnh quá. Làm sao con nít chịu nổi?"

Cô y tá, chứng tỏ là người thành thị, từng quen sử dụng những tiện nghi tân tiến: "Ðiều hoà không khí là phải như vậy. Nếu không lạnh, thì gắn máy lạnh làm gì? Hứ!"

Hình như, khi muốn tỏ thái độ khinh bỉ chê bai, người đàn bà nào cũng dùng tiếng "hứ". Và tôi thấy tôi hiện nguyên hình một gã nhà quê chậm tiến.

Tóc trên đầu thằng con tôi, bị cạo một mảng, để đâm cây kim truyền nước biển. Lỗ mũi nó, thọt vào một cái ống tiếp dưỡng khí. Miệng nó, cũng thọt vào một cái ống để cho sửa và thuốc vô bao tử. Nhìn những trang bị trên người nó, tôi liên tưởng đến một đứa bé từ hành tinh khác lạc xuống địa cầu, phải ăn và thở bằng những dụng cụ đặc biệt, trong một phim dành cho nhi đồng. Trong phòng cấp cứu, đã có sẵn ba đứa khác, đang chờ giờ hiễn linh về nước Chúa, hoặc theo Phật về chốn tiêu diêu miền Cực Lạc.

Tôi đuối sức, sau những ngày thay phiên cùng vợ, thức theo dõi thằng con. Tôi ra ngoài hành lang, nằm ngủ. Nhưng vừa chợp mắt lại thấy ác mộng. Tôi vùng ngồi dậy, lúc lắc cái đầu cho tỉnh.

Vợ bảo: "Ngủ đi."

Tôi nói: "Ở đây, vất vưởng nhiều oan hồn con trẻ. Nó phá tôi."

Vợ chắp tay: "Nam Mô A Di Ðà Phật. Anh đừng nói những điều ghê khiếp."

"Thật đấy. Tôi nghe tiếng con trẻ cười đùa."

"Anh ơi. Anh ơi. Anh sắp điên rồi."

"Không đâu!"

Ðầu tôi váng vất lùng bùng. Tôi thấy chung quanh toàn những gút mắc chông gai. Ác cảm nặng với bác sĩ y tá, vi vu ý tưởng giết người.

Vợ nói: "Trông anh như người bệnh. Mắt lờ đờ nhướng hết lên. Ráng ngủ lấy sức. Anh ngã bệnh lúc này, mình em làm sao lo nổi cho chồng, cho con?"

Buổi chiều. Phòng cấp cứu nhận thêm thằng bé mười hai tuổi, tên Cu Ðen. Nghe hai tiếng Cu Ðen, tự dưng tôi thấy êm đềm gần gũi. Tôi như sống lạI một quãng đời tuổi nhỏ làng quê, với bạn bè có những cái tên hết sức thân yêu, Cu Nồi, Cu Lọ, Cu Ðẹt, Cu Ðực, Cu Tèo, Cu Tý... Lòng tôi dịu lại. Dựa lưng vào bức tường hành lang, tôi mơ màng quay về những mương rạch, bờ ao, con trâu, cái cày... thuở trước. Thiếp đi lúc nào không hay. Khi bừng dậy, tôi nghe tiếng khóc.

Thằng Cu Ðen còn rất tỉnh táo, nhưng sau những thử nghiệm và chẩn đoán, bác sĩ cho biết nó sẽ chết trong vài ngày tới. Má nó gục đầu lên đứa con, nức nở. Nó ôm đầu má, kêu thảm thiết: "Má ơi, đem con về. Con muốn ở vớI má. Ðừng bỏ con, má ơi."

Ðang rầu vì con, nhìn qua giường bên, lại thấy cảnh mũi lòng, vợ tôi cũng khóc rống theo.

Y tá nạt: "Bà này lạ chưa? Mắc mớ gì đến bà mà khóc? Làm như đưa đám ma không bằng. Tôi yêu cầu, bà đi ra ngoài kia mà khóc, để yên cho tôi làm việc."

Má Cu Ðen kể trong nước mắt. Rằng vợ chồng chị đi làm làm ngoài đồng xa. Cu Ðen ở nhà giữ em. Vô ý để em té xuống ao. Người láng giềng vớt em nó lên, doạ: "Mày ham chơi, bỏ em té ao. Ba má mày về đánh chết." Nó sợ đòn, vào buồng lấy chai thuốc rầy, uống. Người láng giềng biềt được, chạy ra đồng gọi vợ chồng chị về. Khi đưa nó vào bệnh viện, thì đã muộn.

Người ta nói "còn nước còn tát", cái câu châm ngôn ấy không áp dụng ở đây. Không ai bỏ công cứu chữa cho một sinh vật, mà người ta nghĩ rằng phí công vô ích. Cu Ðen chỉ được truyền nước biển, như một biểu thị nó còn được sự tận tâm chiếu cố của người thầy thuốc. Nó đâu biết, người ta đã dành sẵn cho nó một mảnh giấy khai tử rồi, chỉ còn chờ giờ điền tên vào, là xong.

Thằng bé thao thức, khóc cả đêm. Nó nói nhớ em, và năn nĩ má nó đưa về nhà. Người mẹ cũng biết, ngoài cái chai nước biển, con chị không còn thêm được một ân huệ nào khác nữa. Mà cái chai nước biển, có tác dụng gì vớI thằng bé uống thuốc rầy? Sáng hôm sau, người mẹ xin cho con xuất viện.

Thương Cu Ðen quá, tôi cầm tay nó: "Thôi, Cu Ðen về nhà với em nhé."

Nó nói: "Dạ. Mai mốt em bé của chú khỏi bệnh, chú ẳm xuống nhà con chơi."

Nó còn nói được một câu như thế, mà sắp chết thật sao? Nó đâu có hiện tượng của kẻ sắp lìa đời? Tôi đưa Cu Ðen ra sân bệnh viện, nơi có chiếc xe Lam đang chờ sẵn. Má nó không còn khóc như lúc mới nghe tin dữ. Trong nỗi đau đớn đến cùng cực, lòng người sẽ trơ ra, mọi sự cảm xúc đều bị tắc nghẽn. Xe lam chuyển bánh. Tôi ngó theo. Vĩnh biệt Cu Ðen.

Từ đó, cái tên thằng bé cứ ám ảnh tôi hoài. Hai tiếng Cu Ðen êm đềm thân thiết biết bao, gợi cho tôi những ngày xưa cũ, cùng những kỷ niệm thời gian mất mát đớn đau. Tôi thầm nghĩ, nếu thằng Khang, con tôi tai qua nạn khỏi, tôi sẽ đặt cho nó một cái tên riêng, tên ngoài giấy tờ: Cu Ðen.

Thằng con tôi lặng lẽ ra đi, rất êm. Từ lúc bác sĩ chấp nhận cái tinh thần vọng ngoại, chịu cho toa mua thuốc ngoại, và đưa nó vào phòng lạnh, tôi biết mọi sự thay đổi của bác sĩ đã trễ tràng. Vợ chồng tôi âm thầm nuốt nước mắt từ mấy ngày trước. Lúc nó ra đi, chúng tôi không còn nước mắt.

Trong đêm khuya. Bệnh viện im lặng đến rợn người. Tôi kề tai sát mũi thằng bé. Không nghe thấy gì.

Vợ thì thầm: "Nó còn thở không?"

Tôi nín thinh.

Vợ luồn tay vào chăn: "Ngực nó còn ấm."

Tôi ngoảnh mặt, ngó ra những ngọn đèn vàng hành lang.

Vợ hỏi: "Bây giờ làm sao?"

Tôi không trả lời.

Vợ rên nhỏ: "Trời ơi! Anh cứ trơ ra, dễ sợ quá." Chừng như vợ muốn khóc ré lên, nhưng ngại làm kinh động những người chung quanh.

Tôi uể oải đứng dậy. Lên phòng y tá trực.

Tôi báo: "Lâm Khang, giường số ba, không còn thở."

Y tá: "Vậy hả? Ðể tôi gọi bác sĩ."

"Không cần thiết nữa."

"Tại sao không? Chỉ có bác sĩ mới có đủ thẩm quyền xác nhận nó chết."

Thì ra tôi đã hiểu lầm. Gọi bác sĩ không phải để cứu chữa, mà là để chứng nhận một người đã chết thật sự.

Cô y tá cầm mảnh giấy, dẫn theo một bác sĩ trẻ vào phòng bệnh. Trên cổ bác sĩ có đeo cái ống nghe. Lần này thì cái ống nghe được sử dụng, chứ không phải chỉ làm một biểu tượng đặc trưng của người thầy thuốc. Ông đặt cái chụp lên ngực thằng nhỏ. Nghe ngóng... Xong. Thu đồ nghề, và chìa tay ra. Cô ta tá trao cho ông mảnh giấy. Ông viết vội những gì đó, và ký tên. Từ lúc bước vào phòng, cho đến lúc đi ra, ông không hề mở miệng nói một tiếng gì. Cái câu "Im lặng là vàng", được ông thể hiện một cách triệt để

Y tá nói: "Tôi điện thoại cho người đem xuống nhà xác."

Tôi ngăn: "Khoan! Chờ sáng mai."

"Không được. Quy định, sau khi bác sĩ xác nhận chết, phải đem đi ngay."

Nửa giờ sau. Một người đàn ông, lù lù xuất hiện trong bộ quần áo công nhân màu xanh đậm. Mặt sần sùi, xạm đen. Ðôi mắt trơ tráo, không có hồn. Ðôi mắt từ cõi âm phủ trở về. Ông ta lăn tròn cái xác thằng nhỏ, cuốn gọn gàng trong tấm nylon. Như loài kên kên quắp cái xác chết, ông nách thằng nhỏ ngang hông, đi ra cửa. Tôi thoáng thấy, miệng ông vừa ló ra hai cái nanh. Tôi có quáng mắt không? Nhìn kỷ lại, thì không thấy nữa. Vợ tôi ngồi bệt xuống sàn, ôm mặt rấm rức. Tôi lặng lẽ theo ông, đưa con tôi đi. Từ lầu ba, đi qua những hành lang, đèn vàng lạnh. Ði xuống những bậc cầu thang hun hút âm u, khuya vắng đến rợn người. Ði xuống, đi xuống, đi xuống hoài rồI cũng tới âm ty.

Người đàn ông mở cánh cửa sắt. Hơi lạnh và mùi tử khí phả ùa vào mặt. Cái mùi thum thủm chuột chết. Tôi dợm bước theo vào phòng chứa xác, nhưng ông ngăn lại. Ông vào, và quay ra thật nhanh. Tôi có cảm tưởng, ông vất thằng con tôi vào đống tử thi, chứ không phải đặt nhẹ nhàng. Rồi ông đưa tôi vào một gian phòng nhỏ, chìa mảnh giấy bảo ký tên. Tôi ký tên mà không biết trong ấy viết những gì. Giọng ông trầm trầm, ra giá với tôi về việc tống táng, sau khi tổng cộng những tiền hòm, tiền đất, tiền chuyên chở... Tôi còn lòng dạ nào mà tính tới tính lui. Bao nhiêu cũng được.

Bận đi lên, chỉ một mình tôi. Trong ánh sáng chập choạng, tôi nhìn thấy rất nhiều đứa bé bám theo hai bên vách thang lầu. Chúng di chuyển như những con thằn lằn hút sát vào tường. Tôi mơ hay tỉnh? Dừng lại, dụi mắt định thần. Hình ảnh ma quái biến mất, nhưng rồi nó dần dần hiện lại từ mờ đến tỏ. Tôi hoảng hồn, chạy ngược về phía nhà xác. Nơi đây chẳng còn ai. NgườI đàn ông nhà xác đâu rồi? Ðành phải đi lên trở lại. Vừa đi, tôi vừa kêu lớn: "Ai ơi... Ai ơi... Ai ơi..." Tiếng kêu vang rền một khu bệnh viện. Âm thanh
làm tôi đỡ sợ.

Một người đàn ông mặc blouse trắng, chạy ra đầu cầu thang: "Có chuyện gì vậy?"

Tôi hớt hãi: "Có ma."

Ông ta quay lưng, lầm bầm ném ra hai tiếng: "Thằng điên!"

Sáng hôm sau. Tôi lên phòng y tá xin giấy khai tử để hoàn tất thủ tục hồ sơ trước khi chôn cất. Trong giấy khai tử ghi, nguyên nhân chết: suy dinh dưỡng. Khốn nạn! Như thế, thằng con tôi chết vì bị tôi bỏ đói. Chứ đâu phải chết vì ỉa chảy. Cuối thế kỷ hai mươi, giữa trái tim Sài Gòn của đất nước, giữa cái nôi của lương tâm thời đại, bác sĩ nào dám xác nhận chết vì bệnh ỉa chảy, người ta sẽ cười thúi đầu!

Ai nói thời gian sẽ làm lành những vết thương? Bao nhiêu năm qua rồi, vết thương tôi vẫn còn nguyên đau nhức. Thời gian chỉ làm cho nỗi đau nhức sắc lại, như sắc thuốc Bắc, ba chén nấu còn tám phân. Ém xuống tận đáy lòng mà sống. Lâu lâu gợi nhớ, bỗng muốn cầm dao đi giữa bầy thú dữ.

Thua keo này, gầy keo khác.

Tôi nói với vợ: "Ðẻ nữa em ơi."

Vợ cự: "Khổ lắm rồi. Không muốn đẻ."

Tôi lý luận: "Về nhà chồng. Không tạo con trai nối dõi cho dòng họ nhà chồng . Người xưa cho thế là lỗi đạo làm dâu."

"Em có đẻ con trai đấy chứ. Tại không giữ được thôi."

"Thì tiếp tục đẻ nữa."

Chìu chồng, vợ tôi lại đẻ. Nhưng đẻ con gái. Tôi để vợ toàn quyền đặt tên đứa con này. Vợ đặt: Sơn Ca. Có người hỏi móc tôi rằng, sao không áp dụng cái phương pháp sinh con trai, con gái theo ý muốn, như tôi đã từng bày vẽ cho nhiều người khác? Tôi chỉ cười trừ. Chứ biết nói sao?

Tôi sang Mỹ, không theo cái nghĩa bi quan của đời người trôi giạt. Tôi đi có định hướng. Năm lần bảy lượt vượt biên. Cuối cùng, tôi đã tới đích. Sống ở đây, tương đối dễ thở. Tiền bạc, có chính phủ cấp. Quần áo, có nhà thờ lo. Con nít được thương yêu chìu chuộng, cưng như trứng mỏng. Mỗi ngày, chịu khó bỏ vài giờ tới trường, học ú a ú ớ vài câu tiếng Mỹ. Thế là xong nhiệm vụ. Thì giờ còn lại, chẳng biết làm gì. Coi TV, không hiểu tiếng nói, nhìn hình hoài cũng chán. Không có bạn bè đấu láo, cũng buồn. Buồn chán dễ làm cho con người mau già cỗi, chết sớm. Những bạn lính của tôi ngày xưa,
hay xâm mình cái câu "khi tôi chết, ai là người xây nấm mộ?". Tôi bây giờ, lẩn thẩn tự hỏi, khi tôi chết ai là người thờ phượng? Con gái lớn lên, theo chồng, nó thờ cha chồng của nó. Còn tôi, không ai khói nhang, linh hồn sẽ bơ vơ lạnh lẽo. Vì thế, tôi muốn có thằng con nối dõi.

Tôi tỏ ý cùng vợ: "Ðẻ nữa. Kiếm thằng con trai, em ơi."

Lần này, vợ phản bác dữ dội: "Cái quan niệm con trai vốn quý, đã lỗi thờI rồi. Ðây là xứ trọng nữ khinh nam. Ðàn bà là mẹ thiên hạ, chiếm đặc quyền ưu tiên. Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc. Anh cứ khư khư níu giữ cái quan niệm nối dõi tông đường, là bơi ngược dòng về nơi có bốn ngàn năm văn hiến."

Tôi đấu dịu: "Thôi, không đặt vấn đề nối dõi nữa. Tôi chỉ muốn nhà có đủ con trai con gái, để âm dương được cân bằng trong gia đình."

"Anh định áp dụng cái thuyết, thái cực sinh lưỡng nghi, lưõng nghi sinh tứ tượng... gì ấy hả? Hãy thực tế một chút đi. Nhà nào âm thịnh là có phước."

Mới sang Mỹ, vợ tôi đã chụp bắt ngay được cái quan niệm cường quyền nữ phái của xứ này. Tôi bị lép vế. Khi người đàn ông không còn là rường cột gia đình, thì cũng mất luôn cái quyền chỉ huy. Tôi đành chắc lưỡi buông xuôi, mặc tình nữ kê tác quái.

Vợ tôi uống thuốc ngừa thai. Nhất định không chịu đẻ.

Một hôm, vợ thắc mắc: "Không biết tại sao, trễ kinh cả tháng rồi."

Tôi nói: "Có một trong hai vấn đề xảy ra. Em sắp biến thái thành đàn ông. Hoặc bước vào giai đoạn mãn kinh của tuổi già."

Cả hai vần đề, vợ tôi đều sợ.

Vợ dỗi: "Từ ngày sang Mỹ, anh nói lời gì nghe cũng mỉa mai cay đắng."

"Ðó là tinh túy của ngôn ngữ, kết quả của trầm tư."

Chẳng thèm lời qua tiếng lại, vợ đi bác sĩ khám bệnh. Bác sĩ cho biết có thai.

Về nhà, tôi la lớn: "Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư."

Vợ hỏi: "Nghĩa là sao?"

"Ông Ðặng Dung nói rằng, sách trời đã định như thế rồi. Nó là thằng con trai."

"Sao biết con trai?"

"Náy nhé. Uống thuốc ngừa thai, cũng giống như người ta bật đèn đỏ, treo bảng "Stop", và đặt hàng rào chắn. Nhưng nó vượt đèn đỏ, bất chấp bảng "Stop", xô ngả hàng rào chắn, chui ra khỏi cửa mình, để góp mặt làm ngườI với đời. Anh hùng gan dạ, "khó khăn nào cũng vượt qua" như thế, chỉ có thằng con trai mới làm được."

Tưởng lý luận bò càng cho vui, không ngờ vợ sinh con trai thật. Nó hấp tấp ra đời đến nỗi bất chấp cả định luật thiên nhiên chín tháng mười ngày. Chẳng biết ở trong bụng, nó chòi đạp thôi thúc thế nào, mà vợ tôi phải tống nó ra, trước mấy bữa. Một thằng con trai quá ngon lành!

Khi nó còn nằm trong đống tã lót, bà y tá hỏi tôi, có muốn cắt da qui đầu cho nó hay không?

Tôi lắc đầu, nói tiếng Mỹ: "No. No."

Bà giải thích rằng, theo phương pháp vệ sinh ở Mỹ, nên cắt da qui đầu, để con cu được sạch sẽ. Dĩ nhiên, những lời này phải qua cô thông dịch.

Tôi lại lắc đầu: "I donât like." Biết được tiếng nào, xổ ngay tiếng đó.

Dù đã "I donât like", nhưng tôi vẫn sợ người ta sẽ rình cắt mất da qui đầu con tôi. Tôi nói với cô thông dịch, nếu điều này xảy ra, tôi sẽ kiện. Doạ thế thôi. Mới qua Mỹ, ngôn ngữ không rành, biết gì mà kiện thưa ai chứ?

Trước khi quyết định cho con một cái tên chính thức trong giấy tờ, vợ hỏi:

"Ðặt tên gì?"

Tôi nói: "Lâm Khang."

Vợ giật mình: "Trời đất! Ðó là tên thằng con đã chết, sao lại đem gán cho thằng này?"

"Tôi nghĩ, thằng Khang bị chết oan. Nó đầu thai lại."

"Thôi. em sợ có huông lắm. Ðặt tên khác đi"

"Vậy thì đặt nó là Lâm Bình."

"Sống ở Mỹ, sao không đặt tên Mỹ?"

Ðiều gì tôi có thể nhượng bộ, nhưng đặt tên Mỹ cho con, tôi phản đối tới cùng.

Cái máu độc tài của người đàn ông Việt Nam nổi lên, tôi cảnh cáo vợ: "Ðừng bao giờ đưa ra ý kiến đó với tôi lần nữa nhé!"

Nhắc lại thằng con bỏ mạng trong bệnh viện Nhi Ðồng I, tôi liên tưởng đến thằng Cu Ðen uống thuốc rầy năm nọ. Tôi thương thằng bé. Cái tên của nó gợi lại biết bao kỷ niệm êm đền ngày cũ quê tôi. Tôi quyết định, đặt cho thằng út Lâm Bình, thêm một cái tên ngoài giấy tờ khai sinh: Cu Ðen. Dĩ nhiên, vợ tôi không biết lý do thầm kín của cái tên này.


Lâm Chương

User avatar
tuyetlanh
Posts: 42
Joined: Thu Dec 02, 2004 5:06 am

Post by tuyetlanh »

Hồi Ký Lao Tù





KHÔNG THỂ NÀO QUÊN

Trong suốt cuộc đời tôi trên mảnh đất quê hương bất hạnh, có lẽ mùa Đông 1975 là một cái Đông lạnh lẽo nhất. Không biết có phải vì miền Nam VN vừa trải qua một cuộc đổi đời khủng khiếp, hay vì lúc ấy tôi đang bị cùm tại Trại A9 Long Thành (Ngã Ba Thái Lan) nhà tôn vách gỗ mà không hề có một tấm mền mỏng? Ban ngày ngủ, ban đêm thức trắng ngồi xoa bóp toàn thân cho ấm. Ôi đêm dài vô tận trong giá lạnh thấu xương cộng thêm vết thương trên người còn tươi máu. Chính đây lại biến thành một phước duyên cho tôi tập tễnh bước vào Thiền để sống sót và tồn tại đến ngày nay.
Trước và sau ngày 30/4/75 tôi đã không hề có ý định chạy ra nước ngoài. Khoảng đầu tháng 6/75 tôi đã lên Trà Cổ (Hố Nai) để vào rừng gia nhập Liên Đoàn 5 của Đại Úy Lê Đình Thạch SĐ5 (gồm một số Biệt Kích Dù, Biệt Động, Cảnh Sát, Địa Phương Quân..).Chúng tôi sống trong các mật khu cũ của VC vùng Sông Buông, Sông Mây (đầu Chiến Khu D). VC tràn ra thành phố, bỏ ngỏ mật khu của họ với đầy đủ chòi, lán, vọng gác trên cây, bếp với nồi niêu xoong chảo, nương khoai, vườn rau và một số rất lớn lựu đạn chày chúng tôi dùng để bắt cá về ăn. Gạo chúng tôi cướp từ những kho gạo Tân Bình, Tân Bắc, Trà Cổ...trước khi vác gạo về mật khu, chúng tôi dọn sạch kho gạo đem bỏ từng bao trước từng cửa nhà dân. Dân địa phương và gia đình cũng tiếp tế cho chúng tôi rất nhiều thức ăn khác. Vũ khí cũ như M16, M79 dần dần hết đạn, chúng tôi phải đánh VC để lấy AK, B40...Đến khoảng tháng 9/75 lực lượng chúng tôi đã có trên 80 người dự trù sẽ đi đường bộ sang Kampuchia để qua Thái Lan. Có một Linh Mục tham gia tên Trần Học Hiệu. Trong vùng còn có một lực lượng Biệt Kích 81 hoạt động độc lập dưới sự chỉ huy của một người tên Wòng A Cẩu. Chúng tôi cũng đang liên lạc để sát nhập với một lực lượng khác do Thiếu Tá Tam chỉ huy. Khoảng đầu tháng 10/75, VC đưa 2 Trung Đoàn có 4 Chiến Xa yểm trợ tấn công. Chúng tôi trải quân ra thật rộng với từng tổ tam tam chế, đóng chốt trên tất cả những yếu điểm, kể cả những chòi trên ngọn cây, bình tĩnh xử dụng thật tiết kiệm từng viên đạn một. Chiến đấu trong hơn 4 ngày đêm, chúng tôi đã mất hơn nửa quân số. Sau khi Anh Thạch hy sinh, chúng tôi phải xé lẻ tan hàng. Ba người theo tôi đi về Phước Long. Đến 10g sáng, chúng tôi lọt ổ phục kích gần Xã Vĩnh Cửu. 1 Trung Đội VC nằm dài theo bụi tre cách khoảng 15-20m bắn xối xả, quần áo tôi bị thủng nhiều lỗ, tôi bị một viên AK xuyên qua đầu...gối (đang ở thế ngồi chồm hổm để bắn lại). Tôi ngã vật ra sau nhưng vẫn tiếp tục bắn đồng thời ra lệnh 3 thuộc cấp thoát thân. Chuẩn Uý Nguyễn Thạch Điệp nhất định liều chết để lôi tôi đi, tôi hét lên, Điệp vẫn không buông tôi ra, tôi phải chỉa súng vào người Điệp gằn giọng nếu không chạy đi, tôi phải bắn chú, Điệp rớm nước mắt "dạ" rồi vọt liền, cùng lúc với đợt xung phong xáp lá cà của VC, một tên dùng nguyên khẩu súng với trái đạn B40 đập lên đầu tôi, tôi né được, trúng vào gáy, tôi ngất đi, hình như một tên chỉa khẩu AK vào đầu tôi định bóp cò, một tên khác la lên : đừng bắn, thằng này cấp cao, tài liệu sống, đem nó về. Lúc tỉnh dậy thấy mình đang nằm trên võng, máu me ướt sũng lưng, bọn VC thay nhau khiêng tôi đi. Ngang qua một số dân địa phương đi làm rẫy về, tôi thoáng nghe vài tiếng kêu "Giê-Su Ma".
VC đưa tôi về Huyện Thống Nhất tỉnh Đồng Nai, nhốt tôi trong một căn nhà không có nóc (bị pháo kích sập, chỉ còn 4 bức tường với các cửa đóng kín). Tôi được đặt trên một bao tải cũ, gối đầu trên một cục gạch thẻ, trên người chỉ còn một quần lót dính đầy máu đã khô, đầu gối được bó lại bằng chính cái áo trận của tôi. Đêm đó trời mưa như trút, cả người tôi ướt như chuột nằm chịu trận suốt mấy giờ. Sau cùng vì quá lạnh, sức đã kiệt, tôi lên tiếng kêu gọi Bộ Đội chuyển tôi đi nơi khác, không nghe tiếng trả lời, tôi ráng lết vào sát chân tường để tránh nước mưa. Nếu lúc đó cửa có mở tôi cũng không thể trốn đi vì đầu gối chân phải đã bị bắn xuyên từ bên này sang bên kia, xương bánh chè bị vỡ nát, bị bắt tại trận với vũ khí trên tay thế này chắc chắn 100% là chết, nếu lỡ sau này có sống sót, có lành cũng thành phế nhân, tôi đành quyết định chọn con đường tự sát. Ráng đập đầu vào tường nhưng sức không còn. Thử cắn lưỡi thì đau quá. Có lẽ phải nhờ VC giết giùm. Tôi bắt đầu la lên chửi rủa CS, chửi đích danh HCM khan cả tiếng. Tôi tiếp tục chửi tất cả những tên đầu não CS lúc bấy giờ mà tôi nhớ được như Lê Duẫn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Đức Thọ...rồi không biết ngất đi từ lúc nào. Lần này tỉnh dậy toàn thân tê tái, tê như đóng băng, đầu vẫn gối trên cục gạch, thân vẫn nằm trên cái bao tải ướt sũng, trên người được đắp lại bằng....một tấm tôn! Trời vẫn mưa rả rích, nước mưa vẫn gõ nhịp đều đặn trên tấm tôn lạnh lùng.
Sáng hôm sau VC triệu tập một cuộc mít tinh dân chúng Huyện Thống Nhất để triển lãm mục đích răn đe với khoảng gần 40 xác những "tên ác ôn" đã "đền tội". 11 người bị bắt, tất cả đều bị thương. Số còn lại trốn thoát. Chúng khiêng tôi ra đặt nằm phía sau một chiếc xe Jeep mui trần cho bà con xem. Rất nhiều tiếng đả đảo từ những tay cò mồi. Không ít những giọt nước mắt nghẹn ngào. Vẫn vỏn vẹn một chiếc quần lót đẫm máu, tôi ngồi thẳng ng ười, bình tĩnh nhếch mép cười khi nghe những tiếng hô đòi tử hình kẻ "tội phạm". Lúc đó đối với tôi hai tiếng "tử hình" nghe thật nhẹ nhàng, thật êm đềm vì đó chính là điều tôi mong đợi. Có thể nói đúng hơn là một ân huệ. Một cô trung niên, mặt khá xinh, người nhỏ nhắn, rất hung hăng, vừa xô đẩy những Bộ Đội giữ trật tự, vừa hô to : đả đảo những tên khốn nạn, hoà bình không muốn chỉ muốn chiến tranh, những tên mặt người dạ thú, hãy để cho tôi đập vào mặt nó, tôi mới hả dạ. Tôi nghĩ mụ này là "VC cái" giả dạng thôi, lòng tôi thanh thản đến lạ lùng. Hãy để chúng trổ tài bịp bợm. Tôi chỉ muốn càng sớm càng tốt thoát ra khỏi cõi đời ô trọc bằng bất cứ giá nào, bằng bất cứ cách nào. Tôi mỉm cười nhìn thẳng vào mắt mụ khi mụ vung nắm đấm. Mụ không đập vào mặt tôi. Mụ luồn tay vào bụng tôi làm như đấm vào bụng tôi vậy, miệng vẫn tiếp tục chửi rủa. Tôi cảm thấy cái gì đó nằng nặng trên bụng, liếc nhanh, thì ra đó là một quả quít, tôi vội lấy tay che lại, nụ cười biến mất nhường chỗ cho sự ngạc nhiên đầy lý thú và cảm thông. Đôi mắt diễn viên trong một thoáng lạc đi rồi trở lại ngay với vở kịch còn dang dở. Cô ấy trạc tuổi tôi hoặc lớn hơn chút ít. Đến bây giờ, tôi vẫn hằng ước mong có đưọc một lần tái ngộ.
Những ngày và đêm tiếp theo là thủ tục hỏi cung. Bộ Đội Chánh Quy từ Miền Bắc tương đối nhẹ tay, một vài người nói và làm như miễn cưỡng, một người đã lén pha cho tôi một ly sữa sau lần tôi bị ngất đi vài giờ. Những tay nằm vùng (mới xuất hiện từ sau 30/4) thì thật tàn bạo. Chính nơi đây tôi đã được nhìn thấy thế giới bên kia sau những lần chết đi, có lần kéo dài đến 6-7 tiếng.Tôi đã nhẹ nhàng lướt bay trên những cánh đồng đầy hoa, không một chút bụi. Không cảm giác áo quần mặc trên mình dù rằng quần áo rất đẹp, không tơ lụa nào sánh bằng, hình như kết bằng mây ngũ sắc. Cả không gian thật tươi mát, thật sạch như vừa trải qua một cơn mưa nhẹ. Bầu trời không một áng mây, không có mặt trời nhưng lại sáng và trong suốt như pha lê. Tôi đã nghe và hiểu những con chim đang hót những lời tán tỉnh. Tôi đã thấy những con cá giành ăn và nghe chúng cãi nhau. Chính nhờ vậy tôi lại càng không sợ chết nữa, trái lại còn mong muốn được ra đi thật sớm. Tôi như tỉnh ngộ và nhận rõ rằng cái xác này tuyệt nhiên không phải là tôi. Tôi chỉ tạm trú thời gian thôi. Quá đủ rồi. Chính tôi đã thoát ra và nhìn thấy cái xác này bất động. Mấy lần đầu, tôi nghĩ đó chỉ là những giấc mơ. Sau vài lần lập đi lập lại thành xác tín, thành khẳng định những gì bên kia cửa tử, tôi khẩn khoản một cách chân tình, một cách rất bình thản: các Anh thấy tôi đã chết nhiều lần, tôi đã được qua thế giới bên kia, đẹp lắm, bình yên lắm, tôi thề không hề bao giờ oán hận các Anh, trái lại còn mang ơn nếu các Anh cho tôi một viên đạn vào đầu để tôi được đi luôn, không phải trở lại cõi đời này. Thật bất ngờ, kể từ hôm đó, họ không hề đụng chạm đến tôi nữa. Một lần, một tay Cán Bộ bắt tôi nhận diện những đồng ngũ đã hy sinh qua những tấm hình chụp trắng đen. Anh Thạch nằm chết bên cạnh khẩu M60 không còn một viên đạn. Mắt Anh một nhắm, một mở. Miệng Anh như mỉm cười. Tôi lặng người, nước mắt lưng tròng. Tay Cán Bộ giả vờ nhìn đi chỗ khác. Vĩnh biệt Anh và hẹn ngày gặp lại.
Quay trở về Mùa Đông 1975 tại Trại A9 Long Thành. Tất cả tù nhân bị cùm 2 chân, xiềng một tay vào ban đêm, ban ngày chỉ xiềng một tay vào một chân. Cùng Trại có người thân của NT2 Phan Xuân Mai. Cụ tên là Phan Xuân Hạ, bị bắt vì nghi ngờ Cụ là Sĩ Quan Cao Cấp VNCH đang trốn tránh. Cụ rất hiên ngang, dõng dạc. Nghe cái tên quen quen, tôi hỏi Cụ có liên hệ gì với với một người Bạn cùng Khoá 2 ĐH/CTCT là Phan Xuân Mai không, Cụ chỉ mỉm cười: con cháu trong nhà thôi. Cũng trong Trại này có một người lính cũ của tôi, Đào văn Lành, không biết bị bắt bao giờ và về tội gì. Anh được làm trong nhà bếp, phụ giúp nấu cơm cho Trại. Một lần đem cơm cho tù nhân, Anh nhận ra tôi nhưng không dám nói gì. Tôi thì vẫn muôn đời Lục Quân Việt Nam, cứ bô lô ba la, cứ vui trước đã, đằng nào cũng chết, vui ngay cả với tử thần như một người bạn đang đợi trông. Cơm ngày hai bữa trưa và chiều, mỗi người được hơn một chén cơm với thịt cọp. Thịt cọp có nghĩa là muối hột, khi nhai kêu cọp cọp. Tôi chỉ ăn một nửa muối, phần còn lại dùng pha nước để tự rửa vết thương. Thỉnh thoảng được một chút canh nấu bằng lá cải già hay bí rợ với muối. Một hôm Lành lén trao cho tôi một lon sữa bò trong đó có phân nửa chất nước đen đen, quẹo quẹo mà Lành nói là nước cá kho. Chao ơi, nó ngon làm sao. Mỗi bữa ăn, tôi chỉ dám chan một muỗng cà phê trên chén cơm hẩm mà tưởng như đang thưởng thức món cá cao lâu ngày nào. Khoảng hơn mười ngày sau, khi vắng bóng người, Lành hỏi nhỏ : nước cá kho tôi cho Ông có ngon không? Cám ơn Lành, đang thiếu thốn mà được như thế không gì so sánh bằng. Lành thật thà: Ông biết không, tụi nó kêu tôi rửa cá khô, nguyên cả kí lô cá khô tôi rửa bằng một tô nước thôi, nước đó tôi cô lại còn nửa lon cho Ông xài đỡ, ráng sống, ráng nhịn cho qua nghe Ông!
Rồi cũng qua một Mùa Đông. Một mùa Đông tang thương, thê lương trên khắp nẻo đường đất nước. Cả miền Nam biến thành một trại Tù khổng lồ. Bốn tháng sau tôi bị chuyển về giam tại Xã Ngãi Giao, Quận Đức Thạnh. Chỉ cùm 2 chân ban đêm nhưng ban ngày vẫn xiềng một tay vô một chân để đi lao động. Từng đoàn tù với xiềng xích kêu loảng xoảng trên đường gần làng Bình Giả, tôi lẩm bẩm bài Việt Nam Quê H ương Ngạo Nghễ thật thấm thía: ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người, nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi, nụ cười xa vời, nụ cười của lòng hờn sôi, bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian!!! Ở đây tuy ấm hơn nhưng rất khó ngủ vì hàng sư đoàn rệp tấn công cả đêm lẫn ngày. Cũng tại nơi này, hai thằng em tôi là Đồng Quang Nhường và Nguyễn Văn Hiển bị đánh chết. Hai em trốn trại bị bắt lại. Chúng trói hai tay hai chân rồi treo lên xà nhà nh ư đang khiêng hai con heo. Đích thân thằng Trại Trưởng dùng búa gỗ (một khúc cây tròn đường kính cỡ 15cms, dài khoảng 30-40cms, đục một lỗ ở giữa tra cán vào, cán dài khoảng 1m, dùng để đập tôn cho bằng). Nó vung thẳng cánh đập một nhát vào đầu Đồng Quang Nhường nghe bộp như đập một quả dừa. Nguyễn Văn Hiển ngoái đầu qua nhìn, thuận tay nó vớt một búa ngay quai hàm của Hiển, quai hàm trẹo lặt qua một bên, máu vọt ra có vòi. Tôi nhắm mắt lại. Trời ơi, súc vật cũng không đối xử với nhau tàn bạo nh ư vậy. Cả hai xác Nhường và Hiển co giật vài lần rồi buông thỏng. Vài phút sau, chúng cắt giây thả hai xác xuống. Tôi và 3 người nữa tình nguyện đi chôn. Cả hai xác còn nóng hổi. Hiển máu vẫn còn chảy. Cái đầu của Nhường ọp ẹp như quả cà chua úng. Đất tổ ong mà dụng cụ đào chỉ là mấy cái xẻng cũ. Trung Úy Nguyễn Văn Tài nhỏ con nhất nhưng là người khoẻ nhất, hăng hái nhất: mấy ông ráng đào sâu sâu cho hai đứa nó. Cả hai xác đều bị chôn nguyên trạng, không áo quan, không poncho hay chiếu bó lại. Tôi ráng gom vài mảnh báo cũ phủ mặt cho hai em. Đêm đó tôi không tài nào ngủ được. Khoảng nửa khuya, tôi nhìn thấy thật rõ ràng: Nguyễn Văn Hiển đang đứng bên cửa sổ phòng giam, không nói gì, đôi mắt thật buồn nhìn về xa xăm. Tôi nói thầm: thôi em hãy đi đi, đừng luyến tiếc gì cõi đời giả tạm này, nghiệp báo em đã trả xong, đừng oán ghét, đừng hận thù, hãy để cho lòng thanh thản mà siêu thoát....Tôi cứ nói như thế, lặp đi lặp lại, dỗ dành, van lơn, lâu lắm, bóng Hiển tan dần rồi biến mất. Có tiếng ng ười trở mình bên cạnh, tôi xoay qua. Trong bóng tối mờ mờ, tôi nhận ra Đồng Quang Nhường. Hai anh em đang nằm trên một toa xe lửa, dưới lưng cái gì bầy hầy như phân trâu bò. Tôi hỏi nhỏ: chúng nó đưa anh em mình đi đâu đây? Chúng nó sẽ đưa Anh ra Bắc nhưng Anh đừng lo, mọi việc sẽ rất tốt đẹp, rồi Anh sẽ vinh quang nơi xứ người. Tôi cười khẩy: Mẹ kiếp, cái thân tàn tật tù tội trên đất Bắc mà vinh với quang cái khỉ khô gì. Nhường cười. Hai anh em cùng cười với nhau. Tôi bừng tỉnh. Chơ vơ.
Mấy tháng sau tôi nhận được lệnh :" tha thụ hình, cho phép đi cải tạo". Chúng chuyển tôi qua Long Giao rồi sau đó chuyển ra miền Bắc. Nằm trong toa xe lửa trên đoạn đường từ Hải Phòng lên bến phà Sông Hồng với toàn phân trâu phân bò, tôi chợt miên man nghĩ về hai thằng em chiến hữu.


Nguyễn Thế Thăng

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Nữ tù nhân "cải tạo" ở Z30D

Post by phu_de »

Nữ tù nhân "cải tạo" ở Z30D
Nguyên Hạnh


Đã quá lâu chúng tôi không đi xe hơi đường xa, xe Molotova này do tài xế công an cộng sản lái thả giàn, mặc cho chúng tôi ngồi sau thùng xe lắc lư nghiêng ngả, nhất là khi xe rẽ vào đường rừng vừa dốc vừa nhiều ổ gà, quanh co, khúc khuỷu, xe chạy như lăn lộn, ngoằn ngoèo làm cho chúng tôi ngất ngư, choáng váng.

Xe dừng lại khoảng giữa trưa trong một khoảng sân rộng, hai tên công an đàng trước nhảy ra gọi chúng tôi xuống xe, chuyền nhau những giỏ xách xuống theo. Trời nắng gắt, chúng tôi tìm bóng mát trước một gian nhà lợp tranh dài và cao, ngồi bệt xuống đất, dựa vào nền nhà, trong lúc chờ đợi tên công an trưởng xa chạy đi đâu đó, có lẽ đi báo cho văn phòng trưởng trại biết chúng tôi đã đến.
Đang đưa mắt nhìn quang cảnh chung quanh, một bầu trời rộng lớn bao trùm một doanh trại xa lạ, có nhiều dãy nhà tranh ngang dọc, phên là những thân tre đóng sát vào nhau, bỗng nghe trong nhà có những tiếng gọi khẽ tên mỗi chúng tôi. Giật mình xoay vào nhà chúng tôi thấy qua các khe hở lấp lánh những ánh mắt nhìn ra, không thấy được toàn mặt nên không biết là những ai trong đó. Hình như họ đang giới thiệu chúng tôi với nhau.

Một toán công an theo nhau xuống nhận chúng tôi. Bọn công an gay gắt và hỗn xược hơn bên bộ đội. Việc đầu tiên là điểm danh, sau đó là lục soát "hành lý" cá nhân chúng tôi đem theo.
- Các chị bày đồ đạc ra để khám xét!
- Ai cho các chị dùng dao găm? Các chị đem theo để làm gì đây?
- Đó là những con dao rỉ sét chúng tôi lượm được ở hố rác các trại cũ dùng để làm cỏ.
- Không được! Ở đây cấm dùng. Để riêng những đồ bằng nhôm, sắt, tôn, thép ra một bên.
Chúng tôi nhìn một cách tiếc rẻ những đồ đạc bị tịch thu, những đồ đạc nghèo nàn thân thuộc đã theo chúng tôi hơn ba năm qua, đã giúp chúng tôi rất nhiều trong lao động ở năm trại trước.
- Các chị nào có dao, kéo, đồng hồ tự giác bỏ ra hết đây, khi nào chuyển trại chúng tôi sẽ trả lại.
Chúng tôi nghe mà rụng rời, thất vọng. Tại sao lại "chuyển trại" nữa mà không nói là "khi nào về"?
Mới đến đây, thật là thân gái dặm trường, chẳng biết những gì sẽ chờ đợi chúng tôi, sẽ xảy đến ở nơi khỉ ho cò gáy này...
Lại những câu đón tiếp khô khan, dằn mặt thường lệ:
- Các chị đến đây phải tuyệt đối tuân theo nội quy trại, lao động tích cực, không được có những hành động chống đối, trốn trại sẽ có những biện pháp cứng rắn đối với các chị, v.v... và v.v...
Có tiếng mở khóa và tiếng dây xích rổn rảng ở đầu nhà. Họ chỉ cho chúng tôi đến đàng kia để vào nhà bằng một khung cửa hẹp. Trong nhà có hai tầng sạp toàn bằng tre, một lớp chúng tôi nằm ở sàn trên, một lớp nằm ở dưới. Rất đông người, trong số đó, toán nữ sĩ quan Cảnh Sát VNCH đi trước đều ở đây, gặp lại nhau rất mừng rỡ, lăng xăng lo lắng cho chúng tôi. Các chị sắp chỗ cho chúng tôi để đồ đạc sắp ở đầu nằm và treo lủng lẳng trước mặt móc vào phía dưới của sạp trên. Tôi thiếp đi một lúc lâu, khi tỉnh dậy, tôi mơ màng nghe chung quanh nói chuyện lao xao:
- Chị ấy rất yếu, mỗi lần chuyển trại phải di chuyển bằng xe là chị đều bị ngất xỉu.
- Khuấy cho chị ấy một ly nước chanh đi!
Trên đời có những chuyện rất nhỏ, như ly nước chanh chẳng hạn, mà chúng ta nhớ suốt đời, vì đó là một niềm an ủi thân thương trong những ngày hoạn nạn...
Tôi ngồi dậy cùng với các chị, kể cho nhau nghe về trại cũ, trại mới. Bây giờ mới biết là mình đã được chuyển đến một trại giam có phiên hiệu Z30D cạnh ngọn núi Mây Tào thuộc địa phận Hàm Tân.

Trong nhà này chúng tôi còn ở chung với nhiều chị thuộc thành phần khác, những chị nữ dân biểu, công chức cao cấp của VNCH, các chị vượt biên bị bắt, các chị mang tội phản động, có hành động chống đối, âm mưu lật đổ "Chính Quyền Cách Mạng," và cả các nữ cán bộ, đảng viên Cộng Sản bị khép tội bội phản hoặc thâm lạm của công... Các chị em phản động là những phụ nữ từng làm những việc rất có lý tưởng, thường tiếp tế vào rừng cho anh em kháng chiến sau 1975, mở quán cà phê chiêu gọi thanh niên tham gia hoạt động trong các mật khu. Về các chị em cán bộ cộng sản thì thật là buồn cười. Họ đã từng là các mẹ, các chị của "chiến sĩ cộng sản," nuôi ăn, che giấu, làm giao liên, trà trộn trong dân, nằm vùng ở thôn quê, ở thành thị. Trước năm 1975 bị VNCH bắt, túng quá phải khai sự thật, chỉ điểm, làm cho các tên cộng sản bị lùng bắt. Nay "giải phóng" thành công, các con, các em biết được nên bắt các mẹ các chị vào tù lãnh án 10 năm, 15 năm.

Sau 1975, có chị được cộng sản chiếu cố, phân công, cho lên xe Jeep VNCH để lại, oai phong lẫm liệt đến tiếp thu các quận, các tiểu khu, nào ngờ khi giở các hồ sơ còn lưu lại của chế độ cũ, thấy những tờ giấy cam kết do các chị ký tên, chứng tỏ các chị đã được chiêu hồi và hứa hẹn sẽ làm việc cho cả hai phía để cung cấp tin tức của cộng sản, thế là các chị lãnh án vào ở chung với chúng tôi. Bây giờ họ đã mở mắt ra để thấy rõ thế nào là cộng sản nên rất quý mến chúng tôi.
Ba năm trước đây, chúng tôi do bộ đội cộng sản quản lý, nhà giam trống trải vì cửa bị gỡ hết, tuy gió lùa, mưa tạt, nhưng chúng tôi được đi lui đi tới trong khuôn viên trại thoải mái hơn, tuy chung quanh trại đều có vòng đai kẽm gai rất kiên cố.

Nay, lần đầu tiên ở trong nhà tù có cửa khóa, thế là kể từ đây chúng tôi chính thức ở trong chế độ giam cầm của công an Cộng Sản, tù đày thật sự. Vậy mà sau đó, đến kỳ cho viết thư về nhà, tôi có câu: "Đã mấy tháng nay rồi không nhìn thấy trăng sao, mặc dầu bị tù túng nhưng vẫn cố gắng lao động tốt để được mau về.". Thư đó đã bị giữ lại, và tôi bị gọi lên Ban Chỉ Huy nghe xài xể:
- Nhà Nước nuôi các chị như vậy mà các chị gọi là ở tù à? Giữ các chị để các chị học tập trở thành con người tốt, con người mới Xã Hội Chũ Nghĩa để sống cho hợp với nếp sống văn minh, văn hóa mới mà chị cho là ở tù. Cúp thư kỳ này!"
Tất cả ở Z30D này đều quá mới lạ một cách hãi hùng đối với chúng tôi.
Trong trại không có nước, không có giếng, không có bể nước. Tắm giặt đều ở các khu suối thật xa sau giờ lao động trên đường về. Vì vậy, muốn có nước dùng để rửa mặt đánh răng, vệ sinh, chúng tôi phải đi lao động mỗi ngày, xách theo xô để lấy nước về mà dùng. Những ai bệnh hoạn không đi ra ngoài được, mấy chị em khác về chia xẻ cho một phần nhỏ nước. Chúng tôi có một cách tắm ở nhà rất ư là hà tiện, dùng một cái ly thật nhỏ để dội từng giọt.

Số nữ tù nhân "chính trị" chúng tôi ở đây có 64 người chia làm hai đội để sinh hoạt và lao động. Mỗi sáng, đến giờ kẻng đánh, hai đội nữ sắp hàng hai ra bãi ngồi xổm xuống để đội trưởng điểm danh, báo cáo số hiện diện, số người bệnh, rồi nghe gọi tên đội để lần lượt nối đuôi nhau ra khỏi cổng trại, chia đi các phía rừng để lao động.
Bãi tập hợp rộng bao la, anh em tù từ tứ phía đến hội tụ cả hàng ngàn người. Từ trên một chòi canh cao, một tên cán bộ đứng gọi loa tên từng đội. Gió lồng lộng thổi. Cảnh tượng thật bi hùng. Cả một lực lượng đáng kể tụ họp đây kia, trong chốn đọa đày lao khổ này! Nhìn các đội nam thất thểu đi ra cổng, từng hàng đôi rách rưới, áo quần vá chằng và đụp, người đi những đôi dép mòn, kẻ chân không, đội nón rách bươm, hoặc nón vải bạc thếch, hoặc đầu trần, chúng tôi liên tưởng đến các "Cái Bang"!... Những con người đó trước đây đã từng là các cấp chỉ huy ưu tú, các chiến sĩ từng xông pha chiến trận thật anh dũng hào hùng... Họ đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho tổ quốc, cho quê hương, để đồng bào được sống yên lành trong tự do, no ấm.
Có những người tuổi đã cao, tóc đã bạc muối tiêu, thân thể gầy còm đi thất thểu trong các toán, đôi mắt không còn nét tinh anh!
Về phía chúng tôi, nào có hơn gì! Chắc chắn các anh nhìn chúng tôi cũng có những cảm nghĩ tương tự...
Từ bãi tập họp ra đến bãi lao động phải đi vào rừng sâu, cách nhà giam vài ba cây số. Chúng tôi lại cuốc đất, làm cỏ, đánh vồng trồng khoai, bắp, đậu, mồ hôi nhễ nhại. Chúng tôi lao động giáp ranh với đội nam, do đó lén nghe thì thầm nhiều tin tức mới lạ.

Đặc biệt nhất với chúng tôi là phải tắm suối. Sau giờ lao động, dọn dẹp cuốc xẻng cất vào "nhà lô" để trở về, chúng tôi được dẫn đến một bờ suối để tắm. Đi kèm chúng tôi lúc nào cũng có một nữ quản giáo và một nam cán bộ võ trang. Đến suối, tên võ trang đứng xa hơn, nữ quản giáo đứng trên bờ nhìn xuống chúng tôi để canh giữ. Chúng tôi không được bơi ra xa vì bên kia bờ suối là một gò đất có nhiều bụi cây rậm mà trước đây đã có hai cô trốn trại bơi qua đó, băng vào rừng, nhưng sau đó bị bắt lại.
Lần đầu tiên, cảnh chúng tôi tắm suối thật kinh hãi, không thể tưởng tượng nổi có ngày phải như thế! Toán chị em đã về đây từ trước nhanh nhẹn cởi quần áo để trên bờ đá, trần truồng nhảy xuống thật tự nhiên. Chúng tôi khiếp sợ! Làm sao như vậy được?! Khó quá! Chúng tôi để nguyên quần áo đi xuống nước. Thấy chúng tôi ngần ngại, các chị kêu lên:
- Cởi đại ra đi! Không kịp đâu! Chỉ có mười lăm phút vừa tắm vừa giặt. Lần đầu tụi em cũng như mấy chị, nhưng sau quen đi, không thể làm khác được.
Trời cao trong xanh, những làn mây chiều nhẹ trôi. Suối nước rất đẹp. Có những phiến đá để áo quần. Chúng tôi lúng túng. Thật xấu hổ không chịu được! Phụ nữ Việt Nam xưa nay vốn kín đáo, e ấp, thẹn thùng. Thẹn với cả trời, đất, cỏ, cây!...
- Các chị kia nhanh lên, hết giờ rồi, đi về!
Cởi dần ra dưới nước... Ngày đầu tiên tắm và giặt đều không sạch vì chậm chạp quá. Ngày thứ hai thôi đành cởi áo trước để đi xuống nước vậy, nhưng cũng không kịp. Và ngày thứ ba trở đi phải đánh liều, hễ đến suối là phải lo cởi gấp hết, nhảy ùa xuống, vừa tắm vừa giặt gấp rút mới kịp giờ.

Chúng tôi có cảm tưởng như một bầy tiên nữ từ trên trời xuống trần gian bị lấy thu mất đôi cánh, như trong thời tiền sử... Thật đáng thương, thật tủi nhục không thể nào chấp nhận được! Càng tệ hại hơn, có đôi khi tắm chưa xong, chợt nhìn lên bờ cao, thấy thấp thoáng người đầu tiên của đám tù nam trên đường về sắp tới.
- Nam, nam! Các chị em la lên.
Thế là nhanh như cắt, chúng tôi nhảy lên bờ vơ vội áo quần để mặc đi về, mặt ai nấy đỏ như gấc.
Đã xong đâu! Trên đường về, đi ngang qua chiếc cầu tre, từ xa đã thấy một toán nam đang tắm dưới cầu, thế là chúng tôi phải ngẩng mặt lên nhìn trời mà đi... Ôi! Chúng tôi đã đi lui về thời kỳ ăn lông ở lỗ... Họ đã đối xử với chúng tôi như thế!
Có lần nữ quản giáo bệnh nghỉ, chỉ có tên võ trang đưa đi để canh gác chúng tôi lao động. Khi về đến suối để tắm, tên kia cứ đứng trên bờ cao trân trân nhìn xuống. Làm sao chúng tôi tắm được!
- Anh đi ra xa, đứng vậy làm sao chúng tôi tắm!
- Không! Các chị tắm nhanh lên!
- Thôi chúng tôi không tắm nữa, đi về!
- Có gì đâu mà không tắm? Ngày bữa gì!
- Nhất định chúng tôi không tắm.
- Thế nhỡ các chị trốn đi thì sao?
- Bảo đảm chúng tôi không trốn. Biết đường nào mà trốn?
- Không tin được!
- Đi về! Nhất định phải đi về thôi!
Chúng tôi hăng hái toan bước lên bờ đường. Tên kia nhượng bộ:
- Thôi được rồi, tôi nhìn qua phía kia. Các chị xuống tắm đi!
Tên công an võ trang ngồi xổm xuống nhìn ra phía khác. Nhỡ anh ta quay lại thì sao?!
Đành phải xuống tắm thật nhanh mà mắt cứ phải coi chừng tên kia quay lại.
Những công việc lao động cực nhọc đến đâu, chúng tôi cũng ráng chịu được, cũng không làm chúng tôi đau khổ, bị chà đạp phẩm giá bằng cách phải đi tắm suối ở Hàm Tân (Z30D).
Thời cuộc đã làm cho chúng tôi là những kẻ sa cơ, gánh chịu vô vàn khổ nhục, nhưng vẫn tin tưởng rằng mọi hoàn cảnh đều sẽ có một lối thoát, nếu ta giữ vững được lòng tin.
Ở mỗi trại tù, mỗi sự hành hạ khác nhau. Và còn biết bao nhiêu mẩu chuyện, giai thoại về những người "Tù Cải Tạo," như những chuyện "Nghìn Lẻ Một Đêm," kể sao cho hết được!

.

User avatar
tuyetlanh
Posts: 42
Joined: Thu Dec 02, 2004 5:06 am

Post by tuyetlanh »

Nhân ngày 30 tháng 4, 2004.
Lần Little Sàigòn có mặt với Denver, Colorado.
Biểu quyết Nghị Quyết Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa.




MÁU THẤM ĐẨM LÊN BA SỌC ĐỎ

Một.
Buổi sáng ngày 30 tháng Tư, 1975 anh đứng trước trụ sở Hạ Viện Việt Nam Cộng Hòa, Công Trường Lam Sơn chứng kiến giờ hấp hối với Sài Gòn trước, sau giây phút Dương Văn Minh ra lệnh quân đội ngưng tác chiến. Đoàn xe gồm hai chiếc Zil (xe vận tải Trung Cộâng) chở trung đội nữ du kích cộng sản (cho là như thế, chứ thật ra chỉ là những gái quê miệt Bình Chánh, Phú Lâm mới được tập trung làm "cách mạng" ở giờ thứ cuối cùng của một cuộc chiến tai họa, xé lòng, và cũng cực độ vô ích nhất suốt lịch sử người Việt ? Hai mươi-chín năm sau, "trị giá" nầy hẳn không thể định nghĩa khác hơn). Hai chiếc xe chạy chậm từ Trần Hưng Đạo qua bùng binh Chợ Bến Thành, dọc Lê Lợi với toàn thể các cửa hàng ghìm ghìm đóng kín. Những mũi súng chỉa sang hai bên dọa nạt vụng về, đám người trên xe ngây ngô vô hồn nhìn xuống lòng đường vắng vẻ - Không phải cách êm ả, vắng lặng của Sàigòn thường có của những chiều ba- mươi Tết để bùng vỡ với đêm Giao Thừa rộn rã mừng Xuân nồng ấm giữa mùi khói pháo của những ngày gọi là "Tự Do"- Tự Do có thật và đang dần hũy diệt. Nay, sáng ba-mươi tháng Tư, 1975 đường Lê Lợi có cảnh tượng im lạnh của một bãi tha ma vương vải những thây người chưa kịp thu dọn. Mà quả thật có những người vừa chết, đang chết. Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long (sau nầy mới biết được danh tính của Người Tận Hiến Tế đầu tiên cùng lần thật chếât với Quê Hương) với y trang cảnh sát nghiêm chỉnh, giày đen, chiếc nón kết bị bắn rơi sang một bên nằm trên vũng máu dưới chân Tượng Đài Thủy Quân Lục Chiến. Tiếng đạn súng tay của Trung Tá Long bị chìm khuất bởi chuỗi âm động sầm sập do hàng ngàn vạn bàn tay đang đập đục những cơ sở, kho hàng người Mỹ, hoặc của ngoại kiều đã vắng mặt vùng Building Brinks, nhà thương Đồn Đất.. Nhịp âm lượng ma quái, ghê rợn tưởng như muôn vạn chày vồ đập xuống nắp quan tài trong giờ tẫm liệm.. Nhưng bỗng chốc, tất cả tất cả như lắng lại với những tiếng gào uất hận thương đau.. Có người chết! Có người chết! Ai... ai, ai chết? Lính, lính mình, chết nằm kia kìa.. Khu tượng đài ùn ùn người kéo tới, vây chặt; những ký giả người Nhật (trong đó có anh) rời bỏ thềm Hạ Viện, bởi đám ?nữ chiến sĩ giải phóng" với áo xanh da trời, quần đen, băng đạn quấn chéo ngang ngực không có động tác gì khác ngoài việc ngồi im, nhắm hờ đôi mắt nhỏ như làn chỉ trên những khuôn mặt căng phồng đỏ ửng mụn nám, mồ hôi chảy giòng nhớp nháp, thấm đẫm. Mũ tai bèo, khăn rằn quấn cổ, áo vải popeline, quần phụ nữ nhà nông, dép lốp xe hơi, giây đeo đạn, đạn, súng.. Tất cả đồng đỏ au, mới nguyên, miết xuống lớp áo vải mỏng, làm hằn lên những múi thịt tưởng như xé rách những thân hình béo phì bấât động. Anh đóng nắùp máy ảnh, hiểu rõ tính vô nghĩa, vô ích của những việc làm đang lãng đãng thực hiện; cũng không thể nghĩ gì thêm khi nhìn xuống mắt người vừa chết đứng tròng, khô rốc. Anh bất định bước dọc theo hành lang quán Thanh Vị, nhìn sang hàng hiên rạp REX.. Toán lính cộng sản trườn, bò, chỉ chỏ nháo nhác; vài gã thanh niên cầm lá cờ đỏ chạy về phía cổng Tòa Đô Chánh. Cờ thật ra chỉ là loại vải lụa may áo dài màu đỏ tía. Khi ném hết giấy tờ xuống chiếc cống trước nhà sách Khia Trí.. gồm Chứng Chỉ Tại Ngũ, Thẻ Lãnh Lương; Chứng Minh Thư danh số 41 Ban Liên Hợp Quân Sự Trung Ương; Căn Cước Bọc Nhựa.. Hóa ra mình cũng chưa có thẻ sĩ quan mới thay thế thẻ kỳ lên trung úy sau trận Đồng Xoài, 1965. Anh không rõ bản thân đã nói thầm như thế hay không, cũng không có cảm giác tiếc nuối cái ví da, món quà nhận hôm sinh nhật vừa qua, vật chất độc nhất có đôi chút giá trị đối với bản thân... Thì coi như mình đã chết! Anh muốn nói ra lời, nhưng chỉ nghĩ không cũng thấy đau.

Hai
Hai mươi-chín năm sau. Đúng hai mươi-chín năm, anh xuống phi trường Denver, Colorado với cảm giác không khác của ngày ấy - Ngày 30 tháng Tư, 1975 tại Sài Gòn, nơi trái tim anh. Có khác chăng, lòng anh trống trải, lặng lẽ hơn với tuổi sáu-mươi. Bởi từ lâu, hình như anh không nói: "Tôi đến nơi ấy. Tôi về nơi nầy.." Anh chỉ di chuyển từ chốn nầy qua chỗ khác. Cảm giác có thật, không phải làm dáng để viết nên chữ nghĩa, văn chương, cách điệu giang hồ, khinh bạc. Bởi, hai mươi-chín năm qua, anh di chuyển từ trại tù nầy qua trại tù khác; từ thành phố nầy sang một chỗ ở bị chỉ định khác. Rất nhiều lần sau thức dậy buổi sáng, anh ra trước căn nhà vừa trú ngụ đêm qua, đọc tên đường và số nhà, hoặc tìm xem niên giám điện thoại để biếât mình đang ở nơi đâu. Quê nhà với anh hình như không còn - Thật sự không còn - Bởi cũng do tình huống, anh sợ phải hứng chịu nỗi đau cùng với nơi xa xôi cách biệt kia mỗi khi ngồi xuống một mình với những chữ viết mà anh hiểu thật lòng.. Rồi cũng chẳng đi đến đâu..
Chiều 30 tháng Tư, 2004 Denver trời đổ tuyết lớn. Anh nói cùng Hùng, (Đơn Vị 101 cũ), người bạn đón anh, và Nguyễn Chí Thiện: "Các ông, bà thi sĩ, ông viết văn thật ra không hơn ai, nhưng có được khả năng thấy trước, và thấy đúng." Để hai bạn rõ ý hơn, anh giải thích: "Mấy mươi năm trước, ông Thiện nằm tù ở Hỏa Lò, nơi chốn người chưa đến nỗi ăn thịt người (do không có lửa để nấu nướng); chứ ở trại tôi, trại Thanh Cẩm (Thanh Hóa, nơi Dân Biểu Đặng Văn Tiếp bị đánh chết; sau 1990, giam Đoàn Viết Hoạt); Mã Nhì và Lý Trường Trân thịt ngay anh chàng người Hoa đồng phòng, vì anh nầy chịu khổ không nỗi, hiến mình cho hai bạn ăn để có chất thịt. Thịt người cũng là thịt. Họ lý luậân với nhau như thế trước khi thuận cho hai người kia sửa soạn bữa thịt đồng bạn, đồng chủng. Ở Hỏa Lò nơi giam ông Thiện, người tù chỉ ăn thức do người kia vừa nôn ra; vậy trong cảnh sống ấy, làm sao biết được tuyết (trắng, ấm) như thế nào; nơi đâu có tuyết rơi cho những con người xứng danh người để có thể viết nên câu thơ: "Tuyết ấm rơi lòng người đôn hậu..". Năm ấy, cách đây hơn hai-mươi năm, ông Hùng ở nhà thương Cốc Lếu (Lào Cai) nằm chờ chết vì bịnh lao; tôi ở hầm tử hình trại Thanh Cẩm.. Đến ông Trời cũng không có thể tiên tri cho ba người sẽ gặp nhau hôm nay ở đất Mỹ, giữa một chiều mưa tuyết trong ngày đầu hè, cuối tháng Tư!! Mà tuyết ấm thật, anh đưa tay hứng bông tuyết thoa lên mặt, lòng vui như đang chứng kiến sự diệu kỳ. "Bác Thiện nói cứ như thánh hèn gì làm thơ hay thiệt!" Anh nói với lòng thành thật, cảm động về sự thanh khiết, dũng cảm của THƠ.
Nhưng sự ngẫu nhiên (nếu gọi là ngẫu nhiên) không ngừng ở đấây, khi chúng tôi vào đến thành phố, thì nơi phòng làm việc của Phan Hội Yên, viên "Hạ Sĩ Khinh Binh" của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị đã đánh xe tăng T54 cộng sản với lựu đạn tay, và bán súng cá nhân XM16 nơi đồi 30 Hạ Lào trong chiến dịch Lam Sơn 719, năm 1961; ở đây chiều nay cũng đã có mặt viên sĩ quan mang danh hiệu: "Khủng Long ? Đại Úy Lại Văn Long của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù", người đại đội trưởng nhưng kiêm luôn nhiệm vụ khinh binh xung kích chiếm nóc gác chuông Nhà Thờ LaVang, nơi đơn vị cộng sản bố trí một dàn phòng không, ngăn cản sức tiến công của những đơn vị tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị, Mùa Hè 1972. Và kết quả đã hiện thành với chiến công mcät lần vang dội hùng tâm giữ nước - Ngày 14 tháng 9, tức là gần hai tháng sau buổi quyết tử của Long "Khủng Long", những lính Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân, Thiết Kỵ, Sư Đoàn I Bộ Binh, Địa Phương Quân, Nghĩa Quân thuộc lực lượng diện địa Tiểu Khu Quảng Trị đồng nhào lên trên đất đá điêu tàn của khối cỗ thành mà nay chỉ còn là những nấm đất sênh sếch khói đạn điêu tàn, lầy lềnh những xác người chết trẻ, để dựng nên lá cờ linh thiêng của Tổ Quốc..
Cờ bay..
Cờ bay giữa vũng lửa
Trầm trầm quân, dân nước mắt ứa
Một bận cờ bay vàng thành xưa
Bao tầng máu, xương người lính đỗ!!
Những người lính của mùa Hè lẫm liệt năm ấy nay tất cả đã trở nên những lão nhân lặng lẽ, chịu đựng.. Nầy là Sum, Kim của Tiểu Đoàn 8; ông Bưu Tín Viên, Triêm của Tiểu Đoàn 7 Dù mà ngày anh mới ra trường (1963) về đơn vị, dẫu lớn cấp bậc hơn vẫn ngại ngần gọi ông bằng danh xưng kính trọng "Thưa bác Thượng Sĩ!!"; hoặc Ngô Gia Hậu của lớp viên phóng chiến trường xông xáo ngày trước, những "nhà báo" nhảy xuống Khe Sanh, vào An Lộc, lên Pleiku cùng với khinh binh của những đợt trực thăng đầu tiên đổ bộ xuống những bãi đáp còn nóng hơi bom, đạn tiền pháo kích. Tất cả đồng có mặt hôm nay trong căn phòng chật chội nầy để đợi một phép lạ tưởng như không thể xẩy đến.. Không Quân Vũ Sĩ Cường, viên tân chủ tịch cộng đồng của địa phương Denver nhào vào với tiếng nói trong hơi thở gấp.. "Xong rồi, xong rồi quý vị.. Năm giờ, đúng năm giờ, chúng tôi có mặt từ ba giờ chiều, đợi đến năm giờ, thượng viện, hạ viện tấât cả chuẩn y Nghị Quyết Cờ Vàng - Vâng, không có phiếu chống đối, họ đứng lên phất cờ vàng với mình dẫu ông thống đốc bận đi họp. Nhưng thượng viện họ quyết định hôm nay: Ngày 30 Tháng Tư.. Vâng, họ biết, họ chia vui với mình. Họ cốt Nghị Quyết ra hôm nay, ngày 30 Tháng Tư sau hai mươi-chín năm. Tiểu bang mình là tiểu bang thứ năm có nghị quyết nầy: Toàn Tiểu Bang Colorado là của Quê Hương của Người Việt Nam Tỵ Nạn Cộng Sản." Vũ Sĩ Cường lấy lại hơi thở với tiếng nói trầm xuống cảm xúc: "Thành quả nầy là của chung tập thể, nhưng người đầu tiên phải tri ân là Thống Đốc Bill Owens, người nhiệt thành yểm trợ không ngừng nghỉ cuộc đấu tranh chính nghĩa của Người Việt không chấp nhận chế độ cộng sản." Bởi Bill đã không chỉ chối từ, phủ nhận chủ nghĩa, chế độ cộng sản do sự tệ hại thâm hiểm của nó trong hôm nay với cương vị thống đốâc tiểu bang, nhưng ngay từ những ngày của thập niên 60, 70, ngày Bill còn là người trẻ tuổi, nơi khuôn viên các trường đại học, khi "phản chiến" là một trào lưu thời thượng của tiến bộ và yêu chuộng "Làm Tình tốt hơn Chiến Đấu- Make Love. Not War". Cường tiếp lời: "Chúng tôi, ban tân dại diện cộng đồng cũng như các bạn không thể nào quên được. Không bao giờ quên ? Công lao của Người Tuổi Trẻ Bùi Phương Hải ? Bác Sĩ Quân Y Hải Quân Hoa Kỳ, vị chủ tịch tiền nhiệm của chúng ta. Bác Sĩ Hải đã vận động cùng Nghị Sĩ Bruce E. Cairns, vị tướng lãnh hồi hưu James C. Hall trong suốt thời gian bao năm qua để thuyết phục phe chống đối (do mưu định khống chế của tòa đại sứ cộng sản Hà Nội) để đến hôm nay chúng ta có đươc thành quà nầy ? Nghị Quyết được thông qua với đa số tuyệt đối của 35 nghị sĩ, 65 dân biểu của Thượng- Hạ Viện Tiểu Bang Colorado."
Kết Từ,
Trong những ngày nằm trong hầm số 2 (để đợi mang đi bắn theo như án lệnh đã tuyên bố; hầm 1 giam Trần Văn Chí, Khóa 11 Quốc Gia Hành Chánh; buồng 3 giam Cao Văn Bảy, Giáo sư Pétrus Ký) thuộc phòng cấm cố tử hình ở Trại 5 Lam Sơn Thanh Hóa; ba chúng tôi thường nghe tiếng hát yếu ớt vọng từ căn hầm số 4: "Bảo vệ làng thôn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.."; hoặc, "..đường trường xa ta quyết đi cho đến cùng..". Thật ra, người ở hầm số hầm số 4 kia không hát, anh chỉ nói những lời trên với âm lượng yếu ớt, kiệt sức, nhọc mệt; nhưng đôi khi anh cũng "hát" thành âm điệu, đấy là khi anh cất giọng với thanh sắc thành kính uy nghi: "Nầy công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi..." Anh hát vói nhịp cùm sắc ở cổ chân rung mạnh hoặc nắùm tay đập vào tường. Chúng tôi ba người đồng im lặng dù anh luôn khuyến dụ hát cùng; cũng bởi không chắc anh có phải là "tù quốc gia" không, hay chỉ là tù cộng sản gài vào để dò xét anh em chúng tôi. Nhưng vào một hôm, ngày 25 tháng 2, 1979 một ngày Chủ Nhật, ngoài trại im vắng, và người ở hầm số 4 kia thực hiện nghi thức: "Hôm nay ngoài trại nghỉ, cán bộ chúng nó đi chơi hếât rồi, anh em mình trong này làm lễ chào cờ.. Tôi hô nghiêm các anh đứng dậy và mình hát quốc ca". Không đợi chúng tôi trả lời, anh hô lớn dõng dạc.. "Chào cờ.. Nghiêm!", và tiếp theo vang lừng câu hát: "Nầy công dân ơi đứng lên đáp lời sông núi.." với tiếng đập mạnh vào tường thay tiếng trống thúc quân. Có lẻ anh hát quá lớn, hai cán bộ công an Bùi Dù, Các vào mở cửa hầm số 4. Và trước khi ra đòn trừng trị vì tội "âm mưu phá rối an ninh, trật tự trại giam", ba người chúng tôi nghe rõ đối thoại:
-Nầy Thành (sau nầy chúng tôi biết rõ, anh tên Nguyễn Công Thành, người Nghệ An), mầy là lính biệt kích sao mà mầy ngoan cố đến thế. Bên kia có ngụy dù phan nhật nam; ngụy thầy giáo cao văn bảy; ngụy quyền trần văn chí.. Ngoài kia có ngụy tổng, bộ trưởng, tướng, tá một lũ, chúng tao trị cho phải biết phép.. Thế sao mầy chỉ là lính biệt kích mà mầy phản động ngoan cố đến vậy.
-Phải, tôi là lính. Lính biệt kích. Tôi không ngoan cố, không phản động. Các ông nhốt thế nầy thì phản động cái gì nữa. Tôi chỉ chào cờ. Tôi hát Quốc Ca của Việt Nam Cộng Hòa.
- Bọn đầu sỏ chúng mầy, dương văn minh, nguyễn văn thiệu đồng bỏ chạy, đầu hàng, mầy là lính thì làm được cái chó gì. Dù và Các gầm gừ chưởi trước khi ra đòn trừng trị.
...Chen trong âm động của da thịt người bị đánh dập, tiếng cùm kéo lê, vùng vẫy sen sét, cào siết có tiếng nói đứt khúc của anh Thành: ".. Các ông hèn lắm.. đánh thằng già bị cùm thì tài giỏi gì.. Cán bộ Các hét lớn để át tiếng của anh Thành: "Địt mẹ, mầy già mà mầy ngoan cố, cả bọn còn đầu hàng chúng ông huống gì mầy.." Anh Thành trả lời ngắt khoảng với tiếng thở bĩ nén nhưng dứt khoát: "Ai đầu hàng tôi không biết, thiếu uý Khiết (Đặïng Ngọc Khiết, Khóa 17 Đà Lạt (1960-63); học sinh Phan Châu Trinh, Đà Nãng (1955-60)-pnn), trưởng toán tôi bị đem ra chợ Ninh Bình bắn. Tôi bị bắt, tôi bị bắt vì bắn hết đạn. TÔI KHÔNG ĐẦU HÀNG."
Lính Biệt Kích là Người Lính Không Số Quân. Lính Không Đơn Vị. Lính Không Huy Chương. Không Bằng Tưởng Lục. Lẽ tất nhiên họ không hề được thăng cấp. Và sau khi chết, gia đình cũng không được lãnh Tiền Tử Tức ? Vì không ai biết họ chết khi nào. Chết ở đâu.
Sau nầy, Đại Úy Nguyễn Hữu Luyện, người Lính Biệt Kích sống sót qua 21 năm, 4 tháng, 14 ngày tù kể lại: "Nguyễn Công Thành sau khi cho ra trại, không được về Nam, vẫn bị quản chế ở Nghệ An, và đã chết vào một năm nào đó khi gần hết Thế Kỷ 20". Cần nói thêm một chi tiết: "Anh Thành luôn bị cùm, giam hầm tối kể từ khi bị bắt, tháng 8, 1964 cho đến ngày thả ra để chết."
Ba Sọc Đỏ của lá Cờ Vàng quả thật thấm máu của rất nhiều người- Những người chúng ta không hề biết.
Biệt Kích Nguyễn CôngThành là Một.



Denver, Colorado.
Sau hai mươi-chín "Ngày 30 Tháng Tư" (1975-2004)
(Riêng gởi DNN với Tình Thân qua Huế-Sàigòn-Houston-Denver)
Phan Nhật Nam

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Những Mẩu Chuyện - Lam Chương

Post by linhgia »

Những đoản văn rời

Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------
Tôi là vô sản
Khi về đây, tôi dự định sẽ tìm một việc gì kiếm sống qua ngày. Nhưng mọi chuyện không dễ. Cái xã nghèo đến thê lương, thế mà lại mang tên Phú Thạnh. Nghèo đến nỗi con chó đói nằm dài mõm ngoài hiên cũng biếng sủa khi có người đi qua. Ðàn ông trai tráng không có việc, lêu bêu đầu thôn cuối xóm. Thì giờ thừa mứa, tụ năm tụ ba tán gẫu. Cuối cùng vét túi chung tiền mua vài xị rượu, nhâm nhi cho quên đời là bể khổ.

Tôi lận lưng một số tiền nhỏ làm kế sinh nhai. Số tiền sứt mẻ dần qua những cuộc rượu, việc làm chẳng thấy đâu. Bù lại, tôi có thêm nhiều người bạn mới.

Nhà Tám Nưa có giỗ. Trước mấy ngày, ông đã mời những người có mặt trên chiếu rượu. Tôi cũng được mời. Anh em bảo, Tám Nưa khỏi lo phần rượu. Mọi người sẽ đóng góp, bảo đảm uống mệt nghỉ. Về phần thức ăn, Tám Nưa cho vật con heo còi làm thịt, cắt cổ thêm vài con vịt đẹt. Xã nghèo, có người dám chơi thế là chơi ngon. Bữa giỗ xem ra rất linh đình. Khách được mời ăn giỗ cũng rất phấn khởi. Thời buổi khó khăn, người ta thường trông vào miếng ăn. Có rượu thịt là có ruồi nhặng vo ve. Tôi là một trong những con ruồi bay lượn trên những dĩa thức ăn.

Nhà chật, Tám Nưa che cái chái ngoài sân, đặt thêm bàn. Cánh đàn bà ngồi trong nhà. Cánh đàn ông ngồi ngoài sân. Mọi người hỉ hả ăn uống. Hai bàn ngoài cùng, dành đãi công an, và nhân viên chính quyền xã. Tám Nưa nói, đó là thủ tục không thể thiếu. Quy tụ đông người, phải có thần chứng giám mới yên. Tôi nghĩ, thời đốn mạt, người ta sống bằng mặt, không bằng lòng. Kẻ có quyền thì tập thói lưu manh, bóc lột. Người yếu thế thì học chước dối trá. Con người sống với nhau mà như chơi trò cút bắt. Ở đâu cũng có tiếng reo hò mừng rỡ, lẩn tiếng kêu la thảng thốt. Xã hội vừa là phường tuồng, vừa là địa ngục.

Ðang ăn, bí thư xã nói: “Nghe báo cáo có người lạ mới vào xã ta, tôi chưa biết mặt.”

Mọi người ngó vào tôi.

Tám Nưa kéo tôi qua bàn bí thư, giới thiệu: “Chú em đây tên là Lâm, đã trình diện bên phòng công an khi mới về xã.”

Bí thư nói: “Mời ngồi.”

Tôi nói: “Tôi đang ngồi bàn bên kia.”

“Thì ngồi xuống đây nói chuyện đã. Anh vẫn khỏe chứ?”

“Vâng, tôi vẫn khỏe.”

“Nhiều người cải tạo về gầy rộc đi. Anh thế là còn khá.”

“Vâng, tôi còn khá.”

“Anh đang làm gì?”

“Tôi chưa kiếm được việc.”

“Nghề nghiệp chuyên môn là gì?”

“Thợ đụng.”

“Thợ đụng là thợ gì?”

“Ðụng đâu làm đó. Việc gì cũng làm được.”

“Tốt!” Bí thư bưng cốc rượu cười khà khà dễ dãi.

Công an bàn kế bên, nói vói qua: “Ngụy các ông nhiều ma mãnh. Gớm bỏ mẹ. Sang không ra sang, hèn không ra hèn.”

Tôi nói: “Vô sản dứt khoát là hèn.”

“Anh nói gì thế?”

“Tôi nói tôi hèn.”

“Vô sản ám chỉ vào ai?”

“Vào tôi. Tôi trắng tay. Tôi là vô sản.”

“Lý luận quàng xiên hay nhỉ? Khi có đủ vây cánh thì làm con ngáo ộp. Bị chặt hết tay chân thì biến thành con lươn.”

Lời công an như một dằn mặt cảnh cáo. Tôi ngồi im.

Tám Nưa cứu nguy: “Thôi, chào hỏi thế đủ rồi. Vị trí của chú em ở đâu thì về đó.”

Tư bản bóc lột

Bữa giỗ nhà Tám Nưa cũng có cái hay cho tôi. Có người lầm tưởng tôi là kẻ sĩ. Mới đầu, người ấy nói kẻ sĩ thời nay lắm nhục nhằn hơn người xưa. Tôi quay nhìn người vừa nói câu đó, và uống cốc rượu làm quen. Người ấy nói tiếp, lấy cái thước vô hình mà đo cái nhẫn. Nhẫn càng giỏi, giá trị càng cao. Một người nhừa nhựa hơi men, hỏi sao thế? Người ấy nói, gặp sài lang hổ báo, chạy là thượng sách. Ðem cái lý của con người mà tranh biện với thú dữ, là rước họa vào thân. Thực khách ồn ào như giữa chợ. Những người ngồi nơi hai cái bàn ngoài cùng, không nghe những gì người ấy nói. Thế là trước khi ra về, tôi quen với người ấy.

Người ấy tên Trần Xuân Hạnh. Trước kia, ông làm thầy giáo. Sau cuộc đổi đời, ông xoay qua nghề đào giếng. Những đứa học trò dốt nát của ông thời cũ, nhiều thằng bỏ học vô bưng làm cách mạng. Bây giờ, chúng trở về, ngồi trên đầu thiên hạ mà chăn dân. Cũng may, chúng còn nhớ bài đức dục mà ông đã dạy, nên đối với ông, chúng còn chút e dè lễ độ. Chúng cho ông làm công tác dạy văn hóa bổ túc cho cán bộ, để có tiêu chuẩn gạo. Ðời sống ông, vì thế, cũng dễ thở hơn nhiều người khác.

Tôi phụ việc với ông Hạnh, năm ngày thì thạo việc. Quá nửa trưa, ông Hạnh bảo tôi xuống giếng thay ông. Ðáy giếng sâu tối u u. Tôi nghe tiếng rền trong lòng đất như tiếng gầm núi lửa. Ngó lên thấy một khoảng trời tròn lồng khuôn mặt ông Hạnh ngó xuống.

Tôi sợ hãi: “Cho tôi lên.”

“Chưa làm được gì, sao đòi lên?” Tiếng ông Hạnh như từ trời cao vọng xuống hang sâu.

“Tôi ngộp thở.”

Ông Hạnh nhằn: “Thế mà bảo việc gì cũng làm được.”

Tôi choàng dây buộc ngang nách, hai chân chỏi vào thành giếng theo thế bích hổ du tường. Ông Hạnh nắm đầu dây kéo lên. Khi lên mặt đất, mới biết trời vần vũ chuyển mưa, rền vang sấm sét.

Tôi nói: “Tim tôi yếu. Xuống sâu sợ gần địa ngục. Lên cao sợ đụng trời.”

Ông Hạnh hỏi: “Chỗ nào thích hợp với mày?”

“Lưng chừng ở cõi người.”

“Cõi người là địa ngục trần gian đấy.”

Nói xong, ông Hạnh chuẩn bị xuống giếng.

Tôi nói: “Thôi đi ông ơi, trời sắp mưa. Về nghỉ.”

Ông Hạnh nói: “Làm như mày, cám heo cũng không có mà ăn.”

Nói thế, nhưng ông Hạnh cũng thu dọn đồ nghề.

Trên đường về ngang qua những rẫy mía. Mía mới đặt hom, chưa kịp lên mầm. Ðất cày chưa ải mặt, cỏ đã lún phún ngoi lên. Ông Hạnh chỉ những cái giếng ông đã đào lúc trước.

Ông nói: “Vùng đất thấp, đào năm bảy thước là có nước. Vùng cao, phải đào đến mươi thước. Giếng sâu hun hút thấy mà ghê. Người chết dưới giếng, linh hồn không thoát lên được.”

Tôi nói: “Tôi nhạy cảm lắm. Xuống giếng cứ rờn rợn, sợ mình bị chết luôn ở dưới.”

“Nếu chết, tao mời thầy pháp trục vớt linh hồn mày lên.”

“Ông tin thế à?”

“Tao không tin, nhưng nhiều người tin. Cũng như người ta tin rằng kẻ chết trong tù, linh hồn không ra khỏi cổng. Vì thế, phải làm giấy phóng thích để giải thoát linh hồn. Tao còn nghe một chuyện động trời. Có người đi tham quan nước ngoài về kể, tư bản nó bóc lột đến cả người đã chết.”

“Chết rồi, còn bị bóc lột gì nữa?”

“Ấy vậy mà vẫn nói được. Người ấy bảo, tư bản Mỹ bóc lột khiếp hơn hết. Nó bắt linh hồn người chết đứng giữ cửa. Linh hồn thì vô hình nên không ai nhìn thấy, cứ thấy cánh cửa tự động mở khép khi có người ra vô.”

“Chuyện khôi hài. Ai ngu muội gì mà tin là chuyện thật.”

“Nói mãi, cũng có người tin. Như chuyện Tăng Sâm đời xưa ở bên Tàu đấy. Lần đầu có người đến nói với mẹ Tăng Sâm rằng, Tăng Sâm giết người. Bà không tin. Lần thứ hai, cũng có người nói Tăng Sâm giết người. Bà hồ nghi. Lần thứ ba, lại cũng có người nói, Tăng Sâm giết người. Bà sợ hãi, và bỏ chạy.”

Tôi chép miệng: “Khổ thật! không biết bao giờ mới thoát được cái họa tuyên truyền ngu dân.”

Ông Hạnh hỏi: “Mày nói cái gì?”

Tôi lắc đầu: “Không. Chẳng nói gì.”

Ông Hạnh nói: “Từ này về sau, mày ở trên kéo đất. Tao xuống giếng. Hồi mới gặp mày, tao tưởng mày là kẻ sĩ. Gần gũi nhau, thấy mày là thằng lừng khừng.”

Cải tạo xong rồi

Ngày nào cũng phải ăn, nhưng đào giếng không phải lúc nào cũng có việc. Ðời sống đi dần vào thế bí.

Ông Hạnh dẫn tôi đến ban giám hiệu phụ trách chương trình lớp đêm, nơi ông dạy bổ túc văn hóa cho cán bộ. Ông giới thiệu tôi là thi sĩ, và xin dạy học để có tiêu chuẩn gạo.

Những khi rỗi việc, tôi hay nói chuyện thơ văn với ông Hạnh. Ông cho tôi là người có kiến thức văn chương. Nhưng, thật bất ngờ khi tôi được giới thiệu là thi sĩ. Tâng bốc lắm, chỉ tổ làm hư việc.

Người đàn ông ngồi sau chiếc bàn, môi thâm, mặt sắt, tóc hớt cua, trông không có vẻ gì là mô phạm. Ông Hạnh cho biết trước, đây là cán bộ chỉ đạo. Ông ta kéo trễ gọng kính, giương mắt nhìn tôi như quan sát một hiện tượng lạ.

“Thi sĩ à?”

Tôi nói: “Ông Hạnh nói quá lời. Tôi chỉ có chút chữ nghĩa đọc sách thánh hiền.”

Ông Hạnh nói: “Không nên khiêm tốn quá. Thành thật với nhau là hơn.”

Cán bộ nói chậm rãi rõ ràng, nhấn mạnh từng tiếng: “Cán bộ học bổ túc văn hóa, không cần học làm thơ. Chỉ cần biết bốn phép tính cộng trừ nhân chia, đọc thông công văn chỉ thị, và biết ký tên là đủ làm việc. Trong quá trình làm việc sẽ bật ra thơ. Anh đồng ý không nào?”

“Vâng, tôi đồng ý. Nhưng tôi không xin dạy làm thơ.”

“Chứ dạy về gì?”

“Về gì cũng được, ngoài chuyện dạy làm thơ.”

Cán bộ chìa bao thuốc mời ông Hạnh và tôi.

Trầm ngâm một lúc, ông nói: “Chúng tôi đang cần giáo viên, nhưng muốn nhận anh vào phải xét qua lý lịch. Anh về làm bản tự khai kèm theo hai người chứng, rồi mang tới đây. Chúng tôi sẽ họp ủy ban cứu xét. Một mình tôi không quyết định được.”

“Vâng, tôi sẽ viết bản tự khai.”

Tiêu chuẩn mười ba ký gạo hàng tháng, lấp ló ở một tương lai gần. Tình hình có vẻ lạc quan. Tôi mỉm cười ngó ông Hạnh, lòng đầy phấn khởi.

Cán bộ hỏi, sau khi phà một hơi thuốc: “Trước kia, anh làm gì nhỉ?”

Tôi nói: “Làm lính.”

“Bộ đội hả? Ðơn vị nào? Tôi cũng là bộ đội phục viên đây.”

“Tôi lính Việt Nam Cộng Hòa.”

Cán bộ chồm tới, sửng sốt: “Thế à? Sao không đi cải tạo?”

“Tôi cải tạo xong rồi.”

Cán bộ thất vọng, ngửa người ra lưng ghế: “Anh khỏi cần đến đây nạp bản tự khai. Chúng tôi không nhận đâu.”

Tôi cố vớt vát: “Tôi nghĩ cải tạo xong là tẩy não xong, có thể góp phần xây dựng xã hội mới.”

Cán bộ lắc đầu: “Cải tạo là hình thức trừng phạt thôi. Ðầu các anh đóng băng, tẩy não thế nào được!”

Quốc tặc

Thấy tôi cũng là thằng ăn tục nói phét, ông Hạnh không còn cho tôi là kẻ sĩ nữa. Ông nói tôi là người có tài, nhưng tài năng lớn quá, không có chỗ dùng. Ông nói với mọi người như thế. Nói tới nói lui mãi, tôi cũng tin mình có tài thật, dù lúc nhỏ thầy giáo xếp tôi vào loại học trò đần.

Một lần trên chiếu rượu, ông Hạnh thắc mắc: “Chưa bao giờ xã hội ta có nhiều người uống rượu như bây giờ. Không biết tại sao?”

Anh em ngó vào người có tài năng lớn không có chỗ dùng.

Tôi lên gân giải thích: “Xã hội rối rắm lung tung xèng. Tương lai mờ mịt. Con người hoang mang mất hướng đi tới, nên lấy rượu trấn an tinh thần. Các ông ngày ngày cuốc đất, ngó tới ngó lui cũng không ra khỏi mấy cái bờ ruộng. Ðời như thế thì bao giờ ngóc đầu lên được? Ðó là nói người có ruộng. Người không ruộng, đất đâu mà cuốc? Như ông Hạnh với tôi chuyên nghề đào giếng, năm thì mười họa mới có việc. Xuống đáy giếng mà tìm tương lai, có ngày cũng gặp Hà Bá. Mặt đất đã đầy những giếng sâu hố thẳm, đi loạng quạng dễ bị sa chân xuống âm phủ. Chi bằng cứ ẩn nhẫn chờ thời. Thời cơ chưa tới, lấy rượu giải khuây.”

Một ngươi nói: “Tôi chịu lối giải thích này. Nhưng, bao giờ thời cơ tới?”

Tôi lại lên gân: “Khương Thương ngồi câu sông Vị, là chờ thời. Hàn Tín lòn trôn giữa chợ, cũng là chờ thời. Còn chúng ta ư? Có khi phải chờ hết đời. Con cháu lại tiếp tục chờ nữa. Lịch sử biến thiên lúc nhanh lúc chậm. Nhanh thì năm trước năm sau đã thấy khác. Chậm thì đời này qua đời kia vẫn còn khốn khổ.”

”Thời này cũng có nhiều người phất cờ giàu to đấy chứ?”

“Vâng. Phất cờ giàu to thời này là tư bản đỏ. Nhưng cách dùng từ sai. Tư bản là bỏ vốn kinh doanh, để từ đó sinh ra lợi nhuận. Mấy ông kẹ nhà mình có kinh doanh gì đâu? Họ ăn tiền đút lót hối lộ, và dùng quyền lực chiếm đoạt tài sản thiên hạ thì không thể gọi là tư bản, dù xanh hay đỏ.”

“Như thế phải gọi là gì cho đúng nghĩa?”

“Gọi nôm na là ăn cướp. Cướp giựt lẻ tẻ đầu đường xó chợ, là cướp vặt. Cướp có hệ thống đường lối chính sách, là quốc tặc. Người dân biết mình bị cướp, mà không cưỡng vào đâu được. Thế mới kinh!”

Cuộc rượu đêm đó, xoay quanh đề tài quốc tặc. Tôi hừng chí nói năng tự do, mất sự đề cao cảnh giác. Tàn cuộc, tôi say bí tỉ.

Ðèn nhà ai nấy rạng

Cưới vợ ba năm. Vợ chồng không rõ lòng nhau. Tôi đến tuổi cần có vợ, vợ cũng đến tuổi cần có chồng. Thế là lấy nhau. Chẳng tình yêu quái gì.

Tôi là lính hành quân. Ba năm, những lần về phép đếm trên đầu ngón tay. Gặp nhau là quấn lấy nhau. Vội vã vài ngày, để rồi còn chia tay. Thì giờ đâu mà để ý những điều vớ vẩn?

Năm đầu, vợ gọi tôi bằng anh, xưng em. Tôi gọi vợ bằng em, xưng anh. Qua năm sau, vợ gọi tôi bằng anh, xưng tôi. Tôi gọi vợ bằng em, xưng tôi. Năm sau nữa, vợ gọi tôi bằng ông, xưng tôi. Tôi gọi vợ bằng bà, xưng tôi. Theo thời gian, cách gọi vợ chồng cứ thay đổi dần như thế. Và giữ nguyên hai tiếng xưng hô ”ông bà” cho đến bây giờ.

Ba năm. Một hôm, tình cờ vợ khám phá ra tôi làm thơ.

Vợ nói: “Có tờ báo đăng bài thơ của thằng cha nào trùng tên với ông.”

Vợ mở trang báo, chỉ vào bài Tình Cho Em. Lời thơ sướt mướt nhớ thương. Ðó là bài thơ tôi làm cho một con nhỏ người yêu, nhưng không chịu lấy tôi làm chồng.

Tôi nói: “Bài thơ này của tôi làm cho bà, nói lên nỗi nhớ thương trong những ngày đi xa.”

Mới đầu, vợ sung sướng ra mặt. Nhưng sau đó, vợ phá ra cười.

“Mạo nhận. Tôi không tin!”

“Không tin hả?” Tôi không nhìn trang báo, đọc thuộc lòng vanh vách bài thơ, “Bà tin tôi là tác giả chưa?”

Vợ ngẩn ra một lúc: “Người lỗ mãng như ông cũng làm được thơ. Lạ thật!”

“Có gì lạ đâu đâu. Tài làm thơ của tôi giống như chiếc mũi nhọn giấu trong túi áo. Lâu ngày, nó ló ra cho bà thấy.”

“Chẳng bao giờ nghe ông nói tiếng yêu tôi. Vậy mà làm thơ thì nước mắt chứa chan tình cảm. Thơ là giả dối!”

Vợ không hãnh diện về người chồng biết làm thơ, dù đã có lúc gần đạt được danh hiệu thi sĩ.

Cuộc thế bể dâu. Ðời tôi cũng bầm giập đau thương khốn nạn. Mũi nhọn thụt vào trong túi áo. Thơ tịt ngòi.

Ra hải ngoại, muốn học hành cho đỡ nhọc tấm thân, nhưng cái đầu không chịu. Nhồi nhét thứ gì vô, vài ngày sau nó đẩy ra khỏi trí nhớ. Thế là đi làm cu li. Cực tay chân, khỏe đầu óc.

Việc làm bấp bênh. Nay có, mai không. Thất nghiệp ở nhà. Còng lưng viết chuyện cà kê dê ngỗng, viết chuyện đời mình.

Vợ đi chợ, đem về tờ báo quảng cáo địa phương, có đăng bài văn của tôi.

Vợ nói: “Ông bỏ làm thơ, tôi đã mừng. Bây giờ, lại thấy hí hoáy cả ngày. Không ngờ ông viết văn. Làm thơ, chắp tay sau đít, đi qua đi lại. Còn đỡ. Viết văn, bò càng ra mà viết. Khổ ôi là khổ.”

Tôi nói: “Trong cái khổ, có cái sướng.”

“Thất nghiệp. Ðói tới nơi, không biết lo. Ở đó mà viết chuyện bá láp. Kiếp nào mới được thành danh?”

“Từ từ, sẽ có tiếng vang.”

“Người ta viết chuyện ma quỷ. Rùng rợn, hấp dẫn. Viết về hoàn cảnh xã hội éo le gay cấn, tâm lý tình cảm lâm ly bi đát. Ðọc mê luôn. Sách in ra, bán chạy ào ào. Lại còn thu băng đọc truyện, tiền vô như nước. Truyện của ông, tôi vừa đọc vừa ngáp. Cố gắng lắm, cũng chỉ theo dõi được vài trang thì ngủ. Bữa trước, nghe ông nói điện thoại với người bạn nào đó, rằng ông đang gom tiền in sách. Ðừng làm chuyện phá sản nghen. Sách ông bán cho ma!”

Tôi rên: “Bà ơi, tôi bất hạnh đớn đau nhiều rồi. Hãy để tôi làm theo ý thích.”

Vợ nói: “Ý thích trong trách nhiệm gia đình. Tự do trong khuôn khổ luật pháp.”

Tôi giơ hai tay lên trời: “Than ôi! Trên mặt đất, ai người tri kỷ?”

Ðoản văn này, dành trả lời câu hỏi của một bạn đọc: “Theo kinh nghiệm bản thân anh, đời có tí văn nghệ văn gừng làm cho gia đình dễ lục đục, hay hưng phấn hơn?”

Lâm Chương

User avatar
linhgia
Posts: 1308
Joined: Fri Dec 03, 2004 9:30 am

Re: Chuyện Tù Cải Tạo Cộng Sản

Post by linhgia »

Quỷ Loạn

Lâm Chương
--------------------------------------------------------------------------------

Lê Ðiệt, người làng Phước Trạch, huyện Gò Dầu, lúc nhỏ học hành chăm chỉ thông minh, đậu bằng tiểu học, bằng cấp thấp nhất trong ngành giáo dục thời bấy giờ. Khi tuyển sinh vào trường tỉnh, tên của Lê Ðiệt đứng đầu bảng niêm yết kết qủa, nức tiếng học giỏi.
Một lần, Ðiệt đi chơi với đám bạn, ngang qua miếu Thành Hoàng, vô tình, Ðiệt quay măt vào cửa miếu mà đái. Thần quở, về nhà, Ðiệt bệnh mấy ngày, bộ phận sinh dục đau buốt. Cha mẹ Ðiệt biết chuyện, sắm sửa nhang đèn, hoa quả mang đến miếu tạ tội cho con. Ðiệt khỏi bệnh. Một lần khác, Ðiệt đi ngang qua miếu, đứng lại nhìn vào và nói:

“Làm thần thụ hưởng hương khói, không lo vun bồi công đức, phù trì dân làng, chỉ gây nỗi sợ hãi lấy sự hành tội người khác làm điều linh hiển. Mai sau, ta thành đạt, sẽ ra lệnh phá bỏ miếu này!”

Năm hai mươi tuổi, Ðiệt thi tú tài bị hỏng, về nhà đóng cửa, ôn luyện bài vở, quyết tiến thân theo đường khoa bảng. Chữ nghĩa làm Ðiệt mờ mắt, phải mang kính cận. Người làng khen Ðiệt ý chí săt đá. Năm nào mở khoa thi, Ðiệt cũng thi, và cũng hỏng.

Lê Ðiệt có đứa cháu gái. Lúc Ðiệt thi tú tài lần đầu, nó còn bé, vừa lên đệ thất. Mãi đến khi nó thành thiếu nữ, chú cháu cùng vào trường thi tú tài, nó đậu, Ðiệt vẫn hỏng. Nổi giận, Ðiệt quăng bút, xé sách, chửi cả quan trường giám khảo. Ðiệt thề không bao giờ thi nữa.

Ðời Thiệu Nguyễn năm thứ tư, giặc giả nổi lên như châu chấu, bao nhiêu sinh mạng cung ứng cho chiến trường cũng không. Lệnh tổng động viên ban ra, biện pháp gắt gao, đón đường bắt lính. Túng thế, Ðiệt chui vào cửa tu hành, núp bóng từ bi, trốn lính. Ba năm sau, Ðiệt bỏ ra ngoài, luôn mồm chửi rủa. Có người hỏi lý do, Ðiệt nói:

“Chỉ là những thứ dung tục, thối ta, không ngửi nổi. Giáo chủ đã chết mấy ngàn năm rồi, bọn đệ tử đang lao đầu về địa ngục.”

Ðiệt lất phất lang bang, khinh đời, ngạo thế. Ðang dự định trở về làng cũ, ẩn thân làm người sằn dã thì bị tóm cổ lôi vào quân trường. Tập cách bắn giết sơ sơ vài tháng, Ðiệt bị đẩy ra trận mạc. Chưa bắn được viên nào, Ðiệt đào ngũ. Xã hội không chấp nhận con người bất mãn kinh niên. Ðiệt lại bị bắt, và lần này không phải vào quân trường nữa, người ta đưa Ðiệt vào tù.

* * *

Cuối tháng Tư năm Ất Mão, giặc tràn lên như nước vỡ bờ, phất cờ đỏ khắp nơi. Quan quân Thiệu Nguyễn xẻ nghé tan đàn, đạp lên nhau mà chạy ra biển. Một số chết chìm, xác thân làm mồi kình ngạc. Những kẻ chậm chân lần lượt bị xô xuống hầm tai vạ. Nhà tù chế độ cũ bị phá cửa. Tù cũ thoát ra ngoài, trong đó có Ðiệt. Cánh cửa tù mau chóng khép lại vớ những người tù mới. Dân gian thời ấy đã khóc hết nước mắt cho nỗi nghiệt ngã kinh thiên của tù mới.

Khí thế “cách mạng” như dầu sôi. Cuộc đổi đời diễn ra nhanh như cướp cạn. Nền tảng xã hội bị bứng tận gốc. Vô lại, đày tớ, ăn mày... nhảy lên làm ông chủ . Trí phú, địa hào... bỗng chốc hóa thành tên đầu đường xó chợ. Sấm ký rao truyền quỷ loạn. Nhà nhà đóng cửa. Ðêm nghe tiếng ma tru rợn tóc. Qủy đỏ hiện giữa ban ngày, quấy nhiễu. Dân tình ta thán, ám khí xung thiên, mây mù vần vũ, mống trời vắt ngang đỉnh núi. Ðiềm báo thiên tai, chết chóc. Ðiệt kinh hoàng, muốn tìm chỗ ẩn thân. Trước kia, có thể lẩn trốn tu hành. Bây giờ, tất cả đều bị quét sạch, chui xuống đất, trốn trong lùm bụi cũng không khỏi. Người chết còn không yên mồ mả, nói chi người sống.

Phá mả tìm vàng
Cạy nắp áo quan
Huyệt sâu chấn động hồn thiên cổ
Gỗ đá còn đau nhức thấu xương.

Ðiện bị bắt trong đợt truy quét tàn dư Mỹ Ngụy, phải đi học tập chính sách mới một tuần, chủ yếu là tự giác làm tờ khai ba đời lý lịch. Ðiệt khai: Ðời ông, không biết rõ. Ðời cha, không theo thực dân Pháp. Và đời của Ðiệt, bị bắt đi lính nhưng đào ngũ để tỏ rõ tinh thần phản chiến.

Thời “cách mạng” mới vào, ban ngày lo lùng bắt tàn dư Mỹ Ngụy, việc tra hỏi thường diễn ra vào ban đêm. Một đêm, Ðiệt được gọi lên phòng làm việc.

“Phản chiến nghĩa là gì?”

“Chống chiến tranh!”

“Láo! Phản động! Chống cách mạng hả!”

“ Không chống cách mạng.”

“Lý luận một cách logic, cách mạng làm đấu tranh giải phóng. Chống chiến tranh là chống cách mạng! Chống cách mạng là bảo vệ Mỹ Ngụy! Ngươi là ai?”

“Lê Ðiệt!”

“Lê Ðiệt là ai?”Là ta!”

“Quân xỏ lá! Hãy trả lời nghiêm túc! Ta là ai?”

“....”

“Câm hả? Là Ngụy! Hiểu chưa?”

*****

Ðiệt được trả về làng cũ, bắt đi làm xâu công trường thủy lợi. Thót bụng cháo rau, khoai sắn, suốt ngày quần quật giữa chốn đầm lầy nước đọng. Muỗi, đỉa hoành hành hút máu. Keœ đói lao nhao. Thuốc thang không đến tay người bệnh. Thiên tai, mất mùa, lại thêm sưu cao, thuế nặng. Dân lành kêu rên khôn xiết. Khổng Khâu viết Hoàng Thiên hữu nhãn, mà Lão Ðam lại nói Thiên Ðịa bất nhân. Làm người chẳng biết tin ai, kêu trời không thấu, đau khổ nhìn nhau, không dám khóc. Thời ấy, có ông thi sĩ tên Chu Vương Miện, làm thơ tả oán, còn truyền lại đến sau này:

Ta đến đó vùng đất phèn vàng xậm
Cuốc đất cằn trên lớp cỏ tai heo
Ngày mười tiếng khom lưng cùng nước đục
Nào bùn non beng xeœng mũ tai bèo
Yêu quê hương không gì hơn đào kinh
Dẫn nước biển vào đồng bằng phá lúa
Ôi một thuở gạo cơm thành sỏi đá
Ðời văn thơ đi vỡ núi be bờ
Ta ở đó ba năm dài sáu tháng
Ðến tình cờ và ra đi chẳng tiển đưa
Quần áo rách phơi ra lòng no ấm
Chút tự do như cơm sấy trên lò...

Thời Tần Thủy Hoàng, kẻ trọng tội bị khắc chữ lên mặt đày đi xây Vạn Lý Trường Thành đến chết. Thời “cách mạng”, ai mang tiếng Ngụy, ba đời con cháu không ngóc đầu lên được. Ðiệt còn độc thân, quyết không lấy vợ, tuyệt đường con cái, khỏi chịu cái di họa đời sau. Ðiệt nói với người đồng cảnh:

“Ta hối, xưa kia hai thế đối đầu còn đang tranh chấp, ta không chịu tiếp tay diệt lũ vô thần. Bây giờ đã muộn. Ta không thiết sống nữa!”

Người ấy sợ hãi, lãng đi, không dám nghe.

Một ngày, Ðiệt đang cầm xẻng đắp đê. Có hai đốc công đến gần. Bất ngờ Ðiệt vung xẻng chém tét đầu một tên chết tốt. Ðiện bị tên thứ hai bắn gục. Lôi trong túi áo Ðiệt, có một bức thư ngắn như một lời nguyền:

“Ta chết, thề làm ma báo oán kẻ phủ nhận thiên địa qủy thần.”

Ðiệt chết bảy ngày, miếu Thành Hoàng bị phá bỏ. Và không lâu sau đó, những kẻ phá miếu bỗng nằm lăn ra hộc máu tươi mà chết. Có người nói, chúng ăn uống bị trúng độc. Cũng có người nói, chúng bị hồn ma của Ðiệt vật chết.

User avatar
tuyetlanh
Posts: 42
Joined: Thu Dec 02, 2004 5:06 am

Post by tuyetlanh »

.

biểu-tượng bất-khuất và kiêu-hùng của một sĩ-quan QUÂN-LỰC VNCH.


Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG



DƯƠNG VIẾT ĐIỀN

Nói đến cuộc bạo-động trong tù, chúng ta không thể quên được “vụ 20 tháng 04 năm 1979 .”xảy ra tại phân trại 04 thuộc trung-tâm trại “ cải-tạo” Bình-Điền tại tỉnh Thừa-Thiên. Vụ này do một ban tham-mưu gồm 9 Sĩ-quan của QLVNCH chỉ-huy toàn thể 500 tù-nhân trong trại vùng dậy đòi cải-tổ chế-độ lao-tù.
9 sĩ-quan trong ban-tham-mưu đo ùlà:
-Trung-tá Nguyễn tri Tấn : Trung-đoàn phó trung đoàn 2/SĐ3BB
-Thiếu-táVũ ngọc Tụng : Quân-Trấn Đà-lạt
-Thiếu-tá Phạm-Cang : Tiểu đoàn trưởng TQLC
-Thiếu-tá Lê quang Liển : Sĩ-quan TQLC -Thiếu-tá Hoàng Hưng : Sĩ-quan Bộ- Binh -Thiếu-tá Phan văn Lập : Chi-đoàn trưởng Thiết-giáp.
-Đại-uý Trần-Biên : Sĩ-quan truyền-tin SĐ5/BB
-Đại-uý Nguyễn thuận Cát :Sĩ- quan Biệt-động quân
-Đại-uý Nguyễn đình Khương :Tiểu đoàn phóTĐ120 Địa pương quân, tiểu-khu Quảng-trị..

Sau vụ này nhiều anh em tù nhân đã bị bọn công an đánh đập một cách bạo-tàn đến gãy xương,trào máu,bầm gan tím ruột. Nhiều sĩ-quan đã bị chết trong tù sau những trận đòn dã-man vô nhân đạo như Đại-uý Nguyễn văn Báu, Đại-uý Nguyễn thuận Cát, Thiếu-uý Trần hữu Sơn . Còn tất cả 9 sĩ-quan trong ban tham-mưu nói trên đều bị cùm tay,cùm chân gần năm năm trời trong nhà biệt giam. Nếu ai có ở tù tại phân trại 4 thuộc trung –tâm trại “ cải - tạo” Bình-Điền lúc bấy giờ (20 tháng 04 năm 1979 ) mới chứng kiến được cảnh công-an từ dưới ty công an thuộc tỉnh Bình trị Thiên lên tàn sát tù-nhân bất chấp cả bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Chúng đã dã-man,bạo-tàn đánh đấm liên-tục không biết mệt. Sau khi hành nghề đánh,đấm,đá,đạp 3 tiếng đồng hồ,bọn công-an “thợ đấm” bắt đầu rút khỏi trại để lại trong trại 50 tù nhân nằm la-liệt,rên la quằn-quại trên những vũng máu như anh Nguyễn văn Thiện,anh Nguyễn văn Vy,anh Nguyễn hữu Aùi,anh Đôn,anh Nguyễn trung-Việt ,anh Nguyễn hữu Tứ v.v…giống như cảnh ở ngoài chiến -điạ hoang tàn chờ trực-thăng đến bốc xác chết và những người bị-thương vậy.
Chứng kiến cảnh đánh đập một cách man rợ như vậy tất cả tù-nhân trong trại đều căm thù đến uất-nghẹn.Có một sĩ-quan trong phân trại 4 lúc bấy giờ cảm thấy hận thù thêm chất ngất.Mang sẵn trong người giòng máu bất-khuất và anh-hùng của Lê-Lợi, Quang-Trung, giòng máu kiên-cường và dũng-cảm của Trần hưng Đạo,Trần bình Trọng cũng như ý-thức được Trách-nhiệm, Danh-dự vàTổ-quốc, anh nguyện dấn thân lao vào cuộc chiến mới ngay trong ngục-tù Cộng-sản ; Tiếp-tục nuôi-dưỡng ý-chí đấu-tranh đến giọt máu cuối cùng ,ngõ hầu mang vinh-quang về bồi-đắp cho quê mẹ,tô-thắm cho non sông . Bởi vì anh ta biết rằng, chân-lý dù có bị đè bẹp xuống dưới bùn lầy nước đọng rồi cũng sẽ ngóc đầu dậy mĩm cười với trời xanh bất chấp cả thời-gian lẫn không gian. Cho dù anh có thể bị đoạ-đày trong kiếp tù tội thêm 10 hay 20 năm nưã,cho dù anh có thể bị xử bắn theo luật rừng, anh vẫn hiên-ngang bảo-vệ chân-lý đến cùng không một chút nao-núng trong lòng : đó là Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG thuộc Lữ-đoàn 258 TQLC / QLVNCH .Nhận thấy Cộng-sản đã đối xử quá tàn-nhẫn vơí tù-nhân qua chế-độ lao-tù trong các trại “cải-tạo” nhận thấy Cộng-sản đối xử tàn-tệ vơí vợ con cuả tất cả các sĩ-quan cũng như cuả các viên chức thuộc chính-phủ Việt nam Cọng hoà trước đây, nhận thấy Cộng-sản sau khi chiếm được miền Nam vẫn cổ-xuý chiến-tranh gây hấn Kampuchia làm con dân nước Việt chết thêm hàng chục nghìn người,nhận thấy Cộng- sản không chịu thực thi những lời cam-kết mà vẫn làm cho nhân-dân Việt-nam đói khổ sau hơn 10 năm chiếm được miền Nam,Thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG mặc dầu đang ở trong ngục tù Cọng-sản ,quyết-định viết một bức thư gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để yêu-cầu tên thủ-tướng nầy giải-toả những vấn đề nêu trên. Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG ở tù lúc bấy giờ đã hơn 10 năm rồi, nhưng anh vẫn dứt-khoát viết một bức thư gởi tên thủ-tướng Phạm văn Đồng để đại diện cho nhân-dân Việt-nam yêu-cầu chính-phủ Hà-nội xét lại chính-sách cai trị nhân-dân cuả đảng Cộng-sản Việt-nam. Chính Đại-uý Nguyễn đình Khương , Tiểu-đòan phó TĐ 120 Điạ-phương quân, người đã tham gia vụ 20 tháng 04,õ bị Cộng-sản cùm gần 5 năm mới được thả ra,đã được anh Phương móc nối để cùng nhau thảo nên bức thư đó. Lúc anh Khương được đưa từ phân trại 2 về phân trạí 1 thuộc trung tâm trại Bình-Điền, anh Khuơng ngủ sát chỗ nằm với anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG. Lúc bấy giờ, mỗi người chỉ được 45cm chiều ngang để nằm và phải nằm nghiêng mới đủ chỗ nên theo lời thuật lại cuả anh Khương , hai người đã cùng nhau nằm ngủ trong mền để thảo ra bức thư đó. Nội dung bức thư mà anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG gởi lên tên thủ tướng Phạm văn Đồng như sau:
“ …… ……………………………………………………….
………………………………………………….

Xét rằng :
1- Sau khi Cộng-sản chiếm miền Nam Việt-nam vào ngày 30 tháng 04 năm 1975, tất cả sĩ-quan QLVNCH đều bị bắt giam trong các trại “ cải-tạo” mà không xét xử, không tuyên án.. Đây là một hành-động vi-phạm trắng trợn hiệp-định Paris năm 1973 mà chính các ông đã ký kết.
2- Tất cả sĩ-quan QLVNCH trong những trại “ cải-tạo” trên khắp lảnh thổ Việt-nam đều bị đối xử quá tồi-tệ,vô nhân-đạo. Đó là một sự trả thù hèn-hạ,thấp kém,điên-cuồng,mất cả tình người,không đếm xỉa gì đến bản tuyên- ngôn quốc tế nhân –quyền.
3- Gia-đình vợ con của tất cả sĩ-quan QLVNCH cũng bị đối xử quá tồi-tệ :
-Họ bị đày lên rừng thiêng nước độc để sống trong các vùng mệnh danh là kinh-tế mới.
- Tất cả những nhà cửa, tài-sản của nhân- dân miền Nam bị tứơc đoạt một cách công khai,trắng trợn .
- Con cái của các sĩ-quan trong chế-độ cũ đều bị cấm vào học ở tất cả các trường vì bị coi là con của Nguỵ. Lý-lịch 3 đời bị gán cho những thành phần này khiến con cháu họ không thể làm bất cứ việc gì để sinh-sống được.
4- Sau hơn 10 năm đất nước Việt-nam đã thống nhất, nhân-dân Việt-nam vẫn còn đói rách, cơm không đủ ăn áo không đủ mặc . Chiến-tranh vẫn chưa chấm dứt,hoà-bình vẫn chưa xuất hiện trên đất nước Việt-nam.Sự tự-do dân chủ vẫn chưa được thực-thi. Nhân-dân Việt-nam vẫn sống trong lo-âu sợ-hãi. Điều này chứng tỏ Đảng và nhà nước đang thi-hành một chính sách sai lầm hoàn-toàn. Nay yêu cầu Đảng và Nhà nước :
- Thả ngay lập-tức tất cả sĩ-quan và những nhân-viên của chế-độ cũ đang bị giam cầm trái phép và phải đối xử nhân-đạo theo bản tuyên- ngôn nhân-quyền quốc-tế.
- Hãy đối xử nhân-đạo và bình-đẳng với vợ con , gia-đình của tất cả sĩ-quan và những viên-chức trong chế-độ cũ trước đây.Xét lại toàn bộ đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước để toàn dân được no cơm ấm áo và được sống trong một nước hoà-bình,độc-lập,tự-do, dân-chủ thực sự :
- - Thực thi hoà-giải hoà- hợp dân-tộc.
- - Phục hồi lại nền kinh-tế
- - Chấm dứt chiến-tranh
- - Giải toả lệnh bế-quan toả- cảng để thông thương với nước ngoài.
- Làm tại Bình-Điền ngày 19 tháng 6 năm 1985
Ký tên VÕ ĐẰNG PHƯƠNG
Chủ-Tịch Lâm-Thời Phong-Trào Thiết-Lập
Nền Đệ-Tam Cọng-Hoà.

Sau khi viết xong bức thư, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG có ùmời một số sĩ-quan đã tham-gia vụ 20 tháng 04 cùng ký vào bức thư trên. Nhưng sau đó anh nghĩ rằng các anh nầy vừa tham-dự một trận chiến trong ngục-tù quá khốc-liệt nên để cho các anh ấy nghỉ dưỡng quân một thời gian đã. Thế rồi anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG quyết định ký tên một mình. Sau đó anh ghi lại thành 3 bản, một bản anh gởi cho tên thủ-tướng Phạm văn Đồng nhờ trưởng trại chuyển giao, một bản gởi cho tên trưởng trại cải-tạo Bình-Điền nhờ cán bộ trực trại chuyển giao, và một bản lưu .
Sau khi tên trại trưởng trung-tâm trại cải-tạo Bình-Điền là trung-tá Trần văn Truyền nhận được bức thư nói trên , anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG liền bị cùm ngay rồi bị đưa vào ở trong nhà kỷ-luật khoảng 3 tháng trước khi đưa ra toà xét xử. Dĩ-nhiên bức thư của anh PHƯƠNG là một bản án chống lại chế-độ Cộng-sản Hà-nội một cách rõ-rệt nên ban tham mưu cán-bộ trại “ cải- tạo” sau nhiều ngày họp với ty công-an Bình trị Thiên đã quyết định đưa anh ra toà án nhân-dân để xét-xử .
Đứng trước vành móng ngưạ,thiếu- tá TQLC VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đã trả lời một cách khẳng-khái và hùng hồn khiến ai nấy đều cảm phục .Một số nhân- viên làm việc trong toà án đã bỏ dở công việc để chạy vào xem vì thấy “bị-cáo” là một mẫu người thật khí-khái. Cứ mỗi lần quan toà hỏi câu nào, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG không trả lời trực-tiếp,anh giả-bộ nói loanh-quanh để chưởi chế- độ độc-tài đang tác-oai tác quái trên đất nước Việt-nam. Có đoạn anh PHƯƠNG đã nói:
_ Tôi nói đây với tư-cách của người dân thường, nói lên tiếng nói mà những người chung quanh tôi, bạn bè tôi, nhân-dân Việt- nam, không dám nói. Tôi nói có tình có lý, chứ không phải xử-dụng biện-pháp quân sự để đàn-áp.
Nghe anh PHƯƠNG nói vậy, tên quan tòa nói ngay:
_Anh là một thằng sĩ-quan nguỵ không hơn không kém, anh là cái thá gì ? Một triệu nguỵ-quân và chư hầu còn thất- bại nói gì một mình anh.
Nhưng rồi qua một đoạn khác anh PHƯƠNG vẫn hiên-ngang :
_ Các ông làm gì có luật-pháp. Luật-pháp của các ông là luật rừng. Tôi đã ở trong tay các ông thì do các ông quyết-định. Thấy những lời nói hùng-hồn của “bị-cáo” bất lợi cho phiên-toà, tên quan-toà liền chỉ-thị cho “bị-cáo” nói câu cuối cùng. Biết chúng cố-ý không cho nói nhiều, anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG quyết-định cô-đọng lại nhữnh tư-tưởng quan-trọng rồi tiếp-tục ngẩng đầu cao và dõng-dạc trước toà:
_ Ai là kẻ vi-phạm hiệp-định Paris 1973 ?
_ Ai là kẻ đã gây ra chiến-tranh và nghèo đói ?
_ Phạm văn Đồng phải chịu trách –nhiệm hoànø-toàn về việc xé bỏ hiệp-định Paris. Rồi đây nhân-dân Việt-nam cũng như nhân-dân thế-giới đều được biết lời nói cuả tôi trước toà-án này.
Anh VÕÕÏ ĐẰNG PHƯƠNG đang nói thao-thao bất-tuyệt thì tên quan toà đứng lên tuyên-bố chấm dứt phiên-toà để vào nghị-án. Sau khi nghị án , toà tuyên-án anh PHƯƠNG 10 năm tù ở sau khi thi-hành xong án tù “cải-tạo” vì phạm tội “âm-mưu lật đổ chính-qyuền dân-chủ nhân-dân.”. Theo anh Nguyễn kim Chung( đại-uý TQLC ,cũng đã xuất-hiện trong phiên-toà này như một “bị-cáo” vì bị nghi-ngờ có liên-hệ đến vụ này ) , khi nghe đọc bản án , anh Chung nghĩ rằng đây là một bài luận văn viết đâu sẵn từ trước vì nó giống như một bài luận văn trong Quốc văn giáo-khoa thư của chương trình Bộ giáo-dục cho học-sinh học. Còn việc đưa anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG ra toà xét xử chẳng qua chỉ là một việc làm có tính cách hình-thức để đánh lừa quần chúng mà thôi .Như vậy từ năm 1975 đến năm bị đưa ra toà, anh PHƯƠNG đã ở tù được 10 năm. Bây giờ theo lệnh toà-án anh PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữalà 20 năm . Sau khi rời toà-án và bị còng tay đưa lên lại trại “cải-tạo” Bình- Điền để ở tù tiếp, tên trại trưởng trung-tá Trần văn Truyền lúc bấy giờ có khuyên anh PHƯƠNG nên nhún-nhường và phải biết điều hơn ,anh PHƯƠNG đã quát vào mặt tên trại trưởng :
_ Ông đừng có dạy đời tôi nữa, ông biết Trần bình Trọng trong lịch-sử Việt-nam chứ ! Tôi muốn sống như Trần bình Trọng. !
Dĩ-nhiên sau đó thiếu-tá VÕ ĐẰNG PHƯƠNG tiếp-tục ở tù thêm 10 năm nữa trong sự uất-ức và hận thù triền-miên .
Mãi đến năm 1995, anh VÕ ĐẰNH PHƯƠNG mới được Cộng-sản trả tự do khỏi trại cải-tạo Hàm-tân. Lúc trở lại quê nhà, anh bị bạo bệnh kéo dài và hành-hạ do những trận đòn tra tấn dã-man và ác-độc qua những năm tháng quằn-quại trong ngục-tù Cộng-sản để rồi sau đó, anh đã vĩnh-biệt cõi đời trong tức-tưởi và uất- nghẹn vì thù nhà chưa trả ,nợ nước chưa đền .
Qua những hành-động đầy kiên-cường và bất-khuất của Thiếu-tá
VÕ ĐẰNG PHƯƠNG nói trên, ta thấy rằng Sĩ-quan của QLVNCH là thành phần ưu-tú của dân-tộc Việt-nam. Ngay trong ngục-tù Cộng-sản, họ vẫn luôn luôn biểu-lộ tinh-thần Danh-dự, Tổ-quốc,Trách-nhiệm. Anh VÕ ĐẰNG PHƯƠNG đúng là một Sĩ-quan gương –mẫu đã vị quốc vong thân. Tổ-quốc và Quân-Lực Việt-Nam Cọng-Hoà vinh-danh anh .

DƯƠNG VIẾT ĐIỀN

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

.
Hình ảnh trại tù cải tại
- Địa ngục trần gian
- Bạn Tù Sơn La

Phan Lạc Phúc




Hãy xem những hình ảnh này để nhìn rõ hành động dã man của chề độ Cọng Sản Hà Nội.

Image
Hình phạt dành cho người tù cải tạo: Gục ngã vì bị trói quá lâu!


Image
Lao động vinh quang!

Image
Không lao động tốt thì vào chuồng cọp


Bạn Tù Sơn La
Phan lạc Phúc


Trời Sydney năm nay lạnh hơn mọi năm. Đêm đông buốt giá, phải trở dậy kiếm cái heater. Mở đèn lên, nhìn ra ngoài vườn, sương đêm đã đọng thành một màn băng mỏng.

Nhìn màn băng mỏng trên sân, ký ức tôi bỗng trở về cái lạnh buốt xương năm 1976, khi tù cải tạo miền Nam năm đầu tiên ra Bắc. Tụi tôi được "chiếu cố" cho ở Sơn La, địa danh nổi tiếng "Nước Sơn La, ma Vạn Bú". "Sơn La âm u, núi khuất trong sương mù". Tù cải tạo thuộc trại 1, liên trại 2 được phân ra ở trong trại tù Sơn La thời Pháp thuộc. Sau nhiều cuộc biến thiên, nhất là sau vụ némbom miền Bắc, các trại tù này đã đổ nát, chỉ còn lại cái nền xi măng. Nhà tù đãđổ bây giờ được che tạm bằng ni lông, hoặc lợp bằng tranh mỏng. Sơn La là miềncao nên lạnh sớm. Mới tháng 11 gió bấc đã lồng lộng thổi về. Đến cuối tháng 12,lạnh vào cao điểm... Chậu nước để ngoài sân, qua đêm đã đọng thành băng mỏng
bên trên.

Tù thì nóng cũng khổ, lạnh cũng khổ. Nhưng nóng thì đôi khi còn trốn được. Tạt vào một lùm cây hoặc là tạm ngâm mình xuống ao, xuống suối. Còn lạnh thì không trốn vào đâu được, nó theo mình suốt ngày, suốt đêm. Nhất là anh em trong Nam ra cứ yên trí là "học tập một tháng", nên quần áo đem đi làm gì nhiều cho nặng. Ra ngoài Bắc đụng cái buốt giá của mùa đông thượng du miền Bắc, thêm
mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh lại càng thấm thía. Ban đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ thứ áo quần hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo.

Hồi đó nằm cạnh bên tôi là hai người bạn tù cùng trong đội rau... Một ông nguyên là dân Thiết Giáp, một ông nguyên là Thượng Tọa (giám đốc nha Tuyên Úy Phật giáo). Ông Thiết Giáp trước đây vốn là một tay hào hoa rất mực. Ông thuộc loại "Tây con", học trường danh tiếng Saumur, đánh giặc rất chì, ăn chơi rất bảnh... Đôi lần tâm sự vụn, ổng rút trong ngực áo ra có tấm ví có hình một bà rất đẹp, rất mignonne mà khẽ nói "bà xã moi". Đôi mắt đục và nhăn vì đói lạnh của ông chợt sáng lên khi nhìn lại hình ảnh vợ. Mới đây ổng vừa nhận được một gói quà 1kg đầu tiên từ trong Nam gửi ra. Ông hy vọng lắm vì có người nhận được ít thịt khô, ít ruốc chà bông. Gói quà của ông, xem đi xem lại mãi chỉ có một
cái áo lạnh và đặc biệt có hai cái quần slip màu hồng nhạt, chắc là của phái nữ. Tôi không tiện tò mò, hỏi han về việc riêng của bạn nhưng tôi chắc bà xã của bạn phải yêu thương lắm, phải lãng mạn lắm mới gửi món quà để "tưởng nhớ một mùi hương" như vậỵ. Đôi khi rảnh rỗi, ông bạn tù hàng xóm của tôi lại khẽ giở món quà đặc biệt ra hồi tưởng...

Trước đây ông bạn tôi thường hút Lucky. Đi cải tạo ông mang theo một cái pipe Dunhill và vài hộp thuốc Half and Half. Nhưng đã lâu rồi hết thuốc hút pipe, ổng cũng như mọi người khác hút thuốc lào. Quá nửa đời người rồi mới biết cái hấp dẫn của thuốc lào. Nhất là mùa rét, sáng sớm tinh mơ ngồi dậy, hút một
điếu đầu tiên trong ngày, cho nó say lơ mơ quên trời, quên đất, quên cảnh lên voi xuống chó, quên luôn cảnh lưu đày tù tội. Ôi phút tuyệt vời…Thuốc lào hấp dẫn như vậy nên trong tù đã có thành ngữ "Có thuốc lào là có tất cả". Nhưng ở miền Bắc cái cần thiết nhất là gạo, ăn còn không đủ thì lấy đâu ra thuốc lào cho tù. Đành trông chờ vào quà của gia đình gửi tới. Nhưng trong những chuyến gửi quà đầu tiên, có mấy ai được nhận thuốc lào. Thuốc lào thành của hiếm... Ở trong tù cái gì thiếu cũng chấp nhận được, nhưng thiếu thuốc lào là một thiếu thốn rất lớn lao. Thuốc lào không những làm quên hiện tại mà thuốc lào còn là dấu móc để người tù cải tạo thêm kiên nhẫn đi tiếp cuộc đời tù dằng dặc. Trong trại không
có ai có quyền đeo đồng hồ. Phải gửi đồng hồ cũng như những đồ tùy thân có giá ở trại. Ngày ngày đi làm, cuộc sống khổ sai nhọc nhằn, đời tù hun hút, thời gian mịt mờ.

Trong khi đó quy định của trại giam cứ một tiếng rưỡi đồng hồ lao động là có "kẻng" nghỉ 10 phút "hút thuốc, uống nước". Điếu thuốc lào ở trên một cái đích gần gũi để người tù vươn tới, một đoạn đường dù ngắn nhưng sắp đến nơi. Nó cũng là một an ủi nhỏ sau hơn một giờ cực nhọc. Vì vậy nên dù khó kiếm, dù đắt đỏ, cũng không ai muốn bỏ thuốc lào. Những tay có thuốc lào thấy vậy nên càng ngày càng lên giá. Một phần ăn sáng (một phần tư chiếc bánh mì luộc) trước đổi được 5 điếu thuốc lào, sau xuống giá còn 3, rồi còn 2 điếu... Người ta sẵn sàng quên đi cái đói để đổi lấy một vài phút say quên.

Anh bạn tù hàng xóm của tôi, nghiền thuốc lào quá nặng, rét đến nơi mà không thuốc hút. Anh liền lấy cái pipe Dunhill nổi tiếng của Ăng lê ra đổi thuốc lào. Được chừng 10 hôm là hết thuốc. Có người mách lấy lá ngải cứu phơi khô thái nhỏ hút vô nghe được lắm. Anh bạn tôi nghe lời, phơi đi phơi lại lá ngải cứu
trộn thêm với nước điếu và một chút nước mắm, một chút đường. Hôm hoàn thành thuốc lào ngải cứu, anh có mời tôi hút thử, cũng thấy say say nhưng không êm bằng thuốc lào, mà rát cổ họng. Ông bạn tù Thượng tọa mới bảo rằng không nên hút cái giống ấy, hao người, hao phổi. Nhưng anh bạn tôi thèm thuốc quá cứ hút thuốc ngải cứu cho đỡ thèm. Một hôm, vừa hút xong, chưa kịp đặt cái điếu cày xuống,
máu mũi anh đã chảy ròng ròng...

Mùa đông đầu tiên ngoài Bắc, anh bạn tù hào hoa một thuở của tôi vừa đói, vừa lạnh, vừa thèm thuốc. Theo anh thì mùa lạnh ở VN khó chịu hơn bên Tây nhiều mà lạnh nhất là hai cái tai. "Nhiều khi tôi cứ tưởng hai cái tai lạnh cóng của tôi nó rụng mất rồi". Anh vừa nói, vừa run lập cập. Một buổi tối trời vừa
lạnh, vừa mưa, lán lợp giấy nilong, nước mưa giột tí tách, anh bạn tù của tôi chợt có sáng kiến mới. Anh lấy chiếc quần slip của vợ gửi cho chụp lên đầu, kéo sụp xuống tận mí mắt, che kín hai tai. Trong cái chập choạng của một ngọn đèn dầu hỏa, tôi thấy anh "không giống ai", mà trên thế giới này chắc không thể có một cái mũ, cái nón nào ly kỳ đến vậy. Anh nhếch một nụ cười, vừa hài lòng vừa ngượng ngập và khẽ nói: "Cho nó ấm hai cái tai mà đỡ nhớ thương vợ con, ông ạ..."

Dạo ấy, tù cải tạo còn thuộc quyền quân quản, thuộc Bộ quốc phòng, chưa thuộc Bộ nội vụ. Quân đội trông nom tù, chưa phải công an. Anh em chưa phải vào các trại tù mà ở trong các lán, có dây thép gai bao quanh và bộ đội canh gác ở ngoài. Buổi tối chưa có lệ vào phòng giam, xích cửa lại, gióng sắt đưa lên giam tù trong đó suốt đêm, sáng mai mới tháo xích, mở cửa, ăn uống, ỉa đái trong đó luôn như các trại tù công an sau này. Nhưng mỗi tuần vài ba lần thế nào quân đội Vi Xi cũng có kiểm tra đột xuất, mà kiểm tra thường vào ban đêm. Nghe tiếng còi gắt gỏng rít lên là anh em phải vội vàng trở dậy, mắt nhắm mắt mở chạy ra sân đứng xếp hàng 2 để cho cán bộ kiểm soát. Anh "lán trưởng" sau khi kiểm lại số người trong lán, đứng nghiêm báo cáo.

- Báo cáo cán bộ, lán 4 trại 1, 30 người đủ.

Tên Thượng úy chính trị viên cầm đèn pin, đứng cạnh một anh lính mang AK tùy tùng, hất đầu ra lệnh:

- Được, cho vào.

Tù hàng hai lần lượt kéo nhau vô lán. Anh bạn tù Thiết Giáp của tôi đang giở thức giở ngủ nên lật đật cứ đội nguyên cái "mũ" không giống ai ra xếp hàng. Khi anh vừa đi qua tên Thượng úy, chợt có tiếng giật giọng:

- Anh kia đứng nại.

Tất cả anh em vô lán hết, chỉ còn NVP Thiết giáp đứng co ro ngoài cửa. Anh em lắng nghe cuộc đối thoại bên ngoài:

- Cái này là cái gì?

- Dạ... cái quần...

- Ở đâu ra?

- Vợ tôi gửi cho tôi.

- Tại sao mà anh nại đội cái quần của vợ anh...

- Tại trời lạnh quá... mà không có mũ...

- À, anh này bôi bác chế độ. Anh tên gì? Mai nên nàm việc...

Tên Thượng úy Vi Xi này anh em trong trại đặt tên là "Thượng úy Không No". Tuần nào sáng thứ Hai, y cũng lên lớp anh em về mọi thứ chuyện trên trời, dưới biển. Nói thì ngọng líu, ngọng lo, l đánh ra n nhưng lúc nào cũng thở ra giọng "đỉnh cao trí tuệ". Một hôm trong đề tài "an tâm học tập, cải tạo" y ta
lên tiếng: "Các anh không no, gia đình các anh không no, nhân dân không no, đã có đảng và nhà nước no". Mọi khi, y ta nói trời trăng mây nước gì, tù cũng cứ ậm ừ, coi như gác bỏ ngoài tai. Bữa ấy, khi vừa nghe y nói tới đó, đám bạn tù cải tạo bỗng phát lên một trận cười rầm rĩ cũng với tiếng vỗ tay vang dậy. Y ta tưởng bở, lại càng đỏ mặt tía tai lên mà nói tiếp....

Nhưng sau này không biết có tên "thối mồm" nào đó mới lý giải cái cười rôm rả và tiếng vỗ tay không ngớt của tù cải tạo cho y. Y ta giận lắm. Giận lắm nên y hành hạ anh em tù sát ván. Một anh bạn tù đói quá, nhổ trộm khoai mì (sắn) mọc trên sườn non. Trước đây, cái tội như thế này chỉ bị cảnh cáo trước đội, rồi viết kiểm điểm "rút kinh nghiệm" là xong. Kỳ này, chính trị viên "Không no" liền nhốt anh bạn nhổ trộm sắn 1 tuần vào trong cái cũi dây thép gai, một kỳ công của đỉnh cao trí tuệ. Đây là một túp lều, nhưng một túp lều quây bằng dây kẽm gai. Không có tường mái, chỉ có một tấm bạt được coi như mái lều. Ở trong dây thép gai quấn ngang dọc, chằng chịt cao thấp. Người vô ở trong đó phải cẩn thận lắm không thì bị gai cào rách lưng, rách mặt, đặc biệt là ngồi không được vì thấp quá, nằm cũng không được vì không đủ chỗ. Lúc nào cũng phải nửa nằm, nửa ngồi cứ lom khom, lom khom...

Chính trong thời điểm này anh bạn tù Thiết Giáp của tôi lên gặp "y ta làm việc". Khi về NVT mặt mũi chảy dài. Anh cho hay là cán bộ "không no" tuyên bố không cho anh đội cái mũ "thiếu văn hóa" ấy nữa. Anh phải làm kiểm điểm" hứa trước đảng và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh lệnh của cán bộ". Buổi tối, bên ngọn đèn dầu tuôn khói mịt mù, anh bạn thiết giáp của tôi thở phào phào ngồi viết kiểm điểm, vừa viết vừa run vì đói lạnh, vì không có cái mũ che tai... Chợt ông bạn hàng xóm bên phải của tôi là Thượng tọa Thích Thanh Long (nguyên giám đốc nha tuyên úy Phật giáo) từ từ lên tiếng:

- Đừng có lo, rồi đâu có đó...

Nói xong, ông khẽ lục trong đám quần áo của ông lấy ra một tấm áo nâu dài, tấm áo "Thượng tọa" của ông mà đưa cho ông Thiết Giáp.

- Hãy cứ quấn cái áo này lên đầu cho ấm... Rồi ta tính...

Chúng tôi, ông Thượng tọa, ông Thiết Giáp, và tôi, là 3 người trong số 1 tổ "tam tam" trong đội rau. Ba người chúng tôi phụ trách một khu rau ở bên bờ suối, cạnh bệnh xá và khu B dưới gốc cây lim già... Chúng tôi cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm... nên hiểu nhau nhiều lắm. Được làm với ông già này là một điều may mắn lớn. Vì ông Thiết Giáp với tôi, từ xưa đến giờ đâu có biết cày cuốc, trồng rau trồng củ ra làm sao đâu. Ông già Thượng tọa chỉ vẽ cho chúng tôi hết thảy. Từ cách cầm cái cuốc, cái thế đứng khi cuốc phải như thế nào? Cuốc hùng hục "như trâu đánh mả" như tôi là không được. Cuốc như thế là "cuốc lật" dành cho việc cuốc ruộng, cuốc vườn. Ở đây trồng rau thì cuốc phải "đầm", nhẹ nhàng, từ tốn
như mưa dầm, mưa lâu thấm đất. Cuốc hùng hục như tôi thì sức đâu mà cuốc cả ngày cả buổi. Ông cụ còn chỉ cách sử dụng các loại cuốc thật nhỏ, chỉ lớn hơn cái bay thợ nề một chút thôi. Rồi còn ủ phân, pha nước tiểu, tưới bón, trồng trọt... Mỗi loại rau, mỗi thời kỳ đều tưới bón khác nhau, lúc nhỏ tưới bón khác, lúc lớn phải bón thúc lại khác. Bây giờ chúng tôi đang trồng rau cải ngồn ngộn, những trái su hào no tròn... Đi tưới nước giữa hai hàng cây cải tốt tươi, tiếng vòi nước hoa sen dội vào lá cải nghe rào rào, ông cụ ung dung làm việc, thần thái an nhiên. Ngoại cảnh hình như không ảnh hưởng được đến ông cụ. Ông giống như một ông già nhà quê thuần hậu, quanh quẩn bên cây lá trong vườn. Ông hình như không
lo, không sợ cái gì. Ông nói ít, cái câu thường thấy ở ông cụ là: "Đừng có lo, rồi đâu có đó"...

Để cho cái việc của ông bạn Thiết GIáp "đâu có đó" đối phó với anh thượng úy "không no", ông cụ Thanh Long một ngày chủ nhật sau đó liền cắt cái vạt áo dài nâu "Thượng tọa" của ông lấy vải may cho ông bạn Thiết Giáp một cái mũ đội đầu. Bàn tay già nua run rẩy (năm ấy 1976 ông cụ đã 63 tuổi) đường kim mũi chỉ cũng thô sơ vụng về nhưng ông bạn Thiết Giáp đón nhận cái mũ mà rưng rưng xúc động. Ông cụ đã cắt chiếc đạo y ra may mũ. Ai cũng tiếc chiếc áo dài theo ông cụ đã lâu, chắc mang nhiều kỷ niệm tu hành của một vị cao tăng, nhưng ông cụ chỉ cười xòa mà nói: "Thì nó cũng chỉ là cái áo..."

Đã lâu lắm rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay. Đúng là "giậu đổ bìm leo", vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một trận rét kinh hồn... Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có nó có liên hệ "hữu cơ" với nhau. Càng đói thì càng rét - mà càng rét thì càng đói. Anh em ta đã có người "nằm xuống" vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng 17 tháng 11 năm 1976 bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không rõ là ngày 3 hay 13 tháng giêng, tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Quý Thuyết tòa án quân sự vùng 4 cũng đi luôn, đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy thì người đã lạnh
cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của anh NQ Thuyết, có nói rằng "Anh NQ Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói quá nên thường ăn vụng cám heo. Chắc là bị ngộ độc nên đã chết".

Ở xứ thượng du này có cái rất sẵn là đá và cỏ. Những bữa trời quang mây tạnh, trèo lên núi kiếm lá về ủ phân, thấy bát ngát toàn núi là núi. Những chỏm núi gần xa, chập chùng ngút mắt trông giống y như một màng lưới bao la mà mỗi ngọn núi là một mắt lưới. Sơn la: lưới núi. Hay thật, đúng y như thế thật. Tù mà ở trong cái lưới núi này thì chạy đi đâu cho thoát. Vì nhiều núi nên có nhiều loại đá. Một bạn tù trẻ tuổi ở khu B bên cạnh, Vũ Xuân Th. tay biệt kích dù mũ xanh kiệt hiệt có khá nhiều tài: đóng ciné, điêu khắc, vẽ, đánh bóng chuyền có hạng, mưu sinh kỳ tài... Bây giờ Vũ Xuân Th. kiếm ăn lần hồi những khi rảnh rỗi bằng cách chọn đá marble về gọt thành nõ điếu hút thuốc lào. Nõ điếu made in Vũ Xuân Th. thì khỏi nói, vừa đẹp vừa có khắc hoa, khắc chữ (theo yêu cầu) vừa kêu ròn rã không thể tả. Giá rẻ thôi: một ký sắn hay 2 cục đường tán 1 cái. Tôi và Vũ Xuân Th. là chỗ "bồ tèo" nên Vũ Xuân Th. có tặng một cái nõ điếu tuyệt vời: rất kêu (cái này là dĩ nhiên rồi) mặt trước có khắc nổi hình một con diều hâu đậu trên cành thông, một bên là một đóa hoa hồng, một bên nữa là khắc năm tháng... Khi đem tặng cái nõ điếu, Vũ Xuân Th. mới "bốc láo" rằng: "Một đóa hồng cho đại bàng cô đơn đây". "Đại bàng đại biếc gì nữa ông ơi, đáng lẽ ông phải khắc một con quạ già mắc bẫy".

Trong khi đó ông bạn già Thượng tọa của tôi cũng đi kiếm đâu được mấy mảnh đá dài dài. Lúc nào rỗi rãi lại thấy ông cụ ra bờ suối mài mài, đục đục....

Một hôm tôi thấy trong lều dụng cụ của tổ rau tụi tôi, hình dạng hai tấm bia đá thô sơ có khắc tên Vũ Văn Sâm, mất ngày..., Ngô Quý Thuyết mất ngày... Tôi nhấc tấm mộ bia lên, nhìn ông cụ? Ông cụ ngó mông ra khoảng rừng núi chập chùng mà nói: "Thì cũng mong đánh dấu được vài nắm xương tàn."

Một sáng mùa đông vào khoảng nửa buổi, tôi đang lặc lè 2 thùng "ô doa" (arrosoir) tưới nốt cho khoảng vườn rau trước mặt, gần nhà bếp khu B thì bỗng có tiếng gọi khe khẽ, khẩn trương:

- Này, nàỵ

- Ai đấy?


- Vũ Xuân Th. đây.

- Làm gì đấy?


- Bữa này làm "chảo trưởng". Thổi cơm nhà bếp. Ăn cháy không?

Tại sao mà bạn ta hôm nay lại hỏi một câu "thừa thãi" như thế nhỉ. Tôi và Vũ Xuân Th. đều là dân "volley". Tôi thì già rồi còn Th. thì đang sức. Trong làng "bóng chuyền" tụi tôi, mỗi khi mà cây nêu lỡ tay nêu sang lưới bên kia thì dân bóng chuyền kêu bằng "cơm nắm cho tù", nghĩa là đối phương được biếu
không một trái banh ngon lắm, bổ lắm, chắc ăn lắm, ít khi có lắm. Bây giờ chúng ta là tù "chính cống bà lang trọc" rồi, đói lòi xương, vàng mắt mà lại còn hỏi "có ăn cháy không?". Chừng như nhận ra sự vô duyên của mình, Vũ Xuân Th. vội nói:

- Chạy ra góc vườn lấy mảnh lá chuối lại đây.

- Có ngay.


Sau đó từ cái lỗ mắt cáo của hàng rào nhà bếp khu B, qua đám lá duối và dây leo bìm bìm, tôi nhận được từ bạn ta Vũ Xuân Th. một cái gói lá chuối âm ấm, nóng nóng. Để ngay cái gói này áp sát vào bụng, mà đi về dưới gốc lim già bên bờ suối, nơi cái lều nhỏ của tiểu tổ chúng tôi.. Ôi chao, cái làn da bụng lép kẹp của tôi đang được sưởi ấm, đang được phỉnh nịnh. Cái may mắn này ít khi có lắm.
Tôi phi về như bay. "Tây con" Thiết Giáp thấy tôi mặt mày tươi rói liền ngẩng đầu lên hỏi:

- Cái gì mà hí hửng thế?

Tôi bước vô lều, nhìn trước nhìn sau, rút từ trong bụng ra gói lá chuối còn tươm Khói. Mở ra, miếng cháy vàng rộm, nóng hổi, đang bốc hơi.

"Tây con" sáng mắt ra, vội hỏi:

- Ở đâu ra thế?

Tôi chỉ sang khu B mà khẽ nói:

- Bạn vừa cho...

Tôi để phần ông cụ một miếng, ông cụ đang bận tay ngoài chỗ "cây giống". "Tây con" và tôi chia nhau miếng cháy nóng, vừa ăn rau ráu vừa hít hà. Từ sáng đến giờ, mỗi đứa chúng tôi xách ít ra cũng hàng trăm đôi nước, chân tay, mình mẩy rã rời, bởi vì buổi sáng có cái gì vào bụng đâu. Dạo này hết bột mì cứu trợ rồi. Cái gọi là "bữa sáng" chỉ là một chén cháo bột khoai mì loãng đầy mùi hôi mốc. Không ra đâu vào đâu. Mùa lạnh nước suối cạn, phải lần xuống dưới lòng suối mới múc được nước. Leo lên bao bậc đá trơn, tay xách đôi thùng tưới, miệng thở dốc, sức cứ oải dần, tay chân càng lúc càng nặng trĩu, nhấc không muốn nổi. Trời thì lạnh và ẩm. Cái rét thượng du miền Bắc rất thấm, rất sâu. Người Bắc kêu bằng
rét ngọt. "Cái ngọt nó lọt tận xương", lại thêm xách nước nên áo quần thấm nước suối. Cái lạnh bên ngoài cái đói bên trong nó hành mình tơi tả. Đang khi sức cùng lực kiệt, đầu váng mắt hoa như thế thì có miếng cháy nóng này…"Ôi món quà từ trên trời rơi xuống". Chưa có món bánh mì nào trên thế giới có thể sánh được với miếng cháy.

Ông cụ ăn từ tốn, không có ào ào như tụi tôi. Ông cụ làm còn nhiều, còn mạnh hơn tụi tôi nữa mà hình như ông già không thấy mệt mỏi. Lúc nào cũng nhẩn nha, lững thững mà việc gì cũng xong. Ông cụ vẫn nói "từ lúc nhỏ đi tu ở nhà chùa.... thì tôi vẫn làm lụng như thế này, cũng dưa cà như thế này... chỉ tội
nghiệp các ông..." Ông cụ chỉ vẽ cho chúng tôi cách làm vườn, trồng cây, bón tưới... Những công việc gì khó khăn, vất vả ông cụ giành lấy mà làm. Như cái món lấy phân bắc (phân người) về ủ, ông cụ cũng tự tay làm lấy. Hôm nay, sau khi ăn miếng cháy xong, ông cụ khẽ nheo mắt, tay giơ một nhúm thuốc lào mà nói "hút đi". Thuốc lào thật, dẻo quánh, thơm nồng, đâu phải thuốc lào "ngải cứu" hay
thuốc lào "lá cải khô".

- Hút luôn hở cụ. Hay là xái nhì, xái ba?

- Hút luôn đi.


Trong cái lúc thuốc lào khan hiếm như lúc này, nếu có thuốc lào thật, đâu có dám hút luôn cả điếu. Phải hút xái nhì, có khi xái ba, tức là một điếu thuốc mà hút 2 hay 3 người. Người thứ nhất châm lửa, rít một hơi, người thứ 2 rít một hơi, rồi người thứ 3 hơi cuối cùng. Người nào mà được hút cuối cùng là "đặc biệt", vì được hưởng cái hậu, được rít kêu lóc cóc... Hôm nay, trúng số rồi. Vừa được ăn "bữa lỡ", lại có thuốc lào thật rít thẳng tay. Tôi hút xong điếu thuốc lào mà say lừ đừ. Từ mấy bữa nay, hôm nay mới có thuốc lào thật. Còn toàn hút thuốc lào "lá cải già tẩm nước điếu phơi khô". Ăn xong, hút xong thấy đời sáng láng, phơi phới. Tôi liền tà tà đi ra gần chỗ nhà bếp, đằng hắng lấy giọng mà thưa với bạn ta rằng:

"Tương phùng được buổi hôm nay... Trùng phùng lại nhớ giờ này hôm sau".
Tôi nghe thấy tiếng cười rinh rích rồi Vũ Xuân Th. vừa cười, vừa nói vọng ra:

- Được rồi, hiểu rồi... ông nội ... Cứ khoảng giờ này ngày mai ông lại tới đây...Nhưng mà khéo léo đấy nhá.

Thế là cứ vào khoảng nửa buổi, 9 giờ rưỡi mười giờ sáng những ngày sau đó, mỗi khi thấy bạn tôi "chảo trưởng" ra cơm, tiếng xẻng khua xuống chảo gang kêu xoèn xoẹt, là tôi lại lững thững giả vờ bắt sâu bọ, bên bụi ruối... rồi lĩnh từ tay bạn ta một gói cháy vừa chín tới mang về...

Nhưng cái thời gian "bồi dưỡng" này không được bao lâu. Chừng hơn nửa tháng sau, bạn tôi Vũ Xuân Th. đã rời khỏi nhà bếp, ra làm công việc khác. Nguồn tiếp tế của tụi tôi bị cắt. "Phúc bất trùng lai họa vô đơn chí", bạn Thiết Giáp NVP của tụi tôi cũng điều sang đội chăn nuôi. Cái khu rau này, thượng úy không
no" tuyên bố: "Chỉ cần 2 người cũng đủ. Các anh khắc phục". Công việc 3 người làm trước đây đã "bá thở" bây giờ còn lại có 2 người. Ông cụ gần như bao giàn hết công việc cũ của NVP nhưng tôi vẫn phải làm thêm. Nhưng điều đáng phàn nàn là trong thời gian bồi dưỡng vừa qua cái bao tử của tôi nó bắt đầu quen ăn "bữa lỡ"
hồi 9, 10 giờ sáng rồi. Bây giờ "ăn quen nhịn không quen" cứ nửa buổi là tôi phờ phạc, đói mịt mờ, cất chân, cất không muốn nổi. Thấy tôi rũ rượi như "gà chết" ông cụ một bữa nhìn tôi rồi chắt lưỡi: "Đừng có lo..." Ông cụ cầm con dao, xách cái bị cói phăng phăng, chừng nửa giờ sau ông cụ về, đặt phịch cái bị vào trong bếp. Trong cái lều nhỏ của tụi tôi, lúc nào bếp cũng cháy lim dim, vừa để đun nước, hút thuốc vừa để sưởi những lúc nghỉ tay… Bây giờ ông cụ quạt lửa lên, lấy mấy củ sắn ở trong bị ra bỏ vào bếp nướng. Ông cụ bảo tôi ra ngoài coi "động tĩnh". Tôi lại bắt đầu mừng vì có đồ ăn, nhưng lại ghê vì tôi biết ông cụ vừa lên trên đồi lấy sắn của trại. Ở các trại tù hoặc các nơi đóng quân của Vi Xi, ở chung quanh thế nào cũng có một số đất đai thống thuộc. Ở vùng đồng bằng hoặc trung du thì trồng lúa, trồng ngô khoai trồng trà, trên thượng du như Sơn La này thì trồng sắn, trồng ngô, trồng mía. Thứ sắn lưu niên để từ năm này sang năm khác, coi như là nguồn lương thực dự trữ. Đây là thứ cây lương thực dễ trồng nhất trong thiên hạ. Nhổ cây sắn lên lấy một chùm củ. Xong rồi cứ cây sắn ấy lấy dao chặt một gang tay, phải có ít nhất là 3 mắt. Cuốc một nhát cuốc hay lấy dao đào lên, nhét một cái hom lên trên mặt đất. Cứ thế là chừng năm sau, mỗi cái hom lại thành một cây sắn, lại cho một chùm củ. Đất tốt thì củ lớn, đất xấu thì củ nhỏ. Trong những thứ lương thực ở trại tù miền Bắc, sắn được xếp vào hạng bét.
Chỉ tiêu, cân đo, đong, đếm của lương thực là 1 gạo ăn 2 ngô, hay là 3 khoai, hay là 4 sắn. Dù là hạng bét nhưng đối với tù đói nhăn răng, nó vẫn là rất quý.
Tù mà động đến sắn, ngôi, khoai của trại... là xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa". Nhất là trong khi thượng úy "Không no" cứ như cái bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chuyên môn rình rập theo dõi anh em. Đó là nghề của hắn.
Tôi có một anh bạn cùng khóa, NKB xưa nay tính tình "nhà binh" cho đến tận kẽ răng. "Reglo" số 1, việc làm răng rắc quần áo là ủi thẳng tắp, giầy bottle de saut bóng láng, huy chương đeo một dề, xe díp bóng ngời nệm trắng tinh tươm. Đi cải tạo ra Bắc bây giờ bạn tôi, không biết vì không hợp thủy thổ hoặc đói khát ra sao mà răng rụng hết, thành một ông già móm xọm. Nhưng bạn tôi lại thèm đường thèm mật quá. Ở gần khu trại mộc của đội anh có một khu trồng mía.
Mía cứ bị bẻ trộm hoài, thượng úy "không no" rình rập mãi mà không bắt được ai.
Một bữa, thượng úy thấy thấp thoáng bóng người trong ruộng mía liền nhảy ra bắt
giữ. Gặp ông bạn móm xọm của tôi.

- Anh vào đây nàm gì? Ăn trộm mía phải không?

- Tôi đi kiếm rau "tàu bay", tôi đâu có ăn trộm mía.


- Không ăn trộm mía vào đây để làm gì?

Anh bạn tôi liền há mồm ra, chỉ vào hai hàng lợi không răng mà phều phào nói:

- Tôi đâu còn răng mà ăn mía.

Thượng úy "không no" thấy vậy, không còn bắt bẻ vào đâu được nữa nên vùng vằng bỏ đi. Nhưng y ta nhất quyết bắt cho bằng được người ăn cắp mía. Một bữa không biết y ta đến từ bao giờ, cải trang ẩn dạng ra sao mà ông bạn móm của tôi vào chặt một cây mía là bị y ta bắt được ngay tại trận. Y rất bằng lòng về chiến công "bắt trộm" của mình. Bạn tôi quá thiếu chất đường (cũng như hầu hết các tù cải tạo thèm chất ngọt và thèm mỡ) nên thường lén vô ruộng mía, đem dao chặt vội một vài đẫn, nhét vào người mang về. Lấy dao dóc mía, chẻ mía ra từng miếng nhỏ đưa vào miệng không răng mà nhần, mà ngậm. Nó cũng khỏe lên được phần nào. Còn vỏ mía thì phải chôn xuống đất ngoài vườn.

Ngay bữa bắt được kẻ trộm mía, thượng úy "không no" liền biểu diễn quyền uy của mình bằng cách khác; không có giam tội nhân vào cái cũi dây kẽm gai mà y bắt ông bạn không răng của tôi cầm nguyên một cây mía đứng riêng ở ngoài cổng trại. Y ta nói: "Hãy nhìn cho kỹ đi, thượng cấp của các anh đấy". Anh em đi làm về đều thấy ông bạn tù gì, cầm cây mía đứng lom khom, cúi mặt không dám nhìn ai.
Ai cũng thương anh.... đồng cảm với anh vì đi tù cải tạo trăm người như một đều phải "cải thiện" cách này, cách khác. Con người "một động vật xã hội", nên "đói là đầu gối phải bò". Thế thôi, chả ai coi thường, chả ai bỉ thử anh đâu. Nhưng tôi biết, bạn tôi vốn trọng phép tắc lễ nghi nên bạn tôi đau lắm.

Do vậy nên bây giờ thấy ông bạn già Thượng tọa đi lấy trộm sắn về cho tôi ăn vì tôi thèm quá, đói quá, tôi vẫn cứ ghê ghê trong bụng. Thượng úy "không no" mà bắt được, không biết y ta sẽ hành hạ mình cách nào đây? Nhưng sợ bị bắt là cái lo xa. Còn đói cồn cào ruột gan là cái lo gần. Thế thì ta hãy cứ ăn cái đã. Đang đói bụng mà lại có sắn lùi bếp than thì nhất thế giới rồi. Tôi cứ chạp thẳng cánh. Ông cụ đi lấy sắn, nướng sắn mà ông cụ có ăn bao nhiêu đâu. Tôi ăn phần lớn. Và sau đó cứ vào khoảng 9, 10 giờ sáng, tưới bón xong là ông cụ xách cái bị đi ra. Lúc thì sắn lúc thì khoai, lúc thì củ giong... Tôi cứ có ăn đều đặn.

Bạn "Tây con" Thiết Giáp NVP phải đổi sang đội chăn nuôi, trong cái rủi lại có cái may. Bên ấy có công tác lên rừng đẵn cây chuối hột về cho heo ăn. Được ra ngoài thuộc "diện rộng" đi xa xa, gặp được 'đồng bàó nên mới có cơ hội kiếm ăn, đổi chác. Vắng mặt tên quản giáo, len lén đem được một cái quần tây,
một cái ao pull, một cái kính, một cái bật lửa... đem "quy ra thóc" lấy xôi, lấy cơm mắm... hoặc 'quy ra thuốc' lấy thuốc lào... đều được cả, thành ra tụi tôi dạo này có vẻ "phong lưu" hơn trước.

Một bữa lấy sắn về ông cụ đang ngồi trong lều, quạt đang đều tay, sắn đã bắt đầu chín bốc mùi thơm ngậy, tôi đã chực sẵn đến giờ ăn, thì bỗng có tiếng động nhẹ đằng sau. Tôi quay lại thì thấy đôi ủng màu đen đã đứng sau lưng tự lúc nào rồi. Tôi chết sững. Thượng úy "không no" đã tới.

- Biết ngay mà, cứ vào khoảng 10 giờ nà cái nều này có khói. - Thượng úy "không no" đắc chí.

Tôi cứng họng không biết nói năng gì, tâm thần hoảng hốt. Ông già thượng tọa của tôi, khẽ ngước lên, nhìn thượng úy "không no" rồi điềm đạm nói:

- Cán bộ thứ cho. Anh em chúng tôi... đói quá...

Giọng nói ông bình tĩnh, người ông vẫn ngồi vững vàng, cái tay quạt sắn vẫn đều đặn không thay đổi, không cuống quýt, mà cũng không ngừng nghỉ.

- Như thế này là nâu rồi đấy nhá. Không phải chỉ một hôm nay mà thôi đâu?

Thượng úy "không no" vừa nói vừa quay ra xem xét, kiểm soát căn lều.
Chợt y thấy hai cái mộ bia mà ông già Thượng tọa của tôi mới đục xong còn để đó. "Vũ Văn Sâm mất ngày...", "Ngô Quý Thuyết mất ngày..." Y đọc mộ bia xong nhìn chúng tôi, một anh tù già tóc bạc phơ, một anh tù trung niên xác xơ ốm đói. Hình như có một suy nghĩ gì đó thoáng qua, nên nét mặt y có vẻ đắn đo, xong rồi y lững thững đi ra mà nói:

- Sau không được thế nữa nhá. Ninh tinh.

... Cho đến bây giờ không biết vì lý do nào mà tên thượng úy hầm hừ ấy đã bỏ qua cho chúng tôi. Có thể vì những tấm mộ bia, nghĩ đến những người anh em xấu số của chúng tôi đã chết vì đói lạnh... hoặc là phong thái "đại hùng, đại lực, đại từ bi" của con nhà Phật trong phút giây nào đó đã khơi dậy được "chút tính người còn sót lại" trong y ?



Phan lạc Phúc
( bản nguyên tác của người viết)

.

Post Reply