Tạp Ghi , Chuyện Phiếm , Chuyện Vui Hàng Ngày
Những cái cột đèn
Huy Phương Thời thơ ấu, ở trong một thành phố nhỏ, có hai thứ âm thanh luôn luôn ám ảnh tôi, đó là tiếng chuông chùa và tiếng còi tàu. Trong khi tiếng chuông chùa mang lại sự thanh thản, an nhiên cho những cuộc đời thầm lặng thì tiếng còi tàu luôn luôn thúc giục, kêu gọi thoát ra khỏi những cảnh đời trói buộc, như lời vẫy gọi cho những chuyến đi xa.
Một cột đèn tiêu biểu ở Hà Nội, Việt Nam. Những chiếc loa được gắn trên cột đèn
là một thói quen phát xuất từ thập niên 1960, vì nhu cầu tuyên truyền của cuộc
chiến thời đó. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Chẳng bao giờ “tôi thấy tôi thương những chuyến tàu,” trái lại từ sân ga, tôi thấy con tàu luôn luôn hăm hở như muốn bứt xiềng lao về phía trước. Tiếng máy phì phò, rít lên từng chặp như chính nó không chịu nỗi kìm hãm ngột ngạt, muốn bung ra, chạy về phía chân trời xa lạ, nhưng hẳn là mênh mông, đầy hy vọng.
Con tàu sẽ đi qua những cánh đồng bát ngát, hít thở lấy mùi vị của cỏ cây, đồng nội; con tàu sẽ chạy qua những nhịp cầu với dòng sông còn ngái ngủ, phủ đầy màn sương buổi sáng; con tàu sẽ chạy đến những thành phố xa lạ, mái ngói lô nhô đầy ánh nắng, gửi những tiếng còi dội vào vách núi, tỏa ra trên bờ cát trắng đang được vỗ về bởi những đợt sóng biển nhẹ nhàng.
Tôi có những người bạn đã may mắn, một ngày lên những con tàu ấy để ra đi. Khi trở lại, họ đã là một con người khác, những thay đổi dưới mắt tôi, là sự tươi tắn, tự tin và cả cuộc sống mới đã làm tôi thèm thuồng, mơ ước.
Còn tôi, trong tuổi ấu thơ, tôi trở về dưới mái nhà tù mù ánh điện vàng, ngạt thở với cái gia đình, nơi đó, tôi đã sinh ra và lớn lên. Mái ấm gia đình nào cũng thân quen, hiền hậu, quyến luyến, không ai muốn bỏ đi, nhưng với tôi là một khung cảnh buồn thảm, phiền muộn.
Những đứa trẻ vừa mới lên quá tuổi mười lăm vẫn thường ghét gia đình cũng như tâm trạng một người vừa đến tuổi trưởng thành muốn rời bỏ thành phố mình đang ở để đi đến một nơi khác. Cho đến một ngày kia, tôi đã được lên con tàu ấy, khởi đầu cho một chuyến đi xa. Rồi con tàu bỏ nhà ga, để lại tất cả ngôi nhà, con sông, chiếc cầu, những khuôn mặt thân quen, bạn bè, cùng những kỷ niệm của thời học trò. Tất cả hình ảnh hai bên con tàu đều chạy giật lùi về phía sau, xa dần, rồi khuất trong tầm mắt. Tôi không hề tiếc nuối, lưu luyến những gì giờ đây đã ở lại sau làn khói đen. Con tàu chạy mãi về phía trước, đi xa và xa mãi.
Không những chỉ đến Sài Gòn, từ Sài Gòn tôi đã vượt qua đại dương, đi hết nửa vòng trái đất, để đến những phương trời xa lạ, được tự do thở hơi mặn nồng của gió biển đại dương, hay may mắn nghe hương thơm của những cánh rừng lục địa.
Tôi có nhiều người bạn thời thơ ấu, sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà của cha mẹ, khi cha mẹ qua đời ở lại trong ngôi nhà ấy. Người bạn này trở thành thầy giáo và trở lại dạy ở ngôi trường cũ mình học, kết hôn với một cô giáo cùng trường và nuôi con cũng lớn lên trong ngôi nhà cũ, mái ngói đã rêu phong ấy. Ngôi nhà mà hai mươi năm về trước tôi đã đứng ở ngoài cổng gọi tên anh cùng đi học, hai mươi năm sau, trở về thành phố cũ, tìm thăm lại bạn ngày xưa, cũng đã gặp lại anh trong ngôi nhà ấy, có thể cũng được ngồi lại trên bộ “trường kỷ” ngày xửa ngày xưa ấy. Có khác chăng là chúng tôi đã lớn lên, trưởng thành mỗi người mỗi cách, và gần như định mệnh đã trói buộc anh, gần nửa cuộc đời, gắn bó với những gì, mà có lẽ đối với tôi, đã trở thành dĩ vãng. Trong câu chuyện, người bạn cũ của tôi đã thổ lộ ý nghĩ của anh, là được như tôi, không phải vì cái địa vị hay công việc tầm thường của tôi, mà chuyện được đi xa và sống xa cái thành phố này.
Đối với cư dân Huế, được sống ở Sài Gòn đã là một điều mơ ước. Đối với người Sài Gòn, những người vượt qua đại dương, đi đến những phương trời xa lạ, hẳn cuộc sống phải tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Trong cảnh đời thay đổi, nay sống, mai chết, cơn lốc của chiến tranh đã chia lìa, xô đẩy người ta đi xa, từ một ngọn nguồn, chia ra làm trăm hướng. Có những sự thay đổi khốc liệt đến ngỡ ngàng, đau xót, cảnh “thương hải, tang điền,” chuyện “sông kia rày đã nên đồng,”để một đêm trở mình xót xa thế sự, “giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!”
Thế nhưng vẫn có những người ở một chỗ, đứng một nơi, vẫn có những cuộc đời bất di bất dịch như một cái nhà ga nhỏ, ở một quận lỵ xa xôi nào đó, chứng kiến biết bao những chuyến tàu đi qua, hối hả với những tiếng máy hào hển, nhả những tàng khói đen trở lại, trong khi nhà ga vẫn đứng đó nhìn theo, và vì nhà ga không có đôi mắt nên không cảm thấy hơi cay mà nhỏ lệ.
Câu chuyện này làm tôi liên tưởng người cô già, trong khi anh em, con cháu đã tản mác hay lưu lạc bốn phương trời, cô vẫn còn ở đó, dưới mái từ đường cũ nát, nơi cô đã sinh ra và lớn lên, chịu cảnh thiệt thòi góa bụa, để lo hương khói và mồ mả cho ông bà, cha mẹ. Không có cô, ai còn lo được chuyện này!
Tôi còn nhớ rõ người đàn bà ngồi bán vé sau “guichet” của rạp chiếu bóng thường trực Vĩnh Lợi trên đường Bonard ngày nào, sau ngày gần một triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Tôi nhớ rõ khuôn mặt và hình ảnh của bà, trong những ngày bỏ học cùng bạn bè chui vào rạp giữa một ngày Sài Gòn nóng bức. Lúc nào cũng thấy bà mặc một bộ y phục màu đen, không hề nghe bà nói, cũng chẳng bao giờ thấy bà cười. Hơn mười năm sau, sau khi lập gia đình, sinh con đẻ cái, vào quân đội, đi nhiều nơi, một ngày trở về thành phố, ngang qua rạp Vĩnh Lợi ngày xưa, tôi vẫn thấy bà lặng lẽ ngồi đó, như tôi đã thấy bà nhiều năm về trước. Hình như mọi sự thay đổi, xáo trộn ở ngoài kia, bà không có can dự hay bà không cần biết tới.
Tôi nghĩ đến những cái cột đèn cùng những số phận của nó.
Ngày xưa ở cái thành phố nhỏ, nhà chật, trời nóng, nhiều muỗi, lũ trẻ vẫn thường đem sách ra ngồi dưới vùng ánh sáng của ngọn đèn đường để học bài. Rồi lũ trẻ lớn lên, đỗ đạt, ra đời, mỗi người đi mỗi hướng, già đi hay thay đổi cùng thời gian. Chúng đã trở lại cái xóm cũ ấy đã bao lần, nhưng vô tâm, thờ ơ, có bao giờ nhớ tới hay nghĩ tới cái cột đèn ngày xưa đã cho bọn trẻ một vùng ánh sáng của chữ nghĩa trong thời thơ ấu.
Bây giờ những chiếc cột đèn không còn mang nguồn ánh sáng vàng vọt nữa, mà tràn đầy một vùng ánh sáng của ngọn đèn huỳnh quang, nhưng vẫn chôn chân nơi ấy, như mỗi số phận đã được an bài cho mỗi người.
Cũng những cái cột đèn đó, trên mình đã mang bao nhiêu khẩu hiệu, qua thời gian và thời đại, được cột trên mình với bao nhiêu sợi thép cứng, da thịt là vôi vữa trên thân thể đôi khi đã vỡ nát, có nơi lòi cả bộ xương sắt thép đã hoen rỉ.
Có những cái cột đèn mà số kiếp đọa đày, bỗng dưng một ngày nọ chịu mang trên mình bao nhiêu chiếc loa nặng nề, để từ đó nhận bao nhiêu lời nguyền rủa. Có thể ngày xưa, những chiếc cột đèn đó đã mang lại ánh sáng cho những vùng tăm tối, nhưng ngày nay chúng mang lại tai họa cho mọi người trong thành phố, với những âm thanh cuồng nộ, chát chúa, như giọng sủa hỗn xược của những con chó muốn chồm đầu vào khung cửa nhà người khác.
Có những chiếc cột đèn mà số phận hẩm hiu sinh ra và nằm cạnh chiếc cửa sổ nhà ai, có thể ngày xưa đã có lần hãnh diện, dù đêm đã khuya, còn rọi ánh sáng vào căn phòng của cô tiểu thơ nhà nọ, nhưng hôm nay lại mang đại họa lại cho cả gia đình này, khi mà người ta không thể bỏ đi, chạy trốn số phận cay nghiệt của định mệnh, đành phải ở lại với tai ương suốt cuộc đời còn lại.
Những cái cột đèn đã bị chôn chân, bị trói tay, không đường vùng vẫy, cựa quậy.
Những cái cột đèn chờ một trận động đất, một cơn bão lửa, hay một trận cuồng phong.
Tôi thấy tôi thương cho những cái cột đèn!
Những cái cột đèn chôn mình suốt đời theo cùng số phận.
Huy Phương Thời thơ ấu, ở trong một thành phố nhỏ, có hai thứ âm thanh luôn luôn ám ảnh tôi, đó là tiếng chuông chùa và tiếng còi tàu. Trong khi tiếng chuông chùa mang lại sự thanh thản, an nhiên cho những cuộc đời thầm lặng thì tiếng còi tàu luôn luôn thúc giục, kêu gọi thoát ra khỏi những cảnh đời trói buộc, như lời vẫy gọi cho những chuyến đi xa.
Một cột đèn tiêu biểu ở Hà Nội, Việt Nam. Những chiếc loa được gắn trên cột đèn
là một thói quen phát xuất từ thập niên 1960, vì nhu cầu tuyên truyền của cuộc
chiến thời đó. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)
Chẳng bao giờ “tôi thấy tôi thương những chuyến tàu,” trái lại từ sân ga, tôi thấy con tàu luôn luôn hăm hở như muốn bứt xiềng lao về phía trước. Tiếng máy phì phò, rít lên từng chặp như chính nó không chịu nỗi kìm hãm ngột ngạt, muốn bung ra, chạy về phía chân trời xa lạ, nhưng hẳn là mênh mông, đầy hy vọng.
Con tàu sẽ đi qua những cánh đồng bát ngát, hít thở lấy mùi vị của cỏ cây, đồng nội; con tàu sẽ chạy qua những nhịp cầu với dòng sông còn ngái ngủ, phủ đầy màn sương buổi sáng; con tàu sẽ chạy đến những thành phố xa lạ, mái ngói lô nhô đầy ánh nắng, gửi những tiếng còi dội vào vách núi, tỏa ra trên bờ cát trắng đang được vỗ về bởi những đợt sóng biển nhẹ nhàng.
Tôi có những người bạn đã may mắn, một ngày lên những con tàu ấy để ra đi. Khi trở lại, họ đã là một con người khác, những thay đổi dưới mắt tôi, là sự tươi tắn, tự tin và cả cuộc sống mới đã làm tôi thèm thuồng, mơ ước.
Còn tôi, trong tuổi ấu thơ, tôi trở về dưới mái nhà tù mù ánh điện vàng, ngạt thở với cái gia đình, nơi đó, tôi đã sinh ra và lớn lên. Mái ấm gia đình nào cũng thân quen, hiền hậu, quyến luyến, không ai muốn bỏ đi, nhưng với tôi là một khung cảnh buồn thảm, phiền muộn.
Những đứa trẻ vừa mới lên quá tuổi mười lăm vẫn thường ghét gia đình cũng như tâm trạng một người vừa đến tuổi trưởng thành muốn rời bỏ thành phố mình đang ở để đi đến một nơi khác. Cho đến một ngày kia, tôi đã được lên con tàu ấy, khởi đầu cho một chuyến đi xa. Rồi con tàu bỏ nhà ga, để lại tất cả ngôi nhà, con sông, chiếc cầu, những khuôn mặt thân quen, bạn bè, cùng những kỷ niệm của thời học trò. Tất cả hình ảnh hai bên con tàu đều chạy giật lùi về phía sau, xa dần, rồi khuất trong tầm mắt. Tôi không hề tiếc nuối, lưu luyến những gì giờ đây đã ở lại sau làn khói đen. Con tàu chạy mãi về phía trước, đi xa và xa mãi.
Không những chỉ đến Sài Gòn, từ Sài Gòn tôi đã vượt qua đại dương, đi hết nửa vòng trái đất, để đến những phương trời xa lạ, được tự do thở hơi mặn nồng của gió biển đại dương, hay may mắn nghe hương thơm của những cánh rừng lục địa.
Tôi có nhiều người bạn thời thơ ấu, sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà của cha mẹ, khi cha mẹ qua đời ở lại trong ngôi nhà ấy. Người bạn này trở thành thầy giáo và trở lại dạy ở ngôi trường cũ mình học, kết hôn với một cô giáo cùng trường và nuôi con cũng lớn lên trong ngôi nhà cũ, mái ngói đã rêu phong ấy. Ngôi nhà mà hai mươi năm về trước tôi đã đứng ở ngoài cổng gọi tên anh cùng đi học, hai mươi năm sau, trở về thành phố cũ, tìm thăm lại bạn ngày xưa, cũng đã gặp lại anh trong ngôi nhà ấy, có thể cũng được ngồi lại trên bộ “trường kỷ” ngày xửa ngày xưa ấy. Có khác chăng là chúng tôi đã lớn lên, trưởng thành mỗi người mỗi cách, và gần như định mệnh đã trói buộc anh, gần nửa cuộc đời, gắn bó với những gì, mà có lẽ đối với tôi, đã trở thành dĩ vãng. Trong câu chuyện, người bạn cũ của tôi đã thổ lộ ý nghĩ của anh, là được như tôi, không phải vì cái địa vị hay công việc tầm thường của tôi, mà chuyện được đi xa và sống xa cái thành phố này.
Đối với cư dân Huế, được sống ở Sài Gòn đã là một điều mơ ước. Đối với người Sài Gòn, những người vượt qua đại dương, đi đến những phương trời xa lạ, hẳn cuộc sống phải tốt đẹp, hạnh phúc hơn.
Trong cảnh đời thay đổi, nay sống, mai chết, cơn lốc của chiến tranh đã chia lìa, xô đẩy người ta đi xa, từ một ngọn nguồn, chia ra làm trăm hướng. Có những sự thay đổi khốc liệt đến ngỡ ngàng, đau xót, cảnh “thương hải, tang điền,” chuyện “sông kia rày đã nên đồng,”để một đêm trở mình xót xa thế sự, “giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò!”
Thế nhưng vẫn có những người ở một chỗ, đứng một nơi, vẫn có những cuộc đời bất di bất dịch như một cái nhà ga nhỏ, ở một quận lỵ xa xôi nào đó, chứng kiến biết bao những chuyến tàu đi qua, hối hả với những tiếng máy hào hển, nhả những tàng khói đen trở lại, trong khi nhà ga vẫn đứng đó nhìn theo, và vì nhà ga không có đôi mắt nên không cảm thấy hơi cay mà nhỏ lệ.
Câu chuyện này làm tôi liên tưởng người cô già, trong khi anh em, con cháu đã tản mác hay lưu lạc bốn phương trời, cô vẫn còn ở đó, dưới mái từ đường cũ nát, nơi cô đã sinh ra và lớn lên, chịu cảnh thiệt thòi góa bụa, để lo hương khói và mồ mả cho ông bà, cha mẹ. Không có cô, ai còn lo được chuyện này!
Tôi còn nhớ rõ người đàn bà ngồi bán vé sau “guichet” của rạp chiếu bóng thường trực Vĩnh Lợi trên đường Bonard ngày nào, sau ngày gần một triệu người bỏ miền Bắc di cư vào Nam. Tôi nhớ rõ khuôn mặt và hình ảnh của bà, trong những ngày bỏ học cùng bạn bè chui vào rạp giữa một ngày Sài Gòn nóng bức. Lúc nào cũng thấy bà mặc một bộ y phục màu đen, không hề nghe bà nói, cũng chẳng bao giờ thấy bà cười. Hơn mười năm sau, sau khi lập gia đình, sinh con đẻ cái, vào quân đội, đi nhiều nơi, một ngày trở về thành phố, ngang qua rạp Vĩnh Lợi ngày xưa, tôi vẫn thấy bà lặng lẽ ngồi đó, như tôi đã thấy bà nhiều năm về trước. Hình như mọi sự thay đổi, xáo trộn ở ngoài kia, bà không có can dự hay bà không cần biết tới.
Tôi nghĩ đến những cái cột đèn cùng những số phận của nó.
Ngày xưa ở cái thành phố nhỏ, nhà chật, trời nóng, nhiều muỗi, lũ trẻ vẫn thường đem sách ra ngồi dưới vùng ánh sáng của ngọn đèn đường để học bài. Rồi lũ trẻ lớn lên, đỗ đạt, ra đời, mỗi người đi mỗi hướng, già đi hay thay đổi cùng thời gian. Chúng đã trở lại cái xóm cũ ấy đã bao lần, nhưng vô tâm, thờ ơ, có bao giờ nhớ tới hay nghĩ tới cái cột đèn ngày xưa đã cho bọn trẻ một vùng ánh sáng của chữ nghĩa trong thời thơ ấu.
Bây giờ những chiếc cột đèn không còn mang nguồn ánh sáng vàng vọt nữa, mà tràn đầy một vùng ánh sáng của ngọn đèn huỳnh quang, nhưng vẫn chôn chân nơi ấy, như mỗi số phận đã được an bài cho mỗi người.
Cũng những cái cột đèn đó, trên mình đã mang bao nhiêu khẩu hiệu, qua thời gian và thời đại, được cột trên mình với bao nhiêu sợi thép cứng, da thịt là vôi vữa trên thân thể đôi khi đã vỡ nát, có nơi lòi cả bộ xương sắt thép đã hoen rỉ.
Có những cái cột đèn mà số kiếp đọa đày, bỗng dưng một ngày nọ chịu mang trên mình bao nhiêu chiếc loa nặng nề, để từ đó nhận bao nhiêu lời nguyền rủa. Có thể ngày xưa, những chiếc cột đèn đó đã mang lại ánh sáng cho những vùng tăm tối, nhưng ngày nay chúng mang lại tai họa cho mọi người trong thành phố, với những âm thanh cuồng nộ, chát chúa, như giọng sủa hỗn xược của những con chó muốn chồm đầu vào khung cửa nhà người khác.
Có những chiếc cột đèn mà số phận hẩm hiu sinh ra và nằm cạnh chiếc cửa sổ nhà ai, có thể ngày xưa đã có lần hãnh diện, dù đêm đã khuya, còn rọi ánh sáng vào căn phòng của cô tiểu thơ nhà nọ, nhưng hôm nay lại mang đại họa lại cho cả gia đình này, khi mà người ta không thể bỏ đi, chạy trốn số phận cay nghiệt của định mệnh, đành phải ở lại với tai ương suốt cuộc đời còn lại.
Những cái cột đèn đã bị chôn chân, bị trói tay, không đường vùng vẫy, cựa quậy.
Những cái cột đèn chờ một trận động đất, một cơn bão lửa, hay một trận cuồng phong.
Tôi thấy tôi thương cho những cái cột đèn!
Những cái cột đèn chôn mình suốt đời theo cùng số phận.
Người Nhật ‘tốt’ hay không ‘tốt’ ?
Nguyễn Quốc Vương Mối quan tâm lớn của người Việt là gắng sức thiết lập các mối quan hệ thân quen. Người Nhật thì khác. Xã hội của họ là một hệ thống được quy chuẩn và pháp chế hóa. Ai có chức phận của người đó…
Thông thường người nước ngoài hay phàn nàn người Nhật cứng nhắc và nguyên tắc, nhưng thực tế… vẫn có ngoại lệ.
Không đơn giản "tốt" hay "xấu"
Khi mới tiếp xúc với một nền văn hóa nào đó hoặc tiếp xúc lâu nhưng không thể thâm nhập sâu được vì rào cản ngôn ngữ người ta thường không tránh khỏi những nỗi kinh ngạc. Vợ tôi cũng thế.
Đến đâu, sau khi làm việc với người Nhật xong vợ tôi đều bảo "ông ấy tốt thế", "chị ấy tốt thật". Những người vợ tôi vừa "khen" và cảm động là các nhân viên làm việc ở tòa thị chính, ngân hàng, các bác sĩ, y tá làm ở bệnh viện…
Tôi bảo vợ : "Chẳng phải thế đâu. Biết thế nào là tốt. Họ chỉ làm công việc của họ thôi". Nghe thế, vợ tôi có vẻ không bằng lòng, cau mặt lườm : "Cứ nói như anh ấy…".
Kỳ thực đúng là như thế. Nếu bạn sống hợp pháp ở Nhật, thì kể cả bạn không hề biết một từ tiếng Nhật và là người nước ngoài, trong hầu hết các trường hợp bạn sẽ vẫn nhận được sự ân cần, chu đáo và lịch sự ở các cơ quan công quyền lẫn nhưng nơi cung cấp dịch vụ.
Lý do đơn giản nằm ở chỗ cả pháp luật và quan niệm đạo đức thông thường, phổ biến trong xã hội Nhật đều coi các nhân viên công quyền là người làm thuê nhận tiền công (lương) từ tiền thuế của dân. Cảm quan của người Nhật về tiền thuế rất rõ ràng và mạnh mẽ. Những sự lãng phí hay các vụ biển thủ tiền công làm cho họ tức giận nghiêm trọng.
Các cơ quan công quyền và nhân viên của họ cũng ý thức rất rõ người dân là "ông chủ" hoặc chí ít là "khách hàng". Trong xưng hô họ gọi người dân đến làm việc là "quý khách".

Không thể nhận xét người Nhật "tốt" hay "xấu" một cách đơn giản. Đối với những nơi khác như công ty, khách sạn, nhà hàng… họ coi những người đến với họ là khách hàng. Họ cung cấp dịch vụ làm khách hàng vừa lòng và thu phí dịch vụ tương ứng. Trong tư duy và cách làm việc đó, hành xử của nhân viên là dựa trên luật pháp và các nguyên tắc giao tiếp đã được "chuẩn hóa".
Điều này khá thú vị. Nếu bạn quan sát kĩ sẽ thấy ở Nhật, các nhân viên của cùng một hệ thống sẽ có những lời nói và hành động trước khách hàng y hệt nhau, dù họ làm việc ở Kyushu hay hòn đảo Hokkaido ở cực bắc.
Hành xử của nhân viên trong khi làm việc luôn được giám sát nghiêm ngặt bởi cấp trên và camera nội bộ. Mọi hành vi vô lễ với khách hàng, người dân hoặc sai với "quy chuẩn" đều bị xử lý thích đáng.
Và như thế, có thể thấy, câu nhận xét của vợ tôi về họ là một sự sai lầm. Không thể đánh giá họ là "tốt" hay "xấu" một cách đơn giản. Họ trên hết chỉ là những người lao động chăm chỉ và tuân thủ nghiêm túc theo quy chuẩn. Họ tươi cười đấy nhưng khó biết họ thật sự nghĩ gì. Họ khó chịu với khách hàng đấy nhưng không họ không bao giờ đuổi khách hay buông lời khiếm nhã.
Vì thế dễ hiểu khi bạn thấy trong chốn công sở hay cửa hàng họ vừa quỳ xuống nói chuyện với bạn rất ân cần với nụ cười tươi nhưng khi bước ra ngoài đường họ hoàn toàn xa lạ với bạn dù vừa mới giáp mặt và tư vấn cho bạn trước đó chưa đầy… 2 phút.
Người Việt : "gia đình" là trung tâm ?
Tham chiếu với người Việt chúng ta thì sao ? Tôi nghĩ lời nhận xét của vợ tôi về chuyện ai đó tốt hay không trong trường hợp này là hợp lý. Người Việt trong vô thức coi cả xã hội là một gia đình và dùng quan hệ gia đình để quy chiếu mọi quan hệ xã hội.
Tư duy này thể hiện rất rõ trong sự xưng hô của người Việt. Người già thì gọi là "bác", là "ông", "bà", "cụ". Người trẻ hơn thì gọi là chú, là anh. Ít tuổi hơn thì là em, là cháu. Cách gọi những người hoàn toàn xa lạ là bố (mẹ) và xưng "con" dù không có quan hệ thuyết thống tương đối phổ biến.
Phải chăng việc coi trọng hệ giá trị đó khiến người Việt hành xử dựa trên sự phán đoán của tình cảm cá nhân (hay như nhiều người nói người Việt duy tình). Điều này chi phối từ những nhân viên công vụ ở chốn tôn nghiêm hay ở nhà hàng, cửa hiệu, chúng ta có xu hướng "ưu tiên" hơn với những người có quan hệ thân thiết, quen biết, những người được coi là "anh em".
Vẫn có ngoại lệ.
Đọc đến đây, rất có thể sẽ có bạn kêu lên : "Anh viết sai. Không phải thế". Có thể. Vì trải nghiệm của bạn khác tôi. Hơn nữa cũng có ngoại lệ.
Thế nước Nhật có ngoại lệ không ?
Thông thường người nước ngoài hay phàn nàn người Nhật cứng nhắc và nguyên tắc, nhưng thực tế… vẫn có ngoại lệ. Xin kể hai ngoại lệ khá thú vị liên quan đến trải nghiệm của tôi.
Câu chuyện thứ nhất liên quan đến chuyện ở trọ của tôi. Khi đến Nhật lần thứ nhất và học xong chương trình thực tập sinh, tôi muốn thi vào cao học nhưng ông thầy hướng dẫn không đồng ý. Ý ông là tôi phải học thêm một năm tiếng Nhật nữa. Không có cách nào khác, tôi trở thành du học sinh tư phí tự chi trả học phí và đi làm kiếm sống để học.
Rắc rối là chi phí ở bên ngoài khá đắt trong khi theo quy định tôi sẽ phải dọn ra khỏi ký túc xá khi trở thành sinh viên tư phí. Có lẽ đọc hồ sơ và biết câu chuyện của tôi, ông trưởng phòng hành chính gọi tôi vào phòng bảo : "Lẽ ra anh phải chuyển ra ngoài nhưng tôi đã bảo lãnh để anh có thể ở lại một năm". Thật là ngoài sức tưởng tượng.
Cũng chính ông sau này là người đã tự bỏ tiền túi tạm đóng học phí cho một du học sinh Việt Nam khác khi thời hạn đóng tiền đã sắp hết mà cậu ta chưa có đủ tiền. Hành động này của ông vượt ra khỏi cả "nghĩa vụ" của ông trong công việc. Với tôi, ông thật sự là "một người tốt".
Câu chuyện thứ hai là ở bệnh viện. Vợ tôi mang bầu và sinh con ở Nhật. Đến tuần cận ngày dự sinh bà bác sĩ làm tình nguyện viên ở đó thì thầm với tôi : "Nên chuyển sang khám vào ngày thứ 3 vì bác sĩ X đó tôi thân thiết và có kinh nghiệm hơn". Cái này cũng vượt ra ngoài "quy chuẩn" thông thường. Có lẽ bà cụ coi chúng tôi như con và động lòng thương cảm vì hai vợ chồng tôi không có bà sang trợ giúp.
Khi gặp ông bác sĩ mới tôi hiểu thêm lý do tại sao bà bác sĩ tốt bụng gợi ý. Bác sĩ này đã từng làm việc 3 tháng ở bệnh viện Từ Dũ của Việt Nam. Cả ông và vợ đều là học trò "cưng" của bà bác sĩ tình nguyện. Hơn hai tuần sau khi ra viện, bà bác sĩ mặc Kimono, tự lái xe đến tận nơi tôi ở chơi và cho con tôi rất nhiều đồ chơi. Đấy cũng là một ngoại lệ.
***
Bởi tư duy khác biệt, nên trong đời sống và công việc, người Việt thường chỉ cảm thấy thoải mái và dễ dàng trong "mạng lưới" do chính mình tạo ra thông qua các mối quan hệ thân thuộc và quen biết. Mạng lưới ấy dựa trên tình cảm cá nhân và các lợi ích riêng tư. Rời ra khỏi mạng lưới ấy, người Việt sẽ như con cá ra khỏi nước. Có lẽ vì thế mà trong cuộc đời mình, một mối quan tâm lớn của người Việt là gắng sức thiết lập các mối quan hệ thân quen.
Người Nhật thì khác. Xã hội của họ là một hệ thống được quy chuẩn và pháp chế hóa. Ai có chức phận của người đó. Để bước chân vào "người thân" trong mạng lưới mang tính cá nhân của họ không phải là điều dễ. Đặc tính này cũng gây nên nhiều hệ lụy. Một trong những hệ lụy đó là nỗi cô đơn...
Nguyễn Quốc Vương
" Mười Ngày Ở Việt-Nam "
Trương Minh Tịnh
Ba tôi sống 96 tuổi. Ba không “healthy” bằng mẹ .Vì vậy,tôi đinh ninh mẹ tôi thế nào cũng sống tới đó hoặc hơn….
Những năm về sau nầy,trong công cuộc vận động Dân Chủ cho Việt-Nam,thông qua Quỹ Tù Nhân Lương Tâm (chuyên thăm nuôi tù nhân và vợ con- những chiến sĩ Tự Do bị chính quyền CS bắt bỏ tù-khoảng hai trăm rưỡi anh chị em ở trong nước từ Bắc chí Nam)…..tôi đều lấy tên thật Trương Minh Tịnh…..công khai,vì :
1/- Tôi nghĩ mẹ tôi ít nhất cũng sống 5 năm nữa.Lúc đó VN chắc chắn đã có một chế độ Dân Chủ (như Singapore,Mã-Lai,Miến Điện.....).
2/-Tôi thấy tôi làm điều đúng.Hợp ý Chúa. Khi góp sức đòi hỏi một chế độ Dân Chủ cho VN.
3/-Những phụ nữ VN, đủ mọi lứa tuổi, chân yếu tay mềm, như Phạm Thanh Nghiên, Đỗ Thị Minh Hạnh,Bùi Thị Minh Hằng,Nguyễn Ngọc Như Quỳnh,Lê Thị Công Nhân,Huỳnh Thục Vi, Đoan Trang,Lê Thị Phương Anh,Nguyễn Thị Huần,Trần Khải Thanh Thủy,Tạ Phong Tần,Nguyễn Thị Phương Uyên ,Mẹ Phương-Uyên,Đỗ Hoàng Vi,Cụ bà Lê Hiền Đức,bà Kim Liên,Hồ Thị Bích Khương v.v…….và hằng ngàn người con gái khác (cùng gia đình họ).Sống trên đất VN. Đầu tên mũi đạn.Mà can trường tranh đấu cho Tự Do Dân Chủ.Trong khi tôi là con trai,lại có quốc tịch Úc mà nhát thì “yếu” quá !
Từ hồi còn con nít chơi trong xóm,tôi không thi thố nỗi với con trai vì tôi nhỏ con.Nhưng “vật lộn” với con gái thì tôi tự ái.Không bao giờ chịu thua….Và cũng để tìm cãm giác dễ chịu khác….. hahaha !!!!!!
………………
Đùng cái,mẹ tôi chết.92 tuổi…Thế mới biết khỏe chưa chắc sống lâu.Tôi hỏi vài anh em thân cận trong Quỹ Tù Nhân Lương Tâm. Về không ?- Một nửa nói “Yes” một nửa nói “No”…Tôi hỏi chị Dương Hà (vợ anh Cù Huy Hà Vũ),chị nói “anh về chịu tang mẹ đi.Số phone em đây……”.
Tôi suy nghĩ theo lối của một anh em trong Quỹ Tù Nhân Lương Tâm (trước đây đã về) : Nếu chết,tuổi nầy cũng OK rồi.Nếu bị tù thì có dịp chia sẻ với Việt-Khang (tác giả bài hát “Việt-Nam Tôi Đâu”).Nếu bị sách nhiễu thì thông phần với anh chị em trong nước….
Nghĩ là làm. Tôi về…..
Và có sao ghi vậy, sau đây.
Ngày đầu tiên,ngồi trên máy bay nhìn xuống. Việt-Nam đẹp….Đã có dịp đi ngoại quốc kha khá…… Ít có nước nào mà sông nước đất đai đan nhau màu mỡ, tiềm lực kinh tế thuận lợi, như VN.
Máy bay hạ cánh.Chuẩn bị kỹ lưỡng để đối đáp với mọi tình huống…..Lại không gặp bất cứ “sự cố” nào. Đi qua Hãi Quan và ra ngoài về nhà tuốt luốt.
Từ Saigon về Long Khánh,khác với những năm về trước (công an giao thông đầy đường), bây giờ chỉ còn thấy một tốp duy nhất ở chốt Quán Tre (Dầu Giây). Ông tài xế cho tôi biết thêm về vụ phó trạm bắn chết trưỡng trạm và vài CA khác bị thương (ở trạm nầy mấy tháng trước đây) là vì ăn chia không đều,chứ không phải vì hát Karaoke như báo chí loan tin.Chủ yếu là vì “bức xúc” chuyện tiền bạc !
Có người trên xe nói “CA bây giờ rét dân rồi.Cá ăn kiến và kiến đang ăn cá.Lúc nào cũng tốp 4 người trở lên.Không dám đi riêng hoặc tốp 2 vì sợ dân (nhất là dân miền Bắc) đánh”.
Về gặp Mẹ.Nước mắt tôi dàn dụa……
Suốt đêm đó không ngủ. Ở bên mẹ .Vì tôi biết chĩ còn mươi tiếng đồng hồ nữa là tôi sẽ không còn thấy mặt mẹ tôi.
Nói chuyện với bà con (ngoài Huế vô,và bà con trong nầy). Người lớn thì chán nãn vì vật giá leo thang mà tiền kiếm không ra.Lại bệnh hoạn tràn lan.Không ai còn dám đi nhà thương.Bệnh là chịu chết.Giới trẻ thì Đại Học cho chán rồi về …lang thang vì không cách gì kiếm được việc làm ở thành phố…..Bế tắc ! Một vài vị lớn tuổi nhắc chuyện Huế Mậu Thân …..
Sau vài ngày lo việc cho mẹ xong thì tôi về Saigon. Ở khách-sạn.
Phòng tập thể dục tối.Tôi nhìn qua khách-sạn bên kia. Một cô gái trẻ, khi dọn phòng, bưng nửa chai sửa còn dư của khách uống say sưa và bỏ vỏ chai nhựa vào bao (đưa về nhà bán ve chai ? )… Ở tầng dưới,một cô chef-cook khác,trẻ đẹp,nhưng thao tác nấu thì chậm lắm.Chỉ bằng 1/3 năng suất một cô chef-cook bên Úc.
Tôi làm quen với mấy cô làm trong khách-sạn tôi ở,la-cà nói chuyện khi họ tụm 2 tụm ba ăn cơm trưa (ngồi trên sàn dọc hành lang khách-sạn,không có ghế).Tôi liếc thấy cà-mên cơm của họ chỉ có muối dưa,tí cá…..Họ không nói gì nhưng tôi biết họ cực kỳ bất mãn vì “người ăn không hết,người lần không ra”….. nhan nhãn trước mắt họ mỗi ngày.
Ngày đầu tiên ở Saigon,tôi họp mặt Đại Học Sư Phạm ( ra trường năm 1976, lớp đầu tiên sau 30/4/1975). Ôi ! Thì như pháo nỗ.Dành nhau nói vì sợ không còn có dịp để nói.Vì 38 năm mới gặp lại.Tối đó nói không hết,trưa hôm sau còn thêm một buổi ở nhà (một đứa) nữa. Tại đây mới đề cập nhiều đến “hiện tình đất nước”.Tất cả đều đồng ý là chế độ tham nhũng,xấu xa,tệ quá…..Mỗi đứa đưa ra một bằng chứng. Có đứa kể con của nó lên Facebook “chưỡi” chế độ bị CA tới nhà “mắng vốn”. Vẫn không sợ…… Một cựu Sư-Phạm (gái) nói “người đứng đầu ngành CA như Phạm Quý Ngọ mà trong vòng vài ngày đã nhận hối lộ 1 triệu rưỡi đô-la thì hỏi còn gì để nói nữa chứ!”
Ngày kế, tôi họp mặt các đồng nghiệp Cựu Thầy Cô của Trường Công Nhân Kỹ Thuật Dầu Khí Bà-Rịa. Nhóm nầy ít, nhưng tình cãm dạt dào .Vì những năm 77,78,79 là những năm “ đói thê thãm” và các cựu Thầy Cô nầy phần đông là con “Ngụy”….. giữa một trường toàn Cách Mạng……34 năm mới tìm được nhau. Nhắc lại chuyện xưa ai cũng rùng mình !.
Vì có sự chòng chéo sui-gia của bạn tôi,tôi được mời đi chơi (2 ngày) với một gia-đình (65 tuổi đảng),con cái cấp Thứ Trưởng,Cục Trưởng ..…Vì vậy, trên xe một nửa là Cách mạng một nửa không.Xe vừa mới chạy một đoạn, đi ngang một Trụ Sở Công An Tỉnh, có câu khẩu hiệu to đùng “ Kỹ Cương - Hiệu Quả - Kín Đáo”. Một người nói oang oang trong xe “Kỹ Cương là lớn được ăn lớn,nhỏ phải chịu ăn nhỏ,không được lộn xộn”.. Hiệu quả là “phải kiếm nhiều nhiều tí”. Kín Đáo là “đừng để ai thấy”. Cả xe cười vang. Kể cả mấy ông Cách Mạng. Một người khác nói “anh Ba cứ vào đảng đi.Nếu lật lại em bảo lãnh cho”. Và suốt thời gian 10 ngày ở VN,tôi thấy ai ai, đâu đâu, cũng nói đến chuyện “ lật lại”. Không hiểu sao! Họ như chờ đợi một cái gì đó xảy ra bất cứ lúc nào ! Một phó phòng Cảnh Sát (hàng xóm) nói với cháu tôi “nếu thay đổi,có gì bà giúp tôi nghe…….”.
Ngày kế,tôi họp mặt các cựu bạn của tôi trong Dòng tu năm nào. Rất đông anh em tới.Thượng vàng hạ cám có đủ.Linh Mục (cha),Thầy,Giáo Sư,Chạy xe ôm,Làm công bán hàng ngoài chợ,Giám Đốc,Phóng viên ……Ngoài liên hệ học hành,còn có chung lý-tưởng tôn giáo,nên nhóm nầy đoàn kết thương yêu nhau ghê gớm. Coi nhau như anh em ruột vì “ngày xưa còn bé” cùng ăn,cùng ngủ,cùng đọc kinh,cùng đá banh……
Sau đó tôi thăm bạn (đại gia) ung thư trong bệnh viện Ung Bướu Nguyễn Văn Học Gia-Định.Kinh hoàng bệnh viện VN……
Rồi đi thăm nói chuyện với một đàn anh Kiến Trúc Sư……Hỏi về VN,chú (tôi gọi chú),say sưa giảng “CS không thể tồn tại vì đi ngược lại với quy luật tự nhiên của con người ……..“.
Ngày cuối cùng,tôi thăm một người bà con, ở Mỹ ,nhưng về VN làm ăn đã lâu.Vì có tiền nên có rất nhiều “connection” với chính quyền cấp cao…….Anh ta nói “Tình hình VN biến chuyển từng ngày,nếu không muốn nói là từng giờ.Bất cứ cái gì cũng có thể xảy ra “over-night”. Và xảy ra trong nội bộ của họ chứ chẵng đâu xa. Có cả khả năng quân đội Trung Quốc tràn vào VN…... Anh đã chuẩn bị sẵn. Động là chuồn liền.Mấy ông to cũng vậy….Họ sẵn sàng hết”.
Được hỏi tại sao “em về VN mà không có bất cứ một rắc rối nào “ ? Anh ta nói: Dù muốn dù không thì họ cũng đã phải chịu chấp nhận “ý kiến khác biệt” ,ngay ở họ với nhau cũng thế.Nên chuyện phát biểu trên Internet v.v…Hội nầy hội nọ v.v…....ngày nay không còn là vấn đề nữa.Quan điểm chú thế nào cũng được.Chú về đây mà đi gặp ông Nguyễn Đan Quế cũng chẵng sao.Nhưng 5 người trở lên là không được.Họ can thiệp.Chế độ đang ở thế bị động.Họ sợ số đông.Một phần lớn là nhờ các đảng viên kỳ cựu của họ ly-khai.Báo chí gần đây nói rất thẵng……Ngày xưa CA khắp nơi và ngang tàng lắm nhưng bây giờ đã “co cụm” lại. VN đã chia làm 2 phe rõ rệt,phe chính quyền “phè phỡn” và phe công nhân,nông dân,thư ký văn phòng,thợ….”vất vả”. Đó là nhờ công sức của các chiến sĩ Dân Chủ,dân oan, dám đương đầu, hy-sinh,dồn họ vào thế thụ động.Sở dĩ họ cứ phải lui từ từ là vì họ thấy họ “bậy”. Cái gì cũng vậy,khi nào mình đúng thì mình dễ hăng hái,trong khi người sai thì dễ “xìu”. CA bâygiờ “rét” là vì dân không còn sợ như xưa.Chú coi trong Youtube sẽ thấy.Thử hỏi “chung chi” mà cả va-li đô-la thì họ đâu còn ra gì để nói ai…..”.
Tôi cho rằng ý-kiến nầy chính xác.Tôi xin ghi lại trung thực như một lời cám ơn các bạn đã quan tâm khi tôi về VN.
Một Linh-Mục (lớp đàn anh của Tịnh,biết Tịnh nhiều,từ Âu-Châu,đã viết như sau,lúc Tịnh đang ở VN).
Em TMT ơi!
Mấy bữa ni anh ăn ngủ không yên, vì đã nghe chương trình nói chuyện của ông Đính Hùng, người về thăm mẹ đang ốm nặng bị bắt phải trở lại điểm khởi hành... Sáng nay đọc Mail của em cho biết đã về bằng yên và dự đám táng mẹ... Mừng quá! Tạ ơn Chúa! Deo gracias!
Người ta đối xử với em như rứa là một nước cờ cao đó. Chắc những ngày em sống trên đất nầy bóng sẽ luôn theo hình... Anh cầu nguyện cho em được bằng yên và nhất là ngày ra khỏi không gặp nạn. Xin Thiên thần hộ thủ gìn giữ em trong mọi nẻo đường được bằng yên.
Một lần nữa anh chia buồn với em và gia đình vì mới mất mẹ và chia vui vì em đã được đưa mẹ đến nơi an nghỉ cuối cùng với những người thân yêu.
Thân mến chào em.
Đàn anh lo cho đàn em là đúng.Cám ơn “đàn anh”. Nhưng chuyện đó là xưa rồi.Thật ra họ bây giờ (vì thấy chính họ bậy quá) nên không còn hoạnh họe như vậy đâu.Nhân dân đang ở thế tiến công và chính quyền đang phải co cụm chống đỡ từng ngày.Nội bộ họ thì chia rẽ.Chung quy cũng chỉ vì tranh nhau đô-la.
Giờ phút cuối cùng ở Saigon,tôi thăm một bà cụ 95 tuổi,ngày xưa ở ngoài Bắc bị đánh địa chủ chết lên chết xuống,bây giờ (vì có lý do o bế) họ “đã đền bù….đã phục hồi danh dự”. Bà Cụ chỉ nói: “……Hồ Chí Minh!..... Ôi ! ….Họ ác lắm con ạ !
Trương Minh Tịnh
[/size]
Mười Điểm Yếu Của Trung Cộng
Huệ Lộc ***
1. Trung Cộng chiếm đảo nhiều nhất, có nguy hại lớn cho khối ASEAN trong đó bao gồm Burma, Cambodia, Brunei, Indonesia, Philippines, Laos, Việt Nam, Singapore, Thailand, và Malaysia; hơn nữa Trung cộng có thái độ rất kiêu ngạo và ảnh hưởng xấu nhất. Trung Cộng rất lo sợ những hải đảo kia bị thu hồi lại bởi những quốc gia trên, đồng thời còn bị thu hẹp quyền lực trên biển Đông như lúc nguyên thuỷ, và phải đối phó với những vấn đề khó khăn trong nước mà nhiều năm qua không thể giải quyết được:
a. Làm cho tài nguyên hải sản bị giới hạn đối với chế độ nhân khẩu nuôi miệng ăn cho số lượng dân số khổng lồ trên tỉ người.
b. Chính vì công nghệ hoá xã hội quá nhanh trong thời gian gần đây nên khối lượng hoá chất bị đào thải từ các nhà máy và hầm mỏ được chôn vùi trong lòng đất địa phương. Vì thế hơn chín mươi phần trăm ruộng đồng tại Trung cộng không thể trồng trọt được vì nạn ô nhiễm môi trường nầy.
c. Số lượng tiêu thụ ngũ cốc hoa quả hằng ngày phải nhập hơn sáu mươi phần trăm từ các nước láng giềng như Thái Lan, Việt Nam, Cambodia, Singapore, Mã Lai...
d. Ngành chăn nuôi súc vật trong nước không cung cấp đủ phẩm lượng cho giới tiêu dùng, nên dùng hải sản để trợ cấp và thay thế cho thịt trâu bò heo gà... Dần dần hải sản trở nên nguồn cung cấp thực phẩm chính để nuôi dân và xuất cảng.
Vì những lý do cấp bách phải giải quyết cho nạn nhân mãn, Trung Cộng muốn tấn công Việt Nam để răn đe các nước khác buộc các quốc gia khác phải tự mình rút lui, cuối cùng Trung Cộng độc quyền khai thác tài nguyên Biển Đông và đồng thời kiểm soát toàn bộ không phận vùng Đông Nam Á. Câu hỏi được đặt ra là liệu Trung Cộng có chiến thắng trong chiến tranh Việt Trung hay không? Nếu có chiến thắng thì giữ nước Việt Nam được bao lâu? Trong Tam Quốc Chí còn ghi lại câu chuyện Thất Cầm Mạnh Hoạch, nghĩa là ông Khổng Minh khi đánh một nước nhỏ trên biên giới Tàu, bảy lần bắt được vua Mạnh Hoạch của nước nầy đều tha hết bảy lần vì biết rằng không thể cai trị nước của họ được, mà chỉ mong họ sống hoà bình thuận thảo là được rồi. Trung Cộng đánh Việt Nam để làm gì, đánh không xong lại bị sa lầy thì tốn kém vô cùng. Nên biết số tiền mà Trung Cộng chi ra cho những sự điều hợp bộ binh, hải quân, không quân ở biển Đông và dọc theo biên giới Việt Trung tốn kém hơn 10 triệu tiền US mỗi ngày. Số tiền nuôi quân nầy vốn không có phân định trước trong kế hoạch quốc gia nay bất thần chi dụng thì sự tốn kém sẽ làm ngân sách cạn kiệt rất nhanh chóng. Hơn nữa khi đánh nước Việt Nam, Trung cộng không có một lý do nào chính đáng, ngoài chuyện la hét lên rằng Việt cộng là những tên "phản bội". Nếu Việt cộng là những tên phản bội, thì đừng qua lại giao dịch với những tên"phản bội đó" gồm có ba triệu đảng viên, tại sao lại mang quân đi đánh cả nước 83 triệu ngưòi dân Việt Nam? Nếu 83 triệu chử ký của người dân Việt Nam phản đối Trung cộng và được gởi tới Liên Hiệp Quốc qua nhiều ngã khác nhau thì Trung cộng sẽ trả lời như thế nào? Trung cộng quả thật không có danh chánh ngôn thuận để xua quân vào Việt Nam. Lại cũng không có một lý do hay một cơ sở lý luận nào mang quân đánh Việt Nam. Vậy hành động Trung cộng xâm lăng Việt Nam là một hành động khủng bố quốc tế, không thua gì bọn ISIS hiện nay.
2. Xưa nay Việt Nam đã không bao giờ thừa nhận Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền của Trung quốc. Những bản đồ quân sự, tài liệu địa lý trên thế giới đều là những bằng chứng xác thực, cho đến sau khi miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm năm 1975 thì Trung cộng có những thái độ bất thường tự vẽ ra những bản đồ mới dành khoảng chín mươi phần trăm biển đảo về mình, tuy nhiên điều nầy không được một quốc gia nào trên thế giới công nhận. Vì không được quốc tế công nhận, nên Trung cộng mới ra oai dọa nạt uy hiếp các nước Nhật, Philippines, Mã Lai, Singapore, Việt nam... Như thế, vì lý do bản đồ của mình tự vẽ ra không được quốc tế công nhận mà khủng bố nước khác, là điều không chánh đáng, ngược lại chủ trương bảo vệ hoà bình của Liên Hiệp Quốc, nhất là chủ trương của Hoa Kỳ.
3. Việt Nam không có lực lượng quân sự lớn nhất Đông Nam Á vì tướng tá Việt Nam không còn thống nhất hay đoàn kết với nhau qua sự suy sụp nhanh chóng của chủ nghĩa cộng sản. Nạn tham nhũng, bè nhóm, tranh quyền, và thanh trừng trong quân đội và nội bộ đảng làm suy yếu khả năng quân lực cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên dưới áp lực của Trung cộng, đảng cộng sản Việt Nam đành phải cầu cứu kêu gọi các cường quốc bảo vệ, nên Việt Nam được viện trợ tăng cường phát triển lực lượng hải quân, không quân để đối đầu với Trung cộng. Quân đội của Trung cộng tuy có thể phát động cuộc chiến Nam sa một cách rầm rộ như biểu dương lực lượng bộ, không và hải quân, nhưng muốn chiến thắng Việt Nam thì không phải dễ dàng. Tại sao? Vì nếu biết trước thắng Việt Nam dễ dàng, thì Trung cộng không cần dùng quân đội đánh thuê như Cambodia quậy phá quận Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang hiện nay. Chính vì lo sợ sa lầy trong trận chiến Việt Trung, nên Trung Cộng cứ cố tình sang Việt Nam để thuyết khách khiến cho Việt Nam đầu hàng dâng thêm biển đảo và đất liền thì chúng rút về. Còn nếu như Việt Nam cứ khăng khăng chờ Trung Cộng đánh trước thì Trung Cộng không bao giờ dám. Tại sao? Vì khi chiến tranh hai nước xảy ra, Trung cộng sẽ đối đầu với nhiều thế lực trong nước cũng như ngoài nước.
4. Hai nước Trung – Việt xích mích đã lâu, đã từng nảy sinh tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải, lần này lại xảy ra xung đột quân sự. Đây là điều mà thế giới đã dự đoán và đã sớm nghe quen tai với việc này, chắc chắn phản ứng sẽ không nhẹ nhàng. Tại sao? Vì tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam đã chạy qua cầu cứu Toà Nhà Trắng rồi. Trái lại, nếu Trung cộng tấn công vào nước khác như Philippines thì lại càng không được vì Philippines đã có có hồ sơ tố cáo Trung cộng lên Hiệp Hiệp Quốc. Nếu đánh Philiippines là phải trả lời các câu hỏi của Liên Hiệp Quốc. Thế thì không dám đánh Phillippines là chuyện chắc chắn. Bây giờ Trung cộng sau khi đưa quân rầm rộ đến biên giới Hoa Việt thì lại gặp chứng bịnh "nhai miếng gân gà" khó nuốt.
5. Việt Nam càng lúc càng bắt tay liên minh với khối ASEAN nhất là Nhật và Philippines. Nếu Việt Nam mất về tay Trung Cộng thì các nước nầy cũng bị ảnh hưởng theo như một hậu quả không thể tránh được, vì thế Trung Cộng tấn công Việt Nam sẽ đụng độ tới khối ASEAN và Nhật. Dĩ nhiên là Trung Cộng không bao giờ muốn một lúc mà phải đánh nhiều nước như thế.
6. Tình hình quốc tế gần đây không có lợi cho việc giải quyết vấn đề Nam Sa. Quan hệ Mỹ Việt trong thời kỳ quan trọng, chỉ cần Việt Nam cam kết thực hiện nhân quyền cho dân Việt và huỷ bỏ điều 4 Hiến Pháp thì quân đội Mỹ sẽ bảo vệ Việt Nam tới cùng. Trung cộng dĩ nhiên là không bao giờ dám liếc mắt nhìn vào bản đồ nước Việt nữa. Vậy người cộng sản Việt Nam muốn mất nước hay muốn mất điều Bốn Hiến Pháp? Mất nước là mất hết tất cả. Mất điều Bốn Hiến Pháp là chỉ mất sự bất công cho dân tộc Việt Nam.
7. Quần đảo Nam Sa là một vị trí chiến lược của Việt Nam không thể để vào tay cộng sản Trung Quốc. Giữ được Nam Sa là giữ được điểm trọng yếu Biển Đông. Từ đây có thể kiểm soát tàu bè trong hải phận, bảo đảm ngư dân có thể yên tâm đánh cá và sản xuất hải sản làm giàu cho xứ sở, đồng thời còn kiểm soát yểm trợ những tài nguyên dầu khí của quốc gia. "Nam quốc sơn hà Nam Đế cư"
8. Lão Tử, một nhà hiền triết có tư tưởng cách mạng nổi tiếng, trong Đạo Đức Kinh nói: "Càng muốn vây bắt thì càng làm địch trốn sâu; càng tìm cách tấn công thì càng làm địch thủ mạnh hơn". Vậy người Việt Nam nếu không tránh được thì đánh, giặc càng tìm cách tấn công, ta càng tìm cách thủ mạnh. Đánh mãi không được, hết tiền của, giặc cũng đành phải rút về. Khi địch rút về, thì đánh đường tuyệt hậu, tức địch đầu đuôi không tiếp ứng được tất phải rã tan hàng ngũ bỏ chạy vắt giò về Tàu.
9. Dĩ nhiên đánh Tàu không sợ Đài Loan tiếp ứng, vì dân Đài Loan cũng như Hồng Kông đều kinh sợ chủ nghĩa cộng sản. Hơn nữa Đài Loan theo chủ nghĩa Tự Do và nhờ Hoa Kỳ yểm trợ quân sự cũng như vũ khí hàng năm. Do đó Đài Loan không bao giờ chính thức yểm trợ quân sự cho Trung Cộng để tấn công Việt Nam. Nói thế có nghĩa là Trung cộng cô đơn trong chiến tranh Việt Nam. Tuy nói là đánh với Việt Nam, chớ thật ra Trung cộng phải đối đầu với thế giới nhất là G7.
10. Thế giới ngày nay Trung cộng thường hay khủng bố các nước láng giềng. Tự vẽ ra bản đồ phân chia hải phận biển Đông, tự chiếm hết 90% thuỷ diện tích, ngang ngược chiếm các đảo rồi xây dựng thêm đảo nhân tạo mà không tôn trọng hiệp ước quốc tế. Nay ỷ mạnh mang quân đội tấn công uy hiếp Việt Nam không một lý do chánh đáng thì rõ là một hành động bất chấp công ước quốc tế. "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong" thiên định đây chính là công đạo; công đạo trường hợp nầy chính là toà án quốc tế. Trong toà án quốc tế, nếu Việt Nam đệ đơn kiện Trung cộng xâm lăng lãnh thổ, lãnh hải thì Trung Cộng thua là cái chắc. Một khi toà án quốc tế mở hồ sơ cho sự kiện tụng thì Trung cộng sẽ không dám làm gì nước Việt Nam cho đến khi hồ sơ kiện được đóng lại. Vậy lý do Trung cộng hoạch định tấn công Việt Nam lần nầy là gì? Có phải chăng chỉ vì đàn em Phùng Quang Thanh bị loại bỏ, nên Trung cộng nổi giận ra quân đánh Việt Nam hay chỉ vì muốn thanh toán hai ông chủ tịch đảng và thủ tướng rồi sau đó cho bầu bán chọn người lại xong rút về. Nhưng đâu có dễ dàng thế, ông chủ tịch đảng nhà ta cũng đã nhanh chân chạy sang cầu cứu Nhà Trắng còn ông Thủ tướng thì xin thêm quyền điều động quân sự rồi. Trong 13 chương Binh Thư Yếu Lược, Tôn Võ Tử có nói : "Đánh địch vì giận hoặc không có lợi, thì không nên đánh." Lần nầy Trung Cộng phạm hết cả hai điều huý kỵ trong binh pháp thì chắc chắc là lãnh phần thất bại.
Trong lịch sử Việt Nam, những trang kiêu hùng làm quân Tàu vỡ mặt là lúc Trần Hưng Đạo và Trần Quốc Toản tiêu diệt quân Nguyên; Vua Quang Trung đại phá quân Thanh; Nguyễn Trãi với bài Bình Ngô Đại Cáo; Lý Thường Kiệt phá Tống với bài thơ:
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Ngô Linh Ngọc dịch:
Đất nước Đại Nam, Nam Đế ngự,
Sách trời định phận rõ non sông.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm,
Bay hãy chờ coi chuốc bại vong!
Huệ Lộc
7/17/2015
Huệ Lộc ***
1. Trung Cộng chiếm đảo nhiều nhất, có nguy hại lớn cho khối ASEAN trong đó bao gồm Burma, Cambodia, Brunei, Indonesia, Philippines, Laos, Việt Nam, Singapore, Thailand, và Malaysia; hơn nữa Trung cộng có thái độ rất kiêu ngạo và ảnh hưởng xấu nhất. Trung Cộng rất lo sợ những hải đảo kia bị thu hồi lại bởi những quốc gia trên, đồng thời còn bị thu hẹp quyền lực trên biển Đông như lúc nguyên thuỷ, và phải đối phó với những vấn đề khó khăn trong nước mà nhiều năm qua không thể giải quyết được:
a. Làm cho tài nguyên hải sản bị giới hạn đối với chế độ nhân khẩu nuôi miệng ăn cho số lượng dân số khổng lồ trên tỉ người.
b. Chính vì công nghệ hoá xã hội quá nhanh trong thời gian gần đây nên khối lượng hoá chất bị đào thải từ các nhà máy và hầm mỏ được chôn vùi trong lòng đất địa phương. Vì thế hơn chín mươi phần trăm ruộng đồng tại Trung cộng không thể trồng trọt được vì nạn ô nhiễm môi trường nầy.
c. Số lượng tiêu thụ ngũ cốc hoa quả hằng ngày phải nhập hơn sáu mươi phần trăm từ các nước láng giềng như Thái Lan, Việt Nam, Cambodia, Singapore, Mã Lai...
d. Ngành chăn nuôi súc vật trong nước không cung cấp đủ phẩm lượng cho giới tiêu dùng, nên dùng hải sản để trợ cấp và thay thế cho thịt trâu bò heo gà... Dần dần hải sản trở nên nguồn cung cấp thực phẩm chính để nuôi dân và xuất cảng.
Vì những lý do cấp bách phải giải quyết cho nạn nhân mãn, Trung Cộng muốn tấn công Việt Nam để răn đe các nước khác buộc các quốc gia khác phải tự mình rút lui, cuối cùng Trung Cộng độc quyền khai thác tài nguyên Biển Đông và đồng thời kiểm soát toàn bộ không phận vùng Đông Nam Á. Câu hỏi được đặt ra là liệu Trung Cộng có chiến thắng trong chiến tranh Việt Trung hay không? Nếu có chiến thắng thì giữ nước Việt Nam được bao lâu? Trong Tam Quốc Chí còn ghi lại câu chuyện Thất Cầm Mạnh Hoạch, nghĩa là ông Khổng Minh khi đánh một nước nhỏ trên biên giới Tàu, bảy lần bắt được vua Mạnh Hoạch của nước nầy đều tha hết bảy lần vì biết rằng không thể cai trị nước của họ được, mà chỉ mong họ sống hoà bình thuận thảo là được rồi. Trung Cộng đánh Việt Nam để làm gì, đánh không xong lại bị sa lầy thì tốn kém vô cùng. Nên biết số tiền mà Trung Cộng chi ra cho những sự điều hợp bộ binh, hải quân, không quân ở biển Đông và dọc theo biên giới Việt Trung tốn kém hơn 10 triệu tiền US mỗi ngày. Số tiền nuôi quân nầy vốn không có phân định trước trong kế hoạch quốc gia nay bất thần chi dụng thì sự tốn kém sẽ làm ngân sách cạn kiệt rất nhanh chóng. Hơn nữa khi đánh nước Việt Nam, Trung cộng không có một lý do nào chính đáng, ngoài chuyện la hét lên rằng Việt cộng là những tên "phản bội". Nếu Việt cộng là những tên phản bội, thì đừng qua lại giao dịch với những tên"phản bội đó" gồm có ba triệu đảng viên, tại sao lại mang quân đi đánh cả nước 83 triệu ngưòi dân Việt Nam? Nếu 83 triệu chử ký của người dân Việt Nam phản đối Trung cộng và được gởi tới Liên Hiệp Quốc qua nhiều ngã khác nhau thì Trung cộng sẽ trả lời như thế nào? Trung cộng quả thật không có danh chánh ngôn thuận để xua quân vào Việt Nam. Lại cũng không có một lý do hay một cơ sở lý luận nào mang quân đánh Việt Nam. Vậy hành động Trung cộng xâm lăng Việt Nam là một hành động khủng bố quốc tế, không thua gì bọn ISIS hiện nay.
2. Xưa nay Việt Nam đã không bao giờ thừa nhận Tây Sa và Nam Sa thuộc chủ quyền của Trung quốc. Những bản đồ quân sự, tài liệu địa lý trên thế giới đều là những bằng chứng xác thực, cho đến sau khi miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm năm 1975 thì Trung cộng có những thái độ bất thường tự vẽ ra những bản đồ mới dành khoảng chín mươi phần trăm biển đảo về mình, tuy nhiên điều nầy không được một quốc gia nào trên thế giới công nhận. Vì không được quốc tế công nhận, nên Trung cộng mới ra oai dọa nạt uy hiếp các nước Nhật, Philippines, Mã Lai, Singapore, Việt nam... Như thế, vì lý do bản đồ của mình tự vẽ ra không được quốc tế công nhận mà khủng bố nước khác, là điều không chánh đáng, ngược lại chủ trương bảo vệ hoà bình của Liên Hiệp Quốc, nhất là chủ trương của Hoa Kỳ.
3. Việt Nam không có lực lượng quân sự lớn nhất Đông Nam Á vì tướng tá Việt Nam không còn thống nhất hay đoàn kết với nhau qua sự suy sụp nhanh chóng của chủ nghĩa cộng sản. Nạn tham nhũng, bè nhóm, tranh quyền, và thanh trừng trong quân đội và nội bộ đảng làm suy yếu khả năng quân lực cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên dưới áp lực của Trung cộng, đảng cộng sản Việt Nam đành phải cầu cứu kêu gọi các cường quốc bảo vệ, nên Việt Nam được viện trợ tăng cường phát triển lực lượng hải quân, không quân để đối đầu với Trung cộng. Quân đội của Trung cộng tuy có thể phát động cuộc chiến Nam sa một cách rầm rộ như biểu dương lực lượng bộ, không và hải quân, nhưng muốn chiến thắng Việt Nam thì không phải dễ dàng. Tại sao? Vì nếu biết trước thắng Việt Nam dễ dàng, thì Trung cộng không cần dùng quân đội đánh thuê như Cambodia quậy phá quận Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang hiện nay. Chính vì lo sợ sa lầy trong trận chiến Việt Trung, nên Trung Cộng cứ cố tình sang Việt Nam để thuyết khách khiến cho Việt Nam đầu hàng dâng thêm biển đảo và đất liền thì chúng rút về. Còn nếu như Việt Nam cứ khăng khăng chờ Trung Cộng đánh trước thì Trung Cộng không bao giờ dám. Tại sao? Vì khi chiến tranh hai nước xảy ra, Trung cộng sẽ đối đầu với nhiều thế lực trong nước cũng như ngoài nước.
4. Hai nước Trung – Việt xích mích đã lâu, đã từng nảy sinh tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải, lần này lại xảy ra xung đột quân sự. Đây là điều mà thế giới đã dự đoán và đã sớm nghe quen tai với việc này, chắc chắn phản ứng sẽ không nhẹ nhàng. Tại sao? Vì tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam đã chạy qua cầu cứu Toà Nhà Trắng rồi. Trái lại, nếu Trung cộng tấn công vào nước khác như Philippines thì lại càng không được vì Philippines đã có có hồ sơ tố cáo Trung cộng lên Hiệp Hiệp Quốc. Nếu đánh Philiippines là phải trả lời các câu hỏi của Liên Hiệp Quốc. Thế thì không dám đánh Phillippines là chuyện chắc chắn. Bây giờ Trung cộng sau khi đưa quân rầm rộ đến biên giới Hoa Việt thì lại gặp chứng bịnh "nhai miếng gân gà" khó nuốt.
5. Việt Nam càng lúc càng bắt tay liên minh với khối ASEAN nhất là Nhật và Philippines. Nếu Việt Nam mất về tay Trung Cộng thì các nước nầy cũng bị ảnh hưởng theo như một hậu quả không thể tránh được, vì thế Trung Cộng tấn công Việt Nam sẽ đụng độ tới khối ASEAN và Nhật. Dĩ nhiên là Trung Cộng không bao giờ muốn một lúc mà phải đánh nhiều nước như thế.
6. Tình hình quốc tế gần đây không có lợi cho việc giải quyết vấn đề Nam Sa. Quan hệ Mỹ Việt trong thời kỳ quan trọng, chỉ cần Việt Nam cam kết thực hiện nhân quyền cho dân Việt và huỷ bỏ điều 4 Hiến Pháp thì quân đội Mỹ sẽ bảo vệ Việt Nam tới cùng. Trung cộng dĩ nhiên là không bao giờ dám liếc mắt nhìn vào bản đồ nước Việt nữa. Vậy người cộng sản Việt Nam muốn mất nước hay muốn mất điều Bốn Hiến Pháp? Mất nước là mất hết tất cả. Mất điều Bốn Hiến Pháp là chỉ mất sự bất công cho dân tộc Việt Nam.
7. Quần đảo Nam Sa là một vị trí chiến lược của Việt Nam không thể để vào tay cộng sản Trung Quốc. Giữ được Nam Sa là giữ được điểm trọng yếu Biển Đông. Từ đây có thể kiểm soát tàu bè trong hải phận, bảo đảm ngư dân có thể yên tâm đánh cá và sản xuất hải sản làm giàu cho xứ sở, đồng thời còn kiểm soát yểm trợ những tài nguyên dầu khí của quốc gia. "Nam quốc sơn hà Nam Đế cư"
8. Lão Tử, một nhà hiền triết có tư tưởng cách mạng nổi tiếng, trong Đạo Đức Kinh nói: "Càng muốn vây bắt thì càng làm địch trốn sâu; càng tìm cách tấn công thì càng làm địch thủ mạnh hơn". Vậy người Việt Nam nếu không tránh được thì đánh, giặc càng tìm cách tấn công, ta càng tìm cách thủ mạnh. Đánh mãi không được, hết tiền của, giặc cũng đành phải rút về. Khi địch rút về, thì đánh đường tuyệt hậu, tức địch đầu đuôi không tiếp ứng được tất phải rã tan hàng ngũ bỏ chạy vắt giò về Tàu.
9. Dĩ nhiên đánh Tàu không sợ Đài Loan tiếp ứng, vì dân Đài Loan cũng như Hồng Kông đều kinh sợ chủ nghĩa cộng sản. Hơn nữa Đài Loan theo chủ nghĩa Tự Do và nhờ Hoa Kỳ yểm trợ quân sự cũng như vũ khí hàng năm. Do đó Đài Loan không bao giờ chính thức yểm trợ quân sự cho Trung Cộng để tấn công Việt Nam. Nói thế có nghĩa là Trung cộng cô đơn trong chiến tranh Việt Nam. Tuy nói là đánh với Việt Nam, chớ thật ra Trung cộng phải đối đầu với thế giới nhất là G7.
10. Thế giới ngày nay Trung cộng thường hay khủng bố các nước láng giềng. Tự vẽ ra bản đồ phân chia hải phận biển Đông, tự chiếm hết 90% thuỷ diện tích, ngang ngược chiếm các đảo rồi xây dựng thêm đảo nhân tạo mà không tôn trọng hiệp ước quốc tế. Nay ỷ mạnh mang quân đội tấn công uy hiếp Việt Nam không một lý do chánh đáng thì rõ là một hành động bất chấp công ước quốc tế. "Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong" thiên định đây chính là công đạo; công đạo trường hợp nầy chính là toà án quốc tế. Trong toà án quốc tế, nếu Việt Nam đệ đơn kiện Trung cộng xâm lăng lãnh thổ, lãnh hải thì Trung Cộng thua là cái chắc. Một khi toà án quốc tế mở hồ sơ cho sự kiện tụng thì Trung cộng sẽ không dám làm gì nước Việt Nam cho đến khi hồ sơ kiện được đóng lại. Vậy lý do Trung cộng hoạch định tấn công Việt Nam lần nầy là gì? Có phải chăng chỉ vì đàn em Phùng Quang Thanh bị loại bỏ, nên Trung cộng nổi giận ra quân đánh Việt Nam hay chỉ vì muốn thanh toán hai ông chủ tịch đảng và thủ tướng rồi sau đó cho bầu bán chọn người lại xong rút về. Nhưng đâu có dễ dàng thế, ông chủ tịch đảng nhà ta cũng đã nhanh chân chạy sang cầu cứu Nhà Trắng còn ông Thủ tướng thì xin thêm quyền điều động quân sự rồi. Trong 13 chương Binh Thư Yếu Lược, Tôn Võ Tử có nói : "Đánh địch vì giận hoặc không có lợi, thì không nên đánh." Lần nầy Trung Cộng phạm hết cả hai điều huý kỵ trong binh pháp thì chắc chắc là lãnh phần thất bại.
Trong lịch sử Việt Nam, những trang kiêu hùng làm quân Tàu vỡ mặt là lúc Trần Hưng Đạo và Trần Quốc Toản tiêu diệt quân Nguyên; Vua Quang Trung đại phá quân Thanh; Nguyễn Trãi với bài Bình Ngô Đại Cáo; Lý Thường Kiệt phá Tống với bài thơ:
Nam quốc sơn hà Nam Đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Ngô Linh Ngọc dịch:
Đất nước Đại Nam, Nam Đế ngự,
Sách trời định phận rõ non sông.
Cớ sao nghịch tặc sang xâm phạm,
Bay hãy chờ coi chuốc bại vong!
Huệ Lộc
7/17/2015
-
- Posts: 859
- Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm
Nỗi oan của Khổng Tử
Khải Nguyen
Chẳng phải là nỗi oan Thị Mầu càng không phải nỗi oan Thị Kính. Đây là nỗi oan khó gọi tên, khó giãi bày, có khi ẩn sau ánh hào quang.
Bình sinh Khổng tử trải qua ba việc lớn: đi thuyết khách, làm chính khách và dạy học. Hai việc đầu liên quan mật thiết với nhau. Ngài du thuyết các vua chư hầu cố vực dậy cái ngai “con trời” đã ọp ẹp của nhà Chu. Họ ít nghe ngài. Thảng hoặc có người toan nghe nhưng khi thấy chẳng thuận với quyền và lợi của họ thì họ quay lưng lại. Cả hai vai thuyết khách và chính khách đều long đong đến mức có lúc ngài nói ra miệng với học trò là sẵn sàng đi theo kẻ cướp hoặc tán đồng người ta ví mình như con chó nhà có tang. Bước thành đạt nhất của ngài là lúc được vua nước Lỗ nghe theo và cho làm quan có quyền hành thực sự ở mức có thể giết phăng kẻ đối lập trước mặt vua. Tiếc rằng lúc đang đắc thế nhất lại phải cược tiền đồ sự nghiệp của mình vào miếng thịt tế và rồi đành phải ra đi. Cuối cùng sự nghiệp của ngài chốt lại ở việc dạy học. Đây là thành công duy nhất của ngài và được người đời đánh giá cao. Dẫu rằng danh tôn “vạn thế sư biểu” là có cường điệu và vì lí do chính trị là chủ yếu thì cũng là một sự ghi công không tệ.
Bảo thẳng ngài rằng ngài là “người thầy của muôn đời” hẳn là ngài chẳng dám nhận. Chẳng phải vì bọn hậu sinh của ngài chỉ mượn danh ngài, trưng những câu nói của ngài, tạo ra học thuyết, thậm chí một “đạo”, - đạo Khổng Mạnh, ghép tên ngài với tên một học trò của học trò ngài -, thực ra là để củng cố thứ chế độ chuyên chế sống dai nhất trong lịch sử nhân loại. Càng về sau ngài càng được “thánh hóa”, song đạo của ngài tuy được xếp vào hàng tôn giáo (Nho giáo) lại nặng về thế quyền, thay vì thần quyền, và ngày càng gắn chặt vào thế quyền, vừa là công cụ ý thức hệ, vừa là công cụ ngu dân, là cái “ám ảnh” xã hội và lịch sử đeo đẳng rất khó gột. Ngài có thể can dự gì được vào những chuyện đó!
Với tư cách người thầy, có những lời ngài dạy là hợp lẽ đời, tỉ như “những gì mình không muốn chớ làm cho người”; có những lời khuyên khôn ngoan, tỉ như “với quỉ thần chỉ nên kính từ xa”; nhưng có những lời ngài dạy hoặc ngài tâm đắc chỉ hợp với tầng lớp thống trị hoặc có lợi cho họ, tỉ như “đàn bà là khó dạy”, “lễ nghĩa chẳng xuống đến hạng dân đen, hình phạt không lên đến giới quan lớn”. Tất nhiên, những lời của ngài, dù đúng dù sai, là dành cho con người và xã hội cách nay hơn hai ngàn năm; người đời sau muốn sử dụng hoặc lợi dụng phải biến báo đi.
“Đạo” của ngài lẽ tất nhiên là phát xuất từ ngài, bao gồm (chủ yếu) những gì ngài tiếp nhận từ tiền nhân, -những người nổi danh như Chu công và những người vô danh tập hợp trong các “kinh” mà ngài thu thập hoặc san nhuận. Nội dung của nó được các học trò thân tín của ngài và những lớp học trò hậu duệ của họ “biên tập”, bổ sung. Rồi nho sĩ các đời sau góp phần cải biên theo nhu cầu của thời thế, bắt đầu từ Đổng Trọng Thư, một Hán nho, người đã theo chủ trương của Hán Vũ đế đưa ngài và học thuyết nhân danh ngài lên ngôi độc tôn ở Hoa hạ; mạnh tay nhất sau này là Tống nho.
Các đời sau tôn sùng ngài là bậc thầy (phu tử), là nhà tư tưởng, triết nhân, thậm chí là “thánh”, cũng được đi. Nhưng nên nỗi cái gì cũng viện “thánh hiền”: đạo thánh hiền, lời dạy của thánh hiền, chữ của thánh hiền [Đến nước không được để những tờ giấy có chữ nho (“chữ của thánh hiền”) rơi vãi ở những nơi uế tạp, nhặt được nếu không tiện cất giữ thì phải hoặc là đốt đi hoặc là thả vào giếng nước ăn(!) như ở đất nước VN thời chưa xa lắm -chẳng biết còn ở xứ nào khác không?!] để cho đất nước trì trệ mà tâm thức lại u tối trước “họa của bọn quỉ Bạch dương” như ở Trung quốc, Việt Nam … thì đâu phải do ngài! Vậy mà có những người như cái ông Lỗ Tấn ở đất nước ngài kết tội ngài và đạo của ngài đã kìm hãm dân tộc Trung Hoa vào vòng nghèo hèn, lạc hậu. Thật không công bằng! Tại ngài hay tại “các người”. Cũng là dân Á đông “học Nho” mà sao người Nhật sớm tỉnh thức trước pháo hạm phương Tây? Tại “thuốc lú” hay tại người cứ muốn trầm luân trong thuốc lú? Đâu nặng tội hơn!
Ngài bị hàm oan vậy, song dù sao họ cũng còn có cái cớ của họ, bám víu vào những hoàn cảnh địa-chính trị, địa-lịch sử ... này nọ. Đến như cái bọn đã làm cách mạng rồi, đã làm “đại cách mạng văn hóa vô sản”, đã đập phá, đốt rụi hầu hết mọi thứ di sản rồi mà còn bày trò “phê Khổng” hạ bệ ngài. Vẫn biết đó là trò gắn kết chủ yếu để triệt đối thủ chính trị (Lâm và phe cánh) đồng thời quét các tư tưởng “phi Mao” (trong đó có dằn mặt “đại nho” họ Chu, mặc dù đó là một kẻ cực kì tuân phục họ Mao, theo hồi kí của Lí Chí Thỏa bác sĩ riêng của Mao). Ngài dây gì đến bọn họ mà lôi ngài dậy làm nhục ngài! Sau nạn này, tưởng thế là ngài sẽ được yên là bóng ma lịch sử, dù có đáng ngậm ngùi đôi chút. Chẳng ngờ mới đó chưa lâu mà nay người ta là dựng ngài dậy nâng lên cực cao, vượt mọi suy tôn từ trước. Thế lực cầm quyền tạo ra lớp “nhà nho mới” (chữ của Lưu Hiểu Ba -LHB) xưng tụng ngài không chỉ trong nước bằng mọi phương tiện truyền thông, thậm chí muốn nâng “Khổng tử như vị cứu tinh thế giới” mà LHB đã vạch ra. Các viện Khổng tử được lập hầu khắp thế giới tuy dưới danh nghĩa trung tâm văn hóa nhưng lại chịu sự chi phối chính trị từ Bắc kinh. Vậy là với ý đồ “phục hưng vĩ đại” để thực hiện “giấc mơ Trung Hoa” bá quyền đại Hán siêu cường, dưới chiêu bài trỗi dậy hòa bình, người ta sử dụng ngài như là một giáo chủ “Trung Hoa giáo” hay “Đại Hán giáo” và là một thần tượng “tinh hoa tư tưởng phương Đông”. Đến đây thì ngài khó mà minh oan với thiên hạ. Vẫn biết sinh thời ngài có hai điều sở đắc lớn: thuyết “tôn quân” vì các đấng chí tôn thay trời chăn dân và thuyết “đại nhất thống” coi Trung Quốc là cái rốn thiên hạ. Hãy thông cảm với ngài. Thời của ngài, ngài chỉ được nghe truyền lại, kể lại từng có những thời thịnh trị dân cư được an lạc dưới các triều vua Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ, … , ngài chẳng mong gì hơn dân cảnh và dân tình được như dưới các thời ấy. Do vậy, việc thuyết giảng của ngài chủ yếu là “truyền đạt văn hóa cổ xưa”. Mặt khác, ngài cũng chỉ biết dưới trời (thiên hạ) chỉ có giang sơn nhà Chu, mệnh danh Trung quốc, và ven quanh là vùng đất của các dân tộc ít người bị coi là kém phát triển hơn và bị gọi là man di. Do vậy, ngài mong muốn “thiên tử” giang rộng tay ôm trọn cho muôn dân được hưởng ơn mưa móc. Ngày nay, hai điều đó họ đã đạt vượt xa sở nguyện của ngài lúc sinh thời. “Tôn quân” thì rõ ràng các “hoàng đế hiện đại”, cá nhân và tập thể, quyền uy lệch cả trời. “Đại nhất thống” thì họ đã thâu tóm một giang sơn rộng gấp hàng mấy chục lần cái “Trung quốc” nằm gọn trong lưu vực sông Hoàng Hà thuở ngài sống; nữa, còn vươn vòi “quyền lực cứng”, “quyền lực mềm” ra toàn cầu. Thế mà còn lôi ngài ra làm “cái bung xung”, một thứ chiêu bài phục vụ lòng ham hố không cùng của họ!
Hiện giờ trên thế giới người ta gờm tham vọng của Trung cộng cho nên người ta ngán những thủ đoạn “quyền lực mềm” của họ trong đó có những cái núp danh “Khổng tử” mà họ trưng ra. Khốn khổ cho ngài! Cũng là danh nhân được hậu thế của mình đem đặt tên cho trung tâm văn hóa đại diện đất nước mình, dân tộc mình ở nước ngoài, mà tên của ngài lại khiến người ta “cảnh giác” thế! Không như của các nước khác, (viện) Gớt của người Đức chẳng hạn, được người ta tôn trọng, vì nể, ít ra là không phải nghi ngại.
Đặt ngài đúng vị thế trong lịch sử, nói đúng hơn, đánh giá đúng đóng góp thực sự của ngài cho đất nước ngài, dân tộc ngài, cả những gì tích cực mà học thuyết của ngài từng ít nhiều đem lại cho nhân quần, là cách giải oan tốt nhất cho ngài. Càng tốt hơn nếu vạch được chân tướng đằng sau những ý đồ lợi dụng và tận dụng ngài để trả lại nguyên vẹn những gì thuộc về ngài, kể cả những tôn vinh mà ngài đáng được hưởng. Với ý nghĩa đó, không ít những người con đáng kính, trung thực và tỉnh táo, của dân tộc TH vĩ đại đã thẳng thắn vạch ra nhiều sự thật có vẻ như xúc phạm ngài mà ngẫm kĩ ra lại là “chiêu tuyết” cho ngài.
Lưu Hiểu Ba, người TQ nổi tiếng từng được giải Nôben hòa bình, trong bài “Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa: ‘Bàn về cơn sốt Khổng tử hiện nay’ ” (Phan Trinh dịch ra tiếng Việt đăng BVN ngày 01/01/2015) nhận xét rằng giáo huấn của Khổng tử “chỉ là trí thông minh nhỏ, không chứa đựng trí tuệ lớn” và chỉ ra rằng: “Tệ sùng bái thánh nhân ở TQ là một công trình văn hóa giả tạo cực lớn do các đời vua chúa cùng bọn văn nhân cung đình phối hợp tạo nên”, và người ta đã sản ra “món hàng giả vô cùng nguy hiểm”. Ông cũng phân tích kĩ về “cơn sốt Khổng tử hiện nay” ở Trung Quốc, qua đó ta có thể luận ra nỗi oan khiên của họ Khổng. Nếu chẳng may mà người ta lợi dụng ông thành công trong muôn một thì tên tuổi của ông, của “đạo” ông không chừng sẽ gắn với những trang bi thảm của nhân loại, mặc dù hình tượng “chó gác cửa” đáng gây mủi lòng!
Nhà đấu tranh cho dân chủ ở TQ họ Lưu cũng dẫn ý kiến của giáo sư Lí Linh, trường đại học Bắc kinh, cách nay chưa lâu, về một Khổng tử “nhân tạo” và trích một câu trong cuốn “Chó nhà tang – Tôi đọc Luận ngữ” của ông này: “Sau khi đọc Luận ngữ, tôi thấy tốt nhất không nên đặt Khổng tử lên bệ thờ, cũng không nên dìm ông xuống bùn, mà chỉ nên nói rằng ông rất giống Đôn Kihôtê (người hùng hoang tưởng trong một cuốn tiểu thuyết Tâybannha nổi tiếng –KN)”. Ai cũng biết Luận ngữ tập hợp những lời của Khổng tử do học trò ông ghi lại và là một trong những tác phẩm kinh điển chủ chốt của đạo Nho.
Ở đất nước VN chúng ta, đạo Nho của “đức Khổng, thầy Mạnh” theo chân bọn quan quân đô hộ bắc phương xâm nhập vào từ hai nghìn năm trước nhưng phải đến thời nhà Hậu Lê trở về sau mới thành độc tôn chi phối tư tưởng, đạo đức cả về mặt chính trị lẫn lối sống xã hội, … Tình trạng trên bắt đầu lung lay từ đầu thế kỉ 20, do ảnh hưởng văn minh Âu Tây, và bị xóa bỏ từ năm 1945. Vậy mà những năm gần đây, trước tình hình đạo đức xuống dốc, sự học xuống cấp, …, một số người, trong đó có thể có những người được đào tạo ở “nước bạn” hoặc có quan hệ làm ăn hay công tác gần gũi với “bạn” đã đề cập đến việc khôi phục lễ nghĩa đông phương, thực chất là lễ nghĩa Khổng giáo. Nổi đình đám nhất hiện tại là địa phương nọ bỏ ra hàng mấy trăm tỉ đồng xây dựng Văn miếu cực kì hoành tráng, sau khi đã cho quan chức chóp bu sang tận quê ngài Khổng học hỏi cung cách xây Khổng miếu, nói là để chấn hưng đạo học (!). [Nghe nói sau khi ‘được’ dư luận la ó dữ quá, các vị đưa tin “mới là đang bàn”!]. Rồi ra những người VN có lương tri có đủ tỉnh táo không để khỏi buộc tội oan ngài là nguyên nhân của những toan tính phi lí, phi nghĩa, cả phi tình, kia? Những toan tính chẳng hề có lợi cho việc giữ gìn, phát huy truyền thống VN nói riêng, truyền thống đông phương nói chung trong xu thế toàn cầu hóa!
Các “hiện tượng” vừa nói khiến hồ nghi cái ý đã nêu phía trên: sự tôn phục nho giáo và Khổng tử ở VN đã cáo chung từ năm 1945 về sau. Sực nhớ cách đây chưa lâu lắm, trong hồi kí của mình, một ông cựu phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng VN, -tương đương phó thủ tướng- kể (khoe) hai điều đắc ý trong lần ông sang công du Bắc kinh: một là, đã đăng đàn nói bằng tiếng Trung (thay vì tiếng nước mình theo thông lệ bang giao quốc tế); hai là, khi thủ tướng Trung cộng hỏi muốn đi tham quan những đâu đã hãnh diện trả lời: Tôi là đồ đệ Khổng tử nên tất nhiên là muốn tham quan Khổng miếu. Chẳng biết ở cõi u minh ngài Khổng có vui lòng vì bỗng dưng có thêm một mê-tông-đồ (và các cụ Mác-Lê có buồn lòng vì bỗng lộ diện một phản đồ ngay cả khi hắn ta đang là một chức sắc đạo mình cao vời!)? Hay là ngài phải khổ tâm vì phải làm thầy “oan” một “đệ tử” đã giảng giải thật “cao siêu” và “thú vị” cho tổng bí thư LD khi so các danh ngôn “kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” và “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”!
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc, nước Tầu có không ít những đại gia về tư tưởng, học thuật: Lão Đam, Trang Chu, Dương Chu, Mặc Địch, Hàn Phi, …, trong đó có những người sâu sắc hơn hoặc đắc dụng hơn Khổng Khâu, nhưng rồi với đời sau đều mất hút trước uy danh và uy thế của họ Khổng và đạo Nho, chẳng phải do sự vượt trội của lẽ đạo cũng như con người Khổng tử. Hầu như không có phản ứng nào, và, cũng hầu như cam phận xuôi lịch sử (dẫu cũng đã có những ý kiến bàn tán, chẳng hạn, Lão tử phải bỏ đi ra ngoài quan ải vì ngán hoặc không ưa Khổng tử). Có một ngoại lệ, nhưng đây chẳng phải là nhân vật lịch sử; đúng ra chỉ là một nhân vật dã sử hoặc truyền thuyết. Hồi nào chầu rìa bên một buổi chuyện vãn của mấy cụ nho, người viết bài này được nghe kể về sự tích con ruồi. Sinh thời Khổng tử có một người kình địch về tài biện bác: Hạng Thác. Cậu bé này giải được những câu hỏi uẩn khúc; ngược lại họ Khổng không ít lần bí. Cậu bé mất sớm, gần cùng lúc với Khổng tử, người được tế lễ linh đình đương thời và hậu thế. Tình cảnh cậu bé thì trái lại. Hạng Thác bèn nguyện hóa thành con ruồi để hưởng trước những lễ vật bày ra cúng Khổng tử ngay khi chưa kịp khấn vái (mời mọc) ngài. –có thể coi đây là sự “đắc thắng” của cậu bé họ Hạng, mà cũng có thể là một sự “lưu hận” đời đời!- Câu chuyện vừa phi khoa học, vừa mất vệ sinh, phảng phất trào phúng, muốn nói lên điều gì? Hư danh? Sự tôn phục, chân giả? Chỉ con ruồi biết thực ra là cúng bái (tôn sùng) ai và cái gì chăng? Đâu chỉ có chuyện “xôi thịt”! Hoặc giả chẳng còn là chuyện “kính nhi viễn chi”! Liệu thời nay còn những lời nguyền kiểu Hạng Thác? Có điều, dường như có thể có nỗi oan thánh nhân mà khó có nỗi oan con ruồi!
Khải Nguyen
Chẳng phải là nỗi oan Thị Mầu càng không phải nỗi oan Thị Kính. Đây là nỗi oan khó gọi tên, khó giãi bày, có khi ẩn sau ánh hào quang.
Bình sinh Khổng tử trải qua ba việc lớn: đi thuyết khách, làm chính khách và dạy học. Hai việc đầu liên quan mật thiết với nhau. Ngài du thuyết các vua chư hầu cố vực dậy cái ngai “con trời” đã ọp ẹp của nhà Chu. Họ ít nghe ngài. Thảng hoặc có người toan nghe nhưng khi thấy chẳng thuận với quyền và lợi của họ thì họ quay lưng lại. Cả hai vai thuyết khách và chính khách đều long đong đến mức có lúc ngài nói ra miệng với học trò là sẵn sàng đi theo kẻ cướp hoặc tán đồng người ta ví mình như con chó nhà có tang. Bước thành đạt nhất của ngài là lúc được vua nước Lỗ nghe theo và cho làm quan có quyền hành thực sự ở mức có thể giết phăng kẻ đối lập trước mặt vua. Tiếc rằng lúc đang đắc thế nhất lại phải cược tiền đồ sự nghiệp của mình vào miếng thịt tế và rồi đành phải ra đi. Cuối cùng sự nghiệp của ngài chốt lại ở việc dạy học. Đây là thành công duy nhất của ngài và được người đời đánh giá cao. Dẫu rằng danh tôn “vạn thế sư biểu” là có cường điệu và vì lí do chính trị là chủ yếu thì cũng là một sự ghi công không tệ.
Bảo thẳng ngài rằng ngài là “người thầy của muôn đời” hẳn là ngài chẳng dám nhận. Chẳng phải vì bọn hậu sinh của ngài chỉ mượn danh ngài, trưng những câu nói của ngài, tạo ra học thuyết, thậm chí một “đạo”, - đạo Khổng Mạnh, ghép tên ngài với tên một học trò của học trò ngài -, thực ra là để củng cố thứ chế độ chuyên chế sống dai nhất trong lịch sử nhân loại. Càng về sau ngài càng được “thánh hóa”, song đạo của ngài tuy được xếp vào hàng tôn giáo (Nho giáo) lại nặng về thế quyền, thay vì thần quyền, và ngày càng gắn chặt vào thế quyền, vừa là công cụ ý thức hệ, vừa là công cụ ngu dân, là cái “ám ảnh” xã hội và lịch sử đeo đẳng rất khó gột. Ngài có thể can dự gì được vào những chuyện đó!
Với tư cách người thầy, có những lời ngài dạy là hợp lẽ đời, tỉ như “những gì mình không muốn chớ làm cho người”; có những lời khuyên khôn ngoan, tỉ như “với quỉ thần chỉ nên kính từ xa”; nhưng có những lời ngài dạy hoặc ngài tâm đắc chỉ hợp với tầng lớp thống trị hoặc có lợi cho họ, tỉ như “đàn bà là khó dạy”, “lễ nghĩa chẳng xuống đến hạng dân đen, hình phạt không lên đến giới quan lớn”. Tất nhiên, những lời của ngài, dù đúng dù sai, là dành cho con người và xã hội cách nay hơn hai ngàn năm; người đời sau muốn sử dụng hoặc lợi dụng phải biến báo đi.
“Đạo” của ngài lẽ tất nhiên là phát xuất từ ngài, bao gồm (chủ yếu) những gì ngài tiếp nhận từ tiền nhân, -những người nổi danh như Chu công và những người vô danh tập hợp trong các “kinh” mà ngài thu thập hoặc san nhuận. Nội dung của nó được các học trò thân tín của ngài và những lớp học trò hậu duệ của họ “biên tập”, bổ sung. Rồi nho sĩ các đời sau góp phần cải biên theo nhu cầu của thời thế, bắt đầu từ Đổng Trọng Thư, một Hán nho, người đã theo chủ trương của Hán Vũ đế đưa ngài và học thuyết nhân danh ngài lên ngôi độc tôn ở Hoa hạ; mạnh tay nhất sau này là Tống nho.
Các đời sau tôn sùng ngài là bậc thầy (phu tử), là nhà tư tưởng, triết nhân, thậm chí là “thánh”, cũng được đi. Nhưng nên nỗi cái gì cũng viện “thánh hiền”: đạo thánh hiền, lời dạy của thánh hiền, chữ của thánh hiền [Đến nước không được để những tờ giấy có chữ nho (“chữ của thánh hiền”) rơi vãi ở những nơi uế tạp, nhặt được nếu không tiện cất giữ thì phải hoặc là đốt đi hoặc là thả vào giếng nước ăn(!) như ở đất nước VN thời chưa xa lắm -chẳng biết còn ở xứ nào khác không?!] để cho đất nước trì trệ mà tâm thức lại u tối trước “họa của bọn quỉ Bạch dương” như ở Trung quốc, Việt Nam … thì đâu phải do ngài! Vậy mà có những người như cái ông Lỗ Tấn ở đất nước ngài kết tội ngài và đạo của ngài đã kìm hãm dân tộc Trung Hoa vào vòng nghèo hèn, lạc hậu. Thật không công bằng! Tại ngài hay tại “các người”. Cũng là dân Á đông “học Nho” mà sao người Nhật sớm tỉnh thức trước pháo hạm phương Tây? Tại “thuốc lú” hay tại người cứ muốn trầm luân trong thuốc lú? Đâu nặng tội hơn!
Ngài bị hàm oan vậy, song dù sao họ cũng còn có cái cớ của họ, bám víu vào những hoàn cảnh địa-chính trị, địa-lịch sử ... này nọ. Đến như cái bọn đã làm cách mạng rồi, đã làm “đại cách mạng văn hóa vô sản”, đã đập phá, đốt rụi hầu hết mọi thứ di sản rồi mà còn bày trò “phê Khổng” hạ bệ ngài. Vẫn biết đó là trò gắn kết chủ yếu để triệt đối thủ chính trị (Lâm và phe cánh) đồng thời quét các tư tưởng “phi Mao” (trong đó có dằn mặt “đại nho” họ Chu, mặc dù đó là một kẻ cực kì tuân phục họ Mao, theo hồi kí của Lí Chí Thỏa bác sĩ riêng của Mao). Ngài dây gì đến bọn họ mà lôi ngài dậy làm nhục ngài! Sau nạn này, tưởng thế là ngài sẽ được yên là bóng ma lịch sử, dù có đáng ngậm ngùi đôi chút. Chẳng ngờ mới đó chưa lâu mà nay người ta là dựng ngài dậy nâng lên cực cao, vượt mọi suy tôn từ trước. Thế lực cầm quyền tạo ra lớp “nhà nho mới” (chữ của Lưu Hiểu Ba -LHB) xưng tụng ngài không chỉ trong nước bằng mọi phương tiện truyền thông, thậm chí muốn nâng “Khổng tử như vị cứu tinh thế giới” mà LHB đã vạch ra. Các viện Khổng tử được lập hầu khắp thế giới tuy dưới danh nghĩa trung tâm văn hóa nhưng lại chịu sự chi phối chính trị từ Bắc kinh. Vậy là với ý đồ “phục hưng vĩ đại” để thực hiện “giấc mơ Trung Hoa” bá quyền đại Hán siêu cường, dưới chiêu bài trỗi dậy hòa bình, người ta sử dụng ngài như là một giáo chủ “Trung Hoa giáo” hay “Đại Hán giáo” và là một thần tượng “tinh hoa tư tưởng phương Đông”. Đến đây thì ngài khó mà minh oan với thiên hạ. Vẫn biết sinh thời ngài có hai điều sở đắc lớn: thuyết “tôn quân” vì các đấng chí tôn thay trời chăn dân và thuyết “đại nhất thống” coi Trung Quốc là cái rốn thiên hạ. Hãy thông cảm với ngài. Thời của ngài, ngài chỉ được nghe truyền lại, kể lại từng có những thời thịnh trị dân cư được an lạc dưới các triều vua Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ, … , ngài chẳng mong gì hơn dân cảnh và dân tình được như dưới các thời ấy. Do vậy, việc thuyết giảng của ngài chủ yếu là “truyền đạt văn hóa cổ xưa”. Mặt khác, ngài cũng chỉ biết dưới trời (thiên hạ) chỉ có giang sơn nhà Chu, mệnh danh Trung quốc, và ven quanh là vùng đất của các dân tộc ít người bị coi là kém phát triển hơn và bị gọi là man di. Do vậy, ngài mong muốn “thiên tử” giang rộng tay ôm trọn cho muôn dân được hưởng ơn mưa móc. Ngày nay, hai điều đó họ đã đạt vượt xa sở nguyện của ngài lúc sinh thời. “Tôn quân” thì rõ ràng các “hoàng đế hiện đại”, cá nhân và tập thể, quyền uy lệch cả trời. “Đại nhất thống” thì họ đã thâu tóm một giang sơn rộng gấp hàng mấy chục lần cái “Trung quốc” nằm gọn trong lưu vực sông Hoàng Hà thuở ngài sống; nữa, còn vươn vòi “quyền lực cứng”, “quyền lực mềm” ra toàn cầu. Thế mà còn lôi ngài ra làm “cái bung xung”, một thứ chiêu bài phục vụ lòng ham hố không cùng của họ!
Hiện giờ trên thế giới người ta gờm tham vọng của Trung cộng cho nên người ta ngán những thủ đoạn “quyền lực mềm” của họ trong đó có những cái núp danh “Khổng tử” mà họ trưng ra. Khốn khổ cho ngài! Cũng là danh nhân được hậu thế của mình đem đặt tên cho trung tâm văn hóa đại diện đất nước mình, dân tộc mình ở nước ngoài, mà tên của ngài lại khiến người ta “cảnh giác” thế! Không như của các nước khác, (viện) Gớt của người Đức chẳng hạn, được người ta tôn trọng, vì nể, ít ra là không phải nghi ngại.
Đặt ngài đúng vị thế trong lịch sử, nói đúng hơn, đánh giá đúng đóng góp thực sự của ngài cho đất nước ngài, dân tộc ngài, cả những gì tích cực mà học thuyết của ngài từng ít nhiều đem lại cho nhân quần, là cách giải oan tốt nhất cho ngài. Càng tốt hơn nếu vạch được chân tướng đằng sau những ý đồ lợi dụng và tận dụng ngài để trả lại nguyên vẹn những gì thuộc về ngài, kể cả những tôn vinh mà ngài đáng được hưởng. Với ý nghĩa đó, không ít những người con đáng kính, trung thực và tỉnh táo, của dân tộc TH vĩ đại đã thẳng thắn vạch ra nhiều sự thật có vẻ như xúc phạm ngài mà ngẫm kĩ ra lại là “chiêu tuyết” cho ngài.
Lưu Hiểu Ba, người TQ nổi tiếng từng được giải Nôben hòa bình, trong bài “Hôm qua chó nhà tang, hôm nay chó gác cửa: ‘Bàn về cơn sốt Khổng tử hiện nay’ ” (Phan Trinh dịch ra tiếng Việt đăng BVN ngày 01/01/2015) nhận xét rằng giáo huấn của Khổng tử “chỉ là trí thông minh nhỏ, không chứa đựng trí tuệ lớn” và chỉ ra rằng: “Tệ sùng bái thánh nhân ở TQ là một công trình văn hóa giả tạo cực lớn do các đời vua chúa cùng bọn văn nhân cung đình phối hợp tạo nên”, và người ta đã sản ra “món hàng giả vô cùng nguy hiểm”. Ông cũng phân tích kĩ về “cơn sốt Khổng tử hiện nay” ở Trung Quốc, qua đó ta có thể luận ra nỗi oan khiên của họ Khổng. Nếu chẳng may mà người ta lợi dụng ông thành công trong muôn một thì tên tuổi của ông, của “đạo” ông không chừng sẽ gắn với những trang bi thảm của nhân loại, mặc dù hình tượng “chó gác cửa” đáng gây mủi lòng!
Nhà đấu tranh cho dân chủ ở TQ họ Lưu cũng dẫn ý kiến của giáo sư Lí Linh, trường đại học Bắc kinh, cách nay chưa lâu, về một Khổng tử “nhân tạo” và trích một câu trong cuốn “Chó nhà tang – Tôi đọc Luận ngữ” của ông này: “Sau khi đọc Luận ngữ, tôi thấy tốt nhất không nên đặt Khổng tử lên bệ thờ, cũng không nên dìm ông xuống bùn, mà chỉ nên nói rằng ông rất giống Đôn Kihôtê (người hùng hoang tưởng trong một cuốn tiểu thuyết Tâybannha nổi tiếng –KN)”. Ai cũng biết Luận ngữ tập hợp những lời của Khổng tử do học trò ông ghi lại và là một trong những tác phẩm kinh điển chủ chốt của đạo Nho.
Ở đất nước VN chúng ta, đạo Nho của “đức Khổng, thầy Mạnh” theo chân bọn quan quân đô hộ bắc phương xâm nhập vào từ hai nghìn năm trước nhưng phải đến thời nhà Hậu Lê trở về sau mới thành độc tôn chi phối tư tưởng, đạo đức cả về mặt chính trị lẫn lối sống xã hội, … Tình trạng trên bắt đầu lung lay từ đầu thế kỉ 20, do ảnh hưởng văn minh Âu Tây, và bị xóa bỏ từ năm 1945. Vậy mà những năm gần đây, trước tình hình đạo đức xuống dốc, sự học xuống cấp, …, một số người, trong đó có thể có những người được đào tạo ở “nước bạn” hoặc có quan hệ làm ăn hay công tác gần gũi với “bạn” đã đề cập đến việc khôi phục lễ nghĩa đông phương, thực chất là lễ nghĩa Khổng giáo. Nổi đình đám nhất hiện tại là địa phương nọ bỏ ra hàng mấy trăm tỉ đồng xây dựng Văn miếu cực kì hoành tráng, sau khi đã cho quan chức chóp bu sang tận quê ngài Khổng học hỏi cung cách xây Khổng miếu, nói là để chấn hưng đạo học (!). [Nghe nói sau khi ‘được’ dư luận la ó dữ quá, các vị đưa tin “mới là đang bàn”!]. Rồi ra những người VN có lương tri có đủ tỉnh táo không để khỏi buộc tội oan ngài là nguyên nhân của những toan tính phi lí, phi nghĩa, cả phi tình, kia? Những toan tính chẳng hề có lợi cho việc giữ gìn, phát huy truyền thống VN nói riêng, truyền thống đông phương nói chung trong xu thế toàn cầu hóa!
Các “hiện tượng” vừa nói khiến hồ nghi cái ý đã nêu phía trên: sự tôn phục nho giáo và Khổng tử ở VN đã cáo chung từ năm 1945 về sau. Sực nhớ cách đây chưa lâu lắm, trong hồi kí của mình, một ông cựu phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng VN, -tương đương phó thủ tướng- kể (khoe) hai điều đắc ý trong lần ông sang công du Bắc kinh: một là, đã đăng đàn nói bằng tiếng Trung (thay vì tiếng nước mình theo thông lệ bang giao quốc tế); hai là, khi thủ tướng Trung cộng hỏi muốn đi tham quan những đâu đã hãnh diện trả lời: Tôi là đồ đệ Khổng tử nên tất nhiên là muốn tham quan Khổng miếu. Chẳng biết ở cõi u minh ngài Khổng có vui lòng vì bỗng dưng có thêm một mê-tông-đồ (và các cụ Mác-Lê có buồn lòng vì bỗng lộ diện một phản đồ ngay cả khi hắn ta đang là một chức sắc đạo mình cao vời!)? Hay là ngài phải khổ tâm vì phải làm thầy “oan” một “đệ tử” đã giảng giải thật “cao siêu” và “thú vị” cho tổng bí thư LD khi so các danh ngôn “kỉ sở bất dục vật thi ư nhân” và “mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”!
Thời Xuân Thu – Chiến Quốc, nước Tầu có không ít những đại gia về tư tưởng, học thuật: Lão Đam, Trang Chu, Dương Chu, Mặc Địch, Hàn Phi, …, trong đó có những người sâu sắc hơn hoặc đắc dụng hơn Khổng Khâu, nhưng rồi với đời sau đều mất hút trước uy danh và uy thế của họ Khổng và đạo Nho, chẳng phải do sự vượt trội của lẽ đạo cũng như con người Khổng tử. Hầu như không có phản ứng nào, và, cũng hầu như cam phận xuôi lịch sử (dẫu cũng đã có những ý kiến bàn tán, chẳng hạn, Lão tử phải bỏ đi ra ngoài quan ải vì ngán hoặc không ưa Khổng tử). Có một ngoại lệ, nhưng đây chẳng phải là nhân vật lịch sử; đúng ra chỉ là một nhân vật dã sử hoặc truyền thuyết. Hồi nào chầu rìa bên một buổi chuyện vãn của mấy cụ nho, người viết bài này được nghe kể về sự tích con ruồi. Sinh thời Khổng tử có một người kình địch về tài biện bác: Hạng Thác. Cậu bé này giải được những câu hỏi uẩn khúc; ngược lại họ Khổng không ít lần bí. Cậu bé mất sớm, gần cùng lúc với Khổng tử, người được tế lễ linh đình đương thời và hậu thế. Tình cảnh cậu bé thì trái lại. Hạng Thác bèn nguyện hóa thành con ruồi để hưởng trước những lễ vật bày ra cúng Khổng tử ngay khi chưa kịp khấn vái (mời mọc) ngài. –có thể coi đây là sự “đắc thắng” của cậu bé họ Hạng, mà cũng có thể là một sự “lưu hận” đời đời!- Câu chuyện vừa phi khoa học, vừa mất vệ sinh, phảng phất trào phúng, muốn nói lên điều gì? Hư danh? Sự tôn phục, chân giả? Chỉ con ruồi biết thực ra là cúng bái (tôn sùng) ai và cái gì chăng? Đâu chỉ có chuyện “xôi thịt”! Hoặc giả chẳng còn là chuyện “kính nhi viễn chi”! Liệu thời nay còn những lời nguyền kiểu Hạng Thác? Có điều, dường như có thể có nỗi oan thánh nhân mà khó có nỗi oan con ruồi!

Một ngày kia
Một ngày kia, có một người đàn ông trung niên tướng mạo xấu xí, dẫn theo một cô gái vô cùng trẻ trung xinh đẹp, đến một cửa hàng chuyên buôn bán những chiếc túi xách hàng hiệu.
tien, lừa đảo, hạnh phúc, hàng hiệu, Bài chọn lọc,
Ông ta đã chọn một túi xách trị giá đến 18,000USD cho cô gái. Khi trả tiền, người đàn ông lấy ra cuốn chi phiếu, chẳng ngần ngại điền số tiền vào một tờ chi phiếu, nhân viên cửa hàng có phần khó xử. Người đàn ông nhìn thấu tâm tư của cô nhân viên, nên hết sức bình tĩnh nói với người bán hàng: “Tôi cảm thấy dường như cô đang lo sợ đây là một tờ chi phiếu không tiền bảo chứng, phải không? Hôm nay lại là Thứ Bảy, ngân hàng không mở cửa. Thôi thì tôi đề nghị cô hãy giữ tờ chi phiếu và cả cái túi xách này lại. Đợi đến đầu tuần tới, sau khi đổi được tiền rồi, thì xin cô hãy gửi túi xách này đến nhà của tiểu thư xinh đẹp này, cô thấy như vậy có được không?”.
Kết quả sẽ như thế nào? Xin hãy mau đọc tiếp…….
Cô nhân viên cửa hàng nghe xong hoàn toàn yên tâm, vui vẻ chấp nhận lời đề nghị này, lại còn hào hứng cam đoan rằng chi phí gửi túi xách sẽ do cửa hàng này đảm nhiệm.
Sáng Thứ Hai, nhân viên cửa hàng đem tấm chi phiếu đến ngân hàng thanh toán, kết quả tờ chi phiếu này quả thật là tờ chi phiếu không tiền bảo chứng!
Người nhân viên vô cùng tức giận, liền gọi điện cho người đàn ông đó, người đàn ông nói với cô rằng: “Chuyện này có gì to tát lắm đâu, tôi và cô cả hai đều không bị tổn thất gì cả. Hôm Thứ Bảy đó, tôi cuối cùng đã chiếm hữu được cô gái đó rồi! Thật lòng cảm ơn sự hợp tác của cô”.
Câu chuyện này nói với chúng ta rằng:
Những gì mà chính bản thân ta “nhìn thấy tận mắt” cũng chưa chắc đã là thật.
Tham hư vinh thì phải trả một cái giá rất đắt. Cô gái xinh đẹp kia cho rằng cái túi xách trị giá hàng nghìn USD đó sẽ được giao đến tận nhà vào sáng Thứ Hai, nên tự nhiên cũng đã buông lơi cảnh giác, cho rằng đầu tư như vậy thật là xứng đáng. Cô vốn đã không biết rằng bản thân mình đang chơi trò mạo hiểm, chẳng hề có bất cứ sự đảm bảo nào.
Một con cáo phát hiện một chuồng gà, nhưng con cáo đó vì quá mập nên không thể chui lọt qua hàng rào để ăn gà. Thế là nó nhịn đói suốt ba ngày, cuối cùng đã vào được. Tuy nhiên, sau khi ăn no nê rồi, chiếc bụng phình to nên lại không ra được nữa, đành phải bắt đầu nhịn đói lại ba ngày mới ra được. Cuối cùng nó xót xa than thở rằng, bản thân mình ngoài nhất thời sướng miệng ra, trên cơ bản hoàn toàn là phí công vô ích.
Đời người không phải cũng như vậy sao. Đến trần truồng mà ra đi cũng trần truồng. Không ai có thể mang theo tài sản và danh vọng mà mình đã vất vả kinh doanh một đời để theo cùng.
Vậy nên những lúc nên làm việc thì hãy làm việc, những lúc nên nghỉ ngơi thì hãy nghỉ ngơi, vui vẻ làm việc, tận hưởng cuộc sống, trân quý tất cả những gì mà mình có được, hãy yêu thương những người mà bạn yêu thương, vui vẻ mà sống trọn từng ngày.
Sống một ngày vui vẻ là sống một ngày,
Sống một ngày không vui vẻ cũng là sống một ngày…….
Vậy tại sao chúng ta lại không trân quý hết, vui vẻ mà sống trọn một ngày chứ!
Những điều du khách ngỡ ngàng khi đến Nhật Bản
Ở Nhật, nghỉ đêm trong khách sạn con nhộng, ngủ gật trên các chuyến tàu rất phổ biến nhưng boa tiền hay tự rót đồ uống cho mình lại không được khuyến khích.
Dưới đây là một số điều du khách cần chú ý khi tới Nhật.
Trả tiền boa là xúc phạm
Boa tiền ở Nhật là một hành động thô lỗ, thậm chí còn bị xem là xúc phạm người khác. Việc trả tiền boa thường gây ra những tình huống khó xử, nhiều du khách còn đuổi theo để đưa tiền cho người phục vụ. Nếu ai đó đặc biệt tốt bụng và bạn thật lòng muốn đáp lại, hãy gửi họ một món quà như hộp kẹo hoặc chai rượu thay vì tiền boa.
Hỉ mũi nơi công cộng là thô lỗ
Hành động này ở nơi công cộng không chỉ bất lịch sự mà còn gây phiền hà. Tại Nhật Bản, mọi người cần tìm chỗ riêng tư, tránh ảnh hưởng đến xung quanh để hỉ mũi. Nếu không thể chịu được, bạn nên hỉ mũi một cách thận trọng và kín đáo nhất có thể.
Tự rót vào cốc mình là bất lịch sự
Ở Mỹ và một số quốc gia khác, việc tự phục vụ rất phổ biến. Còn ở Nhật, bạn không nên tự rót đồ uống cho bản thân. Bạn rót đồ cho người khác thì họ cũng sẽ sẵn lòng tiếp thức uống lại khi thấy cốc cạn.

Khi ăn uống ở Nhật, bạn không nên tự rót đồ uống cho mình. Ảnh: winetimes.
Đi bộ và ăn cùng lúc bị xem là luộm thuộm
Vừa đi vừa ăn rất tiện và còn xuất hiện phổ biến ở các nước phương Tây nhưng điều này không được chấp nhận ở Nhật Bản. Thực tế vẫn có ngoại lệ nhưng hầu như mọi người khi đi bộ và ăn cùng lúc đều bị coi là khiếm nhã, đặc biệt ở trên tàu.
Có nhân viên giục khách lên tàu giờ cao điểm
Oshiya là những người mặc đồng phục, được trả lương để thúc giục mọi người lên tàu vào giờ cao điểm. Nhiệm vụ của họ là đảm bảo tất cả hành khách lên tàu và không bị kẹt ở cửa.
Mọi người dựa vai nhau ngủ trên tàu
Trên các chuyến tàu ở Nhật Bản, có người ngủ và dựa đầu vào vai bạn là chuyện rất bình thường. Lý do là họ có thời gian biểu làm việc rất dài, nhiều người thường xuyên ngủ bù khi đi tàu.
Dép đi trong nhà có ở mọi chỗ
Người Nhật có thói quen đổi dép khi đi vào nhà ở, hàng ăn truyền thống, đền, chùa hay một số bảo tàng và phòng triển lãm. Bất kể khi nào đi qua một hàng dép ở Nhật, bạn cũng nên làm theo mọi người. Trong các nhà vệ sinh cũng có dép đi riêng, du khách sẽ thấy khi vừa bước vào.
Ngủ trong khách sạn con nhộng là chuyện thường
Khách sạn con nhộng ở Nhật là điểm nghỉ ngơi giá rẻ phổ biến. Không gian phòng nhỏ hẹp chỉ vừa một chiếc giường, các phòng đặt sát và chồng lên nhau. Các khách tới đây thường là người buôn bán, doanh nhân khi họ phải đi tiệc bàn công chuyện quá muộn và lỡ chuyến tàu về nhà.

Những người đi tiệc công chuyện khuya không kịp tàu về nhà thường ngủ lại các khách sạn con nhộng. Ảnh: Duviet.
Số 4 mang điềm gở
Trong tiếng Nhật, số 4 đọc gần giống từ "chết" (cả hai đều phát âm là "shi"). Tương tự như số 13 trong văn hóa phương Tây, số 4 được xem là không may mắn nên rất hiếm khi dùng. Hầu hết mọi thứ ở Nhật đều tránh xếp thành 4 bởi vì trông sẽ như vật đem điềm xấu.
Tặng quà cho chủ nhà người Nhật là việc nên làm
Để bày tỏ sự tôn trọng khi đến thăm nhà một người Nhật, bạn nên đem theo quà. Đồ đó có thể là món ăn do bạn tự chế biến. Nếu có thể bạn hãy bọc gói quà gọn và đẹp trước khi đem tặng.
Hương Chi
(theo Business Insider)
Dưới đây là một số điều du khách cần chú ý khi tới Nhật.
Trả tiền boa là xúc phạm
Boa tiền ở Nhật là một hành động thô lỗ, thậm chí còn bị xem là xúc phạm người khác. Việc trả tiền boa thường gây ra những tình huống khó xử, nhiều du khách còn đuổi theo để đưa tiền cho người phục vụ. Nếu ai đó đặc biệt tốt bụng và bạn thật lòng muốn đáp lại, hãy gửi họ một món quà như hộp kẹo hoặc chai rượu thay vì tiền boa.
Hỉ mũi nơi công cộng là thô lỗ
Hành động này ở nơi công cộng không chỉ bất lịch sự mà còn gây phiền hà. Tại Nhật Bản, mọi người cần tìm chỗ riêng tư, tránh ảnh hưởng đến xung quanh để hỉ mũi. Nếu không thể chịu được, bạn nên hỉ mũi một cách thận trọng và kín đáo nhất có thể.
Tự rót vào cốc mình là bất lịch sự
Ở Mỹ và một số quốc gia khác, việc tự phục vụ rất phổ biến. Còn ở Nhật, bạn không nên tự rót đồ uống cho bản thân. Bạn rót đồ cho người khác thì họ cũng sẽ sẵn lòng tiếp thức uống lại khi thấy cốc cạn.

Khi ăn uống ở Nhật, bạn không nên tự rót đồ uống cho mình. Ảnh: winetimes.
Đi bộ và ăn cùng lúc bị xem là luộm thuộm
Vừa đi vừa ăn rất tiện và còn xuất hiện phổ biến ở các nước phương Tây nhưng điều này không được chấp nhận ở Nhật Bản. Thực tế vẫn có ngoại lệ nhưng hầu như mọi người khi đi bộ và ăn cùng lúc đều bị coi là khiếm nhã, đặc biệt ở trên tàu.
Có nhân viên giục khách lên tàu giờ cao điểm
Oshiya là những người mặc đồng phục, được trả lương để thúc giục mọi người lên tàu vào giờ cao điểm. Nhiệm vụ của họ là đảm bảo tất cả hành khách lên tàu và không bị kẹt ở cửa.
Mọi người dựa vai nhau ngủ trên tàu
Trên các chuyến tàu ở Nhật Bản, có người ngủ và dựa đầu vào vai bạn là chuyện rất bình thường. Lý do là họ có thời gian biểu làm việc rất dài, nhiều người thường xuyên ngủ bù khi đi tàu.
Dép đi trong nhà có ở mọi chỗ
Người Nhật có thói quen đổi dép khi đi vào nhà ở, hàng ăn truyền thống, đền, chùa hay một số bảo tàng và phòng triển lãm. Bất kể khi nào đi qua một hàng dép ở Nhật, bạn cũng nên làm theo mọi người. Trong các nhà vệ sinh cũng có dép đi riêng, du khách sẽ thấy khi vừa bước vào.
Ngủ trong khách sạn con nhộng là chuyện thường
Khách sạn con nhộng ở Nhật là điểm nghỉ ngơi giá rẻ phổ biến. Không gian phòng nhỏ hẹp chỉ vừa một chiếc giường, các phòng đặt sát và chồng lên nhau. Các khách tới đây thường là người buôn bán, doanh nhân khi họ phải đi tiệc bàn công chuyện quá muộn và lỡ chuyến tàu về nhà.

Những người đi tiệc công chuyện khuya không kịp tàu về nhà thường ngủ lại các khách sạn con nhộng. Ảnh: Duviet.
Số 4 mang điềm gở
Trong tiếng Nhật, số 4 đọc gần giống từ "chết" (cả hai đều phát âm là "shi"). Tương tự như số 13 trong văn hóa phương Tây, số 4 được xem là không may mắn nên rất hiếm khi dùng. Hầu hết mọi thứ ở Nhật đều tránh xếp thành 4 bởi vì trông sẽ như vật đem điềm xấu.
Tặng quà cho chủ nhà người Nhật là việc nên làm
Để bày tỏ sự tôn trọng khi đến thăm nhà một người Nhật, bạn nên đem theo quà. Đồ đó có thể là món ăn do bạn tự chế biến. Nếu có thể bạn hãy bọc gói quà gọn và đẹp trước khi đem tặng.
Hương Chi
(theo Business Insider)

Thấy gì qua tin Phùng Quang Thanh?
Phạm Văn Trội
Việc Phạm Quý Ngọ, Nguyễn Bá Thanh và nay là Phùng Quang Thanh [nếu có]…. chết là do đấu đá nội bộ, trong đó là phe đảng và phe chính phủ. Việc này đã diễn ra và còn diễn ra trong nội bộ giới lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam. Nhìn tổng thể thì đó là sự thanh toán nhau do tranh giành quyền lực chứ không phải thanh toán nhau trong sự khác biệt về ý thức hệ [dân chủ và độc tài cộng sản].
Phe chính phủ thì họ cũng là đảng cộng sản [những nhân vật thân Nguyễn Tấn Dũng] có tiêu diệt hết những người thuộc phe đảng [thân với Nguyễn Phú Trọng] thì liệu phe chiến thắng của Nguyễn Tấn Dũng có đủ can đảm để thay đổi thể chế chính trị [từ độc tài đảng trị sang dân chủ pháp trị] không? Tôi không tin phe Nguyễn Tấn Dũng làm như vậy, mà chỉ là sự thay thế nhóm độc tài này bằng một nhóm độc tài khác tiếp tục cai trị dân tộc Việt Nam, có khi còn nguy hiểm hơn cho những người đang đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam nếu ảnh hưởng đến sự cai trị và lợi ích của họ [phe Nguyễn Tấn Dũng].
Sự vui mừng của dân chúng khi nghe tin các quan cộng sản chết, quan càng to mà chết thì dân càng vui; đó chính là dân chúng đã quá chán ghét chế độ cộng sản này rồi và cần phải có sự thay thế bằng những con người mới mang tư tưởng dân chủ triệt để, để xây dựng một mô hình dân chủ trên dân tộc Việt Nam.Chỉ có sự thay thế một tư tưởng lỗi thời cộng sản bằng một tư tưởng dân chủ tiến bộ thì mới có hi vọng cứu nguy cho đất nước chúng ta.
Nguyễn Tấn Dũng biết được lòng dân Việt Nam hôm nay không thích quan hệ với Trung Quốc và cũng biết được Mỹ đang cần quan hệ với Việt Nam để khống chế Trung Quốc và tái cân bằng Châu Á Thái Bình Dương phục vụ lợi ích Mỹ, nên Nguyễn Tấn Dũng tranh thủ cơ hội này tạo thêm sức mạnh cho nhóm cai trị của mình và tìm cách gạt những nhân vật thân Trung Quốc có ảnh hưởng đến vị trí lâu dài trong quyền lực của nhóm Dũng. Trên thực tế quá khứ đã có 632 đề án đưa cán bộ trung cao cấp Việt Nam sang học tập mô hình Trung Quốc từ năm 1992 cho tới nay. Điều đáng nói trong các cán bộ trung cao cấp này [có cả quân đội, công an] đều được chọn những nhân vật có tư tưởng thân Trung Quốc và đều được đưa qua cục tình báo Hoa Nam huấn luyện với các vỏ bọc ngụy trang khác nhau; sau các đợt đi học tập đó trở về thì đều được bổ nhiệm các vị trí quan trong trong bộ máy nhà nước. Vì thế Nguyễn Tấn Dũng lấy được chút lòng dân khi có thái độ với Trung Quốc về vấn đề biển đảo nhưng chắc chắn sẽ không lấy được lòng quan đã được Trung Quốc ‘’cài cắm‘’ ban cho chức vụ và bổng lộc chính trên lưng người dân Việt Nam.
Chúng ta không nên mơ hồ Nguyễn Tấn Dũng sẽ làm cách mạng từ một chế độ độc tài đảng trị sang dân chủ pháp trị và trao trả quyền cho người dân. Những người hoạt động cho dân chủ cần nhìn rõ bản chất vấn đề của sự thanh toán nội bộ của những người cộng sản với nhau. Chúng ta không nên chạy theo sự kiện. Đừng để sự kiện dẫn dắt chúng ta mà chúng ta cần tạo ra sự kiện và làm chủ các sự kiện đó, buộc nhà cầm quyền phải chạy theo các sự kiện chúng ta đưa ra. Để làm được điều này cần một tổ chức, những con người dân chủ đủ mạnh và sự vận động của quần chúng ủng hộ, sự hậu thuẫn của các quốc gia dân chủ về mặt chính trị.
Sự kiện Phùng Quang Thanh [đã chết hay chưa chết] thì đó chỉ là một thứ vô hình của đảng cộng sản vì sự thay thế của một nhân vật cộng sản này bằng một nhân vật cộng sản khác có xu hướng dựa vào Mỹ đề bảo vệ nhóm độc tài lãnh đạo này chứ không phải là chuyển hóa sang thể chế dân chủ kiểu Mỹ; và ngay Mỹ bây giờ cũng đã chấp nhận [về hình thức] ‘’sự tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam không ảnh hưởng đến lợi ích Mỹ‘’. Như vậy chúng ta thấy đã có sự thỏa thuận với nhau, chấp nhận sự khác biệt về thể chế nhưng cùng chung một kẻ thù là Trung Quốc, đó là sự lợi dụng lẫn nhau để cùng đạt một mục đích mà mỗi bên cần.
Phùng Quang Thanh [nếu có chết] thì không phải dân tộc chúng ta muốn, cái mà chúng ta muốn là sự thay đổi chế độ chính trị từ độc tài đảng trị sang dân chủ pháp trị, đó mới là tương lai tươi sang cho dân tộc Việt Nam dài lâu.
Phạm Văn Trội
Phạm Văn Trội
Việc Phạm Quý Ngọ, Nguyễn Bá Thanh và nay là Phùng Quang Thanh [nếu có]…. chết là do đấu đá nội bộ, trong đó là phe đảng và phe chính phủ. Việc này đã diễn ra và còn diễn ra trong nội bộ giới lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam. Nhìn tổng thể thì đó là sự thanh toán nhau do tranh giành quyền lực chứ không phải thanh toán nhau trong sự khác biệt về ý thức hệ [dân chủ và độc tài cộng sản].
Phe chính phủ thì họ cũng là đảng cộng sản [những nhân vật thân Nguyễn Tấn Dũng] có tiêu diệt hết những người thuộc phe đảng [thân với Nguyễn Phú Trọng] thì liệu phe chiến thắng của Nguyễn Tấn Dũng có đủ can đảm để thay đổi thể chế chính trị [từ độc tài đảng trị sang dân chủ pháp trị] không? Tôi không tin phe Nguyễn Tấn Dũng làm như vậy, mà chỉ là sự thay thế nhóm độc tài này bằng một nhóm độc tài khác tiếp tục cai trị dân tộc Việt Nam, có khi còn nguy hiểm hơn cho những người đang đấu tranh cho dân chủ ở Việt Nam nếu ảnh hưởng đến sự cai trị và lợi ích của họ [phe Nguyễn Tấn Dũng].
Sự vui mừng của dân chúng khi nghe tin các quan cộng sản chết, quan càng to mà chết thì dân càng vui; đó chính là dân chúng đã quá chán ghét chế độ cộng sản này rồi và cần phải có sự thay thế bằng những con người mới mang tư tưởng dân chủ triệt để, để xây dựng một mô hình dân chủ trên dân tộc Việt Nam.Chỉ có sự thay thế một tư tưởng lỗi thời cộng sản bằng một tư tưởng dân chủ tiến bộ thì mới có hi vọng cứu nguy cho đất nước chúng ta.
Nguyễn Tấn Dũng biết được lòng dân Việt Nam hôm nay không thích quan hệ với Trung Quốc và cũng biết được Mỹ đang cần quan hệ với Việt Nam để khống chế Trung Quốc và tái cân bằng Châu Á Thái Bình Dương phục vụ lợi ích Mỹ, nên Nguyễn Tấn Dũng tranh thủ cơ hội này tạo thêm sức mạnh cho nhóm cai trị của mình và tìm cách gạt những nhân vật thân Trung Quốc có ảnh hưởng đến vị trí lâu dài trong quyền lực của nhóm Dũng. Trên thực tế quá khứ đã có 632 đề án đưa cán bộ trung cao cấp Việt Nam sang học tập mô hình Trung Quốc từ năm 1992 cho tới nay. Điều đáng nói trong các cán bộ trung cao cấp này [có cả quân đội, công an] đều được chọn những nhân vật có tư tưởng thân Trung Quốc và đều được đưa qua cục tình báo Hoa Nam huấn luyện với các vỏ bọc ngụy trang khác nhau; sau các đợt đi học tập đó trở về thì đều được bổ nhiệm các vị trí quan trong trong bộ máy nhà nước. Vì thế Nguyễn Tấn Dũng lấy được chút lòng dân khi có thái độ với Trung Quốc về vấn đề biển đảo nhưng chắc chắn sẽ không lấy được lòng quan đã được Trung Quốc ‘’cài cắm‘’ ban cho chức vụ và bổng lộc chính trên lưng người dân Việt Nam.
Chúng ta không nên mơ hồ Nguyễn Tấn Dũng sẽ làm cách mạng từ một chế độ độc tài đảng trị sang dân chủ pháp trị và trao trả quyền cho người dân. Những người hoạt động cho dân chủ cần nhìn rõ bản chất vấn đề của sự thanh toán nội bộ của những người cộng sản với nhau. Chúng ta không nên chạy theo sự kiện. Đừng để sự kiện dẫn dắt chúng ta mà chúng ta cần tạo ra sự kiện và làm chủ các sự kiện đó, buộc nhà cầm quyền phải chạy theo các sự kiện chúng ta đưa ra. Để làm được điều này cần một tổ chức, những con người dân chủ đủ mạnh và sự vận động của quần chúng ủng hộ, sự hậu thuẫn của các quốc gia dân chủ về mặt chính trị.
Sự kiện Phùng Quang Thanh [đã chết hay chưa chết] thì đó chỉ là một thứ vô hình của đảng cộng sản vì sự thay thế của một nhân vật cộng sản này bằng một nhân vật cộng sản khác có xu hướng dựa vào Mỹ đề bảo vệ nhóm độc tài lãnh đạo này chứ không phải là chuyển hóa sang thể chế dân chủ kiểu Mỹ; và ngay Mỹ bây giờ cũng đã chấp nhận [về hình thức] ‘’sự tồn tại của đảng cộng sản Việt Nam không ảnh hưởng đến lợi ích Mỹ‘’. Như vậy chúng ta thấy đã có sự thỏa thuận với nhau, chấp nhận sự khác biệt về thể chế nhưng cùng chung một kẻ thù là Trung Quốc, đó là sự lợi dụng lẫn nhau để cùng đạt một mục đích mà mỗi bên cần.
Phùng Quang Thanh [nếu có chết] thì không phải dân tộc chúng ta muốn, cái mà chúng ta muốn là sự thay đổi chế độ chính trị từ độc tài đảng trị sang dân chủ pháp trị, đó mới là tương lai tươi sang cho dân tộc Việt Nam dài lâu.
Phạm Văn Trội
Chuyện chó chết!
Tạp ghi Huy Phương
Con chó nằm trong cũi thấy đồng loại của mình bị đem đi đập đầu, cạo lông còn lồng lộn, gầm gừ, hay chảy nước mắt, nhưng đôi khi con người lại quá thờ ơ và dửng dưng với nỗi đau và cái chết của chính đồng bào mình.
Khắp nơi trên đất, chó là con vật được đánh giá cao vì sự thông minh, lanh lợi, lòng trung thành, tình cảm chan chứa, và nhất là mối thân hữu tự nhiên đối với loài người.
Ai nói mặc ai, chứ ở cái xứ Việt nam từ xưa đến nay, tôi thấy con chó là thứ súc vật hèn hạ, bị khinh bỉ nhất, được con người Việt Nam dùng trong những câu chửi rủa miệt thị, không hề nương tay. Nói đến gốc gác thì gọi là “đồ chó đẻ,” mạt sát thì gọi là “đồ chó,” thậm chí trong trò chính trị, khi nói đến những tên hoạt đầu, bất tài vô tướng, một sớm một chiều ăn trên ngồi trốc, thì ví von như “chó nhảy bàn độc!”
Con chó chết lại được xem tệ hại hơn là một con chó sống, bằng chứng chửi ai là chó chết nặng gấp mười lần chửi ai là đồ chó… sống!
Mỗi ngày mở trang báo Việt Nam ra, đau lòng thấy bao nhiêu chuyện chó… chết, nói theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Nghĩa đen thì nguồn tin từ Việt Nam cho biết, mỗi năm có 3 triệu con chó chết vì bị giết thịt, thời thịnh đạt, có tổ hợp “Liên Hiệp Thịt Chó Nhật Tân” với con số lên đến 25 nhà hàng, như vậy ông chủ của cửa hàng Nhật Tân phải lên hàng Tổng Giám Ðốc Thịt Chó.
Ðường dây kinh doanh chó xuyên quốc gia cũng được thành lập từ đây với khoảng 300,000 con chó được nhập trái phép từ Thái Lan, Lào về Việt Nam mỗi năm. Như vậy trung bình mỗi ngày có gần 8,000 con chó chết, được đưa lên bàn nhậu, mỗi cửa hàng tiêu thụ khoảng 50 con chó mỗi ngày.
Ðáng lẽ Việt Nam phải nhập cảng văn hóa phẩm, máy móc điện khí, sản phẩm để tạo tiện nghi trong đời sống của con người và nâng cao dân trí, thì phải nhập cảng chó (chắc là nhập cảng lậu) để thỏa mãn những cái mồm nhầy nhụa thịt, mỡ chó và nồng nặc hơi men, để quên đời, có khi quên đi cái thân phận của mình và chẳng bao giờ nghĩ đến cái khổ của người khác. Con chó nằm trong cũi thấy đồng loại của mình bị đem đi đập đầu, cạo lông còn lồng lộn, gầm gừ, hay chảy nước mắt, nhưng đôi khi con người lại quá thờ ơ và dửng dưng với nỗi đau và cái chết của chính đồng bào mình.
Ngày nào ở Việt Nam cũng có chuyện chó… chết! Con chó bị đập đầu nhưng không phải tại các quán bán thịt chó mà chó chết vì người ăn trộm chó. Khi dân phát giác ra chó mình bị đánh chết hay bị đầu độc cho vào bao bố thì y như thế nào cũng có người trộm chó bị đánh chết để đền mạng chó. Vậy là ở Việt Nam hiện nay cái chuyện… chó nhất là mạng con người còn thua cả con chó.
Ở nước khác, nếu bắt trộm một con chó của hàng xóm, nặng lắm là bị phạt tiền và ở tù 10 tháng theo luật nhà nước, nhưng ở Việt Nam thì trộm chó có thể bị đánh chết theo luật nhà… quê, nôm na là luật… rừng.
Thậm chí là ăn trộm một con gà cũng bị đánh chết, nhưng gà không phải chó, bài đang nói chuyện “chó chết” mà nhảy qua chuyện “gà chết” là lạc đề, mặc dù chuyện “gà chết” hay “ chó chết” thì cũng đại loại như nhau.
Nhà cai trị để dân đói và mất đạo đức, bần cùng phải sinh đạo tặc, bắt chó, trộm gà là nhà cai trị quá… chó. Coi mạng người thua con chó, và con người trong xã hội ấy coi chó ngang người hay hơn cả con người thật là lũ… chó!
Vài người đổ xô ra đường đánh chết người trộm chó, lại toàn quyền hủy hoại tài sản của người vì họ đã đổ xăng đốt luôn xe. Không phải chủ chó mà người khác cũng hung bạo nhảy vào đánh ké, dù sự việc không can cớ đến mình, vì bản chất hung bạo của con người trong xã hội này. Những người giết người này, chúng ta có thành ngữ là “lòng lang, dạ thú,” tức là có tâm địa của loài lang, là chó… sói!
Về nghĩa bóng thì đất nước Việt Nam hôm nay mỗi ngày xảy ra không biết bao nhiêu chuyện chó… chết.
Một cái cầu treo xô bao nhiêu người xuống vực chết thảm, thì không quy tội người làm cầu mà đổ chuyện cho người đi. Thế có… chó không?
Chuyện công ty Tư Vấn Giao Thông Nhật Bản (Japan Transportation Consultants – JTC) tố cáo đã hối lộ cho các quan chức Ðường Sắt Việt Nam, chuyện Dương Chí Dũng đưa hối lộ cho anh mình là tướng công an, tính tiền nghìn, tiền triệu trong khi đồng bào lầm than, đói phải đi ăn trộm chó là hết sức… chó!
C…. đánh dân chết, ra tòa chỉ bị án treo là chuyện quá ư là… chó!
Nomadic Matt, người Mỹ, ký giả du lịch đã được giới thiệu trên CNN, BBC, Yahoo, Times, New York Times, trong bài viết “Tại sao tôi không bao giờ quay trở lại Việt Nam” đã tố cáo bọn ….. Việt Nam cuồng dâm, đàn áp dân, thường dùng đòn độc bằng đánh vào hạ bộ của phụ nữ! Thật là quá … chó!
Bọn …. đạp vào mặt dân, gậy gộc, roi điện đàn áp dân oan, người biểu tình chống bắt bớ, cưỡng chế đất đai có khác gì bọn khuyển ưng của hoạn thư ngày trước:
“Sửa sang buồm gió lèo mây,
Khuyển ưng (chó và chim ưng) lại chọn một bầy côn quang” (đồ hung dữ, du côn)
Do chữ “côn quang” này mà ngày nay người dân dùng chữ “……..” để thay thế cho hai tiếng “…..”
Con người tha hóa, trong một xã hội, không còn cương thường đạo lý, con giết cha mẹ, cha mẹ giết con như chuyện cơm bữa. Giết chồng, giết vợ xong đem vứt xuống sông, bác sĩ giết bệnh nhân đem phi tang, thầy chùa giết tình nhân đem chôn sau vườn chùa… bạn bè giết nhau chỉ vì một cái điện thoại, mới ăn ngủ với nhau xong, nhẫn tâm đập đầu tình nhân để đoạt tài sản. Ở đâu cũng nghe giết, giết… như khẩu hiệu của “thi hào” Tố Hữu: “Giết! Giết nữa! Bàn tay không ngơi nghỉ…” Trong xã hội này, người ta giết người không gớm tay, còn dễ dàng hơn giết một con… chó!
Ở Việt Nam bây giờ ở đâu cũng nghe hiếp, hiếp! Trưởng ban văn hóa xã cho trẻ em mới học lớp 4 xem phim sex để hiếp. Hiếp dâm để quay phim, tống tình bắt làm nô lệ tình dục! Nữ sinh bị hiếp dâm tập thể trước mặt bạn trai! Nhờ bạn hiếp dâm vợ để lấy cớ ly dị! Cưỡng hiếp chị dâu đang mang thai! Ðây là vài chuyện trong muôn vàn chuyện… hiếp, được tường trình trên báo chí trong nước! Một xã hội rất… chó, giống chó vì đã xảy ra quá nhiều chuyện… cẩu hợp!
Một xã hội loạn lạc, lắm điều đốn mạt “thượng hạ giai cẩu” (trên dưới đều “chó,” câu nói của Cao Bá Quát) ngay cả bậc sĩ phu, không xoay chuyển được thời thế, chỉ đành kêu lên những tiếng tuyệt vọng: “chó ơi là chó!”
Chuyện chó còn dài dài, may ra khi chết hết chó, dân chúng không còn món nhậu khoái khẩu, dân tình không còn ta thán chuyện chó, bốn cõi mới yên bình, mong rằng cũng sẽ đến lúc “chó chết là hết chuyện!”
Ngày xưa đi học, tóc còn xanh mướt, làm một bài luận văn mà dùng chữ lặp đi lặp lại (điệp ngữ) thế nào cũng bị thầy giáo gạch bôi đen, gạch đỏ. Hôm nay, tóc đã bạc phơ, viết một bài văn, câu kéo lủng củng, nhất là đếm đi đếm lại có đến 64 chữ “chó,” chỉ vì lòng còn quá buồn phiền, sân hận vì những chuyện chó chết, chỉ xin các bạn thương tình miễn thứ!
Huy Phương
TƯỚNG THANH, VÌ SAO SỐNG, VÌ SAO CHẾT?
Posted by adminbasam
on 26/07/2015 “Thực tế, đến lúc này tướng quân họ Phùng, dù đang ở đâu thì cũng đang trong cảnh: Sống mà như chết; Chết mà như sống? Điều này đã được lãnh đạo tối chóp bu tính toán và đã soạn kịch bản trước khi tướng Thanh ở vào thế: Sống mà như chết; Chết mà như sống. Kịch bản này được lãnh đạo chóp bu soạn trước khi Tổng Lú đi Mỹ”.
Đến lúc này thật khó có thể biết chính xác đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam: còn sống hay đã chết.
Nguồn tin bảo đã chết, cũng có nhiều dự liệu để tin.
Báo chí lề đảng nhà nước đưa tin khẳng định tướng Thanh vẫn còn sống và đã về Hà Nội cũng rất mập mờ, hoàn toàn không có dữ liệu tin cậy nào để tin rằng tướng Thanh vẫn còn sống.
Tại sao lại như vậy?
H1Thực tế, đến lúc này tướng quân họ Phùng, dù đang ở đâu thì cũng đang trong cảnh: Sống mà như chết; Chết mà như sống? Điều này đã được lãnh đạo tối chóp bu tính toán và đã soạn kịch bản trước khi tướng Thanh ở vào thế: Sống mà như chết; Chết mà như sống. Kịch bản này được lãnh đạo chóp bu soạn trước khi Tổng Lú đi Mỹ.
Tướng Thanh phải chết vì tướng Thanh quá thân Tàu và ngoan ngoãn vâng lệnh Tàu làm bất kỳ những gì Tàu Cộng yêu cầu. Tàu Cộng Thường Vạn Toàn, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng của Tàu Công, đã chỉ thị cho Quang Thanh phải nhanh chóng tào phản, phải tiêu diệt cho kỳ được phe nhóm đang hướng đất nước xoay trục thân phương Tây. Cái bình gồm – China – đựng trong một cái hộp do đích thân Thường Vạn Toàn mò sang Việt Nam tặng Quang Thanh là chỉ lệnh của Tàu Cộng. Tổng Lú cũng biết điều này. Lo sợ trước truyền thống không còn tác dụng thì đập chết của Tàu Cộng nên không chấp nhận cho họ Phùng tào phản và đồng ý với phe xoay trục phải vô hiệu hóa Quang Thanh, Chí Vịnh.
Thế là Quang Thanh mất tích; tướng Vịnh lặn mất tăm; Chính ủy và Tư lệnh Quân khu Thủ đô phải về vườn.
Việc tào phản của tướng quân họ Phùng đã thất bại.
Đây là lý do để tướng quân họ Phùng phải chết.
1Sau cuộc tào phản không thành, Tàu Cộng sợ phe phái thân Tàu sẽ bị tiêu diệt đến tận gốc rễ nên liền cử phó thủ tướng Tàu Cộng Cao Lệ lập tức có mặt ở Việt Nam để ngăn chặn. Cao Lệ vỗ vào mặt lãnh đạo Việt Nam rằng, nếu Việt Nam diệt tướng Thanh cùng phe nhóm một lòng, một dạ với nước Tàu thì Trung Quốc sẽ động binh trả đũa Việt Nam. Người Campuchia gây rối tại biên giới Việt – Cam ở Long An vừa qua là con tốt thí, là lời cảnh báo, là thể hiện quyết tâm của Tàu Cộng rằng Người Trung Quốc nói là làm và đã làm.
Đây là lý do để tướng Thanh không thể chết.
Nhưng nếu để tướng Thanh sống, tức là có bằng chứng rõ ràng, không ai có thế chối cải được thì chính trị ở trong nước rất có thể sẽ không yên bình. Các tướng lĩnh thuộc tay chân của họ Phùng còn nhản nhản trong quân đội, nếu biết tướng Thanh còn sống, họ sẽ lại tiếp tục nuôi mộng tào phản ở hai hướng: một, sẽ sử dụng lực lượng quân đội phản loạn tức thì; hai: sẽ phản loạn từ từ bằng cách ém được nhiều cá thế tham gia nhân sự Đại hội ĐCSVN lần thứ XII – Một kịch bản tào phản từ từ.
Đây là lý do mà tướng quân Họ Phùng phải chết.
Sự nhập nhèm về sống, chết của tướng Thanh hiện đang lên xuống, gần xa theo trục chính trị này.
Như vậy, cuộc đấu còn, mất của phe phái trên thượng tầng hiện vẫn đang diễn ra quyết liệt. Tất nhiên phe phái thân Tàu Cộng đã bị lộ mặt, kiểu gì cũng bị diệt; phe phái xoay trục thân phươ ng Tây bước đầu thắng thế và sẽ còn thắng tiếp trong tương lai rất gần.
Các bạn hãy chờ xem.
Posted by adminbasam
on 26/07/2015 “Thực tế, đến lúc này tướng quân họ Phùng, dù đang ở đâu thì cũng đang trong cảnh: Sống mà như chết; Chết mà như sống? Điều này đã được lãnh đạo tối chóp bu tính toán và đã soạn kịch bản trước khi tướng Thanh ở vào thế: Sống mà như chết; Chết mà như sống. Kịch bản này được lãnh đạo chóp bu soạn trước khi Tổng Lú đi Mỹ”.
Đến lúc này thật khó có thể biết chính xác đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam: còn sống hay đã chết.
Nguồn tin bảo đã chết, cũng có nhiều dự liệu để tin.
Báo chí lề đảng nhà nước đưa tin khẳng định tướng Thanh vẫn còn sống và đã về Hà Nội cũng rất mập mờ, hoàn toàn không có dữ liệu tin cậy nào để tin rằng tướng Thanh vẫn còn sống.
Tại sao lại như vậy?
H1Thực tế, đến lúc này tướng quân họ Phùng, dù đang ở đâu thì cũng đang trong cảnh: Sống mà như chết; Chết mà như sống? Điều này đã được lãnh đạo tối chóp bu tính toán và đã soạn kịch bản trước khi tướng Thanh ở vào thế: Sống mà như chết; Chết mà như sống. Kịch bản này được lãnh đạo chóp bu soạn trước khi Tổng Lú đi Mỹ.
Tướng Thanh phải chết vì tướng Thanh quá thân Tàu và ngoan ngoãn vâng lệnh Tàu làm bất kỳ những gì Tàu Cộng yêu cầu. Tàu Cộng Thường Vạn Toàn, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng của Tàu Công, đã chỉ thị cho Quang Thanh phải nhanh chóng tào phản, phải tiêu diệt cho kỳ được phe nhóm đang hướng đất nước xoay trục thân phương Tây. Cái bình gồm – China – đựng trong một cái hộp do đích thân Thường Vạn Toàn mò sang Việt Nam tặng Quang Thanh là chỉ lệnh của Tàu Cộng. Tổng Lú cũng biết điều này. Lo sợ trước truyền thống không còn tác dụng thì đập chết của Tàu Cộng nên không chấp nhận cho họ Phùng tào phản và đồng ý với phe xoay trục phải vô hiệu hóa Quang Thanh, Chí Vịnh.
Thế là Quang Thanh mất tích; tướng Vịnh lặn mất tăm; Chính ủy và Tư lệnh Quân khu Thủ đô phải về vườn.
Việc tào phản của tướng quân họ Phùng đã thất bại.
Đây là lý do để tướng quân họ Phùng phải chết.
1Sau cuộc tào phản không thành, Tàu Cộng sợ phe phái thân Tàu sẽ bị tiêu diệt đến tận gốc rễ nên liền cử phó thủ tướng Tàu Cộng Cao Lệ lập tức có mặt ở Việt Nam để ngăn chặn. Cao Lệ vỗ vào mặt lãnh đạo Việt Nam rằng, nếu Việt Nam diệt tướng Thanh cùng phe nhóm một lòng, một dạ với nước Tàu thì Trung Quốc sẽ động binh trả đũa Việt Nam. Người Campuchia gây rối tại biên giới Việt – Cam ở Long An vừa qua là con tốt thí, là lời cảnh báo, là thể hiện quyết tâm của Tàu Cộng rằng Người Trung Quốc nói là làm và đã làm.
Đây là lý do để tướng Thanh không thể chết.
Nhưng nếu để tướng Thanh sống, tức là có bằng chứng rõ ràng, không ai có thế chối cải được thì chính trị ở trong nước rất có thể sẽ không yên bình. Các tướng lĩnh thuộc tay chân của họ Phùng còn nhản nhản trong quân đội, nếu biết tướng Thanh còn sống, họ sẽ lại tiếp tục nuôi mộng tào phản ở hai hướng: một, sẽ sử dụng lực lượng quân đội phản loạn tức thì; hai: sẽ phản loạn từ từ bằng cách ém được nhiều cá thế tham gia nhân sự Đại hội ĐCSVN lần thứ XII – Một kịch bản tào phản từ từ.
Đây là lý do mà tướng quân Họ Phùng phải chết.
Sự nhập nhèm về sống, chết của tướng Thanh hiện đang lên xuống, gần xa theo trục chính trị này.
Như vậy, cuộc đấu còn, mất của phe phái trên thượng tầng hiện vẫn đang diễn ra quyết liệt. Tất nhiên phe phái thân Tàu Cộng đã bị lộ mặt, kiểu gì cũng bị diệt; phe phái xoay trục thân phươ ng Tây bước đầu thắng thế và sẽ còn thắng tiếp trong tương lai rất gần.
Các bạn hãy chờ xem.