Tạp Ghi , Chuyện Phiếm , Chuyện Vui Hàng Ngày

Cho đuổi mèo, mèo rượt chuột, chuột sa chỉnh gạo, gạo tải vô xe... thế rồi... xe cán chó!!!

Moderators: CNN, khieulong

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Luật sư gốc Việt chuyên biện hộ cho 'quỷ sứ' qua đời



PARIS (AP) – Jacques Verges, luật sư sáng chói được mệnh danh là “Devil's Advocate,” tức thầy cãi của quỷ, vì ông chuyên biện hộ cho các cựu đảng viên Quốc Xã, những kẻ đặt bom khủng bố, những nhà độc tài khét tiếng, kể cả các phụ tá của họ, vừa qua đời ở tuổi 88.

Ông qua đời vì bệnh tim hôm Thứ Năm ngay tại phòng ngủ của triết gia Voltaire, vào đêm ông được mời đến chung cư này ăn tối.

Pierre-Guillaume de Roux, chủ biên cuốn hồi ký viết về ông Verges, nhan đề “Lời Tự Thú của Tôi,” nhận xét: “Ông ấy chết ngay trong căn phòng nơi Voltaire thở hơi thở cuối cùng. Đây quả là nơi lý tưởng cho hồi cuối của một người sinh ra làm diễn viên.”

Ông từng biện hộ cho Klaus Barbie, cựu đại úy mật vụ Gestapo, kẻ chỉ huy chiến dịch tra tấn và thủ tiêu ở miền Nam nước Pháp, khi ông này bị truy tố tội chống lại nhân loại vào năm 1987 ở Lyon, Pháp. Sau đó, ông cũng cãi cho ông Paul Touvier, một người Pháp phụ giúp ông Barbie trong việc xử tử. Ông này cũng bị cáo buộc cùng tội trạng.

Ông Verges có lần tuyên bố: “Tôi mất cơ hội biện hộ cho Hitler. Biện hộ không có nghĩa là xin tha tội. Công việc của một luật sư không phải xét xử, không lên án, và không tha tội. Ông chỉ cố gắng để hiểu mà thôi.”

Ông thua vụ xử Carlos the Jackal, kẻ khủng bố người Venezuela từng bắt cóc 11 bộ trưởng khối dầu hỏa OPEC vào năm 1975, và chỉ đạo một loạt các vụ nổ bom và bắn giết vào các thập niên 1970 và 1980.

Trong vụ xử vào năm 1994, tên ông được đăng trên hàng tít của các báo lớn, tố cáo ông làm gián điệp và là “đồng chí” của bị cáo Carlos. Cuối cùng ông không bị truy tố và nghề nghiệp ông cũng không bị ảnh hưởng. Sau khi ông Verges rút lui, ông Carlos bị buộc tội và lãnh án tù chung thân.

Ông Verges, có mẹ Việt và cha Pháp, ra đời tại Thái Lan vào năm 1925. Ông lớn lên ở đảo Reunion, quê quán của cha, và ngay từ thời còn trẻ đã nuôi ý tưởng chống thực dân.

Người ông cưới làm vợ lại là thân chủ đầu tiên của ông, đó là bà Djamila Bouhired, người Algeria, bị đem ra xử vào năm 1957 về tội đặt bom ở một nơi công cộng. Bà bị tuyên án tử hình, nhưng cuối cùng được tha bổng vào năm 1958, sau khi ông không ngừng nêu lên tính cách hợp pháp của tòa án và tội trạng của bà Bouhired. Lần đầu tiên ông sử dụng chiến lược “legal disruption,” tức gây rối hợp pháp, mà sau này trở thành “thương hiệu” của ông.

Ông nhập quốc tịch Algeria, theo đạo Hồi và được thăng tiến
trong Bộ Ngoại Giao.
Ông đột ngột biến mất vào năm 1970. Trong hơn tám năm không ai thấy tăm hơi ông đâu cả. Cả vợ và bạn bè ông đều kêu nài ai trông thấy ông thì hãy mời ông xuất đầu lộ diện. Thế rồi, ông tái xuất hiện ở Paris vào năm 1979 mà không chịu đưa ra một lời giải thích nào.

Những người khác được ông cãi giúp còn có Slobodan Milosevic, cựu lãnh tụ Serbia, tuy nhiên, ông này không chịu ông biện hộ mà đòi tự cãi lấy. Ông Milosevic qua đời trước khi vụ xử kết thúc. Ông Verges cũng nằm trong nhóm luật sư biện hộ cho ông Saddam Hussein và phụ tá thân cận nhất của ông này là ông Tariq Aziz.

Gần đây nhất, vào năm 2011, ông cũng cãi cho ông Khieu Samphan, cựu lãnh tụ Khmer Đỏ của Cambodia thời Polpot.

Ông George Kiejman, một luật sư Pháp thường đụng độ với ông Verges trong các phiên xử, nhận định: “Ông ấy là một trong hai hoặc ba luật sư xuất sắc nhất trong thế hệ của tôi. Tôi dành cho ông ấy tất cả sự tôn kính.” (TP)

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Chỉ khen, không được chê
Song Chi (RFA)
Nhảy nhổm lên khi bị chê

Nhà văn Phan Thị Vàng Anh trong tập tản văn “Nhân trường hợp chị Thỏ Bông” với bút danh Thảo Hảo, có viết một bài “Ai cho mầy chê con tao xấu?” rất thú vị. Hình như nếu tôi nhớ không lầm, bài tản văn đó ra đời nhân dịp một bộ phim bị báo chí chê và nhà đạo diễn của bộ phim đó nhảy nhổm lên thì phải.

Ấy vậy mà nhiều năm sau, cái tính nhảy nhổm lên khi bị chê ấy, vẫn cứ diễn ra, mới đây nhất là trường hợp một ca sĩ tự xưng là Mít-tơ gì đó, và nghe đâu còn được phong (chả biết ai phong) là “ông hoàng nhạc Việt”, khi bị một nhạc sĩ lớn tuổi nhận xét thẳng thừng về giọng ca của mình.

Tôi không muốn bàn nhiều về câu chuyện đang làm nóng một số trang báo và trên mạng về văn hóa ứng xử của một thiểu số trong giới nghệ sĩ, showbiz Việt này, cũng không muốn lạm bàn về ca khúc, giọng hát, phong cách hát của ngày xưa trước 1975 (chủ yếu nói đến ca khúc, nhạc sĩ, ca sĩ ở miền Nam) và bây giờ.

Ðiều tôi muốn nói đến ở đây là cái tính không thích nghe chê ấy hình như không chỉ ở một vài cá nhân, cho dù không phải ai khi bị chê cũng phản ứng theo kiểu như ca sĩ Mít-tơ gì đó. Mà cái tính không thích nghe chê bai ấy dường như có ở rất nhiều người Việt mình.

Còn nhớ câu chuyện về một blogger Mỹ có tên Matt Kepnes đi du lịch sang VN, sau đó viết bài chê “Why I'll never return to Vietnam?” đăng trên tờ Huffingtonpost vào ngày 30 tháng 1, 2012. Sau khi một số tờ báo VN đăng tải lại bài viết này, với cái tựa tiếng Việt là “Cho tiền cũng không quay lại VN” thì bên dưới bài báo lẫn trên các trang mạng xuất hiện làn sóng phản pháo.

Ða số là người VN, cảm thấy tự ái đùng đùng vì những lời chê bai, liền không tiếc lời phản bác, thậm chí “mắng mỏ” anh chàng Matt Kepnes, mà không chịu suy ngẫm xem những điều người ta nhận xét về ngành du lịch, về con người VN có đúng không.

Một ví dụ khác, ông Joel Brinkley, giáo sư chuyên ngành báo chí tại Ðại Học Stanford, Hoa Kỳ, viết một bài bình luận đăng trên tờ Chicago Tribune ngày 29 tháng 1, 2013, trong đó ông phê phán thói quen ẩm thực (ăn thịt chó, thịt thú rừng...) cùng tính cách của người VN. Giáo sư này cho rằng thói quen ăn thịt nhiều khiến người Việt trở nên hung hăng (aggressive) và trong quá khứ VN luôn luôn là một quốc gia hung hăng so với các nước láng giềng.

Bài bình luận đã nhận được phản ứng rất mạnh từ người Việt trong và ngoài nước, đến nỗi vào đầu tháng 2, 2013, ban biên tập của Chicago Tribune đã phải đăng đính chính, xin lỗi vì đã đăng bài của ông Brinkey. Người Việt còn gửi thỉnh nguyện thư với hàng ngàn chữ ký yêu cầu trường Stanford đuổi việc Giáo Sư Brinkey.

Tất nhiên, bài bình luận của ông Brinkey đáng để người VN giận dữ vì mang tính kỳ thị và được viết một cách hoàn toàn cảm tính, không có cơ sở khoa học, lại không chính xác về lịch sử. Nhưng trong vô số ý kiến phản hồi gửi vào trang mạng của tờ Chicago Tribune hay trên những trang báo, mạng trong nước, nếu chúng ta không kềm chế và có những lời nóng giận, mạt sát ông Giáo sư kia thì chẳng phải chúng ta đang vô tình chứng minh nhận xét “người VN hung hăng” của ông ta là đúng hay sao.

“Ở đâu mà chả vậy”

Nếu bạn là người VN, bạn nói đến những cái xấu, tệ hại của xã hội, của chế độ cũng vậy, sẽ có những người nhảy vào với những luận điệu quen thuộc như: Tham nhũng à, ở đâu mà chả có tham nhũng, tình trạng tội phạm ngày càng tăng ư, nói cho mà nghe nhé, VN mình còn ổn định hơn khối nước, không có khủng bố, không có chiến tranh, không có nã súng giết người hàng loạt, cứ thử nhìn sang Mỹ xem... Hoặc, bạn là ai, có phải là người VN không, sao lại dám mở mồm chê bai, xúc phạm đến đất nước, dân tộc VN? Thật khó mà tranh luận với những luận điểm đánh đồng “ở đâu mà chả vậy”, hoặc đánh đồng giữa đảng, nhà nước với dân tộc, tổ quốc!

Tuy nhiên, nếu nói đến những cái xấu của chế độ hay xã hội, dù sao bây giờ cũng ngày càng có nhiều người đồng tình với bạn. Nhưng nếu cứ thử viết bài mà nói đến những thói hư tật xấu, nhược điểm của đồng bào là dễ bị mọi người ném đá lắm.

Còn trong lĩnh vực văn học nghệ thuật càng phiền hơn. Từ văn học, thơ ca, âm nhạc cho đến hội họa, phim ảnh... ở VN bây giờ dường như đều thiếu vắng những cây bút phê bình có uy tín, có trình độ chuyên môn, sắc sảo, thẳng thắn chỉ ra những cái dở, cái tệ của tác phẩm, của người sáng tác, người biểu diễn.

Trên mặt báo, những nhà báo đi viết về những lĩnh vực này không phải ai cũng có hiểu biết về chuyên môn, ví dụ như nhà báo đi viết về điện ảnh không phải ai cũng học/làm về điện ảnh nên khi viết về một bộ phim chẳng hạn, hầu hết chỉ là giới thiệu nội dung, khen một tí, chê nhẹ nhẹ một tí, thế là xong. Chê mạnh, thể nào cái đám làm phim cũng sừng sộ lên bảo sao không giỏi làm phim đi, hoặc anh/chị không hiểu gì về phim của tôi, rồi nhà sản xuất, đạo diễn cạch mặt không chơi, không mời đi xem phim mới nữa, lấy gì mà viết?

Âm nhạc cũng thế. Nhà báo nếu không phải là nhạc sĩ, không học chuyên môn về âm nhạc, dù có thể có tai nghe, thẩm thấu tốt về âm nhạc, nhưng đố dám bảo đụng vào những ổ kiến lửa tự xưng là “ông hoàng, bà chúa” nhạc Việt với lại di-va di-viếc kia, cùng hàng lũ fan hùng hậu của họ. Nên cứ viết những gỉ vui vui hiếu hỉ, khen nhau cho nó lành. Thế là người ta càng quen được nghe khen, càng tưởng mình tài năng lớn, cộng với bao nhiêu sự hâm mộ của quần chúng... đến khi một ai đó chê thẳng một cái là có chuyện.

Nhìn rộng ra, cái nước mình bây giờ trong mọi lĩnh vực đều cần có những “nhà phê bình” có uy tín, có trình độ, dũng cảm, từ văn hóa nghệ thuật, y tế, giáo dục, kinh tế và cả cái chính phủ này. Chính vì không có ai giám sát, phản biện, chất vấn, chê bai nên mọi thứ mới thành ra hỗn loạn đến vậy.

Và cũng chẳng khác gì cái anh ca sĩ kia, nhà nước VN khi bị nghe những lời phản biện thẳng thừng là “chạm nọc” ngay, khi có ai đó lên tiếng đề nghị thành lập đảng phái, tổ chức chính trị đối lập để giám sát những chính sách, việc làm sai lầm của nhà cầm quyền, tất cả vì lợi ích chung của đất nước, dân tộc... là lập tức cho truyền thông báo đảng xúm vào đánh hội đồng, tiếp theo là còng số 8, là nhà tù, là bịt miệng... ngay.

Một con người dù có một ít tài năng đi nữa mà chỉ thích nghe khen, không thích bị chê thì rất khó tránh sai lầm, khó tiến xa. Một nhà nước, một dân tộc cũng vậy thôi.

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Việt kiều...... tội nghiệp ! ...
Có một chuyện không công bằng : về VN tất cả chi phí cho gia đình như đi du lịch, ăn uống Việt kiều phải lo, khi có cơ hội người VN qua ngoại quốc thì Việt kiều cũng phải bao hết. Ở VN bạn không chỉ bao cho người nhà mà còn bao cho cả bạn bè người nhà nữa. Khi bạn mời tiệc, người nhà dắt cả làng tới tham dự rất tự nhiên như người Hà Nội, có ai thắc mắc, câu trả lời rất đau lòng “ Tiền Việt kiều mà, ngu gì mà không ăn”.

Anh Tấn gửi tiền xây nhà cho mẹ ở miền quê vùng sông Hậu. Nhà xây xong mẹ gửi thư qua xin thêm tiền gắn máy lạnh. Anh thắc mắc tại sao nhà mẹ ở ngay bờ sông quanh năm gió mát trăng thanh, tại sao phải gắn máy lạnh. Anh phôn về hỏi cho ra lẽ. Cô em gái nhanh nhẩu trả lời: Mẹ bị huyết áp cao, và thấp khớp, bác sĩ nói phải ở nhà có máy lạnh thì mới khoẻ. Thương mẹ Tấn lại phải vay mượn để gửi tiền cho mẹ mua máy lạnh. Mẹ và em gái đâu có biết Tấn đang ở ké garage với người bạn. Trời nóng như lửa Tấn chỉ dám xài quạt máy mua từ chợ trời. Cuối năm Tấn về thăm nhà thấy mẹ mình nằm trên cái giường ngay phòng khách. Còn phòng ngủ có máy lạnh trên lầu vợ chồng cô em gái đã chiếm. Thấy vậy anh hỏi tại sao không để mẹ ở trên lầu. Em gái anh trả lời : mẹ bị huyết áp cao lên xuống nguy hiểm? Tấn tức quá kêu thợ tới đem máy lạnh trên lầu xuống gắn nhà dưới cho mẹ. Khi về Úc mấy ngày em gái anh gọi qua nói : “Vợ chồng em phải lên thành phố làm ăn, nên không có người chăm sóc mẹ, em đã kiếm người chăm sóc mẹ, mình phải trả cho người ta 100.000 đồng một ngày. Anh có nhiệm vụ gửi tiền về cho mẹ. Mấy tháng sau mẹ anh chết, dĩ nhiên anh phải lo tiền gửi về lo tang lễ cho mẹ. Anh muốn về lắm nhưng không còn chỗ nào cho mượn tiền để mua vé máy bay, căn nhà anh xây cho mẹ bây giờ em gái anh lấy không.

Anh bạn tôi còn bà chị ở VN, muốn tạo công việc cho chị mình làm ăn. Sau khi tìm hiểu kỹ càng anh bạn gửi tiền cho chị mua một xe Mercedes 24 chỗ. Từ ngày có xe bà chị làm ăn khấm khá. Xe chạy có tiền bà chị giữ, chi phí cho xe như tiền bảo hiểm, tiền bảo trì, anh tiếp tục chi viện. Đối với anh, số tiền chi phí ấy coi như quà cho chị hàng năm. Rồi một hôm vận xui tới, tài xế xe của bà chị gây tai nạn chết người. Bà chị bị CA mời lên làm giấy tờ, bà chị sợ quá khai chiếc xe này của người em bên Úc bỏ tiền mua.. Công an VN nhân cơ hội ghi vào hồ sơ : “Xe Việt kiều gây tai nạn chết người”. Sau đó giữ xe và yêu cầu bà chị mời anh Việt kiều Úc về VN lên CA huyện lãnh xe ra. Bà chị gọi điện thoại qua cho em. Người em vội vã bay về VN lên gặp CA Huyện. CA Huyện niềm nở đón tiếp và cho biết tình trạng xe cộ cũng như tai nạn, CA đề nghị nộp $30.000 gồm tiền bồi thường cho nạn nhân, tiền phạt lái xe gây tai nạn và giữ xe một tháng. CA giữ passport và yêu cầu anh điện về Úc xắp xếp gửi tiền qua để lấy xe. Trong thời gian chờ đợi CA cấp cho anh một giấy đi đường thay passport và visa để anh tiện đi lại ở VN. Chuyện đến lúc này mới vỡ lẽ: Vì thương bà chị, anh bạn đã giấu vợ rút sổ băng $70.000 gửi cho chị mua xe. Nay không biết lấy đâu ra $30.000, thôi đành liều, anh gọi về vợ và nói rõ sự thật. Sau khi nghe chồng xưng tội. Bà vợ không bắt lỗi nhưng yêu cầu việc đền tội: “Tôi rút tiền gửi cho anh $30.000 để anh lấy xe ra, khi anh về Úc làm thủ tục ly dị và bán nhà”. Kết quả anh bạn tôi bây giờ “Độc thân tại chỗ” và không có tiền.

Cô Nga người RG ra đi tìm tự do bỏ lại người anh trai yêu quý. Sau 6 năm xa quê hương, nay cô về thăm lại mồ mả cha mẹ, ông bà, thăm lại người anh yêu quý. Tình cảm ông anh dành cho cô em qua nhiều lá thư thật là thống thiết. Ông kể lại cái thời còn thơ ấu chính ông là người cõng em mỗi sáng qua cây cầu khỉ tới trường. Hàng tháng cô em đều gưỉ tiền về cho anh và các cháu. Người anh trai thư qua lần nào cũng đều nói em đừng gửi tiền về cho anh, hãy lo cho bản thân vì anh không ở gần em để chăm sóc cho em. Nhưng chưa bao giờ cô em thấy tiền gửi đi mà quay lại. Cô biết tính anh mình mà.. thế rồi hôm nay cô khăn gói về VN theo lời mời của ông anh “Em sắp xếp về VN một chuyến, hôm nay nhà nước mở cửa đón Việt kiều, anh em mình lâu lắm không gặp nhau, không biết em gái anh bây giờ tròn hay méo”. Thật là tình cảm thiêng liêng, muốn biết em gái mình bây giờ tròn hay méo thì hỏi thằng em rể thì biết ngay...

Gia đình anh hai lên SG trước một ngày để hôm sau đón em gái. Ngày trở về thăm quê hương của cô em gái được tỗ chức linh đình, giống như đón tiếp một vị nữ hoàng. Cô em gái bẽn lẽn khi ông anh ôm chặt lấy mình rồi hôn má, cử chỉ tây phương không biết ông anh học được lúc nào mà tỏ ra thành thuộc. Qua bao lần ôm các em trong quán ”bia ôm” đã tạo cho ông anh lịch lãm và tự nhiên, nên khi gặp em mình ông càng tự nhiên và chứng tỏ với em gái mình cái văn minh không phải chỉ tây phương mới có. Cái bẽn lẽn vội qua đi nhường cho sự kiêu hãnh của một Việt kiều về nước khi được đón tiếp long trọng như vậy. Đâu ai biết được cô em gái cũng như bao nhiêu phụ nữ khác ở Úc ngồi may thâm cả đít để có tiền lo cho cuộc sống và giúp đỡ gia đình bên VN.

Hai tuần lễ ông anh đưa em gái đi thăm khắp nơi, giới thiệu em mình với mọi người: “Em gái tôi, bà chủ hãng may thời trang lớn bên Úc”. Cô em gái khi nghe giới thiệu ngượng ngùng muốn đính chính, nhưng ông anh hiểu ý nói đè qua chuyện khác.. Một buổi chiều ông anh nói với em “Chiều nay anh sẽ đưa em đi thăm vùng lấn biển, anh dự trù mua vài lô, chỉ cần 1 năm sau là giá gấp đôi. Thằng bạn anh năm ngoái mượn tiền mua 2 lô, năm nay nó bán một lô, tiền lời đủ chi trả cho cả hai...” ngay chiều hôm đó hai anh em đi thăm đất, và quyết định mua 4 lô. Ông anh tạm thời đứng tên dùm, khi nào nhà nước cho Việt kiều đứng tên thì sẽ sang tên cho em.

Cô em gái về Úc bàn với chồng gom hết vốn liếng gửi về cho anh trai để mua đất. Từ đó mỗi lần cô em gái gọi điện thoại về VN hỏi thăm, ông anh trai đều báo tin vui vì giá đất tăng. Một năm sau, cứ theo thông báo gía đất lên của ông anh thì anh em ông ta đã kiếm lới gấp đôi. Cô em bàn với chồng quyết định bán 3 lô để thu tiền về còn một lô thì tặng lại ông anh. Nhưng mua thì dễ, bán thì khó, nhất là người đứng tên sổ đỏ là ông anh chứ không phải cô.. Thấm thoát đã 8 năm tôi gặp lại cô Nga và hỏi thăm về vụ đất đai, được cô ta cho biết: Ông anh đã lừa chiếm đoạt hết bốn lô đất không hoàn trả lại vốn cho cô ta dù chỉ một đồng.

Chuyện cô Nga là một trong muôn vàn câu chuyện đau lòng. Hình như tất cả mọi hoạt động của người trong nước phần lớn là tìm cách làm sao cho tiền trong túi Việt kiều chạy vào túi mình. Người ta không ngại dùng mọi thủ đọan để lừa nhau, người ta không còn phân biệt cha mẹ, anh em, bà con, có cơ hội là ra tay.

Tôi còn nhớ cách đây 8 năm có một lần tôi nhân được thư của mấy cháu con bà chị gửi qua, nội dung như sau:
“ Cậu à, mẹ và tụi con suy nghĩ và quyết định sẽ mua cái nhà của anh Tư, anh Tư sẽ đi Mỹ tháng tới. Anh sẽ không mang tiền đi. Khi anh Tư qua bên đó cậu sẽ trả dùm cho tụi con. Giá nhà anh Tư hiện tại là 120.000 USD, nhưng anh để lại cho tuị con 80.000 USD. Rẻ lắm đó cậu... Cậu giúp mẹ và tụi con nhé..”

Đọc thư, tôi tá hoả tam tinh như người trúng gió. Tôi không biết chị tôi và mấy cháu nó nghĩ sao mà tỉnh bơ viết thư như vậy. Trước nhất mấy người nghĩ là tôi có nhiều tiền lắm, thứ hai tự quyết định và kêu tôi thi hành. Khi nhận được thư tôi trả lời “tụi con lo một nửa còn một nửa cậu sẽ trả góp cho anh Tư mỗi tháng 500 USD cho đến khi hết.”

Thư gửi đi nhưng không có hồi âm và coi như chuyện quyết định mua nhà chìm vào quên lãng. Sau đó cháu tôi có xin tiền mua xe Honda, tôi hỏi giá bao nhiêu, cháu tôi nói giá khoảng $4000. Tôi đã gửi cho nó đủ $4000. Nhưng lần về kế tiếp tôi khám phá ra nó đã nói dối, vì xe Honda nó mua chỉ có $2500 thôi. Bốn ngàn Úc Kim có lẽ nó tính luôn tiền xăng.

Anh bạn tôi về VN thăm gia đình, quê hương là chùm khế ngọt, anh về VN ăn bưởi ăn cam chứ không ăn khế. Lúc đầu về thăm gia đình, lần thứ hai về làm ăn, đặt hàng “sản xuất ở VN”, lần thứ ba anh về VN nhập cảng cả cô chủ trẻ, con ông giám đốc hãng đóng bàn ghế. Anh bảo lãnh cô chủ trẻ qua Úc du lịch tham quan..Dĩ nhiên hàng hoá thì anh ta trình làng với vợ, còn hàng “độc” anh cất giữ tại hotel. Xui cho anh, cái hôm anh dắt cô chủ nhỏ tham quan thành phố bị vợ anh bắt gặp. Thế là “tan hàng”. Vợ anh thâu tóm tất cả, còn anh chỉ còn lại những gì mà mẹ anh cho anh khi mới sinh anh ra. Cô chủ nhỏ cũng chia tay anh quên cả bye bye.

Tội nhất một người bạn đang làm ngành “finance”, về VN bị tiếng sét ái tình đánh quá mạnh, đến nỗi trong lúc đang ôm ấp người đẹp, thì xuất hiện một tên đàn ông xưng là chồng cô gái, hắn bắt anh phải biết điều nếu không sẽ giết chết anh. Sau khi trấn lột anh hắn xô anh xuống lầu, anh rơi trúng băng ghế xi măng lề đường bể đầu. Anh được đưa vào nhà thương VN cấp cứu. Kết quả khi anh được chuyển về Úc, anh trở thành “người gỗ” muôn đời.

Có nhiều người khoe “mình có số đào hoa”, về VN có nhiều em theo, thậm chí còn tỏ ra mình thật thà “tôi có nói cho em biết là tôi có gia đình”, nhưng em nói “không sao làm người tình của anh là đủ rồi”. Thật tôi không hiểu sao ông bạn tôi thật thà như vậy. Đàn bà ở VN cần cặp với đàn ông có vợ, chứ đàn ông không vợ, họ không cần. Lý do dễ hiểu “có vợ, ly dị vợ mấy hồi”. Khi cá đã cắn câu rồi, lúc đó mới giựt. “anh à em cần mấy ngàn,..” em cần mua xe máy.. em cần tiền sửa nhà..”, rồi anh ơi em có bầu...thế là xong... còn đàn ông không có vợ hay vợ ly dị là đàn ông có vấn đề, không có tiền, không có tài sản, đàn bà VN không cần loại đàn ông đó. Ông bạn thật thà của tôi chắc sẽ được Chúa ban cho Thánh Giá trong một ngày rất gần..

Tuấn Linh

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Nước Mỹ số một.....?
Các công viên, các khu “rest area” dọc các xa lộ, thậm chí ở những buổi meeting, hội chợ... cũng có những cầu tiêu tạm cho mọi người dùng khi cần đến và chẳng bao giờ phải tốn một xu nào.

“Đi cho biết đó biết đây
Ở hoài một chỗ, biết ngày nào “khôn”

Ông bà ta từ ngàn xưa đã có cái “nhìn xa trông rộng” thấy được nhu cầu phát triển sự hiểu biết, sự “khôn” lên qua việc đi đó đây. Vì thế ngày nay du lịch là ngành “kỹ nghệ không khói” nhưng đem lại lợi nhuận lớn cho rất nhiều nước trên thế giới. Ngoài ra nhờ đi đó đây, ta mới có dịp mở rộng tầm nhìn, có dịp so sánh để “biết mình, biết người”.
Ở Mỹ lâu năm, quen hưởng những tiện nghi đời sống căn bản của mọi người trong xã hội ( kể cả người nghèo), riết trở thành quen, thấy bình thường và xem đó là lẽ đương nhiên. Ví dụ như nhu cầu vệ sinh: ở Mỹ cầu tiêu công cộng có ở khắp nơi, giấy vệ sinh, giấy lau tay xài thoải mái, vòi nước uống cũng được thiết kế khắp nơi. Các công viên, các khu “rest area” dọc các xa lộ, thậm chí ở những buổi meeting, hội chợ... cũng có những cầu tiêu tạm cho mọi người dùng khi cần đến và chẳng bao giờ phải tốn một xu nào.

Nhưng khi du lịch ra nước ngoài mới “thấm thía”! Cái gì cũng phải trả tiền, kể cả nhu cầu vệ sinh (giá từ 1$ - 1.5$/1 lần, tùy nơi, tùy nước). Không phải chỉ tốn tiền mà còn “gian nan” khi hữu sự, để tìm cho ra “nơi cần đến”, ngay cả ở những thủ đô văn minh lẫy lừng lâu đời của thế giới! Tôi nhớ có một lần khi thăm thủ đô Paris, một người trong đoàn cần toilet, bác tài chạy xuôi, chạy ngược, vòng vòng mãi mà vẫn không tìm ra! Cuối cùng một sáng kiến được nêu ra: tới một nhà hàng nào đó vô mua bất kỳ món gì đó để được đi toilet! Đó là nỗi khổ tâm lớn của các vị cao niên khi đi du lịch châu Âu, các vị phải nhắc nhau nhịn uống nước (điều này lại rất hại cho sức khỏe) để khỏi “khốn đốn” khi hữu sự! Tôi nhớ một lần ở Rome, hướng dẫn viên dẫn một bà đi mãi qua đường này, tới ngõ nọ mà vẫn không tìm ra “nơi phải đến”, “bí” quá bèn hỏi:
- Bà có chịu tốn 10 Euro để vô restaurant kia mua thứ gì đó để được đi WC không?
- Nín hết nổi rồi, bây giờ không phải 10 Euro mà 20 Euro tôi cũng chịu luôn!
Có những WC có người ngồi thâu tiền còn đỡ, có những nơi, họ thiết kế sẵn phải bỏ đúng số tiền (cắc) quy định thì cổng mới mở cho vô. Khi đi du lịch đâu phải ai cũng có sẵn tiền cắc (Euro) trong túi, có một bà “mắc” quá nhưng không đổi được tiền cắc, nên phải mượn tứ tung trong đoàn, mỗi người thương tình móc hầu bao bỏ vô máy một ít, máy nuốt hết nhưng còn thiếu mấy xu, chưa đủ tiền, máy không mở cổng! Thật khốn đốn với máy móc vô tình!

Ở một số nước châu Á như Trung quốc, khách du lịch phải luôn thủ sẵn giấy vệ sinh trong bóp, vì trong toilet không có giấy vệ sinh. Tôi cứ bị ấn tượng mãi về một lần thăm Bắc Kinh (cách đây hơn 10 năm), đoàn du khách được một dàn các cô gái trẻ đẹp mặc xường xám đón chào tưng bừng ngay từ lối vào nhà hàng. Nhà hàng thiết kế rực rỡ sang trọng, đèn đuốc sáng choang như... cung đình. Sau bữa ăn khi cần đi WC, tôi ngạc nhiên khi bước vào thấy có một bàn trải khăn trắng bóc, trên bàn có một bình hoa tươi thật to, đẹp, và một cô gái xinh đẹp rực rỡ mặc xường xám ngồi đó chỉ để làm nhiệm vụ phát cho mỗi khách 1- 2 miếng giấy vệ sinh nhỏ. Ôi “cung đình” mà không có giấy vệ sinh! Đúng là Cộng Sản, hình thức trình diễn thì xôm tụ, nhưng nhu cầu căn bản thì không được đáp ứng. Trong đời sống có những nhu cầu xem ra có vẻ nhỏ nhặt, tầm thường, nhưng khi cần đến mà không có thì nó trở thành một trở ngại lớn, khiến người ta “điêu đứng” vì nó. Nghe kể có một đoàn du khách nước ngoài viếng các lăng tẩm của triều đình Huế, đi từ lăng này đến lăng kia, cảnh đẹp hùng vĩ bao la..., bỗng một du khách cần đi WC, hướng dẫn viên tìm hoài không ra, bèn chỉ khách vào bụi cây xài đỡ,khách cương quyết không chịu! Vậy là cả đoàn phải ngưng tham quan, ra xe trở về khách sạn.
Phi trường ở Mỹ, ghế ngồi chờ đợi cho hành khách là ghế nệm dày và lúc nào cũng dư thừa, thậm chí lúc ít khách có thể nằm ngủ thoải mái. Toilet và vòi nước uống có khắp nơi, bây giờ lại có thêm những chỗ cho hành khách charge pin điện thoại, laptop, I pad, I phone... Nhưng khi tới phi trường Paris (CDG) những nhu cầu căn bản đó hình như biến mất. Thực ra trước đây tôi đã đến phi trường Paris nhiều lần, nhưng đều đi ra ngay luôn. Lần này chuyến bay chuyển ở Paris trước khi tới Berlin nên tôi mới có cơ hội thâm nhập CDG. Trước hết khi máy bay đáp xuống CDG, tôi ngạc nhiên khi thấy phải đi cầu thang sắt xuống, với va li carry-on, nếu kéo đi thì nhẹ nhàng, nhưng phải xách nó lên và leo mấy chục bậc thang xuống thì không dễ chút nào! Sau đó, leo lên xe buýt chở vô phi trường. Vô đây tôi lại tiếp tục chạy vòng vòng, mệt “bở hơi tai” vì phải xách carry-on lên xuống cầu thang nhiều lần đi từ khu này qua khu khác, phải qua khu x-ray (khám bằng tay là chính) rồi mới tới được cổng đổi chuyến bay! Khu nhà kiếng tương đối nhỏ nhưng có tới 12 cổng, mỗi cổng chỉ vỏn vẹn có một quầy nhỏ và một computer. Có một số băng ghế sắt trong khu vực cho hành khách ngồi đợi nhưng quá ít so với nhu cầu, nên hành khách ngồi la liệt dưới đất, khắp lối đi. Một số ông thì ngồi vắt vẻo trên các lan can, bờ tường. Tôi vừa mỏi chân, vừa mệt vừa khát nước, nhưng nhìn quanh cả khu vực không thấy có vòi nước uống nào, cả WC cũng không có, chỉ thấy toàn người là người

Khi lên được máy bay Air France, ngồi yên chỗ quan sát, tôi có cảm tưởng nó là “xe đò bay” thì đúng hơn (khi so sánh với máy bay Mỹ mà tôi vừa đi) vì ghế ngồi và thiết bị cũ kỹ như từ thế kỷ trước. Lúc máy bay cất cánh tôi nghe nó gầm gừ “phành phành” rồi “ạch ạch” như đang cố sức nâng cái thân già nua bốc lên khỏi mặt đất, tôi chỉ lo nó rớt (may là tôi có mua bảo hiểm rồi nên đỡ lo). Cuối cùng sau một hồi “lắc lư con tàu” nó cũng bay lên được. Yên tâm rồi, tôi mệt mỏi ngủ thiếp đi (vì chẳng có phương tiện giải trí nào: nhạc, tivi...).

Cơn khát nước làm tôi chợt tỉnh, thấy chung quanh ai cũng có ly nước, tôi bèn yêu cầu một nam tiếp viên cho xin ly nước, nhưng hắn trố mắt ra ngó tôi như tôi đang đòi hỏi một điều gì quá đáng, rồi hắn phớt lờ (đúng là tính “ga lăng” của đàn ông Pháp đã trở thành quá khứ). Có lẽ họ cho rằng họ chỉ phát nước theo giờ của họ, hết giờ là hết phát? Sau khi yêu cầu 2 lần không được, khát quá tôi đợi lúc bà tiếp viên trưởng đi ngang để lập lại yêu cầu, bà bảo tôi đợi một lát và mang đến cho tôi một ly nước nhỏ. Hình như nước trở thành hiếm quý và cách phục vụ lịch sự cũng hiếm quý luôn! Ôi Air France! một thuở mơ ước khi tôi còn học trung học ở Saigon, lúc nhìn những hình ảnh quảng cáo của Air France trên các tạp chí nước ngoài! Ôi mộng và thực đúng là “nghìn trùng xa cách”! Xin tạm biệt Air France và phi trường Paris (kinh đô ánh sáng một thời) mà không mong ngày gặp lại! Có lẽ từ đây nếu có du lịch châu Âu, tôi phải lo học thuộc lòng câu của William Shakespear: “I always feel happy, you know why? Because I d'ont expect any thing from anyone.”

Tới phi trường Berlin (TXL) lại cũng phải đi cầu thang sắt xuống, rồi đi xe bus vô phi trường, xem ra phi trường này còn nhỏ và thiếu tiện nghi hơn phi trường Paris, tôi lại tiếp tục xách carry-on mệt nghỉ, chứ không kéo đi nhẹ nhàng như ở các phi trường Mỹ. May mà hai nước Pháp và Đức là hai nước lớn lại có nền kinh tế vững mạnh trong khối châu Âu!

Đúng là có đi ra ngoài mới thấy nước Mỹ là số một, đó là chưa kể đến vụ so sánh giá cả hàng hóa ở Mỹ và châu Âu, hàng hóa ở Mỹ vừa nhiều vừa rẻ. Sau này về đến phi trường LAX tôi thấy thật nhẹ nhàng, thoải mái, tất cả đều được chuẩn bị phục vụ chu đáo nhanh gọn, lịch sự. Đúng là “sweet home” Ôi! “My beautiful America”. Bây giờ tôi mới cảm thấy thực sự yêu mến và tự hào về quê hương thứ 2 của tôi : Nước Mỹ yêu dấu! Quả là:
“Phải chờ đến xế chiều
Ta mới thấy ánh sáng ban ngày rạng rỡ biết bao!”

Nói đến niềm tự hào về nước Mỹ, tôi lại nhớ đến sự việc trên chuyến Cruise Coastal vừa đi. Ngày thứ hai lên tàu thì toilet trong phòng bị nghẹt, tôi gọi điện cho họ sửa mấy lần mà tình trạng vẫn không thay đổi, tôi phải xuống chỗ “Customer Service” để xếp hàng đi khiếu nại.Thật ngạc nhiên khi họ “tỉnh bơ” cho biết không phải chỉ riêng phòng tôi mà các phòng ở tầng 2,5,8 đều bị như vậy, họ đang sửa, khi nào xong họ sẽ thông báo. Tôi bèn hỏi:
- Trong khi chờ sửa, thì khách giải quyết vụ toilet ra sao?
- Đi kiếm mấy cái toilet công cộng mà xài
- Nhưng chúng ở đâu?
Sau một hồi thắc mắc tới lui, họ mới chịu lục sơ đồ ra để tìm và cho biết một cái ở lầu 9, một cái khác ở lầu 4. Nghĩa là khi hữu sự phải “ôm bụng” chạy vòng vòng mấy tầng lầu để đi tìm cái toilet công cộng và xếp hàng chờ tới phiên. Chắc là dân châu Âu quen kiểu này rồi nên không thấy phiền?
Trở về phòng, tôi bực bội kể lại cho chị bạn cùng phòng nghe, chị là bác sĩ hưu trí ở Đức. Sáng nay chị đã là nạn nhân “ôm bụng” chạy vòng vòng, may mà tình cờ tôi nhớ ra cái toilet công cộng ở lầu 9 cạnh bên nhà hàng, nên chỉ cho chị. Do đó tôi tưởng chị là “đồng minh” bèn nói:
-Hệ thống phục vụ trên tàu quá tệ! Đã vậy xem ra họ còn thản nhiên cho đó là chuyện nhỏ, không hề có một lời xin lỗi khách hàng. Ở Mỹ thì họ đã xin lỗi ríu rít rồi...
Không ngờ chị phản ứng mạnh:
- Mệt quá, Mỹ cái gì cũng tốt, cũng ngon lành hết! Dân Mỹ được nuông chiều quá hóa hư! Bởi vậy trên thế giới, Mỹ đi đâu cũng bị chúng ghét, bị khủng bố cho chết hết là đúng rồi! Lúc nào cũng đòi hỏi thứ này, thứ kia , còn đòi xin lỗi...“nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”...

Chị mắng cho một hồi “tràng giang đại hải” mà vẫn chưa hả cơn giận. Tôi ngơ ngác vì bỗng dưng mình bị “giũa” một trận te tua chỉ vì là “dân Mỹ” mà nào tôi có đòi hỏi điều gì cao cấp đâu, chỉ là những nhu cầu căn bản thôi. Thôi “một sự nhịn chín sự lành”, nên tôi nín nhịn vì chị lớn hơn tôi nhiều, coi như mình nhịn “chị hai” trong nhà cho mọi chuyện êm xuôi tốt đẹp trong chuyến đi chơi! Suy ra mới biết tinh thần “bài Mỹ” ở các nước Âu châu khá mạnh (ghé vô Nga 1 ngày tham quan cũng phải nộp tiền làm đơn xin visa). Kiểu này qua các nước Trung Đông chắc bị “xơi tái” quá, nhưng tôi nhớ một lần cách đây 5,6 năm dân Mỹ qua Ai cập thì lại được đối xử như VIP, đi đâu cũng được ưu tiên và có xe jeep hộ tống “tiền hô, hậu ủng” rất oai!

Hôm sau tâm sự với một chị bạn khác về nỗi ấm ức bị mắng oan. Chị trả lời:
- Chắc tại chị ấy ở Đức lâu, nên ngấm tinh thần “tự tôn dân tộc” của dân Đức, không muốn nước nào qua mặt, mà như vậy là tự ái dân tộc dỏm, vì dù gì mình cũng là người Vyết Nam! (Chị cười) Ai bảo Mỹ giàu hơn, mạnh hơn nên dễ bị chúng ghét!
Tôi chán ngán:
- À thì ra vậy! Hèn gì em nghe người ta thường nói “ở đời mình thua chúng khinh, mình hơn chúng ganh ghét, mình bằng chúng nói xấu”.
Không biết đến bao giờ các dân tộc trên thế giới sẽ sống với nhau trong tâm trạng “để hận thù người người lắng xuống” hầu không còn ai cảm thấy:
“Đôi khi ta muốn thoát ly
Đi thật xa khỏi cuộc đời này
Xa lìa chuyện ganh đua với chê bai” (L.H.H.)

Dù sao nhờ có đi ra ngoài, có dịp mở rộng tầm nhìn, có dịp so sánh, tôi mới biết trân quý hơn những điều tôi đang được hưởng mỗi ngày ở xã hội này, mà đôi khi quá quen, tôi cứ xem đó là lẽ đương nhiên, là chuyện thường tình (giống như trong đời sống gia đình có nhiều người có phước có được những bà vợ, ông chồng rất tốt, rất tử tế, nhưng họ không hề biết quý và cứ nghĩ đó là chuyện đương nhiên và bình thường, cho đến khi không còn nữa mới hối tiếc thì đã muộn!). Khi ý thức lại những tiện nghi của đời sống ở Mỹ mà tôi vẫn xem đó là chuyện bình thường, tôi mới biết đôi khi nó là niềm ước mơ của biết bao người trên thế giới nói chung và dân tộc Việt Nam nói riêng. Họ không chỉ cần những nhu cầu vật chất căn bản của đời sống nhưng còn cần những nhu cầu căn bản về tinh thần (quyền làm người, quyền tự do...) mà họ khát khao nhưng không hề được đáp ứng!

Xin cám ơn Chúa, xin cám ơn đời đã cho tôi có một cuộc sống tương đối an lành trên xứ Mỹ này, để từ đó tôi biết yêu thương và chia sẻ nhiều hơn với những mảnh đời bất hạnh khác nơi quê nhà, vì có thể “Một tình thương cho cuộc sống đang chờ đợi ta” bởi:

“Tình yêu là trái chín của mọi mùa
Nằm trong tầm với của mọi bàn tay” (Mẹ Theresa)

Phượng Vũ
9/2013

User avatar
VuPhong
Posts: 2923
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image

Bạn Thật, Bạn Giả

Lê Hữu
Nhiều người vẫn cho rằng một trong những hạnh phúc trên đời này là tình bạn. Điều này thì ai cũng dễ dàng đồng ý thôi. Thế nhưng, để có tình bạn thực sự thì cần có những người bạn thực sự. Như thế nào gọi là một người bạn?


Liệu có phải những ai ta vẫn giao du đều là bạn cả? Không đâu, số người ấy gồm cả “bạn” lẫn “bè”, và phần nhiều là bè hơn là bạn. “Bạn bè” không phải là lối nói cho xuôi tai, cũng không phải là “từ láy”, “từ đệm” này nọ như nhiều người tưởng mà là “từ ghép” của hai chữ “bạn” và “bè”. Bạn, nói đơn giản, là người đồng hành cùng chia vui sẻ buồn với ta trên những chặng đường đời. Bè là những kẻ tạt ngang qua đời ta trong chốc lát, rồi đường ai nấy đi mà không chút vấn vương.

Tình bạn và tình bè

Bè là một dạng “bạn qua loa”. Bè trong những chữ “bè phái”, “kết bè, kết đảng” gợi lên ý tưởng không lấy gì làm hay ho cho lắm.


Kết bè luôn luôn dễ dàng hơn kết bạn, như ta dễ dàng “cụng ly” với người mới tiếp xúc lần đầu trong một bàn tiệc. Bạn nhậu là một trong những dạng “bè” khá phổ biến. Bàn nhậu và cuộc nhậu mở ra những cơ hội thuận tiện cho những ai có nhu cầu kết bè.


“Bè” dễ đến, dễ đi. Những lúc ta sảng khoái thì bè xăng xái “tấp” vào, những khi ta phiền muộn thì bè lặng lẽ “trôi” đi. Những kẻ ở quanh ta trong những cuộc vui ồn ào mà ta tưởng là “bạn” thường chỉ là “bè”. Như những cuộc vui chóng tàn, những người “bạn” dễ dãi ấy cũng nhanh chóng biến mất khỏi đời sống chúng ta. Những con người ta dễ lầm tưởng là “bạn” ấy, nhiều lắm chỉ đi với ta một đoạn đường ngắn ngủi, cũng không khác mấy những anh chàng, những cô nàng vớ vẩn mà ta có lần “đụng” phải, có lần gặp gỡ phất phơ đâu đó trong đời này, nói dăm ba câu chuyện nắng mưa rồi chia tay, đường ai nấy đi và chẳng bao giờ còn gặp lại lần thứ hai.


“Bè” cũng hay “đổi bè”, khi thì hát “bè” này, khi thì đổi sang “bè” khác. Tình bè khó mà bền chặt vì thiếu sự hiểu biết và tin cậy. Bè có khi hóa thành bạn, tình bè có khi đổi sang tình bạn nếu chung sống được với nhau lâu dài. Thường thì bè chỉ là bè.


“Có hoạn nạn mới biết bạn, bè”, câu ấy không mới nhưng chẳng bao giờ cũ, chẳng bao giờ sai, và cũng cho thấy một trong những “đức tính” nổi bật của bè: những lúc “bạn” khốn đốn thì “bè” chẳng thấy đâu và thường viện những lý do chính đáng để không phải ra tay nghĩa hiệp với bạn mình.


Hầu như ai cũng có ít nhiều bè, là những người ta vẫn tiếp xúc vì nhu cầu giao tế hoặc cùng môi trường sinh hoạt (hội hè, làm việc, giải trí...), nhưng không kể là bạn nên họ phải là bè. Ngược lại, ta cũng là bè của nhiều người, những người không thực sự xem ta là bạn. Cuộc sống là vậy. Thường thì bè cũng vô thưởng vô phạt, nếu ta chẳng trông cậy gì ở họ thì cũng không phải thất vọng vì họ.


Bạn cũng có bạn thân, bạn sơ. “Bạn sơ” có điểm giống “bè” là ta không biết gì nhiều về họ nên không đủ độ tin cậy. Bạn thân thường là bạn quen biết và gắn bó lâu năm, là người biết rõ cả tính tốt lẫn thói hư tật xấu của ta. Bạn thân là người từng chia sớt cùng ta những vui buồn, sướng khổ, và là người ta tin cậy được để chia sẻ những nỗi niềm. Bạn thân không hẳn là tri kỷ hoặc gần nhau về tính cách, sở thích, quan niệm. Bạn thân cũng không hẳn là người thật tốt. Có những người thật tốt với ta, có khi tốt hơn cả những bạn thân, nhưng ta vẫn không cảm thấy gần gũi, thân mật, vì thế không gọi là bạn thân.


Tình bạn thường “tĩnh” hơn là “động”, lắng đọng hơn là sôi nổi. Ở giữa hai người bạn thân là sự đồng cảm. Tận cùng của đồng cảm là thinh lặng.


Tình bạn cần có một bề dày của sự gắn bó, hiểu biết, cảm thông và tin cậy. Đến một tuổi nào đó người ta thật khó mà có thêm được những người bạn mới, trong lúc những người bạn cũ thì cứ mất đi lần lần. Càng lớn tuổi người ta càng cảm thấy cô đơn là vậy, và chẳng còn cách nào khác hơn là cố mà giữ lấy và yêu lấy những tình bạn cũ kỹ, hiếm hoi còn sót lại.


Những người tưởng rằng mình có nhiều bạn, thực ra là những người không có hoặc có rất ít bạn, và không biết phân biệt đâu là bạn, đâu là bè; hơn thế nữa, đâu là bạn thật, đâu là bạn giả.

Bạn thật tình thật, bạn giả tình giả

Bạn lại có “bạn thật” và “bạn giả”. Bạn thật là khuôn mặt thật, không điểm phấn tô son. Bạn giả là chiếc mặt nạ, với nhiều lớp phấn dày. Như cuộc sống có hai mặt, con người vừa có bạn thật lại vừa có bạn giả. Rủi thay, bạn giả lúc nào cũng nhiều hơn bạn thật. Bạn giả thì tình cũng giả, đến với ta vì cái gì đó khác hơn là tình thật.

Bạn giả là người đóng giả vai người bạn, ngoài mặt tỏ ra thân thiết nhưng có thể bất ngờ tặng cho ta những nhát dao trí mạng từ phía sau lưng, hoặc phun ra những nọc độc của lòng đố kỵ. Đôi lúc có kẻ thù còn dễ chịu hơn là có những người bạn giả. Bạn giả cũng tựa như bạc giả vậy, đã không xài được mà để trong túi có khi mang họa.

Bạn giả cải trang rất khéo, ra vẻ tình nghĩa thắm thiết, nói năng toàn những lời hay lẽ phải. Thường thì người ta phát giác ra bạn giả khá muộn màng, đành tự an ủi là học được bài học quý giá (với chút vị đắng cay) về những tình bạn... giả. Bạn giả như rượu giả, uống vào mới ngã ngửa ra.

Bạn thật và bạn giả đều là những “bạn” ta quen biết khá lâu. Làm sao nhận biết được bạn nào là thật, bạn nào là giả?

Bạn thật là người thực tâm mong muốn những điều tốt lành cho người bạn mình, là người vui sướng thấy bạn mình hạnh phúc, may mắn và thành công trong cuộc sống, như là hạnh phúc, may mắn và thành công của chính mình vậy (dẫu có “qua mặt” mình đi nữa). Bạn thật không bỏ qua cơ hội nào giúp bạn mình thăng tiến trên đường đời. Bạn thật không ngại tán thưởng về tài năng hoặc thành công của bạn mình để giúp bạn thêm tự tin trong cuộc sống, và không ngại nói thẳng nói thật về những sai trái của bạn mình để giúp bạn cải thiện bản thân. Bạn thật không ngại nói tốt về bạn mình sau lưng bạn, và sẵn sàng bẻ gãy những mũi tên ác ý nhắm vào bạn mình. Bạn thật là bàn tay chìa ra cho bạn mình nắm lấy lúc sa cơ thất thế, là đôi nạng cho bạn mình tựa vào lúc chông chênh, nghiêng ngả giữa dòng đời xuôi ngược. Bạn thật là người đến với ta trong những thời kỳ đen tối nhất của đời ta, trong những lúc ta trần trụi, và cũng là người ta có thể đến gõ cửa mà không cảm thấy ngại ngùng khi cần sự giúp đỡ.

Bạn giả là người có những “đức tính” trái ngược hoặc không giống như trên.

Những người bạn thật như thế làm sao mà có nhiều được, thường chỉ đếm được trên những đầu ngón tay của một bàn tay (và ít khi đếm hết được). Con số này lại hao hụt dần và không kiếm đâu ra được để mà thay thế khi ta bước vào buổi hoàng hôn của đời người. Những con người ta gặp gỡ vào tuổi xế chiều, khi mà quỹ thời gian đã gần cạn, làm sao mà có đủ bề dày của một tình bạn.

Làm sao để có được những người bạn thật? Tôi chắc câu trả lời được nhiều người tán đồng là: “Bạn hãy tỏ ra là người bạn thật. ”

Chẳng ai có hứng thú gì để “giao lưu tình cảm” với những người bạn giả, trừ khi ta cũng là... bạn giả.

Lúc nào rảnh rỗi, bạn thử làm việc này: với cây bút và tờ giấy, vẽ ra hai cột “Bạn” và “Bè” và ghi xuống tên những người ta vẫn giao du vào mỗi cột tương ứng. Từ cột “Bạn”, ta có thể di chuyển một ít tên sang cột thứ ba là cột “Bạn giả”, sau khi xem xét cẩn thận để đi đến kết luận rằng những “bạn” ấy không phải là bạn thật. “Bảng phân loại” này giúp ta có được cách xử sự phù hợp với từng đối tượng.

Với những người tôi thực lòng quý mến, tôi vẫn nói: “Tôi mong cho anh/chị không có bạn hơn là có những người ‘bạn giả’. Có được chừng vài ba người ‘bạn thật’ thì anh/chị là người may mắn và hạnh phúc. ”

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Xe lam thuở nào
Sang đến thời kỳ “văn minh xe máy”, ban đầu Sài Gòn xuất hiện cyclo máy với hai bánh phía trước và một bánh phía sau rồi dần dà chuyển sang loại xe ba bánh ngược lại với cyclo và cyclo máy, một bánh trước và hai bánh sau.
“Xe lam” là loại xe chuyên chở công cộng phổ biến được du nhập Sài Gòn và các tỉnh miền Nam vào thập niên 1960 để đáp ứng nhu cầu đi lại của giới bình dân.
Tại miền Nam, thuật ngữ “xe lam” có xuất xứ từ Lambretta và Lambro là nhãn hiệu xe của nhà sản xuất Innocenti do Ferdinando Innocenti sáng lập tại Ý từ năm 1920. Ngoài xe hơi, Innocenti còn sản xuất loại xe hai bánh mang nhãn hiệu Lambretta trong khoảng thời gian từ 1947 đến 1971. Năm 1996 Innocenti nhập vào hãng xe Fiat và chấm dứt các dòng sản phẩm riêng.
Ngoài xe hai bánh Lambretta, Innocenti còn sản xuất động cơ cho loại xe ba bánh như ta thấy xuất hiện trên đường phố Sài Gòn xưa. Đó là các dòng xe Lambretta FD với dung tích xy lanh 123 hoặc 150 cc và FLI cải tiến với 175 cc, sau đó là Lambro 200, Lambro 550 đều có dung tích 198 cc.
Hãng Vespa cũng sản xuất loại xe 3 bánh và Sài Gòn đã nhập một số xe Vespa ba bánh có hình dáng và cấu trúc giống Lambretta và Lambro. Với số lượng ít ỏi hơn, Vespa ba bánh cũng được gọi chung là xe lam.
Vespa là thương hiệu nổi tiếng của hãng Piaggio, Ý, được ra đời từ sau Thế chiến thứ hai với của dòng sản phẩm xe gắn máy yên thấp, bánh nhỏ còn gọi là xe scooter. Rinaldo Piaggio (1864-1938) thành lập Công ty Piaggio tại Genoa năm 1884 với chức năng ban đầu chuyên sản xuất các trang thiết bị cho tàu thuỷ, tàu hỏa và máy bay.
Đến năm 1946, những chiếc xe scooter đầu tiên mang nhãn hiệu Vespa được thiết kế bởi kỹ sư Corradino D’Ascanio, ông tạo kiểu dáng khung xe vuốt tròn và tiếng máy nổ khác biệt: “Sembra una vespa!” (Nó cứ như con ong ấy). Vespa tiếng Ý là con ong và thương hiệu Vespa ra đời từ đó.
Vespa ba bánh sử dụng động cơ của xe scooter Vespa có dung tích lớn hơn và Sài Gòn có thêm xe lam mang nhãn hiệu Vespa bên cạnh xe Lambretta và Lambro.
Các dòng xe lam lần lượt được nhập vào miền Nam để thay thế xe thổ mộ, hay còn gọi là xe ngựa. Đặc biệt loại xe lam khi nhập không ở dạng “đóng thùng”, việc đóng thùng xe được thực hiện tại Sài Gòn. Theo thống kê, trong số gần 35.000 chiếc Lambro 550 xuất xưởng thì có gần một nửa (khoảng 17.000 chiếc) được xuất sang thị trường Thổ Nhĩ Kỳ và Việt Nam.
Khoảng những năm 1966-1967, chính phủ VNCH đã tiến hành một chương trình mang tên “Hữu sản hóa” nhằm cung cấp phương tiện hành nghề chuyên chở công cộng cho những lao động cần việc làm và cũng để cải thiện đời sống giới thợ thuyền, phát triển hạ tầng cơ sở vận tải … Và đó là cơ hội để xe lam thâm nhập vào thị trường miền Nam.
Ngoài việc “hữu sản hóa” xe taxi sơn màu vàng trên mui và xanh dưới thân, một số người thuộc giới tài xế xe lam cũng là những đối tượng của chương trình hữu sản hóa, trong số đó có không ít người từ xà ích xe ngựa trở thành tài xế xe lam. Họ ký kết những hợp đồng trả góp để có thể làm chủ một chiếc xe lam ngày ngày chạy trên đường phố kiếm cơm.
Giá chiếc xe lam vào thập niên 60 khoảng 30 cây vàng nhưng vàng hồi đó còn rẻ chứ không “leo thang” như ngày nay. Có tài xế xe lam còn khoe: “Chạy một ngày, ăn cả tháng chưa hết”. Nói vậy có lẽ hơi quá, nghề nào cũng có những gian nan, khổ cực của nó, nhưng câu nói đó cho thấy nghề tài xe lam thời hoàng kim là một trong những nghề “hot”…
Đặc điểm của xe lam là tính “cơ động”, hành khách có thể lên xuống xe tại bất cứ chỗ nào dọc theo tuyến mà không cần trạm lên xuống như xe buýt. Miền Nam trong thời kỳ chiến tranh leo thang, xe lam cũng là phương tiện “chạy giặc” hữu hiệu vì gọn nhẹ lại chở được nhiều đồ đạc.
Xe lam là loại xe có một cabin phía trước dành cho tài xế và một thùng xe có thể chở hành khách và hàng hóa. Khách ngồi trên băng ghế dài, dọc theo hai bên thùng xe với sức chứa trên 10 người, đó là chưa kể trường hợp đặc biệt, 2 người khách nữa có thể ngồi 2 bên tài xế trong khoang lái!
Động cơ xe nằm ngay dưới yên dành cho tài xế. Khi xe chết máy, bác tài phải nhảy xuống đường, giở yên xe lên, chùi lại bu-gi, dùng một sợi dây thừng kéo cho máy nổ hoặc dùng bàn đạp khởi động lại máy xe.
Gặp khi đông khách, bác tài cũng sẵn sàng ngồi thu gọn lại ngay giữa yên để có thêm chỗ cho hai khách ngồi ké vào hai bên. Chuyện kể một chuyến xe đang chạy ngon trớn bỗng động cơ xe ngừng hoạt động. Bác tài nói với hai bà ngồi hai bên: “Hai bà làm ơn xuống xe cho tôi đạp máy”.
Vốn là người miền Nam nên bác tài phát âm “đạp máy” nghe như “đạp mái” khiến một bà lên tiếng: “Cái ông này ‘dê đạo lộ’. Xe chết máy không lo sửa mà lại còn đòi… đạp mái. Vô duyên!”
Bên trong xe lam là cả một kho truyện tình cảm “lâm li bi đát” nhưng cũng có khi là những chuyện “trời ơi đất hỡi” đáng ghi nhớ. Những chuyến xe đông người có thể trà trộn khách thuộc loại có “bàn tay nhám” hay “diệu thủ thơ sinh” chuyên nghề móc túi. Lại còn có những “bóng hồng” hành nghề “bỏ bùa mê” để trộm cắp tài sản của khách trên xe.
Hành khách ngồi “chen vai thích cánh” trên xe cũng dễ nảy sinh tình cảm bất ngờ nhưng lại cũng dễ xảy ra.. tai họa. Có trường hợp chàng trai bị cô gái “hớp hồn” trên xe lam nhưng khi xuống xe cái bóp đã… “không cánh mà bay”.
Cũng có thể là một chuyện tình lãng mạn của đôi trai gái đi chung một chuyến xe lam như nhà thơ Trần Thanh kể lại trong bài Trên chuyến xe lam:
“Tôi vẫn nhớ mùa thu năm ấy
Tôi quen nàng trên chuyến xe lam
Nàng nhìn tôi đôi mắt mơ màng
Tôi bẽn lẽn nhìn sang không nói…
“Ông vua nhạc sến” Vinh Sử có bài Chuyến xe lam chiều với những ca từ rất bình dân kể lại một mối tình của đôi trai gái quen nhau trên một chuyến xe lam. Mối tình sau này tan vỡ không phải vì nàng bỏ đi lấy chồng mà là chàng “tham phú phụ bần” lấy con gái nhà giàu.
Sau biến cố 30/4/1975 xe lam vẫn tiếp tục tồn tại trong khi taxi phải mất nhiều năm mới khôi phục. Xe lam trong thời kỳ này được dùng làm phương tiện đi lại phổ biến, rẻ tiền và dĩ nhiên vẫn giữ được “thời vàng son” của nó…
Một thời đã qua kéo theo nhiều kỷ niệm từ các phương tiện di chuyển công cộng tại Sài Gòn xưa. Có lẽ thế hệ trẻ ngày nay không ngờ lớp cha ông đã trải qua nhiều thời kỳ lý thú đến như vậy. Biết đâu chừng cũng có con cháu lại thấy cha ông mình sao… khổ quá!

Nguyễn Ngọc Chính (Hồi ức đời người)

User avatar
ngayngo
Posts: 1209
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Thương vay khóc mượn -
Trần Văn Giang

Lời rào trước:

Đây không phải là một bài phê bình văn học hay tranh luận nghệ thuật. Đây chỉ là một bài phiếm luận “bỏ túi” đọc để cho vui cuối tuần.
TVG

Tôi không hiểu tại sao phe ta cứ nhắm mắt nhắm mũi ca ngợi một số thi ca nhạc cận đại loại khơi khơi trích dẫn điển tích Tàu, rồi lại cất công công kênh các bài này lên thành “thi / nhạc phẩm bất hủ" của dân Mít. Vấn đề thương vay khóc mượn được thể hiện qua sự vô tình hay cố ý sử dụng các chữ xúc phạm (derogative wordings) đến cả danh dự dân tộc mình gồm những chữ Hán, điển tích Tàu, địa danh Tàu, nhân vật Tàu. Nói cách khác là tự mình chửi bố mình – self-humiliation!

Trong thời kỳ Bắc thuộc trên ngàn năm; và cũng ngay sau kỳ Bắc thuộc, vì văn hóa của dân tộc Việt bị Tàu vùi dập triền miên, khi bắt đầu chập chững tìm một lối đi trong giai đoạn mới dành độc lập... cho nên không trách được, vì còn ở tình trạng sơ khai, mới khởi đầu thì vấn đề cần phải vay mượn (y hệt như nhà nghèo muốn đi buôn phải tìm cách mượn vốn) từ Tàu cũng dễ hiểu. Chẳng hạn, nhìn qua một số tác phẩm văn chương cổ của Việt Nam như Bích câu kỳ ngộ, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Đoạn trường tân thanh... đều thuần túy vay mượn nội dung và hình thức văn hóa Tàu. Nhưng mà ngày nay, thế kỷ 21 rồi, “tự lo độc lập…” kể cũng đã hơi lâu rồi, vậy mà thơ văn nghệ sĩ vẫn còn ráng tiếp tục thương vay khóc mượn thì nghe thật bẽ bàng, thấy ngán ngẩm chè đậu...

Tôi xin nêu ra đây vài thí dụ điển hình.

1- Bài "Hòn Vọng Phu" của Lê Thương.

Tôi chẳng ưa gì cs, nhưng tôi thấy việc cs cấm bài "Hòn Vọng Phu 1" (qua lời phê bình thơ nô Chế Lan Viên) cũng có chuyện để nói.

“Bên Man Khê còn tung gió bụi mịt mùng.
Bên Tiêu Tương còn thương tiếc nuối ngàn trùng.
Người không rời khỏi kiếp gian nan,
người biến thành tượng đá ôm con…”

Nói về "Bên Man Khê" là ca ngợi việc Mã Viện đánh dẹp mọi ở phương Bắc (Tàu gọi dân phương Bắc là "rợ" Hồ). Mã Viện cũng đã tiêu diệt cuộc nổi dây của Hai Bà Trưng (Tàu cũng lại gọi Ta là 'mọi' - "Nam Man") ở phương Nam.

"Bên Tiêu Tương" ở đây là chỉ về đất bên nước Tàu, không phải là đất nước Ta, vì trong bài thơ của “Chinh Phụ ngâm khúc” bản tiếng Nôm của Đoàn Thị Điểm có đoạn:

“Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc trải ngần núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương...


Lịch sử chiến đấu chống xâm lăng của Tàu, hay “sự nghiệp mở mang bờ cõi” lấn đất của dân Chàm, Cao miên... của dân tộc Việt Nam ta làm gì mà có chuyện lệnh vua cho xuất quân tuốt luốt ở sông Tiêu Tương (Hàm Dương) mãi tận bên Tàu?! Bác Lê Thương kể ra hơi vung tay quá đà.

2- Bài "Hương Xưa" của Cung Tiến.

Bài này được ca ngợi không hết lời là một bài hát bất hủ của nền tân nhạc Việt Nam cận đại. Thử đọc lại một vài dòng trong bài hát này:

Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa
Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô

Xin nói cho rõ. "Nhị Hồ" ở đây không phải là địa danh “Nhị hồ” ở gần Huế mà là một loại đàn Nhị 2 dây của Tàu. Đàn này xuất xứ từ "rợ Hồ" có âm thanh ai oán (loại mất nước). Đàn Nhị Hồ đối với người Trung Hoa cũng giống như đàn vĩ cầm đối với người Tây phương.

“Cung Nguyệt Cầm” - Nghĩa đen là tiếng đàn Nguyệt. Đàn Nguyệt (From Chinese 月琴, literally "moon[-shaped] string instrument") là đàn cổ có hình tròn, cũng của mấy chú Ba. Thường thấy mấy em xẩm vẽ trong tranh Tàu thường âu yếm ôm đàn này coi rất lãng moạng.

Cũng tương tự cá mè một lứa như “Nhị Hồ,” hai chữ "Cô Tô" này hoàn toàn không phải là đảo Cô Tô ở Quảng Ninh Bắc Việt mà là Cô Tô Thành (hay Cô Tô Đài) cứ điểm cuối cùng, trận đánh cuối cùng mà Câu Tiễn và Phạm Lãi đã đánh để dứt điểm vua Ngô Phù sai Ngô Phù Sai (chữ Hán: 吳夫差 trị vì nước Ngô: 495-473 TCN) còn gọi là Ngô Vương Phù Sai (吳王夫差), tên thật là Cơ Phù Sai, là vị vua thứ 25 nước Ngô thời Đông Chu trong lịch sử Trung Quốc. Sau chiến thắng Cô Tô Thành này, Câu Tiễn thì lấy lại ngôi vua, còn Phạm Lãi thì lấy lại người đẹp Tây Thi. Đâu có cái quái gì ăn nhậu với lịch sử vẻ vang của dân Việt.

3- Bài "Ai về sông Tương" của Thông Đạt.

Phe ta nên biết là bản nhạc "Ai về sông Tương” là bài nhạc Việt được dân Việt ưa chuộng nhất hoàn cầu (căn cứ trên thống kê các lần yêu cầu bài hát này so với các bài hát khác trên tất cả các trang nhạc Việt online).

“..Ai có về bên bến sông Tương,
nhắn người duyên dáng tôi thương,
bao ngày ôm mối tơ vương...”

Sông Tương (tiếng Trung Hoa là: 湘江 hay "湘水", theo chữ viết loại Pinyin là: Xiāng Jiāng, Xiāng Shǔi; Wade-Giles: "hsiāng chiāng" hay "hsiāng shuǐ") này cũng là Tương Giang hay Tương Thuỷ hay sông là một con sông, chi lưu chính của sông Trường Giang, chảy qua tỉnh Hồ Nam, Trung Cộng lục địa. Sông này có diện tích lưu vực 94.600 km², tổng chiều dài 856 km, lưu lượng bình quân 72,2 tỷ m³ một năm. Tương Giang bắt nguồn từ huyện Lâm Quý của Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Hoa và chảy vào Hồ Nam,

Dân Việt ăn nước mắm, khác với dân Tàu ăn xì-dầu, đâu có ai hưởn, dư tiền mà mua vé xe đò, xe lửa đi đến tận Sông Tương tỉnh Quảng Tây Trung Hoa để mà trả lời dùm ông cái Thông Đạt mơ ngủ ban ngày này?!

4- Bài "Thu hát cho người" của Vũ Đức Sao Biển:

Ông Sao Biển có cái tên nghe rất "Nôm" mà lại chỉ thích chơi điển tích Trung Hoa, thích chơi chữ "Hán" của "Đường Thi / Thôi Hộ."

Hãy nghe lời hát bài "Thu hát cho người":

“Giòng sông nào đưa người tình đi biền biệt.
Mùa thu nào đưa người về thăm bến xưa.
Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ…”
Đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió.
Sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ.


“Hoàng hạc” ở đây ông Sao Biển muốn ví von với cảnh ở mãi bên Tàu; Cho chính xác hơn, ông Sao quả tạ nhà ta muốn noái về "Hoàng hạc lầu" trong thơ Thôi Hộ đời Đường.

Hoàng Hạc Lâu

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.

...

Lầu Hoàng Hạc

Người xưa cưỡi hạc đã cao bay
Lầu hạc còn suông với chốn này

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Lời đón sau:

Tại sao văn chương thi nhạc Việt Nam cứ cần phải câu nệ vay mượn như vậy mới có cơ hội trở thanh “bất hủ?”

Tôi cam đoan đất nước Tàu có cái gì thì đất nước mình cũng có cái đó không thua không kém thì cần gì phải vay mượn khi mình đã có đầy đủ… Thí dụ:

Về sông, tại sao cứ phải hát sông Dịch, sông Vị, sông Tương, sông Dương Tử… mà không dùng sông Bạch Đằng, sông Hồng, sông Cửu Long, sông Vàm Cỏ Đông, sông Cầu Ông Lãnh…

Về núi, tại sao phải dùng sự to lớn hung vĩ để so với núi Thái sơn, Thái Hành, Thái Tỏi, Ngọa Long cương, Nga mi…. mà không xài núi Hoàng Liên sơn, Ba Vì, Tam Điệp, Cẩm Thạch, Bà Đen, Thất Sơn.

Người đẹp thì lại ca ngợi sắc đẹp Tây Thi, Đắc Kỷ, Dương Quý Phi… mà không dám ca ngợi Hai Bà Trưng, Trần Huyền Trân, Lê Ngọc Hân, Bùi Thị Xuân.


Cái tâm lý thích “hàng ngoại” truyền thống 4000 năm này, nhất là thích “hàng Tàu,” cần phải được dừng bước giang hồ ở đây… Nếu cứ tiếp tục thích hàng Tàu và để Tàu lấn chiếm đất biên giới phía Bắc dần dà như tằm ăn dâu, hàng ngày đe dọa cưỡng chiếm bỉển đảo ở phía Đông, và cho đám thợ Tàu, thương gia Tàu, mai phục ngay trong nội địa Việt Nam thì chẳng mấy chốc nữa dân ta phải nói trực tiếp tiếng Tàu chứ chẳng phải vay mượn chi nữa chi cho toát mồ hôi… trán.

Quý vị có còn nhớ 2 câu thơ loại “núi liền núi, sông liền sông…” từng bị hiểu lầm là do thi sĩ thượng đẳng “ass-kissing” vĩ đại Tố Hữu sáng tác (kể cũng hơi oan cho “ass-kisser” này)…

“… Bên kia biên giới là nhà
Bên ni biên giới cũng là quê hương….”

(Bài thơ “Cho uống thuốc” của Chế Lan Viên – 1954)

Thực ra, hai câu thơ “bất hủ” này do chính tay thơ nô Chế Lan Viên làm ra. Chế Lan Viên nghịch lý y như cái biện chứng cs. Xin nhắc lại, Chế Lan Viên là người đã phê bình, chỉ trích bài hát “Hòn Vong Phu 1” của nhạc sĩ Lê Thương là có lời ca đã ca ngợi Mã Viện và câu chuyện “người vợ trông chồng hóa đá” của bài hát là một câu chuyện “phản động;” không thích hợp với biện chứng cộng sản. Bởi vì dù rằng chồng mợ có đi vào Nam lạc đường ở Trường Sơn mất tích không biết đường về, hay là có lỡ bị quân VNCH cho sinh Bắc tử Nam hẳn hòi rồi thì vợ ở nhà vẫn phải “tuân thủ” 3-Đảm-Đang thì mới là tiêu biểu “phụ nữ cách mạng.” Chứ còn trông chồng hóa đá thì làm sao mà làm cách mạng được nè trời…

Vài lời thô thiển múa rìu qua mắt thợ.


Trần Văn Giang
Orange County
(Ngày 10/4/2013)

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

Ðến Philippines, nhìn mưa, nhớ Việt Nam
Nguyễn Hưng Quốc
(Nguồn: VOA)
Về nhiều phương diện, Philippines rất khác Việt Nam cũng như hầu hết các quốc gia Ðông Nam Á khác. Philippines tiếp xúc với Tây phương rất sớm. Ngay từ thế kỷ 16, khi một số giáo sĩ Tây phương tiền phong mới dọ dẫm đặt chân lên lãnh thổ Việt Nam, Philippines đã là thuộc địa của Tây Ban Nha.

Cuối thế kỷ 19, Philippines lại trở thành thuộc địa đầu tiên và cũng là duy nhất của Mỹ, từ đó, một mặt, trong khi phần lớn dân chúng Philippines vẫn giữ kiểu đặt tên theo Tây Ban Nha, mặt khác, họ lại chọn tiếng Anh làm một trong hai ngôn ngữ chính thức của cả nước (Philippines là quốc gia nói tiếng Anh lớn thứ ba trên thế giới - chỉ sau Mỹ và Anh). Ảnh hưởng của cả Tây Ban Nha lẫn Mỹ có thể thấy ngay tên nước và tên người: Tên nước, Philippines, vốn là “Islas Filipinas”, những hòn đảo của hoàng đế Philip II, vua của Tây Ban Nha, được viết theo kiểu tiếng Anh; nhưng danh từ chỉ người (hoặc tiếng) Philippines lại được viết là Filipino, với chữ F đầu, theo kiểu Tây Ban Nha, vốn đã có từ trước. Một ảnh hưởng khác được thấy rất rõ là, trong khi các quốc gia châu Á khác đều theo hoặc Nho giáo hoặc Phật giáo hoặc Hồi giáo, khoảng trên 90% dân số Philippines là Thiên Chúa giáo (phần lớn là Công giáo).
Image
(Hình minh họa: Noel Celis/AFP/Getty Images)

Ðến một nước như thế, tôi ít chờ đợi sẽ gặp nhiều thứ có thể gợi nhớ đến Việt Nam. Vậy mà có. Ngay từ lúc tôi vừa mới bước ra khỏi phi trường Manila. Lúc ấy, trời mưa tầm tã. Chiếc xe chở tôi từ phi trường đến khách sạn ở trung tâm thành phố Taguig, thuộc Metro Manila, như trôi đi trong mưa. Nhìn ra ngoài cửa kính, tôi chỉ thấy mưa mù mịt, và ngoài mưa, lóe lên vài đốm sáng từ những chiếc đèn đường và đèn của những xe khác ngay trước mặt hay ngay bên cạnh. Mưa mù trời. Nghe nói cơn mưa đã kéo dài suốt cả ba ngày rồi. Thì ở đâu lại chả có mưa? Ở Úc, tháng này đang giữa mùa xuân, trời cũng mưa hoài. Nhưng không hiểu sao, nhìn mưa ở Philippines, tôi vẫn thấy có cái gì khang khác. Không giống mưa ở Úc. Mà lại giống mưa ở... Việt Nam. Giống như thế nào? Thú thực, tôi cũng không biết. Chỉ thấy giống.

Ngày hôm sau, tôi gặp mấy người bạn từ Mỹ sang ở nhà một người bạn khác. Chúng tôi ngồi dưới mái hiên bên cạnh nhà vừa hút thuốc vừa chuyện trò. Thật ra, chúng tôi cũng không nói chuyện gì nhiều. Có những lúc, kéo dài thật lâu, cả bọn đều im lặng. Tôi thì tôi bị hút hồn bởi những giọt mưa ngoài trời và những tiếng mưa lộp độp trên mái tôn. Sau, các bạn tôi cũng thú nhận như vậy: Họ say sưa ngắm mưa và nghe tiếng mưa gõ. Một người bạn tôi buột miệng nói: “Nhìn mưa, nhớ Việt Nam quá!”

Ở Việt Nam, mưa có nhiều loại: mưa bụi (còn gọi là mưa tro), mưa dầm, mưa dông, mưa đá, mưa luồng (hay còn gọi mưa bóng mây), mưa ngâu (vào tháng bảy âm lịch), mưa nguồn (còn gọi mưa lũ), mưa ngâu, mưa phùn (vào cuối mùa đông và đầu mùa xuân), mưa rươi (ở miền Bắc trong mấy tháng cuối năm), mưa xuân hay mưa thu. Mưa cũng có nhiều mức độ: Mưa lai rai, mưa lắc rắc, mưa lâm râm, mưa lún phún, mưa lúi phúi, mưa dầm dề, mưa xổ phong long, v.v..

Tôi sợ nhất là mưa ở miền Trung, những cơn mưa kéo dài hầu như vô tận, hay nói theo cách nói của người địa phương, mưa đến “thúi đất”. Ði học, trùm áo mưa kín mít, vậy mà, đến trường, tóc tai và chân cẳng, đôi khi cả quần áo nữa, lúc nào cũng ướt nhẹp. Những ngày nghỉ học, cứ ngồi bó gối ở nhà nhìn mưa, thoạt đầu, thấy thú vị, sau, chỉ thấy buồn đến bã người. Ngày trước, có lần từ Hà Nội vào Huế, nhà thơ Nguyễn Bính từng than thở: “Trời mưa ở Huế sao buồn thế / Cứ kéo dài ra đến mấy ngày.” Mưa ở Huế thế, mưa ở Ðà Nẵng cũng thế. Cũng dầm dề. Cũng lê thê.

Nhưng tôi nhớ nhất là mưa ở Sài Gòn, nơi tôi sống từ năm 1975 đến ngày vượt biên, năm 1985. Hình như trong suốt cả mười năm ấy, tôi không hề có áo mưa. Ðang đi đường, trời đổ mưa, chạy vội vào một mái hiên nào đó nấp. Và chờ. Một lát, mưa tạnh, lại đi tiếp. Hình như hiếm lắm mới có một trận mưa kéo dài. Còn lại, trong ký ức tôi, chỉ có những cơn mưa ngắn.

Một sự khác biệt nữa: so với miền Trung và miền Bắc, mùa mưa ở miền Nam trùng với mùa nóng. Vừa mưa vừa nóng. Có lẽ đây là lý do chính khiến tôi và các bạn tôi nhìn mưa ở Philippines mà cứ nôn nao nhớ về Việt Nam, đặc biệt là Sài Gòn: Mưa thì mưa, trời vẫn hầm, không khí chung quanh vẫn oi bức. Mưa không đủ làm giạt đi hơi nóng của thời tiết, thậm chí, dường như nó làm hơi nóng bị đặc lại, quánh lại, chỉ quanh quẩn trong những vùng không có mưa, như cái mái hiên tôi đang ngồi với bạn bè, chẳng hạn.

Ngồi nhìn mưa ở Philippines, chúng tôi nói về mưa ở Việt Nam. Cũng như tôi, cả anh Phan Huy Ðạt lẫn Phạm Phú Thiện Giao, chủ nhiệm và chủ bút của báo Người Việt ở California, không ai có kiến thức gì về khí tượng học. Chúng tôi chỉ nói theo kinh nghiệm: Mưa nhiệt đới, như ở Việt Nam hay Philippines, thường có hạt. Ở những nơi khác, như ở Úc, chẳng hạn, tôi chỉ thấy mưa hoặc lay bay, lất phất hoặc tầm tã, mù mịt. Nhưng dù nhẹ hay nặng, chưa bao giờ tôi thấy mưa thành hạt. Chỉ hoặc mờ mờ như sương hoặc mù trời trắng đất, họa hoằn, mới thấy được những sợi mưa, kiểu Huy Cận tả, “mưa giong buồn sợi xuống lơi lơi”. Ở Việt Nam, cũng như ở Philippines lúc này, tôi thấy rõ từng hạt mưa giữa trời. Những hạt mưa nối theo nhau rơi xuống, ràn rụa trên cành mít bên góc nhà và gõ đều đều trên mái tôn. Trong bản trường ca Ðẻ đất đẻ nước của người Mường, người ta tả những hạt mưa lớn đến độ, thoạt đầu, “bằng trái cà”, sau, bằng “quả bưởi”. Mưa ở Philippines, những ngày đầu khi tôi mới đến, không lớn đến vậy. Nhưng cũng là hạt.

Nhưng nhìn mưa không thích bằng nghe tiếng mưa rơi. Ở Tây phương, hiếm khi chúng ta nghe được tiếng mưa rơi. Ngay cả khi ở nhà trệt, mái ngói cũng thường cao, lại bị trần nhà ngăn cản, tiếng mưa thường nghe yếu hẳn đi. Ở Việt Nam và Philippines thì khác. Nhà hoặc hiên nhà thường lợp bằng tôn, tiếng mưa nghe rõ mồn một. Khi mưa lớn, nghe ầm ầm hoặc rào rào; nhẹ hơn, nghe tí tách; nhẹ và dài, nghe rả rích; tiếng mưa thanh, nghe thánh thót; tiếng mưa đục, nghe lộp độp.

Cả tuần lễ tôi ở Manila, hầu như ngày nào cũng mưa. Có khi mưa dầm dề cả ngày, có khi mưa ngừng, nắng hanh lên một lát, rồi lại mưa. “Mưa mãi mưa hoài”, nói theo một câu thơ của Lưu Trọng Lư. Có mấy ngày, đến ở trong một khu resort, tôi ngủ trong một ngôi nhà nhỏ trên núi. Nhà nhỏ, thiết kế như một cái chòi, vách đá nhưng lợp bằng lá nứa. Mưa suốt đêm. Mưa rơi trên mái nứa, tiếng rất đằm. Như những tiếng thì thầm. Tôi lại càng nhớ nhà. Suốt đêm, cứ trằn trọc. Nghe vang vang trong đầu bài thơ của Huy Cận đã lâu tôi không đọc lại:

“Ðêm mưa buồn nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn

Nghe đi rời rạc trong hồn
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi
Rơi rơi dìu dịu rơi rơi
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ

Tai nghiêng hướng lạc phương mờ
Trở nghiêng gối mộng hững hờ nằm nghe
Gió về, lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư.”

Càng nhớ nhà hơn nữa khi, cả mấy ngày ấy, hầu như lúc nào tôi cũng được ăn cơm Việt Nam. Có cá chiên. Có thịt kho. Có canh rau đay. Nhưng tôi thích nhất là trái cây. Xoài. Chuối tiêu. Chôm chôm. Măng cụt. Mít. Và bòn bon, thứ trái cây đặc sản ở Quảng Nam, quê tôi. Nhớ, cách đây mấy năm, đi Bangkok, lúc đang đi dạo trên đường, tôi thấy trên dãy trái cây bày bán dọc đường, một rổ bòn bon, tôi bỗng thấy nôn nao lạ lùng. Bao nhiêu kỷ niệm từ lúc còn nhỏ, ở Quảng Nam, nườm nượp ùa về. Tôi mua nguyên cả rổ, đến mấy ký, đem về khách sạn, ăn từ từ trong mấy ngày. Không thấy ngon như mình tưởng. Nhưng vẫn thích. Vì kỷ niệm. Bòn bon ở Philippines, trái nhỏ hơn, nhưng dường như có vị thanh hơn.

Ăn thức ăn và trái cây Việt Nam và nghe tiếng mưa rả rích, nhiều lúc tôi ngỡ mình đang sống ở Việt Nam, nơi tôi không thể trở về.

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

HÙM CHẾT ĐỂ DA; NGƯỜI CHẾT ĐỂ TIẾNG
Tướng Võ Nguyên Giáp là người vô lương tâm đối với dân Việt

Tại sao?

Dù là một vị tướng chiến thắng trận Điện Biên Phủ năm 1954 mở ra một viễn tượng Độc Lập cho quốc gia và dân tộc.

Nhưng trên thực tế 60 năm qua đi, tướng Giáp đã nhìn thấy người dân Việt Bắc Trung Nam sống nô lệ, đàn áp, đọa đầy, bởi độc đảng Cộng Sản VN,

và còn man rợ hơn dưới thời thực dân Pháp.

Đất, biển, hải đảo, tài nguyên bị kẻ thù Trung Cộng xâm chiếm.

Một vị danh tướng với hào quang chiến thắng trận Điện Biên Phủ,

đi đâu cũng mang trên vai 4 ngôi sao với tước vị Đại Tướng đã mất hết lương tri không còn biết nhục;

thay vì giữ tiết tháo rũ áo, từ quan, bỏ đảng để nêu gương trở về với chính nghĩa và cội nguồn của dân Việt.


Hùm chết để da; người chết để tiếng.

Tướng Giáp không còn dũng lược của một vị tướng để nêu gương quay về với chính nghĩa người dân Việt như một Gorbachev của Liên Bang Sô Viết.

Tại sao Gorbachev là một người Cộng Sản, là một Tổng Bí Thư, là một Tổng Thống lại thành công trong việc giải tán đảng Cộng Sản, nơi xuất phát

vì Gorbachev vẫn còn lương tâm cắn rức của một con người yêu nước thương dân; khi nhận ra chủ nghĩa Cộng Sản hoàn toàn sai lầm
từ căn bản vì chỉ biết đàn áp, đọa đầy, giam cầm, và giết hàng triệu người dân mình.

Nga Sô tưởng niệm các nạn nhân chế độ Staline hàng năm vào ngày 31 tháng 10.

(Các nhà sử học được các báo chí quốc tế trích dẫn lời cho rằng từ 20-40 triệu người đã bị Joseph Stalin (1879 - 1953)
và bộ máy thanh trừng của nhà độc tài này giết chết trong các trại tập trung và các nhà tù thời Xô-Viết trước đây.
Mà những người bị thảm sát đã được Tổng thống Nga Putin cho rằng:[1]

"Những người bị thảm sát, khủng bố là những con người ưu tú nhất, có trí tuệ cao nhất và là những người can đảm nhất
của nước Nga và Liên Xô thời đó.")

Mong rằng cái chết của tướng Võ Nguyên Giáp sẽ cảnh tỉnh quay về với chính nghĩa dân Việt của những nhân vật trong Bộ Chính Trị,
đảng Cộng Sản Việt Nam.

Đặng Bảo
7/10/2013

lequyen
Posts: 295
Joined: Sun May 22, 2011 6:22 am

Post by lequyen »

Nên xóa đảng cộng sản đi

Ngô Nhân Dụng

Ma chê, cưới trách, các cụ dạy không sai. Sau khi ông Võ Nguyên Giáp đã mồ yên mả đẹp, dân Hà Nội bắt đầu bàn tán. Tại sao chính quyền lại ra lệnh ngưng treo cờ rủ ngay buổi trưa bữa hạ huyệt, mà không đợi đến tối? Buổi tối là lúc người ta thường làm lễ “hạ cờ.” Ðó là lúc ngưng không treo cờ rủ; sáng hôm sau sẽ kéo lên tới ngọn cột cờ, không còn dấu hiệu để tang nữa.

Tại sao lại ngưng “để tang” giữa ngày, mà không đợi thêm dăm, sáu giờ nữa, cho hợp nghi lễ? Nếu tin bói toán, có thể đổ tại các nhà chiêm tinh. Chắc có ông thầy bói nào đó gieo quẻ Mai Hoa, phán rằng nếu treo cờ để tang ông Võ Nguyên Giáp quá giờ Ngọ thì ông Nguyễn Phú Trọng hay Nguyễn Tấn Dũng có thể bị tai nạn! Tai nạn gì? Ðồng bào ta bàn nhau: Tai nạn Lý Khắc Cường. Ông thủ tướng Trung Cộng ghé Hà Nội trên đường bay về Bắc Kinh. Ông lại đến Phú Bài vào đúng buổi trưa; trong ngày chôn cất ông Giáp. Không lẽ lại đón một vị quốc khách bằng lá cờ treo rủ, nửa chừng? Lý Khắc Cường cũng sợ bị xui xẻo y như Nguyễn Tấn Dũng vậy. Cho nên Sứ Quán Trung Quốc phải lập tức yêu cầu kéo các lá cờ lên tới ngọn. Chấm dứt cờ rủ!

Chắc ông Võ Nguyên Giáp cũng chẳng biết gì nữa, về chuyện họ ngưng để tang ông vào giờ Ngọ. Ông cũng không biết Sứ Quán Trung Cộng không hề đến viếng tang ông, dù trụ sở của họ ở rất gần nhà ông. Khi nhiều người thắc mắc, sứ quán trả lời rằng họ có viếng tang. Nhưng viếng tang ở Sài Gòn. Xác người ta quàn ở Hà Nội, cáo phó ghi địa chỉ rõ ràng. Vậy mà lại đem vòng hoa đến viếng ở Sài Gòn!

Có thể giải thích hành động này. Nếu viếng tang ở Hà Nội thì ông đại sứ phải tới. Còn ở Sài Gòn thì một viên chức thấp hơn tới cũng được. Bắc Kinh muốn chứng tỏ đối với họ ông Giáp không đáng được thăm viếng ở cấp đại sứ; cho một tổng lãnh sự hay cấp thấp hơn viếng là đủ rồi.

Bây giờ thì người ta lại nhớ: Các cố vấn quân sự Trung Cộng, như Vi Quốc Thanh, Trần Canh, đều coi thường ông Giáp.

Họ viết rõ ràng trong hồi ký của họ. Trong đám các lãnh tụ cộng sản đợt đầu, 1945, 46 ở nước ta, ông Võ Nguyên Giáp là người ít bị mang tiếng thân Trung Cộng, so với Hồ Chí Minh hay Trường Chinh. Hành động đáng nói sau cùng của ông Giáp là phản đối vụ cho Trung Cộng khai thác Bô xít. Các đồng chí Bắc Kinh không bao giờ tha thứ.

Nhiều đảng viên cộng sản ở trong nước đã bầy tỏ lòng quý mến đối với ông Võ Nguyên Giáp; chính vì họ thấy Trung Cộng ghét ông. Có lẽ cách tốt nhất để tiếp tục tỏ lòng quý mến ông là họ nên vận động xóa bỏ cái đảng cộng sản đi.

Trong đời ông, mối nhục lớn nhất của Võ Nguyên Giáp là ông hoàn toàn bất lực khi các tướng, tá đàn em bị tù đầy. Họ bị trù ếm chỉ vì họ từng thân tín đối với ông. Ngoảnh mặt làm ngơ khi các đàn em bị hành hạ, đó là một nỗi nhục. Ông Võ Nguyên Giáp còn bị các đối thủ làm nhục công khai, khi bắt ông đứng chỉ huy chiến dịch ngừa thai. Thà rằng như Ðặng Tiểu Bình, bị hạ xuống làm công nhân nhà máy; hay Lưu Thiếu Kỳ, bị bắt đi chăn cừu, còn đỡ nhục hơn.

Tại sao Võ Nguyên Giáp lại chấp nhận để người ta làm nhục như vậy?

Vì ông là một đảng viên cộng sản tốt. Một đảng viên tốt thì chấp hành, tuân phục bất cứ việc gì mà “đảng” bảo phải làm.

Ðảng cộng sản đã xóa bỏ nhân cách của các đảng viên. Họ không được phép có tư cách riêng, danh dự riêng, cũng như các tình cảm hay quyền lợi riêng. Võ Nguyên Giáp có thể tự biện minh mình đóng đúng vai trò đảng viên, không có gì hối hận.

Một điều mà ông ta, cũng như nhiều đảng viên cộng sản khác, không tự hỏi, là cái đảng cộng sản mà họ đã tuyên thệ gia nhập, có còn là một đảng cộng sản hay không? Họ không dám đặt câu hỏi này, vì mở miệng ra là sẽ mất hết các quyền lợi dành cho các đảng viên; có thể chết nữa.

Nhưng ai cũng biết, hiện nay ở Trung Quốc và ở Việt Nam không còn đảng cộng sản nào nữa. Khi thu nhận các nhà kinh doanh tư vào đảng, và công nhận quyền kinh doanh của các đảng viên cộng sản, Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng như Ðảng Cộng Sản Trung Quốc không còn là “cộng sản” nữa. Các vị lãnh đạo hai đảng này cố biện minh bằng các lý luận, như “Ðảng phải là đại biểu của lực lượng sản xuất tiến bộ nhất” (lý thuyết Giang Trạch Dân;) hoặc phải “giải phóng sức sản xuất” (Dự thảo Báo cáo chính trị, đảng Cộng Sản Việt Nam). Các lý thuyết trên bao hàm một nhận xét thực tế: Trong xã hội Trung Hoa hay Việt Nam hiện nay, giai cấp tư sản đang thành hình là lực lượng sản xuất tiến bộ nhất.

Vai trị tiền phong của giai cấp tư sản cũng được Karl Marx đề cao, khi ông quan sát sự chuyển biến từ thời kỳ phong kiến sang kinh tế tư bản. Các quyết định thay đổi của hai đảng Cộng Sản Trung Quốc và Việt Nam chỉ thể hiện diễn biến mà Marx mô tả: Chế độ phong kiến chuyển dần sang chế độ tư bản. Xã hội Trung Hoa và Việt Nam hiện nay vẫn còn đầy di sản của thời phong kiến do Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn lập nên, cần phải dẹp bỏ thì mới tiến bộ được.

Chúng ta vẫn phải đặt thêm một câu hỏi, là: Tại sao quý vị lãnh đạo trong các đảng Cộng Sản ở Trung Hoa và ở Việt Nam không thành thật một lần trong đời, trong đời sống cá nhân cũng như đời sống đảng viên, bằng cách tuyên bố thẳng rằng họ thôi, ngưng, stop, từ nay không theo đuổi chủ nghĩa Mác Lê nin nữa?

Khi một đảng chính trị tự đặt mình vào tình trạng phải tự mâu thuẫn với chính mình (mâu thuẫn giữa cương lĩnh, lý thuyết, với hành động thực tế), thì sẽ làm hư hỏng cả giềng mối tinh thần của cả quốc gia. Khi một ông vua hay một đảng cầm quyền nói một đằng, làm một nẻo, thì chữ TÍN không còn được coi trọng nữa. Không lấy chữ TÍN làm căn bản trong các mối tương quan, trong mọi giao tế xã hội, thì sẽ không còn một hệ thống đạo đức. Hơn thế nữa, cũng không thể phát triển tinh thần tôn trọng luật pháp, là nền tảng của mọi sinh hoạt kinh tế, chính trị trong thế giới hiện đại. Tái lập chữ TÍN trong xã hội là điều quan trọng và đáng theo đuổi hơn là thực hiện bất cứ một chủ nghĩa mơ hồ và không tưởng nào.Về mặt chính trị, ở hai nước Trung Quốc và Việt Nam, chế độ toàn trị (totalitarian) đã biến dần sang một chế độ độc tài (authoritarian) bình thường. Guồng máy của đảng và nhà nước không còn kiểm soát được tất cả đời sống xã hội nữa. Xã hội đã tách rời khỏi chế độ. Giới lãnh đạo đảng đã nhận thức được giới hạn của quyền lực mà họ đang nắm. Ðời sống mỗi cá nhân không còn hoàn toàn tùy thuộc vào đảng và nhà nước nữa.

Nhưng giới lãnh đạo đảng cộng sản không còn khả năng kìm hãm các biến chuyển, vì chính họ đang bước vào một cuộc phiêu lưu mới, không biết sẽ hướng vào đâu. Tại Ba Lan, Tiệp, Slovack, Hungary, những đảng cộng sản ở đó có góp phần chủ động thúc đẩy cuộc “cách mạng nhung” để thiết lập thể chế mới, khi đó chính họ phải rời khỏi chính quyền. Nhờ thay đổi toàn diện và nhanh chóng, sau hai mươi năm kinh tế các nước này đã tiến rất nhanh. Các đảng viên cộng sản cũ từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, họ có nhiều kinh nghiệm chính trị hơn các đảng phái mới, họ có thể trở lại nắm quyền hnh dưới ngọn cờ khác. Ở Trung Quốc và Việt Nam thì không. Giới lãnh đạo cộng sản không dám rút khỏi chính quyền, tự mò mẫm con đường đổi mới từng bước một, vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng đảng Cộng Sản Việt Nam thì còn dè dặt hơn, đợi Trung Quốc thí nghiệm cái gì trước rồi mới theo.

Nhưng có những vấn đề mà chính đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng không giải quyết nổi. Một vấn đề lớn là guồng máy quản lý xã hội cũ vốn được vạch ra để cai trị trong một hoàn cảnh đơn giản, có cấp bậc trên dưới rõ ràng. Guồng máy này không còn thích hợp để cai quản một xã hội phức tạp; các tương quan cũ bị đứt, bị vỡ, và các tương quan mới đã nẩy sinh. Tương quan cũ dựa trên hệ cấp quyền hành, bây giờ thêm tương quan dựa trên tiền bạc, lợi lộc. Ðảng cộng sản không dám xóa bỏ hệ cấp quyền hành, nhưng vẫn phải công nhận hệ thống duy lợi. Hệ cấp quyền hành dựa trên đảng, trên tương quan quyền lực cá nhân. Hệ thống duy lợi dựa trên tiền, nhưng không có các luật lệ ràng buộc như trong các nước tư bản lâu đời. Hai mạng lưới đó chồng chéo lên nhau, tất nhiên đẻ ra tham nhũng. Ðó là một hiện tượng làm uy tín của đảng cầm quyền bị ở Trung Quốc và Việt Nam suy sụp.

Một hiện tượng khác là hệ quả của nền kinh tế tư bản phi luật pháp là tình trạng bất công về lợi tức, thu nhập và tài sản ngày càng cao và càng hiển nhiên. Không những bất công trong thu nhập, trong tài sản, mà hệ cấp quyền hành của đảng còn tạo ra cảnh bất công trong cơ hội sống và kiếm ăn nữa. Trong khi ý thức hệ được tuyên dương vẫn đề cao một xã hội bình đẳng, trong thực tế thì chính chế độ này lại nuôi dưỡng cảnh bất bình đẳng. Niềm tin của chính các đảng viên, ngay cả giới lãnh đạo đảng, cũng hao mòn.

Hiện nay, cuộc đổi mới kinh tế thúc đẩy tinh thần duy lợi và vị kỷ. Khơi dậy những điều xấu xa đó không khó gì cả. Chỉ cần buông thả ra là lòng tham, óc vị kỷ sẽ tự phát triển. Không có đạo đức để kiềm chế, cũng thiếu cả luật pháp để ràng buộc, nền luân lý bị đổ vỡ.

Trong lịch sử loài người, óc duy lợi và tính ích kỷ luôn luôn phải kèm theo một hệ thống các quy tắc luân lý hoặc giáo lý kiềm chế. Kinh tế tư bản phát sinh trong những xã hội đã có một nền luân lý cổ truyền, và chính các truyền thống tôn giáo giúp kiềm chế óc duy lợi, ích kỷ, để lái động lực tìm lợi lộc, hướng chúng vào các giá trị tinh thần. Khi kinh tế tư bản được thả lỏng trong một xã hội mất nền tảng, đạo lý đang tan rã, thì những điều xấu xa nhất của lối làm ăn đó tha hồ nẩy nở và tung hoành. Ðó là hoàn cảnh nước ta và Trung Quốc bây giờ.

Nói một đằng làm một nẻo, tất cả ý thức hệ cộng sản đã phá sản, không còn ai tin nữa, kể cả các đảng viên. Ðó là bị kịch của cả dân tộc. Muốn lập lại chữ TÍN trong xã hội Việt Nam bây giờ, chính những người có trách nhiệm, tức là giới lãnh đạo đảng Cộng Sản, phải nói thẳng, nói thành thật với mọi người: Từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Ðiều đó không có gì xấu, không có gì phải che đậy và trì hoãn. Vì chính họ đã không còn chủ nghĩa cộng sản tin nữa!

Ông Võ Nguyên Giáp sống như một đảng viên cộng sản gương mẫu suốt đời: Luôn luôn tuân thủ, chấp hành các quyết định của đảng. Cái đảng đó đã làm ông mất tư cách, mất cả danh dự. Chỉ vì ông đã học tập và thể hiện “đạo đức cách mạng” do Hồ Chí Minh dạy: Không có thứ đạo đức nào cao bằng tinh thần kỷ luật của đảng viên. Những người còn giữ lòng quý trọng ông nên giúp ông làm một việc mà chính ông không làm được: Xóa bỏ đảng cộng sản. Nó không những tiếp tục giết chết nhân cách của các đảng viên khác, mà còn làm bại hoại của nền đạo lý của dân tộc!

Post Reply