Tạp Ghi , Chuyện Phiếm , Chuyện Vui Hàng Ngày

Cho đuổi mèo, mèo rượt chuột, chuột sa chỉnh gạo, gạo tải vô xe... thế rồi... xe cán chó!!!

Moderators: CNN, khieulong

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Sắt và máu

Tạp ghi Huy Phương

Người ta gọi cờ của Cộng Sản Việt Nam là lá cờ máu, mà không phải chỉ Việt Nam, các nước Cộng Sản trên thế giới đều có lá cờ nền đỏ,
từ Liên Bang Xô Viết, Trung Cộng, Bắc Hàn hay Cuba.

Image
Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ, nơi tưởng niệm các binh sĩ VNCH và Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam.
(Hình minh họa: David McNew/Getty Images)
Chính cái màu máu đó Hồ Chí Minh đã vác về từ Liên Xô gây thảm họa cho dân tộc Việt Nam. Tố Hữu trong bài “Hoa và Máu” đã ca tụng “Người” của ông, nhưng có kết quả ngược, khi đọc lên, người ta thấy Hồ Chí Minh quả thật là một nhân vật ngoi lên từ vũng máu:

“Ôi Việt Nam! Từ trong biển máu
Người vươn lên như một thiên thần!”

Và cả dân tộc này đang hân hoan phấn khởi được ngụp lặn, vùng vẫy trong máu:

“Ta lại về ta, những đứa con
Máu hòa trong máu, đỏ như son.”

Từ chủ trương sắt máu đó Tố Hữu cũng đã hò hét:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong...”

Không ai nghĩ ra vì sao phải đổ máu cho tốt ruộng đồng và thu thuế nhanh hơn, phải chăng đó là một lối cai trị bằng sắt máu và khủng bố!
Ngay trong bài quốc ca “Tiến Quân Ca” chúng ta đã phải rùng mình khi nghe những lời hát man dại của Văn Cao:

“Thề phanh thây uống máu quân thù
Tiến mau ra xa trường, tiến lên!”

Những nhà thơ khác như Xuân Diệu cũng nhập cuộc, chủ trương:

“Máu kêu máu trả thù.
Súng đâu, anh em đâu.
Bắn nó thủng yết hầu,
Bắn tỉa nó dài lâu!”

Lời kêu gọi của những con người thèm khát nhìn thấy máu này, đã đưa dân tộc đến thảm sát Mậu Thân, pháo kích trường học ở Cai Lậy, bắn pháo trên “đại lộ Kinh Hoàng,” gây biển máu trên Quốc Lộ 7B và những vụ trả thù ghê gớm trong ngày miền Nam thất thủ. Những người thèm máu trong chiến tranh, hôm nay ngày hòa bình đã có kết quả.

Ngày xưa có những bài toán trừ: “10 tên lính Mỹ giết 6 tên, còn lại mấy tên?” Nhưng ngày nay Việt Nam mon men lại gần Mỹ, “hoan nghênh việc Hạ Viện Hoa Kỳ lần đầu tiên thông qua một nghị quyết ủng hộ những nỗ lực giải quyết hòa bình các tranh chấp ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, và việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông,” thì bài toán có máu sẽ đổ lên đầu trẻ thơ vô tội, là, “10 ngón tay bị chặt đứt 2 ngón, tính ra còn mấy ngón tay?” Cũng là máu!

Trên những trang báo trong nước ngày nay, không có ngày nào là không có chuyện máu. Người ta giết nhau không cần đến súng, mà bằng búa bằng dao. Sư giết người yêu chôn trong vườn chùa, cha giết con, con cầm dao giết mẹ, anh em vợ chồng đoạt mạng nhau, còn phân thây, vứt bên lề đường, vùi trong bụi chuối, ao hồ. Mới đây là chuyện thiếu niên mới 15 tuổi giết cô chăn bò 52 tuổi, lột lấy bông tai và hiếp dâm thi thể, một thanh niên khác trấn nước nạn nhân cho đến chết, rồi kéo lên bờ làm chuyện tồi bại.

Bây giờ là thời buổi của ma quỷ hiện hình cũng như con người khát máu ưa chém giết nhau, chỉ vì không biết phù phép, bùa chú, yểm ma trừ tà, không chịu chôn hay thiêu đốt mà để con quỷ dâm dục, khát máu, bạo tàn sống nằm khô héo nhăn răng trong lăng.

Chúng ta thường nghĩ, chiến tranh là chuyện bất đắc dĩ, khi tiếng súng đã im trên chiến trận, dù ai chết, bên này hay bên kia, thì cũng là người, ai cũng có những người thân, cũng có một mái ấm. Phải là người lính của miền Nam ngày trước mới có được nỗi buồn xót xa, nhân bản như Tô Thùy Yên:

“Trời ơi, những xác thây la liệt
Con ai, chồng ai, anh em ai?

Hay như Trần Hoài Thư:

“Ai bạn, ai thù sao quá thảm,
Trên một dòng cuồn cuộn oan gia!”

Trong khi đó, những người Cộng Sản hả hê:

“Ném lựu đạn cho người vui vật sướng!”

Hay cầm súng giết người mà hãnh diện:

“Ôi êm ái khi tay cầm vũ khí!” (Xuân Diệu)

Ngay cái hầm chông của du kích là một vũ khí giết người, khi một con vật sa vào bẫy, dù thèm miếng thịt cũng bất nhẫn, khi thấy con vật giẫy giụa đau đớn trong máu me, nhưng Chế Lan Viên đã “yêu,” ca tụng nó, thứ vũ khí giết người:

“Hỡi cái hầm chông
Ta yêu ngươi hơn vạn đóa hoa hồng
Cái hầm chông nhọn hoắt...”

Sau khi giết người, họng súng của con người Cộng Sản “phải reo ca,” nên chế độ ấy, ngày nay sinh sản ra những con người sát nhân, hiếp dân, vứt xác xong về đi ngủ, hay ra quán ngồi nhậu tiếp.

Thời buổi cai trị bằng sắt máu, dùng bạo lực, công an là lực lượng trung thành trấn áp nhân dân, “còn đảng còn ta” nên cảnh giết người, đánh đập người dân trong các đồn công an trong khi lấy khẩu cung gây nên cảnh chết chóc, dàn cảnh tự tử không hiếm tại Việt Nam hôm nay. Cảnh cướp đất, cướp nhà đã dồn người dân lành thành dân oan, ăn đường, ngủ bụi, oán thán ngất trời.

Chúng ta trông đợi, hy vọng gì ở cái xã hội suy đồi bại hoại này, nó phát xuất từ cây đa Tân Trào, hay hang Pác Bó thì cũng đem lại cái chết cho hàng triệu thanh niên và ngày nay là đạo lý suy đồi. Hay biết mấy những câu thơ của Tố Hữu áp dụng cho hoàn cảnh hôm nay:

“...Càng tức nước, càng xui bờ vỡ
Lòng dân ta như lửa thêm dầu
Lưỡi lê, mũi súng, nhà tù
Càng đau, càng khổ, càng thù, càng căm!”
(Ba mươi năm đời ta có đảng)

Rồi đây, có lẽ sẽ không có “Cách Mạng Nhung,” “Cách Mạng Hoa Lài,” gì nữa hết. Chúng khởi đầu con đường đi bằng máu, sợ rồi đây nó sẽ tự kết thúc bằng máu như Tố Hữu đã từng kêu lên, “Máu kêu trả máu, đầu kêu trả đầu!”

__._,_.___

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »


Tôi Rất Tự Hào Khi Được Sống Ở Mỹ !

(trong email nhận được ghi dưới cùng bài nầy tên Thuỵ Vân)
Gần đây tôi có đọc được một vài bài viết, nói về cuộc sống của người Việt trên đất nước Mỹ, khiến tôi không khỏi chạnh lòng. Ở bất kỳ đất nước nào trên thế giới, con người cũng đều phải đi làm, để lo cho cuộc sống của mình. Những người lười biếng, thì cuộc đời của họ sẽ dậm chân tại chỗ !

Giầu và nghèo, thì không có nước nào mà không có hai tầng lớp này, bởi vì chẳng nơi nào chỉ có toàn người giầu, và chẳng nơi nào chỉ có toàn người nghèo cả.

Tôi đã theo cha mẹ qua Mỹ khi lên 10 tuổi, và bây giờ chỉ còn hai năm nữa, thì tôi được 30. Như vậy có nghĩa là, tôi đã sống ở Mỹ một thời gian khá dài. Phải nói rằng trong lòng tôi luôn cám ơn đất nước Mỹ, đã cho tôi cơ hội đến trường, mà không phải lo sợ không có tiền để đóng cho họ; cám ơn Mỹ, đã cho tôi cơ hội để cầm mảnh bằng kỹ sư trong tay, và cám ơn Mỹ, đã cho tôi cơ hội kiếm được một công việc làm khá tốt.
Tất cả những điều có được ngày hôm nay, là do sự cố gắng vươn lên của tôi. Muốn bước tới sự vinh quang, không phải là ngồi một chỗ, than thở hoặc lười biếng, mà có được.

Rất nhiều người Việt vượt biên qua Mỹ trước kia đã thành công, có nhà cửa, và có tương lai sự nghiệp vững chắc. Cha mẹ tôi khi đặt chân qua Mỹ cách đây 18 năm, cũng đã phải làm lại từ đầu. Ông bà không quản ngại làm việc siêng năng, để lo cho anh em tôi học nên người, nhưng không bao giờ than van rằng, đất nước Mỹ bắt họ phải làm việc, đầu tắt mặt tối.

Đất nước Mỹ không hề mang chúng ta sang đây, mà chính chúng ta tự đòi sang, vì thế nếu làm việc cực khổ, thì đừng bao giờ phiền trách họ, vì như thế là mình quá vô lý.

Nhiều người Việt khi mới đặt chân qua Mỹ, sau những ngày vượt biên nguy hiểm đầy gian nan, đã được chính phủ Mỹ nuôi dưỡng trong một chương trình trợ cấp, còn được gọi là welfare, vì có con nhỏ cho tới khi 18 tuổi, ngoại trừ độc thân thì chỉ được 24 tháng. Như vậy, đủ biết xã hội Mỹ đã tốt đến thế nào đối với chúng ta.

Người Việt ở Mỹ cũng có hai tầng lớp: một loại trí thức có văn bằng cầm trong tay, và một loại người không có mảnh bằng nào cả. Người có bằng cấp sẽ kiếm được công ăn việc làm tốt hơn, còn người không có bằng cấp thì phải làm nghề lao động. Dĩ nhiên lương sẽ không được trả cao.

Ở Mỹ, tôi đã nhìn thấy rất nhiều người cùng thế hệ với tôi, trở thành bác sĩ, kỹ sư, giúp ích cho đời sống mọi người. Đa số những người qua Mỹ sau này, muốn làm giầu nhanh, nhưng không chịu học hành.

Cũng có nhiều người Việt ở Mỹ, từng làm giầu bằng nghề Nail. Tôi không quen biết ai trong ngành này, nhưng theo những nhận xét từ người lớn cho biết, họ kiếm tiền rất dễ dàng. Chính họ tự chọn làm nghề chà chân, sơn móng tay để kiếm tiền, chứ chính phủ Mỹ hay người Mỹ, không hề bắt họ làm như vậy. Nghề này ngồi trong bóng mát, và không quá khổ cực như những người phải làm việc ở ngoài đồng nhặt trái cây, giống như người Mễ, hoặc công nhân sửa đường phố, nên xin đừng than thở ! Mỗi lần tôi nghe ai than làm nghề nail thế này thế nọ, thì tôi không thể hiểu họ thực sự muốn gì !

Đôi khi, họ kiếm nhiều tiền hơn cả những người đã phải bỏ công ra ngồi học 4 năm trong đại học. Những người đi làm cho công ty Mỹ, luôn đóng thuế đàng hoàng, nhưng họ lại không.

Tôi rất ghét những người ăn cơm Mỹ, ở nhà Mỹ, kiếm tiền từ người Mỹ, nhưng luôn chê trách cuộc sống, và đất nước Mỹ. Những người chỉ biết đứng núi này trông núi nọ, không bao giờ thành công và hài lòng với những gì họ đạt được... Nếu thật sự ở Việt Nam tốt hơn trong mắt họ, thì họ nên về đó mà sống, sang Mỹ làm gì !...

Căn cứ theo báo cáo, cũng như từng đọc báo chí, thì tôi thấy cuộc sống ở VN, khó khăn gấp nhiều lần bên Mỹ. Thử hỏi một kỹ sư hóa học ra trường, kiếm được bao nhiêu tiền một tháng? Ngay cả tầng lớp trí thức như giáo sư, người đã cho sinh viên kiến thức, mà còn nghèo khổ đi làm thêm ban đêm, để có đủ tiền nuôi vợ con đó thôi.

Những người giầu bên VN, đa số là cán bộ cao cấp, con ông cháu cha, hoặc là những người buôn bán, ngoài ra số người nghèo, thì vẫn còn rất nhiều...

Chúng ta không thể nào so sánh cuộc sống của người Việt tại Mỹ, với cuộc sống của người Việt tại quê nhà được, vì đây là hai bối cảnh hoàn toàn khác nhau. Ở Mỹ làm việc cực nhọc, nhưng không cảm thấy bị gò bó, muốn nói gì hay đi đâu cũng được.
Ngoài ra luật phát của Mỹ luôn được tôn trọng, nên ý thức của con người rất cao, còn ở Việt Nam thì luật pháp chẳng bao giờ được người ta thực hành triệt để, vì ý thức của người dân quá thấp kém !

Người Mỹ rất lịch sự, mặc dù có một số người kỳ thị, nhưng khi gặp gỡ mình ngoài đường, họ luôn nói lời chào hỏi, dù không hề quen, điều này khiến cho người Việt ở Mỹ, cũng lịch sự theo.

Người Việt ở Mỹ, rất có lòng tốt đối với thân nhân còn sống ở bên Việt Nam. Dù giầu hay nghèo, họ đều cố gắng gởi tiền về VN, lo cho gia đình. Thử hỏi đa số những người bên VN, có dám cho tiền thân nhân của mình hay không, khi biết họ nghèo khổ...? Giỏi lắm, thì chỉ được vài bữa ăn là cùng. Tranh giành nhau từng thước đất, hoặc gia tài, thì có rất nhiều !

Con cái ở bên Mỹ, không bao giờ chờ đợi được chia gia tài, từ cha mẹ. Họ tự tạo cho mình một cuộc sống vững chắc riêng.
Mỗi người có một cuộc sống, đi kèm theo sự thành công hay thất bại. Mỹ chưa phải là thiên đường, nhưng nó đã giúp cho người Việt ở đây có rất nhiều cơ hội, mà nếu ở VN thì chắc chắn họ sẽ không bao giờ có được, trừ khi họ có thân nhân làm trong guồng máy chính quyền.

Tôi không quên nguồn gốc mình là người Việt Nam, nhưng tôi cũng sẽ không làm kẻ vong ơn, ăn cơm, uống nước của Mỹ, nhưng luôn miệng chê bai Mỹ !
Tôi rất tự hào, khi được sống ở bên Mỹ.

Thuỵ Vân

User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

Không chửi sao được!

Liên Sơn

- Chẳng biết tự bao giờ, dân Việt có thói quen chửi, chủ đề thì miên man, từ cọng rau muống lên giá, tình trạng hôi của, cướp giật cho đến những phát biểu của các vị “IQ cao”. Từ truyền thông báo chí, cho đến các bà, các mẹ hội họp ven chợ, đầu đường làng.

Người ta cố tìm hiểu vì sao dân dạo này lại thích chửi nhiều đến thế (nói theo văn hoa là chỉ trích của số đông)? Lẽ nào do thế giới quá phẳng, nên con người dễ bộc phát những yếu tố tiêu cực ra ngoài.

Chuyên gia xã hội học Trịnh Hòa Bình, Giám đốc Trung tâm Dư luận xã hội - Viện Khoa học xã hội Việt Nam cho rằng: “Hiện nay có một trào lưu, như là một thứ mốt, một thói ăn theo của việc chửi bới loạn xạ. Đó là tự châm biếm, chế giễu hay tự chê dân tộc mình. Họ chê thiên hạ chán chê rồi chê cả mình. Chê mình ở đây là chê nhà nước ta.”

Và theo ông, “cái chê phần lớn hiện nay là hướng về hệ thống chính trị. Đầu tiên là chê hệ thống chính trị, thứ hai là chê truyền thống giáo dục và lề thói đạo đức của dân tộc ta.”

Nguyên nhân sâu xa của “căn bệnh” này suy cho cùng là do sự mất niềm tin trong xã hội. Trong cộng đồng, ở gia đình rồi nhà trường,… nói chung là trong toàn xã hội lòng tin đang bị suy giảm, chao đảo dữ dội.

Không chửi sao được!

Có thể nói, chửi chính là cách khắc chế hữu hiệu đối với những hiện tượng tự nhiên, mối quan hệ xã hội tiêu cực, khi mà quyền pháp không đem lại giá trị cho chủ thể, hoặc khi giá trị chủ thể không nhận được sự tôn trọng tồn tại ở xã hội. Càng ngày, cái chủ đề đầu tiên là “hệ thống chính trị” ngày càng phát tiết ra những điều chướng tai, gai mắt (tâm thần) không thể tưởng tượng nổi. Người dân bị bắt ép ăn không biết bao nhiêu lời hứa hão, những sự chiêu dụ đầy kinh nghiệm, và món bánh vẽ ngày một thô thiển. Trong khi đó, quyền lên tiếng, góp ý thẳng thắn, chân thành thì luôn bị chặn bởi đe, nạt, cầm, tù, đày… Dân dần trở nên bất lực và chửi trở phương pháp hàng ngày giúp giải tỏa sự bất lực đó.

Không chửi sao được, khi ông Phan Như Thạch, đường đường là một thiếu tướng, nguyên giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam lại lách luật để xây dựng trái phép biệt thự dưới chân núi Hải Vân (thuộc phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu, Đà Nẵng). Khi sự vụ vỡ lở, thì ông Phan Vũ Việt Hùng (con trai ông Thạch) mới cho biết là do mình và không hề biết biệt thự của gia đình xây dựng trái phép, song lãnh đạo địa phương khẳng định đã mời tướng Thạch lên làm việc nhiều lần về việc này và quá trình xây dựng biệt thự này đã diễn ra từ suốt 7 – 8 năm.

Không chửi sao được, khi Sở Y tế tỉnh Cà Mau thừa nhận việc tái bổ nhiệm bà Đặng Bé Nam làm giám đốc bệnh viện thêm ba năm sáu tháng theo “gợi ý” của bà Bộ trưởng Y tế là ngoại lệ (khác bình thường), đạp lên trên các giá trị pháp lý hiện hành (về bổ nhiệm, tái bổ nhiệm) khi quyết định tái bổ nhiệm.

Không chửi sao được, khi một chi nhánh phở ở quận 1, TP.HCM bị chính người phụ trách bếp là bà Dương Thị Kim Anh, tố cáo cách thức “gian lận” (bánh phở, gàu mỡ tăng lên, thịt vụn theo mỡ, nước béo) khi tổ chức cuộc thi “ăn tô phở khổng lồ” để khách hàng… ói ra mật xanh, mật vàng nhằm “thu lợi”. Và sau khi bị rùm beng trên báo chí, thì bà Kim Anh cũng nhận được quyết định sa thải.

Không chửi sao được, khi mà sau trận thua đáng xấu hổ (2-4) trên sân Mỹ Đình của đội bóng đá quốc gia Việt Nam, HLV Miura (người Nhật) ngoài lời xin lỗi thẳng thắn về thất bại, cũng đã nhận toàn bộ trách nhiệm của mình, trong khi các vị người Việt, vẫn đang tìm mọi cách chối lỗi, đẩy trách nhiệm, khiến lỗi không phải ở VFF hay ở cầu thủ mà là ở vị huấn luyện viên người Nhật Bản.

Không chửi sao được, khi theo thống kê, hàng năm ước tính có khoảng 20-25 loại phí dịch vụ cơ bản của ngân hàng được áp dụng trên tất cả các giao dịch tài khoản cá nhân. Từ phí duy trì tài khoản, phí chuyển tiền, phí cấp mã PIN, phí đóng tài khoản, phí rút tiền mặt đối với các giao dịch nội mạng, từ 0 - 2.000 đồng/giao dịch trong năm 2014 và từ 0 – 3.000 đồng/giao dịch từ năm 2015 trở đi…

Không chửi sao được khi Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động Thương binh và xã hội) lại coi trợ cấp thất nghiệp chỉ phản ánh gián tiếp tỷ lệ thất nghiệp, quốc tế là yếu tố để xác định người lao động có thất nghiệp hay không, khiến Việt Nam vẫn nằm trong số quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất thế giới.

Không chửi sao được, khi mà “Thượng tọa” Thích Thông Anh, vốn liên quan đến vụ án hiếp dâm trẻ em, bản thân ông này cũng thừa nhận và Hội Phật giáo TP Cam Ranh đã đuổi khỏi chốn tu hành, nhưng chưa đầy 1 tháng sau, ông thầy tu này lại được “minh oan”?

Không chửi sao được, khi hiệu ứng “bị tâm thần” ở nhân viên công lực lại đang diễn ra ngày một phổ biến. Gần đây nhất, Cơ quan CSĐT Công an huyện Phụng Hiệp đã đưa Trung úy Nguyễn Trương Đại Lợi đi giám định tâm thần tại BV Tâm thần Trung ương 2 (TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Trung úy Lợi là người đã lái xe tuần tra của CSGT gây tai nạn làm nữ sinh lớp 9 tử vong sau khi được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện. Vậy là “Thực tế rằng có một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, Đảng viên trong cơ quan nhà nước... bị tâm thần, nhưng chưa được phát hiện!?!”.

Không chửi sao được, khi chuyện bố con ông Trần Quốc Hải (Tây Ninh) được nhà nước Campuchia tặng “huân chương Đại tướng quân” vì những đóng góp vào việc sửa chữa xe bọc thép không những không khiến cho ông lão “báo QĐND” tỏ ra lo ngại, mà ngược lại, một bài viết đăng tải gần đây còn cho rằng, “việc sửa chữa xe bọc thép của bố con ông Hải nếu đem so sánh với việc làm của các công nhân trong nhà máy quốc phòng thì đấy là một việc làm bình thường.”

Không chửi sao được, khi Trung Quốc anh em tiến hành đả hổ diệt ruồi ngày càng mạnh, vượt ra khỏi dự đoán ban đầu là phô trương thanh thế của Tập Cận Bình thì tại Việt Nam chỉ có mỗi “ông Truyền”, nhưng đến nay vẫn chỉ “trông chờ” vào sự “ăn năn hối cải”. Thế nên, Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình với quyết tâm thanh trừ tham nhũng đã trở thành một hình ảnh “minh quân”, khiến dân nước Việt lại tâm tư.

Và còn hàng ngàn trường hợp chướng tai gay mắt khác đang diễn ra trong xã hội hiện tại, khiến cho những người muốn đổi thay xã hội, gặp phải sự kiềm kẹp thể chế mà bất lực lựa chọn con đường… chửi!

Ôi, con người nước Việt!

Theo nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Hùng Vỹ thì “xã hội nào càng tạo ra nhiều bức xúc nhất thì xã hội đó sẽ gánh chửi nhiều nhất. Nơi nào con người sống bất trắc nhất thì sẽ chửi nhiều nhất. Do đó, sẽ không ngoa khi cho rằng, người ta biết sự minh bạch, tiến bộ của một xã hội dựa vào việc xã hội đó phải nghe chửi nhiều hay ít”.

Quả thực, xã hội ngày càng xập xệ, mối quan hệ xã hội ngày càng trái khoáy, tiếng chửi ngày một nhiều. Cũng bởi dân Việt từ xưa đến nay vẫn có một thói quen tiềm ẩn, nay gặp phải mảnh đất thể chế màu mỡ “tạo điều kiện”, khiến điều mà cụ Phan Châu Trinh đã từng cảm thán trong “Đầu Pháp Chính phủ thư”, nay vẫn cố hữu một tác dụng. “Người này làm người kia bắt chước, lâu rồi thành ra thói quen. Những người đỗ đạt muốn cầu bổ bán thì hót nịnh luồn cúi ở các nhà quyền quý; những người ở nhà thì ỷ thần, cậy thế, hà hiếp bóp nặn ở trong làng, ngoài việc trai gái, ăn uống thì không còn biết việc gì. Những người làm ăn phát đạt, lắm bạc nhiều tiền thì chỉ tìm cách ăn chơi cho sung sướng. Suốt cả thành thị cho đến hương thôn, đứa gian giảo thì như ma, như quỷ, lừa gạt, bóc lột, cái gì mà chẳng dám làm; đứa hèn yếu thì như lợn, như bò, giẫm cổ, đè đầu, cũng không dám ho he một tiếng. Cả mấy mươi triệu người như một đàn ruồi lũ kiến, không còn có chút nhân cách nào, đó là thảm trạng trước mắt, ai cũng trông thấy, không phải tôi dám nói quá lời, để vu cho người cả một nước đâu.”

Qua đó mới biết, xã hội từ khi thực dân Pháp “khai minh” đến nay không những không đi lên, mà lại càng ngày tệ hơn. Cái tệ ấy đã biến đại đa số dân Việt giờ đây lầm lì, “an phận thủ thường” trong cơn bão kinh tế, bất công xã hội, chỉ chăm cơm áo gạo tiền, làm lợi bản thân, chẳng cần biết cái trước cái sau, cái trước mắt hay cái lâu dài. Từ quan đến dân, từ các bô lão cho đến ấu nhi…

Chỉ một số trong đó thức tỉnh, lại chửi cho chính bản thân mình sinh ra trên đất nước này, chửi cho chính bọn gian thương vì lợi mà đưa hàng Trung Quốc độc hại về làm hại dân, chửi luôn cả bọn quan chỉ giỏi tham công, chối tội, bất tài, vô dụng không ngừng nghỉ… Và ở mức độ nào đó, một phần xã hội trở thành hiện thân cám cảnh của “Chí Phèo”, và thể chế với những con người “ràng buộc chặt chẽ” với thể chế lại trở thành làng Vũ Đại ngày nào. Thế là “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Bắt đầu hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng sao: đời là tất cả nhưng chẳng là ai. Tức mình, hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nhủ: “Chắc nó trừ mình ra!”.

Do đó, dân có chửi nhiều bao nhiêu, thì “nó” vẫn cứ trơ ra, bởi ý niệm “chắc nó trừ mình ra”. Sự không đoái hoài đến tiếng chửi bới trong dân đã khiến đất nước hình chữ S lấy gian dối, tâm thần làm quốc tính, và vô trách nhiệm làm quốc bệnh.

Dân bởi thế lại càng chửi nhiều hơn, nặng hơn. Còn “nó” càng làm thinh, dân tức, lại chửi.

Chẳng biết đến bao giờ mới ngưng

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

VẬY LÀ SAO ? . VÀ BÂY GIỜ TÍNH SAO ?

Chuyện động trời!

Image
Tiến sỉ paper toilet Nguyễn Thiện Nhân-
Thiệt không biết nói sao cho những người có thứ mặt dầy như vậy! Có biết xấu hổ là gì không nữa... hay là cái da mặt nó giống như cái đít chai?


Phó Thủ Tương Nguyễn Thiện Nhân, tiến sĩ giấy [paper toilet]

Phó Thủ Tương Nguyễn Thiện Nhân lấy Ph.D 14 năm TRƯỚC khi..... trường được thành lập !!
:laughing:Clapping MSN Emoticon:laughing:

Tôi mới khám phá chuyện khôi hài này về ông Nguyễn Thiện Nhân, nguyên Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục VN và đương kim Phó Thủ

Tướng nước Cọng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Theo Tự Điển Bách Khoa Wikipedia, bản tiếng Anh và tiếng Việt, đều xác nhận ông Nhân lấy Ph.D vào năm 1979.

tham chiếu : http://en.wikipedia.org/wiki/Nguyen_Thien_Nhan

http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB ... _Nh%C3%A2n

Bản tiếng Anh thì nói rõ hơn chút:

"He got a PhD in cybernetics at the Otto-von-Guericke University Magdeburg in East Germany in 1979"

Nhưng khi tôi clicked vào tên trường thì mới biết:

"The Otto-von-Guericke University Magdeburg (German: Otto-von-Guericke-Universität Magdeburg) was founded in 1993 and is

one of the youngest universities in Germany".

Hóa ra ông Nhân lấy Ph.D tại trưòng đại học Otto-von-Guericke University Magdeburg 14 năm trước khi trường này được thành lập.

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »


Đặc sản


Bùi Bảo Trúc

Lần đầu tiên khi đọc thấy hai chữ “đặc sản” trên những trang báo trong nước, tôi đã rất không thích chúng, những từ ngữ mà tôi nghĩ là được đem dùng quá bừa bãi ở Việt Nam. Nhưng nghĩ lại thì những thứ được mô tả bằng hai chữ ấy cũng đúng là đặc sản chứ không phải là không.

Đúng là vì chỉ ở Hà Nội, không ở tại bất cứ một nơi nào khác lại có những tô phở ăn kèm với những lời lẽ thô tục và vô giáo dục của chủ quán. Nói những tô phở chửi đó là đặc sản của Hà Nội thì đúng chứ còn gì nữa.

Thực ra, đặc sản của Hà Nội không phải chỉ có phở chửi ở phố Bát Đàn, Lý Quốc Sư... mà còn ốc lắm mồm ở đường Hồ Đắc Di, cháo mắng ở chợ Ngô Sĩ Liên ... Những người bán hàng ở những tiệm ăn đó, cứ mở miệng ra là phun toàn những thứ ngôn ngữ mà Nguyễn Trãi đã dạy con gái phải hết sức tránh như trong một bài trong Gia Huấn Ca mà cụ Nguyễn viết cách đây 6 thế kỷ.

Trong những quán ăn đó, khách hỏi xin quả ớt, mấy cọng rau thơm, chút nước dùng, thì nhẹ ra sẽ bị lườm nguýt đổ quán xiêu đình, nặng một chút là bị dăm ba câu xỏ xiên, hay luôn cả mấy câu chửi tục tĩu. Nhưng có một điều lạ là khách vẫn tiếp tục kéo đến chiếu cố những thứ phở, bún kèm theo những câu nói chỏng lỏn, hỗn láo, vô giáo dục đó.

Tại sao những người khách đó không đứng dậy, hất những tô phở những bát bún có kèm theo những câu ăn nói kiểu đó xuống đất và nói thẳng vào mặt những người chủ quán rằng sẽ không bao giờ thèm trở lại những cái quán mất dạy đó nữa. Nhưng hình như chưa có ai làm công việc ấy nên đến nay, các thứ đặc sản đó vẫn còn rất đông khách. Việc tiếp tục ngồi ăn những tô phở, những tô bún trong những lời ăn tiếng nói thô tục oang oang bên cạnh mà lại vẫn thấy ngon miệng để còn tiếp tục trở lại có thể là một dấu hiệu bất bình thường về mặt tâm lý. Nó có thể là bệnh khổ dâm (masochisme), một thứ bệnh tâm lý, người mắc bệnh này sẽ chỉ cảm thấy thích thú trong sinh hoạt sinh lý nếu bị (hay đúng ra phải nói là “được”) đối tác hành hạ về cả hai mặt tâm và sinh lý như sỉ nhục, lăng mạ, bạo hành. Những người mắc bệnh này có khi phải trả tiền thuê để được hành hạ như một nhân vật trong phim Belle De Jour (với Catherine Deneuve).

Đó là trường hợp bệnh hoạn của phía tự nguyện. Nhưng còn những trường hợp không tự nguyện mà bị xúc phạm như các thực khách tại những tiệm phở chửi, cháo mắng ở Hà Nội thì sao?

Tôi nghĩ ở Hà Nội thì không sao. Các chủ quán cứ chửi mắng khách hàng tự nhiên. Những người khách này nghe chửi xong thì vẫn tiếp tục rủ nhau đến ăn, nhiều khi cũng chẳng phải mắc chứng masochisme gì. Thêm nữa, có bực mình thì cũng chẳng làm gì được các bà chủ tiệm mất dậy ấy. Nhưng ở những nơi khác như ở nước Mỹ chẳng hạn, thì những chuyện như vậy không thể tiếp tục được. Thí dụ ngỏ lời xin mấy củ hành trần, quả ớt mà bị chủ tiệm chửi vào mặt là tay sai Mỹ Ngụy (một tội rất nặng, một cái nhãn rất xấu ở Hà Nội), hay thứ Do Thái Zionist, hay khủng bố Al Qaeda, hay gay/lesbian là có chuyện ngay. Người bị chửi sẽ kiếm luật sư lôi chủ quán ra tòa lập tức.

Tòa thấy những lời vu oan đó không có cơ sở thì chủ tiệm bún mắng phở chửi chắc chắn sẽ không vui lắm đâu. Tòa có thể dí cho phía bên kia những khoản tiền phạt khủng (ngôn ngữ Hà Nội) để cho chừa cái trò bún mắng, phở chửi cho hết đặc sản đi.

User avatar
doluoi
Posts: 829
Joined: Sun Nov 01, 2009 10:11 pm

Post by doluoi »

Tôi có phải là 'việt kiều' không ? Tôi sinh ra và lớn lên tại miền nam
-Từ lúc mới sinh ra đời' cho đến 1954 ,tôi là dân của thuộc địa Pháp
-Từ 1954-1975 tôi là Công dân của nước VNCH
-Sau 75 tôi là tên tù với tội danh 'lính đánh thuê cho đế quốc mỹ'
Chống phá nhân dân và 'kách mạng'.Từ đó đến năm 1990 tội bị coi như đứa con hoang ngay trên đất nước của mình .Con bà phước
-Năm 1990 tôi 'qui mã' .Tại văn phòng của INS ,tôi được một nhân viên phát cho tôi cái mẫu I-94.Bà nhân viên bắt tay và chúc mừng,bà nói từ nay 'Sir' có thể đi xin việc làm .
Nhìn vào mẫu I-94 ,ô ghi quốc tịch ,có chữ 'stateless'[vô tổ quốc]Chữ này làm tôi tủi thân .Tôi thắc mắc ,bà nhìn tôi và cười . Bà giải thích vì Sir không có 'government'.Tôi buồn 5 phút
Như tôi vẫn còn là 'con bà phước',sống lưu vong trên đất người
Mãi đến năm 1995 ,tôi có dịp thoát cái 'kiếp' chó má này.
Qua bao nhiêu lời khai ,lời tuyên thệ trước tòa án,tôi 'take the oath' là tôi không phải thằng cộng sản .Tôi không ở trong tổ chức nào của cs.Tôi không làm tay sai cho cs vvv '
Tới nay tôi vẫn 'keep promise'.Nhất định không 'brake' nó
Thế là :
-Từ năm 1995 đến nay tôi chính thức là công dân của 'Hiệp chủng quốc huê kỳ'
Tôi đến mỹ với tư cách 'tỵ nạn chánh trị','political refugee'Hay nói cách khác tôi là người tỵ nạn cộng sản [tncs].Trong hồ sơ lý lịch của tôi họ cũng ghi như vậy.
Đó là diễn tiến 'lý lịch' của tôi hết sức rõ ràng .Ngoài việc là một công dân của hoa kỳ ,tôi vẫn còn giữ căn cước tncs nữa.
Do đó làm ơn làm phước đừng gọi tôi là 'Việt kiều'.

--------

Tiếng Việt miền nam chữ 'kiều' có nghĩa là cư ngụ .Chữ này để mỹ gọi những người Việt đang tạm trú tại mỹ thì đúng hơn.Nếu nhà nước ta muốn gọi người Việt đang cư ngụ tai ngoại quốc ,còn quốc tịch VN ,ra đi với thẻ thông hành của VNXHCN[passport] ,họ phải gọi những người này là 'kiều bào'.Chữ 'bào' có nghĩa là 'ruột'[thịt] ,cùng chung dòng giống .
Mặc dù hiện nay họ cũng kêu những người tncs là 'khúc ruột ngàn đặm'
Xin lỗi đừng có xập xí xập ngầu .Đồng 'bào' con mẹ gì mà khi về xứ sở mình phải xin 'visa'.Đây là khúc 'ruột tượng' ngàn dặm chứa đô la thì đúng hơn .

Trước 75 ,VNCH gọi những người ngoại quốc sinh sống tại đây là 'kiều dân'
Thí dụ Pháp kiều,Ấn kiều .Những người gốc tàu mà chưa nhập tịch gọi là 'hoa kiều'.

Tác giả: Vô Danh

TuanAnh
Posts: 329
Joined: Sat Jan 30, 2010 3:44 am

Post by TuanAnh »

Có những sự thật không cãi được.
Huy Phương
Một bản tin ngắn, rất tầm thường ở Việt Nam, không chắc làm cho bạn quan tâm, đau lòng, đó là bản tin từ Hà Nội, cho biết nạn bẻ kính chiếu hậu xe hơi bắt đầu tràn lan. Chỉ với một chiếc Porsch Panamera giá $200,000 đã được quân gian chiếu cố, chỉ trong hai năm, đã bị bẻ kính bảy lần. Ngay một sinh viên trường Cao Ðẳng Văn Hóa-Thể Thao Hà Nội, Ðặng Huy Việt, trước đây cũng từng là thủ phạm loại ăn cắp vặt này. Theo tôi, trong cái thời buổi tệ mạt này, rõ ràng là chuyện “trăm năm trồng người” đã có kết quả hay hậu quả đau lòng.

Càng sống lâu trong xã hội chủ nghĩa, con người càng thiếu đạo đức.

“Trăm năm trồng người...”

Một trong những “danh ngôn” của Hồ Chí Minh được CSVN ca tụng nhất là câu: “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người,” nhưng trẻ em“quàng khăn đỏ” ít đứa nào biết tới ông Quản Trọng bên Trung Cộng là tác giả chính hiệu danh ngôn này, đã bị “bác” bứng nguyên cây về trồng trong vườn nhà“bác.” Câu này lấy từ ý của Quản Trọng trong sách Quản Tử, nguyên văn là: "Nhất niên chi kế, mạc như thụ cốc, thập niên chi kế, mạc như thụ mộc, chung thân chi kế, mạc như thụ nhân." (Kế sách cho một năm, lấy việc trồng lúa làm đầu; kế sách cho mười năm, lấy việc trồng cây làm đầu; kế sách cho trăm năm, lấy việc trồng người làm đầu).

Những gì “bác” đã gieo giống, chăm sóc, tưới nước bón phân, ngày nay rõ ràng là đã có kết quả. Sách Minh Tâm Bảo Giám, chương Kế Thiện, có câu: “Trồng dưađược dưa, trồng đậu được đậu. (Chủng qua đắc qua, chủng đậu đắc đậu). Không ai gieo hạt chanh chua mà lại hái được giống cam ngọt, nói đơn giản, gieo nhân nào thì gặt quả nấy!

Hạt giống độc địa ấy từ ngày được Hồ Chí Minh mang về gieo trong khu vườn nhà đã như là “loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh; là loài trùng độc, sinh sôi nảy nở trên rác rưới của cuộc đời”như câu nói của Ðức Ðạt Lai Lạt Ma, Tây Tạng, khi nhận xét về chủ nghĩa cộng sản. Sau ngày cộng sản chiếm miền Nam Việt Nam, nơi Bắc Việt gọi là vùng tạm chiếm, tệ nạn xã hội càng ngày càng gia tăng, làm băng hoại đạo đức xã hội, luân thường đạo lý, như những chuyện băng đảng nhóm xã hội đen, cướp của giết người, mại dâm, ma túy, cờ bạc, hiếp dâm trẻ em, loạn luân, lừa gạt, chiếm đoạt tài sản.

Lúc đầu, nói về tình hình trật tự xã hội, đề cập đến những điều xấu xa đầy rẫy này, đảng cộng sản tránh né trách nhiệm, đổ lỗi cho đó là hậu quả, tàn dư của chế độ cũ để lại, chỉ đích danh là Mỹ, Ngụy, nhưng rõ ràng là sau hơn 39 năm “làm chủ” đất nước, thực tế ngày nay không thể còn đổ lỗi cho ai.

Sau nữa là cả nước từ 60 năm nay, dưới sự cai trị của đảng, do chủ trương của đảng, là “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh!” Vậy thì những gì được ghi nhận hôm nay là thành quả chiếu sáng từ tấm gương ấy, đó là chân lý, mà chân lý này không bao giờ thay đổi. Không ai dám hỏi Hồ Chí Minh thực sự có đạo đức hay không, và cả đất nước mù quáng tin theo những gì đảng nhồi nhét từ những đứa trẻ, làm đông đặc đầu óc thanh niên, bắt người ta tin vào những chuyện không có thật.

Hậu quả là ngày nay cả nước nói dối như cuội.

Hậu quả là ngày nay cả nước ai cũng gian dối để sống.

Hậu quả là ngày nay, lý tưởng của cuộc sống là đồng tiền.


-Ở xã hội ấy cái gì cũng mua được bằng tiền, cái gì cũng được đem bán, và người ta sẵn sàng bán đi những cái gì quý nhất.

- Ở xã hội ấy, người ta không biết hổ thẹn vì nhân cách, nhưng cảm thấy hổ thẹn khi thua sút những người chung quanh vì cái nhà, cái xe, cái điện thoại, cái xách tay...

- Ở xã hội ấy, ai cũng muốn bỏ đi, những ai còn ở lại là không đi được, hay đang còn kiếm được tiền để chuẩn bị đi hay lo cho những người đã đi.

- Con người là vốn quý như ai đó đã từng nói, nhưng một mạng người không đáng giá bằng một con chó!

- Con người là vốn quý, nhưng người ta coi rẻ sinh mạng của nhau, cầm dao giết nhau chỉ vì một cái nhìn, một chuyện tranh cãi hay để cướp đoạt tài sản của người khác.

- Con người là vốn quý, nhưng công an, thế lực của chế độ, sẵn sàng đánh chết dân vì dân không chịu nhận tội mình không làm.

- Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người, nhưng người vá xe sẵn sàng rải đinh trên đường để cho tiệm mình đông khách, thêm lợi nhuận.

-Xã hội chủ trương mình sống vì mọi người nhưng bọn phục vụ cho dân, ăn gian, làm dối, sống chết mặc bay.

- Cộng sản đã từng ca tụng: “Chủ Nghĩa Xã Hội là đỉnh cao trí tuệ loài người!” Hà Nội là lương tri của nhân loại! Báo Quân Ðội Nhân Dân đã ca tụng “đỉnh cao của khí phách và trí tuệ Việt Nam,”nhưng ngày nay nhân dân Việt Nam đi đến đâu đều được mọi người có những cái nhìn thiếu thiện cảm. Nhật, Thái Lan, Nam Hàn, Singapore... kết án người Việt trộm cắp, ăn tham, xả rác, bán dâm... khiến hình ảnh Việt Nam đang dần trở nên xấu xa. Cả nhân viên nhà nước cũng buôn lậu, ăn cắp, hối lộ, vậy người Việt ra nước ngoài còn dám ngẩng mặt nhìn ai?

- Ở trong nước dân Việt đã bày tỏ dân trí bằng cách ẩu đả, chửi bới nhau để chen lấn mua bánh Trung Thu ở Hà Nội, giành giật đạp lên nhau để giành được một miếng sushi miễn phí ở một cửa hàng mới khai trương, hỗn loạn trèo lên đầu nhau để mua bằng được lá ấn trong lễ khai ấn đền Trần, hôi của khi có tai nạn qua đường như rơi tiền, đổ bia...

Người ngoại quốc và các tòa đại sứ ở Việt Nam thì bắt đầu “sợ” dân Việt khi những cây anh đào được đem từ Nhật đến bị đám đông nhào đến vặt sạch, chính phủ Hòa Lan tổ chức phát 3,000 chiếc áo mưa cho dân chúng để tỏ tình hữu nghị thì đám đông ào ạt, hung dữ nhào lên sân khấu cướp từ tay các tình nguyện viên và nhân viên đại sứ quán.

- Chính giới trí thức trong nước, như Giáo Sư Nguyễn Thanh Giang đã viết rằng,“Phải nói rằng kể từ khi đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam thì con người Việt Nam bấy giờ còn tha hóa hơn con người Việt Nam hồi thời phong kiến. Và tư chất, đạo lý của con người Việt Nam bây giờ còn thua cái thời Pháp thuộc. Cho nên điều đó là do ảnh hưởng của chế độ chính trị và của tổ chức xã hội. Tổ chức xã hội mà chủ yếu đẩy con người vào tình trạng không cạnh tranh lành mạnh, không cạnh tranh dựa trên đạo lý, không dựa trên pháp luật, mà bằng phe nhóm, ỷ thế, ỷ quyền, ỷ vào giai cấp, ỷ vào thành phần lý lịch, ỷ vào con ông cháu cha. Hơn nữa, kể từ khi đưa cái Chủ Nghĩa Mác vào, lấy chuyên chính vô sản vào, thì người ta không tôn trọng pháp luật nữa. Cho nên người ta sẵn sang giẫm đạp lên pháp luật, lên đạo lý, từ đấy ảnh hưởng đến tâm tính của con người Việt Nam. Rồi đời sống không cần đạo lý, không cần pháp luật. Thì đó là cái tội của chế độ chính trị và tổ chức xã hội này.”

Ai đưa Chủ Nghĩa Mác vào Việt Nam, phải chăng là công ơn “bác Hồ,” cho nên hôm nay, chưa đến một trăm năm, mà việc trồng người của “bác” đã có kết quả “khả quan,” đưa đất nước vào chỗ lụn bại, tha hóa.

Muốn gieo lại hạt giống tốt thì phải quét sạch, khai quang, đào xới lại cả khu vườn, thay đất mới, và phải mất trăm năm nữa, con người hôm nay mới trở lại được cái tử tế, văn hóa, chỉ mong được tương đối như người miền Nam trước 1975, hay nói xa hơn là cả cái thời Pháp thuộc.

Chúng ta phải thẳng thắn nhìn vào sự thật đau lòng, đừng mang ảo tưởng quê hương giàu đẹp, văn minh, trí tuệ, có ai đụng vào thì giãy lên như đỉa phải vôi, kêu la là “chống phá tổ quốc, tay sai ngoại bang, thù nghịch với nhân dân !”


Huy Phương

User avatar
ngayngo
Posts: 1209
Joined: Sat Nov 01, 2008 8:34 pm

Post by ngayngo »

Image

Du Tử Lê
và những viên đạn bắn sau lưng

Cách đây vài tháng, đâu vào khoảng tháng 7-2014 tôi có nghe chuyện thi sĩ Du Tử Lê về Việt Nam ra mắt tập thơ Giỏ Hoa Thời Mới Lớn tại Hà Nội. Nghe thôi, không chú ý, bởi tôi là một người không mặn mà với thơ thẩn cho lắm, nhưng giờ thì không thể không lên tiếng, dù mình chỉ là một kẻ vô danh.

Nguyên nhân vì mấy ngày qua, vào dịp đầu năm tôi nhận liên tiếp mấy emails nhắc lại chuyện ra mắt tập thơ với những lời phê bình nặng nề, kèm theo bài thơ Ai Nhớ Ngàn Năm Một Ngón Tay của ông Du Tử Lê được cho là viết về ngày 30/4/75 đã bị sửa lời.

Một email do ông Trần Việt Hải, nhóm Ngôn Ngữ Việt gửi tới với subject: Du Tử Lê dưới mắt VC phản tặc. Một email khác do bạn bè chuyển với đề mục Du Tử Lê (kèm theo chú thích “Miễn bình luận” của người bạn) do một người viết lấy tên là Delta, cũng có bài thơ sửa lời.

Vào Google tìm kiếm tên Du Tử Lê, tôi thấy một bài viết với tựa “Bài viết chém gió về Du Tử Lê – tại Hà Nội” đăng trên tunhan – Worldpress. Bài viết đươc “tái biên tập” tức đã được sửa chữa, viết lại buổi ra mắt tập thơ của ông Lê.

Để bạn đọc dễ theo dõi, tôi xin dẫn lại bài viết của ông Trần Nhương “Nhà thơ Du Tử Lê gặp gỡ bạn thơ ở Hà Nội”:

TNc: Tối 3-6-2014, tai Gallery 39 Lý Quốc Sư, Hà Nội, nhà thơ Du Tử Lê có buổi gặp gỡ các bạn thơ và bạn đọc. Rất đông các bạn trẻ và các nhà thơ đến dự. Nhà thơ Bằng Việt, Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thụy Kha, Trần Nhương, Trần Quang Quý, Trung Trung Đỉnh… đã có mặt. Du Tử Lê giới thiệu tập thơ “Giỏ hoa thời mới lớn”, một tập thơ dày dặn với trình bày bắt mắt của họa sĩ Lê Thiết Cương. Nhà thơ Bằng Việt, Thụy Kha, Nguyễn Quang Thiều phát biểu chào mừng Du Tử Lê đã trở về Hà Nội. Con đường dù rất dài rồi cũng đưa người về quê Mẹ.


ĐÔI NÉT VỀ DU TỬ LÊ


Image
Thi sĩ Du Tử Lê. Ảnh: Trần Triết

Sau Hiệp định Genève, 1954, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Đại học Văn Khoa.

Ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài “Bến tâm hồn”, đăng trên tạp chí Mai.

Du Tử Lê từng là sĩ quan thuộc Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa), và là giáo sư dạy giờ cho một số trường trung học Sài Gòn.

MỘT BÀI THƠ CỦA DU TỬ LÊ

ai nhớ ngàn năm một ngón tay
Tháng tư tôi đến rừng chưa thức
Mưa vẫn chờ tôi ở cuối khuya
Có môi chưa nói lời chia biệt
Và mắt chưa buồn như mộ bia
Tháng tư nao nức chiều quên tắt
Chim bảo cây cành hãy lắng nghe
Bước chân ai dưới tàng phong ốm
Mà tiếng giày rơi như suối reo
Tháng tư khao khát, đêm, vô tận
Tôi với người riêng một góc trời
Làm sao anh biết trăng không lạnh
Và cánh chim nào sẽ bỏ tôi
Tháng tư hư ảo người đâu biết
Cảnh tượng hồn tôi : một khán đài
Với bao chiêng, trống, bao cờ xí
Tôi đón anh về tự biển khơi
Tháng tư xe ngựa về ngang phố
Đôi mắt nào treo mỗi góc đường
Đêm ai tóc phủ mềm da lụa
Tôi với người chung một bến song
Tháng tư nắng ngọt hoa công chúa
Riêng đoá hoàng lan trong mắt tôi
Làm sao anh biết khi xa bạn
Tôi cũng như chiều : tôi mồ côi
Tháng tư chăn gối nồng son, phấn
Đêm với ngày trong một tấm gương
Thịt, xương đã trộn, như sông, núi
Tôi với người, ai mang vết thương ?
Tháng tư rồi sẽ không ai nhớ
Rừng sẽ vì tôi nức nở hoài
Mắt ai rồi sẽ như bia mộ
Ngựa có về qua cũng thiếu đôi
Tháng tư người nhắc làm chi nữa
Cảnh tượng hồn tôi đã miếu thờ
Trống, chiêng, cờ, xí như cơn mộng
Mưa đã chờ tôị Mưa…đã …mưa
Mai kia sống với vầng trăng ấy
người có còn thương một bóng cây
Góc phố còn treo đôi mắt bão
Ai nhớ ngàn năm một ngón tay ?
(Nguồn:http://trannhuong.com/tin-tuc-18088/nha ... a-noi.vhtm)

Bài viết của ông Trần Nhương đã bị “tái biên tập”, đăng trên website tunhan – A fine Word Press.com site như sau (chữ in đậm là chữ tái biên tập, không thấy ghi tên người tái biên tập):

ĐÔI NÉT VỀ DU TỬ LÊ

Sau Hiệp định Genève, 1954, vì nghe lời dụ dỗ của Mỹ Ngụy, Lê Cự Phách di cư vào Nam cùng với gia đình. Đầu tiên ông định cư ở Hội An, Quảng Nam, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1956, ông vào Sài Gòn và theo học trường Trần Lực, trường Chu Văn An, sau cùng là Cao học (?) Đại học Văn Khoa.

Là môt thiên tài, ông làm thơ từ rất sớm, khi đang còn học tại trường tiểu học Hàng Vôi tại Hà Nội. Sau khi di cư vào Sài Gòn, Du Tử Lê bắt đầu sáng tác nhiều tác phẩm dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức lần đầu tiên vào năm 1958 cho bài “Bến tâm hồn”, đăng trên tạp chí Mai.

Du Tử Lê từng mang quân hàm Trung Tá (?), thuộc Quân ngụy Saigon, cựu phóng viên chiến trường, thư ký tòa soạn cuối cùng của nguyệt san Tiền phong (một tạp chí của Quân Ngụy), và là giáo sư Văn học của nhiều trường trung học Sài Gòn (?)

MỘT BÀI THƠ CỦA DU TỬ LÊ, (đã bị sửa)

(viết về 30 tháng Tư/ 1975)
ai nhớ ngàn năm một nỗi mừng
Tháng tư đã đến rừng chưa thức
Mưa vẫn chờ tôi ở cuối đường
Có môi, không nói lời ly biệt
Và mắt chưa buồn như mộ bia
Tháng tư nao nức chiều quên tắt
Chim bảo cây cành hãy lắng nghe
Bước chân giải phóng từng khu phố
Và tiếng chân người như suối reo .
Tháng tư khao khát, ngày vô tận
Tôi với người riêng một góc trời
Làm sao ngưòi biết trời đang sáng
Và cánh chim nào sẽ bỏ tôi .
Tháng tư sum họp người đâu biết
Cảnh tượng hồn tôi: một bóng cờ
Với bao chiêng, trống, bao cờ xí
Tôi đón anh về tự mỗi nơi.
Tháng tưbinh mã về ngang phố
Đôi mắt nhìn theo một nỗi mừng
Đêm ai tóc phủ mềm da lụa
Tôi với người chung một bóng cờ
Tháng tư nắng ngọt hoa công chúa
Riêng đoá hoàng lan trong mắt tôi
Làm sao anh biết khi xa bạn
Tôi cũng như người: Một nỗi vui
Tháng tư chăn gối nồng son, phấn
Đêm với ngày trong một tấm gương
Thịt, xương đã trả hờn sông, núi
Tôi với người, ai mang vết thương?
Tháng tư rồi sẽ ngàn năm nhớ
Rừng sẽ vì tôi nức nở hoài
Mắt ai ngu sẽ như bia mộ
Ngựa có về qua cũng thiếu đôi
Tháng tư nhắc nhở ngàn năm nữa!
Cảnh tượng hồn tôi những miếu đền
Trống, chiêng, cờ, xí như cơn mộng
Mưa đã chờ tôị Mưa…đã …mưa
Mai kia sống với vầng sao ấy
người có còn thương một bóng ai
Góc phố còn treo ngời lãnh tụ
Ai nhớ ngàn năm một bóng ai?
(Nguồn:http://tunhan.wordpress.com/2014/12/31/ ... ai-ha-noi/)

Người tái biên tập bài viết ông Trần Nhương cố ý tô đỏ những chữ đã đước sửa đổi để cho người đọc thấy rõ ông ta không có ý đạo văn mà chỉ nhằm mục đích châm biếm, chế nhạo Du Tử Lê.

Sau khi biết bài viết của ông Trần Nhương có bản quyền, tác giả bài “tái biên tập“ đã phải đăng lại bài nguyên tác của ông Trần Nhương trên website tunhan-Word Press.com. Đăng lại nhưng không xin lỗi tác giả Trân Nhương cũng như Du Tử Lê vì đã vi phạm luật bản quyền.

Chuyện sẽ chẳng có gì đáng nói nếu mọi việc ngừng lại ở đó. Không ngờ có một bàn tay bí mật nào đó xóa hết những dấu vết tái biên tập của tunhan trên WordPress rồi chuyển đi, gây nên một sự hiểu lầm rộng lớn rằng Du Tử Lê làm thơ ca ngợi Hồ Chí Minh và chiến thắng của cộng sản VN ngày 30.04.1975.

Trở lại với Du Tử Lê, ông tên thật là Lê Cự Phách, sinh năm 1942, người tỉnh Hà Nam. Ông di cư vào Nam năm 1954, là một sĩ quan quân lực VNCH, cấp bậc cuối cùng là đại úy (có người nói ông đã lên thiếu tá), là phóng viên chiến trường cho tờ báo Tiền Phong của quân đội VNCH.

Du Tử Lê là người có nhiều bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc như Khúc Thụy Du, Đêm Trăng Nhớ Sài Gòn, Khi tôi Chết Hãy Đem Tôi Ra biển…, ông cũng là người Viêt Nam duy nhất có thơ đăng trên 2 nhật báo lớn ở Mỹ là New York Times , Los Angeles Times và được 2 tờ báo này phỏng vấn.

Năm 1998, nhà xuất bản W. W. Norton, New York đã chọn Du Tử Lê vào một trong năm tác giả Việt Nam để in vào phần “Thế kỉ 20: thi ca Việt Nam” khi tái bản tuyển tậpWorld Poetry An Anthology of Verse From Antiquity to Our Present Time (Tuyển tập Thi ca thế giới từ xưa đến nay).
(Nguồn:http://vi.wikipedia.org/wiki/Du_T%E1%BB%AD_L%C3%AA)

Điểm quan trọng cần nói ở đây, Du Tử Lê là một trong ba người bị Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam kết án tử hình khiếm diện trên đài phát thanh của họ vào ngày 17.04.1975, cùng với Mai Thảo, Phạm Duy vì có thái độ chống cộng quyết liệt.
Ngày 30.04.1975 Du Tử Lê theo làn sóng người chạy trốn chế độ cộng sản qua Mỹ và định cư ở đó.

Thời thế thay đổi, chế độ cộng sản dùng kế sách lấy mỡ nó mà rán nó, áp dụng cho Nguyễn Cao Kỳ, Phạm Duy, Khánh Ly…, Hà Nội cho phép ông Du Tử Lê về nước ra mắt tập thơ Giỏ Hoa Thời Mới Lớn cũng như gặp gỡ các văn nhân, thi sĩ trong nước.

Buổi ra mắt thơ nói trên của ông bình lặng, không ồn ào, gây nhiều tiếng vang, không có gì đáng nói, kể cả từ phía chế độ CS. Lý do nào báo chí Hà Nội hoàn toàn im lặng trước việc một nhà thơ “ngụy” một kẻ đã từng bị kết án tử hình khiếm diện lại có thể về Hà Nội, bình yên ra mắt một tập thơ? Một viêc lạ chưa hề xẩy ra dưới một chế độ độc tài, gian ác, phi nhân như chế độ Hà Nội.

Truy tìm các bài viết khác của báo chí, truyền thông cộng sản tức báo lề phải trong nước, không thấy có bài nào lên án Du Tử Lê, ngoại trừ một bài của báo Công An Thành Phố Hồ Chí Minh đăng ngày 18.08.2005 với tựa Bộ Mặt Ngạo Mạn Của Du Tử Lê của hai tác giả Trọng Đức và Lê Nguyễn, phản hồi cho việc Nhà xuất bản Văn nghệ xuất bản tập thơ Du Tử Lê, với nhiều ý kiến công kích cả về thi ca lẫn con người của ông.

Điều đó có thể hiểu là, rút kinh nghiệm từ vụ Khánh Ly, lần này Hà Nội khôn ngoan, không vội vã cho truyền thông, báo chí trong nước đánh phá Du Tử Lê ngay lúc đó. Họ để yên, sáu tháng sau vào dịp đầu năm 2015 mới đem ra tập bắn, nhưng lần này nham hiểm hơn, dùng ngay bài thơ của ông, cho sửa lời rồi phát tán trên mạng, đi kèm một bài tái biên tập đăng trên website tunhan -worldpress.com

Sau bài “tái biên tập”, một số bài khác ở hải ngoại tiếp tục lên tiếng mạt sát, chửi bới Du Tử Lê là kẻ phản bội, làm nhục quốc thể VNCH như bài Dê Chết Trong Lu của Hồ Công Tâm hay bài thơ Ai Thấu Thành Xưa Một Vết Buồn của Cuồng Sinh…

Điều không ai có thể chối cãi được Du Tử Lê là người hám danh. Ở vào tuổi 72, với những thành công, danh vọng trong thơ văn đã có, lẽ ra ông không nên về nước ra mắt tập thơ trong lúc này, khi văn hóa, đạo đức đã suy đồi môt cách trầm trọng khó lòng cứu chữa.

Dù Du Tử Lê chưa hề có những lời nói, tuyên bố có ý nghĩa phản bội hoặc nhục mạ, xúc phạm đến cộng đồng NVHN nhưng ông đã đánh mất lòng tự trọng. Sự trở về Hà Nội, ra mắt tập thơ của ông cũng đã mang ý nghĩa đầu hàng cộng sản VN khi những người như Trần Khải Thanh Thủy, Cù Huy Hà Vũ, Điếu Cày cũng như rất nhiều người trẻ tuổi khác vẫn bị chế độ bắt giữ, kết án, hoặc trục xuất khỏi đất nước chỉ vì họ tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền của người dân.

Cho phép Du Tử Lê, tên “phản quốc” bị kết án tử hình khiếm diện về nước, ra mắt tập thơ rồi ra đi một cách bình an, không cần phê bình, chỉ trích, chửi bới như Phạm Duy, Nguyễn Cao Kỳ ngày nào, Hà Nội không tốn một viên đạn mà Du Tử Lê vẫn bị bắn xối xả.

Không biết giờ đây, ngồi tìm lại trong Giỏ Hoa Ngày Mới Lớn của mình, ông Du Tử Lê có thấy hoa nào là hoa Dân Chủ và Tự Do không?

© Thạch Đạt Lang
© Đàn Chim Việt

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Image

Đừng sống bằng dối trá
Alexander Solzhenitsyn, 18/2/1974
Thái Phục Nhĩ chuyển ngữ

Sau đây là toàn văn của bài tiểu luận của Alexander Solzhenitsyn “Đừng Sống bằng dối trá” có lẽ là cái cuối cùng ông viết trên đất quê hương mình – trước khi Liên Xô sụp đổ – đã và lưu hành trong giới trí thức của Moscow tại thời điểm đó. Bài tiểu luận ghi ngày 12 Tháng Hai, cái ngày mà mật vụ đột nhập vào căn hộ để bắt ông. Ngày hôm sau, ông bị lưu đày sang Tây Đức.


“Đã có thời thậm chí rỉ tai nhau chúng ta cũng không dám! Bây giờ thì chúng ta viết và đọc sách báo chui, và thỉnh thoảng có tới Viện Khoa Học hút thuốc gặp nhau thì cũng thành thật mà phàn nàn với nhau rằng: Chúng đang giở trò gì đây? Chúng còn xỏ mũi ta tới đâu nữa? Quê hương vừa nghèo vừa điêu tàn mà chúng cứ huyênh hoang khoe nhau những thành tựu trên vũ trụ. Chúng ôm mấy cái chế độ cai trị lạc hậu và dã man, rồi thổi cho lửa nội chiến bùng lên. Chúng rút ruột để nuôi Mao Trạch Đông một cách vô tội vạ – rồi tống cổ chúng ta ra chiến trường đánh nhau với hắn, mà chúng ta phải đi. Trốn sao cho thoát? Chúng thích đưa ai ra tòa thì đưa, chúng nhốt người tỉnh táo vào nhà thương điên – chúng nó luôn giở những trò đó, còn chúng ta thì bất lực.

Mọi thứ sắp rớt xuống đáy cùng. Tinh thần chúng ta đã chết hết, còn thân xác chúng ta và cả con cái chúng ta nữa, cũng sắp bị ném vào lửa cháy rụi. Thế mà chúng ta vẫn bình chân như vại, cứ nhếch mép cười một cách tiểu nhân, và lưỡi không bị ngọng mà vẫn lúng búng trong miệng. Nhưng chúng ta biết làm gì mà ngăn nó cho được? Hay là chúng ta không đủ sức?

Chúng ta bị tước đoạt nhân tính một cách tàn bạo tới mức chỉ vì miếng cơm manh áo qua ngày thôi mà chúng ta sẵn sàng vứt bỏ mọi nguyên tắc và linh hồn của mình, mọi nỗ lực của tiền nhân và mọi cơ hội của hậu thế – miễn sao đừng đụng tới sự tồn tại mong manh của mình là được. Chúng ta không có khí phách, không có tự trọng, không có nhiệt tình. Vũ khí hạch tâm, thế chiến thứ ba chúng ta không sợ. Chúng ta đã nấp kĩ trong hang rồi. Chúng ta chỉ sợ làm người công dân có dũng khí.

Chúng ta chỉ sợ tụt lại phía sau đàn và phải bước đi một mình và đột nhiên thấy mình không có bánh mì ăn, không có lò sưởi ấm và không có một đăng ký hộ khẩu Moscow. Chúng tai đã được tuyên truyền trong các khóa học chính trị, và theo cùng một cách giống hệt nhau, đã được bồi dưỡng các ý tưởng sống yên thân, và mọi thứ sẽ tốt đẹp trong phần còn lại của cuộc đời. Bạn không thể thoát khỏi môi trường và điều kiện xã hội. Cuộc sống hàng ngày định hình ý thức. Cái đó có liên quan gì với chúng ta? Chúng ta có thể làm gì với nó?

Được chứ, được tất cả là đằng khác. Nhưng chúng ta dối lòng mình để an thân. Đừng trách bọn chúng, có trách thì trách chúng ta đi. Có người vặn hỏi: thì ông muốn nghĩ gì mà chẳng được. Chúng đã dém miệng chúng ta. Có ai chịu nghe chúng ta, có ai thèm đoái hoài chúng ta. Làm sao mà bắt chúng nghe chúng ta nói được? Không thể nào thay đổi được não trạng của chúng.

Tất nhiên là có thể đầu phiếu để loại bọn chúng, nhưng mà đất nước này làm gì có tuyển cử. Ở phương Tây người ta có bãi công và biểu tình phản đối, còn chúng ta thì bị đàn áp thẳng tay, có những cảnh mới nghĩ tới đã thấy rùng mình: ai dám thình lình bỏ việc mà xuống đường? Song le, những con đường chết chóc mà dân tộc Nga đã mò mẫm trong đau khổ suốt thế kỉ qua không phải dành cho chúng ta, mà quả thật chúng ta không cần đi lại những con đường như vậy.

Bây giờ cái rìu đã làm xong việc, hạt giống gieo xuống đã nảy mầm, chúng ta có thể thấy là những kẻ còn trẻ tuổi mà cuồng vọng, cho là có thể dùng khủng bố, cách mạng đẫm máu và nội chiến để mang lại bình đẳng và hạnh phúc cho đất nước chúng ta, chính họ là những kẻ lạc lối. Thế đủ rồi, xin cảm ơn các vị giác ngộ cách mạng tiên phong! Bây giờ chúng ta mới biết phương pháp xú uế tất sinh kết quả xú uế. Hãy để cho tay của chúng tôi trong sạch.

Cái vòng trói buộc này đã đóng chặt rồi sao? Không còn lối thoát? Và chúng ta chỉ còn một đường duy nhất thôi, là khoanh tay đợi? Đợi cho tới khi có biến? Chừng nào mỗi ngày chúng ta đều thừa nhận, ca ngợi, và nuôi dưỡng – chứ không tự mình chém phăng đi một điều không ai không thấy, là sự dối trá – thì đừng mong có chuyện gì xảy ra.

Bạo động len lỏi vào cuộc sống an bình, cái mặt nó toát ra vẻ ngạo mạn, y như đang khoác một ngọn cờ và hô to: “Bạo động đây. Tránh ra, nhường đường cho tao, không tao nghiến nát tụi bay.” Nhưng mà bạo động mau già. Rồi nó mất hết tự tín, và để giữ cho cái mặt ra vẻ khả kính nó rước thằng dối tra về làm đồng minh – vì không phải ngày nào nó cũng thò bàn tay thô bạo của nó ra được, mà thò ra được cũng bất tất chụp hết mọi người. Nó chỉ cần chúng ta ngoan ngoãn phục tùng dối trá và hàng ngày thực hành dối trá – đây chính là yếu huyệt của mọi sự trung thành.



Cái chìa khóa đơn giản nhất và dễ làm nhất mở ra cánh cửa tự do, tự do mà bấy lâu nay chúng ta lãng quên, là: mỗi người cùng tẩy chay dối trá. Mặc dù dối trá che giấu tất cả, mặc dù dối trá phủ lấy tất cả, nhưng tôi tuyệt không nhúng tay.

Làm vậy tức là mở một lối thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn hoang tưởng do chúng ta khoanh tay đứng nhìn mà ra. Cách đó vừa dễ làm nhất vừa tiêu diệt dối trá mau nhất. Vì rũ bỏ dối trá, tức là cắt đứt đường sống của nó. Dối trá giống như bệnh dịch, chỉ có thể sống bám vào một sinh vật.

Chúng ta không cần phải ám thị mình. Chúng ta chưa đủ già dặn để tiến vào các quảng trường mà gào lên sự thật hay biểu hiện tư tưởng của mình. Chưa tới lúc phải làm thế. Nguy hiểm nữa. Chỉ cần điều gì mình không nghĩ thì chúng ta từ chối đừng nói là được.

Đó là con đường của chúng ta, con đường dễ nhất ai cũng làm được, con đường đã chiếu cố sự hèn nhát thâm căn cố đế của chúng ta. Nó dễ hơn phương pháp công dân bất phục tùng của Gandhi xiển dương – dễ tới mức viết những lời này còn nguy hiểm hơn.

Con đường của chúng ta là tránh xa chỗ thối nát. Nếu chúng ta đừng ghép đống xương tàn và lớp vảy khô của ý thức hệ lại với nhau, nếu chúng ta đừng mất công vá lại mớ giẻ rách, thì chúng ta sẽ ngạc nhiên thấy là sự dối trá sẽ hóa ra bất lực và tiêu ma nhanh chóng. Lúc đó, cái gì cần lột trần mới thực phơi ra trước cả và thiên hạ.

Vì thế, dù có dè dặt, mỗi chúng ta hãy lựa cho mình: hoặc là, cam tâm làm nô lệ cho hư ngụy – tất nhiên chúng ta nuôi dưỡng con cái mình trong tinh thần dối trá không phải vì đó là bản tính của chúng ta, mà chẳng qua là để kiếm ăn nuôi gia đình – hoặc là rũ sạch mọi sự dối trá làm một người lương thiện xứng đáng được con cái và người đồng thời kính trọng.

Con đường của chúng ta là không tự nguyện ủng hộ bất kì sự dối trá nào. Khi chúng ta đã biết bản chất của hư ngụy ở đâu, thì chúng ta mỗi người sẽ biết cách nhìn ra đâu là dối, đâu là thật.

Và từ đó trở đi chúng ta sẽ:

•bằng mọi cách không viết, kí, hay in một lời nào chúng ta cho là bóp méo sự thật;


•không nói những lời như thế, dù là nói chuyện riêng hay nói trước đông người, tự ý mình hay theo ý người khác, dù làm công tác cỗ vũ, dạy học, giáo dục hay đóng trò trên sân khấu;


•không mô tả, cổ vũ, hay truyền đi một ý tưởng nào chúng ta thấy rõ ràng là sai hay bóp méo sự thật, dù bằng hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh, khoa học kỹ thuật hay âm nhạc;


•không trích lời người khác nói hoặc viết mà không đặt lời trích vào ngữ cảnh, để lấy lòng ai đó, hay để lót đường cho mình, hay để thành công trong công việc nếu mình không hoàn toàn đồng ý với ý tưởng trích dẫn, hoặc nếu ý trích dẫn đó không phản ánh chân thực bản chất vấn đề;


•không để cho mình bị ép phải dự những cuộc biểu dương hay hội họp nào trái với sở thích hay ý nguyện mình, không cầm hoặc giương lên những tiêu ngữ hay biểu ngữ nào mình không hoàn toàn chấp nhận;


•không giơ tay biểu đồng tình cho một đề xuất mà ta không thành thật tán đồng, không bầu cho người mình cho không xứng đáng hay đáng ngờ về tài năng, dù bầu công khai hay bí mật;


•không để cho mình bị lôi tới những cuộc họp mà mình đoán người ta sẽ bức mình thảo luận hoặc bóp méo một vấn đề;


•lập tức bước ra khỏi những cuộc họp, hội nghị, thuyết trình, biểu diễn, chiếu phim nếu nghe thấy diễn giả nói láo, rêu rao những rác rưởi ý thức hệ, hoặc những lời tuyên truyền lố bịch;


•không đóng góp hoặc mua những báo chí bóp méo thông tin hoặc giấu giếm những sự thật hiển nhiên.


Tất nhiên là chúng ta chưa liệt kê hết mọi biến thái hư ngụy cần phải liệt kê. Nhưng người nào thanh luyện mình sẽ nhờ lương tâm trong sạch mà phân biệt được chân ngụy.

Những người chọn con đường này ban đầu cuộc sống sẽ rất thay đổi. Có người bị mất việc. Những người trẻ muốn sống chân thật, thì những việc như thế này sẽ làm cho đời thanh xuân của họ ra phức tạp, vì khóa học bắt buộc nào cũng nhét toàn dối trá, không thể không chọn lọc.

Nhưng không có lối đi nào dễ dãi hơn cho người muốn làm người lương thiện. Ngày nào chúng ta cũng có người phải đối diện ít nhất là một trong những tình huống trên, cho dù là trong những ngành khoa học kĩ thuật vô thưởng vô phạt dễ tìm được chỗ nương náu nhất. Hoặc là chân thật, hoặc là hư ngụy: một đường đi tới tự do tinh thần, một đường đi tới nô lệ tinh thần.

Còn những kẻ không đủ dũng khí bảo vệ linh hồn mình– các người chớ vin vào mấy quan điểm ‘tiến bộ’ của mình mà kiêu ngạo, chớ huyênh hoang mình là hàn lâm học sĩ, là nghệ sĩ nhân dân, là yếu nhân có nhiều công trạng, hay là đại tướng – các người hãy tự nói với mình: Mình thà ở lại đàn làm một thằng hèn. Sao cũng được, miễn no bụng ấm lưng thì thôi.

Lối phản kháng này tuy nhu nhược nhất trong mọi lối phản kháng cũng không phải là dễ. Tất nhiên là dễ hơn tự thiêu hay tuyệt thực: lửa sẽ không dìm thân anh, mắt anh không bị nung cho nổ ra, và gia đình anh sẽ không lúc nào thiếu cơm ăn nước uống.

Một dân tộc vĩ đại ở châu Âu, dân Tiệp Khắc, họ bị chúng ta phản bội và lừa dối, chẳng là họ đã cho chúng ta thấy nếu trong lồng ngực có một trái tim cao thượng thì tấm ngực mỏng manh kia có thể đứng lên chống lại xe thiết giáp đấy sao?

Anh bảo làm thế không dễ? Nhưng trong mọi cách thì cách đó là dễ nhất. Cách đó có thể nguy tới tánh mạng, nhưng muốn cứu linh hồn thì không còn cách nào khác. Phải, con đường đó không phải là con đường dễ đi. Nhưng mà có nhiều người, rất nhiều nữa là khác, năm này qua năm nọ đã theo đuổi lí tưởng ấy, chỉ vì họ lấy chân thật làm lẽ sống.

Cho nên anh không phải là người đầu tiên chọn đi đường này, anh chỉ gia nhập dòng người đã dấn thân vào đó. Nếu chúng ta nâng đỡ nhau và sát cánh nhau thì con đường này sẽ dễ đi và ngắn bớt lại. Nếu chúng ta đông tới hàng ngàn người thì bọn chúng sẽ không làm gì được chúng ta. Nếu chúng ta lên tới hàng vạn người thì đất nước này sẽ khoác bộ mặt mới đến mức chúng ta không còn nhận ra nữa. Nếu chúng ta khiếp nhược quá, thì đừng trách người ta đàn áp mình mãi.

Chính chúng ta đang tự mình đàn áp mình đấy. Lúc đó thì hãy khom lưng xuống nữa, hãy rên xiết nữa, và đợi tới ngày những người anh em của chúng ta, các nhà sinh học, tìm ra cách đọc được tư tưởng của chúng ta, một thứ tư tưởng vô giá trị và tuyệt vọng.

Và nếu thậm chí đã chọn con đường yên thân mà chúng ta vẫn rơi vào chỗ cùng khốn, thì chúng ta đúng là đồ bỏ đi, không còn cách gì cứu vớt được. Lúc đó, chúng ta đáng dành cho những lời khinh bỉ này của Pushkin:

“Đồ súc sinh thì làm gì có tự do. Muôn đời di sản của nó chỉ là ách nặng và roi vọt.”

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Image


Viết về nhà thơ... hèn Du Tử Lê
Trường Sơn Lê Xuân Nhị

Đáng lẽ, tôi không phí thì giờ để viết về tên hèn này. Thì giờ nhậu còn không có, thì giờ đâu đi chửi một thằng hèn. Thời nào cũng thế, anh hùng thì khó kiếm nhưng bọn hèn thì đầy dẫy. Cuộc đời tôi, hay thế giới của tôi sống, tôi luôn luôn sống bên cạnh những anh hùng. (Có lẽ, vì không bao giờ được làm anh hùng nên tôi muốn dựa hơi chăng? Có thể lắm, ai biết được) Những anh hùng trước năm 75, và những anh hùng sau năm 75. Những anh hùng như Đại Tá Ân, anh Tô Phạm Liệu, Lý Tống, anh Phan Nhật Nam, anh Lô, anh Phán, anh Hồ văn Nhơn, anh Nguyễn Văn Hưởng, anh Nguyễn Khoa Lộc (phi đoàn tôi), thầy Võ Ý, nhà thơ Cao Đông Khánh, nhà thơ Nguyễn Lập Đông...vân vân và vân vân...

Vì sao tôi gọi DTL là một tên hèn? Xin thưa, tôi có biết chút ít về hắn... ha ha ha

Thành thật mà nói, trước 75, DTL là một nhà thơ nổi tiếng, ít ai mà không biết. Tôi chẳng bao giờ đọc thơ DTL, không phải vì tôi ghét hắn nhưng tính tôi vốn chẳng thích thơ, ngoại trừ những bài thơ thật hay làm rung động tâm hồn như bài “Anh hùng vô Danh” của giáo sư Nguyễn Ngọc Huy. Nhưng tôi nghe nói hắn có vài bài thơ được phổ nhạc. Hắn lại là một đại úy trong QLVNCH. Đối với tôi, như thế là tốt rồi. Tôi chỉ là một anh lính tầm thường vô danh, nhưng biết được QLVNCH có những người tài năng như vậy, ai mà chẳng hãnh diện?

Sang Mỹ, khoảng năm 78 hay 79 gì đó, hắn có làm bài thơ “Khi tôi chết xin mang tôi ra biển” gì đó, tôi đọc qua và thấy cũng hay hay, cũng nhận ra còn có khẩu khí của một sĩ quan QLVNCH...

Khoảng đầu thập niên 90, lúc tôi mới tập tểnh cầm bút, được nổi tiếng chút chút, trong một lần đi chơi ở Houston, nghe bạn tôi, nhà thơ Cao Đông Khánh, khoe có DTL từ California qua chơi, hẹn gặp nhậu.

Tôi mừng lắm khi được gặp DTL với người bạn gái của hắn. Gặp nhau, tôi, Cao Đông Khánh, nhà thơ Nguyễn Lập Đông và vài người bạn khác nhậu tới bến, nhưng DTL chẳng uống mẹ gì. Chỉ ngồi cười cười coi nản thấy mẹ. Tôi uống rượu, khề khà ậm ực, mở miệng ra là chửi thề, ai cũng tưởng tôi say, nhưng tôi chỉ giả vờ thôi... (Coi chừng đấy, quí vị)

Lần đầu tiên được gặp nhà thơ lớn, tôi hơi buồn và thất vọng khi nhận ra “thần tượng DTL” có vẻ không được thật thà cho lắm. Rượu thì đếch uống, nói chuyện thì ít khi nhìn thẳng vào mặt nhau mà chỉ lơ đơ là đà như con gà khát nước. Tôi nhớ mãi đã nói trong lòng mình rằng, đây là tướng mạng của một thằng gian manh, đâm cha giết chú, bóp vú chị dâu. Tôi biết coi tướng số chút đỉnh, quí vị ạ. (Học suốt đời đấy, không dễ đâu)

Tôi nhận xét thêm, tên DTL này là một con người ... rất là màu mè. Khoái màu mè và luôn luôn đóng kịch, dù giữa bàn nhậu. Màu mè từ cách ăn mặc, cách ăn nói, đóng kịch từ cách hút thuốc lá đến cách nói chuyện. Về nội tâm, lại bị thêm bệnh háo danh, khoái được chúc tụng tôn vinh nhưng quan trọng hơn cả, là một con người không thực tế.

Khoảng chừng vài tuần sau khi tiệc tàn, về lại New Orleans, một buổi chiều, đi làm về, tôi nhận được cú điện thoại của ngài DTL. Nghe ngài gọi, tôi biết ngay là sẽ có chuyện, nhưng để xem thử chuyện gì. À, thì ra ngài muốn tôi tổ chức một buổi ra mắt sách cho tập thơ của ngài tại thành phố New Orleans. Ngài lại còn mớm “Để anh em mình bù khú với nhau một bữa cho vui ấy mà.”

Tôi nghĩ liền trong bụng, mẹ nó, bù khú cái con khỉ, bù... tiền thấy mẹ thì có. Văn nhân thi sĩ hay những người thích đọc sách ở thành phố New Orleans này đếm không tới vài chục. Bây giờ, tôi mở buổi RMS thì mời được bao nhiêu người đến? Làm một con tính sơ sơ, tôi nghĩ nếu tôi tổ chức, tôi phải chi ra ít nhất cỡ 3 xấp. Đau đớn hơn nữa là, nếu tôi chịu chi ra 3 xấp đi nữa, sẽ có bao nhiêu người đến tham dự? Thôi bỏ đi tám. Tôi chỉ ầm ừ cho qua chuyện rồi làm lơ luôn. Tôi biết ngài DTL phải buồn và thất vọng về tôi lắm. Trong buổi nhậu tại nhà Cao Đông Khánh, không hiểu tôi đã ăn nói như thế nào mà ngài lại có cảm nghĩ rằng ngài là một thần tượng lớn của tôi, một thằng lính vô danh của QLVNCH. Hoá ra, tôi đóng kịch kể cũng hay.

Từ đó, DTL chẳng còn bao giờ liên lạc gì với tôi và tôi cũng chẳng có lý do gì đề liên lạc với hắn.

Lâu lâu, trên net, tôi đọc được những bài thơ hay bài viết của DTL. Tôi đau đớn nhận ra thơ của hắn càng ngày càng trở nên lạ lùng, gần như điên loạn, đầu chẳng ra đầu, đuôi chẳng ra đuôi, ví von hợm hỉnh một cách vô lý như một thằng điên. Hắn nghĩ ví von điên cuồng như thế thì mới thật sự là nhà thơ lớn. Tội nghiệp thật. Những câu thơ của hắn, nếu còn có thể gọi được là thơ, thì mất đầu, mất chân, mất tay, chấm phẩy tầm bậy tầm bạ loạn xị xà ngầu, chẳng coi luật văn phạm vào đâu, chẳng coi người đọc ra gì. DTL nghĩ hắn có quyền làm như thế bởi vì hắn là một nhà thơ lớn. Làm nhà thơ thì phải lập dị và khó hiểu mà, đúng không? Tôi biết hắn luôn luôn nghĩ rằng hắn là một thiên tài của quê hương, một nhà thơ vĩ đại ngàn năm mới có một. Hắn còn muốn nuôi mộng sửa cách hành văn, cách chấm phẩy của văn chương Việt Nam. Tội nghiệp hắn quá đi thôi.

Mấy chục năm nay, dù chẳng ưa gì hắn, có khi còn khinh nữa, nhưng tôi luôn luôn tha thứ cho hắn và chấp nhận trong im lặng những hành vi, viết lách điên cuồng của hắn. Tại sao? Vì tôi nghĩ hắn là một nhà thơ của anh em mình. Một nhà thơ cùng một màu áo, cùng một màu cờ. Hắn là phe mình.

Nhưng cho đến khi, nghe tin hắn hèn hạ về Việt Nam ra mắt tập thơ thì tôi phải viết bài này.

Đau khổ lắm quí vị ơi...

Những ca sĩ về Việt Nam ca hát, chúng ta có thể tha thứ được bởi vì, dù sao, họ chỉ là thợ hát. Thợ hát muốn kiếm tiền nhiều thì phải về Việt Nam. Chuyện này tha thứ được. Và tôi xin quí vị cũng nên tha thứ cho họ. Nhưng một nhà thơ, một người cầm bút như DTL lại về Việt Nam để ra mắt sách, để được nổi tiếng, để đón nhận những lời ca tụng rẻ tiền của bọn văn nô Việt Cộng thì thật là tủi hổ cho những người cầm bút như anh em chúng tôi, những người lính của QLVNCH. Bọn ca sĩ về Việt Nam kiếm được bạc triệu vì Việt Nam có nhu cầu, người ta thích nghe hát. Còn những bài thơ của DTL bây giờ đem tặng không cho dân Việt Nam chưa chắc đã ai thèm đọc, đừng nói đến chuyện bán thơ để kiếm tiền. Vậy thì rốt cục, hắn sẽ được gì? Tiền thì nhất định là không có, còn tiếng tăm thì được gì? Có ai coi hắn ra con mẹ gì?

Nếy trên cõi trời này, còn có những con người còn coi hắn “ra con mẹ gì” thì đó là những người Việt Nam Quốc Gia tị nạn Cộng Sản đang sống ngoài quê hương. Nhưng tiếc thay, bát cơm nằm trong tay hắn ở Mỹ, hắn không muốn ăn, lại về Việt Nam cầm bát cứt của Việt Cộng mà ăn. Giữa chén cơm và chén cứt, hắn lại chọn chén cứt.

Đau đớn lắm thay cho một nhà thơ Việt Nam. Khốn nạn thân mày, Du Tử Lê, thằng phản bội anh em, phản bội tổ quốc.


Trường Sơn Lê Xuân Nhị

1/8/15



Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông... (NBH)

Truong Son Le Xuan Nhi
tslxnhi@aol.com

Post Reply