Tạp Ghi , Chuyện Phiếm , Chuyện Vui Hàng Ngày

Cho đuổi mèo, mèo rượt chuột, chuột sa chỉnh gạo, gạo tải vô xe... thế rồi... xe cán chó!!!

Moderators: CNN, khieulong

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

‘Cheo Leo,’ quán cà phê ‘xưa’ nhất Sài Gòn
Bài và hình: Nguyễn Ðạt/Người Việt

SÀI GÒN (NV) - Cheo Leo là tên quán cà phê “xưa” nhất Sài Gòn, ở căn nhà số 36, hẻm 190, đường Nguyễn Thiện Thuật, quận 3.

Khu vực này chi chít ngõ hẻm ngang dọc, nên từ lâu đã có tên gọi là khu Bàn Cờ.
Chúng tôi được biết quán Cheo Leo hình thành từ năm 1938, trước cả thời gian xảy ra Ðệ Nhị Thế Chiến, 1939-1945.


Image
Bên trong quán “Cheo Leo.”


Tồn tại đến hôm nay, quán Cheo Leo đã 75 năm tuổi; đặc biệt quán Cheo Leo vẫn pha cà phê bằng vợt, còn gọi là cà phê bít tất.

Vào thập niên 60 của thế kỷ trước, khi còn là học sinh trường trung học Chu Văn An, tôi đã biết có quán cà phê Cheo Leo. Bạn đồng lứa tuổi chúng tôi, học tại trường Chu Văn An và trường Pétrus Ký, cả hai trường đều không xa khu Bàn Cờ. Khi tập tành ngồi quán cà phê, nhiều bạn đã lui tới thường xuyên quán Cheo Leo.

Riêng tôi, theo đòi những “ông anh văn nghệ,” đã tìm tới quán có cà phê phin, để được làm dáng trầm tư, nhìn ngắm từng giọt đậm đen nhỏ từ cái phin xuống đáy ly cốc.

Thuở đó tuy pha cà phê bằng phin chưa phổ biến, nhưng ở khu vực Bàn Cờ đã có những quán pha cà phê bằng phin, nổi tiếng như các quán cà phê Phong, cà phê Năm Dưỡng...

Sau biến cố 30 tháng 4 1975, không còn thấy bóng dáng cà phê Phong nữa. Cà phê Năm Dưỡng còn tiếp tục, nhưng cách đây mấy năm đã trở thành nhà nghỉ khách sạn. Hầu hết quán cà phê nổi tiếng của Sài Gòn mà chúng tôi biết từ thuở học trò, đã biến mất cả rồi. Duy nhất quán Cheo Leo vẫn ngày ngày mở cửa, với cà phê vợt của một truyền thống gần như tuyệt tích.

Vừa qua, gặp bạn xa Sài Gòn đã nhiều năm, muốn tìm lại hình bóng cũ hương vị xưa của Sài Gòn.

Chúng tôi tới quán Cheo Leo, thưởng thức ly cà phê pha bằng vợt.

Gặp chị Nguyễn Thị Sương, chúng tôi thăm hỏi về quán cà phê kỳ cựu này. Chị Sương là con ông Vĩnh Ngô, người lập nên quán Cheo Leo cách đây 75 năm.

“Nghe cha tui nói, thuở đó vùng Bàn Cờ này còn hoang sơ heo hút lắm, không khác chốn đèo heo hút gió, nên khi mở quán cha tui đặt tên là quán Cheo Leo. Từ đó khách uống cà phê gọi luôn tên cha tui là ông Cheo Leo...”

Một vị khách lão niên ngưng ngụm cà phê đá, nói với chúng tôi:

“Sanh thời ông Cheo Leo điệu nghệ lắm. Ổng luôn vận quần soọc, cỡi vespa đi chợ Bến Thành mua cà phê chánh hiệu Meilleur Gout, Jean Martin mang dìa pha vợt. Tới khi Sài Gòn đã hiếm quán cà phê pha vợt, ổng cũng không chịu pha phin, biểu pha bằng cái phin thì cà phê cũng chẳng ngon hơn chút nào, mà nỡ bỏ đi cái cách cà phê pha vợt đã quá thân thương với người Sài Gòn. Tụi tui mến ổng là vậy.”

Ông Cheo Leo mất trong năm 1993, lúc vừa tròn 75 tuổi, ngang bằng tuổi quán Cheo Leo hôm nay. Chị Sương dẫn chúng tôi vào nơi pha chế cà phê vợt, phía trong cùng của căn nhà chật hẹp. Cái lò nung để ủ nóng cà phê ngẫu nhiên như một kiệt tác nghệ thuật, với những dòng chảy nâu quánh kết tinh của 75 năm, không khác những dòng thạch nhũ trong hang động.
Image
Lò nung đun nước pha chế cà phê vợt.


“Thuở đó cha tui đã tự làm cái lò nung này, từ cái thùng phuy chèn thêm lớp gạch pha với đường cát vàng hạt lớn. Chánh giữa lò nung để than lửa lên có ngọn đặng đun nước sôi. Nước sôi già mới đổ vào cái siêu, thứ siêu người ta thường đun thuốc Bắc. Cái siêu này để tấm vải lược, tức cái vợt, bỏ cà phê xay thiệt nhuyễn trong đó. Ủ kín một lúc, khi cà phê đã ra hết thì chắt nước cà phê qua cái siêu khác, đặt bên rìa lò nung đặng giữ nóng lâu, hoặc chắt liền vào ly phục vụ khách vừa tới quán.”

Chị Sương mở nắp đậy cái vại sành, đặt nơi không xa lò nung. Chúng tôi nhìn vào khối nước trong trẻo, nghe chị nói:

“Nước phông tên phải để từ 3 ngày trở lên mới dùng đun sôi đặng pha cà phê. Cha tui biểu hồi xưa dùng nước giếng thì khác, lấy nước lên xài được liền. Tới khi nơi này phát triển dân cư, san lấp hết giếng xây dựng nhà cửa, phải dùng nước phông tên có thuốc sát trùng, nên để lắng xuống ít nhứt 3 ngày mới dùng.”

Chúng tôi tỏ ý về sự chật hẹp của quán Cheo Leo, phục vụ cà phê một ngày không được nhiều khách. Chị Sương mỉm cười, nhỏ giọng: “Ðắp đổi qua ngày là gia đình chúng tôi mừng rồi. Khách tới uống cà phê ở quán này là bà con lối xóm không hà, ít khi có khách từ xa tìm tới như mấy chú. Chẳng thể so sánh với thuở trước, thời Việt Nam Cộng Hòa đó. Cha tui biểu thời đó quán
Cheo Leo để máy ca hát rộn rã, khách ra vào quán suốt ngày. Có thời gian quán Cheo Leo mở cửa đón khách từ 4 giờ sáng tới 10 giờ đêm mới hết khách, đông nhứt là giới sinh viên học sinh. Bây giờ tui còn gặp lại mấy người vào quán là khách từ thuở đó, khi là học sinh trường Pétrus Ký trường Chu Văn An. Nay mấy người đó đều là những ông già trên dưới sáu bảy chục tuổi.”

Tới quán Cheo Leo, chúng tôi ngùi ngùi nhớ lại một thời đã qua. Người bạn đặc biệt nhắc nhớ Sài Gòn ngày xưa, các bác tài sáng sớm chở vợ con trên xe xích lô máy, tới quán tiệm hủ tíu và cà phê bình dân. Ăn uống xong xuôi chở vợ con về, các bác tài mới bắt đầu một ngày chạy xe chở khách.

Hầu hết quán tiệm bình dân Sài Gòn thuở ấy pha cà phê bằng vợt, như quán Cheo Leo còn tồn tại đến hôm nay. Giống một loài sắp tuyệt chủng, quán Cheo Leo càng làm xao lòng những khách hoài xưa, giữa vô số quán tiệm cà phê đủ kiểu hiện đại, mọc lên như nấm sau cơn mưa ở Sài Gòn.

User avatar
tiendung
Posts: 347
Joined: Wed Dec 01, 2010 10:09 pm

Post by tiendung »


Sàigòn 4O năm


Song Lam Anh Trinh Nguyen

I.
Cuối cùng thì tôi cũng về cái ổ của mình. Nằm thẳng cẳng, hai tay đan trên ngực, mắt nhắm nghiền, tôi giống hệt như những người được Chúa gọi về. Chỉ có khác đôi điều là còn thở phì phò và trái tim còn đập lổn nhổn khi trồi khi sụt.
Ba tuần lễ ở Sàigon để thăm lại người mẹ ra đi năm ngoái, tôi như con thú hoang đi lạc. Mọi thứ đều lạ lẫm, trễ tràng. Sàigon thật sự không còn của riêng tôi.
Đứng thật lâu ở cửa Tây chợ Bến Thành, ngay tiệm vàng Nguyễn Thế Tài trước 75, tôi không hiểu mình muốn tìm gì, gặp ai trong lúc này. Con đường Lê Thánh Tôn ngày xưa đi học bằng xe đạp đôi lần dừng lại vì xe bị tuột sên, có ít nhất vài anh con trai tới sửa dùm. Bây giờ, đứng đây cả buổi, nhìn ngó tứ tung, chẳng có ma nào ngó tới tôi.
Buồn tình, tôi đi lang thang. Đi bộ lòng vòng ngang kem Bạch Đằng, tôi ngán ngẫm chẳng thèm vào. À, nhà sách Khai Trí cũ đây rồi. Vô chút. Hình bóng cũ nào còn đây, sách vở ích gì cho buổi ấy? Tôi mua vài quyển sách dạy nhạc, Tự học Tây Ban Cầm với ước mong dợt lại bài Thu Ca ngày nào, bài dư âm kỷ niệm ngày hai đứa mới quen nhau, bài Thuyền và Biển mà mấy đứa em già chế lại hát như thế này: “Nếu phải sống xa em, anh chỉ còn bão tố. Nếu phải sống bên em, anh chỉ còn… cái khố.”
Bùng binh Sàigon ngày nào có tượng đài Trần Nguyên Hãn oai phong, tượng nữ sinh Quách thị Trang bằng đá trắng… nay đã mất tăm, mất tiêu. Xe cộ thật nhiều, ồ ạt, ào ào khiến tôi chóng mặt.
Sàigòn bây giờ đầy dẫy, ngập tràn nhà cao tầng không khác gì các đô thị văn minh Âu Mỹ.
Sàigon có Bicotex Trung tâm tài chính, mà dân Saigon gọi là bà đầm bưng mâm xôi, Saigon có Center Tower 72 lầu, Saigon có đường hầm bắc qua sông Thủ Thiêm. Bến đò Thủ Thiêm bên bến sông Bạch Đằng năm xưa chạy xập xình, ành ạch sóng nước cả ngày cả đêm nay đã không còn. Con đò Thủ Thiêm đã lùi vào dĩ vãng! Trong trí nhớ người dân Sàigon vẫn còn câu hát: “Bắp non đem nướng lửa lò. Đố ai ve được con đò Thủ Thiêm”. “Con đò” Thủ Thiêm tức là cô lái đò trẻ tuổi xinh đẹp chèo đò đưa khách sang sông. Tôi thích quá chừng chữ “ve” này, mà chữ “cua” hay chữ “dê” không tài nào sánh kịp!
Sàigon có cầu vượt, có xa lộ Đông Tây, có siêu thị lớn nhỏ sang trọng không thua gì ở Mỹ. Sàigon có tất cả, nhưng Saigon không có nụ cười.

Sàigon không có nụ cười? Các bạn có cho rằng tôi nói quá sự thật không? Một lần nữa, tôi xin xác định: Saigon không có nụ cười. Trong công việc hàng ngày của tôi, tôi cười với khách hàng hàng trăm lần, nói hai chữ “cám ơn” hàng ngàn lần. Saigon không có được chuyện này.

Hàng ngàn chiếc xe gắn máy đổ xô ra đường mỗi giờ, mỗi ngày, mọi người chen lấn nhau, tranh giành nhau từng centimet đường, mặt mày hằm hè như sắp sửa gây gổ, chửi mắng nhau và mặt lạnh như… tiền Việt Nam.

Vào cơ quan chính quyền, quý vị sẽ thấy được sắc mặt này: họ nhìn mình ghẻ lạnh, soi mói coi mình thuộc tầng lớp nào trong xã hội, họ nhìn qua cách ăn mặc để đoán xem mình có tiền nhiều hay ít… ôi cái nhìn xa lạ, dửng dưng, không có một chút tình cảm con người nào hết. Sao kỳ vậy cà? Tôi tự hỏi mình. Biết hỏi ai bi giờ?

Saigon có những bộ trang phục đắt tiền, những chiếc xe hơi bạc triệu, những biệt thự sang trọng với phòng master bedroom dát vàng ròng bốn số chín, nhưng Saigon không có được tình yêu thương. Saigon vắng bóng lòng nhân ái và chết tiệt sự bao dung.

Những ngày cận kề Christmas, Saigon treo đèn kết hoa cùng khắp những con đường lớn. Những công trình xây dựng còn dang dở khắp nơi gây ra sự kẹt xe dữ dội vào những giờ cao điểm.
Dân Saigon ăn nhậu tối ngày, từ sáng sớm cho tới giữa khuya. Quán nhậu san sát, từ bò dê cao cấp cho đến rắn mối thằn lằn. Hình như mọi người đang lâm vào cảnh mê hồn trận cứ ăn nhậu thả cửa chừng nào chết hẳn hay.

Tôi có những đêm Saigon mất ngủ triền miên vì tiếng xe gắn máy ầm ầm trong từng hang cùng ngõ hẹp. Bốn năm giờ sáng lại nghe rội rã tiếng rao hàng: “Bánh mì nóng đây, bánh mì nóng đây”. Saigon lúc nào cũng hực hở lửa nóng, rít rịt tay chân, chỉ nhờ mong ngọn gió mát bất chợt.

Tuổi trẻ Saigon bây giờ cao hơn, đẹp hơn, sang trọng hơn. Con gái ra đường không ai biết đẹp hay xấu, cao hay thấp, da trắng mịn màng hay đen thui rổ chằng chịt, vì họ trùm kín mít, chỉ chừa hai con mắt vẽ chỉ đen thui, lạnh lùng. Ai cũng chen lấn, vội vã, chụp giựt. Và hoàn toàn không có một nụ cười nào hết.

Ở Saigon ba tuần, tôi không biết mình cười được bao nhiêu lần, chỉ thấy lòng trĩu nặng sầu thương.
Đã nhiều lần tôi thấy được những người già như tôi đã về hưu ngồi trong nhà thu lu bất động. Nếu không bận rộn được làm ô-sin không công cho con cháu thì họ cứ ngồi trước bực cửa nhìn ra ngoài đường. Họ ngồi đó, buồn, bất động và héo tàn.

Central Tower lộng lẫy sửa soạn chào mừng năm mới 2015, sẵn sàng giơ cao dao sắc chém ngọt khách hàng. Ly kem bạc hà chỉ có hai viên kem tròn vo lớn hơn cái trứng cút chút xíu, trả 11 dollars cho tui. Trời ơi giá cả hơn cả bên Mỹ. Nhưng lo gì. Đại gia thừa tiền lắm bạc, “bi nhiêu bi!”

Saigon cũng có những buffet đắt tiền dành cho nhà giàu mới mở mắt sau này như ở Hoàng Yến, Newworld, nhất là ở nhà hàng năm sao Newworld này, ăn trưa 26 dollars và ăn tối 42 dollars trong khi người lao động buôn gánh bán bưng chỉ mong kiếm được 2 dollars/ngày (42.000 đồng Việt Nam). Saigon ơi, nhức nhối lòng tôi.

Mở mắt chào đời ở Saigon, sống và thở với Saigon qua bao nhiêu thăng trầm của đất nước, của thời cuộc, tôi vẫn ôm Saigon vào trong lồng ngực tưởng như lúc nào cũng son trẻ của mình.

Xa Saigon 40 năm, Saigon đã ngủ vùi 40 năm, Saigon đã mất đi vẻ thơ mộng, lãng mạn, đã mất đi hoàn toàn văn hóa phương Nam, để trở thành thứ lai căng chú kiết, Tây chẳng ra Tây, Tàu chẳng ra Tàu. Saigon bây giờ vẫn đang còn một triệu ba trăm ngàn người nghèo khổ đói khát lầm than. Có những cái chết vội vàng non yểu, trăm thứ bệnh lạ do thực phẩm độc hại mang đến, Saigon có trăm ngàn chuyện giả từ lông mi giả đến tôm khô, bánh tráng, gạo lúa ăn uống hàng ngày.

Bên cạnh những building cao vòi vọi, những nhà hàng sang trọng, những resort năm sao, quý bạn đọc sẽ còn thấy được những trường học xuống cấp thê thảm, những bệnh viện ghẻ lở hoang phế hàng trăm năm không sửa sang.

Quý bạn đọc hãy ghé mắt vào bệnh viện T.C ở Saigon để thấy bệnh nhân nằm la liệt từ hành lang cho đến trước cửa nhà vệ sinh, nằm luôn cả dưới gầm giường. Y tế quả là quá tải và giáo dục đi đoong.

Chúng tôi đến thăm đứa cháu họ tại phòng vô trùng của Trung tâm huyết học mà sững sờ: thằng nhỏ chuẩn bị trình luận án tốt nghiệp cao học kinh tế, lại được phát hiện bị ung thư máu. Tôi phát khóc khi nhìn bốn thanh niên trẻ không quá 25, mặt mũi sáng láng khôi ngô với những cái đầu trọc lóc vì vừa trải qua mấy đợt Chemo. Những khuôn mặt trắng bệt đang cần vô máu, mà xác suất sống còn chỉ có từ 20-25% đã làm tôi đau lòng, không biết phải nói gì để an ủi các cháu. Không ai trả lời được câu hỏi tại sao trong khi tiền đóng cho bệnh viện cao ngất ngưỡng được tính bằng hàng chục ngàn dollars, cha mẹ các cháu phải cầm cố nhà cửa, ruộng vườn…

Làm sao ngoảnh mặt quay lưng với cảnh đời trái ngược ở Saigon: bên cạnh cuộc sống xa hoa dư thừa phủ phê của kẻ có quyền lực, vẫn còn hằng hà sa số cuộc đời của những con người Việt Nam bần cùng đói khát kiếm ăn từng bữa toát mồ hôi, còn những mồ hoang mả lạnh, còn bao nhiêu cái chết tức tưởi, âm thầm… những người muôn năm cũ hồn ở đâu bây giờ? (Vũ Đình Liên-Ông Đồ).

Người lính cũ VNCH, người thương phế binh của chế độ cũ vẫn còn sống vất vưởng, lê la đầu đường xó chợ mà sự giúp hàng năm của đồng bào hải ngoại vẫn không thấm thía vào đâu!

Chương trình “Cám ơn Anh” hàng năm ở California với số thu lên đến bảy tám trăm ngàn dollars vẫn còn quá ít so với nỗi đau quá lớn, những thương tật trùng điệp của hàng chục ngàn chiến binh sau 75. Chúng ta đời đời chịu ơn họ, cái ơn sâu không bao giờ trả nổi…

Saigon thân yêu của tôi ơi. Em đã ngoài 40 từ 1975, tù dạo người Saigon chen chân vội vã chen lấn xuống tàu bạt mạng thừa sống thiếu chết vượt trùng dương tìm đường trốn chạy, biết bao người đã chìm sâu đáy nước, biết bao nhiêu người lưu lạc phương trời?
Biết nói gì với em hôm nay, Saigon 40?
Hôm nay thăm lại Saigon, em chỉ còn trong tôi hình bóng cũ: Con đường Bà Huyện Thanh Quan những chiều tan học mát rượi lối đi, vòng xe quay thanh thản nói cười với bạn, tà áo dài trắng quấn quít mối tình đầu.
“Saigon ơi, tôi đã mất người trong cuộc đời. Saigon ơi, thôi đã hết thời gian tuyệt vời…” (Saigon ơi vĩnh biệt-Nam Lộc)

Tôi vẫn còn hoài hình ảnh Saigon tráng lệ, tươi đẹp trong trái tim già nua khô héo của mình. Và Saigon ơi, tôi còn mãi Saigon xưa trong trí nhớ.
II.
Tôi trở lại Valley Forge vào những ngày cuối của năm 2014, tôi nghe lòng giá buốt với cái lạnh 6 độ F về đêm và những tai ương nổ ra từ khắp thế giới trong khi năm 2015 từng bước đến gần.

Hai cảnh sát viên New York bị kẻ gian sát hại ngày 20/12 là vết thương lớn cho nhân dân Mỹ, đặc biệt là cộng đồng New York. Sự sát hại đó có lẽ bắt nguồn từ sự phân biệt chủng tộc âm ỉ, dai dẳng sau khi người thanh niên Michael Brown ngả xuống từ viên đạn của người cảnh sát da trắng trong tháng 8/2014.

Và chỉ một tuần sau 28/12, Air Asia của Malaysia mang biển số 8501 lại bị rớt ở đáy biển Java mang theo 162 hành khách và phi hành đoàn, trong khi vừa cất cánh từ Jakarta (Indonesia) đi Singapore được 45 phút…

Dù vậy, ở Times Square New York, trái cầu mà cả thế giới dõi mắt mong chờ count down như một thông lệ chào mừng năm mới, với hy vọng sẽ tốt đẹp hơn năm cũ, đã qui tụ hàng trăm ngàn người trẻ tuổi bất chấp cái lạnh giá mùa Đông.

Ở quanh vùng chúng tôi cư ngụ, Valley Forge Casino đã chuẩn bị hàng trăm chai Champagne sẳn sàng mở nnắp để đón khách. Liệu 2015 có khá hơn chăng?Ai mà biết được?

Tôi đã não lòng với đồng hương của tôi ở Saigon Việt Nam, tức Saigon lớn.

Còn Saigon nhỏ? Khi nghĩ đến Little Saigon là tôi có chút vui. Sao kỳ vậy cà? Saigon nhỏ hình thành khắp nơi trên thế giới, nơi có người Việt Nam sinh sống và thành lập cộng đồng. Phải chăng người Việt Nam tị nạn khắp nơi trên thế giới muốn tìm lại những gì đã mất? Vì Saigon lớn không còn của mình nữa, mà là của họ, của người chủ mới!

Những lần đến Little Saigon ở Cali, tôi tìm lại được hình ảnh quá khứ, rất Việt Nam. Hình ảnh chiếc áo bà ba, vành nón lá, tà áo dài thanh tú ngày xưa đã không còn thấy ở Saigon lớn, lại vẫn ung dung hãnh diện khoe khoang ở Saigon nhỏ, đặc biệt tôi tìm thấy được con người Saigon xưa với đặc trưng văn hóa Saigon và tôi có được từ họ, những nụ cười thân ái.

Làm sao nói hết được những gian khổ, nhục nhằn của người Việt Nam lưu lạc nơi xứ người từ 40 năm qua?

Họ đã từ bỏ hết những gì có được trong tay để làm lại từ đầu bằng bất cứ công việc gì, vị trí nào để mưu sinh nuôi sống gia đình, gầy dựng cuộc sống mới.

Biết bao mồ hôi nước mắt đã tuôn đổ cho 40 năm lưu vong? Hai ba giờ sáng phải trở dậy đáp xe buýt đến chỗ làm với đồng lương rẻ mạt, phải sinh hoạt trong những điều kiện eo hẹp, phải tiết kiệm từng đồng bạc kiếm được, và cũng không thiếu những ê chề, tủi nhục trong quãng đường dài nơi xứ người. Nhưng người Việt Nam với bản tính chịu khó, cần cù, chịu đựng gian khổ để gầy dựng tương lai cho thế hệ thứ hai.

Sau 40 năm ròng, lớp người thế hệ thứ nhất đã già rồi, một số người đã ngàn đời yên nghỉ, để lớp trẻ đầy đủ năng lực, trưởng thành vươn lên nơi quê hương thư hai này.
Họ có mặt ở các ngành nghề với vai trò lãnh đạo và thật sự bước vào chính trường của Mỹ như Janet, Trí, Andrew… ở Little Saigon Nam Cali, như Nguyễn Xuân Hùng ở Texas hay Tâm Nguyễn ở San Jose… Công việc của họ hãy còn ở phía trước, trong đó có dự định đề nghị Thượng Viện Mỹ can thiệp cho người lính cũ VNCH, những thương phế binh sống vất vưởng ở quê nhà được định cư sang Mỹ, sang Uc để bù đắp phần nào thiệt thòi của họ. Chúng ta hãy cầu nguyện cho mộng ước này thành sự thật!

Người Saigon sống dễ dãi, chan hòa tình cảm với mọi người, với bà con hàng xóm láng giềng, với đồng hương đồng khói.
Người viết cứ tự hỏi mình hoài: Ở Cali có nhiều hội đoàn, như Hội Nhớ Huế, Quảng Nam-Đà Nẵng, Bạc Liêu, Gò Công… mà sao không có Hội Saigon? Có thể Saigon là điểm hẹn, điểm đến của các miền đất nước chăng?

Ở vùng New Jersey, có Saigon Plaza, có chợ Bến Thành… và cái Logo chợ Bến Thành dùng làm bảng hiệu cho khắp nơi có Saigon nhỏ, tức Little Saigon.

Đây là niềm hãnh diện chung cho người Việt Nam, cho Saigon, cho người Saigon, cho nên 40 năm qua, tâm tình ấy vẫn đầy thương, đầy nhớ.

Bây giờ ở Little Saigon Nam Cali chắc đang có những lo toan hạnh phúc? Nào là chuẩn bị Hội Tết hàng năm, cuộc diễn hành ở phố Bolsa, cuộc thi nấu bánh chưng ở Phước Lộc Thọ, thi hoa hậu áo dài truyền thống… để đón mừng năm mới Ất Mùi 2015. Tết Việt Nam vẫn còn mãi trong lòng người Việt Nam, người Saigon!

Những chuẩn bị rậm rịch, rộn ràng của mọi người từ đầu tháng Chạp. Các bà mẹ sẽ lui cui nấu nướng sớm chiều cho ngày 30 Tết cúng rước ông bà, tổ tiên, chào đón Giao thừa. Ngoài chợ lao xao mua sắm đồ ăn thức uống, bánh trái rượu bia và nhất là hoa Tết.

Trời ơi làm sao nói hết cái cảm giác vui sướng khi đi dạo chợ hoa tìm mua những cành mai đẹp nhất? Người bán người mua lao xao nói cười, chợ ngày không đủ ngày giờ, còn có chợ đêm nữa chứ! Về đêm Cali mát rượi, đi chợ đêm vừa đi vừa ăn bắp nướng thoa mỡ hành thì hạnh phúc biết bao?

Ngày Tết đến rồi, những chiếc áo dài được phơi phóng, ủi là cho thật phẳng phiu để đem ra chưng diện với mọi người. Áo gấm chữ thọ dành cho các ông, áo gấm đủ màu, đủ các loại hoa Mai lan cúc trúc dành cho các bà và các cô gái trẻ. Ai cũng mặc áo dài, từ trẻ nít cho đến cụ già, thậm chí các dân cử Mỹ lẫn Việt trên truyền hình chúc Tết đồng hương cũng diện áo dài. Áo dài được mùa. Người viết cảm thấy thật vui, thật gần gũi với họ. Ai cũng trang trọng chúc Tết nhau, nói cười thật vui như… Tết.
Người Việt Nam ở Little Saigon nói cười với nhau trong chợ, trên xe đò, ngoài bãi biển, trên xe buýt, trong buổi coi văn nghệ… dù họ chửa quen nhau, quen nhau đôi lần, gặp nhau đôi bận, họ cũng sẳn sàng chia xẻ tâm tình, mọi hoàn cảnh được phơi bày để hỏi ý kiến, thật hoàn toàn khác với những khuôn mặt “chằm vằm” của người Saigon ở Việt Nam.
Xin lỗi bạn đọc thật nhiều vì tôi cứ nhắc hoài những hình bóng ngày xưa.

Quả thật quãng đường 40 năm của người Việt Nam với những kỷ niệm đã cũ, rất cũ, đã là của hôm qua. Và 40 năm lưu vong tị nạn nơi xứ người, cũng tưởng chừng như mới hôm qua.
Thời gian như bóng câu qua cửa sổ. Rồi tất cả sẽ qua, sẽ qua, sẽ là của quá khứ rộn ràng trong lòng mỗi người dân Việt.

Dù thế giới hiện giờ chưa được bình an dù chưa hoàn toàn hạnh phúc, nhưng có lẽ nào ta lại hờ hững với mùa xuân đang từng bước đến gần?
Ở miền Đông lạnh giá mù sương này, tôi chỉ ao ước có một ngày nào đó được hưởng sự nồng ấm tình người, tình đất ở Cali, để thấy mình trẻ lại trong ngày Tết truyền thống, với văn hóa Saigon qua tiếng pháo mừng Xuân.
Với đồng hương, bằng hữu, gia đình ở Little Saigon Nam Cali, tôi xin gởi đến quý vị những tình cảm tốt đẹp, lời chúc mừng trân trọng nhất trong ngày đầu năm Ất Mùi 2015 này.
Và, với Saigon lớn của tôi ngày xưa, tôi xin chào em, Saigon 40, và chỉ xin em, tha thiết xin em, chỉ một nụ cười.

Song Lam Anh Trinh Nguyen

daudua
Posts: 77
Joined: Sat Oct 10, 2009 6:05 am

Post by daudua »

Bia Đá Mọc Rất Lạ
Cô Tư Sài Gòn

Image
Di tích quốc gia Đền Trần bỗng xuất hiện những tấm bia lem nhem, 'nửa Tây nửa Ta'.



Bia là một tảng đá dựng lên thường mang những dòng chữ để ghi về một sự kiện nào. Như thế, bia mang theo cảm xúc của người dựng bia.

Bia thường gặp nhất là bia mộ, ghi tên tuổi một người đã quá cố. Có khi, bia để vinh danh người đã chết.

Nhưng bia cũng để hài tội, hạch tội người quá cố. Thí dụ, như câu chuyên của nước Tàu xa xưa, khi đời sau dựng bia Tần Cối để mắng viên quan hung hiểm bạo ác này.

Bia tuyệt vời nhất bao giờ cũng từ lòng yêu thương: như trụ đồng Mã Viện dựng lên, thế là dân Việt Nam dồn đá vào, biến trụ đồng trở thành núi đá sừng sững, đây là tấm lòng người dân dựng núi bia đá thuần túy vì lòng yêu nước.

Bia không nhất thiết là cụ thể như bia đá. Ông bà mình có câu:

"Trăm năm bia đá cũng mòn,
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ".

Như thế, bia trở thành mục tiêu để người đời sau bắn cung tên (hay bằng miệng như dùng ngôn ngữ).

Bởi vậy, ông bà mình thường khuyên là hãy nghĩ tới những cái chết trong sạch, để giữ danh thơm, chớ đừng biến thành tấm bia cho người đời sau bắn vào.

Nên ca dao có câu, mượn chuyện con cò để nói lên:

Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con”...

Có khi, dân nhậu buồn quá, trong xã hội naỳ, bèn làm thơ chế:

Trăm năm bia đá cũng mòn.
Bia chai cũng vỡ chỉ còn bia ôm...

Trời ạ... sao lại lấy tấm thân phụ nữ mà vui. Phaỉ biết trân quý họ chớ. Phụ nữ đâu phải là đồ chơi lăn lóc giữa các bia chai...

Mới đây, lại có chuyện bia.

Thông tấn TTXVN có bản tin tựa đề “Tự tiện đặt bia ở đền triều Trần: Vi phạm Luật di sản văn hóa” trong đó, ghi nhận:

“Liên quan đến việc “dựng chui” bia đá tại di tích cấp quốc gia đặc biệt Khu di tích lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đã có văn bản số 35/BC-SVHTTDL báo cáo Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình về vụ việc; đồng thời, kiến nghị Ủy ban Nhân dân tỉnh chỉ đạo khắc phục những sai phạm, khiếm khuyết trong quá trình tu bổ, tôn tạo tại di tích này.

Theo báo cáo của Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch tỉnh Thái Bình, sau khi nhận được thông tin Ban quản lý di tích Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần huyện Hưng Hà dựng bia tại di tích cấp quốc gia đặc biệt; ngày 20/4 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đã tổ chức đoàn kiểm tra tại di tích. Tại thời điểm kiểm tra, Ban quản lý di tích huyện Hưng Hà đã hoàn tất việc dựng bia.

Cụ thể, tại đền thờ các vị vua triều Trần đã dựng bia có kích thước cao 2,75m, rộng 1,7m, chân bia cao 0,5m làm theo hình thức “rồng ổ.” Chất liệu bằng đá xanh; lòng bia (mặt trước) khắc nội dung văn bia “Trần triều đế miếu” bằng tiếng Việt và tiếng Anh.

Trước đền Thánh và đền Mẫu cũng dựng ở mỗi bên một bia đá có kích thước như bia dựng tại đền Vua nhưng hình thức chân bia ở đền Thánh khắc hình tượng “rùa đội bia,” chân bia ở đền Mẫu khắc họa hình tượng hoa Sen; nội dung văn bia “Đức Thánh Trần linh từ” và “Mẫu Trần triều linh từ”, thể hiện bằng tiếng Việt và tiếng Anh trên cùng một mặt.

Tại khu mộ các vị Vua Trần, phía trước 3 gò mộ đều được dựng thêm 1 bia đá xanh có kích thước cao 2,42m, rộng 1,47m, chân bia cao 0,35m khắc họa hình tượng rùa đội bia, nội dung 3 bia đá dựng mới này thể hiện bằng tiếng Anh. (Trước lễ hội Xuân năm 2014, Ban quản lý di tích huyện Hưng Hà đã cho dựng 2 tấm bia, một tấm bằng đồng và một tấm bằng đá).

Nội dung các văn bia được Sở văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đánh giá là thể hiện nhiều điểm sai lệch về nội dung, lời văn lủng củng, sử dụng văn cổ kết hợp với văn hiện đại, không đúng với ngữ pháp tiếng Việt, bản văn bia thể hiện bằng tiếng Anh lẫn lộn tiếng Việt không phù hợp với nguyên tắc dịch thuật; hình thức trang trí hoa văn trên các bia, nhất là phần chân bia không tuân thủ theo truyền thống mỹ thuật cổ Việt Nam. Một số bia đã được khắc chữ hoàn chỉnh nhưng lại bị tẩy xóa, sửa chữa nhem nhuốc làm mất mỹ quan nơi di tích tôn nghiêm…”(ngưng trích)

Thế mới lạ.

Có phải mấy anh Bắc Kinh căm thù đời nhà Trần ba lượt ra trận chống Bắc xâm nên bày trờ dựng bia đá quậy chăng?

Nghi ngờ này khả tín... vì chính bản tin cũng nêu ra:

“Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình: Di tích cấp quốc gia đặc biệt Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là công trình, địa điểm gắn liền với sự kiện đánh dấu bước chuyển biến đặc biệt quan trọng của lịch sử dân tộc, danh nhân tiêu biểu có ảnh hưởng to lớn đối với tiến trình lịch sử dân tộc....”

Nếu không có Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo, đất nước Việt Nam bây giờ có thê là một tỉnh nhỏ của Tàu rồi vậy.

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »


Bài phát biểu của Nhà Văn Trần Khải Thanh Thủy...

Ngày Hội Ngộ Văn Hóa Phụ Nữ Việt Nam Toàn Cầu toả sáng trong Tháng Tư Đen 40 năm tị nạn.

Image
Nữ tác giả Trần Khải Thanh Thủy phát biểu trước cử tọa đông đảo. Photo by Nguyễn Minh.

Văn học Việt Nam dưới ách cai trị của đảng Cộng Sản.

Kính thưa bà con, cô, bác, anh, chị, em có mặt trong hội trường hôm nay!
Thưa toàn thể các bạn đồng nghiệp yêu quý của tôi!

Trong 30 thứ tang mà đảng cộng sản dành cho dân tộc Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 (từ vượt biển, ép dân đi kinh tế mới, đổi tiền, đánh tư sản mại bản, xua người dân vào cái đũng chật hẹp của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “bao nhiều, cấp ít” v.v… ) thì văn học cũng bị bức tử không thương tiếc, trở thành niềm thương, nỗi nhớ, sự đau đớn, xót xa cho những người hiểu biết, có lương tri thời đại, đặc biệt là có lương tâm văn học.

Nếu coi xã hội Việt Nam là một máy vi tính khổng lồ, gồm hai phần chính là “ổ cứng” và “ổ mềm”, thì phần “ổ cứng” bao gồm sông hồ, rừng núi, biển đảo, tài sản, tài nguyên thiên nhiên v.v… còn “ổ mềm” chính là nền văn hóa của xã hội Việt Nam hiện tại.

Trong chiến tranh, bàn tay các đồng chí nhuốm máu đồng bào mình theo khẩu hiệu nằm lòng, sặc tanh mùi máu: “Cơm xào thịt giặc mới ngon. Canh chan máu thù thì lòng mới cam” nên trong thời bình, bàn tay các đồng chí tiếp tục tàn sát đồng bào mình qua các công cuộc, cướp bóc, bắt bớ, bán chác v.v… Bán từ kho vũ khí Long Bình đến thềm lục địa, cùng bao nhiêu tài sản thiên nhiên của đất nước. Từ đất hiếm (chứa nhiều kim loại quý) cho Nhật Bản, dầu thô cho Nga, rừng đầu nguồn, Bô xit Tây nguyên, vỉa than lớn nhỏ cho Tàu, bãi biển cho Hồng Kông, nhà máy, cơ xưởng cho Đài Loan, Hàn Quốc v.v… Chưa kể bao nhiêu người nằm vật vờ trên sóng nước, trên con đường vượt biển. Bao nhiêu sĩ quan Cộng Hòa chỉ còn là những nắm xương di động trên mặt đất hoặc xương khô trong mả. Nhiều gia đình bằn bặt tin cha, anh, chồng, khi tìm vào trại thăm nuôi, chỉ còn một cách duy nhất là thuê người đào trộm mộ đem nắm xương khô cô quạnh về lại quê nhà. Nghĩa là từ “cải tạo” thành cải táng, cải mả (Người chịu đựng được 3 tháng, người 1 năm, người 20 năm )... Hàng triệu người đã chết trong các trại tập trung trá hình, vì không chịu nổi sự bạo hành tàn tệ của bè lũ cán bộ, sự khắc nghiệt của thời tiết nơi rừng sâu nước độc. Chính vì thế, dưới sự cai trị nham hiểm bậc thầy của đảng cộng sản, tất cả những gì thuộc về “ổ cứng” đều bị trầy vi xước vẩy, móp méo, biến dạng, thể hiện rõ nét qua những điều chúng ta đã và đang nhìn thấy ở Việt Nam trong vòng 40 năm qua.

Bởi văn hóa là “phần mềm” trong cơ thể xã hội, nên cũng như “phần cứng” trong chiếc vi tính khổng lồ gồm 90 triệu người (tạm coi là 90 triệu linh kiện), văn hóa cũng bị bầm dập, bóp nát. Giữa thời hội nhập toàn cầu đầu năm 2015, Hà Nội từ một thành phố 4000 năm văn hiến trở thành thành phố vô văn hóa. Cụ thể văn hóa giao tiếp không, văn hóa giao thông không, văn hóa xã hội lại càng không, bởi trên môi người dân Hà Nội nào, từ thằng bé 5 tuổi đến các ông già, bà cả 60, 70 cũng tươi roi rói tiếng chửi, câu thề, nói lóng, nói trại. Giao thông hỗn độn chưa từng thấy, tất cả tràn ra đường, tranh cướp nhau từng cen-ti-mét đất, hễ người này sơ ý chạm vào xe người kia là có tiếng chửi: - “Đ.m. mày, thích rúc vào đít ông à?”. Còn nếu là phụ nữ thì tiếng chửi nanh nọc hơn: -“Thằng mặt...” Ngay sau đó là một đám chen lấn xô đẩy, người ta sẵn sàng quẳng xe xuống lề đường để xông vào cô gái kia, làm một việc vô cùng vô văn hóa là tụt bằng được quần cô ta để chứng minh những lời cô vừa nói xem mặt của người bị chửi, có giống “mặt dưới” của cô ta không?

Còn Sài Gòn, từ Hòn ngọc Viễn đông trong thời Việt Nam Cộng Hòa trở thành điểm đen, đất dữ trong thời cộng sản, không những với người dân trong quốc nội còn là nỗi ám ảnh kinh hoàng của Việt Kiều và du khách nước ngoài với tỷ lệ tội phạm tăng vọt chưa từng thấy. Những hình ảnh mà 40 năm trước người dân Sài Gòn chưa từng phải chứng kiến thì hiện tại nhan nhản trên đường phố. Nhiều cặp vợ chồng du khách, mặt nhợt nhạt, miệng méo xệch, ngực đeo tấm biển: -“Tôi là người nước ngoài, bị kẻ cắp lấy toàn bộ tài sản, vật dụng, tiền bạc, giấy tờ... Xin chỉ đường cho tôi tới đại sứ quán của nước tôi để xin cấp lại visa và ứng tạm ít tiền về nước”. Nhiều cháu bé buổi sáng còn chào ba mẹ đi học, mắt long lanh, miệng mỉm cười mà đêm về đã thành cái xác không hồn vì bị ăn cắp nội tạng từ tim, gan, thận v.v…

Vì thời gian có hạn xin nói về nền văn học Miền Bắc sau 70 năm cai trị của Đảng Cộng Sản VN, bởi ai cũng biết, văn học là một phần quan trọng trong “ổ mềm” văn hóa nước nhà.

Ngay từ 1945 sau khi cướp được chính quyền từ tay nhân dân, đảng cộng sản đã coi Văn Nghệ như một thứ công cụ chính trị để mị dân, trấn áp người tài để bóp nghẹt tự do ngôn luận. Chính vì vectơ chuyển động của đảng cộng sản về phía cái ác, cái xấu và cái dốt, nên bốn tiêu chuẩn đặc trưng của lãnh đạo cộng sản Việt Nam là: Nhất dốt, nhì tham, tam ngông, tứ độc. Tất cả các nhà văn nếu không chịu tuân theo các tiêu chuẩn này thì dù tác phẩm có hay đến mấy cũng bị bóp nghẹt từ trong trứng.

Nhà văn, nghệ sĩ, thay vì sinh ra để phụng sự chân, thiện, mỹ, để nói thật, tạo động lực cho xã hội phát triển, cũng là tạo ra cho xã hội loài người những di sản đẹp thì đảng bắt họ còng lưng, quỳ gối, uốn ba tấc lưỡi để nói những điều dối trá, triệt tiêu chân lý, đến mức người dân phải sửa thơ Phùng quán từ 60 năm trước để đau đớn thốt lên: “Đem bục công an đặt giữa trái tim người. Tình cảm ngược xuôi theo luật côn đồ đảng, bác”

Vụ án Nhân văn Giai phẩm năm 1957 thực sự là một cuộc cải cách chữ nghĩa long trời lở đất. Thay vì các bần cố nông lên đấu tố địa chủ trong cải cách ruộng đất rồi bắn chết họ, thì cuộc cải cách chữ nghĩa còn để lại di họa hàng trăm năm.

Nhà thơ Lê Đạt phải lao động cải tạo một ngày 2 khối đất, làm từ 6 giờ sáng đến hai giờ đêm, cả tháng trời không một giọt nước tắm, người hôi hám như súc vật, chưa kể còn bị cấm cầm bút 30 năm. Nhà văn Nguyễn Hữu Đang bị biệt giam 25 năm ở cổng trời Hà Giang, không hề biết tới cuộc kháng chiến toàn diện, toàn dân do đảng cộng sản phát động trong vòng 21 năm. Ra khỏi tù chỉ được lĩnh 8 kg gạo mỗi tháng, không nhà cửa, không thực phẩm, không lương, phải ở nhờ trong chái bếp lợp rạ của khu tập thể giáo viên, đặt một cái vại để xin nước vo gạo của cả khu, gạn lấy nước đặc dưới đáy để quấy với nắm gạo thành cháo loãng thay cơm, phải bắt cóc, ngóe, rắn thay thực phẩm. Khi nào chết cố bò ra vũng đất nông cạnh bụi tre thay mộ.

Khi bóng ma cộng sản gõ vào ngôi nhà nào thì điêu linh mở ra ở đó, đặc biệt gõ vào cánh cửa của ngôi đền văn học thì điêu linh biết bao nhiêu mà kể xiết. Sau 1975, hết chiến tranh, văn học vẫn không được quyền sống cho riêng mình mà vẫn phải gồng mình lên làm nhiệm vụ theo cây gậy chỉ huy của Đảng: “Bắt câm mồm phải câm mồm, nếu kêu ca sẽ lìa hồn, văng thây”. Một cây bút nghiệp dư tại hội văn học nghệ thuật tỉnh Hòa Bình, một hôm làm bài thơ tả cảnh nhà sàn của đồng bào dân tộc, tất cả đều chỉn chu, mạch lạc, rõ ràng, chỉ câu kết của bài thơ: “Có hay đâu giá lạnh dưới chân sàn” lập tức bị coi là ám chỉ, động chạm đến ngôi nhà sàn của lãnh tụ tôn quý, thiêng liêng. Xúc phạm tới tình cảm cao đẹp của bác Hồ kính yêu với đồng bào dân tộc. Lập tức bị đuổi việc, đuổi khỏi hội nhà văn Hòa Bình, cắt hộ khẩu lên vùng kinh tế mới và chết mất xác nới rừng thiêng nước độc, vì thung thổ khí hậu qúa khắc nghiệt, chưa kể mảnh bom, mảnh đạn, không hộ khẩu, điện đường , trường học, trạm y tế, nước sạch v.v…

Với số đông nhà văn ngoan ngoãn dễ bảo còn lại, đảng dùng giải thưởng còm cõi nhuốm màu chính trị, bè phái để mua lương tâm họ, bắt họ phải quên đi chính nghĩa rạng ngời của ông bà tiên tổ truyền lại từ bao đời.

Máu đổ một giây di họa đủ một đời, máu đổ suốt 21 năm trời ròng rã ( từ 1954-1975) thì di họa biết bao nhiêu mà kể xiết? Vậy mà đảng cứ thích “quang vinh, muôn năm” bắt nhà văn phải cầm bút ca ngợi thành tích ảo, chiến công ma, sự chỉ đạo mù quáng của đảng, chứ không được phép nói đến di họa của chiến tranh, như trường hợp của tác giả. Ngày 27-7- ngày thương binh liệt sĩ, còn gọi là “ngày bới xác, mò xương, đếm khăn tang và đong máu chiến hào” tôi viết một chùm ba bài: “Nước mắt chưa khô trên má mẹ hiền”. “Bão thổi không ngừng trong những vành tang trắng” và “Đêm đêm nhang cháy đỏ bàn thờ”. Lập tức bị “phơi mặt” trên truyền hình vì tội xúc phạm đến những tình cảm cao đẹp của nhà nước dành cho các bà mẹ Việt Nam anh hùng, đồng thời bị treo bút 6 tháng, đi khỏi báo cựu chiến binh, tịch thu thẻ nhà báo, cho dù sau đó ký hợp đồng với báo khác vẫn không được cấp thẻ.

Nếu viết về nỗi niềm củi lửa, cháo rau trong thời bình, cấm nhắc đến sự thiếu thốn của thời hậu chiến. Dù cả xã hội “run trong từng cọng rau”, lương cán bộ chỉ đủ sống mười ngày. Cô giáo sáng vào trường bán cháo phổi, tối vào nhà hàng rẻ tiền bán thân, kiếm sống bằng sự sa đọa, suy đồi của lũ khách ăn đêm. Thầy giáo một buổi dạy, hai buổi đạp xích lô kiếm cơm v.v… Chuyện vỉa hè phải để lại vỉa hè, cấm được ngứa bút đưa lên mặt báo mà mang tội “bôi bác xã hội”, “không tin tưởng vào sự lãnh đạo tuyệt đối sáng suốt, uy tín của đảng”.

Nhà văn đứng về phía nước mắt, vạt áo của nhà văn đong đầy nỗi khổ của dân nước trong thời hậu chiến. Từ chỗ “ra ngõ gặp anh hùng” thành “ra ngõ gặp ăn mày” vì “người người ra trận, nhà nhà ra trận”. “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Một tỉnh nhỏ như Thanh Hóa, Thái Bình vẻn vẹn 1,5 triệu dân mà có 4 vạn 6 bộ đội và thanh niên xung phong. Từ “kho cung cấp người trong chiến tranh” thành nghĩa trang liệt sĩ khổng lồ trong thời bình. Nếu may mắn không bị “Tổ Quốc cắt cơm, gia đình vắng vẻ”, thì cũng trở thành “Tổ quốc quên công gia đình đói khổ”... Thế mà phải im miệng, bẻ cong ngòi bút, coi nỗi khổ của dân, của mình là vùng cấm của đảng không được động đến vì “nhạy cảm”. Từ nhạy cảm đến vô cảm chỉ cách một bước chân, từ vô cảm đến tội ác, khoảng cách còn ngắn hơn nữa, nên chúng ta hiểu vì sao sau 40 năm cầm quyền trên phạm vi cả nước, Nhờ “sự hy sinh to béo” của đảng, nước ta lại có nhiều tội phạm đến thế? Ở Na Uy trung bình 100 nghìn người dân mới có 6 tội phạm, ở Hà Lan, nhiều nhà tù bỏ trống, còn ở Việt Nam đã xây tới 900 nhà tù lớn nhỏ (theo quy định 31 CP của chính phủ do thủ tướng Võ Văn Kiệt ký): “Mỗi quận, huyện được phép xây mới một nhà tù”. Vậy mà hiện tại vẫn thiếu chỗ ở cho 26 nghìn tội phạm hình sự. Xã hội suy đồi, tha hóa, khiến nhà văn Ma Văn Kháng - một cây “đại bút” của nền văn học xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đau đớn thốt lên trong tác phẩm “Mùa lá rụng trong vườn” từ 1989: “Xã hội loạn lạc đến mức mỗi gia đình phải có trách nhiệm đóng góp cho xã hội từ một đến hai đứa con...hư hỏng”. Nhà nào càng đông nhân khẩu, mức đóng góp càng lớn, thậm chí có nhà 7,8 người bị bắt cả chùm luôn vì người buôn ma túy, người hút hít, người lừa đảo, trộm cắp, cờ gian bạc lận hay đâm chém, giết người v.v…

Một xã hội không có sự phản biện là một xã hội chết, xã hội Việt Nam trong suốt 70 năm trị vì của đảng cộng sản thực sự đã chết lâm sang, vì làm người mà không được cất lên tiếng nói trung thực của mình, không được làm những việc mình muốn, ngược lại phải “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương con đầu đàn vĩ đại”. Nhà văn cũng vậy, đẻ ra tác phẩm không theo đúng cách thức của Ban Tư Tưởng Văn Hóa Trung Ương thì lập tức tác phẩm ấy sẽ bị đập chết bằng cách cấm đoán, thu giấy phép, cấm xuất bản, cấm đăng ký bản quyền v.v… Nếu trước đó đã trót “thai nghén”, không muốn đứa con tinh thần của mình rơi vào “lề trái”, “vùng nhạy cảm” hoặc “phản động” phải lập tức... nạo thai ngay lập tức

Lẽ ra theo đúng quy luật của sự sáng tạo: Tác phẩm rời nhà văn như con thuyền rời bến, tìm về bờ bến xanh trong và neo đậu vào bến bờ tâm cảm của người đọc, thì tác phẩm lại rơi vào vũng ao tù, nước đọng là các nhà xuất bản, cục xuất bản, Ban văn hóa tư tưởng Trung Ương, phòng PC25 (chuyên phụ trách về văn hóa phản động) hoặc PC 35 (cục phản gián) của bộ công an, bị các lưỡi dao kiểm duyệt của các biên tập viên, giám đốc, trưởng ban, trưởng phòng thẳng thừng cắt xén, trở thành nhợt nhạt, vô hồn không sức sống.

Bình thường ở các nước dân chủ tự do, nhà văn bình đẳng với Chúa trong việc sáng lập ngôn ngữ, thì ở Việt Nam, nhà văn buộc phải trở thành những “con chiên ngoan đạo” của cả bầy đàn lãnh đạo vô học dốt nát. Vì thế thay vì sinh ra để bảo vệ và phát triển văn hóa cũng như văn học theo quy định của luật pháp, thì nhà văn bị bịt miệng vì luật rừng, luật chết quái gở độc địa, khai tử bao nhiêu đứa con trung thực, khỏe mạnh, theo sự chỉ đạo áp đặt của đảng.

Cả một nền văn học bị bức tử trở thành xanh xao, còi cọc, suy dinh dưỡng hoặc chết yểu trong bóng tối ngột ngạt, ám khí, ác độc của Đảng Cộng Sản. Ngược lại, chỉ những tác phẩm nhảm nhí , thiếu chất lượng , làm tổn hại đến thẩm mỹ của công chúng, cũng như làm tầm thường nền văn học nước nhà lại được phát triển ào ào như nấm độc sau mưa.

Một nền văn học chỉ toàn những kẻ vinh thân phì gia, vờ vịt, dối trá, tự nguyện tiếp tay ca tụng cái ác, cái xấu cái dốt, rồi ăn không nói có, bợ đỡ, xu nịnh thì đó là văn học gì? Nếu không phải là sự khốn nạn, nhục nhã. Không ít tác giả nữ phải dùng “vốn tự có” của mình để làm ván bắc cầu nhảy xa, cùng quan lớn thừa hưởng sự giàu sang phú quý trên máu và nước mắt dân tộc. Hầu hết các tác giả nam phải quên nghèo khổ, bất công, tham nhũng, nước mắt người già, trẻ thơ hay nỗi đau quặn thắt của cha mẹ khi không có tiền cho con đến trường, phải đẩy con ra lề đường kiếm sống. Quên luôn cả các vết thương lịch sử đau đớn làm bao triệu người phải chết như “Cưỡng chiếm Miền Nam, đánh bắt các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, bài xích, chèn ép vợ con họ, đẩy cả vạn triệu người lên khu kinh tế mới để chiếm nhà cửa ruộng vườn cho các quan lớn. Quên cả cuộc vượt biển kinh hoàng, làm chấn động toàn thế giới trong gần 3 thập kỷ từ giữa 70 đến 80, 90...”

Bao nhiêu nhà văn sa đà vào việc mô tả tính dục rồi dùng phong bì lót tay để sách được nhà xuất bản, hội nhà văn tổ chức những đợt tuyên truyền quy mô, rầm rộ để nhận về những giải thưởng độc hại còm cõi như “Giải thường Hồ Chí Minh”; “Giải văn học về đề tài công an nhân dân” , Giải “Quốc phòng toàn dân” v.v…

Nói tóm lại, có cả một chủ trương ngầm để dung tục hóa văn chương theo đúng vectơ chuyển động của đảng cộng sản, bốc thơm ca ngợi cái ác, cái dốt, cái xấu, khiến những nhà văn có tài, có lương tâm văn học mất chỗ đứng trong lòng độc giả, và văn học cũng tự đánh mất thiên chức của mình là đánh thức lương tri và khai sáng cho độc giả. Tiếc rằng những hành xử tinh vi và tàn độc này đã kéo dài 70 năm (với Miền Bắc) và 40 năm (với Miền Nam), biến hàng vạn nhà văn, nhà báo thành những kẻ “ăn theo, nói leo” hệt những con rối bị giật giây. Bao nhiêu tác phẩm đích thực được các tác giả hoài thai trong đau đớn vật vã của tâm hồn, tình cảm trí não mình, bị cắt, xẻo xử trảm từ trong trứng nước. Những cuộc “nạo thai”, khai tử diễn ra hàng ngày, hàng giờ nơi đất nước mặt trời lặn, trong góc tăm tối cuối cùng của Thế Giới, khiến hơn 93 triệu người dân thành một biển người dối trá. Dù nói ngược, nói xuôi, nói xưa nói nay, hay ám chỉ, vòng vo, cuối cùng cũng phải quay về giọng Đảng... Đó chính là bóng đêm nô lệ của một nền văn học nhồi sọ, phục vụ cho các nghị quyết, chính sách dốt nát, sai trái của Đảng. Cái xấu, cái ác, cái dốt được lên ngôi, cái đạo lý trung thực, công bằng bị bóp chết. Thật không còn gì để nói ngoài việc “thành kính phân ưu” với nền văn học nước nhà dưới sự cai trị kéo dài của Đảng Cộng Sản. .

Cuối cùng xin dành lại thời gian cho người kế tiếp.

Cám ơn ban tổ chức đã tạo điều kiện cho tôi được phát biểu chính kiến, quan điểm của mình, cũng như cám ơn toàn thể bà con, anh chị em đã chú ý lắng nghe.

Santa Ana April 18-2015.

Trần Khải Thanh Thủy

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Đàn Cá trong Ao Bác Hồ và Những Con Chó của Pavlov
Lê Diễn Đức
Kể về bản thân là chuyện nên kỵ. Nói về cái dở thì không sao, nhưng nói cái hay, dễ bị coi là khoe mẽ. Vì thế, tôi thỉnh cầu trước một sự châm chước.

Tôi có ý định lấy chính mình làm điểm xuất phát để bàn về một chuyện khác. Về những cay đắng của một con người. Như một ví dụ. Chẳng phải để dạy dỗ ai (làm gì dám cho mình ghê thế!). Cũng chẳng khoác cái áo “dân chủ, nhân quyền” gì ráo trọi. Càng không nhân danh trí thức. Đơn giản chỉ là những nghĩ suy.

Một kinh nghiệm.

Khi mới ở tuổi lên mười, tôi đã đạt danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”. Năm 1967 tôi được Hồ Chí Minh trao phần thưởng cho kết quả học tập xuất sắc với tất cả 14 môn học đạt điểm cao nhất. Đó là một cuốn sổ tay kích thước khoảng 20 x 15cm, giấy trắng tinh, bìa cứng láng bóng, màu xanh dương, có in hình Hồ Chí Minh chụp thẳng và dòng chữ phía dưới “Giải thưởng của Hồ Chủ Tịch”. Với tôi, gia đình, trường học và chính quyền địa phương, giải thưởng này là một vinh dự, vì không phải tỉnh, thành phố nào cũng có thưởng, và nếu có thì chỉ có một hoặc hai người. Buổi trao giải thưởng được tổ chức hào hứng trên sân kho của hợp tác xã, dưới ánh trăng (vì lúc bấy giờ máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc dữ dội, học sinh đi sơ tán ở thôn quê, ban đêm không dám nổi lửa, thắp đèn).

Bà con làng xóm tụ hội rất đông. Ba tôi cảm động đến phát khóc. Tôi nâng niu cuốn sổ tay đến mức không dám xài, lâu lâu lấy ra ngắm nghía ! Tuy nhiên cũng chưa tức cười thảm hại bằng thằng bạn.

Năm 1968, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thăm trường, tặng cho mỗi đứa được cử đi gặp một cục kẹo Hải Châu (thứ cao cấp, hiếm hoi, xa xỉ với lũ học sinh nghèo trong những ngày chiến tranh). Thằng bạn thèm rỏ dãi nhưng trân trọng quá, không dám ăn, để dành làm kỷ niệm. Trời nóng, chỉ vài hôm, cục kẹo chảy nhão nhoẹt dính bê bết với giấy bọc, phải vứt đi. Hắn đi Đông Đức, về nước giảng dạy ở Bách khoa Hà Nội, cho đến giờ. Tôi tin chắc hắn không quên chuyện này!

Tôi sang Ba Lan năm 1969. Cả đoàn du học sinh chúng tôi phải vào nằm viện để bác sĩ khám, tẩy giun sán trước khi được sống chung với người ta tại Trung tâm học tiếng Ba Lan dành cho người nước ngoài. Trong bệnh viện, được báo tin Hồ Chí Minh từ trần, chúng tôi khóc thảm thiết ! Mấy cô y tá Ba Lan ngơ ngác, lúng túng chẳng biết chuyện gì xảy ra !

Chúng tôi đã yêu Đảng, yêu Bác Hồ đến thế ! Đã một thời ngây thơ, ngây ngô như thế !

Đến năm 1994, Kim Nhật Thành chết, xem TV thấy dân Bắc Triều Tiên đứng đông nghẹt hai bên đường ôm nhau gào khóc. Lúc này thì tôi đã bật cười ! Cười cả chính mình ! Tôi cũng đã y chang vậy ngày nào, bị ngu hoá, bị lừa gạt mà không biết.

Phải công nhận các chế độ cộng sản đạt mức siêu đẳng về chuyện nuôi trồng con người theo ý đồ của mình.

Thế hệ tôi và cả xã hội miền Bắc, mỗi một con người được nhào nặn, rèn luyện, nhồi nhét tư tưởng vào trí não, để không còn là mình nữa, chỉ biết suy nghĩ và hành động theo những lời dạy dỗ của Đảng và Bác, đi theo con đường mà Bác và Đảng vạch ra, như con rối, như cái máy. Cái bóng Đảng, Bác…bao trùm lên đời sống.

Phản ứng của chúng tôi chẳng khác gì những con cá trong ao của ông Hồ ở Phủ Chủ Tịch. Không hơn, không kém.

Vào năm 1958, theo yêu cầu của ông Hồ, kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh đã thiết kế cho ông ngôi nhà sàn theo kiểu của người miền núi, cùng với vườn cây, ao cá.

Ngôi nhà sàn có hai tầng, tầng trên ông Hồ dùng làm phòng ngủ và phòng làm việc trong mùa đông, tầng dưới là nơi ông làm việc vào mùa hè, họp Bộ Chính trị. Ngôi nhà sàn xây dựng xong vào ngày 1/5/1958, bằng gỗ loại bình thường, chiếu theo căn dặn của ông – báo chí viết như thế.

Tuy nhiên, trong thực tế, mãi sau này tôi mới biết, gỗ được sử dụng để làm ngôi nhà sàn “giản dị” thuộc loại tốt. Ngoài ra, sự giản dị này cũng đáng bàn… Bởi vì, ngôi nhà tọa lạc giữa phong cảnh hữu tình, đầy cây cỏ, hoa lá xanh tươi, chim bay, cá lượn bốn mùa. Bác ngồi thư giãn, hút thuốc lá 555 hay xì-gà của Fidel Castro gửi tặng thì còn gì bằng ! Đấy là chưa nói đến chuyện có các nàng tới hầu hạ (như cô Nông Thị Xuân chẳng hạn)! Ngay giữa thủ đô chật hẹp, ồn ào, bụi bặm mà hưởng thụ một dinh cơ tao nhã, thanh bạch như vầy, thì khác gì cuộc sống của Tiên ông dưới trần, quả là chưa có tiền lệ.

Vào thời buổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lắm đại gia tư bản đỏ “chơi độc” theo gương ông Hồ, cũng xây những dinh thự to rầm theo kiểu nhà sàn bằng toàn gỗ quý, vườn tược được trồng nhiều loại cây kiểng mà một chậu trị giá hàng chục ngàn đôla. Cũng ngay trong lòng Hà Nội.

Hồi nhỏ tôi được nghe nhiều huyền thoại về ông Hồ. Với chúng tôi, tên Hồ Chí Minh đồng nghĩa với đấng siêu nhân, thánh thiện và lòng tôn kính. Ở Nghệ An, có bài đồng giao xem ông Hồ, Tướng Giáp sinh ra như là tất yếu của Trời Đất: “Đụn Sơn phân dái / Hòn Đái thất thanh / Nam Đàn sinh Thánh / Đông Thành sinh Tướng”

Mỗi lần nghe ai kể về đời sống của Bác, nói đến đàn cá trong ao của Bác, lũ trẻ chúng tôi xuýt xoa, phục lăn. Số là đàn cá đông đúc được ông Hồ luyện công phu. Sau một thời gian nhử mồi cám dỗ, ông đã thành công. Khi cho cá ăn, ông chỉ cầm cái que gõ gõ vào cái hộp đựng mồi hay thành bờ ao gì đó.. là cả đàn lúc nhúc bơi lại.

Khi lên cấp 2, bắt đầu học vật lý, tôi không còn phục cao kiến luyện cá của ông Hồ nữa, mà chỉ phục ông ở tính kiên nhẫn. Tôi cúc cục mãi mới tập gọi được đàn gà. Còn dạy cá đâu phải giỡn ! Té ra ông Hồ chỉ thực hành lý thuyết từ xửa xưa của nhà khoa học người Nga Ivan Pavlov, Giải thưởng Nobel Y học năm 1904.

Ivan Pavlov nổi danh từ việc thí nghiệm phản ứng tiêu hoá trên cơ thể chó. Qua nghiên cứu sinh lý học của nước bọt, ông khẳng định rằng, nước bọt không chỉ tiết ra lúc ăn, mà cả trong phản ứng trước bữa ăn. Thức ăn gây chảy nước bọt được gọi là “kích thích ban đầu”, còn tiếng chuông gõ hoặc ánh sáng của cái đèn xuất hiện trước bữa ăn, gọi là loại “thức ăn phụ trợ”. Kích thích chó liên tục một thời gian dài bằng “thức ăn phụ trợ”, cùng lúc với “kích thích ban đầu” để tạo thói quen, ông đã làm chó tiết nước bọt chỉ còn qua sự kích thích thứ cấp. Hiện tượng này được gọi là phản xạ có điều kiện của Pavlov, trái ngược với sự chảy nước bọt bẩm sinh, là phản xạ vô điều kiện.

Thì ra, những con cá của ông Hồ chỉ là một phiên bản nhỏ từ con chó của Pavlov.

Phiên bản lớn mới thật hãi hùng.

Người ta nói Việt Nam là một nhà tù lớn, hay cả quốc gia đang bị nhốt trong cái cũi.

Trong cái cũi này, giống như đàn cá trong ao, ông Hồ và Đảng Cộng sản Việt Nam đã áp dụng muôn vàn “thức ăn phụ trợ” để “trồng người” vì “hạnh phúc trăm năm” của… Đảng.

Bằng quản lý trong tay sổ hộ khẩu, sổ gạo, sổ dầu, phiếu thực phẩm, phiếu vải, học đại học; nay thêm sổ đỏ, chứng minh nhân dân, hộ chiếu, giấy chủ quyền xe, v.v… – ông Hồ và Đảng từ lúc cầm quyền đến nay đã biến đất nước thành một phòng thực nghiệm vĩ đại của “phản xạ có điều kiện”, biến dân tộc thành một bầy đàn ngoan ngoãn. Hàng chục triệu người Việt đã, đang và tiếp tục trở thành những con cá trong ao hay là những con chó của Pavlov.

Ngoài ra, còn một “thức ăn phụ trợ” khác công hiệu. Đó là bộ máy tuyên truyền khổng lồ, chằng chịt từ trung ương xuống thôn xã, bản làng, liên tục đập vào não trạng con người ngay từ thưở thiếu thời. Bất kỳ nguồn thông tin nào bất lợi cho sự độc quyền cai trị của Đảng đều bị ngăn chặn. Những mầm mống phản kháng ngay lập tức bị đè bẹp, đời sống của gia đình, người thân bị phong toả đến bần cùng…

Cho nên, lúc còn là học sinh, tay còn vương mực tím, khi ông Hồ chết, tôi và các bạn tôi cùng thời đã chảy dài nước mắt, cũng không có gì là lạ. Đúng ra, chúng tôi nên được chia sẻ, được thương hại, tội nghiệp.

Nhưng nhờ Trời, ngay trong năm thứ nhất học đại học, tôi đã nhanh chóng nhận ra lẽ thường phải có ở đời, sự bất công và bất nhân của chế độ cộng sản. Nó tước đi của con người đời sống riêng tư, cá tính và những quyền tự do tối thiểu nhất.

Chúng tôi bị Toà đại sứ Việt Nam tại Ba Lan cấm không được yêu đương, không được mặc quần jeans ra ngoài đường, không được khiêu vũ, không được đến thăm nhà người bản xứ, không được đi lao động kiếm thêm tiền trong dịp nghỉ Hè, v.v… Một ngàn lẻ một thứ cấm ! Hàng tuần họp chi đoàn, viết bản tự kiểm. Lơ mơ là bị trục xuất về nước !

Và tôi lơ mơ, xé rào nên bị trục xuất thật. Vừa đặt chân tới ga xe lửa Hàng Cỏ, Hà Nội, chưa kịp xuống tàu, hai công an đã xông lên chỗ ngồi và áp tải tôi vào trại giam, sau đó lãnh án tù hai năm về tội yêu và trốn ở lại nước ngoài. Ra tù, lận đận mãi tôi mới xoay được việc làm và quay lại Ba Lan năm 1989, đúng lúc chế độ cộng sản Ba Lan sụp đổ.

Làm nhân chứng của 20 năm xây dựng thể chế dân chủ ở Ba Lan với muôn vàn khó khăn nhưng thành quả phát triển giành được thấy rõ qua từng năm tháng, nhãn quan chính trị của tôi thay đổi hoàn toàn. Tôi được tỉnh ngộ qua liệu pháp điện áp của thực tế một xã hội từ chế độ cộng sản chuyển sang dân chủ tự do, cho mình cơ hội nhìn nhận, phân biệt Ác và Thiện. Quy trình tiến hoá bình thường của tôi được tái hiện, từ “con cá của Bác Hồ”, “con chó của Pavlov” lên làm người. Tôi lột xác cùng với những thăng trầm của tiến trình dân chủ hoá ở Ba Lan và Đông Âu.

Ba Lan tự do đã đưa sự thật lịch sử ra ánh sáng và công lý. Quá khứ đã chứng minh không thể chối cãi rằng, chế độ cộng sản tồn tại thực chất nhờ dối trá và bạo lực. Những người cộng sản không thèm nghe ai khi thấy phương hại đến độc quyền lãnh đạo của họ, cho dù những lời khuyên đó có mang lại lợi ích cho đất nước đến đâu. Chỉ khi bị áp lực tranh đấu mạnh mẽ của quần chúng, bị thất bại, bị dồn vào thế cùng, họ mới làm ra vẻ hướng thiện hoặc nhượng bộ.

Nhưng khi có sức mạnh và nhất là lúc thành công, họ tự mãn, cao ngạo, và độc ác gấp bội. Bản chất lưu manh, cướp giật của họ, theo thời gian càng ngày càng lộ liễu. Họ biến thù thành bạn, biến bạn thành thù tuỳ theo tình huống có lợi cho sự bảo đảm quyền lực. Họ là bậc thầy của sự tráo trở, lật lọng và bội bạc. Quan điểm phải hợp tác với cộng sản để cải tạo cộng sản, có cách nói cho cộng sản nghe, đã chứng tỏ tính chất xuẩn ngốc của nó qua hậu quả việc làm của rất nhiều người từ hàng chục năm nay. Chưa có vị “quân sư” nào làm cộng sản thay đổi được bản chất, ngược lại, họ thường bị phản phé, ngược đãi và chịu chung một bi kịch giống nhau. Rốt cuộc họ chỉ là những kẻ bị phấn khích hoặc có tâm thức bất bình thường, thích đi theo vết xe đổ.

Thiếu tự do và thông tin với bên ngoài, con người không thể nào có đủ kiến thức để nhìn nhận, so sánh các mô hình sinh hoạt xã hội khác, cho nên đại bộ phận người Việt trong chế độ cộng sản, nhất là nông dân, cứ tưởng rằng, cái ao, cái cũi mà trong đó mình đang được Đảng ban phát là “đỉnh cao chói lọi” rồi.

Mẹ kiếp! Nhốt người ta lại, bưng tai, bịt mắt, chỉ mở cho nhìn, cho nghe những gì mình muốn áp đặt, cùng với sự đe doạ mạng sống thường trực – rồi bảo “dân trí thấp”, “dân tộc chưa trưởng thành”. Nói thế có khác gì trói chân, buộc tay thằng bé, cho ăn uống nhỏ giọt, cách ly với sông nước, rồi phán nó chậm lớn, không có khả năng biết bơi. Đểu giả, mất dạy cỡ này là cùng!

Vậy mà, lạ lùng thay, có những người không sinh ra trong chế độ ấy, đầu đã hai thứ tóc, mà giờ đây bắt đầu muốn yêu Bác Hồ như thế hệ chúng tôi mấy chục năm trước đây !

Lạ lùng nữa, vì những người ấy đã tháo thân chạy khỏi chế độ cộng sản và được lớn lên, ăn học, trở thành kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ ở các quốc gia dân chủ, tự do.

Lạ lùng hơn, vì những người ấy, được gọi là trí thức, không thể không biết đến tội ác mà chủ nghĩa cộng sản toàn trị đã gây ra cho nhân loại nói chung và đối với dân tộc Việt Nam nói riêng trong suốt gần một thế kỷ.

Lạ lùng đến kinh ngạc, vì những bi kịch Cải cách Ruộng đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ Xét lại Chống Đảng, Thảm sát Tết Mậu Thân Huế 1968, Cải tạo Tư bản, Tư thương miền Nam sau 1975, Chiến dịch bán bãi thu vàng, các vụ án Minh Phụng-Epco, Năm Cam, PMU 18, PCI, vân vân và vân vân… – chẳng mang đến cho họ một chút ý thức gì về dã tâm khủng khiếp và ghê tởm của lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam.

Không biết bị ám bởi phản xạ có điều kiện nào qua “thức ăn phụ trợ” của thời “đổi mới”, “tăng trưởng”, “phát triển”, “vươn ra biển lớn”, mà giữa lòng Hà Nội xuất hiện một sự đảo ngược tiến trình tiến hoá của loài người.

Cả ngàn con người đang no cơm ấm cật, xiêm áo chỉnh tề, bỗng dưng biến thành đàn cá Bác Hồ, bầy chó của Pavlov, “hân hoan”, “hồn nhiên” hát bài “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”. Và rồi sau khi kết thúc thắng lợi ra về, cùng nhau đồng ca điệp khúc: “dân trí Việt Nam còn thấp”, “dân tộc ta chưa trưởng thành” nên chưa thể vươn tới tiến trình dân chủ hoá

Bệnh này coi bộ hết phương cứu chữa !

User avatar
macco
Posts: 3555
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Post by macco »

Đội lốt

FB Đặng Xương Hùng
30-04-2015
Tra từ điển trên mạng, đội lốt được định nghĩa là vỏ bên ngoài giả trá để lừa dối.

Tôi sẽ kể cho các bạn 6 câu chuyện về đội lốt.

Câu chuyện thứ nhất : Vào khoảng giữa tháng 4 năm 2013, khi tôi đi công tác tại Châu Âu, lúc đang đứng chờ tại sân bay Charles De Gaulle-Paris, đột nhiên tôi nghe thấy tiếng chào từ phía sau : Chào anh Hùng, anh đi công tác à. Tôi quay lại, thấy một thầy tu mặc áo cà sa nâu, vấn qua đầu một cái xà cột cũng mầu nâu. Lúc đó, bộ nhớ trong đầu tôi làm việc một cách khẩn trương để nhớ ra xem mình có quen biết ai, đã xuống tóc đi tu hay không ? Do cái óc phải làm việc liên tục nên câu chuyện qua lại tôi không thể nào nhớ nỗi nữa, chỉ còn nhớ là « thầy tu » đó cũng đang đi dự hội nghị về tôn giáo tại châu Âu. Khi ngồi trên máy bay tôi mới chợt tỉnh ra : thôi chết rồi, « anh ấy » ở bên an ninh mà mình đã từng quen hoặc là từ thời ở Bỉ, hoặc là thời làm ở trong nước giữa các Bộ với nhau.

Câu chuyện thứ hai : Vào đầu tháng 3 năm 2013, tôi đỗ cái xe ô tô của tôi ở cổng Bộ Ngoại giao, trước vườn hoa Kính Thiên, bị công an phường Quan Thánh cẩu đi mất, hề hề do đậu dưới lòng đường. Khi tôi ra, gặp một anh xe ôm đứng ở góc ngã năm đó : Xe của chú à, họ chờ mãi không thấy ai nhận, họ cẩu đi rồi. Anh vanh vách cho biết có thể xe của chú đã bị cẩu đến đây đến đây, thế là anh đưa tôi cái mũ bảo hiểm, nói ngồi lên cháu chở chú đi tìm. Điều làm tôi ngạc nhiên là anh rất tự tin trước các trạm công an kiểm tra giao thông trên đường, thậm chí anh còn đưa tôi phi lên vỉa hè trước mặt các anh công an để hỏi thông tin. Tôi nhớ anh còn dặn chú ngồi chờ đây, cháu vào hỏi đồn trưởng xem sao. Tôi đã lấy được xe ra ngay trong ngày hôm đó, phần là do anh xe ôm rất đặc biệt này. Sau tôi nhận thấy anh không bao giờ bị đuổi đi nơi khác, khi mà anh « hành nghề » ở một vị trí rất không cần xe ôm này.

Câu chuyện thứ ba : Nhìn hình nữ tu sĩ đi trong đoàn diễu hành 30/4, tôi lại nhớ đến chị ấy. Tôi nhớ mang máng chị ấy tên là Hoa. Chị sang Genève mỗi dịp có hội nghị về nhân quyền ở Liên Hiệp Quốc. Chị là người gốc dân tộc, nhưng chắc Kinh hóa đã từ lâu, vì chị tán phét cũng kinh khủng lắm, mỗi khi có dịp liên hoan tại Phái đoàn. Hình như chị làm ở Ban Dân tộc Trung ương. Mỗi khi ra Hội nghị thì chị lại trút bỏ quần tây, áo veste, mặc vào một bộ đồ dân tộc hoành tráng mà ai cũng phải trầm trồ khen. Chị đến Hội nghị với tư cách đoàn xã hội dân sự đại diện cho người dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Câu chuyện thứ tư : Ở những nước khác, ta thường hay nghe kể những câu chuyện về bọn lưu manh, côn đồ giả danh công an để lừa đảo, ức hiếp, trấn lột. Duy chỉ có ở Việt Nam, lại có chuyện ngược đời và hèn hạ, công an đội lốt côn đồ để khủng bố dân thường. Tôi nhường cho bạn đọc liệt kê các vụ việc, vì bản thân tôi không thể kể xiết được hết, tôi chỉ nêu trong câu chuyện thứ tư này, trường hợp đê hèn gần đây nhất mà công an đã « dành » cho cậu thanh niên Gió Lang Thang : « lúc 7h45 ngày 22/4/2015, tại đường Cổ Linh, Long Biên, khi đang trên đường đi mua sữa cho con.Trịnh Anh Tuấn, Facebook Gió Lang Thang bị tấn công bởi 3 tên côn đồ. Tuấn bị khâu 10 mũi ở đầu, ngón út và áp út, bàn tay trái bị dập xưong, khắp người bị sây xước. Được biết những tên côn đồ này thường xuyên rình rập trước cửa nhà của Tuấn hàng tháng trời, từ khi việc chính quyền Hà Nội có dự án chặt hạ cây xanh. Tuấn là 1 trong các admin của group Vì Một Hà Nội Xanh. Sự việc Tuấn bị đánh có thể là sự trả thù của chính quyền sau những cuộc tuần hành Vì Cây Xanh diễn ra vừa qua».

Câu chuyện thứ năm : Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, được thành lập năm 1966, tại đâu đó ở Miền Bắc Việt Nam. Tôi vẫn còn nhớ, đầu những năm 1980, tôi bắt đầu đi làm tại Vụ Châu Á 2, Bộ Ngoại giao, trong câu chuyện của các cô, chú lớn tuổi lúc đó, nhiều cô chú nói làm ở Bộ Ngoại giao Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, hình như gọi là CP72 gì đó, có một bộ phận nằm ở Chùa Bộc, Giảng Võ – Hà nội.
Nói đến Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam, đảng « ta » rất kiêu hãnh gọi đây là sự sáng suốt, tài tình trong cuộc đấu tranh trên ba mặt trận chống Mỹ, Ngụy xâm lược, để giải phóng miền nam.

Câu chuyện thứ sáu : Đó là câu chuyện Hồ Quang – Hồ Chí Minh đội lốt Nguyễn Ái Quốc, đánh lừa cả một dân tộc, trong gần một thế kỷ. Nó nên được ghi vào kỷ lục guinness về tội ác với nhân loại.

Đối với nhiều người Việt vẫn còn nghi nghi hoặc hoặc về câu chuyện đội lốt này, nhưng trong tôi có một niềm tin, đó là sự thật. Bởi vì, ngay từ bé tôi đã có một số thắc mắc về bí ẩn của ông Hồ. Năm 1969, ông Hồ mất, tôi mới có 8 tuổi, nhưng tôi đã thắc mắc với bố tôi là tại sao bác Hồ lại trích được ông Đỗ Phủ, đời nhà Đường trong di chúc. Ý tôi muốn thắc mắc với bố tôi là một người Việt Nam mà lại nhắc đến câu nói không phải của một vĩ nhân Việt Nam mà lại của một vĩ nhân Trung Quốc, mà lại không phải đương thời mà lại tít tận những đời nào rồi. Bố tôi trả lời bác Hồ của mình thông thái lắm con ạ. Tôi đã tin xái cổ và lúc đó ai ai cũng tin như vậy.

Lúc đó, nhà tôi có treo một bức ảnh ông Hồ ngồi trên bộ bàn ghế mây, tay ông cầm cây bút. Tôi thắc mắc với bố là bác Hồ cầm bút như là viết chữ Nho ấy. Trong đầu tôi, cầm bút kiểu ấy làm sao mà viết được. Bố tôi trả lời chụp ảnh ấy mà con. Rồi mọi người bỏ qua thắc mắc ấy, nhưng tôi thì chẳng bao giờ quên được.

Lúc đi học, khi học đến « bàn đá chông chênh dịch sử đảng », thì tôi còn nhớ cô giáo dậy văn trả lời rất qua loa chỗ này. Cho đến bây giờ thì tôi mới ngộ ra rằng cô giáo cũng chả biết mà giải thích ra làm sao. Mọi người tự đồng ý với mình như thế là để cho câu thơ nó vần, hoặc là sai chính tả lịch sử đảng chứ không phải là dịch sử đảng.

Đến đây, tôi xin kết thúc 6 câu chuyện về đội lốt.

Tôi chỉ xin kết luận là : 5 câu chuyện đột lốt đầu tiên thì đều là do chủ trương của đảng và đều giành được những « thắng lợi huy hoàng ». Câu chuyện đội lốt cuối cùng là tác phẩm cá nhân, nhưng đảng rất cần.

Xin hết chuyện.

Đặng Xương Hùng
Thụy sĩ, đêm 30/4/2015


Vài lời nói thêm cho bài Đội lốt của tôi

Ở câu chuyện thứ năm, nói về Mặt trận DTGP Miền Nam Việt Nam, có những chi tiết chưa chính xác mà một số bạn đọc đã chỉ ra. Tôi hoàn toàn đồng ý với các bạn đọc đó và xin nói thêm, tôi viết bài này trong vòng hai tiếng đồng hồ trong đêm 30/4/2015, với trí nhớ và ký ức, nhất lại là những ký ức đã từ rất lâu, không thể không tránh khỏi những chi tiết chưa chính xác.

Tôi thiết nghĩ rằng, khi viết về đội lốt thì dù Mặt trận DTGP Miền Nam có thành lập vào năm nào, ở đâu điều đó không quá quan trọng vì nó thành lập lúc nào ở đâu đều do là sự trình diễn của đảng. Tôi thích viết lại thế này: Mặt trận đã được thành lập vào năm mà đảng CS quyết tâm bằng mọi cách “giải phóng miền nam”. Họ phải dựng lên một lực lượng chính trị đối chọi với VNCH. Còn Mặt trận được thành lập ở đâu, tôi cho rằng nó được thành lập trên bàn giấy tại Văn phòng Trung ương đảng.

Ở câu chuyện thứ sáu, về ông Hồ Chí Minh, một số bạn đọc còn hoài nghi về sự thật ông có phải là người Trung quốc hay không? Tôi thiết nghĩ rằng, việc chứng minh ông Hồ là người Trung quốc là đỡ đòn phần nào cho ông ấy, chứ nếu ông là người Việt Nam chính cống, tội ông còn nặng hơn nhiều.

User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

Image

40 Năm Thăm Thẳm Đoạn Trường Của Boat People

-PhanNhậtNam-
Bức hình gây chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Đó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.
Trong thời gian hải quân Thái làm việc, bọn cướp vắng mặt nhưng ngay sau khi lính Thái vừa bỏ đi thì lập tức bốn chiếc tàu hải tặc tràn người lên đảo. Bọn cướp lại lục soát thêm nhiều lần nữa. Dĩ nhiên những nạn nhân VN khốn khổ chẳng còn gì để chúng cướp bóc nữa. Để bù trừ chúng luân phiên nhau hãm hiếp phụ nữ tại chỗ giữa ban ngày. Bọn hải tặc Thái chẳng cần tìm chỗ nào kín đáo để diễn trò thú vật... Năm bé gái: KH, 15 tuổi, BT 17 tuổi, AH 12 tuổi, NỴ 11 tuổi và MT 15 tuổi bị chúng cưỡng hiếp tập thể ngay trước mắt mọi người. Thảm kịch trên đảo Kra may thay được chấm dứt vào ngày 6 Tháng 1 năm 1980, khi nhóm người tuyệt vọng được phát hiện bởi trực thăng của Cao Ủy LHQ bay qua đảo. Vị cứu tinh là Ông Scheitzer, Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã đến đảo Kra trên một chiếc tàu cảnh sát Thái, đưa thuyền đón người tỵ nạn vào quận Pakphanang thuộc tỉnh Nakorn Sri Thamaraj. Ở đây 18 ngày làm thủ tục với cảnh sát Thái, thì nhóm người tỵ nạn được đưa về trại Songkhla ngày 23 tháng 1, 1980.
Ngày 10 tháng 4 năm 1980, nhân ngày giỗ thứ 100, ngày người vợ và các con cùng những đồng bào chết thảm trên Biển Đông để đi tìm Tự Do. Tại trại tỵ nạn Songkhla, Cha Tuyên Úy Joe Devlin đã dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho gia đình ông và những người bị chết oan khốc tại nhà thờ trại. Người Việt Nam khổ nạn điển hình Vũ Văn Thái dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin Chúa hãy xót thương cho những linh hồn đã chết đớn đau trong thảm họa hung của cả Dân Tộc Việt Nam. Xin Chúa hãy cứu vớt linh hồn vợ con, các con của con để đưa tất cả về nơi an nghỉ bình an hạnh phúc đời đời nơi nước Chúa. Xin Chúa hãy giúp con đầy đủ can đảm để đứng vững sau cơn gió bão khủng khiếp của đời người, để cho con còn đầy đủ minh mẫn, đủ sức khỏe để lo lắng cho đứa con trai duy nhất của con còn đang sống ở Đài Loan. Con đã chịu đau thương quá nhiều. Con cầu nguyện Ơn Chúa ban xuống cho tất cả thân nhân còn lại của con, các đồng bào của con, những người sẽ vượt biển ra đi đều tới bến bờ bình an”.

Thảm kịch của gia đình ông Vũ Văn Thái hoàn toàn là không đơn lẻ, cùng thời điểm của thập niên 80, trên biển Đông, vùng Vịnh Thái Lan đã là một địa ngục có thật đối với khối Người Việt khổ nạn vì họa cộng sản phải phá thân ra khỏi nước... Những thảm cảnh như sau tiếp diễn hiện khắp nơi với những nhân chứng, nạn nhân thuộc nhiều quốc gia, nhiều giới người, nhiều lứa tuổi...
Ông Ted Schweitzer là người Mỹ đầu tiên đã cập bến vào một đảo sào huyệt hải tặc và mục kích chuyện 238 thuyền nhân Việt Nam bị đắm ghe, dạt vào đấy. Có 80 người bị giết, tất cả các phụ nữ đều bị hãm hiếp và buộc khiêu vũ khỏa thân cho chúng xem. Ông Schweitzer can thiệp yêu cầu họ chấm dứt tấn tuồng vô nhân đạo này thì bị bọn cướp xúm lại đánh đập đến như gần chết. Thật may mắn mà ông còn sống sót để thuật lại. Khi tỉnh lại, ông thấy trước mắt những cánh tay, đùi chân còn rải rác đây đó. Đấy cũng là bằng chứng có vụ ăn thịt người.
Cô Nguyễn Phan Thúy cùng với mẹ, dì và người em gái đã bỏ tiền ra mua chổ trên tàu để vượt trốn. Sau mười ngày lênh đênh trên biển cả, tàu bị mắc cạn, hết nước, hết thức ăn. Hải tặc đến bắn chết người dì. Một ông già có răng vàng bị chúng lấy kìm vặn khỏi miệng. Một người đàn bà đang có bầu bị chúng ném xuống biển. Các người sống sót bị chúng lột hết quần áo, xua cả lên bờ, và tàu bị nhận chìm. Chúng bắt các phụ nữ xếp hàng. Cô Thúy cùng một cô gái khác tên Liên bị chúng lựa ra rồi đưa sang chiếc thuyền đánh cá của chúng. Suốt ba tuần lễ sau đó, hai cô liên tiếp bị hãm hiếp. Cô Liên chịu không nổi, bị chúng chán rồi vứt cô xuống biển; còn cô Thúy chúng đem bán cho một động mãi dâm trong làng mang tên là “Phòng đấm bóp nơi thiên đường”. Ở đây cô mang thai và bị bọn người man rợ người ta lấy một que tre trục bào thai ra. Cuối cùng cô thóat được và được cơ quan Cứu Trợ Liên Hiệp Quốc tiếp nhận.
Năm 1989, một chiếc ghe chở 84 thuyền nhân bị hải tặc đến cướp. Tất cả đàn bà và trẻ con bị chuyển qua thuyền hải tặc và từ đó không còn nghe một tin gì về số phận họ nữa. Những người đàn ông thì bị nhốt dưới khoang tàu rồi, từng người một, chúng lôi lên đập cho đến chết. Sau cùng, những người còn lại liều mình sấn vào bọn cướp thì tàu hải tặc nhào đến đâm vào tàu thuyền nhận xuống cho chìm đi. Một số người cố thóat liền bị chúng dùng cây sào nhận chìm xuống nước. Còn lại 13 người thóat chết nhờ bơi ra xa và được bóng đêm che phủ.
Vào tháng 4 năm 1989, có bảy tên hải tặc trang bị súng ống, đao búa đến tấn công một chiếc tàu nhỏ chở 129 thuyền nhân. Tất cả đàn bà đều bị hãm hiếp, đàn ông bị sát hại, trừ một thiếu niên tên là Phạm Ngọc Nam Hưng. Anh này sống sót nhờ bám được vào một chiếc bè kết thành bởi ba xác chết.
Cuối cùng chính phủ Thái bị Cơ quan Cứu Trợ Quốc Tế cưỡng bách tìm biện pháp đối phó. Các tàu đánh cá phải ghi tên bằng chữ lớn ngay mũi tàu. Các tàu đều phải được chụp hình lúc ra khơi và lúc về cảng. Biện pháp này đã khiến nhiều hải tặc lo sợ, nhưng những bọn còn lại bèn trở nên tàn nhẫn, hung dữ hơn trước! Chúng thủ tiêu hết mọi nhân chứng để không còn một ai nhận diện được chúng nữa. Vào cuối thập niên tám mươi các vụ hải tặc dần dần chấm dứt do con số người tỵ nạn giảm đi.

Đoạn Kết của Bi Kịch Thuyền Nhân Người Việt
Cuối cùng, làn sóng người tị nạn Việt Nam bằng đường biển đã viết lên thiên bi sử của thuyền nhân, và những câu chuyện hãi hùng của các cuộc vượt biển của người tị nạn Việt Nam đã đánh động được lương tâm thế giới. Vào tháng Ba 1979, chương trình Ra Đi Có Trật Tự (ODP) ra đời để cố gắng ngăn chặn những làn sóng vượt biển. Ngoài ra, cũng vào thời gian này, các chương trình cứu người vượt biển đã được một số tổ chức thiện nguyện quốc tế phát động hai chiếc tàu cứu vớt thuyền nhân ngoài biển là Anamur do một tổ chức từ thiện Đức Quốc vận động vào năm 1979 L’Ile de Lumiere của tổ chức từ thiện Pháp Medecins du Monde điều hành vào năm 1980 đã cứu mạng được nhiều thuyền nhân Việt Nam lênh đênh ngoài biển cả trong khoảng thời gian từ 1979 cho đến 1990.
Đoạn kết thúc nhân đạo được khởi từ những sự kiện sau đây: Tin tức thời sự loan báo ba thuyền tỵ nạn với 443 người mới đến Hồng Kông bị cảnh sát Macao kéo ra biển khơi gặp trận bão Hope chết không còn người nào. Nhưng người Việt vẫn tiếp tục ra đi. Riêng tháng 5 và 6, năm 1979 đã có 110 ngàn người vượt biển. Bão tố, hải tặc và các tàu viễn dương không cứu vớt đã làm cho số người đến các trại vào tháng 7 chỉ còn 22 ngàn người. Không những các tàu buôn dân sự làm ngơ mà ngay cả tàu chiến của Mỹ trên Thái Bình Dương cũng không cứu thuyền nhân. Xót đau vì cùng máu đỏ, da vàng, người Việt ở Mỹ và khắp nơi kéo về Hoa Thịnh Ðốn thắp nến cầu nguyện trước Bạch Cung.

Nước mưa hòa trong nước mắt nhỏ giọt xuống những ngọn nến lung linh. Những linh mục và những thượng tọa đi lại đọc kinh suốt đêm. Từ cửa sổ trên lầu của Bạch Cung, Tổng Thống Jimmy Carter đã nhìn thấy tất cả thảm kịch biển Ðông. Lòng người từ nhân thúc dục - Lệnh từ Phủ Tổng Thống Hoa Kỳ được ban hành. Bộ An Sinh và Xã Hội sẽ nhận cấp khoản Tỵ Nạn Việt Nam vào Mỹ từ 7 ngàn nay tăng lên 14 ngàn một tháng. Bộ Quốc Phòng ra lệnh cho Ðệ Thất Hạm Đội dành riêng năm tuần dương hạm để cứu vớt thuyền tỵ nạn. Tất cả các chiến hạm đều phải cứu thuyền nhân hoặc tiếp tế rồi báo tin cho các con tàu trách nhiệm khác.
Bức hình gây chấn động báo giới Hoa Kỳ với tựa đề “Lên tàu” do một thủy thủ chụp được trên chiến hạm USS White Plan Tháng 7 năm 1979. Đấy là hình ảnh một người đàn ông Việt Nam được vớt đang leo lên thang dây bên mạn tàu với tất cả hành trang của gia đình trong túi vải cắn chặt trong miệng. Cuối năm 1979 tin tức về tàu Mỹ vớt người tỵ nạn bay về Việt Nam, cả Sài Gòn lên cơn sốt. Nhà nhà vượt biển, người người vượt biển. Ðó cũng là năm cuối cùng của thập niên 70 với người phụ nữ có bầu cũng ra đi, sanh trên tàu Mỹ, đặt tên con theo tên tàu có khai sanh công dân Hoa Kỳ do thuyền trưởng ký.
Tổng Thống Jimmy Carter, còn đi xa hơn một bước nữa. Nhân dịp hội họp với Thủ Tướng Do Thái Bergin, vị nguyên thủ Mỹ đã đưa ra vấn đề thuyền nhân Việt Nam. Thủ Tướng Bergin nồng nhiệt đáp ứng: “Nước Do Thái đã có những kinh nghiệm riêng về vụ việc này. Năm 1939, trước khi thế chiến đệ nhị bùng nổ, con tàu The St. Louis chở 900 dân Do Thái trốn khỏi Ðức Quốc đã bị xua đuổi trên khắp mọi hải cảng. Không một nước nào nhận. Ngày nay tuy chúng tôi là một nước nhỏ, mới lập quốc nhưng sẵn sàng chào đón thuyền nhân Việt Nam”. Tháng 10 năm 1979, một tàu Do Thái trên đường đi Nhật đã cứu được 60 thuyền nhân. Thuyền trưởng nói rằng các bạn phải cảm ơn Carter. Tính đến nay, dù là quốc gia sống giữa vùng Trung Ðông khói lửa sôi động, Do Thái cũng có cả ngàn thuyền nhân Việt Nam lập nghiệp.

Năm 1981, Tổng Thống Carter mãn nhiệm kỳ, đến năm 1988 có một thuyền trưởng chiến hạm USS Dubuque trên đường qua Trung Ðông đã gặp con tàu vượt biên ra đi từ Bến Tre với 110 người ngày 22 tháng 5-1988. Sau nhiều giông bão, gặp nhiều tàu đại dương nhưng không được cứu, đến ngày thứ 19 gặp tàu chiến Mỹ thì thuyền nhân hoàn toàn kiệt quệ. Hạm trưởng không hề biết lệnh của Tổng Thống Hoa Kỳ 8 năm về trước nên ông chỉ tiếp tế nước và thực phẩm nhưng không vớt. Con thuyền Bến Tre trôi dạt trên đại dương trước sau tổng cộng 37 ngày, chỉ còn sống 52 người sau khi đã ăn thịt những người khác.
Tàu đánh cá Phi cứu vớt con thuyền Bến Tre khốn khổ đưa về đảo Bolinao. Ông Hạm trưởng chiến hạm USS Dubuque phải ra tòa quân sự của hải quân vì không làm tròn bổn phận. Nạn nhân còn lại của thảm kịch Bolinao phải ra tòa làm nhân chứng. Tên hòn đảo hoang trên Thái bình Dương với 52 người còn sống. Sống bằng thân xác của gia quyến và đồng loại. Bolinao 52 chỉ là một trong hàng ngàn thảm kịch khác đã xảy ra mà chúng ta không bao giờ biết hết. Nếu như không có một người như Jimmy Carter vào những ngày cuối thập niên 70 niềm đau thương của biển Ðông còn chất ngất đến chừng nào.

Phan Nhật Nam

User avatar
nangchieu
Posts: 2094
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Ăng Lê & cái búa

Bùi Bảo Trúc

Nước ta vẫn tiếp tục gây căm thù bằng cách nối dài và bịa đặt những chuyện phét lác trong nỗ lực dựng lên
những thứ huyền thoại chống Mỹ cứu nước.

Loại thành tích tưởng tượng như thế không hiếm ở Việt Nam ngày nay, nhất là vào lúc mà thành tích chống Mỹ cứu nước
có vẻ đang mờ nhạt đi một cách đáng kể nhân kỷ niệm 40 năm thất thủ miền Nam.

Image
Một tờ báo trong nước lôi ra đăng bức hình chụp không biết từ bao giờ một cái búa bày trong viện bảo tàng với mấy hàng chữ nguyên văn: BÚA. ĐỒNG CHÍ NGUYỄN VĂN THẮNG , HUYỆN ĐỘI PHÓ HUYỆN MỎ CÀY (BẾN TRE) DÙNG BỔ CHẾT 10 TÊN ÁC ÔN TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC.

Ở dưới là 2 dòng tiếng Anh dịch hàng chú thích tiếng Việt ở trên như sau:

HAMMER. WITH THIS, CAMARADE NGUYEN VAN THANG, DEPUTY CHIEF OF MO CAY MILITARY DISTRIS, BEN TRE PROVINCE, KILLED TO DEATTS A TOTAL OF 10 LOCAL TYRANTS.

Chuyện đồng chí Nguyễn Văn Thắng có thực sự búa chết 10 tên “ác ôn” hay không thì không thể có cách nào kiểm chứng để biết thực hư. Nhưng cần gì chi tiết đúng hay sai cho mệt, cứ dựng đứng lên rồi nhắc đi nhắc lại một hồi là thành “sự thực” như chuyện Lê Văn Tám, một anh hùng tí hon, sản phẩm hoàn toàn bịa đặt của Trần Huy Liệu mà sử gia Phan Huy Lê được chính Trần Huy Liệu nhờ cải chính, hay chuyện 16 tấn vàng và Tổng Thống Thiệu, cũng do chính Việt Cộng Văn Tiến Dũng ngang nhiên viết trong cuốn Đại Thắng Mùa Xuân dựng lên để vu cáo ông Thiệu chẳng hạn.

Chi tiết đáng nói hơn ở đây là mức độ dốt nát của viện bảo tàng Quân Đội Việt Nam. Trong có hai hàng chữ tiếng Anh, người ta tìm được 3 lỗi chính tả, và 1 lỗi về cách dùng chữ.

CAMARADE là tiếng Pháp, không phải là tiếng Anh. Danh từ đồng chí trong tiếng Anh là COMRADE.

DISTRIS là sai chính tả. Phải viết là DISTRICT mới đúng.

DEATTS không có trong tiếng Anh. Phải viết là DEATH. Nhóm chữ KILLED TO DEATTS là sai hoàn toàn. Đã KILLED thì phải chết, nói KILLED TO DEATTS là không đúng. Vì thế, dẫu cho có sửa DEATTS thành DEATHS để viết KILLED TO DEATHS thì cũng vẫn sai. Viết BEATEN TO DEATH thì mới đúng. Có 10 người bị đánh chết thì vẫn là 10 PEOPLE WERE BEATEN TO DEATH, không bao giờ là DEATHS, cho dù có sửa lại chữ DEATHS cho đúng chính tả.

Thông thường thì nếu nó lú thì chú nó khôn. Nhưng ở cái viện bảo tàng Quân Đội Việt Nam ấy hình như không có một thằng chú nào hết, hay nếu có thì cũng dốt hệt như mấy đứa cháu lú đó thì phải. Chắc cũng đã phải có nhiều “lượt người” đến coi cái búa bầy trong lồng kính, đọc mấy dòng chữ ngu xuẩn đó rồi chứ. Nhưng không thấy ma nào nhận ra những cái lỗi tày đình đó để đóng cửa lại dậy nhau cho đỡ dốt.

Thế nên cái dốt vẫn chính ình nằm đó, trơ gan cùng tuế nguyệt, không ai biết từ bao nhiêu năm nay, cho đến khi cái búa và thành tích tưởng tượng của quân đội được đưa lên báo với những lỗi chính tả và cách dùng chữ tầm bậy như người đọc ai cũng thấy.

Khổ thân tiếng Anh thật. Chống Mỹ thì cứ chống, nhưng đừng vì chống Mỹ mà chống luôn cả tiếng của người Mỹ rồi coi văn phạm, chính tả của tiếng người ta như đồ bỏ được.

Chịu khó học để khỏi bị cười thối mũi ra chứ.

Ấy là chưa nói tới chuyện đồng chí Nguyễn Văn Thắng muốn trở thành người oanh liệt hơn ít nhất hai người khác trong lịch sử cho oai.

Người thứ nhất mà đồng chí Thắng muốn qua mặt là Trình Giảo Kim. Ông này đánh 3 búa đầu thì còn khá. Nhát thứ tư trở đi thì dở ẹc. Đồng chí Thắng búa 10 nhát, nhát nào cũng chết Ngụy “ác ôn” hết trơn. Thế là hơn đứt Lỗ Quốc Công đời Đường.

Người thứ hai mà đồng chí Thắng muốn qua mặt là Sáu Búa. Gọi là Sáu vì anh này đứng thứ sáu trong Bộ Chính Trị và là người chủ trương giết người bằng búa cho đỡ tốn đạn. Anh còn có một biệt danh khác là Sáu Tú Bà vì trong những năm nắm Trung Ương Cục Miền Nam, anh luôn luôn kiếm gái đem ra Bắc để dâng cho bọn trong Bộ Chính Trị, luôn cả Hồ Chí Minh và Lê Duẩn để bắt chẹt. Anh ta còn một biệt hiệu khác là Sáu Hèn vì thái độ quỵ lụy Trung Quốc trong vụ Thành Đô năm 1990.

Anh Sáu Búa này là Lê Đức Thọ. Đồng chí Thắng khoe là dùng búa tới 10 quả mà quả nào cũng giết được Ngụy ác ôn. Nhưng may cho đồng chí Thắng vì Sáu Búa đã chết từ năm 1990. Sáu Búa mà còn sống thì không bao giờ có thể có Mười Búa được.

Nói chi tới mấy câu tiếng Anh dốt nát như người ta đọc thấy trong bảo tàng Quân Đội. May ra nhờ thế mà khỏi lòi ra chuyện dốt nát của cả lũ nhà chúng nó.

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »

[img]http://www.haingoaiphiemdam.com/Images/ ... 039372.jpg[/img]

'Không than phiền!'

Tạp ghi Huy Phương
Cuộc đời chúng ta quả là có nhiều chuyện bất như ý, không ai cảm thấy thỏa mãn với cuộc sống hoàn toàn. Nhức đầu, cao máu, nhịp tim đập loạn xạ, chất chua làm loét bao tử cũng vì nhiều chuyện lo nghĩ, buồn bực.

Buổi sáng đến sở làm, đường bị kẹt xe, gặp giám đốc mặt mày khó chịu, đồng sự ganh tị, đi ăn trưa phải xếp hàng. Chiều về nhà, nghe vợ than phiền chuyện nhà, con cái không chịu học hành, lối xóm thường trực đậu xe trước nhà, mở máy điện toán thì Internet “rớt mạng,” như vậy làm sao có được một giấc ngủ ngon. Tâm không lạc thì chắc thân cũng khó an.

Có người đưa ra lý thuyết “Không than phiền” để tìm cái hay trong cái dở phải gặp, tìm cái tốt trong hoàn cảnh tồi tệ, luôn luôn lạc quan trong những tình huống xấu nhất.

Buổi sáng đang ngủ say thì bực mình vì bị trở dậy bởi chiếc đồng hồ báo thức, nhưng có hai điều, vui vì mình còn sống hôm nay để thấy ánh sáng mặt trời, hai là mình còn có một công việc phải trở dậy đi làm, trong khi những người khác đang thất nghiệp.

Đừng than bị đóng thuế nhiều, điều đó chứng tỏ thu nhập của anh cao.

Đừng than cuộc hôn nhân của con gái không vừa ý, khi nghĩ rằng bạn mình có con gái mất tích trên Biển Đông.

Đừng than trời quá nóng, quá lạnh, hàng xóm ồn ào vì bây giờ trong bệnh viện có người đang hôn mê, không còn cảm giác gì nữa.

Cả chuyện đừng than có cái chân nhức mỏi, vì ngoài đời nhiều người đã bị cưa chân.

Trong một quốc gia độc tài, chính phủ mong muốn dân chúng ngậm miệng, đừng than phiền về một điều gì không như ý cả, cũng như ban giám đốc một hãng xưởng không muốn công nhân than phiền về giờ giấc làm việc, lương bổng và điều kiện về môi trường.

Đừng than phiền vì xăng, điện lên giá, cũng đừng than phiền vì kẹt đường đi lại, hay phố xá ngập nước sau mỗi cơn mưa. Đã vậy cũng đừng than phiền vì công an côn đồ coi mạng dân như cỏ rác. Cũng đừng than phiền về tình trạng tham nhũng, bóc lột. Đừng than phiền vì đạo lý suy đồi. Đừng than phiền vì chế độ độc tài toàn trị.

Thời Việt Cộng đang đội nón Việt Minh, người dân trong những vùng “xôi đậu” biết điều thì thủ khẩu, tối cài cửa tắt đèn, giết bớt chó ăn thịt, và muốn toàn mạng, không bị bêu đầu giữa chợ, giết thả trôi sông thì giữ mồm giữ miệng, chớ có than phiền, nói xấu Việt Minh.

Ngày cướp được Nam, miền Bắc còn ăn độn, Đại Hội Đảng Lao Động kỳ IV đổi thành Cộng Sản, ước mơ của mỗi gia đình do đại hội đảng đề ra chỉ mong có nước chấm trong bữa ăn và mỗi nhà có một cái phích nước sôi, ngày nay “TV, Honda chạy đầy đường,” nhà nào cũng tủ lạnh, điều hòa không khí, xe hơi đời mới, điện thoại đắt tiền, tiện nghi sang trọng, thời trang không thua Âu Mỹ, còn than phiền nỗi gì. Mới ngày nào còn nhai bo bo vẹo quai hàm, suốt đời mang dép râu, đội nón cối phế thải, nay thịt cá ê hề, mỗi năm tiêu thụ 68 triệu lít rượu, 3 tỷ lít bia, đốt 4 tỷ bao thuốc lá, dân Việt Nam còn ta oán nỗi gì!

Trong thời gian có cuộc khủng hoảng giàn khoan HD 981, Thượng Viện Hoa Kỳ ra Nghị Quyết số 412 ngày 10 Tháng Bảy, 2014 cảnh cáo Trung Quốc và đòi quốc gia này phải rút giàn khoan ra khỏi Biển Đông nơi tranh chấp với Việt Nam. Ngày hôm sau, ông Michael Fuchs, phó phụ tá Ngoại Trưởng Hoa Kỳ phụ trách Chiến Lược và Quan Hệ Địa Phương Khu Vực Đông Á và Thái Bình Dương, bày tỏ quan ngại sâu sắc về tình hình ở Biển Đông. Trong lúc đó, quốc gia bị xâm phạm thì Bộ Chính Trị 16 người, đầu não của Đảng CSVN, với chủ trương “không than phiền” đã không ủng hộ ý kiến đòi Quốc Hội ra một nghị quyết lên án hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ Việt Nam của Trung Quốc.

Khi Bắc Kinh đã khởi công biến các bãi đá ngầm chiếm của Việt Nam ở Trường Sa Tháng Ba, 1988 thành các đảo nhân tạo, tư lệnh Mỹ ở Thái Bình Dương, Đô Đốc Samuel Locklear, đã cảnh báo hoạt động cải tạo đất của Trung Quốc trên Biển Đông cho phép nước này tăng cường ảnh hưởng tại khu vực có tranh chấp, nhưng Việt Nam thấy không cần phải lên tiếng phản kháng, than phiền, vì Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng Quang Thanh đã khẳng định rằng, “Xu thế ghét Trung Quốc là nguy hiểm cho dân tộc!”

Nước ngập thì chịu khó lội, cảnh sát đòi hối lộ thị chịu khó chi tiền, công an đánh chết người thì mang về chôn, nghèo đói, bị áp bức chẳng qua vì số phận, kêu ca, than phiền với ai. Bà Phó Đoan (Phó Chủ Tịch Nước Nguyễn thị Doan) đã nói, “Nước ta dân chủ vạn lần hơn tư bản” thì còn than vãn nỗi gì?

Đi ra đường bị ai nhổ vào mặt, đá vào đít thì cũng chẳng cần lau mặt, xoa đít, cũng cứ lẳng lặng mà đi. Miễn là giữ được của cải, địa vị, giữ được “bộ lông” của đảng.

Thì ra cái câu “Chỉ có súc vật mới quay lưng lại với nỗi đau đồng loại, mà chăm chút bộ lông của mình” lại là của cái ông Karl Marx nhà mình.

Phải biết đừng than phiền và bỏ tù hết cái đám hay than phiền nhà nước!

Văn hào William Shakespear đã nói, “I always feel happy, you know why? Because I don't expect anything from anyone.” (Anh biết vì sao tôi luôn luôn thoải mái không? Vì tôi chẳng bao giờ kỳ vọng một điều gì ở một ai cả!)

Tuổi trẻ Việt Nam cứ ăn nhậu, đua đòi chạy theo theo vật chất, đạp lên nhau để được ăn sushi không mất tiền, leo hàng rào sắt để được tắm miễn phí, không quan tâm đến chính trị, cũng chẳng bao giờ kỳ vọng gì nơi chính quyền Cộng Sản cầm quyền, không cần than phiền nữa, nhưng khi bất mãn lên cao độ, ly nước đã tràn, cỏ khô trên đồng bắt lửa, thì “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc!” (*)

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Những nét son đầy hứng khởi

Bùi Tín

Dịp kỷ niệm 40 năm 30/4 kết thúc chiến tranh năm nay mang lại nhiều niềm vui khác hẳn những năm trước. Nhiều bài bình luận trên các mạng có chất lượng, phơi bày sự thật, nói trắng ra sự thật, chỉ rõ nguyên nhân chính xác dẫn đến ngày 30/4/1975 là ý đồ xâm chiếm, thôn tính miền Nam bằng vũ lực của Đảng CS cầm quyền trên miền Bắc, ngang nhiên vi phạm Hiệp định Paris năm 1973, cố tình chà đạp các điều khoản «tôn trọng quyền tự quyết của mỗi miền được lựa chọn chế độ chính trị của mình», «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam VN», «cam kết không đe dọa dùng vũ lực và không dùng vũ lực», «không bên nào thôn tính lấn chiếm bên nào».

Ngày 30/4 năm nay đông đảo nhân dân Việt Nam nhìn rõ thêm rằng nền cai trị của Đảng CS đã mang lại tai họa cho đất nước và nhân dân, dẫn đến tình trạng lạc hậu thê thảm so với các nước láng giềng, là nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất công xã hội, tham nhũng tràn lan, giáo dục trì trệ, y tế bệ rạc, văn hóa suy đồi. Cả một tầng lớp trí thức dân tộc cùng một số đảng viên CS có công tâm lên tiếng công khai đòi đảng phải thay đổi cả hệ thống cai trị từ độc đảng toàn trị cổ hủ sang dân chủ đa nguyên, có bầu cử tự do, có tự do lập hội, tự do ngôn luân, tự do tôn giáo.

Điều rất đáng phấn khởi là gần đây nhân dân thủ đô đã xuống đường liên tiếp bảo vệ cây xanh, bảo vệ môi trường, buộc chính quyền Hà Nội phải ngưng việc tàn sát cây cổ thụ, hứa xử trí nghiêm ngưòi phạm tội. Chính quyền Hà Nội cũng công khai phủ nhận không cử người của ngành công an hay ngành tuyên huấn phá đám các cuộc biểu tình trước đây ở quanh Bờ Hồ Hoàn Kiếm, còn công nhận những công dân thủ đô từng xuống đường chống bành trướng là những người yêu nước. Đây là một điểm son thắng lợi đầu Xuân, có nhiều ý nghĩa của bà con thủ đô ngày càng tự tin khi xuống đường.

Trong khi đó cuộc đấu tranh của 70.000 lao động thuộc công ty Nam Triều Tiên Pou Yuen - Sài Gòn đòi chủ hãng và đặc biệt là đòi chính quyền trung ương phải thay đổi các điều sai lầm trong Luật về bảo hiểm xã hội bất lợi cho người lao động. Quốc hội đã phải lập tức ghi nhận yêu sách quan trọng này và hứa giải quyết. Thắng lợi bước đầu này là một nét son mới của phong trào lao động ở nước ta, một cuộc tập dượt lớn về bãi công quy mô rộng với bài học kinh nghiệm quý về thắng lợi rõ ràng.

Đi cùng với những thắng lợi trên, đông đảo bà con ở huyện Tuy Phong tỉnh Bình Thuận đã kéo nhau ra Quốc lộ A1, làm nghẽn đường, kẹt xe suốt 50 kilômét trong đêm 14 và ngày 15/4, vì không chịu nổi cảnh bụi than từ nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2 do phía Trung Quốc nhận thầu xây dựng thải ra làm ô nhiễm cả một vùng đất và vùng biển rộng lớn. Công an được huy động hòng dẹp cuộc đấu tranh quyết liệt này, bị đồng bào giáng trả bằng bom xăng tự chế, cuối cùng theo báo Lao động (ngày 20/4) Phó Thủ tưóng Hoàng Trung Hải phải vào tại chỗ xoa dịu, đôn đốc việc làm cống dẫn nước giảm bụi từ bãi xỉ than, còn công khai xin lỗi nhân dân Tuy Phong về tai họa này. Đây cũng là một nét son nữa của cuộc đấu tranh tự phát của nhân dân, mang lại tự tin cho đông đảo công dân bật dậy dũng cảm bảo vệ cuộc sống của mình, buộc chính quyền phải lùi bước.

Bài học quý giá từ các nét son thắng lợi trên đây là chiếu theo Hiến pháp hiện hành, người dân có quyền tụ họp, biểu tình, xuống đường tuần hành có trật tự, không có ai, kể cả chính quyền như cơ quan hành chính, tuyên huấn, công an có thể hạn chế, cấm cản.

Theo quy định của mọi thể chế dân chủ chân chính, hiến pháp là đạo luật cơ bản của đất nước, là đạo luật gốc, bất khả xâm phạm, không có một đạo luật nào, sắc lệnh, nghị định nào của bất cứ cơ quan chính quyền nào có thể hạn chế, ngăn cản hay xuyên tạc một cách tùy tiện. Nhiều nước đặt ra Viện Bảo hiến hoặc Hội đồng Bảo hiến, có nghĩa vụ bảo vệ triệt để hiến pháp, hủy bỏ những văn kiện, sắc lệnh, nghị định, thông tư, tài liệu nào vi phạm bất cứ điều khoản nào của hiến pháp.

Ủy ban Hành chính quận Hoàn Kiếm cấm nhân dân biểu tình quanh bờ Hồ Hoàn Kiếm là một quyết định vi hiến khi cuộc biểu tình diễn ra có trật tự và có mục đích chính đáng.

UBHC còn có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho những người biểu tình ôn hòa, chứ không có quyền ngăn cấm hay cho tay chân phá đám.

Thủ tướng cấm báo chí tư nhân hoạt động cũng là một quyết định vi hiến rõ ràng, cho nên là một sai lầm lớn, đi ngược lại điều khoản của Hiến pháp khẳng định quyền tư do ngôn luận và tư do lập hội của mọi công dân. Quyết định này mọi công dân có quyền bác bỏ, coi như vô giá trị. Do đó, Văn đoàn độc lập và Hội Nhà báo độc lập VN cũng như những tổ chức xã hội dân sự khác như Hội Phụ nữ Nhân quyền, Hội Bầu Bí tương thân, Khối 8406, Hiệp hội Dân oan.… tuy không được phép chính thức, vẫn là những tổ chức hợp hiến, chính đáng, đàng hoàng, được xã hội quý trọng. Cũng do đó mà hàng loạt cơ quan báo chí, thông tin, mạng lưới ngoài luồng chính thống, thường gọi là lề trái, «tự do», ngày càng được xã hội tín nhiệm, tìm đọc đông đảo, vượt qua đầu rất xa hàng trăm tờ báo và mấy chục đài phát thanh nhà nước, hàng trăm «dư luận viên» của đảng trâng tráo, đuối lý, mất dần tự tin vì bị công luận chê cười.

Một khi chính quyền mang tên «nhân dân», thực thi những chủ trương quá đáng, như dùng công an để bán bãi, bán tàu thuyền ọp ẹp cho hàng vạn người di tản thành «thuyền nhân» để thu hàng chục vạn lạng vàng chia nhau và nộp quỹ của đảng, hay dùng công an tra tấn người yêu nước chống bành trướng đến chết trong đồn công an, hoặc cướp đất của dân với đền bù rẻ mạt, nhân dân có quyền xuống đường để đấu tranh ôn hòa nhưng quyết liệt cho đến thắng lợi, hoặc nhân dân có thể chung lòng thực hiện «bất tuân dân sự» một cách hòa bình, tuần hành đông đảo với những biểu ngữ thích hợp, bãi công, bãi thị, bãi khóa, đều là chính đáng, vì lòng dân là ý Trời, quyền sống an lành trong nhân phẩm của toàn dân là thiêng liêng nhất.

Một nét son tươi rói đầy hứng khởi nữa là nhà báo Điếu Cày kiên cường từng bị kết án 12 năm tù giam ra tù trước thời hạn được Tổng thống Barack Obama tiếp đón thân mật trong Nhà Trắng cùng 2 nhà báo nữ của Ethiopia và nước Nga đúng vào dịp Ngày Tự do Báo chí Thế giới 3/5, trước khi tiếp ông Nguyễn Phú Trọng cũng vào tháng 5 này. Đây là sự kiện nhiều ý nghĩa, là dịp nắn gân xem ông Trọng sẽ xoay sở ra sao trên đất Hoa Kỳ, khi Tổng thống Obama tại cuộc gặp trên đây công khai tuyên bố rằng ông coi tự do báo chí là mối quan tâm ưu tiên trọng chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Quả là đầu năm 2015 mang lại nhiều niềm vui, niềm hứng khởi cho mọi người dấn thân cho sự nghiệp dân chủ hóa đất nước chống ách thống trị của chế độ độc đoán toàn trị cộng sản cuối mùa. Những nét son trong đấu tranh cổ vũ mọi người tự tin dấn tới với sức lực thu hút mới, những sáng kiến mới trong khi chính quyền độc đảng đang tiến lui đều khó.

Post Reply