Truyện Lính

Phim ảnh, âm nhạc đưa người ta vào thế giới ảo mộng quên đi bao nỗi muộn phiền của đời thường... Nơi đây chỉ ghi lại một phần nào đó của cái thế giới muôn mầu sắc và âm thanh đó mà thôi.

Moderator: Nguyễn_Sydney

Post Reply
User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Truyện Lính

Post by phu_de »

Nhẩy dù

Image

Nhẩy dù, tôi quen từ khuya. Những ngày nhỏ ở Hà Nội, lũ học sinh chúng tôi thường lang thang ra bờ đê chơi đá bóng. Trên bãi cát bên bờ sông Hồng có một khu tập luyện của lính nhẩy dù. Một căn chòi cất bằng gỗ cao lênh khênh có chiếc thang gỗ sần sùi để leo lên. Bên kia căn chòi giống như một căn nhà nho nhỏ trên miền thượng du được nâng cao là một chiếc cửa tò vò, bên ngoài cửa là một sợi giây cáp bằng thép được nối thoai thoải sang một chiếc cột thấp hơn ở phía xa. Trên sợi giây có những chiếc ròng rọc. Gần phía cuối sợi giây, giáp với chân cột là một chiếc hố nông được đổ đầy cát. Chúng tôi say mê coi những tân binh nhẩy dù leo lên thang, chui vào căn chòi rồi thả người nắm vào chiếc ròng rọc tụt xuống theo sợi giây cáp. Người nọ tiếp nối người kia trông như một dòng người bị treo trên giây. Khi tụt tới chỗ hố cát là phải buông người nhảy xuống cho đúng thế. Anh nào làm sai là bị ông Trung Sĩ thưởng cho một cú quất đích đáng bằng chiếc roi mây lúc nào cũng nhịp nhịp trên tay ông. Nhiều anh loạc choạc té lăn quay ra chẳng theo bài bản trông lúng túng tức cười. Nhưng vui hơn là lúc coi các tân binh nhẩy từ trên phi cơ xuống. Chiếc máy bay, đúng hơn chỉ là thân chiếc máy bay được kê trên bệ cao, sẵn sàng nuốt vào cả chục người. Dưới máy bay cũng là một hố cát. Mọi người tiến ra cửa máy bay nhẩy xuống. Có những anh nhát gan cứ đứng ỳ ra ở cửa không dám nhẩy. Chiếc roi trên tay ông Trung Sĩ lại có việc làm. Tuổi trẻ ngây ngô và ác độc của chúng tôi chẳng bao giờ bỏ qua mà không cười lăn lộn với nhau khi nhìn thấy những anh chàng nhát gan nhịp nhịp nơi khung cửa máy bay mà chân không dám nhẩy ra khỏi cửa. Những tiếng cười...bất nhân của chúng tôi vang vang từ ngày nọ tới ngày kia mà không chán.


Nhẩy dù, tôi quen từ khuya. Bà cô tôi đi may trong trại nhẩy dù ở Hà Nội. Chiều chiều, anh em chúng tôi thường đón bà đi làm về trong tư thế tranh dành rất dữ dội. Bà thường mang về cho chúng tôi những mẩu vải dù đủ màu. Những miếng vải mỏng, trơn mềm, màu sắc rất nổi. Chúng tôi dùng những sợi giây dù nhỏ, kéo từ trong ruọt những sợi giây lớn, cột vào bốn góc miếng vải vuông, đầu giây kia túm vào một cục chì hay lõi cuộn chỉ, làm thành những cánh dù tí hon. Chúng tôi thi nhau cuộn chiếc dù nhỏ, tung lên trời cho dù mở ra, bay là là xuống. Có những lúc cột chặt quá, dù không mở ra được, tức giận, mặt đỏ tía tai trước những câu chế nhạo không lấy gì làm êm tai.


Nhẩy dù, tôi quen từ khuya. Đầu năm 1970, tôi bước chân vào Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung để thụ huấn 9 tuần quân sự. Chiếc GMC vừa đổ những chàng trai còn chưa hết ngơ ngẩn khi giã biệt cuộc đời dân chính xuống cổng trại, chúng tôi đụng ngay vào một đoàn quân đang chạy di hành với ba lô trên vai. Người nào người nấy mồ hôi nhễ nhại. Không hiểu họ đã chạy bao nhiêu vòng sân trại rồi. Những bước chân nặng chình chịch như không còn lết nổi vẫn cố nuốt từng phân chiều dài của đoạn đường còn lại. Những khuôn mặt đỏ ké đẫm ướt mồ hôi có những chiếc miệng uể oải hô theo từng bước chân nặng nhọc. Nhẩy dù cố gắng! Nhẩy dù cố gắng! Nhẩy dù cố gắng!

Nhẩy dù, tôi thân thuộc khi bạn tôi, Bùi Quyền, gia nhập binh chủng này sau khi tốt nghiệp thủ khoa Trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Hồi đó, chúng tôi còn đang học lớp Đệ Nhị C trường Chu Văn An thì Bùi Quyền và một vài anh bạn khác rời lớp học tình nguyện gia nhập quân đội. Từ đó, chúng tôi ít khi gặp nhau. Khi Bùi Quyền chinh chiến khắp các vùng đất nước chúng tôi chẳng có thời giờ nhìn thấy mặt nhau. Nhưng hình Bùi Quyền trên báo thì tôi có thấy nhiều lần. Anh đã trở thành một cấp chỉ huy tài giỏi của một binh chủng khét tiếng. Một “thiên thần mũ đỏ” được nhiều người biết đến.

Thiên thần mũ đỏ? Những con người phong sương, đi đứng dềnh dàng này coi bộ khó mang hình ảnh thiên thần quá! Thiên thần trong trí tưởng của mọi người thường là những hình ảnh dịu hiền, thanh tịnh, trắng trẻo, có đôi cánh nhẹ nhàng bay lơ lửng trên trời. Mũ đỏ cũng có cánh. Chiếc cánh gắn trên mũ, trên tay áo. Những chiếc cánh không ở trên lưng có lẽ đã làm lạc đường bay của các thiên thần khét mùi thuốc súng này. Thiên thần trinh trắng bay lên, thiên thần mũ đỏ bay xuống! Làm thiên thần nhởn nhơ trên bầu trời, tay chắp trước ngực, chân chẳng bao giờ đụng đất coi bộ khó vui. Thiên thần mũ đỏ cứ tà tà bay xuống, mông rồi chân đụng đất, trần tục vậy mà xem ra fun hơn. Chiếc nón sắt ngập tràn rượu đế, khói thuốc nhả mù mịt, đồng đội vỗ vai nhau nghiêng ngả, tiếng chửi thề, tiếng văng tục đệm vào những câu nói, phê biết mấy. Tiền lính tính liền, nhưng đời lính thì tính sao được? Nay còn nghiêng ngả bên nhau, mai đụng trận biết có còn trở về không? Tình lính là một thứ tình bất an nên luôn luôn đậm đà. Một đồng đội nằm xuống, cả một đoàn quân ngỡ ngàng. Thương anh em nhưng cũng thương mình. Mũi tên hòn đạn không có mắt nhưng những người lính lúc nào cũng cho nhau những ánh mắt bạn bè. Nhất là lính của những binh chủng cứ đâu có tiếng súng nổ là nhào tới.

Một ngày thứ bảy, Nguyên Vũ, mũ đỏ vắt ngang trên cầu vai áo trận, nhào tới tòa soạn Thời Nay, mặt mũi lầm lì đỏ kệch, rủ Khánh Giang và tôi kiếm chỗ ngồi nói chuyện chơi. Chúng tôi chạy xe tới quán Cái Chùa. Ba chai 33 vừa được khui ra trên bàn, chưa ai nhắp được một hớp nào, Nguyên Vũ đưa cặp mắt đờ đẫn đảo quanh. Tròng mắt anh nháng lửa. Tay anh đặt trên khẩu súng lục dắt trong bụng. Tôi nhìn theo. Một thanh niên ăn diện đúng mốt, sơ mi trắng thẳng nếp, cà vạt tiệp màu với chiếc quần, bộ râu quai nón cắt tỉa kỹ lưỡng, cặp kính đen đắt tiền trên mặt, đang trầm ngâm trước ly cà phê. Nguyên Vũ dợm đứng dậy. Khánh Giang ấn anh xuống. Chuyện gì vậy? Trông cái thằng kia chướng mắt quá, moi phải cho nó một viên! Thôi đi cha nội, uống đi! Có lẽ Nguyên Vũ đã tắm rượu từ trước ở đâu rồi, giọng nói anh đẫm men. Khánh Giang nheo mắt với tôi. Cho moi mượn khẩu súng chút coi! Nguyên Vũ cười cười. Nhưng anh cũng đưa tôi khẩu súng. Tôi đút con chó lửa vào túi. Nhìn tôi cười cười như nhìn một đứa bé, Nguyên Vũ đứng dậy, tiến đến anh thanh niên đúng mốt ăn chơi Saigon. Mặt anh chàng tái mét. Nhanh như một con sóc, Nguyên Vũ móc cặp kính Rayban ra khỏi khuôn mặt phì nộn, bóp nát trong tay. Máu từ trong lòng bàn tay Nguyên Vũ rỉ ra nhỏ xuống đất. Anh thanh niên hoảng hốt lủi nhanh ra cửa. Trở lại bàn, Nguyên Vũ thản nhiên móc khăn ra thấm máu. Mẹ nó chứ, ai đánh giặc cho nó ngồi làm cha thiên hạ ở đây! Đại đội moi vừa đụng lớn, đi mất gần hai chục con cái! Mắt anh như có nước mắt.

[left]http://www.imnahastamps.com/military/im ... eWings.jpg[/left]Ngày đó, tôi hiểu tâm trạng của anh. Anh là một người lính mũ đỏ cầm bút. Cái đau trong mất mát của anh là cái đau của nghĩ ngợi lao lung. Năm 1993, gặp lại Nguyên Vũ ở Houston, anh tặng tôi cuốn Xuân Buồn Thảm anh vừa tái bản, đọc xong, mặc dù chuyện xảy ra nơi quán Cái Chùa đã trên hai chục năm, tôi lại càng thông cảm với anh hơn. Chuyện chiến trường chính là chuyện địa ngục! “Trận địa pháo địch tái hoạt động mãnh liệt đêm 23 rạng 24 tháng 2. Trọn ngày hôm sau, hàng ngàn pháo địch nã vào căn cứ 30 và 31. Tám giờ sáng ngày 25, địch khởi sự tấn công. Khoảng hai giờ trưa, Đại Úy Đương, Pháo đội trưởng B-3 Dù, báo cáo tăng địch xuất hiện dưới chân đồi và đích thân bắn trực xạ nát hai chiếc. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 3 Dù anh dũng giữ từng thước đất, từng giao thông hào. Nhưng thịt xương không đủ ngăn chặn xích tăng. Sáu giờ chiều, khi cơn mưa lớn đột ngột phủ dầy cảnh vật Khe Sanh, căn cứ 31 mất liên lạc. Mắt những sĩ quan tham mưu Dù đỏ hoe. Ai nấy như thu nhỏ lại, dính cứng trên mặt ghế. Căn hầm chỉ huy chợt rộng thênh thang, im vắng như huyệt địa. Không có một phép lạ nào cho những người lính Dù tội nghiệp đó. Phép lạ họa chăng chỉ đến với đám người may mắn thoát khỏi căn cứ, để một tuần lễ sau thất thểu lả mệt tìm về căn cứ A Lưới, ứa nước mắt mừng tủi trước khi gục lả trong vòng tay chào đón của các chiến hữu.”

Sau 1975, địa ngục một lần nữa đến với những mũ đỏ trong những cái gọi là Trại Học Tập Cải Tạo mà thực chất là những trại khổ sai đẫm máu và tủi nhục. Sau 14 năm ngục tù trong đó có cả những năm bị kiên giam, Mũ Đỏ Phan Nhật Nam đã luận về những ngày tù không tội trong cuộc nói chuyện với nhà văn Hoàng Khởi Phong trong cuốn Cây Tùng Trước Bão: “Phần tao, bề gì cũng là một sĩ quan Nhẩy Dù, nếu họ muốn tao chết như một Con Vật thì cách hay nhất là tao sẽ chết như một Con Người. Để có thể sống như một con người, như một cây sậy biết suy nghĩ đó, con người nhà văn của tao trồi lên. Không có giấy và bút, mà văn chương đặc biêt là truyện dài, trong hoàn cảnh đó nhiều lắm tao chỉ có thể dàn dựng ra cốt truyện mà thôi. Đâu có thể nhớ nhẩm được. Mày nhắc đến nhà văn lớn của nước Nga là Alexandre Solzhenitsyn, mày nhắc đến cuốn Một Ngày Trong Đời Ivan Denisovitch và cách hình thành tác phẩm đó. Đây là một cuốn sách được viết trong thời gian nhà văn lớn của nước Nga, của nhân loại đi ở tù. Tao cũng biết quyển sách đó không phải viết nhẩm, mà là viết truyền khẩu. Có nghĩa là ông ta không bị kiên giam như tao, ông ta được sống chung với các bạn tù. Nếu mày bị biệt giam mày sẽ hiểu được giam chung với đồng loại là một hạnh phúc. Thật đúng là một hạnh phúc khi mày còn thấy những người bạn ốm đói, rách rưới, thều thào như những bóng ma ngay cả trong thanh thiên bạch nhật.”

[right]http://nhaydu.com/index_83hg_files/main_files/nonND.jpg[/right]Nhẩy Dù cố gắng! Chỉ có cố gắng những mũ đỏ mới giữ được mầu mũ. Và ngay cả khi mũ đỏ không còn trên đầu, Nhẩy Dù vẫn cứ cố gắng! Bác Sĩ Mũ Đỏ Trương Văn Như là người Mỹ gốc Việt duy nhất trong số 12 vị Bác sĩ vừa được ban Cố Vấn Tổ Chức Y Sĩ thuộc Hội Đồng Các Dân Biểu Đảng Cộng Hòa Mỹ ra quyết định vào ngày 04 tháng 12 năm 2004 tuyên dương là Bác Sĩ Xuất Sắc Năm 2004 vì các cống hiến cho sự nghiệp y khoa phục vụ cộng đồng. Tên của Bác Sĩ Như đã được ghi trên đầu bảng gồm toàn các Bác Sĩ Mỹ chính gốc. Cuộc đời của Mũ Đỏ Trương Văn Như là một cuộc đời đầy những cố gắng. Thân sinh của Bác Sĩ Như là một nhạc sĩ đánh đàn cổ nhạc và mơ ước của ông chỉ là muốn con trai mình trở thành kép hát. Nhưng năm 10 tuổi, chú bé Như đã bỏ vùng đầm lầy Vàm Cống để lưu lạc tìm cơ hội học tập. Năm 1962, sau khi học hết cấp Tiểu Học, cậu bé Như một mình phiêu lưu lên Saigon giúp việc nhà và lo mua đồ cúng quảy cho một ông thày bói để kiếm cơm đi học từ lớp Đệ Lục đến hết Tú Tài 1 tại trường Hồ Ngọc Cẩn. Sau đó, Trương Văn Như qua giúp việc nhà cho một người giầu có để có cơ hội tiếp tục học Tú Tài 2 tại trường Chu Văn An. Năm 1967, anh thi vào trường Đại Học Y Khoa và gia nhập ngành Quân Y để có thể tiếp tục việc học. Ra trường năm 1974, anh chọn binh chủng Nhẩy Dù và phục vụ cho tới khi mất nước. Vào tù Cộng Sản 2 năm, khi được thả ông đã vượt biên. Ông vào Mỹ định cư tại Orange County năm 1984. Những năm định cư đầu tiên, Bác Sĩ Như phải trần thân làm nhiều nghề khác nhau kể cả làm nail! Nhưng với ý chí và với sự cố gắng sẵn có của một mũ đỏ, ông học lại và chính thức được cấp bằng Bác Sĩ Y Khoa của Hoa Kỳ vào năm 1995. Ông hiện là Trưởng Khối Y Khoa tại Công Ty Mac Beam Inc. chuyên phát minh và sản xuất các loại máy Y khoa trị liệu dùng tia laser có công xuất thấp. Ông có thể nói rành các thứ tiếng Việt, Triều Châu, Phúc Kiến, Quan Thoại, Nhật, Anh, Pháp và Tây Ban Nha.

Nhẩy Dù là cố gắng. Có chiếc mũ đỏ trên đầu hay không, họ vẫn cố gắng. Suốt cuộc đời. Cố gắng cho mình, cho đồng đội, cho đồng bào, cho đất nước!


Song Thao
02/2005

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Image


ĐI VÀO LÒNG ĐỊCH
Câu chuyện thật của một Người Nhái Hải Quân VN.
(Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH)



Lời ngỏ: cuối năm 2001 người xem TV các chương trình "Suicide Missions" (History Channel), "Navy SEALs: Untold stories" (TLC - The Learning Channel) sẽ thấy một nhân vật Việt Nam tên Kiệt được nhắc đến trong những chuyến công tác chưa bao giờ được kể lại. Nhân vật này là ai? Tình tiết trong các phim tài liệu đó có chính xác không? Mời độc giả đi ngược thời gian ....


[left]http://www.geocities.com/pentagon/1979/Eb66.jpg[/left]Cách đây gần 30 năm về trước vào mùa hè năm 72 được biệt danh là "Mùa Hè Đỏ Lửa". Cộng sản Bắc Việt (CSBV) mở cuộc tấn công xâm lăng miền Nam Việt Nam ở ba mặt trận: Quảng Trị, Cao Nguyên, An Lộc.
30 ngàn quân CSBV trang bị vũ khí tận răng, tràn qua vùng phi quân sự (DMZ) ở vĩ tuyến 17, vượt tràn qua sông Bến Hải. Quân đi Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và đồng minh ở trong thế giằng co với kẻ địch ....
Trong một chuyến thám thính thâu lượm tin tức, chiếc máy bay EB-66 của không lực Hoa Kỳ bất thình lình bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Vừa kịp tung ra khỏi máy bay, Trung Tá Iceal "Gene" Hambleton kinh hãi chứng kiến cảnh chiếc máy bay bùng nổ làm thiệt mạng 5 người còn lại trong phi hành đoàn. Chiếc dù từ từ lượn xuống, dù bị mây mù che phủ không thấy đất, Trung Tá Hambleton biết chắc là 30 ngàn địch quân đang chờ mình dưới đất.
Thế là guồng máy quân sự của đồng minh bắt đầu một cuộc "tìm kiếm và giải cứu" (search and rescue) đắt giá và tổn hại nhất trong cuộc chiến.
Hai chiếc trực thăng Bộ Binh vừa nhào đến địa điểm giải cứu liền bị bắn hạ. Phi hành đoàn 4 người của chiếc Blueghost 39 thiệt mạng tại chỗ. Chiếc trực thăng thứ nhì ráng "lết" đến một địa điểm an toàn và phi hành đoàn được một chiếc trực thăng khác đến giải cứu.
Màn đêm buông xuống, Trung Tá Hambleton trơ trọi một mình dưới đất trong sự che chở của rừng rậm, bủa vây tứ bề bởi một lực lượng địch quân lớn nhất trong cuộc chiến VN.
Hôm đó là ngày Phục Sinh, chủ nhật 2 tháng 4, 1972.
Không quân Hoa Kỳ (HK) biết vị trí của Trung Tá Hambleton nhưng không tài nào với tới nổi ông ta vì địch quân bủa vây dầy đặc. Tối đó họ chỉ có thể thả mìn xung quanh ông ta để ngăn cản địch quân tới gần.
Sáng hôm sau, chiếc trực thăng "Jolly Green 65" bay tới gần vị trí của Trung Tá Hambleton thì lập tức bị "dàn chào" bởi một trận mưa đạn tàn khốc. Lại phải "lết" về. Chuyến kế của "Jolly Green 66" cũng không khấm khá. Đạn bắn rát từ tứ phía như xé nát chiếc trực thăng. Và cũng phải "lết" về lại căn cứ.
Trước khi màn đêm phủ xuống vào ngày Thứ Hai, một chiếc máy bay hỗ trợ cho cuộc giải cứu bị hỏa tiễn SAM bắn hạ. Đại Uý William Henderson và Trung Úy Mark Clark nhảy dù thoát hiểm, đáp xuống đất gần vị trí của Trung Tá Hambleton.
Cuộc giải cứu bây giờ không phải cho một người nữa, mà cho 3 sĩ quan Hoa Kỳ, mỗi người lạc một lối.
Dưới đất, 3 người phi công HK chứng kiến tận mắt trong nỗi niềm thất vọng khi thấy các loạt giải cứu kế tiếp bị đẩy lui bởi hỏa lực tàn khốc của địch.
Chỉ trong vòng 24 tiếng đồng hồ, 3 máy bay bị bắn hạ, 5 chiếc bị thiệt hại nặng nề, 4 người thiệt ma.ng. Và xui xẻo thay tối đó Đại Úy Henderson bị CSBV lùng bắt được.
Trong khi đó, quân đi HK khám phá ra rằng Trung Tá Hambleton từng phục vụ với Bộ Tư Lệnh Chiến Lược Không Quân (Strategic Air Command). Ông ta giữ trong đầu một kho kiến thức về hệ thống hỏa tiễn nguyên tử, cái loại dữ kiện không thể để rơi vào tay kẻ địch.
Bằng mọi giá phải giải cứu cho được Trung Tá Hambleton.
Những ngày kế tiếp, không lực HK mở nhiều cuộc tấn công xung quanh cầu Cam Lộ. Vì hỏa lực địch quá mạnh, không chiếc máy bay nào có thể xuyên thủng vòng vây được. Trái lại hầu hết đều bị bắn hư hại nặng.
Mọi người đều nhận ra là kẻ địch đang dùng hai phi công Hoa Kỳ làm mồi để nhử các chuyến giải cứu vào để tiêu diệt.
Đến ngày 6 tháng 4, tổng cộng có đến 52 chiếc máy bay và 4 chiếc B-52 oanh tạc liên tục chung quanh vùng Cam Lộ. Trong lúc đó, chuyến phi hành "Jolly Green 67" chuẩn bị để thực hiện cú "chộp" lấy Trung Tá Hambleton.
Chiếc trực trăng "Jolly Green 67" gần đáp xuống vị trí của Trung Tá Hambleton giữa khói lửa mịt mù, giữa những lằn đạn của địch cào nát phi cơ. Bị bắn quá rát, trực thăng rút lên không kịp, rơi sầm xuống đất nổ tung. Thiệt mạng tất cả phi hành đoàn 6 người.
Trung Tá Hambleton gục khóc khi thấy biết bao nhiêu người thiệt mạng chỉ để giải cứu lấy mình. Bằng mọi giá ông ta tự nhủ cũng phải sống còn....
Ngày 7 tháng 4, một chiếc máy bay khác hỗ trợ cuộc giải cứu lại bị bắn hạ. Trung Úy Bruce Walker và Trung Úy Larry Potts bị thất tung.
Ngày 9 tháng 4, quân lực HK nhận thấy cuộc giải cứu kết hợp nỗ lực của nhiều binh chủng không thành công. 5 phi cơ bị bắn hạ, 9 quân nhân bị thiệt mạng, 2 người là tù binh, mất tung tích 2 sĩ quan khác.
Không lực Hoa Kỳ gần như bó tay chưa biết tính toán như thế nào. Lúc bấy giờ, Đại Tá Thủy Quân Lục Chiến Al Gray đưa ra một đề nghị khác: một cuộc giải cứu âm thầm bằng đường bộ.


Ai thực hiện công tác này?
Câu trả lời: Biệt kích Mỹ và Việt.
Đại Úy Thomas Norris (US Navy SEAL) cùng 5 Người Nhái (Frogmen) Việt Nam từ căn cứ Đà Nẵng đến để chuẩn bị. Cùng lúc đó, không lực HK ra tín hiệu cho hai phi công HK kẹt trong lòng địch tìm cách tới điểm hẹn. Trung Úy Clark đang ở gần sông Cam Lộ, chảy về hướng Đông ra Cửa Việt. Tối ngày 10 tháng 4 sẽ men theo ven sông đến điểm hẹn. Còn Trung Tá Hambleton cách giòng sông gần 2 cây số cần phải được hướng dẫn để len lỏi qua vòng đai địch quân dầy đặc để đến bờ sông.
Toán biệt kích tập trung tại một tiền đồn (forward operating base) nằm trên một ngọn đồi thấp cạnh sông Miếu Giang, quận Cam Lộ. Nhóm Người Nhái Việt Nam gồm có một Đại Úy trưởng toán, hai Hạ Sĩ Nhất, và hai Hạ Sĩ. Kiệt, 27 tuổi, lúc bấy giờ là Hạ Sĩ Nhất Trọng Pháo, thuộc sở Phòng Vệ Duyên Hải, và cũng là một Biệt Hải được huấn luyện theo mô hình của US Navy SEALs.
Từ tiền đồn, Norris cùng với nhóm Biệt Hải đi ngược dòng sông để giải cứu cho Trung Úy Clark trước, rồi Hambleton sau đó.
Khi màn đêm buông phủ ngày 10 tháng 4, đi biệt kích khởi hành. 6 người trơ trọi trong bóng đêm đối đầu với một lực lượng địch quân đã bất chấp sức mạnh của không lực HK.
Thoạt đầu, toán biệt kích dự tính bơi ngược dòng sông để gặp Trung Úy Clark trôi xuôi dòng xuống. Nhưng vì dòng nước chảy mạnh quá nên cả toán đành phải xâm nhập bằng đường b theo ven bờ sông.
Toán biệt kích chậm rãi tiến từng bước trong màn đêm, vượt qua mặt từng đoàn thiết giáp, xe hàng, và các toán tuần tiễu thường xuyên canh phòng. Đây là một việc chậm rãi, nguy hiểm và có thể trở thành chết người trong nháy mắt. Nhóm điều hành chuyến giải cứu biết là nguy hiểm nên đã dặn cả toán là đừng đi quá một cây số vào cứ địa của địch ở thượng nguồn. Nhưng toán biệt kích biết là như vậy không đủ nên tiếp tục âm thầm vượt qua tai mắt kẻ địch để cuối cùng dừng lại và chờ ... 2 cây số ở thượng nguồn.
Gần 3 giờ sáng, toán biệt kích phát hiện một vật di động xuôi dòng sông. Đó chính là Trung Úy Clark. Trước khi cả toán bắt đầu cuộc giải cứu thì một toán tuần tiễu của địch xuất hiện. Cả toán lặng yên chờ đợi trong khi Trung Úy Clark cứ trôi xuôi dòng sông. Đến khi kẻ địch đã đi qua thì Trung Úy Clark cũng biến dạng trên dòng sông nước chảy mạnh. Cả toán biệt kích rút lui đi dọc theo bờ sông để truy lùng Clark. Cuối cùng toán phát hiện ông ta đang ẩn núp ở ven sông.
Trời đã hừng sáng, tuy đã tìm được Trung Úy Clark nhưng cả nhóm vẫn còn ở sâu trong vùng địch. Hết sức chậm rãi và cẩn trọng, toán biệt kích tiếp tục chuyến hành trình đào tẩu khỏi vùng địch.
Trưa hôm đó, cả toán về đến vùng an toàn. Trung Úy Clark được bốc về Đà Nẳng. Toán biệt kích còn ở lại tiền đồn. Công tác của họ chưa xong vì vẫn còn một phi công HK cần giải cứu.
Ngày hôm sau, 11 tháng 4, toán biệt kích chuẩn bị lên đường. Trong chuyến giải cứu hôm trước cả toán đã chứng kiến tận mắt lực lượng địch quân dầy đặc. Vì thế trước khi toán biệt kích lên đường, không lực HK đã di bom phủ đầu các vị trí địch để dọn đường. Địch quân liền trả đũa với hàng loạt mọt chê bắn phủ đầu lên tiền đồn quân lực VNCH. Thật là xui xẻo, người Đại Úy Biệt Hải Việt Nam và Trung Tá Anderson (cố vấn cho nhóm biệt kích) bị thương. Một Biệt Hải hộ tống hai người trở lại hậu cứ. Nhóm biệt kích chỉ còn lại 4 người: Tom Norris và 3 Biệt Hải VN.
Nhóm biệt kích 4 người còn lại vẫn tiếp tục nhiệm vụ giải cứu. Họ lên đường rạng tối ngày 12 tháng 4. Lần này cả toán mạo hiểm gần 4 cây số sâu vào lòng đi.ch. Càng vào sâu, nhìn thấy địch quân dầy đặc tứ bề, 2 người trong toán biệt kích e ngại và không muốn tiến thêm. Nhưng rồi cuối cùng cả nhóm vẫn tiến tới để truy tìm Trung Tá Hambleton. Trời đã hừng sáng mà không thấy tăm tích ông ta đâu cả, toán biệt kích đành thất vọng rút lui.
Trung Tá Hambleton, 53 tuổi, sau 10 ngày trốn tránh, đói khát sức khoẻ kiệt quệ, đầu óc mụ mẫm đi, phương hướng lẫn lộn. Thời gian không còn bao lâu trước khi ông ta gục ngã chết lịm trong rừng già.
Hôm sau trong khi toán biệt kích nghỉ dưỡng sức thì không lực HK liên lạc bằng tín hiệu với Trung Tá Hambleton, động viên tinh thần ông ta cố gắng gượng sức để ra đến chỗ hẹn. Sức khoẻ của ông đã đến hồi nguy kiệt. Nếu toán biệt kích không "chộp" được ông tối nay thì có lẻ đó sẽ là cơ hội cuối cùng. Họ cũng lượng định rằng trong tình trạng sức khoẻ như vậy, Trung Tá Hambleton khó mà đến chỗ hẹn. Nếu muốn thành công, toán biệt kích phải đi tìm cho ra được ông ta.
Trong chuyến đi này, 2 Biệt Hải VN từ chối không tham dự. Người duy nhất tình nguyện đi là Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân Việt Nam Cng Hòa. Đối diện với hiểm nguy, Kiệt vẫn tình nguyện đi vì yêu chuộng sự hào hùng của ngành Biệt Hải, và cũng vì lòng nhân đạo không nỡ thấy người sắp chết mà không cứu.
Hai biệt kích, một Mỹ, một Việt. Tom Norris và Kiệt mặc quân phục ngụy trang như bộ đội chính quy Bắc Việt, trang bị súng AK-47. Họ quyết định dùng xuồng đi ngược dòng sông lên hướng Bắc. Như thế sẽ lẹ hơn đi đường bộ và mới có đủ thời giờ để truy tìm Trung Tá Hambleton.
Trong màn đêm, tay chèo, tay súng, họ nghe rõ mồn một tiếng trò chuyện của địch quân canh gác ven sông, tiếng gầm rú của xe tăng T-54, tiếng di động của cả đoàn quân hùng hậu.
Họ chèo chậm rãi để tránh tai mắt kẻ địch. Một màn sương mù phủ lấp dòng sông che chở họ khỏi sự dòm ngó của kẻ thù nhưng đồng thời lại làm cho họ chậm tay chèo. Và họ cũng không ngờ là họ chèo gần đến cầu Cam Lộ, nơi địch quân đóng giữ. Khi nghe tiếng chân bô đội Bắc Việt tuần tiễu đi lại trên cầu, họ mới biết là đi lố. May mắn là sương mù che phủ khắp vùng nên Tom và Kiệt không bị phát hiện. Họ chèo trở ngược lại, xuôi dòng sông và tìm kiếm Trung Tá Hambleton. Rồi cuối cùng Tom và Kiệt cũng tìm ra Trung Tá Hambleton một thân hình tong teo gục ngã gần bờ sông. Ông ta chỉ còn thoi thóp thở.
Tom và Kiệt đem Trung Tá Hambleton lên dấu dưới đáy xuồng, lấy lá chuối che phủ thân hình ông ta. Họ bắt đầu cuộc hành trình rút lui khỏi vùng địch, thoát khỏi gọng kềm của tử thần, vẫn một cách chậm rãi như mọi khi.
Lúc bấy giờ hừng đông đã ló dạng. Bất thình lình, Kiệt nghe tiếng gọi " Ê, lại đây! ". Cả hai người cùng quay đầu lại và bắt gặp 3 tên lính Bắc Việt xa xa trên bờ. Tên đi giữa là sĩ quan, vắt khẩu K54. Hai tên cận vệ kè kè AK-47 hai bên. Khoảnh khắc đó thật dài như thế kỷ. Kiệt cảm thấy ớn lạnh dọc theo xương sống. Nhưng cả hai người đều bình tĩnh quay đầu trở lại, tiếp tục chèo xuồng xuôi huớng Nam.
Vừa chèo, Kiệt đã bắt đầu đếm thời gian và lắng nghe tiếng súng của bọn chúng sẽ bắn theo. Nhưng chúng hoàn toàn im lặng. Một cái im lặng đáng nghi ngờ và hồi hộp vô cùng. Kiệt ráng lắng nghe tiếng chân rầm rập đuổi chạy theo. Nhưng tất cả không gian lúc ấy hoàn toàn trở lại bình thường im lặng. Một sự tĩnh mịch khó hiểu. Có thể chúng sẽ liên lạc máy để chận xuồng ở một đoạn sông sắp đến? Hay chúng đang chỉ điểm để pháo kích theo? Bấy giờ là giờ phút hết sức căng thẳng trong tâm não của Kiệt. Bao nhiêu giác quan của Kiệt được tận dụng tập trung quan sát để phản ứng kịp thời ...
[right]http://community-2.webtv.net/@HH!F2!CE! ... ledD41.jpg[/right]Tom lập tức báo cáo bằng radio là đã giải cứu được Trung Tá Hambleton. Tuy thế chuyến giải cứu chưa xong vì họ vẫn còn sâu trong lòng địch và khi trời hừng sáng, sự ngụy trang của họ không qua mặt được kẻ địch. Vì thế, không lực HK được điều động sẵn để hỗ trợ bất cứ lúc nào.
Đúng như Kiệt dự đoán, kẻ địch đã báo động về sự xâm nhập của chiếc xuồng biệt kích. Tiếng la hét, tri hô vang dậy cả bầu không khí tĩnh mịch. Cuộc truy đuổi bắt đầu.
Tom và Kiệt chèo hối hả, mượn dòng nước chảy mạnh để đưa con xuồng đi thật lẹ, cũng như nhờ cậy vào các tàn cây dầy đặc ven sông che dấu bớt hình ảnh chiếc xuồng mong manh. Trong khi đó đạn của địch không ngừng bắn xối xả ngang sông. Thấy hỏa lực địch quá mạnh, Tom và Kiệt tấp xuồng vào một bụi cây ven sông và gọi không lực yểm trợ ngay lập tức. Không gian yên lặng của đoạn sông bị xé nát bởi những lằn đạn bắn tứ phía. Đạn từ trên không bắn xuống, đạn từ dưới đất bắn lên, đạn từ hai bên bờ nhả xuống sông lia lịa.
Và cũng nhờ sự yểm trợ không lực mạnh mẽ và liên tục, Tom và Kiệt cuối cùng cũng đưa con xuồng xuôi dòng an toàn.
Khi gần đến tiền đồn của quân lực VNCH, quân đi hai bên dàn trận ra "tiếp đón" lần nữa. Cộng Sản Bắc Việt bên bờ Bắc, quân đi VNCH bên bờ Nam. Hai bên nhả đạn bắn qua lại dữ dội. Dưới cơn mưa đạn đó, Tom và Kiệt dìu Trung Tá Hambleton khỏi xuồng và chạy chặng nước rút nguy hiểm cuối cùng vào hầm trú ẩn ...
Cuộc giải cứu đã thành công vượt sức tưởng tượng của mọi người. Khi mà cả không lực Hoa Kỳ bó tay thì những biệt kích Mỹ, Việt gan dạ cùng mình đi vào trong lòng địch, chộp các phi công ra khỏi gọng kềm của tử thần.
---oOo---



[left]http://www.homeofheroes.com/brotherhood ... s_kiet.jpg[/left] Câu chuyện trên, người ta có viết thành sách, Hollywood có chuyển thành phim với những tài tử quen thuc thủ vai các nhân vật chính trong câu chuyê.n. Vậy mà 2 nhân vật "CHÍNH" nhất trong truyện là Đại Úy Hải Quân (Navy SEAL) Hoa Kỳ Thomas Norris và Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Liên Đoàn Người Nhái, Hải Quân VNCH không hề được nhắc đến. Hành vi dũng cảm, gan dạ phi thường này chỉ có một số người được biết để bảo vệ các dữ kiện quân sự liên hệ đến các chuyến giải cứu đường bộ.
Đại Úy Thomas Norris được trao tặng huân chương "Medal of Honor". Huân chương cao quý nhất của quân đội Hoa Kỳ trao cho những chiến sĩ đã có hành động dũng cảm phi thường.
Hạ Sĩ Nhất Nguyễn Văn Kiệt, Người Nhái anh dũng của Hải Quân VNCH, được trao tặng huân chương "Navy Cross". Huân chương cao nhất có thể trao tặng cho quân đội đồng minh. Kiệt là người chiến sĩ VNCH duy nhất nhận huân chương "Navy Cross" trong cuộc chiến Việt Nam.

Đến nay đã gần 30 năm. Hồ sơ quân sự cũng đã được tiết lộ (declassify). Rồi cuối cùng những hành động dũng cảm, anh hùng này đã được mọi người biết đến.
Thế Trân


Theo lời kể của ông Nguyễn Văn Kiệt và các dữ kiện trong các trang web: http://www.navres.navy.mil/navresfor/moh/norris.html

Trích từ trang nhà Hải quân
.

Post Reply