Quán Vắng không Người ...3

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image


Nhân danh chủ nghĩa xã hội là “bất chính” (*)
Hoàng Thanh Trúc

(Danlambao) - “Bất chính”: Là hành vi không chính đáng, trái với đạo đức, luật pháp. Bất chính rơi vào cá nhân nó hạ thấp nhân cách ngang hàng với súc vật. Rơi vào bậc cha mẹ nó làm băng hoại gia đình. Rơi vào vai trò lãnh đạo xã hội nó làm cho lòng người ly tán, đất nước suy vong.

Mới đây, trong một bức thư gởi Ban chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên đảng Cộng sản Việt Nam, đề ngày 28/07/2014 Những con người cùng chiến hào đồng chí với họ, 61 đảng viên lão thành, quân, cán, chính, kỳ cựu, đứng đầu là tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, kêu gọi các nhà lãnh đạo CS Việt Nam từ bỏ “đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội”.(**)

Trong số đó có nhà văn và nhà nghiên cứu “Huế học”? Nguyễn Đắc Xuân ở TP/Huế, nguyên Trưởng Đại diện báo Lao động tại khu vực Miền Trung Tây Nguyên, hơn 40 năm tuổi Đảng, là một trong những người ngưỡng mộ CS, sẵn sàng ra tay tàn bạo với đồng bào Huế trong Mậu Thân 1968 vì nhiệt tình với cách mạng XHCN, thế nhưng bây giờ ông đã “vỡ mộng” Khi tuyên bố với PV quốc tế, (lời ông Nguyễn Đắc Xuân): “đảng Cộng Sản Việt Nam không thể tiếp tục nhân danh chủ nghĩa xã hội để nắm độc quyền nữa, vì làm như thế là bất chính ”.

Không lâu trước đó, ông Đặng Xương Hùng, một đảng viên CS nguyên Vụ phó Bộ Ngoại giao Việt Nam, từng là Lãnh sự Việt Nam tại Genève nhiều năm, củng đã trả lời cho PV quốc tế biết, một trong những lý do khiến ông công khai tuyên bố từ bỏ đảng CSVN là: “Trên thế giới thực tế hiện nay (190 quốc gia) chỉ còn có Trung Quốc, Việt Nam, Cuba với Bắc Triều Tiên là còn theo xã hội chủ nghĩa cộng sản thì một người bình thường người ta cũng thấy điều đó là một sự vô lý rồi” (***)

Còn hơn thế: Liên Xô, đế chế hùng mạnh hàng đầu của CS quốc tế và toàn khối CS Đông Âu cũng như các quốc gia Xã Hội Chủ Nghĩa vệ tinh, 90% những chế độ một thời theo CS ấy, đã từ bỏ XHCN/cộng sản, loại bỏ tư tưởng Mac, đạp đổ tượng đài Lê Nin để hội nhập với “trào lưu văn minh tiến hóa của nhân loại” cụ thể như thế giới hiện nay, mà toàn bộ số người đang ngồi (trong ảnh dưới) đều đã theo dõi chứng kiến suốt hơn 20 năm qua...


Ấy vậy, mà thật là xấu hổ, những con người (trong ảnh) tự cho mình là “tầm cao trí tuệ” giành quyền lãnh đạo toàn xã hội với veston cà vạt, áo dài đạo mạo ấy vẫn cứ trơ tráo giương những cặp mắt thao láo trên khuôn mặt dày tựa da trâu, trơ trẽn, vô hồn, như “robot” cùng nhau ca tụng: “CS/XHCN là khát vọng của toàn dân Việt Nam”!?.

Họ, những kẻ (đang ngồi trong ảnh) ấy rất ù lì tới độ như “chai mặt” khi tránh né không thể giải thích được: Vì sao 99% các quốc gia thế giới còn lại, không lấy CNXH (như CSVN) làm “khát vọng” thì họ đang xây dựng quốc gia họ bằng thứ chủ nghĩa gì? mà phần lớn giàu mạnh hơn Việt Nam hiện nay, đến nỗi hàng năm CH/XHCN/CSVN phải ngửa tay xin “ăn mày” viện trợ của họ (EU, Nhật, Mỹ..v.v…)

Khác với loài “bọ hung” chỉ duy nhất với một món “chất thải vò viên”, con người bản chất thông minh rất nhạy cảm cả về tri thức lẩn tư duy, biết phân biệt sạch bẩn, tốt xấu, đúng sai, nhưng sao trước nhiều sự chọn lựa, các quan chức và tập đoàn chóp bu CSVN lại rất giống loài bọ hung, chỉ thích một thứ bẩn thỉu duy nhất là chế độ “CS độc tài và chủ nghĩa xã hội”, một thứ chủ nghĩa ảo tưởng phù phiếm không có thật nhưng lại tàn bạo khát máu mà nhân loại nguyền rủa, định danh là chủ nghĩa tội ác chống lại loài người với hàng trăm triệu nạn nhân khắp thế giới, trong đó có Việt Nam!?.

Ngay cả “thần tượng vĩ đại” của họ là Lenin, tại nơi sinh ra, số phận không hơn một thứ phế thải…
Image
Số phận tượng đài Lenin tại Nga và khắp thế giới như một thứ phế thải

Image
Thì riệng tại Việt Nam, họ kính cẩn đặt vòng hoa cuối đầu,đưa tay chào!?
Một thứ mà thiên hạ khinh bỉ, miệt thị, vô giá trị, đập bỏ mang ra khu phế thải thì họ (những người CSVN) nhất mực tôn vinh thờ tự như tiên tổ cha mẹ nhà mình!? Hơn 20 năm “đảng ta” không thể giải thích nỗi cho thỏa đáng hành vi như“mất trí” này nhưng vẫn cứ “tụng niệm” tư tưởng Lenin duy trì chế độ CS/XHCN như loài “bọ hung” đặc trưng duy trì thói quen lấy chất thải như một thứ vô địch để tiêu hoá tồn tại

Dưới mắt cả thế giới, dáng đứng cuối đầu của họ trước “cục xi măng” Lenin đủ nói lên nhân cách phẩm giá của đảng CSVN là như thế nào giữa thế kỷ văn minh này, một hành vi “không giống ai” mà họ (các chóp bu CSVN) vẫn không thấy nhục, không biết xấu hổ!?

Không phải ai khác, mà chính những người cộng sản đương thời, đồng chí với họ, cuối cùng thì củng phải thốt lên “người bình thường người ta cũng thấy điều đó (duy trì CS/XHCN) là một sự vô lý rồi” và khi CSVN cứ nhắm mắt bịp bợm lường gạt “tiếp tục nhân danh chủ nghĩa xã hội để nắm độc quyền nữa, thì như thế là bất chính”

Hai mặt của một vấn đề. Khi nhà nước “đảng ta” ra “chính sách” (xuất khẩu thịt sống không cần đông lạnh) đưa nữa triệu (500.000) thanh niên nam nữ đi làm vợ hờ, đầy tớ, bán sức lao động khắp các quốc gia láng giềng khu vực và thế giới thì cái bảng hiệu sơn son thếp vàng “XHCN là chống người bóc lột người” trở thành rác rưởi, tự nó đã không hoàn thành cái sứ mạng XHCN mà người CS rêu rao là “nhân đạo” lấy đó làm tiêu chí hàng đầu, ngược lại thì chính nó lại biến thành một chủ nghĩa gây ra hàng loạt tội ác chống nhân loại.

Chính xác, đúng là như thế. Một thứ CNXH thủ phạm tạo nên núi xương sông máu với hàng trăm triệu nạn nhân vô tội khắp thế giới mà ngay tại nước Nga, nơi sinh ra nó, Mikhail Gorbachev (Tổng Bí Thư CS/Xô Viết) củng thú nhận: Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Hôm nay tôi đau buồn mà thú nhận rằng: cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.

Sau khi nước Nga từ bỏ CS/XHCN, Boris Yeltsin (Tổng Thống Nga) xác định: Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải chúng nó.

Tiếp theo là Vladimir Putin (Tổng Thống nước Nga, hiện nay) Nói với công luận: Ai tin cộng sản, là không có cái đầu. Ai làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim.

Với các dữ liệu cụ thể minh chứng ấy, rất rõ ràng: Tại thời điểm hiện nay CSVN “nhân danh chủ nghĩa xã hội là bất chính”.

Một nhà nước “bất chính” thì không thể tồn tại, rất cần thiết phải tiêu huỷ, chôn lấp nó hay đưa lên giá treo cổ nếu nó cứ ngoan cố nhân danh XHCN lừa bịp nhân dân.

Hơn ai hết, các tướng lĩnh và con em nhân dân trong quân đội và LL vũ trang cần vận dụng tư duy nhận thức sâu sắc về thực trạng khách quan này tạo nên chuyển biến mới đưa dân tộc thoát khỏi vòng kim cô XHCN để hội nhập với trào lưu văn minh tiến hóa chung cùng nhân loại thế giới.

Bởi vì hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 190 quốc gia nhưng chỉ còn sót lại 4 nước CS/XHCN, Việt Nam không thể nào theo ý muốn của một nhóm nhỏ các “chóp bu CSVN” những cá nhân đặt quyền lợi vinh hoa phú quí gia đình, đảng phái phe nhóm bầy đàn, lên trên quyền lợi dân tộc của 85 triệu người, khiến Việt Nam mãi là một trong 4 nước thiểu số CS/XHCN độc tài lạc hậu luôn bị khinh bỉ trong mắt, trong tư duy của môi trường văn minh quan hệ quốc tế. Đó là tiếng kêu gọi thống thiết của toàn dân tộc.

Hoàng Thanh Trúc

danlambaovn.blogspot.com

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

Tào lao thế sự một tí

Người Buôn Gió

Đầu tiên là vụ 6 năm nữa Vn thành một tỉnh của TQ. Tin này thấy bảo báo TQ đăng, đưa từ nội dung làm việc ở Thành Đô giữa hai ĐCVN và ĐCSTQ.

Phân tích tin này thì khó biết thực hư. Có thể hồi đó các bác CS gộc đứng trước quả Đông Âu hoang mang nên hứa đại như thế. Cốt sao dựa vào TQ tồn tại qua lúc đấy rồi tính sau. Cũng có thể bọn TQ nó lại bịa ra như vụ HCM là người TQ.

Chuyện anh Quốc đi lính Tàu lên lon thiếu tá thì có thể là thât. Chứ bảo Tàu nó cho người đóng vai anh Quốc thì hơi quá. Mà chả việc gì nó phải đóng vai, anh Quốc là người ăn ở nghĩa tình, có trước có sau. Tội gì phải kiếm người thay thế anh làm gì. Bằng chứng sau này anh làm chủ xị Việt Nam anh vẫn lấy tên giống tương tự Hồ Quang là Hồ Chí Minh để nhớ những ngày đi lính Tàu đấy thôi.

Anh Quốc lấy tên Hồ Quang đi lính tàu thì cũng như đầy các bác đi lính Lê Dương sang châu Phi hay Pathet Lào. Nhiều chú châu Phi đi lính cho Pháp lon đội mà sau này về xứ sở cũng làm to lắm, anh Quốc đi lính một là leo lên cái chức thiếu tá, tức quan năm luôn kể ra cũng mát mặt dân tộc ta. Để dễ gọi thì tuỳ lúc hay lấy tên giống chút người nước sở tại cho dễ gọi. Kiểu như bây giờ dân ta ở nước ngoài thường cũng lấy tên tí Tây để cho bọn Tây nó dễ gọi thôi.

Từ chuyện anh Quốc bị báo chí Khựa nó bảo là người Tàu đến chuyện nay nó bảo là hội nghị Thành Đô các bác cộng sản gộc lúc đó cam kết VN sẽ thành một tỉnh của Tàu cũng vậy thôi. Toàn dựa trên một tí sự thật rồi xuyên tạc thành sự thật hoàn toàn, tất nhiên không có lửa thì làm sao có khói. Chuyện có tí ti nó mới dựng lên được.

Tóm lại là 6 năm nữa các bác cứ yên tâm, về hành chính thì VN không thể thành một tỉnh của Tàu được.

Nhưng Vn sẽ có một thể chế ý hệt Tàu bây giờ.




Anh Phạm Quang Nghị sẽ làm TBT kiêm hết chủ tịch quân uỷ trung ương, nếu cứng nữa anh kiêm luôn cả chủ tịch nước. Lúc đấy anh sẽ mở cuộc thanh trừng tham nhũng giống anh Tập. Các loại hổ báo sẽ lên thớt. Thậm chí không khéo cả rồng cũng đi theo.

Anh Nguyễn Phú Trọng đang đóng một vai trò xuất sắc trong lịch sử, như Khang Hy đã dồn nỗ lực cuối đời để đào tạo Ung Chính. Để Ung Chính nên thanh toán hết bọn sâu mọt ( không cùng phe ) tạo nên một sức sống mới cho nhà Thanh.

Anh Nguyễn Bá Thanh sẽ vào BCT và nắm chức uỷ ban kiểm tra trung ương, phát huy vai trò anh đang làm hiện nay lên một tầm cao nhất. Một trong hai anh Vương Đình Huệ, Nguyễn Xuân Phúc sẽ đảm nhiệm vai trò thủ tướng để lãnh đạo kinh tế đất nước đi đúng con đường kinh tế thị trường, xã hội chủ nghĩa.

Các chức chủ tịch nước, chủ tịch quốc hộị vốn không nhiều quyền lực, nên vào tay anh nào cũng không quan trọng.

Đấy tương lai 6 năm tới như thế , nếu anh Trọng cầm bát đĩa xóc cái mà cân tay ngay bát, bạc sẽ đi theo cầu như vậy. Các bác cứ lựa cửa mà xuống tiền.

Chỉ lăn tăn là các hổ, báo Việt Nam có chịu thúc thủ như hổ báo Trung Quốc hay không thôi.? Bây giờ đang còn bằng vai, phải lứa với nhau, một hai năm sau các anh kia được ca ngợi ngời ngời trong chiến dịch làm trong sạch Đảng. Còn các anh khác thì phanh phui từ những chuyện như Chu Vĩnh Khang, Bạc Hy Lai, Từ Tại Hậu thì con cháu ê chề lắm.

Bọn dân đen thì vẫn thế thôi, khổ sở hơn một tí, loạn lẻ tẻ diễn ra một tí trong vòng 6 năm đấy. Còn sau đó có đời sống khá hơn hay không thì tuỳ cái tâm và tài của bọn anh Nghị, Thanh, Huệ, Phúc sẽ mang lại kết quả gì.

Chỉ có bọn dư luận viên và bọn bảo vệ chính trị nội bộ là luôn được ưu ái trong chục năm nữa.

Còn anh Gió, do ngu lâu, học mãi đéo xong, vẫn cứ dặt dẹo bên này bám vào bơ thừa sữa cặn của bọn tư bản giãy chết. Vẫn phải tiếp tục gánh vác sự nghiệp chép Đại Vệ Chí Dị mở đầu cũ mèn bằng câu Nước Vệ triều nhà Sản năm thứ.....

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

Image

Vô đạo không thể an dân giữ nước
Phạm Trần
(Danlambao) - Lịch sử Việt Nam đã chứng minh không có bất kỳ thời đại nào, từ Vua chúa đến hậu Phong kiến và Cộng sản, dù tàn bạo và hà khắc bao nhiêu và dù có “trăm mưu ngàn kế” đề ra những luật lệ để kiểm soát và hạn chế tối đa các quyền tự do cơ bản của con người thì Nhà nước cũng không thể tiêu diệt được niềm tin của người dân vào Tôn giáo và Tín ngưỡng.

Bằng chứng đã xảy ra cho đạo Công giáo trong suốt 271 năm bị bách hại từ thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1615-1635) cho đến thời Văn Thân (1885-1886).

“Người ta ước lượng: dưới thời các chúa Trịnh, Nguyễn, và Tây Sơn, chừng 30,000 giáo dân bị giết; dưới thời ba vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, chừng 40,000 tín hữu bị xử tử hay chết trong lao tù; nhưng dưới thời Văn Thân có tới trên dưới 60,000 người dân Công Giáo bị sát hại.” (Trích tập sách Vụ Án Phong Thánh của tác giả Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, xuất bản năm 1987, Hoa Kỳ)

Đến thời vô thần Việt Minh Cộng Sản, dù các Tôn giáo có bị “ngăn sống cách núi” hay “làm khó đủ điều”, dân chúng vẫn âm thầm thờ phương các đấng linh thiêng theo tôn giáo hay tín ngưỡng của mình. Tình trạng hiếm Cha, thiếu Thầy, Nhà Thờ bị bỏ hoang cho thời gian tiêu hủy, Đình, Miếu bị rêu phong điêu tàn hay nhà Chùa thiếu hương khói vẫn không làm cho tín đồ nản chí bỏ đạo. Và người dân thì vẫn hiên ngang tuyên xưng ra Tôn giáo của mình với chính quyền dù có bị kỳ thị trong đời sống hàng ngày.

Và tuy lý luận duy vật coi“tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” (Karl Heinrich Marx, 1818-1883) đã được người Cộng sản Việt Nam “tuyệt đối tin và áp dụng méo mó” vào đời sống bằng những Sắc lệnh, Nghị quyết, Chỉ thị, Pháp lệnh, Nghị định bắt đầu từ Sắc lệnh thời Hồ Chí Minh (Số: 234/SL14 Tháng 06 năm 1955) cho đến Nghị định 92/2012/NĐ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2012 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, các đạo giáo vẫn tìm mọi cách vượt qua lực cản để tồn tại.

Bằng chứng nhãn tiền đã diễn ra ở miền Bắc Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) trước 1975, theo phổ biến của Bách Khoa Toàn thư (mở): “Sau cuộc di cư 1954, số linh mục còn lại tại miền Bắc chừng 28%, giáo dân chừng 60%, có những giáo phận như Thái Bình, Bùi Chu, Bắc Ninh, Phát Diệm, Hải Phòng... số người Công giáo di cư vào miền Nam khá đông. Các hoạt động chủ yếu của người Công giáo miền Bắc là giữ đạo thay vì truyền giáo bởi vì thiếu người lãnh đạo, cộng với chính sách kiềm chế tôn giáo, đặc biệt là đạo Công giáo của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tất cả các chủng viện, trường học và hầu hết các tu viện Công giáo đều bị nhà nước tịch thu. Một số linh mục và chức sắc của xứ đạo bị bắt, đi tù trong chính sách cải cách ruộng đất (1955-1956). Ngoại trừ Dòng Chúa Cứu Thế và Dòng Thánh Phaolô còn lại ở miền Bắc, các dòng tu khác đều rút lui vào miền Nam. Vì nhu cầu cần có thêm linh mục nên nhiều Giám mục đã phải truyền chức "chui" (lén chính quyền) cho một số người làm linh mục.”

Tình trạng tịch thu tài sản, đất đai của các Tôn giáo và hạn chế hoạt động của các Giáo hội cũng đã diễn ra ở trong Nam kể từ sau ngày quân Cộng sản chiếm Sài Gòn 30/04/1975. Đối với các Tôn giáo hay Giáo phái không muốn để cho Nhà nước quản trị, dù có được thêm ân huệ khi gia nhập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, như Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (Ấn Quang), hệ phái Hòa Hảo thuần túy, Cao Đài độc lập Vĩnh Long và một số hệ phái Tin Lành miền Nam v.v... vẫn thường xuyên là đối tượng bị đàn áp, canh chừng và đối xử bất công của nhà nước.

Thái độ thù nghịch với Tôn giáo và phân biệt đối xử với người dân có niềm tin vào các “đấng thiêng liêng” của đảng CSVN đã được Nhà nước thú nhận: “Do nhận thức không đầy đủ, đã có một thời kỳ chúng ta mắc phải những sai lầm nghiêm trọng trong việc đấu tranh chống tôn giáo. Chúng ta đã quá nôn nóng, cực đoan trong ứng xử với các tôn giáo cũng như với các cơ sở thờ tự của tôn giáo. Nhiều nhà thờ, chùa chiền, miếu mạo đã bị đập phá, các sinh hoạt tôn giáo bị ngăn cấm, người có đạo bị kỳ thị. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không được đảm bảo. Chính sự nóng vội đó đã dẫn đến hậu quả xấu về mặt chính trị, tư tưởng, là cơ sở để các thế lực phản động lợi dụng chống phá cách mạng nước ta. ở điểm này, rõ ràng chúng ta đã không vận dụng tốt những quan điểm về tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lênin.” (Theo: Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006. tr.236.)

Nhưng đảng chưa bao giờ xin lỗi các Tôn giáo và bồi thường thiệt hại cho các Giáo hội về những “sai lầm nghiêm trọng” của mình. Ngược lại đảng và nhà nước CSVN vẫn liên tục chống phá các Tôn giáo, người hành đạo và người theo đạo từ 1954 ở miền Bắc rồi sau đó trên phạm vi cả nước từ sau 1975.

Như vậy thì không thể bảo là “do nhận thức không đầy đủ” nên đã “nóng vội” cho hành động chống Tôn giáo của đảng. Sự liên tục thù nghịch và gây khó khăn cho các tổ chức Tôn giáo không chịu gia nhập các Giáo hội quốc doanh của đảng đã phản ảnh đầy đủ trong các văn kiện về Tôn giáo, Tín ngưỡng của nhà nước.

Hai Tác giả Mai Thị Quý (Tiến sĩ triết học, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa) và Bùi Thị Hằng (Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Hồng Đức, Thanh Hóa) đã để lộ điều này trong một bài viết chung trên Tạp chí Triết học ngày 14/11/2011.

Họ viết: “Quan điểm của Đảng ta về giải quyết vấn đề tôn giáo được thể hiện trong nhiều văn kiện của các kỳ Đại hội và được cụ thể hóa bằng các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, như Nghị quyết số 24/NQ-TW (ngày 16/10/1990) của Bộ Chính trị Về tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới... Chỉ thị số 37 CT-TW (ngày 2/7/1998) của Bộ Chính trị Về công tác tôn giáo trong tình hình mới... Ngoài ra, còn có nhiều chỉ thị, nghị quyết khác của Đảng về các mặt công tác đối với tôn giáo nói chung và từng tôn giáo nói riêng trong từng thời kỳ. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25/NQ-TW (ngày 12/3/2003) Về công tác tôn giáo. Những quan điểm của Đảng ta về công tác tôn giáo được cụ thể hóa trong Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn giáo số 21/2004/PL-UBTVQH11 ra ngày 18/6/2004.”

Quan điểm này được tóm tắt trong 5 điểm:

- Một là, tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Hai là, thực hiện nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

- Ba là, nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là vận động quần chúng. Công tác vận động quần chúng phải động viên được đồng bào nêu cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất Tổ quốc thông qua việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào các tôn giáo.

- Bốn là, công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị do Đảng lãnh đạo, trong đó, đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác tôn giáo là lực lượng nòng cốt.

- Năm là, vấn đề theo đạo và truyền đạo. Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định của pháp luật. Việc theo đạo, truyền đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị đoan, không được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền đạo, người truyền đạo và cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy định của pháp luật.

Sau khi đã “giảng giải” về chính sách Tôn giáo của Đảng qua các văn bản quy định hoạt động và quyền lợi của các Tôn giáo, hai Tác giả Mai Thị Quý và Bùi Thị Hằng tự mãn cho rằng:

“Như vậy, quan điểm của Đảng ta về tôn giáo là rõ ràng, nhất quán, đảm bảo quyền tự do, dân chủ. Trong khi đó, hiện nay, có những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước vẫn cho rằng ở Việt Nam người dân không có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Từ đó, chúng dùng nhiều thủ đoạn để kích động đồng bào có đạo gây rối, chống phá cách mạng, rơi vào âm mưu “diễn biến hòa bình” vô cùng thâm độc của chúng. Đó là những luận điệu sai lầm, xuyên tạc chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta cũng như xuyên tạc tình hình tôn giáo và các hoạt động tôn giáo ở nước ta hiện nay mà chúng ta cần kiên quyết bác bỏ.”

Gáo nước lạnh

Oái oăm thay và cũng trớ trêu cho hai cái loa “dư luận viên” Mai Thị Quý và Bùi Thị Hằng khi cả Thế giới được nghe Ông Heiner Bielefeldt, Báo cáo viên Đặc biệt của Liên Hợp Quốc về tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói trong cuộc họp báo ngày 31/07 (2014) tại Hà Nội: “Tôi kinh ngạc thấy phạm vi của tự do tôn giáo vẫn còn rất hạn chế và không rõ ràng.”

Ông Bielefeldt đã đưa ra “những phát hiện sơ bộ và một số nhận xét” sau 10 ngày làm việc tại Việt Nam từ 21 đến 31 tháng 7 năm 2014. Ông nói với báo chí: “ Không định kiến về tính chính xác của tất cả các sự kiện thực tế của tất cả các trường hợp cụ thể đã được báo cáo với tôi, tôi tin rằng, những vi phạm nghiêm trọng đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng là một thực tế đang diễn ra ở Việt Nam - nhất là ở các vùng nông thôn, tuy không phải chỉ có ở nông thôn.”

Không có gì phải bàn cãi thêm về nhận xét bi quan của ông Bielefeldt vì sự thật đã diễn ra như thế từ khi đảng CSVN cầm quyền ở miền Bắc Việt Nam sau ngày đất nước chia đôi 20/07/1954.

Chủ trương bài xích tôn giáo, tín ngưỡng và chống người có đạo để bảo vệ Chủ nghĩa vô thần luôn luôn được coi là nhiệm vụ cốt lõi hàng đầu của mỗi đảng viên Cộng sản Việt Nam.

Vì vậy, ông Bielefeldt mới nói: “Trong bối cảnh này, tôi muốn nhấn mạnh rằng thông qua nhiều cuộc trao đổi thảo luận của tôi với các thành viên của các cộng đồng tôn giáo, mà một vài tổ chức trong số đó đã chính thức đăng ký với chính quyền và thậm chí còn là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, mọi người đã bộc lộ nhận thức chung về những hạn chế hiện tại trong quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều đáng ngạc nhiên hơn cả là các lãnh đạo cấp cao của tòa án chưa hề nghe đến bất kỳ trường hợp nào một cáo buộc vi phạm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng đã được đưa ra tòa.”

Sự ngạc nhiên của ông Bielefeldt rất dễ hiểu vì hệ thống Tòa án do đảng kiểm soát và chi phối ở Việt Nam không có thói quen bảo vệ quyền lợi tinh thần của người dân, dù có thấy rõ những vi phạm của nhà nước. Đối với các quan tòa do đảng chỉ định thì các quyền tự do của người dân, nhất là các các quyền tự do ngôn luận, tư tưởng và tín ngưỡng dù đã được Hiến pháp quy định là “dân quyền”, nhưng chúng vẫn thấp hơn và không quan trọng bằng “quyền lãnh đạo toàn xã hội của đảng”.

Hơn thế nữa, với một chế độ công an trị như ở Việt Nam thì không người dân nào dám đi kiện nhà nước đã “vi phạm quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng” để tránh bị đàn áp bằng đủ mọi mưu chước của công an và “công an đội lốt côn đồ” mà chưa biết đến bao giờ vụ án mới được đem ra xét xử, nếu có.

Đặc phái viên của Liên Hiếp Quốc còn cáo buộc Chính phủ Việt Nam đã ngăn cản và làm khó dễ chuyến đi của ông: “Dự định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn không may đã bị gián đoạn từ ngày 28 đến 30 tháng 7. Tôi nhận được những thông tin đáng tin cậy là một số cá nhân tôi muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt chẽ, cảnh cáo, đe dọa, sách nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi lại. Ngay cả những người đã gặp được tôi cũng không tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc chất vấn ở một mức độ nhất định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng bị giám sát chặt bởi “những cán bộ an ninh hoặc công an” mà chúng tôi không được thông báo rõ, đồng thời sự riêng tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh hưởng. Những việc này là sự vi phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu của bất kỳ chuyến thăm quốc gia nào.”

Tố cáo nghiêm trọng này đã bị phủ nhận bằng câu nói ngắn của Phó Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao Phạm Hải Anh: “Về một số vấn đề ông Beilefeldt nêu tại cuộc họp báo ngày 31/7, tôi cho rằng đã có sự hiểu lầm, chưa trao đổi hết thông tin.”

Tại sao lại “hiểu lầm” vì “chưa trao đổi hết thông tin” khi bằng chứng gây khó khăn điều tra cho đặc phái viên của Liên Hiệp Quốc đã rõ như ban ngày? Tại sao nhà nước Việt Nam lại không điều tra cho ra nhẽ để bảo vệ “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền” mà để bị mang tiếng xấu đã ngăn cản cuộc “thăm dân cho biết sự tình” của đặc phái viên Liên hiệp quốc?

Ông Bielefeldt còn nói: “Tôi đã được nghe một số cáo buộc nghiêm trọng về các vi phạm cụ thể đối với quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng ở Việt Nam. Các vi phạm được báo cáo gồm có những vụ vây bắt nặng tay của công an; những trường hợp thường xuyên được mời lên đồn công an “làm việc”; các hoạt động tôn giáo bị giám sát chặt chẽ; các lễ hội và nghi thức làm lễ tôn giáo bị cắt ngang; các vụ giữ tại nhà, đôi khi trong thời gian dài; các vụ bỏ tù, đôi khi cũng trong cả một quãng thời gian dài; các vụ đánh đập và hành hung; bị mất việc làm; mất phúc lợi xã hội; gây áp lực đối với những người trong gia đình; hành động phá hoại; phá dỡ những nơi thờ tự, nghĩa trang và các nhà tang lễ; tịch thu tài sản; gây áp lực một cách có hệ thống để phải từ bỏ một số hoạt động tôn giáo nhất định và chuyển sang hoạt động theo các kênh chính thức được thiết lập cho việc thực hành tôn giáo; và gây áp lực để bắt từ bỏ tôn giáo hay tín ngưỡng. Tôi cũng đã gặp một tù nhân lương tâm tại trại giam nơi đang thụ án.”

Trong thâm tâm CSVN

Ngoài ra ông Bielefeldt cũng nêu ra nhiều điều “mơ hồ” của Hiến pháp, luật pháp hay các văn kiện liên quan đến thực thi quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng nhằm hạn chế tối đa quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Những nhóm chữ như: “lợi ích xã hội”, “lợi dụng”, “pháp luật Việt Nam”, “không phù hợp với lợi ích chính đáng của số đông” v.v.. đã được các viên chức Chính phủ đưa ra để bảo vệ cho quyền kiểm soát các hoạt động tôn giáo.

Nhìn chung tất cả những đánh giá càng ngày càng tồi tệ về các quyền con người, đặc biệt quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam của ông Heiner Bielefeldt rất chính xác. Những “hầm chông” và “bãi mìn” đã được đảng CSVN gài đặc trong Hiến pháp khi nói về Quyền con người luôn luôn có sợi dây thòng lọng “do pháp luật quy định” theo quy định của pháp luật” hay “do luật định”!

Những Nghị quyết, Nghị định, Pháp lệnh, Chỉ thị liên quan đến hoạt động Tôn giáo đã chồng chéo lên nhau với muôn vàn những hạn chế, điều kiện bắt buộc chỉ cốt làm mất đi hiệu lực của Hiến pháp, bộ Luật cao nhất của Quốc gia.

Và ai cũng biết từ lâu, nhà nước Việt Nam thường đưa ra những con số tu viện, chủng sinh, nhà thờ, thánh thất, đền, chùa, tu sĩ và số người đi lễ chùa, dự lễ nhà thờ của bổn đạo để phô trương Việt Nam có “tự do tôn giáo” và quyền tự do thờ phượng của người dân được nhà nước nhìn nhận và bảo vệ.

Nhưng trong đời sống thực tế thì đảng Cộng sản vô thần Việt Nam chưa bao giờ chứng minh họ đã thật tâm muốn thấy Tôn giáo “không phải là liều thuốc độc”, “không còn là thế lực thù địch”, không phải nằm trong “âm mưu diễn biến hòa bình” của Đế quốc và những người có tín ngưỡng, nhất là người theo đạo Công giáo và Tin lành cũng là những công dân như những người khác không còn bị kỳ thị và theo dõi.

Và đến bao giờ thì đảng CSVN mới hết còn xuyên tạc Công giáo và Tin lành là hai Tôn giáo được “địch lợi dụng” để chống phá Đàng và Nhà nước như một Tài liệu được luân chuyển “nội bộ” ở Tỉnh Lào Cai, ngày 24 tháng 12 năm 1998?

Cũng như thế, bao giờ ở Việt Nam mới có một Quốc hội và một Đảng cầm quyền không còn ngót 100% người ghi trong lý lịch chữ “KHÔNG” to tướng khi khai về Tôn giáo-Tín ngưỡng?

(08/014)
Phạm Trần

danlambaovn.blogspot.com

User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

McCain nhắc nhở VN về dân chủ

Image
Ông McCain là một vị khách quen thuộc ở Việt Nam
Thượng nghị sỹ Mỹ John McCain đã nhắc nhở Việt Nam về dân chủ trong bài phát biểu trước báo giới tại Hà Nội hôm thứ Sáu ngày 8/8 nhân chuyến thăm Việt Nam của ông và người đồng nhiệm Sheldon Whitehouse.

Chính trong bài phát biểu này, vị thượng nghị sỹ hàng đầu của Đảng Cộng hòa đã đề cập đến khả năng Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam nhưng nhấn mạnh rằng việc này tùy thuộc rất lớn vào thành tích nhân quyền của Chính phủ Việt Nam.

Tuy nhiên, báo chí trong nước khi đưa tin về bài phát biểu của ông McCain không hề đả động gì đến lời nhắn gửi của ông McCain về dân chủ và nhân quyền.

Nhắc lại lời thủ tướng

“Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhìn nhận rằng cần phải làm nhiều hơn (về nhân quyền) chỉ vì một lý do trên hết: điều này tốt cho Việt Nam, có lợi cho ổn định, thịnh vượng và thành công của đất nước,” theo toàn văn bài phát biểu được đăng trên trang web riêng của ông McCain.

Nhắc lại thông điệp Năm Mới của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng rằng ‘dân chủ là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển’ và rằng ‘Đảng phải giương cao ngọn cờ dân chủ’, ông McCain nói:

“Chúng tôi mong là Việt Nam sẽ đưa những lời nói ấn tượng này thành hành động táo bạo chẳng hạn như thả tù nhân lương tâm, tạo không gian cho xã hội dân sự và cuối cùng là ghi rõ vào luật và chính sách rằng quyền lực nhà nước là giới hạn và những quyền con người phổ quát – quyền tự do phát biểu, hội họp, tín ngưỡng, xuất bản và tiếp cận thông tin – cần phải được đảm bảo cho mọi công dân.”

Ông nói ông tin rằng Việt Nam có thể ‘là một tấm gương đáp ứng được những mong đợi ngày càng tăng của người dân về dân chủ, quản trị tốt và pháp trị, thịnh vượng và phát triển xã hội, môi trường trong sạch và sức mạnh quốc gia để bảo vệ nền độc lập’.

“Đó sẽ là một tấm gương có thể khuyến khích những nước khác trong khu vực, bao gồm láng giềng của quý vị ở phương Bắc, phải tự hỏi: tại sao chúng ta không làm giống như Việt Nam?”

Cựu ứng viên tổng thống Mỹ bày tỏ mong muốn quan hệ Việt-Mỹ trong những năm tới sẽ dựa trên ‘những giá trị chung’ sau gần 20 năm dựa trên ‘những mục tiêu và lợi ích chung’.

Ông McCain cũng hứa hẹn Mỹ sẽ có ‘tư duy và hành động mới’ trong quan hệ với Việt Nam.

“Chúng tôi sẵn sàng đàm phán xong hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), làm việc với Việt Nam để đáp ứng các tiêu chuẩn để được Mỹ công nhận là nền kinh tế thị trường,” ông nói.

“Chúng tôi sẵn sàng tăng cường hợp tác quân sự và tăng các chuyến viếng thăm của tàu chuyến đến mức mà Việt Nam cho phép – không phải bằng cách thiết lập căn cứ, điều mà chúng tôi không có ý định – mà bằng các thỏa thuận giữa hai nước,” ông nói thêm.

“Chúng tôi cũng sẵn sàng tăng hỗ trợ an ninh để giúp Việt Nam cải thiện khả năng nhận thức về lãnh hải và xây dựng năng lực bảo vệ quyền chủ quyền.”

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Làm luật để nuôi tham nhũng
Ngô Nhân Dụng

Nước nào cũng có luật lệ. Không đặt ra luật thì lộn xộn lắm. Nhưng nhiều luật quá thì không tốt. Chính phủ mới ở Ấn Ðộ đang tính sẽ giảm bớt các luật lệ ràng buộc giới kinh doanh, đặc biệt là những xí nghiệp, cửa hàng nhỏ. Giảm bớt luật cho người làm ăn thì chắc chắn kinh tế sẽ khá hơn. Còn một lý do nữa: Luật càng nhiều, càng khó khăn thì càng nuôi tham nhũng. Bởi vì một điều luật nào đặt ra cũng giới hạn quyền hành động của một số người; tự nhiên phải ban thêm quyền thi hành luật cho một số người khác, từ luật đổ rác tới luật đi đường, luật bảo hiểm y tế hay luật ngân hàng, vân vân.

Tôi mới đọc, đọc lại, cuốn sách kể chuyện nước Tàu cộng sản, nước Trung Hoa của Jan Wong, tác giả là Jan Wong, tên cô đầy đủ, đọc theo lối Hán Việt là Vương Quý Minh. Có một chuyện cũ nhưng vẫn rút được ra bài học về tham nhũng lạm quyền.

Jan Wong đã sống ở Bắc Kinh hai lần, lần đầu làm một sinh viên, lần sau là nhà báo, mỗi kỳ lâu năm, sáu năm. Năm 1999 cô trở lại Trung Quốc trong khi vẫn bị cấm từ năm 1996 vì viết cuốn Red China Blues. Cô may mắn qua mắt được trạm kiểm soát biên giới ở Hồng Kông nhờ khi làm lại passport (hộ chiếu) cái tên cô đã được vị thư ký nào đó vô tình viết theo cách khác. Người Tây viết tên Tàu (hay Việt) thường lẫn lộn tên với họ, chữ nào trước, chữ nào sau, lại thêm tên đệm! Chuyến du hành bí mật này được cô viết thành sách: Jan Wong's China. Trong chương 12 cô kể kinh nghiệm những người học lái xe hơi ở Bắc Kinh.

Năm 1981 chỉ có 20 chiếc ô tô của tư nhân ở Bắc Kinh, năm 1999 đã có hơn triệu rưỡi xe, cả công và tư chia nhau mặt đường cùng với hơn sáu triệu chiếc xe đạp. Ðiều kinh hoàng là ở Bắc Kinh có một triệu người mới lái xe lần đầu trong đời. Tất nhiên, mở trường dạy lái xe là một việc kinh doanh hái ra tiền. Chính quyền đã làm luật: Nếu không “tốt nghiệp” từ một trường dạy lái thì không được dự thi lấy bằng lái xe.

Nghe điều kiện này, chắc quý vị nghĩ đó là chuyện thường tình; nhiều nước trên thế giới chắc cũng có luật tương tự. Một số nước có thể cho ai muốn tự học lấy cứ nhờ người chỉ, rồi tự ghi tên thi; còn ai muốn đi học lái thì trả tiền nhà trường chứ không bắt buộc.

Khi nhà nước bắt phải làm một điều gì, ghi thành luật lệ, thì sinh ra nhiều chuyện lắm. Luật lệ ở Bắc Kinh bắt đi học, vậy phải học bao lâu người ta mới được đi thi bằng lái xe? Cô Jan Wong sinh trưởng ở Canada, cô cho biết tại tỉnh Québec cô phải học lái xe 12 tiếng đồng hồ mới đủ sức đi thi. Còn ở Bắc Kinh thì sao? Thưa, từ bốn tháng tới sáu tháng! Tới sáu tháng? Thưa vâng, nếu quý vị may mắn. Vì nếu thi rớt lần thứ ba, thí sinh bắt buộc phải đi học lại từ đầu, thêm sáu tháng nữa! Có một trường, của công ty Toyota, mở lớp luyện thi cấp tốc, trong hai tháng!

Quý vị có thể nghĩ oan, kết luật rằng người Trung Hoa bẩm sinh khó học lái xe cho nên phải mất đến sáu tháng mới tập lái xe được, trong khi người Canada chỉ tập mất 12 giờ. Bởi vì ở Ðài Loan, cũng là người Trung Hoa mà họ không mất nhiều thời giờ như vậy. Dân Ðài Loan có thể xin một “Bằng lái xe tập sự,” được phép lái ở trong khu thực tập và một số đường có giới hạn, sau ba tháng đến thi lấy bằng chính thức. Sở Xe Tự Ðộng (giống như DMV ở Mỹ) còn khuyên người ta “đi học ở trường cũng được, nhưng rất tốn tiền và tốn thời giờ.” Trong lục địa Trung Hoa Cộng Sản, phải học một trường lái xe, dự một kỳ thi viết của nhà trường. Bài thi có 100 câu hỏi, đáp trúng 90 câu mới đậu, sau đó mới được đi thi với nhà nước.

Cho nên cô Jan Wong kể chuyện một cô bạn đi học lái xe, rất vất vả. Sáng dậy sớm, tới trường, việc đầu tiên là lau rửa xe cho thầy, bằng tay tất nhiên. Sau đó, pha trà mời thầy xơi. Cảnh này làm tôi nhớ hồi sáu, bẩy tuổi đi học chữ Nho. Bài học đầu tiên là “sái, tảo, ứng, đối.” Nghĩa là quét dọn, thưa gửi. Chúng tôi đã quét nhà, trải chiếu, lau bàn, rửa ấm, tách, đu nước, pha trà, rồi mời thầy ra phòng học. Té ra người Trung Hoa là cộng sản mà vẫn giữ nền nếp cũ! Khi thầy bắt đầu dạy lái xe, bốn cô học trò cùng lên xe với thầy, ba cô ngồi sau, có dịp nghe thầy giảng, lại thực hành đúng câu: Học thầy không tày học bạn. Cứ như thế, học năm ngày mỗi tuần. Nhiều buổi thầy cho ba cô về sớm, chỉ giữ một cô lại học riêng với thầy.

Một anh bạn khác của Jan Wong, anh này là một ký giả, cho biết trong tháng đầu tiên anh chỉ học luật đi đường thôi. Trong hai tháng tiếp theo, học về bộ máy của cái xe. [Hay thật. Mình không được sống ở Bắc Kinh, lái xe cả đời vẫn không để ý trong xe nó có cái máy, cũng chẳng bao giờ biết vì sao cái máy nó lại làm cho xe chạy được, lái được. Ðúng là đồ vô học.] Riêng một tháng thứ tư, học sinh được dạy cách đậu xe. [Bây giờ mới nghĩ ra, thảo nào mà mình cứ hay bị phạt vì đậu xe! Chỉ vì không được học!] Tới tháng thứ năm, anh nhà báo này mới được “ra đường.” Nhưng nhà trường thiếu xe nhỏ, anh được tập với chiếc xe vận tải hai tấn. Anh bạn của Jan Wong (tôi đoán tên là Giang Thiệu Vi) may mắn, là người duy nhất lên bảng vàng ngay lần thi đầu (nhà báo chắc phải thông minh lắm), năm người bạn cùng lớp trúng cách lần thi thứ nhì, hai người chót lần thứ ba mới đậu.

Cứ theo câu chuyện này thì thấy người Trung Hoa theo chế độ cộng sản mà vẫn giữ được nhiều nếp cũ. Thứ nhất là coi việc giáo dục là quan trọng, đi thi bằng lái xe mà mất sáu tháng chứng tỏ người ta kính trọng việc học đến thế nào. Thứ nhì là họ vẫn kính trọng thày, không thày đố mày làm nên. Khác hẳn đám sinh viên ở Canada. Trong mười lăm năm làm việc ở đó, mỗi khóa tôi đều phải phát giấy cho sinh viên dùng để chấm điểm thầy, niêm kín, nộp cho ban giám hiệu.

Nhưng bất cứ người dân nào ở Canada, hay ở Mỹ, nếu bắt họ phải tới trường học lái xe như người dân Trung Hoa rồi mới được thi lấy bằng, người ta sẽ biểu tình phản đối ngay. Bởi vì một điều luật như vậy giới hạn quyền tự do của người dân “một cách vô ích.” Nếu họ tập lái xe trong vòng 12 giờ cũng được, tại sao bắt người ta phải tới trường học mấy tháng? Tại sao lại quy định phải được nhà trường chấm đậu rồi mới được đi thi thật? Riêng một điều luật cỏn con đó thôi cũng đủ sinh ra bao nhiêu thứ nhũng lạm. Bởi vì nó ban cho một số người thêm “quyền khảo hạch” các công dân khác trong xã hội. Khi đã nắm được một món quyền hành nào đó trong tay, người ta sẽ nghĩ ra ngay cách lạm dụng!

Một bản tin Reuters cho biết người đi học lái xe ở Bắc Kinh vào năm 2012 phải trả 8,000 đồng Nguyên, tương đương với 1,300 Mỹ kim. Trong năm 2011, nhà nước phát gần 23 triệu bằng lái xe mới, đây là một ngành kinh doanh trị giá gần 24 tỷ Mỹ kim! Một trường dạy lái xe ở Bắc Kinh mỗi năm sản xuất 10,000 cái bằng, số thu hơn hơn 10 triệu đô la! Với các kỳ thi ngặt nghèo như vậy, khi ra trường các thí sinh sẽ sống với thực tế phũ phàng: Người lái xe thật chẳng ai quan tâm đến luật lệ! Trong năm 2010, báo cáo chính thức của nhà nước Trung Cộng cho biết có 3 triệu 900 ngàn tai nạn, chết hơn 65 ngàn người và 254 ngàn người bị thương tật. Ở Mỹ, dân ít hơn nhưng xe nhiều hơn, trung bình mỗi năm 37,000 người chết vì đụng xe, và hơn 2 triệu người bị thương, cũng không khác bao nhiêu.

Nhưng điều đáng chú ý, là luật lệ về thi bằng lái xe ở Trung Quốc đã tạo ra một tầng lớp nắm đặc quyền: các trường và các ông thày dạy lái xe. Nhờ một điều luật thôi, họ có một nguồn lợi lớn, và nắm quyền “sinh sát” bao nhiêu người khác trong tay, trong đó có các cô cậu đi học lái xe. Quyền hành sinh ra nhũng lạm; quyền tuyệt đối đẻ ra nhũng lạm tuyệt đối. Câu này ai cũng biết, nhưng khi nghe kể chuyện đi học để thi bằng lái xe ở Bắc Kinh chúng ta thấy một thí dụ cụ thể. Cô Jan Wong còn kể nhiều chuyện cô bí mật ghi lại trong chuyến lẻn vào thăm nước Trung Hoa năm 1999.

Jan Wong sinh ra ở Montréal, Canada. Gia đình khá giả, ai cũng biết những “tửu lâu,” tức là tiệm cơm Tàu do cha cô làm chủ, từ giữa thế kỷ 20. Lúc đang học Ðại Học McGill, cô đọc báo thấy sinh viên Trung Quốc làm Cách Mạng Văn Hóa, thích quá, tự ý xin vào Bắc Kinh Ðại Học. Rồi tham gia Hồng Vệ Binh. Rồi vỡ mộng. Trở về nhà, cô lại đi học nghề báo (Ðại Học Columbia), rồi được báo Globe and Mail cử sang Bắc Kinh. Trong dịp đó cô lại được chứng kiến (trước mắt) cảnh sinh viên, công nhân bị tàn sát tại Thiên An Môn. Cô đếm, theo lối học từ trường báo chí, kết luận có ít nhất 3,000 người bị giết.

Một người bạn ở Montréal tặng tôi cuốn Jan Wong's China từ hơn 10 năm trước, có lần tôi đã trích thuật mấy chuyện trong sách khi viết mục này. Tuần trước, tôi đang đứng trước cửa thư viện xã Fountain Valley thì gặp nhạc sĩ Võ Tá Hân. Trò chuyện với nhau bên cạnh mấy kệ bày sách cũ, giá một đô la mỗi cuốn, tôi chợt trông thấy cái bìa cuốn sách quen quen, đọc tên thì nhận ra: Jan Wong's China. Tôi rút cuốn sách ra, giới thiệu với Võ Tá Hân: Nên đọc cuốn này, hay lắm, mình đã đọc cuốn này rồi. Ðã có một cuốn rồi, lâu lắm không nhớ để đâu nữa. Hân nói anh cũng để ý, vì ngó cái bìa cuốn sách thấy ló hình một anh cán bộ. Mở cuốn sách coi, Võ Tá Hân bảo tôi: Anh đọc thử trang này đi. Nhìn mới thấy, trên trang đầu có hàng chữ đề tặng, tặng cho tôi, với chữ ký của Trần Tuấn Dũng, Montréal! Mang cuốn sách về nhà, đọc lại, vẫn thấy có nhiều chuyện lý thú. Bởi vậy mới có câu chuyện kể hầu quý vị hôm nay.

[Nhân tiện, xin kể thêm một chuyện ngoài lề. Tháng trước, tôi cũng thấy ở trước cửa viện xã Fountain Valley một cuốn sách History of Mathematics của David Eugene Smith. Nhìn gáy sách quen quen, tôi nhớ mình đã có một trong hai cuốn của bộ này, đọc đi đọc lại không chán. Ðây là cuốn số hai, chắc ở nhà mình đã có cuốn số một. May quá, bèn thỉnh về! Về nhà, mở coi, mới thấy những trang có đánh dấu vạch vàng, vạch xanh, đỏ, rất quen. Coi nội dung thì nhận ra cuốn này mình đã có rồi. Cuối cùng, lại thấy cả những hàng chữ bên lề trang sách, viết bút chì, mới nhận ra đây chính là chữ mình viết. Không hiểu ai mượn rồi quên trả, cuốn sách đã lưu lạc, được đem tặng thư viện, rồi lại có dịp trở lại nhà mình! Phải cảm ơn tất cả những người tặng sách cũ cho thư viện. Tôi vẫn ghi một câu của Anatole France, mà không chịu áp dụng. France nói: Ðừng cho ai mượn sách. Hãy coi gương tôi: Trong tủ sách của tôi toàn là sách mượn.

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Trung Quốc: gieo gió rồi chặn bão

Nguyễn-Xuân Nghĩa

Vì sao kinh tế Trung Quốc khó tránh được khủng hoảng?

Khi một tổ chức lạc quan kinh niên như Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế IMF - lạc quan vì không dự báo được nhiều vụ khủng hoảng kinh tế đã qua - mà lại vừa cảnh báo vào Tháng Bảy về nguy cơ “hạ cánh nặng nề” của kinh tế Trung Quốc, thì ta nên chú ý đến tin tức khí tượng kinh tế: Giông bão kinh tế xứ này có thể nổi lên từ nay đến năm 2020.

Khi các chuyên gia quốc tế đều đổi vui thành buồn mà nói về nguy cơ khủng hoảng sắp tới tại Trung Quốc, tất nhiên là lãnh đạo Bắc Kinh cũng phải biết. Họ còn biết được và nói ra những gì phải làm để thoát khỏi cơn chấn động ấy. Nhưng, vì kinh tế cũng là chính trị - nội dung của cột báo định kỳ này - họ biết mà làm không nổi.

Ác nghiệp kinh tế cũng là một quy luật!

Nói nôm ra, đã gieo gió rồi thì khó chặn bão - mà chỉ có thể gặt. Mùa gặt thảm khốc đang bắt đầu....


***


Quý độc giả không có nhiều thời giờ, mà cột báo này cũng chẳng là một cuốn sách, nên xin... vèo trông lá rụng đầy sân:

Sáu năm trước, tổ hợp đầu tư Lehman Brothers sụp đổ vào Tháng Chín năm 2008 và thổi lên vụ khủng hoảng tài chánh toàn cầu. Khi đó, tổ hợp Lehman đứng hạng bốn trong các ngân hàng đầu tư Mỹ, đang quản lý một số tài sản trị giá khoảng 640 tỷ Mỹ kim, bằng 5% tổng sản lượng Mỹ. Ngày nay, tài sản do ngân hàng đứng hạng thứ tư của Trung Quốc đang quản lý lại trị giá 25% tổng sản lượng Trung Quốc. Mà ngân hàng BOC này đứng sau ICBC, CCB và ABC: tài sản của bốn ngân hàng ấy lớn bằng 60% tổng sản lượng GDP của kinh tế Trung Quốc.

Người không biết đếm thì trầm trồ ngợi khen kinh tế Trung Quốc đã lớn như thổi trong mấy chục năm và vượt mặt kinh tế Anh, rồi Ðức rồi Nhật để nay mai sẽ bắt kịp Hoa Kỳ. Người biết đếm thì biết lo vì không đếm ra phần nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Trung Quốc, thuộc diện bí mật quốc gia. Bí mật đến nỗi lãnh đạo Bắc Kinh cũng không biết luôn!

Người không biết đếm thì nói đến khối dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh, nay lên tới bốn ngàn tỷ đô la. Nếu kể thêm lượng vàng dự trữ trong công khố - một bí mật quốc gia khác - được ước lượng khoảng bốn ngàn năm trăm tấn, trị giá gần 200 tỷ đô la tính theo giá hiện hành, thì Bắc Kinh có đủ vốn dằn lưng để vượt qua sóng gió.
Người biết đếm thì biết lo hơn vậy.

Qua ba thập niên, kinh tế Trung Quốc thuộc diện “uống sâm để đạp xe hai bánh cho mạnh.” Xe chạy chậm là đổ. Ðó là chiến lược ráo riết đầu tư để tìm tốc độ tăng trưởng cao và sản xuất dư thừa thì xuất cảng bằng mọi giá để thu về ngoại tệ cho nhà nước. Nhưng kinh tế chính trị học Trung Quốc khiến lãnh đạo và tay chân thì uống sâm, còn dân đen và các doanh nghiệp tư nhân thì đạp xe chết bỏ. Kinh tế học gọi đó là hiện tượng “tầm tô,” rent seeking, là những kẻ có ưu thế chính trị và kinh doanh thì khai thác ưu thế đó cho mình, qua chánh sách và luật lệ đầy lệch lạc.

Ưu thế ấy không tạo ra những của cải có giá trị cho quốc dân trong trường kỳ mà chỉ đem lại đặc lợi cho một thiểu số ở trên. Ðó là chuyện gieo gió.

Khi Mỹ bị khủng hoảng từ vụ Lehman và hàng loạt cơ sở tài chánh và bảo hiểm khác, kinh tế toàn cầu bị tổng suy trầm 2008-2009. Ðấy là lúc Bắc Kinh lại rót sâm nữa: gia tăng công chi và bơm thêm tín dụng qua hệ thống ngân hàng của nhà nước cho các doanh nghiệp của nhà nước cùng các công ty đầu tư của các chính quyền địa phương, tức là vẫn của nhà nước. Nếu có gì lọt xuống dưới thì tư nhân còn được hưởng, nhưng đa số thì phải vay lại, hoặc vay chui với giá đắt hơn và bị nhiều rủi ro hơn.

IMF thì đếm là từ 2008 đến 2013, tổng số tài trợ tăng bằng 73% của tổng sản lượng và xác nhận rằng con số thật có thể cao hơn. Nhiều tổ hợp đầu tư hay cơ quan nghiên cứu thì nói đến 100%, tăng gấp đôi tổng sản lượng. Tổng sản lượng đó nay ở khoảng chín ngàn tỷ đô la: trong năm năm, Trung Quốc đã rót sâm trị giá chín ngàn tỷ! Gấp đôi liều thuốc bổ của Mỹ.

Con số thật có khi còn vĩ đại hơn: Tháng Năm vừa qua, công ty đầu tư Hoisington Investmnent Management Company tại Hoa Kỳ ước tính là tổng số dư nợ của tư nhân và nhà nước Trung Quốc lên tới 420% tổng sản lượng 2013, so với 320% vào năm 2008.

Người biết đếm vì theo dõi tin tức khí tượng kinh tế còn chỉ ra một quầng mây đen khác: khi đầu tư và tín dụng tiếp tục đổ ra thì phần tiêu thụ nội địa lại giảm. Từ 40% tổng sản lượng - con số quá thấp - nay chỉ còn chừng 36%, thậm chí 34%. Người uống sâm và kẻ đạp xe là vậy, nếu ta so sánh với tiêu thụ tại Mỹ (70%), Nhật (61%) hay Nam Hàn (52%).

Bây giờ, hãy nói đến trận bão.

Lãnh đạo Bắc Kinh là lương y có tài, hơn người Hà Nội, vì biết kinh tế Trung Quốc cần phương thuốc vừa “bổ” vừa “tả,” vừa tăng trưởng vừa sửa sai thì mới phát triển. Sai thì rất nhiều và họ có nói tới từ năm 2003, từ 10 năm trước. Nhưng sửa không được vì đụng vào thực chất “tầm tô.” Cải sửa là thu hẹp quyền lợi của thiểu số ở trên. Vì vậy, chỉ có bổ mà chẳng có tả và kinh tế lâm bệnh.

IMF nhẹ nhàng nói theo ngôn ngữ ngoại giao, rằng kinh tế Trung Quốc đang là mạng lưới rủi ro (web of vulnerabilities) trùm lên năm khu vực là địa ốc, doanh nghiệp, chính quyền địa phương, các ngân hàng và hệ thống ngân hàng chui shadow banking. Mà muốn đẩy lui giông bão thì phải trả lại nợ và chấn chỉnh lại sổ sách chi thu, tức là chấp nhận một đà tăng trưởng thấp hơn.

Nhưng, dù Nghị Quyết Ba của Hội Nghị Ban Chấp Hành Trung Ương đã nói ra nhu cầu cải sửa để chuyển hướng từ cuối năm ngoái, qua năm nay, lãnh đạo Bắc Kinh tiếp tục rót sâm với biện pháp kích thích kinh tế được nói trước là nhỏ nhoi xíu xiu, mà thật ra lại cao hơn dự tính.

Cánh buồm vẫn góp gió để lao vào giông bão.

Vì kinh tế cũng là chính trị, ta có quyền tự hỏi vì sao Bắc Kinh vẫn không chuyển hướng? Có hai cách giải thích đều... nguy như nhau.

Một là lãnh đạo xứ này muốn xoay tay lái mà vẫn thúc thủ vì tay lái đã bị các thế lực hay nhóm lợi ích xiềng vào một hướng - cái hướng có lợi cho họ. Vì thế, Tập Cận Bình mới ra tay diệt trừ tham nhũng và tìm cách thâu tóm lại quyền lực để rồi mới xoay trong tương lai.

Hai là vì chủ quan duy ý chí, lại căn cứ trên cách đếm của mình, Bắc Kinh cho là tình hình chưa đến nỗi nào. Như gánh công trái (nợ của khu vực công) và ngoại trái (nợ ngoại quốc) còn thấp, tiết kiệm của dân còn cao và hệ thống kiểm soát của nhà nước còn có khả năng chặn đường tháo chạy của tư bản, v.v... Cho nên Trung Quốc có thể vững tay chèo trong ít lâu nữa - và tiếp tục gây bão.

Nhưng, điều mà họ thiếu chính là thời gian. Càng trì hoãn thì càng gia tốc cho sóng gió.

Trong khi đó, môi trường quốc tế lại có những rủi ro mới từ Âu Châu, Hoa Kỳ đến Nhật Bản và nhiều nước đang phát triển khác. Khi ngần ấy vấn đề lại dồn làm một, Bắc Kinh không thể chặn bão. Và khác với các vụ khủng hoảng tại Nhật năm 1991, tại Ðông Á năm 1997, tại Âu Châu và Hoa Kỳ năm 2008, một vụ khủng hoảng tại Trung Quốc lần này có thể quạt thẳng vào chế độ...

User avatar
tiendung
Posts: 347
Joined: Wed Dec 01, 2010 10:09 pm

Post by tiendung »

Chuột và người

Ngô Nhân Dụng

Tư Mã Thiên kể sự tích Lý Tư, thừa tướng nước Tần, giới thiệu: Lý Tư là người Thượng Thái, nước Sở, lúc thiếu thời làm tiểu lại cấp quận, thấy tại nhà xí của lại xá chuột ăn đồ không sạch; người hay chó đến gần thì nhiều con kinh sợ. Tư vào kho lẫm, nhìn chuột ăn thóc trữ trong kho, ở dưới ngôi nhà lớn, chuột không vì thấy người hoặc chó mà lo lắng gì cả. Lý Tư thấy thế thở dài than rằng: “Con người ta tốt xấu, cao thấp cũng giống như chuột, tùy chỗ mà cư xử.” Ðoạn này trích từ Sử Ký, số 87, Lý Tư liệt truyện, nằm trong phần liệt truyện.

Tình cờ chiều hôm qua gặp lại đoạn văn kỳ thú trên, tôi chợt liên tưởng tới đảng Cộng Sản Việt Nam. Vì tuần trước mới được biết thêm về hành trạng của quý vị lãnh đạo đảng sau khi đọc Ðèn Cù của Trần Ðĩnh. Nếu đặt đoạn này vào trang mở đầu cho Ðèn Cù thì thú lắm. Cũng những người đó, khi ở trong rừng thì họ cư xử với nhau một cách, khi về thành phố họ đối đãi với nhau khác hẳn. Ở trong rừng Việt Bắc, Trần Ðĩnh kể, lãnh tụ với thuộc cấp không xa cách. Trường Chinh vừa là tổng bí thư đảng, vừa làm chủ nhiệm báo Sự Thật, khi thấy mấy anh em trong tòa báo đùa giỡn ồn ào, nói một câu thì họ nói lại, phải dịu giọng yêu cầu: “Các cậu ra ngoài đùa với nhau cũng được, ở đây tôi đang làm việc.” Nói vậy thì ai cũng hiểu, vui vẻ nghe lời; mà không khí thấy thân mật, không phân biệt cao, thấp, trên dưới.

Khác hẳn cảnh sau này, Trường Chinh bị Lê Duẩn gạt ra ngoài, đưa Lê Ðức Thọ, Nguyễn Chí Thanh lên làm vây cánh. Khi Trần Ðĩnh được lệnh Thọ viết tiểu sử chính thức của Hồ Chí Minh. Viết xong, đem in rồi, Lê Ðức Thọ mới bảo đem một bản cho Trường Chinh đọc. Trần Ðĩnh tới, “Xin anh cho ý kiến.” Trường Chinh hỏi: “In xong cả rồi, còn hỏi ý kiến tôi làm gì?” Trần Ðĩnh chỉ biết nói rằng anh Thọ bảo em đưa, có gì anh cứ hỏi anh Thọ. Bị coi thường đến như vậy, trước mặt một người vốn là đàn em thân cận của mình từ mấy chục năm trước, mà Trường Chinh vẫn chịu nhục, nhận cuốn sách mới in để mà đọc. Như người có khí phách thì sẽ đưa trả lại cuốn sách, nói rằng nếu có góp ý cũng quá muộn rồi. Nhưng Trường Chinh biết rằng mình chỉ là chủ tịch Quốc Hội, mà cả cái Quốc Hội đó cũng chỉ làm bù nhìn, đóng vai cây cảnh thôi. Không quyền hành bằng ông trưởng Ban Tổ Chức, càng sợ ông tổng bí thư lên thay chân mình. Quan hệ giữa hai, ba lãnh tụ đảng đã thay đổi, cách người ta đối xử với nhau đã khác.

Trần Ðĩnh nhớ lại lời Nguyễn Cơ Thạch khoe, một ngày mùa Ðông ở chiến khu Thạch ghé thăm ban biên tập báo Sự Thật: “Sáng nay Chủ Nhật, tớ ra suối giặt cho anh Giáp (Võ Nguyên Giáp) biết bao nhiêu quần áo... Này, tay còn nhợt đi đây này!” Ðèn tắt, chiếu ngay sang cảnh khác: Trong đại hội đảng kỳ thứ bẩy, Võ Nguyên Giáp đã bị đánh bật ra khỏi Trung Ương Ðảng, còn lên phát biểu ý kiến rằng đảng cần phát huy dân chủ, thì cậu thư ký giặt áo quần ngày nào, nay [đã vào] Bộ Chính Trị và đang ngồi trên chủ tịch đoàn, liền giơ tay cắt: “Ðồng chí nói quá mất mấy phút rồi, xin thôi. Ðồng chí hãy chú ý cho là đảng ta rất chú ý phát huy dân chủ!”

Cách cư xử thay đổi, không phải trong việc ngắt lời người phát biểu ý kiến, bởi vì trong một cuộc họp ai nói quá giờ cũng nên cắt. Hành vi thay đổi đổi quan trọng ở đây là cậu học trò lên giọng dạy dỗ ông thầy cũ của mình, mà lại dạy một điều rất sơ đẳng. “Ðồng chí hãy chú ý cho nhé!” “Ðảng ta rất chú ý phát huy dân chủ mà đồng chí nghe không thủng hay sao?”

Vì đâu mà các cán bộ, đảng viên và lãnh tụ cộng sản thay đổi nhiều như vậy? Nói vắn tắt như Tư Mã Thiên thuật lời Lý Tư: “Tại sở tự xử nhĩ,” tùy chỗ mà thay đổi cách cư xử đó thôi. Loài chuột sống dưới hầm nhà xí, hoặc sống trong kho thóc, đổi chỗ ở chúng thay đổi cả hành vi (bây giờ hay gọi là động thái).

Vậy trong đời sống của các đảng viên cộng sản, cái gì là “tại sở,” là cái “chỗ ở” đã thay đổi? Mới đầu, có thể nghĩ rằng đời sống trong rừng nó khác, thành phố nó khác. Hoặc giả, sống khi nghèo khó, thiếu thốn khác với lúc sung túc, thừa thãi. Muốn giữ lập trường thì nói rằng khi vào thành phố, từ đảng viên đến các lãnh tụ đều bị nhiễm “nọc độc tư bản, phong kiến,” cho nên “biến chất.” Làm như tác phong tư bản nó bay ở trong không khí, hay ngấm vào trong đất, trong nước! Giải thích như vậy thì trút được hết tội lỗi lên đầu người khác, mình lại tiếp tục ngồi bát ăn bát vàng!

Nhưng chúng ta không nên chỉ nhìn thấy nhà xí và kho lúa trong truyện Lý Tư. Loài chuột ở đâu thì cũng là chuột; mà cuộc sống thay đổi hành vi, cách cư xử của chúng không hoàn toàn do nơi chúng sống và kiếm ăn. Chính công việc kiếm ăn của loài chuột đổi khác. Ở một nơi kín đáo tối tăm như nhà kho, khác ở ngoài trời như trong hầm xí. Nơi này thì sinh nhai khó khăn, người và chó qua lại đông, nơi kia thì chẳng mấy khi thấy bóng một sinh vật nào, ngoài giống chuột. Lại thêm con số khác nhau, một nơi lèo tèo mấy ổ chuột sống chui nhủi, nơi kia họ hàng nhà chuột đông hàng đoàn hàng lũ, giống chuột chúng ta tự do tung hoành, dọc ngang nào biết trên đầu có ai! Sống cách khác, hành vi loài chuột cũng khác.

Cho nên cũng khó dùng các điều kiện địa dư cũng như kinh tế để giải thích hành vi con người thay đổi. Có lẽ thay đổi lớn nhất trong cuộc sống của các lãnh tụ và đảng viên cộng sản khi từ rừng về thành, rồi từ Bắc vào Nam, là quyền hành của họ đã thay đổi với thời gian.

Ở trong rừng thì Trường Chinh cũng không biết ngày nào mình còn sống, hay sẽ trúng bom, trúng đạn; mà nhìn người chung quanh cũng thấy họ sống chết dễ như mình. Mình có thể sai khiến họ vì được họ thỏa thuận, nếu họ rút ra khỏi cái “hợp đồng ngầm” đó thì họ bỏ về thành phố, chẳng ai làm gì được ai. Quyền hành, dù được xác định hay chỉ hiểu ngầm, là do người dưới thỏa thuận cho người trên được hưởng.

Nhưng trong đời sống chính trị ở Hà Nội những năm 1960 thì quyền hành của đảng Cộng sản đối với dân chúng đã bám rễ, khó ai lay chuyển được. Hậu quả là quyền hành của các lãnh tụ trên các đảng viên của họ cũng kiên cố hơn. Tất cả đã được định chế hóa. Các cấp bậc được xác định, quyền sinh sát không bị ai kiểm soát.

Yếu tố giúp củng cố quyền hành cho các lãnh tụ là chế độ độc tài toàn trị. Trong một quốc gia tự do dân chủ thì mỗi chức vụ, mỗi cơ quan có quyền hành bao giờ cũng được một hay nhiều cơ quan, chức vụ khác kiểm soát. Việc kiểm soát có tính chất thường xuyên, định kỳ, do pháp luật yêu cầu và bảo đảm. Vì thế, quyền hành nào cũng có phạm vi giới hạn. Một chức vụ được phép sử dụng quyền hành trong một lãnh vực nào đó thôi, bước ra ngoài là thuộc quyền của chức vụ khác.

Trong chế độ độc tài toàn trị, đảng Cộng sản nắm toàn quyền trên tất cả mọi lãnh vực của cuộc sống con người và xã hội. Ðiều 4 bản Hiến Pháp Cộng Sản Việt Nam ghi rằng đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội. Bên trong nội bộ, đảng cũng lãnh đạo cuộc sống của từng đảng viên, trên tất cả các mặt. Không chỉ có lập trường chính trị, sinh hoạt kinh tế, mà ngay cả nhà anh ở, quần áo anh mặc, anh được phép yêu ai, cưới ai, đọc sách, coi phim nào, cũng phải nghe lời đảng lãnh đạo hết! Tự nhiên, hành vi con người, cách người ta cư xử với nhau cũng thay đổi. Lý thuyết chuyên chính vô sản của Lê Nin làm thay đổi hành vi con người, từ lúc chưa đảng cộng sản có quyền tới lúc nắm quyền sinh sát trong tay.

Phải công nhận Tư Mã Thiên là tay cự phách. Ông mở đầu Lý Tư liệt truyện bằng câu chuyện chuột. Rồi sau đó, không bao giờ nhắc tới nữa. Chúng ta theo dõi cuộc đời Lý Tư, sau khi quan sát loài chuột, cho là mình đã hiểu loài người rồi, bèn đi học “đạo làm đế làm vương” với Tuân Tử (Nãi tùng Tuân Khanh học đế vương chi đạo). Sự nghiệp lên như diều từ khi đầu quân cho nước Tần. Nhiều lần bị chống, lại biết phản bác, lần nào cũng lọt tai Tần Thủy Hoàng. Khi Tần Thủy Hoàng chết dọc đường, bị Triệu Cao thuyết phục tham dự âm mưu phế trưởng lập thứ. Cuối cùng, cũng tiêu vong với cơ nghiệp nước Tần. Suốt cuộc đời Lý Tư dùng biết dùng thuật giúp Tần Thủy Hoàng trị quốc dựa trên tâm lý con người, qua bài học về chuột.

Ðảng Cộng Sản Việt Nam cũng nắm được cái thuật cai trị nhờ học từ các ông Stalin và Mao Trạch Ðông. Như Trần Ðĩnh nhận xét: “Người ta lừa bịp đại trà được là nhờ khai thác những bản năng thấp kém của con người: Sợ và tham.” Nhưng các cụ ta vẫn dạy: Thực thà là cha quỷ quái. Tấm gương nhà Tần cho thấy quỷ quái đến máy cũng tiêu vong.

––

Gửi Diễn Ðàn Thế Kỷ

Chú thích:

Sau đây là nguyên văn trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, để quý vị quan tâm tham khảo. Nếu thấy người viết đã hiểu sai, dịch sai, xin quý vị giúp sửa lại.

李斯者,楚上蔡人也。年少時,為郡小吏,見吏舍廁中鼠食不絜,近人犬,數驚恐之。斯入倉,觀倉中鼠,食積粟,居大廡之下,不見人犬之憂。

於是李斯乃嘆曰:「人之賢不肖譬如鼠矣,在所自處耳



Lý Tư giả, Sở Thượng Thái nhân dã. Niên thiếu thời, vi quận tiểu lại, kiến lại xá xí trung thử thực bất khiết, cận nhân, khuyển, sổ kinh khủng chi. Tư nhập sương, quan sương trung thử, thực tịch túc, cư đại vũ chi hạ; bất kiến nhân khuyển chi ưu. Ư thị Lý Tư nãi thán viết: Nhân chi hiền bất tiếu thí như thử hĩ, tại sở tự xử nhĩ.

User avatar
saohom
Posts: 2240
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Ðược làm vua thua làm tham nhũng

Ngô Nhân Dụng
Giai đoạn truyền ngôi trong một chế độ độc tài bao giờ cũng nguy hiểm, cho kẻ thắng cũng như người bại. Trước khi dứt điểm, không ai biết chắc mình sẽ lên hay xuống, sống hay chết. Khi ngôi vị định rồi, vẫn còn lo phản nghịch. Hai ông vua mạnh nhất đời Ðường (Thái Tông) và đời Minh (Thành Tổ), đều cướp ngôi, lần lượt, của anh và của cháu. Tập Cận Bình lên ngôi vào Tháng Mười Một năm 2012, trong một năm rưỡi, ai cũng công nhận ông đã chứng tỏ nắm được quyền hành mạnh nhất; với những cuộc thanh trừng “bắt cọp” trong chiến dịch chống tham nhũng. Nhưng địa vị của ông có vững chắc thật hay không? Ai đã đọc truyện Tàu có thể vẫn thấy phải chờ “hạ hồi phân giải.”

Trên nguyên tắc, Cộng sản Trung Quốc không có chế độ cha truyền ngôi cho con; nhưng mỗi người được lên ngôi đều được một lãnh tụ đời trước ủy nhiệm. Mao Trạch Ðông chọn Hoa Quốc Phong. Ðặng Tiểu Bình hạ bệ Hoa Quốc Phong nhưng vẫn cho giữ nguyên các quyền lợi. Bốn đời “vua” nước Tàu đều do Ðặng Tiểu Bình chọn. Bình chỉ định Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương làm tổng bí thư. Giang Trạch Dân được Bình đem từ Thượng Hải về sau biến cố Thiên An Môn. Hồ Cẩm Ðào được Bình điểm danh chọn sẵn trước khi lìa đời. Tập Cận Bình là lãnh tụ đầu tiên trong 30 năm không dựa vào uy tín của Ðặng Tiểu Bình.

Vì vậy, trước khi Tập Cận Bình được Trung Ương Ðảng đưa lên bên cạnh Hồ Cẩm Ðào để chờ ngày kế vị, chắc chắn có rất nhiều lãnh tụ muốn giành chức. Sau khi họ Tập được chọn rồi, vẫn còn chưa xong. Kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa và kinh nghiệm các cuộc thay đổi lãnh tụ trong chế độ cộng sản, từ Nga qua Tàu, cho thấy một tay trùm đỏ lúc nào cũng lo bị đâm sau lưng, mất chức và mất mạng. Stalin tránh khỏi mối lo đó bằng cách đã giết hàng trăm đồng chí trong Trung Ương Ðảng, sau tra tấn khiến họ phải thú nhận tội phản đảng, cầu xin được tha, khi đưa ra tòa. Mao Trạch Ðông tàn ác theo lối Trung Hoa, dùng “tòa án nhân dân” đưa đối thủ ra đấu tố công khai, bắt tự phê bình, bị đến cả trẻ con hành hạ, chửi bới sỉ vả, rồi cho sống trong nhục nhã cho đến chết. Ðặng Tiểu Bình vẫn dùng phương pháp “kiểm thảo” và “tự phê bình” để hạ bệ các đối thủ, nhưng địa vị của ông ta không đòi phải giết hết. “Cải cách” lớn nhất của Ðặng Tiểu Bình là thiết lập một thế quân bình trong hàng ngũ lãnh đạo: Chia phần với nhau, anh làm giầu, tôi cũng làm giầu, chúng ta che chở lẫn nhau, cho con cháu cùng hưởng. Mọi việc chia chác quyền hành và lợi lộc đều có thể mặc cả theo quy tắc kinh tế thị trường!

Nhưng thế quân bình nào cũng đến lúc chông chênh, khi hoàn cảnh kinh tế, xã hội thay đổi. Sau hai đời chủ tịch được hưởng “phúc ấm” của Ðặng Tiểu Bình, cuộc tranh giành quyền chức không giản dị như khi buôn bán. Bởi vì có những địa vị không thể định giá trong thị trường; như ông bố của Lã Bất Vi dạy con về lợi nhuận khi buôn vua: Không thể đếm được. Thứ hai, số con buôn được dự việc mua bán nhỏ quá (trong môn tài chánh học gọi là “thị trường mỏng - thin market”), cho nên giá tha hồ lên, xuống, không biết chắc giá nào là đúng ai cũng lo mình hớ.

Tập Cận Bình đang sống trong hoàn cảnh đó. Trước khi ông được công nhận sẽ kế nghiệp, Bạc Lai Hy nuôi tham vọng dùng địa vị, gia thế, của cải để mưu chiếm ngôi “thái tử.” Bạc Lai Hy bị hạ, nhưng lên ngôi rồi Tập Cận Bình vẫn chưa tha. Vợ chồng họ Bạc bị đưa ra tòa, bỏ tù cho thân bại danh liệt, để tránh hậu họa. Nhưng bất cứ ai nuôi tham vọng như Bạc Lai Hy cũng phải có phe cánh. Trong một năm rưỡi vừa qua, Tập Cận Bình phải tỉa dần những “nanh vuốt” đó, nếu không thì cũng khó ngồi yên trên ngai vàng. Do đó, có chiến dịch “đánh tham nhũng.” Họ Tập đã ra tay xé bản hợp đồng trong giới lãnh đạo Trung Cộng, được ngầm thỏa thuận suốt 25 năm qua, từ sau cuộc tàn sát ở Thiên An Môn năm 1989.

Từ năm đó tới nay, ai lên ngôi cửu ngũ ở Bắc Kinh đều thấy mình yếu hơn người tiền nhiệm. Hồ Giang Trạch Dân thua Triệu Tử Dương, Cẩm Ðào lép vế đối với Giang, tất cả không anh nào mạnh bằng Ðặng Tiểu Bình. Nhưng trong năm 2014 này, Tập Cận Bình chứng tỏ quyền lực của mình cao hơn cả hai người đi trước, và đang có triển vọng tiến lên đứng ngang hàng với Ðặng Tiểu Bình trong lịch sử đảng Cộng sản. Ðặng Tiểu Bình thay đổi nước Trung Hoa về kinh tế. Tập Cận Bình có thể thay đổi hoàn toàn cách đảng Cộng sản quản lý nước Tàu, nếu chưa nói đến thay đổi thể chế chính trị.

Cuối Tháng Bảy vừa qua, Chu Vĩnh Khang chính thức bị điều tra về tham nhũng, lạm quyền, sau 18 tháng bị giam lỏng và chứng kiến con, em mình bị đưa ra tòa cũng về tội tham nhũng. Khang là người địa vị cao nhất bị chính thức điều tra, kể từ năm 1989 đến nay. Trong hàng vai vế đảng, ông ta kiểm soát mạng lưới công an, cảnh sát, tình báo, tòa án, với ngân sách lớn hơn ngân sách về quốc phòng. Trên mặt kinh tế, ông là “Bố Già” của ngành dầu lửa, tất cả các công ty năng lượng nằm trong tay. Ông cũng từng nắm tỉnh Tứ Xuyên, một tỉnh lớn bậc nhất nước Tàu. Sau vụ bắt con hổ lớn này đến các cọp nhỏ: Vương Ðại Xuân (Wang Yongchun) từng làm trong ngành dầu lửa dưới quyền Chu Vĩnh Khang bị trục xuất khỏi đảng và truy tố về tham nhũng. Hai người khác là Lý Ðông Thành (Li Dongsheng) và Tưởng Cát Mẫn (Jiang Jiemin), đều bị đuổi ra khỏi đảng và truy tố. Lý từng là thứ trưởng công an, họ Tưởng đóng vai giám sát tất cả các tài sản của nhà nước.

Một tháng trước khi Chu Vĩnh Khang bị điều tra, Tướng Cù Tài Hậu (Xu Caihou) cũng bị cùng số phận. Hậu là phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương, nhân vật thứ nhì trong cơ cấu quyền hành cao nhất có khả năng điều động quân đội Trung Cộng. Tập Cận Bình đã hạ ba tay đầu sỏ có khả năng âm mưu lật đổ ngai vàng: Bạc Hy Lai, dòng dõi công thần (bố là Bạc Nhất Ba, một trong Bát Ðại Nguyên Lão thời Ðặng Tiểu Bình), tới Chu Vĩnh Khang nắm an ninh và ngành kinh tế quan trọng dầu lửa, rồi tới Cù Tài Hậu, có thể giành ảnh hưởng trong quân đội vì Tập Cận Bình không phải là tướng. Cả ba người này đều liên hệ tới cựu Chủ tịch Giang Trạch Dân. Tay chân của Giang Trạch Dân vẫn còn nắm các chức vụ quan trọng trong đảng Cộng sản, và suốt 10 năm khi Hồ Cẩm Ðào ngồi trên ngai, Giang Trạch Dân vẫn đóng vai giám sát sau rèm. Giang can thiệp vào các vụ cách chức, thăng chức, các quyết định chính sách, chia phần quyền lợi giữa các lãnh tụ, và ngay trong việc nâng Tập Cận Bình lên địa vị lãnh đạo. Tập Cận Bình trừ khử ba đối thủ, mà cả ba đều được Giang Trạch Dân bảo trợ, là để chứng tỏ mình đang nắm thực quyền. Dùng chiến dịch đánh tham nhũng, Tập Cận Bình đang mở cuộc thanh trừng lớn nhất kể từ sau vụ thanh toán Tứ Nhân Bang do Mao Trạch Ðông để lại.

Họ Tập hạ đối thủ một cách tàn nhẫn không thua gì Mao hay Ðặng. Ngay sau khi Chu Vĩnh Khang chính thức bị đặt trong tình trạng điều tra, trên mạng lưới WeChat's xuất hiện một trò chơi điện tử, với đề tài: Săn bắt bè đảng Chu Vĩnh Khang. Người chơi phải đi tìm tên những người như vợ con, cháu, bạn bè, thông gia của Chu Vĩnh Khang, nối họ với những công ty, xí nghiệp làm ăn trong mạng lưới kinh tế của gia đình này. Vì báo chí quốc tế đã tìm và vẽ ra mạng lưới tham nhũng này trong hơn một năm trời, cho nên trò chơi rất hấp dẫn. Hơn 400,000 người dự trò chơi trong một ngày. Trong chiến dịch tuyên truyền sử dụng các phương tiện truyền thông mới, Giang Trạch Dân có lúc cũng bị dính. Trên các mạng thông tin, công dân mạng truyền nhau chuyện cười về hình con cóc bằng nhựa, thổi phồng rất lớn nằm trong một công viên ở Bắc Kinh. Hình con cóc này vẫn được Tân Hoa Xã dùng trong website của họ. Họ tán nhau rằng con cóc này trông giống Giang Trạch Dân quá! Có người còn dùng photoshop cái hình, cho con cóc cậu ông trời đeo đôi kính giống hệt cặp kính nặng của Giang Trạch Dân. Dân mạng làm ồn ào đến nỗi Tân Hoa Xã phải bỏ hình con cóc đi.

Song song với việc thanh toán phe đối nghịch, Tập Cận Bình bắt đầu đưa tay chân của mình lên; dựa vào nhóm “vương tôn” (princelings), con cháu các công thần của chế độ cộng sản. Một người được cất nhắc là tướng Trần Trị Nghiệp (Chen Zhiya), được phong làm phó chủ nhiệm An ninh Quân đội. Tướng Nghiệp này là con của Trần Canh (Chen Ghen), người đã được Mao Trạch Ðông cử sang làm cố vấn quân sự cho Hồ Chí Minh năm 1950.

Chiến dịch đánh tham nhũng cho Tập Cận Bình cơ hội thanh toán các đối thủ có thể đe dọa địa vị của mình. Trong tháng tới, tập đoàn lãnh đạo cộng sản Trung Quốc sẽ họp nhau ở khu nghỉ mát Bắc Ðới Hà, họ Tập có thể yên tâm không còn đồng chí nào đang nuôi ý thoán nghịch. Trong cuộc tranh chấp quyền lực của đảng Cộng sản Trung Quốc, người thắng lên làm vua, còn kẻ bại bị truy tố tham nhũng. Không ai hỏi đến những tài sản hàng tỉ Mỹ kim của gia đình Ôn Gia Bảo; vì ông này không còn tham vọng quyền lực nào nữa.

Họ Tập có đánh được tham nhũng hay không, và nhờ thế cứu được đảng Cộng sản hay không, cũng phải chờ “coi hồi sau mới rõ.” Tập Cận Bình đi theo con đường giống như triều đình Mãn Thanh vào những năm sau cùng, trước khi sụp đổ năm 1911. Các vua quan nhà Thanh cũng thử cải tổ, hành chánh, giáo dục cũng như quân sự. Nhưng sau cùng họ không thể từ bỏ phương cách cai trị độc tài chuyên chế. Cho nên những cải tổ nửa vời nối tiếp nhau không cứu vớt được một chế độ quá thối nát. Ông Bao Ðồng (Bao), một sinh viên tranh đấu tại Thiên An Môn năm 1989, mới viết rằng: “Tham nhũng ở Trung Quốc chỉ là một phó sản của chế độ độc quyền đảng trị.” Vì vậy, chỉ chống tham nhũng trong đảng với nhau mà không cho dân chúng bên ngoài tham dự thì không bao giờ giải quyết được.

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Lời Kêu Gọi
California, ngày 19, tháng 8 năm 2014

Kính thưa quí vị lãnh đạo các tôn giáo, kính thưa quí nhân sĩ trí thức, kính thưa toàn thể đồng bào, nam phụ lão ấu và nhất là giới trẻ trong nước.

Kính thưa quí vị,

Tổ quốc của chúng ta đang bên lề một Tây Tạng thứ hai.

Như chúng ta đã chứng kiến, tham vọng Ðại Hán của Trung Quốc ngày càng hiện rõ trên mảnh đất hình chữ S mà tổ tiên của chúng ta đã đổ quá nhiều xương máu để bảo tồn.

Cuồng vọng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc đã có từ hơn ngàn năm qua. Nhưng chưa bao giờ chúng có một cơ hội như ngày nay. Chúng đã dụ dỗ, mua chuộc dễ dàng tập đoàn lãnh đạo Cộng sản tại Việt Nam, một lũ hèn mạt bán nước, gọi dạ bảo vâng mà đứng đầu là một tên ngu xuẩn Nguyễn Phú Trọng. Cộng sản Việt Nam triệt để tuân lệnh quan thầy từ phương Bắc hành hung thô bạo, đánh đập dã man, tù đày, khủng bố và cô lập kinh tế những ai có tư tưởng chống Trung Quốc xâm lấn lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam.

Trên thế giới không một chính phủ nào, không một chính thể nào thẳng tay đàn áp người dân yêu nước biểu tình chống ngoại xâm, chỉ có bọn Cộng sản tại Việt Nam, một lũ dòi thối nát, hèn với giặc ác với dân. Chúng dùng đủ mọi thủ đoạn để bần cùng hóa, u đần hóa người dân Việt.

Sinh viên ra trường không tìm ra việc làm xứng đáng nhưng vì miếng cơm manh áo phải nhận làm những công việc tầm thường không cần trí thức. Người dân Việt Nam chưa bao giờ chịu cảnh bần cùng và uất hận như ngày nay, nhà cửa ruộng vườn bị chúng tịch thu, sống la lết khắp mọi cửa công quyền từ Saigon đến Hà Nội để kêu oan hằng chục năm vẫn không được giải quyết mà còn bị xua đuổi và đánh đập một cách tàn nhẫn, thậm chí chúng còn viện lý do mơ hồ để kẹp tay, bóp cổ những người dân oan tống lên xe tải như súc vật đưa vào tù hoặc trả về nguyên quán.

Kính thưa quí vị,

Người Việt Nam rất thông minh, cần cù và chịu khó để vươn lên, nhưng sau gần 40 mươi năm toàn trị đất nước, đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa dân tộc ta ngày càng gian nan khổ ải, ngày càng tụt hậu, xã hội ngày càng suy đồi.

Kính thưa quí vị,

Trung Cộng không thể và không cần ào ạt xua quân đánh chiếm Việt Nam như chúng đã thực hành tại Tây Tạng, chúng đã và đang dùng đảng Cộng sản Việt Nam để từ từ xâm chiếm, từ từ đồng hóa. Khi đã đến thời kỳ chín muồi, Trung Cộng sẽ từ từ thay các tên người Hán vào tập đoàn lãnh đạo Việt Nam, ấy là một Tây Tạng thứ hai mà tôi đã nhìn thấy từ nhiều năm qua.

Kính thưa quí vị,

Trung Cộng có tài nói dối, có tài lừa bịp, có tài che giấu sự thật không cho lọt ra ngoài bất cứ một vụ thảm sát nào mà chúng đã thực hành. Thử hỏi mấy ai trên thế giới biết chính xác bao nhiêu dân lành, bao nhiêu sinh viên đã ngã gục vì tranh đấu đòi tự do tại Quảng trường Thiên An Môn, bao nhiêu người dân Tây Tạng, bao nhiêu người dân Duy Ngô Nhĩ bị thảm sát mỗi lần có biến động chống đối. Con số người Việt chúng ta sẽ bị thảm sát nhiều gấp bội lần, nếu chẳng may Việt Nam trở thành một Tây Tạng thứ hai.

Kính thưa quí vị,

Trong thời gian Trung Cộng đem giàn khoan HD 981 vào thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Ðông, các lãnh tụ Việt Nam ngớ ngẩn tồi tệ, việc phải làm không làm, chuyện đáng nói không nói, dòi nói xuôi, ruồi nói ngược hết sức hỗn độn. Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng vẫn muốn duy trì tình hữu nghị 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và 4 tốt “Láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.” Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng lại tuyên bố vài lời ngoạn mục hơn, nhưng lời nói của ông Dũng không đi đôi việc làm. Trong quá khứ, ông Dũng đã từng tuyên bố vài lời mị dân rất hấp dẫn nhưng chưa bao giờ ông ta thực thi một điều gì ông nói. Phải chăng mỗi tên lãnh đạo CSVN nhận một lệnh từ quan thầy Trung Cộng để dò xét phản ứng của người dân Việt hoặc để trấn an lòng dân.

Ý thức được hiểm họa bành trướng Ðại Hán của Trung Quốc, ngày càng có nhiều đảng viên Cộng sản Việt Nam xin bỏ đảng, ngày càng có nhiều cán bộ cao cấp đi công tác nước ngoài xin ở lại tỵ nạn chính trị, không trở về nước. Mới đây có 61 đảng viên kỳ cựu, có người đã nhập đảng từ năm 1934, 1946, 1947 ký vào thư ngỏ, yêu cầu chính phủ phải thay đổi ngay từ thể chế độc tài nghiệt ngã qua chính thể dân chủ, thả hết tất cả các tù nhân lương tâm, xóa bỏ ngay ý thức hệ Marx-Lenin để hồi phục lòng dân, phải tách rời mọi lệ thuộc với Trung Quốc, xích gần với Mỹ để cứu nước.

Trong hàng ngũ quân đội của chế độ Cộng sản Việt Nam cũng có vài tướng lãnh, sĩ quan cao cấp và binh sĩ nặng lòng yêu nước nhưng không dám tỏ thái độ chống đối nếu không có sự hỗ trợ của toàn dân.

Kính thưa quí vị,

Ðất nước Việt Nam không phải của riêng một ai, không phải của riêng một nhóm vài chục, vài trăm hay vài ngàn người mà là của cả chín mươi lăm triệu người dân Việt. Tất cả mọi người đều phải có trách nhiệm với sự tồn vong của đất nước.

Muốn bảo tồn đất nước, chúng ta phải giải trừ ngay thành phần lãnh đạo, tham ô thối nát tại Việt Nam, chúng ta phải trỗi dậy, ào ạt xuống đường biểu tình ôn hòa chống bọn Việt gian bán nước. Quí vị lãnh đạo các tôn giáo đồng thanh kêu gọi Giáo dân, Phật tử xuống đường, quí vị nhân sĩ trí thức lãnh đạo giới trẻ và đồng bào xuống đường. Một trăm ngàn sẽ lôi kéo một triệu, một triệu sẽ lôi kéo hai triệu, hai triệu sẽ lôi kéo quân đội quay súng về với chúng ta, vậy là hùng ca chiến thắng sẽ vang dội lên khắp mọi nẻo đường trên mảnh đất hình chữ S của chúng ta.

Kính thưa quí vị,

Bất cứ một cuộc tranh đấu nào đều phải chấp nhận hy sinh, đều có ngã gục, nhưng trên cõi đời này có ai không chết? Thà chết cho tương lai đất nước, chết cho con cháu ngày mai, chết hùng, chết vinh còn hơn chết mòn, chết tức tưởi dưới bàn tay của những kẻ bán nước, của bọn cướp nước. Trung Cộng đã từng tàn sát rùng rợn người dân của chúng tại Trung Quốc, làm sao chúng cớ thể nương tay với người dân Việt, nếu bất hạnh cho người dân Việt phải sống dưới sự kèm kẹp nghiệt ngã của Trung Cộng.

Trân trọng.

Hồ Ðắc Cam

User avatar
VuPhong
Posts: 2923
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Hãy nhìn sang Miến Ðiện!

Bùi Tín
(Nguồn: VOA)

Trung Quốc đại Hán luôn tự coi mình là con Trời, tha hồ có tham vọng lớn, vì ý muốn của mình được Trời phù hộ, bao giờ cũng được toại nguyện, dù cho đó là cuồng vọng. Gần đây ý muốn của Bắc Kinh là bành trướng xuống phương Nam, vừa để khai thác những tài nguyên dồi dào, vừa nhằm mở đường cho giao thông vận tải tỏa rộng ra khắp thế giới.

Vụ đưa giàn khoan cực lớn HD-981 xuống vùng biển Việt Nam là biểu hiện của tham vọng kép ấy. Nó vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của nhân dân Việt Nam, của khu vực, và của toàn thế giới.

Mặt khác, cũng theo hướng bành trướng xuống phương Nam, Bắc Kinh từng cố nài ép Miến Ðiện thực hiện một kế hoạch xây dựng đường sắt quy mô lớn nối liền Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam, với thị trấn Kyaukpyu thuộc bang Rakkhine của Miến Ðiện. Con đường sắt dự định dài 1,200 kilômet, dọc theo ống dẫn dầu và ống khí đốt đã có cũng do Trung Quốc đầu tư từ cuối thế kỷ trước. Thỏa thuận đầu tiên giữa 2 bên được ký từ tháng 4 năm 2011, với vốn đầu tư là 20 tỷ đôla. Ðây là đường sắt chiến lược trọng điểm sẽ mở đường giao thông vận tải xuống phương Nam, đến vùng biển Andaman trong vịnh Bengal của Ấn Ðộ Dương. Khi mở được con đường này hàng hóa của Trung Quốc từ Trung Ðông và phương Tây chuyên chở về sẽ được rút ngắn rất nhiều, không phải đi vòng xuống eo biển Malacca rồi hướng lên phía Bắc đi qua vùng biển của các nước Ðông Nam Á, của Việt Nam để cập các bến cảng Trung Quốc.

Ngày 22 tháng 7 vừa qua báo Myanmar Times đưa tin chính quyền Miến Ðiện đã quyết định từ bỏ hẳn kế hoạch hợp tác với Trung Quốc xây dựng tuyến đường sắt lớn Kyaukpyu-Côn Minh, với lý do là bảo vệ môi trường và tôn trọng nguyện vọng của nhân dân địa phương kiên quyết phản đối kế hoạch này vì nó sẽ đảo lộn cuộc sống của họ.

Dư luận còn nhớ cuối năm 2013 Miến Ðiện đã hủy bỏ kế hoạch đã ký với Trung Quốc cùng hợp tác xây dựng một con đập lớn và một nhà máy thủy điện ở Myitsone trên sông Irawaddy có giá trị 3,6 tỷ đôla, với điều kiện sẽ bán điện với giá rẻ cho Trung Quốc trong 20 năm. Việc hủy bỏ việc xây dựng đập và nhà máy thủy điện lớn Myitsone là một thất bại lớn về chính trị-kinh tế-đầu tư của Trung Quốc. Nay việc hủy bỏ việc xây dựng đường sắt chiến lược lớn xuống vịnh Bengal ra Ấn Ðộ Dương là thêm một thất bại lớn nữa về chính trị-kinh tế-đầu tư của Trung Quốc.

Nguyên nhân của thất bại chiến lược kép liên tiếp trên đây của Trung Quốc là sự thay đổi hệ thống chính trị-kinh tế ở Miến Ðiện, từ chế độ quân phiệt độc đoán của nhóm tướng lãnh thân Trung Quốc chuyển sang hệ thống dân chủ đa đảng, tôn trọng lá phiếu tự do của cử tri, đẩy mạnh quan hệ hợp tác chiến lược toàn diện với các nước dân chủ phương Tây, trong khi vẫn giữ quan hệ láng giềng bình thường, bình đẳng với ông bạn cũ Trung Quốc.

Do sự bẻ lái chính trị ngoạn mục trên đây của nhóm lãnh đạo chính quyền cao nhất của Miến Ðiện, thông hiểu nguyện vọng của đông đảo nhân dân và am hiểu thời đại mới của thế giới, Miến Ðiện bước vào thời kỳ phát triển và hội nhập hoàn toàn mới mẻ. Ðây là một trong những chuyển biến tiến bộ có ý nghĩa đột phá của thế giới khi bước vào thế kỷ XXI.

Thế là bao nhiêu mưu đồ, tiền của, gạ gẫm, răn đe của Trung Nam Hải từ thời Mao-Chu đến thời Ðặng Tiểu Bình bị tiêu tan. Giấc mộng tràn xuống phương Nam mở đường xuống Ấn Ðộ Dương của Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Ðào, Tập Cận Bình đang trở thành ảo ảnh.

Báo Myanmar Times ra cuối tháng 7, 2014 cho biết năm 2010 vốn đầu tư của Trung Quốc đổ vào Miến Ðiện còn là 8,6 tỷ đôla, đứng đầu các nước bỏ vốn vào nước này, từ năm 2011 số vốn này bị rơi tõm theo chiều thẳng đứng, đến năm 2013 chỉ còn vẻn vẹn có 200 triệu đôla. Các nước hiện dẫn đầu trong đầu tư vào nước này là Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Ðài Loan, Ấn Ðộ. Quỹ viện trợ để phát triển ODA của Miến Ðiện cũng tăng nhanh, chủ yếu từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Châu Âu, Úc, Canada và từ Ngân Hàng Thế Giới, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế. Một sự xoay chuyển hoành tráng, đồng bộ, toàn diện: chính trị-kinh tế-tài chính đầu tư-ngoại giao.

Ðài VOA ngày 1 tháng 8, 2014 cho biết một tòa án Miến Ðiện đã tuyên án 8 công dân Trung Quốc mỗi người hơn 10 năm tù giam vì đã nhập vũ khí trái phép vào Miến Ðiện. Ðây không phải chỉ là việc buôn lậu vũ khí kiếm lời, mà còn là âm mưu của nhóm lãnh đạo Ðảng Cộng Sản Trung Quốc trang bị cho một số nhóm tàn dư Maoist thuộc dân tộc thiểu số, nhằm gây bất ổn chính trị, phá hoại quá trình dân chủ hóa ở vùng giáp giới với Trung Quốc. Rõ ràng Miến Ðiện không còn là “sân sau” của Trung Nam Hải như các ông con Trời mong muốn lâu nay.

Lúc này, hơn lúc nào hết, giới lãnh đạo cộng sản ở Việt Nam, Bộ Chính Trị, Quốc Hội Việt Nam, nhân dân Việt Nam hãy theo dõi kỹ những chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện của Miến Ðiện để khám phá ra những cảm hứng chính trị quý giá rất cần thiết khi chính lãnh đạo đảng cộng sản đặt ra việc tổng kết sự nghiệp đổi mới gần 50 năm qua, từ 1965 đến nay.

Cái yếu kém, có thể nói thẳng ra là thất bại trong đổi mới ở Việt Nam là đã đổi mới nửa vời, không toàn diện, không đồng bộ, không nhất quán, đổi mới kinh tế mà không đổi mới về chính trị, đổi mới về hành chính mà không đổi mới về thi hành pháp luật, về quyền sở hữu tư nhân, về quản trị ngành ngân hàng, rồi “bỏ quên” hẳn đổi mới trên lĩnh vực đối ngoại để kết bạn, kết liên minh với các bạn bè tốt đáng tin cậy, do trót dại, nhẹ dạ, bí hiểm chui vào cái “cũi Thành Ðô” từ tháng 9, 1990 đến nay.

Không tỉnh táo và dũng cảm về chính trị, không dám nhìn thẳng vào sự thật thì sẽ không rút ra được bài học nào bổ ích, sự nghiệp đổi mới vẫn nửa vời, què quặt, đất nước vẫn chìm đắm trong bất công, tham nhũng và lạc hậu, ngày càng tụt hậu thêm, có nguy cơ trở thành nước độc đoán chậm tiến toàn diện cuối cùng của thế giới hiện đại.

Post Reply