Quán Vắng không Người ...3

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »


3X, một bóng dáng Thein Sein Việt Nam?
Kông Kông (Danlambao) - Sự việc ông Nguyễn Bá Thanh, đang làm vua một cõi ở Đà Nẵng, được triệu ra Hà Nội giữ chức Trưởng ban Nội chính Trung ương, là chức vụ quan trọng nhất để giải quyết nan đề tham nhũng mà qua mấy kỳ đại hội đảng đều “quyết tâm” trừ khử, chẳng những không tới đâu nhưng càng ngày càng trầm trọng hơn. Một nhân vật quan trọng như thế, sau khi công du Tàu cộng về, bỗng ngã bệnh hiểm nghèo, là một bước ngoặt trong biến cố chính trị tại Việt Nam. Vì thế căn bệnh của ông trở thành “bí mật cấp nhà nước”!

Lặng lẽ đưa sang Singapore chữa mấy tháng không xong, rồi sang Hoa Kỳ, được hai bệnh viện ung thư tân tiến nhất điều trị, cũng thất bại, nên cuối cùng đành phải mướn máy bay riêng, đem trở về Đà Nẵng. Mãi đến lúc đó tin tức về ông Nguyễn Bá Thanh mới rò rỉ ra ngoài do một trang web lạ, trang Chân dung Quyền lực! Từ những hình ảnh chi tiết tại bệnh viện ở Hoa Kỳ đến lịch trình chuyến bay, rồi vì lý do “thời tiết” nên bị trì hoãn, đến giờ giấc máy bay chở ông hạ cánh xuống phi trường Đà Nẵng... tất cả đều chính xác! Trùm thông tin nhà nước coi như không hề hay biết. Đợi mãi đến giờ phút cuối mới được “ăn theo”. Mới được đưa hình ảnh một số người dân Đà Nẵng tự động đến chùa cầu an cho ông, việc an ninh phi trường chuẩn bị và số người dân đứng hai bên đường đợi đón ông trong ánh đèn đêm vàng vọt. Rồi sau đó là một số hình ảnh các quan chức lớn đến bệnh viện thăm viếng, tổ hợp bác sĩ điều trị thông báo về bệnh tình... nhưng hình ảnh của chính ông Nguyễn Bá Thanh thì tuyệt nhiên không thấy. Vẫn bí mật bao trùm!


Hôm 15.1.2015, ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu: "Phải đưa thông tin chính xác, kịp thời để định hướng. Trên mạng ai nói gì thì nói nhưng nếu có thông tin chính thống của Chính phủ thì người dân mới có lòng tin...".

Tiếp theo, ngày 30/1/2015, là phát biểu của ông Trùm Thông tin & Tuyên truyền nhà nước, Nguyễn Bắc Son, nói đến các trang blog Dân Làm Báo, Quan Làm Báo rồi nhấn mạnh "...và gần đây nhất là “Chân dung Quyền lực” đã nhanh chóng bị quay lưng vì đưa tin nhảm nhí, xấu độc trước sức mạnh đấu tranh của thông tin chính thống".


Câu nói nghe từa tựa như của ông Bộ trưởng Thông tin Iraq thời Saddam Hussein, lúc báo chí thế giới đưa tin và hình ảnh quân Mỹ đã đánh vô giữa Thủ đô Baghdaq, nhưng ông vẫn tỉnh bơ, khẳng định những tin đó là tin xấu, tin bịa đặt mà chỉ mấy tiếng đồng hồ sau thì trốn chạy vì chế độ Hussein sụp đổ!

Ông Thủ tướng và Bộ trưởng Thông tin & Tuyên truyền đều nói rất hùng hổ nhưng chuyện sờ sờ trước mắt tại sao vẫn giấu kín? Tại sao không trưng dẫn hình ảnh ông Nguyễn Bá Thanh để “bọn xấu hết đường đồn thổi”?

“Đồn thổi” về người đứng trong bóng tối ra tay đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh!

Theo Chân dung Quyền lực thì chính ông Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, nhờ Tàu cộng đầu độc, với tham vọng giành chiếc ghế Thủ tướng trong đại hội đảng đầu năm tới! Để phá vỡ tham vọng đó, Chân dung Quyền lực đưa tin, kèm theo hình ảnh chi tiết, cảnh giàu sang của giòng họ nhà ông Nguyễn Xuân Phúc, trong đó nêu bật chi tiết có “liên hệ gia đình thân tín” với “Hoa kiều Đặng Văn Thành”, vốn là đại gia đã kịp cao bay xa chạy luật pháp, nhờ bàn tay ông Nguyễn Xuân Phúc!

Nhưng cũng có thể ông Nguyễn Tấn Dũng chủ trương thanh toán ông Nguyễn Bá Thanh, vì trước ngày ra Hà Nội chính ông Nguyễn Bá Thanh đã ứng khẩu hàng 6 giờ liền trước cả ngàn cán bộ tại hội trường Đà Nẵng, tuy không nêu đích danh ai nhưng nói bóng gió là nếu làm không được việc (vụ Vinashin) thì phải từ chức “chớ cứ nhơn nhơn ra đó...” và cho biết là cách bầu bán đại hội sắp tới (đại hội XI) sẽ không như những lần trước! Ngụ ý là nếu “ai đó” không từ chức cũng sẽ bị kỷ luật. Nhưng sau đó ông Nguyễn Tấn Dũng thoát hiểm trong đường tơ kẻ tóc là nhờ âm mưu kiểu thâm Nho của ông Nguyễn Phú Trọng bị thất bại. Thay vì Bộ Chính trị quyết định kỷ luật (với số phiếu thuận 13/14, nghĩa là trong số 14 Ủy viên Bộ Chính trị lúc đó chỉ một mình ông Nguyễn Tấn Dũng bỏ phiếu chống biện pháp dùng kỷ luật!) đã đem ra đại hội Trung ương đảng quyết định vì sợ trách nhiệm! Nhờ thế, vây cánh ông Nguyễn Tấn Dũng cứu được ông, đồng thời bất tín nhiệm luôn cả hai người phe ông Tổng Bí thư muốn đưa vào Bộ Chính trị, trong đó có ông Nguyễn Bá Thanh! Còn hai người mới được bầu thêm lại thuộc nhóm miền Nam.

Kinh nghiệm xương máu đó ông Nguyễn Tấn Dũng không bao giờ quên!

Nếu bị kỷ luật thì chắc chắn cả gia đình, giòng họ và vây cánh ông khó thoát khỏi bị trừng trị! Vì thế khi ông Nguyễn Bá Thanh nhận chức Trưởng ban Nội chính Trung ương là có trong tay hồ sơ gia đình ông nên ông phải ra tay trước. Đồng thời có trang Chân dung Quyền lực tiếp tay, sẽ lần lượt đưa ra ánh sáng những nhân vật tham nhũng gộc.

Tuy ai trực tiếp chủ trương hạ độc ông Nguyễn Bá Thanh vẫn khó xác định nhưng kẻ trực tiếp xuống tay chắc chắn là Tàu cộng! Vì, hơn ai hết Tàu cộng cũng nắm trong tay các bí mật về các cá nhân lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam, dùng nó để khuynh đảo nội bộ đảng trong những quyết định cốt lõi. Do đó Tàu cộng có bổn phận phải bảo vệ và giữ bí mật cho tay sai nên phải ra tay đầu độc trước khi ông Nguyễn Bá Thanh kịp hành động.

Một thí dụ như câu nói của ông Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Quốc phòng: “Tôi thấy lo lắng lắm, không biết tuyên truyền thế nào, chứ từ trẻ con đến người già đều ghét Trung Quốc. Ai nói tích cực cho Trung Quốc là ngại. Tôi cho rằng cái đó là nguy hiểm cho dân tộc” trong khi ông Nguyễn Tấn Dũng đã từng có nhiều tuyên bố mang nội dung trái ngược như:

Tại Philippines: “Chúng tôi luôn mong muốn có hòa bình, hữu nghị nhưng phải trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng biển, và nhất định không chấp nhận đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”.

Tại Đức (15/10/2014): “Chúng tôi tin rằng nhân quyền, tự do, dân chủ là xu hướng không thể đảo ngược và là đòi hỏi khách quan của xã hội loài người. Việt Nam không phải ngoại lệ, không đứng ngoài xu thế này”.

Và trong thông điệp đầu năm 2014: “Dân chủ và nhà nước pháp quyền là cặp ‘song sinh’ trong một thể chế chính trị hiện đại”.

Cho dù trang Chân dung Quyền lực đưa đủ tin tức về 16 nhân sự Bộ Chính trị nhưng phần về ông Nguyễn Tấn Dũng thì ít hơn và bóng gió một số điều tốt. Còn chi tiết về sự lộng hành của quân đội, một lãnh vực được gọi là bí mật quốc phòng, từ trước đến nay không ai dám động đến và nội vụ liên quan đến tài sản khủng của gia đình ông Phùng Quang Thanh với con trai, Phùng Quang Hải, cũng được Chân dung Quyền lực đưa ra ánh sáng rất chi tiết.

Việc nầy cho thấy giữa Thủ tướng và Bộ trưởng Quốc phòng là hai phe rõ rệt.

Riêng với chức vụ Tổng Bí thư, ông Nguyễn Phú Trọng là Quân ủy Trung ương, tức Tổng chỉ huy quân đội, nên lập trường của Bộ trưởng Quốc phòng phải là lập trường của Tổng Bí thư! Và mục đích chính khi điều động ông Nguyễn Bá Thanh ra Trung ương đương nhiên liên hệ trực tiếp đến sinh mạng chính trị của ông Nguyễn Tấn Dũng.

Vì thế khi vừa ra Hà Nội, ông Nguyễn Bá Thanh đã bị đánh phủ đầu bằng việc Thanh tra chính phủ kết luận là Đà Nẵng, nơi ông Nguyễn Bá Thanh vừa rời chức Bí thư, đã phạm luật về đất đai làm thất thoát hàng ngàn tỉ đồng! Do đó cho dù ông Nguyễn Bá Thanh có là một con hổ đòi “bắt hết, hốt hết” cũng đành thúc thủ giữa một bầy sói hung hiểm của phe Thủ tướng tại trung ương, nên cuối cùng bị gục ngã!

Nhưng vô hiệu hóa được ông Nguyễn Bá Thanh cũng chỉ là biện pháp nhất thời. Do đó trang Chân dung Quyền lực vẫn là một sợi dây thòng lọng đang treo lửng lơ trên đầu những “đồng chí chưa bị lộ”. Có thể đây cũng là trọng tâm để phe ông Nguyễn Tấn Dũng vừa uy hiếp, vừa chiêu dụ những người phe cánh ông Tổng Bí thư ngã theo phe Thủ tướng, một phe đang thắng thế.

Riêng với ông Nguyễn Bá Thanh, chắc chắn sẽ không chịu uất ức về cõi trong yên lặng! Những bí mật về gia đình ông Nguyễn Tấn Dũng cũng như nội bộ đảng ông đang có trong tay tại sao không dùng để trả thù? Trả thù cả Tàu cộng đã ra tay tàn độc! Vì nghe lời ông Tổng Bí thư nên ông trở thành nạn nhân của phe phái trong nội bộ đảng, do đó không còn ai có thể giúp ông ngoài Hoa Kỳ. Vì Hoa Kỳ đang xoay trục về biển Đông, là đối tượng của Tàu cộng và Việt cộng! Nếu Hoa Kỳ có thêm nhân chứng, vật chứng bí mật về thâm cung bí sử nội bộ đảng và gia đình ông Nguyễn Tấn Dũng họ sẽ kiềm chế được đảng cộng sản Việt Nam để thực hiện theo mục đích của Hoa Kỳ! Điều nầy sẽ giúp ông Nguyễn Bá Thanh đi vào lịch sử bằng một lối rẽ khác. Một lối rẽ có lợi cho quê hương dân tộc!

Từng là đảng viên lẫy lừng bây giờ ông Nguyễn Bá Thanh trở thành một Ủy viên Trung ương phản tỉnh và rất có thể đây là lý do ông bị cô lập tuyệt đối trong những ngày cuối cùng!

Khi một con mãnh thú bị thương, vùng vẫy trước cái chết đã rất nguy hiểm huống gì ông Nguyễn Bá Thanh? Phải chăng nhờ thế nên Hoa Kỳ đã có được thỏa hiệp ngầm và nắm vững được ông Nguyễn Tấn Dũng, giúp ông mạnh dạn thoát ra chiếc vòng kim cô của Tàu cộng, nên trong mấy ngày vừa qua đã có hàng loạt tuyên bố rất rõ ràng của Hoa Kỳ về Việt Nam như:

- Hoa Kỳ cần Việt Nam để xoay trục sang châu Á [1]
- Hoa Kỳ muốn là nhà đầu tư lớn nhất ở Việt Nam [2]
- Việt Nam - Mỹ đang rà soát mối quan hệ đang phát triển [3]
- Trung Quốc chớ hiếp đáp Việt Nam và Philippines [4]

Còn ngay tại Việt Nam, nhân sự kiện 40 năm mất Hoàng Sa, đài truyền hình VTC đã thực hiện chương trình Kỷ niệm về cuộc Hải chiến Hoàng Sa của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, được phát sóng lúc 20 giờ ngày 19/1/2015, với lời thuyết minh rất trân trọng. [5]

Nhưng dù gì ông Nguyễn Tấn Dũng cũng biết là ông đang ở trong một giai đoạn vô cùng tế nhị. Chính nhờ gốc gác từ miền cực Nam đất nước nên ông thừa biết là người miền Nam căm thù chế độ cộng sản như thế nào! Và gia đình ông đã làm sui với gia đình Việt kiều Mỹ có gốc gác là công chức của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Ông cũng là người đầu tiên trong hàng ngũ lãnh đạo cao cấp nhất đã dùng 4 tiếng Việt Nam Cộng Hòa để trả lời trước quốc hội về vấn đề Hoàng Sa! Bản thân ông cũng suýt bị hãm hại do sự thâm độc của phe cánh cộng sản miền Bắc. Vì thế, để bảo toàn mạng sống cá nhân và gia đình không còn có con đường nào khác tốt hơn là ông phải tìm cách thay đổi thể chế. Thay đổi như những gì ông từng phát biểu trong vai trò Thủ tướng. Cho dù sự thay đổi không hẳn vì ông đặt trách nhiệm đất nước và dân tộc lên trên nhưng trước mắt là giải thoát ông và gia đình giòng họ khỏi bị trả thù, vừa bảo vệ được tài sản kếch xù đang có, đồng thời tên ông sẽ đi vào lịch sử dân tộc như là một người giải thoát đất nước khỏi họa cộng sản! Một Thein Sein từng là tên độc tài quân phiệt ở Miến chẳng những thoát được sự căm thù của người Miến mà còn được thế giới ca ngợi là người làm cuộc cách mạng không đổ máu giải phóng Miến ra khỏi chế độ độc tài. Vì thế hiện tại không mấy ai còn nhắc đến một thời quân phiệt và tham nhũng khét tiếng của Thein Sein!

Ông Thein Sein thành công và trở thành Tổng thống đang được ca ngợi thì tại sao ông Nguyễn Tấn Dũng không thể?

Cho dù cá nhân ông Nguyễn Tấn Dũng không phải là người tốt và có học nhưng vì thân phận của một nước nhược tiểu giữa vòng xoáy quyền lực của các nước lớn, bắt buộc phải chọn lựa giữa những người xấu thì người Việt Nam đành phải chọn người nào ít xấu hơn. Vì sự chọn lựa nầy sẽ tiết kiệm được máu xương, tránh được thêm một lần cốt nhục tương tàn do họa cộng sản Việt Nam gây ra cho dân tộc.

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

Còn đảng cộng sản thì không còn mình

Tú Kép

(Danlambao) - Nhân ngày thành lập đảng côn đồ cộng sản năm nay, một tờ báo côn an trong nước ra ngày 31-1-2015
đã chạy một bài báo với tựa đề chữ lớn “Chỉ biết còn đảng thì còn mình”, được Dân Làm Báo copy lại như sau:

Image


“Chỉ biết còn đảng thì còn mình” là nội dung tuyên truyền chẳng mới mẻ gì, được côn đồ côn an hâm đi hâm lại nhiều lần như là khẩu hiệu chiến lược sống còn của côn đồ côn an, bởi vì một lý lẽ thật đơn giản như đang giỡn, vì còn đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) thì còn đàn áp, bóc lột, bất công, bạo hành, tù đày. Do vậy, CSVN mới còn cần côn đồ côn an, vì tụi nầy là công cụ “bạo lực cách mạng” để đảng CSVN đàn áp dân chúng.

Đảng CSVN được ví như cái ghế ba cẳng: một cẳng là quân đội, một cẳng là côn an và một cẳng là thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh. Thanh niên CSHCM là tổ chức tình báo “vi mô”, tức phạm vi nhỏ, hay tình báo địa phương trá hình, rình mò từ trong nhà ra ngoài phố, làm ăng-ten cho đảng, đánh hơi ở đâu có tin tức gì mới lạ thì báo cáo cho đảng ngay tức khắc. Nhiều em bé ngây thơ, không biết việc mình làm có hại cho gia đình, cứ “thật thà khai báo” chuyện gia đình cho lãnh đạo đoàn TNCSHCM. Thế là tai họa gia đình xảy ra.

Quân đội do đám chính ủy chỉ huy. Quân đội nhân rân CSVN tự hào là đã từng chiến thắng hai đế quốc sừng sỏ Pháp và Mỹ, nay bị hớp hồn trước đám âm binh chính ủy do đảng CSVN thống lãnh. Tướng lãnh, sĩ quan đều xếp ve, nằm im dưới quyền điều khiển phù phép của đám chính ủy là những đảng viên CS. Giống như đàn cừu hay đàn dê khiếp vía trước đàn chó săn giữ trật tự cho chủ. Các tướng lãnh nòng cốt của quân đội nhân rân lại mới được dẫn qua Trung Cộng cấy sinh tử phù từ 16 đến 18-10-2014. Về lại nước, tên đại tướng bộ trưởng Quốc phòng, đã phát ngôn ngày 29-12-2014 một câu nghe mà thối lổ nhĩ, thật là nhảm nhí, “xu thế ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc”. Đại tướng bộ trưởng Quốc phòng, tổng tư lệnh quân đội mà chủ bại như thế, sợ sệt như thế, thì còn gì là oai phong quân đội.

Côn đồ côn an là bộ máy trấn áp hữu hiệu của đảng CSVN. Đảng CSVN càng đàn áp, càng bóc lột, càng bất công, càng bán nước, và dân chúng càng kêu ca, càng phản đối, thì côn đồ côn an CS càng có nhiều “job” để làm. Vì vậy chế độ CS đàn áp bóc lột bất công nhiều chừng nào thì côn đồ côn an nhiều chừng đó. Chưa có bộ máy cầm quyền nào trên thế giới mà côn an đông đến thế so với tỷ lệ dân số như ở Việt Nam cộng sản.

Hãy thử nhìn vào mỗi phường, xã, cứ khoảng 10 gia đình (CS gọi là hộ dân) thì có 1 côn an khu vực. Mỗi phường, xã có từ vài chục đến hàng trăm côn an, lục lạo, rình mò, vào tận bếp của nhà dân, vừa ngửi mùi phản động, vừa để dòm ngó xem có gì để cướp khéo không? Cướp khéo bằng nhiều trò ảo thuật. Thật thà thì xin, khôn ngoan thì mượn, ngoại giao thì khen, rồi nhờ mua giùm nhưng không trả tiền.

Chưa có một tổ chức côn an của một nước nào trên thế giới nhiều loại côn an đến thế. Côn an chìm, côn an nổi, côn an khu vực, côn an giao thông, côn an văn hóa, côn an tôn giáo, côn an bảo vệ chính trị, côn an kinh tế, côn an phản gián, thôi thì đủ thứ côn an… Và có một loại côn an lạ lùng là côn an bảo vệ những gia đình có thân nhân ở nước ngoài, theo dõi cả người ngoài nước.

Ở mỗi trường trung hay tiểu học (mà CS gọi là trường cấp 1, cấp 2, cấp 3), và cả trường đại học, luôn luôn có một côn an bảo vệ văn hóa theo dõi. Tên côn an nầy đứng đầu một hệ thống mật báo viên là những học sinh trong trường, thuộc đoàn thanh niên CSHCM. Bất cứ trường nào có gì động tĩnh là côn ao biết liền và báo cáo ngay, nhất là ngày nay, hệ thống cell phone rất nhạy bén. Cũng thế, tại các chùa hay nhà thờ, đều có côn an bảo vệ tôn giáo, cầm đầu là mấy tên giáo sĩ quốc doanh, báo cáo đầy đủ tình hình sinh hoạt trong chốn thờ phượng tôn nghiêm. Quý vị đi chùa hay nhà thờ đều phải cẩn thận với loại côn an tôn giáo. Dại dột mà tâm sự là bị tù ngay.

Vì vậy, câu châm ngôn “chỉ biết còn đảng thì còn mình” hoàn toàn đúng với lũ côn đồ côn an CSVN. Tuy nhiên, khổ nỗi, người dân Việt Nam cảm thấy câu nầy chẳng hạp lổ nhĩ tý nào. Trật lất. Người dân Việt Nam hoàn toàn nghĩ khác. Thầm tính sổ cuộc đời mình, người Việt Nam thấy từ khi có đảng CSVN thì mình chẳng còn chi cả. Chẳng có quyền làm người (nhân quyền), chẳng có quyền làm dân (dân quyền), cũng chẳng có tý mẹ gì thứ quyền gì bỏ túi làm thuốc chơi, ngoài cái quyền cúi đầu vâng lệnh đảng CSVN, tung hê đảng CSVN.

Nầy nhá! Trước đây, nhà nước CSVN thi hành chính sách kinh tế chỉ huy, ngăn sông cấm chợ. Ở nông thôn thì lùa tất vào hợp tác xã nông nghiệp, đánh kẻng ra đồng làm việc tính điểm, gọi là “lúa điểm”, tức “liếm đủa”, chứ có cóc gì đâu mà ăn. Ở thành thị thì nhà nước đánh tư sản mại bản, tư sản dân tộc, tiểu tư sản, tiểu thương, thi hành chủ trương “Công Tư Hợp Doanh”, mà dân chúng diễn dịch lại là “Của Tôi Họ Dành”. Nhà nước, đảng viên, cán bộ dành hết, cơ cấu hết. Đó là nói chữ cho vui chứ thật ra nhà nước cướp hết. Cướp nhà, cướp xưởng, cướp máy, cướp xe, cướp tài khoản. Rồi nhà nước bao cấp, ban phát lợi lộc xã hội theo cấp bậc trong đảng. Đi mua hàng theo kiểu “xã hội chủ nghĩa” là “xếp hàng cả ngày”.

Đến khi dân đói quá, không có tiền có của hối lộ đảng, đảng cũng đói, nên mở he hé cho kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trời đất quỷ thần ơi! Định hướng xã hội chủ nghĩa là cái quái gì, ai hiểu nổi? Ngay cả tổng bí thư đảng CSVN cũng không hiểu nỗi. Không ai biết thằng cha nào nghĩ ra chữ nghĩa thật hoa mỹ, định hướng xã hội chủ nghĩa, cho dân chúng ăn bánh vẽ. Dựa vào định hướng nầy, đảng viên cán bộ càng ngày càng vẽ với, càng tham nhũng tợn. Dân oan khắp nước kêu gào long trời lỡ đất mà chẳng có ai xét xử, vì không lẽ chúng tự xét xử chúng. Chúng tự xét xử chúng, diệt tham nhũng đi, còn ai là cộng sản nữa. Ủy ban bài trừ tham nhũng là trò xiếc mua vui mà thôi.

Đó là ở thành thị, còn ở nhà quê thì dân chúng khổ cực không bút nào tả được. Xem hình ảnh những trường học trống trơn, học trò qua sông phải đu giây như tạc dzăng trên rừng xanh, hoặc qua các cầu khỉ lắt lẻo rất dễ rớt tõm xuống sông, có em phải chui vào bao ny lông kéo qua sông, trông thật tội nghiệp.

Đó là vài hàng phát thảo vắn tắt đời sống kinh tế. Còn về chính trị, thì điều 4 hiến pháp 1992 định rằng đảng CSVN lãnh đạo toàn dân, ngổi chễm chệ trên đầu dân, mà chẳng ai bầu cho cái đảng thổ tả nầy cả. Nghe dân kêu ca quá, vừa rồi, đảng CSVN quăng ra một miếng da lừa cho dân gặm. Dân đâu có ngu mà gặm. Chỉ có mấy bác trí thức trí ngủ bu vào bàn loạn, đề nghị bỏ điều 4 nầy. Đúng là vớ vẩn.

Đây là kịch bản khôi hài đen của CSVN vì CSVN quá có kinh nghiệm về việc nầy. Điều 4 hiến pháp 1992 của VNCS sao chép lại điều 6 hiến pháp 1980 của Liên Xô. Ở Liên Xô cũng có thời nổi lên xôn xao dư luận đòi bỏ điều 6 nây. Nhưng nếu bỏ điều 6 thì còn gì là quyền lực của đảng CSLX, nên lãnh đạo CSLX nhất quyết không chịu bỏ. Bây giờ ở VN, các đảng viên CSVN dại gì bỏ điều 4 nầy, vì nếu bỏ điều 4 nầy thì đảng viên chỉ đi ăn mày chứ biết làm gì mà sống, mà ăn trên ngồi trước thiên hạ.

Hơn nữa, chẳng những điều 4 hiến pháp, mà tất cả những luật lệ của Việt Nam cộng sản hiện nay đều bàng bạc không khí điều 4 hiến pháp. Luật lệ nào ở Việt Nam bây giờ cũng để bào vệ đảng, mà bảo vệ đảng nghĩa là một hình thức điều 4 hiến pháp. Nếu bỏ điều 4 thì cũng như không, vì các luật lệ khác còn khắt khe hơn điều 4 nữa. Xin hãy bỏ ảo vọng đi các bác trí thức trí ngủ ơi. Chế độ CS không bao giờ sửa đổi được, đừng có dại tham gia ý kiến ý cò, chỉ có vứt chế độ CS vào sọt rác là hay nhứt.

Nếu không vứt vào sọt rác, nếu đảng CSVN vẫn còn đó, thì người dân Việt Nam chẳng còn gì cả. Từ năm 2009, sinh viên Lê Trung Thành đã báo động: "Các anh ơi! Các chị ơi! Các mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc." (đăng trên các website 13-03-2009.) Người dân Việt Nam chúng tôi chẳng có tý tự do nào cả. Đi chùa hay đi nhà thờ thì gặp giáo sĩ quốc doanh. Báo chí thì rặt cả phường bồi bút, chỉ còn một số liêm sỉ thì kẻ bị nghỉ việc, người bị bắt. Nhẹ nhứt là bị theo dõi, de dọa, bôi bẩn...

Còn chính trị thì nhiều chuyện vui nữa. Bầu cử thì đảng cử dân bầu. Người ra ứng cử phải do đảng CSVN cử ra, thông qua Mặt trận Tổ quốc. Cái mặt trận nầy là mặt trận phản quốc vì là cánh tay nối dài của cái đảng thổ tả phản quốc từ khi thành lập cho đến ngày nay. Mà mấy tên dân biểu bầu ra chỉ để làm bù nhìn gật đầu hợp thức hóa những luật lệ do đảng CSVN bày ra.

Theo điều 4 hiến pháp, đảng lãnh đạo chế độ, nên lãnh đạo tuốt tuột, từ trung ương xuống địa phương. Năm năm đảng họp một lần. Nội bộ tranh giành, chia chác quyền lực. Tên nào cũng bặm trợn, gian ác, tham nhũng, bóc lột. Chỉ khổ người dân. Ỳ ạch đóng thuế để nuôi bộ máy cầm quyền cồng kềnh gồm đảng, chính quyền, rồi cái mặt trận phản quốc nữa.

Không có gì thì dân chúng kêu oan. Dân chúng kêu oan biểu tình khắp nước thì bị bắt bớ đánh đập. Dân bị bóc lột, cướp nhà, cướp đất, hết đường sinh sống, đâm ra liều lĩnh, biểu tình dài dài. Tuy nhiên, dân oan, khiếu nại, kiện tụng, chống tham nhũng biểu tình, bị bắt rồi có cơ hội được thả ra. Ngược lại những người biểu tình bất bạo động vì đối kháng chính trị, chống Trung Cộng xâm lược, thì bị côn an CSVN đánh dập, bắt giam nặng nề, cô lập, bao vậy, cho chừa cái tật yêu nước chống ngoại xâm.

Sinh viên Phương Uyên chỉ viết một câu ngắn “Tàu khựa cút đi”, mà bị đì cho đến giờ nầy còn bị đì, không được học hành gì cả. Còn anh chàng nhạc sĩ Việt Khang nhẹ nhàng hỏi: “Xin hỏi anh là ai? / Sao bắt tôi tôi làm điều gì sai? / Xin hỏi anh là ai? / Sao đánh tôi chẳng một chút nương tay? / Xin hỏi anh là ai? / Không cho tôi xuống đường để tỏ bày / Tình yêu quê hương này, dân tộc này đã quá nhiều đắng cay!/ Xin hỏi anh ở đâu? / Ngăn bước tôi chống giặc Tàu ngoại xâm / Xin hỏi anh ở đâu? / Sao mắng tôi bằng giọng nói dân tôi?...” Thế là Việt Khang vào ngồi nhà tù nhỏ gở khoảng 1.500 tờ lịch.

Tỏ bày lòng yêu nước liền bị côn an CS bắt giam. Như thế, không khác gì nhà nước CSVN tịch thu lòng yêu nước của người dân. Dân chúng không còn gì, chỉ còn lòng yêu nước mà cũng bị tịch thu. Thế thì còn ai dại gì nuôi dưỡng, tỏ bày lòng yêu nước nữa. Vì vậy lòng yêu nước dần dần bị thui chột trong dân chúng. Dân chúng trở nên ù lỳ, vô cảm, lao vào cà-phê, rượu chè, cờ bạc, cá độ, trác táng. Những nhà nghiên cứu xã hội ưa trách cứ thanh niên trong nước ngày nay cà phê cà pháo, rượu chè bù khú cả ngày. Xin đừng trách họ mà hãy dẹp bỏ cái đảng CS và nhà nước CS thổ tả lưu manh thì tình trạng xã hội mới khá hơn được.

Tình hình dân khí như thế, thì lấy gì mà bảo vệ độc lập dân tộc khi sơn hà nguy biến. Như thế, nếu còn đảng CSVN thì nguy cơ mất nước lồ lộ trước mắt. “Giờ đây / Việt Nam còn hay đã mất / Mà giặc Tàu, ngang tàng trên quê hương ta / Hoàng Trường Sa đã bao người dân vô tội / Chết ngậm ngùi vì tay súng giặc Tàu...” (Việt Khang).

Những mô tả trên đây còn nhiều thiếu sót, chưa nói hết thực trạng xã hội Việt Nam, nhưng cũng đủ cho thấy còn đảng CSVN thì dân Việt Nam chẳng còn gì. Đó là chuyện ở trong nước. Còn chuyện bên ngoài thì thê thảm hơn nữa.

Không cần trở lui quá khứ xa xôi làm chi, chỉ xin bắt đầu từ thế kỷ 21 trở đi. Đầu tiên, ngày 30-12-1999, hai ngày trước khi bước qua thế kỷ 21, hai bộ trưởng Ngoại giao Việt Cộng và Trung Cộng ký kết tại Hà Nội “Hiệp ước về biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc”, theo đó Việt cộng nhượng cho Trung Cộng 720 Km2 đất liền ở hai tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn; làm mất ải Nam Quan lịch sử và một phần thác bản Giốc.

Xin mời độc giả tìm đọc các sách về địa lý và lịch sử xuất bản từ sau năm 2000, hầu như không có địa danh Nam Quan. Như thế, con cháu chúng ta sau nầy sẽ không biết có Nam Quan, và nếu có nghe nói đến Nam Quan thì không biết Nam Quan nằm ở đâu? Như thế là còn đảng CSVN thì Ải Nam Quan không còn là ải của mình. Mất mà con cháu về sau không biết. Đau thật.

Một năm sau, ngày 25-12-2000, tại Bắc Kinh, đại diện hai nước lại ký kết “Hiệp ước phân định lãnh hải”, phân chia quyền lợi trên Vịnh Bắc Việt, làm mất khoảng 10,000 Km2 mặt biển, tức khoảng hơn 8% diện tích Vịnh Bắc Việt. Từ đó, bản đồ Biển Đông của chúng ta không còn một số hải đảo như Hoàng Sa, Trường Sa, vì đã lọt vào tay Trung Cộng. Ngư dân Việt Nam ra biển Đông đánh cá liền bị tàu lạ đuổi chạy có cờ, nghĩa là với chế độ CSVN, mất biển mất đảo mà người dân không biết. Biển Đông không còn là biển của mình. Mất biển mà chính ngư dân không biết. Chán không?

Rồi núi rừng và cao nguyên Bắc Việt, cùng núi rừng và cao nguyên Trung Việt (mà Việt cộng gọi là Tây nguyên) cho tụi Tàu khựa thuê, khai thác đủ mọi thứ trên đời, làm đồn điền, khai bô-xít, trở thành cứ địa riêng của Tàu khựa. Nhà cầm quyền Việt cộng không được quyền kiểm soát. Biết đâu đó là những căn cứ quân sự của Trung Cộng khi có biến cố gì xảy ra. Như thế còn đảng csvn, núi và cao nguyên cũng không còn là của mình. Mất mà dân không biết.

Tóm lại, với côn đồ côn an, “chỉ biết còn đảng thì còn mình”. Tuy nhiên, côn đồ côn an chỉ là thiểu số tay chân của đảng CSVN, một đảng thổ tả ăn cướp, phản dân hại nước. Trong khi đó, với đại đó số dân chúng Việt Nam còn lại, còn đảng CSVN thì dân chúng mất hết, mất dân quyền, mất nhân quyền, mất tự do, kể cả những tự do căn bản, và nhất là mất nước.

Vậy thì câu kết luận thật rõ ràng: “còn đảng csvn thì không còn mình”. Bởi vì khi nước đã mất, thì mình làm sao còn được! Phải không bà con?

Tú Kép

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image

Dân chủ không tự trên trời rơi xuống

Lê Diễn Ðức

Năm 2015 bắt đầu với các diễn biến chính trị từ hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 10, khoá 11, trong các ngày 5 đến 12 tháng 01 năm 2015.

Tại hội nghị này, theo báo chí trong nước, ĐCSVN đã quy hoạch 22 Uỷ viên Bộ Chính Trị và 290 Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương cho khoá tới, sẽ diễn ra trong Đại hội đảng 12 vào đầu năm 2016.

Đã có rất nhiều bình luận, phân tích và dự đoán nhân sự cho ĐCSVN và nhà nước CSVN, cũng như những biến động đối với tình hình dân chủ trong bối cảnh đó.

Tin ở phép mầu

Nhiều người dựa vào sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để tiên đoán những biến chuyển chinh trị ở Việt Nam trong năm 2015 và năm 2016. Các ý kiến chủ yếu dựa trên bốn câu thơ sau:

“Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình”.

Thực tế, không phải trong năm Rồng, năm Tỵ (1940, 1941) thì bắt đầu có chiến tranh. Chiến tranh thế giới II đã bắt đầu trước đó, vào ngày 1 tháng 9 năm 1939, khi quân Đức tấn công xâm lược Ba Lan.

“Can qua xứ xứ khổ đao binh”, tức là khắp nơi đều khổ vì đao binh trong hai năm từ 1940, 1941 nhưng còn tiếp tục các năm sau đó nữa.

“Mã đề dương cước anh hùng tận” vào năm Ngọ (1942) và đến cuối năm Mùi (1943) cũng không chính xác, vì tuy nhiều triệu người chết vì chiến tranh, nhưng anh hùng không bao giờ tận.

Đến năm Thân (1943) trên các mặt trận khắp thế giới vẫn nóng bỏng, và tới năm Dậu (1945) thì phát xít Đức, rồi phát xít Nhật mới đầu hàng đồng minh, một phần nhân loại được hưởng thái bình, nhưng chế độ thực dân vẫn còn hiện diện ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latin.

Với Việt Nam, năm 1946 Pháp quay lại Đông Dương và cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm tiếp diễn đến năm 1954 khi ký kết hiệp định Geneve.

Người ta suy diễn những biến cố lịch sử và tưởng tượng sự tái diễn một cách gượng ép, hy vọng sấm truyền ứng nghiệm.

Người ta tin cũng tin rằng năm Ngọ (2014) Năm Mùi (2015) là năm sẽ có nhiều thay đổi lớn tại Việt Nam và trong năm Thân (2016) và năm Dậu 2017 sẽ có thái bình, tức là không còn chế độ Cộng sản!

Trông chờ “minh chủ”

Dư luận có vẻ trông chờ vào nhân vật Nguyễn Tấn Dũng, vốn xuất thân từ một y tá miệt vườn, không có học thức.

Trong 9 năm Nguyễn Tấn Dũng giữ chức Thủ tướng, từ năm 2006, kinh tế Việt Nam là một đồ thị đi xuống, tăng truởng suy giảm chỉ còn hơn 5%, các tập đoàn và tổng công ty nhà nước nợ nần khủng khiếp (khoảng 1,5 triệu tỷ đồng) mà chủ yếu là nợ khó đòi, các dự án đầu tư lớn chập chạp về thời gian bàn giao công trình, bê bối về chất lượng, nợ công chồng chất, nền kinh tế sa lầy trong vòng lệ thuộc Trung Quốc, đặc biệt về nguyên liệu…

Về xã hội, đạo đức xuống cấp nghiêm trọng, tình trạng tham nhũng càng ngày càng phổ biến, tinh vi hơn, trở thành những đường dây có tổ chức.

Về chủ quyền lãnh thổ, ngoài những câu tuyên bố mị dân của ông Dũng, thực chất Biển Đông vẫn không ngừng bị Trung Quốc khiêu khích, đe doạ. Tàu thuyền của ngư dân Việt Nam vẫn bị xua đuổi, đập phá trên vùng biển Hoàng Sa. Trung Quốc vẫn ngang nhiên tiến hành xây dựng các cơ sở quân sự, hậu cần ở Trường Sa và Hoàng Sa.

Rõ ràng, di sản “thành tích” của ông Nguyễn Tấn Dũng trong những năm qua là một bức tranh đen tối. Tuy vậy, như một ngôi sao sáng, ông ta vẫn củng cố được vị trí của mình nhờ có chỗ dựa của sân sau là an ninh và quân đội, hai khu vực mà trong 9 năm qua ông ta đã ban phát khá nhiều ân huệ, lợi ích.

Nếu quyền lực tập trung vào một con người không có trình độ học thức và mưu mô xảo quyệt như ông Dũng thì là thảm hoạ cho Việt Nam như tôi đã viết trong bài “Thảm hoạ của độc đoán, chuyên quyền”.

Cho rằng ông Nguyễn Tấn Dũng là một người có tư tưởng cải cách dân chủ là một sai lầm lớn.

Ông Dũng là người đã thực hiện nhiều chính sách đàn áp dân chủ, nhân quyền, cấm tự do báo chí và quyết không để hình thành lực lượng đối lập tại Việt nam. Ông ta là một người ham quyền cố vị, ở tuổi 65 vẫn đeo đuổi tham vọng quyền lực, cài cắm hai con trai vào bộ máy công quyền chuẩn bị cho tương lai và tạo điều kiện cho con gái trúng thầu những dự án kinh tế lớn.

Tuy nhiên, chiếc ghế Tổng Bí thư mà ông ta nhắm tới không phải dễ dàng. Bởi vì ông ta không có thế mạnh tuyệt đối trong tương quan quyền lực của nội bộ lãnh đạo cao nhất. Tham vọng trở thành Tổng Bí thư như ông Dũng còn có Phạm Quang Nghị, Lê Hồng Anh, Đinh Thế Huynh…

Thất bại của Nguyễn Phú Trọng- Trương Tấn Sang trong cuộc xung đột với Nguyễn Tân Dũng tại hội nghị 6 và 7 vẫn còn là ẩn số của một bài toán dài hạn. Không dễ gì Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang để Nguyễn Tấn Dũng “lên ngôi” một cách suôn sẻ.

Hơn nữa, hiến pháp của VNCS xác định quyền lãnh đạo duy nhất của ĐCSVN. Cấu trúc tổ chức tập quyền hiện tại của ĐCSVN còn mạnh. Cho nên, khả năng Nguyễn Tấn Dũng nắm chức Tổng Bí thư, kiêm Chủ tịch nuớc, rồi sẽ cải cách thể chế, tức là thay đổi Hiến pháp, để trở thành một Tổng thống toàn năng, rất khó xảy ra.

Từ nay đến năm 2016, tất nhiên, cuộc tranh đua quyền lực sẽ còn quyết liệt. Nhưng cuối cùng, ai nắm quyền thì cũng thế, cục diện chinh trị sẽ không thay đổi.

Hy vọng vì bất lực

Mặc dù dân chúng Việt Nam cảm nhận đuợc sự phản bội của ĐCSVN, chán chường trước một xã hội bị băng hoại kỷ cương, chuẩn mực, nhưng sự phản kháng chỉ nằm ở một thiểu số rất nhỏ. Đa phần cam phận “sống chung với lũ”. Xuất phát từ tâm lý đã trải qua một cuộc chiến tranh gian khổ, người ta sợ một sự xáo trộn bất ổn, ảnh huởng đến miếng cơm, manh áo hàng ngày.

Do bị nhồi sọ, dân chúng tưởng tượng sự tranh giành quyền lực trong một xã hội đa đảng sẽ rất phức tạp. Họ không hề có khái niệm về bầu cử tự do và các nguyên tắc của cuộc chơi dân chủ là quyền lực sẽ do lá phiếu quyết định chứ không phải bằng bạo lực cấu xé nhau.

Những người mong muốn Việt Nam dân chủ, có tư tưởng chán ghét chế độ cộng sản, một số nhóm dân sự ra đời, hoạt động phần nhiều mang tính tự phát, tổ chức kém. Cần một thời gian dài nữa họ mới có thể trưởng thành và thu hút sự ủng hộ của số đông trong một xã hội còn vô cảm về chính trị.

Trong bối cảnh như trên, lộ trình dân chủ hoá của Việt Nam còn rất xa vời và mờ mịt. Từ cái nhìn bất lực này, phát sinh ra tâm lý chờ đợi phép mầu, mong xuất hiện “minh chủ”, khả dĩ có thể làm thay đổi đất nước.

Lịch sử đã cho thấy “minh chủ” không tự nhiên sinh ra mà được tạo nên từ phong trào xã hội. Không một nhà độc tài nào lại muốn ban phát dân chủ cho dân chúng. Tự do và dân chủ phải tranh đấu để giành lấy chứ nó không từ trên trời rơi xuống. Không có cuộc cách mạng nào tự dưng từ trên xuống mà không có áp lực từ dưới lên. Các cuộc cách mạng dân chủ đều phải đổi bằng tổn thất và xương máu, kể cả những cuộc cách mạng được cho là hoà bình.

Bức tường Berlin sẽ không sụp đổ nếu như không có hàng trăm ngàn người Đông Đức xuống đường đòi dân chủ liên tục, nếu không có 4 triệu công dân Đông Đức xin ra khỏi nước vĩnh viễn và hàng trăm người bị bắn chết khi chạy sang Tây Đức.

Sẽ không có một Thein Sein nếu như không có hàng ngàn sinh viên, phật tử MIến Điện bị đàn áp đẫm máu trong các cuộc biểu tình năm 1988 và sự hoạt động phản kháng của Đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ, đứng đầu là nhà hoạt động đối lập nổi tiếng Aung San Suu Kyi.

Tóm lại, năm 2015, 2016, theo tôi, sẽ chẳng có chuyển biến chính trị nào mang tính bước ngoặt. ĐCSVN tiếp tục tồn tại, cầm quyền và trên đất nước Việt Nam vẫn kéo dài sự ngự trị chế độ độ độc tài toàn trị cộng sản.

User avatar
saohom
Posts: 2240
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Kẻ thù của tiến trình dân chủ hóa ở Việt Nam

Nguyễn Hưng Quốc
(Blog VOA)

Kẻ thù của dân chủ ở Việt Nam, trước hết, là chế độ độc tài. Nhưng tại sao chế độ độc tài ấy vẫn cứ vững mạnh? Câu trả lời dĩ nhiên không phải vì cái chế độ ấy... vững mạnh. Vấn đề, bởi vậy, cần được đẩy xa hơn: Tại sao chế độ ấy vẫn vững mạnh, tiếp tục vững mạnh; và dù bị dân chúng căm ghét, không có dấu hiệu gì lung lay và yếu ớt cả? Nói cách khác, cần tìm các kẻ thù của dân chủ ở ngoài chế độ độc tài.

Nhìn vấn đề như vậy, theo tôi, có hai kẻ thù chính: Một là óc tư lợi và hai là chủ nghĩa thực tiễn (realism).

Trước hết, về tư lợi, xin lưu ý là có nhiều hình thức độc tài khác nhau, từ độc tài quân chủ đến độc tài quân phiệt, độc tài cá nhân và độc tài đảng trị. Về bản chất, các hình thức độc tài ấy giống nhau: thâu tóm quyền lực và quyền lợi vào trong tay của một người hoặc một nhóm người cùng lúc với việc tước bỏ mọi thứ quyền (rights) căn bản của đại đa số quần chúng. Về mức độ độc ác, chà đạp lên quyền làm người, chúng cũng không khác nhau mấy: số nạn nhân bị giết chết dưới chế độ độc tài đảng trị của Stalin, Mao Trạch Ðông và Pol Pot không hề thua kém số nạn nhân do độc tài cá nhân của Hitler sát hại. Có điều đáng buồn là, về tuổi thọ, trong thời kỳ hiện đại, loại độc tài đảng trị tồn tại lâu và khó đánh gục nhất. Lý do đơn giản: dưới chế độ đảng trị, quyền lực và quyền lợi được san sẻ cho nhiều người, do đó, lực lượng của họ rất đông và vì đông, nên cũng vững mạnh. Ví dụ ở Việt Nam, quyền lực tối cao nằm trong tay mười mấy người trong Bộ Chính Trị, tuy nhiên, dưới Bộ Chính Trị, có mấy trăm người trong Trung Ương đảng cũng có rất nhiều quyền lực; xuống nữa, thấp hơn, tận các địa phương nhỏ, mấy triệu đảng viên cũng có những quyền lực và quyền lợi hơn hẳn dân chúng: Chính mấy triệu đảng viên ấy, vì tư lợi của họ, hay nói theo lời Ðại Tá Trần Ðăng Thanh, vì những cuốn sổ hưu của họ, trở thành những nguồn hỗ trợ cho chính quyền độc tài, làm cho chính quyền, ít nhất, cho tới nay, hầu như bất khả xâm phạm.

Nhưng kẻ thù ấy, thật ra, chưa phải là kẻ thù chính. Số lượng đảng viên đông thì đông thật nhưng dù sao cũng không nhằm nhò gì so với 90 triệu dân. Nếu tất cả dân chúng, hay chỉ cần vài trăm ngàn người dân đổ ra đường biểu tình chống lại độc tài thì, trước sức ép của thế giới, cả mấy triệu đảng viên cũng chịu bó tay. Kinh nghiệm từ các cuộc cách mạng trên thế giới từ xưa đến nay, cụ thể hơn hết, những năm gần đây tại Trung Ðông và Bắc Phi, cho thấy điều đó. Ðộc tài có thể ra lệnh cho quân đội xả súng vào cả hàng ngàn người, thậm chí, hàng chục ngàn người, nhưng không có ai dám ra lệnh bắn cả hàng trăm ngàn người, đặc biệt trong thời hiện đại, khi, với hệ thống truyền thông đại chúng vừa tinh vi vừa nhanh chóng, việc tàn sát ấy dễ dàng lan rộng khiến cả thế giới lên án và can thiệp.

Thế thì tại sao trong một quốc gia có gần 100 triệu người không thể hoặc chưa thể có mấy trăm ngàn người xuống đường biểu tình đòi tự do và dân chủ? Câu trả lời đầu tiên, dễ hiện ra nhất, là vì sợ. Nhưng theo tôi, câu trả lời ấy chưa phải là vấn đề căn bản. Chỉ cần theo dõi dân tình tại Việt Nam hiện nay, chúng ta thấy ngay vấn đề chính của đại đa số quần chúng không phải là sự sợ hãi mà chủ yếu là người ta không thực sự quan tâm đến xu hướng dân chủ hóa. Họ không đoái hoài đến chính trị. Họ vô cảm trước họa độc tài. Với họ, Việt Nam do ai cai trị và cai trị thế nào không quan trọng. Ðiều quan trọng nhất, với họ, là họ có thể làm ăn, mua sắm xe cộ và nhà cửa. Bởi vậy, điều họ cần nhất là sự ổn định về chính trị và những cơ hội để làm giàu hoặc ít nhất, kiếm sống. Lâu nay, chúng ta thường gọi đó là tâm lý vô cảm hay chủ nghĩa mặc-kệ-nó, tuy nhiên, ẩn giấu đằng sau sự vô cảm ấy chính là óc tư lợi, chỉ nghĩ đến những lợi ích của bản thân mình và gia đình mình hơn là quyền lợi chung cho cả đất nước.

Bên cạnh óc tư lợi của các đảng viên cũng như của dân chúng nói chung, tiến trình dân chủ hóa còn có một kẻ thù khác nữa: chủ nghĩa thực tiễn (realism) của các cường quốc trên thế giới.

Trong chính trị học, khái niệm chủ nghĩa thực tiễn được sử dụng nhiều nhất trong lãnh vực quan hệ quốc tế. Nói một cách vắn tắt, chủ nghĩa thực tiễn chủ trương, một, trong quan hệ quốc tế, không có một quyền lực nào bên ngoài hay ở trên có khả năng chi phối cách hành xử giữa các quốc gia với nhau; hai, yếu tố chính quyết định sự lựa chọn của mỗi quốc gia là quyền lợi của chính nước ấy; và ba, quan hệ quốc tế, do đó, thay đổi theo từng lợi ích cụ thể chứ không phải là một ý thức hệ nào cố định cả. Trong ý nghĩa ấy, có thể nói hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính sách ngoại giao của Tây phương đều xuất phát từ quan điểm thực tiễn luận. Trên lý thuyết, họ hay nói đến vấn đề nhân quyền như một nền tảng ngoại giao, nhưng trên thực tế, mọi quyết định của họ đều tùy thuộc vào quyền lợi của quốc gia họ. Trong lịch sử, kể cả lịch sử rất gần, hơn nữa, kéo dài đến tận ngày nay, Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia Tây phương đều duy trì quan hệ mật thiết với nhiều quốc gia còn chìm đắm dưới họa độc tài. Như với Ai Cập dưới thời Hosni Mubarak hay Pakistan và Saudi Arabia hiện nay.

Từ những kinh nghiệm ấy, chúng ta có thể đặt vấn đề: Liệu Mỹ và Tây phương có đẩy mạnh sự hợp tác chiến lược với Việt Nam trong khi Việt Nam vẫn còn độc tài và tiếp tục chà đạp lên nhân quyền hay không? Theo cách trả lời phỏng vấn của một số quan chức trong guồng máy chính trị ở Mỹ và Tây phương nói chung thì dường như là không. Họ lớn tiếng tuyên bố việc cải thiện nhân quyền là một trong những điều kiện căn bản của mọi sự hợp tác có tầm chiến lược. Với họ, dường như đó là một nguyên tắc. Nhưng đó chỉ là những lời tuyên bố. Khi việc hợp tác thực sự có lợi, người ta sẽ bất chấp tất cả những nguyên tắc và các điều kiện ấy như điều họ vẫn làm đối với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ, Bắc Phi, Trung Ðông từ trước đến nay. Nói cách khác, trở ngại chính trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ cũng như với các quốc gia Tây phương hiện nay không phải vấn đề dân chủ hay nhân quyền mà thực ra là vấn đề tin cậy: chính quyền Việt Nam phải làm sao cho thế giới thấy là họ có một chiến lược rõ ràng, đặc biệt, trong quan hệ với Trung Quốc. Tuy nhiên, sự tin cậy chỉ có thể đạt được khi người ta chia sẻ một bảng giá trị chung; trong bảng giá trị ấy, nhân quyền lại là một trung tâm. Do đó, mặc dù bị chìm phía dưới, nhân quyền vẫn là một yếu tố quan trọng trong bất cứ một liên minh nào với Tây phương. Yếu tố trung tâm này chỉ bị gạt qua một bên trong trường hợp sự liên minh trở thành thiết yếu, không thể không có.

Dĩ nhiên, người Việt, nhất là cộng đồng người Việt ở hải ngoại vẫn nên và cần tiếp tục vận động để Mỹ và Tây phương tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam để cải thiện nhân quyền, nhưng cũng không nên quên tất cả những nhà lãnh đạo Tây phương đều là những nhà thực tiễn luận (realist): Cuối cùng, điều họ làm là những gì có lợi nhất cho đất nước họ.

Chứ không phải là ý thức hệ hay ý tưởng. Kể cả các ý tưởng về dân chủ và nhân quyền

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

TT Obama yêu cầu Quốc Hội cho phép chiến tranh chống IS

WASHINGTON (AP) –Tổng Thống Obama hôm Thứ Tư chính thức yêu cầu Quốc Hội cho phép sử dụng quân lực Mỹ
để đánh nhóm chiến binh Nhà Nước Hồi Giáo IS, nhằm “chứng tỏ trước thế giới quyết tâm của chúng ta”.

Image
Tổng Thống Obama loan báo đã gởi qua Quốc Hội đề nghị cho tiếp tục chiến dịch trong ba năm đánh IS bằng không lực và một số chiến dịch trên bộ
có giới hạn. Đứng bên Tổng Thống ở phòng Roosevelt tòa Bạch Ốc, có (từ trái sang phải) Phó Tổng Thống Joe Biden, Ngoại Trưởng John Kerry
và Bộ Trưởng Quốc Phòng Chuck Hagel. (Hình: Chip Somodevilla/Getty Images)

Trong lời phát biểu tại tòa Bạch Ốc, ông xác định: “Tôi tin rằng Hoa Kỳ sẽ không bị lôi cuốn vào một trân chiến tranh trên bộ kéo dài khác”.

Đây là lần đầu tiên từ 13 năm, Tổng Thống Mỹ đã xin Quốc Hội cho quyền chiến tranh ở hải ngoại, sau Tổng Thống George W. Bush năm 2002 được Quốc Hội chấp thuận cho tấn công Iraq.

Theo Tổng Thống Obama, IS “tạo nên mối đe dọa cho dân chúng và sự ổn định tại Iraq, Syria và toàn khu vực Trung Đông cũng như an ninh quốc gia của Hoa Kỳ”. Ông xác định sẽ không có những chiến dịch quy mô, lâu dài như ở Afghanistan và Iraq. Tuy nhiên ông muốn được sự linh hoạt trong cuộc hành quân trên bộ trong một số trường hợp giới hạn, bao gồm những sứ mạng cứu hộ, thu thập tình báo và sử dụng lực lượng đặc biệt vào mục tiêu quân sự chống các thủ lãnh IS. Ông cũng đề nghị không giới hạn về địa bàn hoạt động, để cho quân đội Mỹ có thể truy lùng các chiến binh Hồi Giáo.

Dùng tới lực lượng bộ chiến sẽ là vấn đề khó khăn để được sự đồng ý của Quốc Hội vì trong khi nhiều nhà lập pháp Cộng Hòa tán thành thì hầu hết các nhà lập pháp Dân Chủ không đồng ý vì lo ngại vướng mắc lâu dài như ở Iraq.

Tổng Thống Obama đề nghị thời hạn cho phép chiến tranh là 3 năm, có nghĩa là sẽ có hiệu lực trong năm đầu của người kế nhiệm.

Quốc Hội chưa ấn định lịch trình để trả lời Tổng Thống. Lãnh đạo Thượng Viện Mitch McConnell cũng như Chủ Tịch Hạ Viện John Boehner đều nói rằng sẽ cần nghiên cứu kỹ đề nghị.

Thật ra, từ nửa năm qua Tổng Thống Obama đã cho mở chiến dịch không quân đánh IS và yểm trợ vũ khí cùng huấn luyện cho quân đội Iraq, dân quân người Kurd, lực lượng nổi dậy ở Syria. Ông dựa vào quyền chiến tranh chống khủng bố đã được Quốc Hội chấp thuận sau vụ 9/11 và cho rằng không cần xin phép lại. Tuy nhiên nhiều nhà lập pháp không đồng ý với lập luận này.

Phát ngôn viên tòa Bạch Ốc Josh Earnest giải thích rằng trong giới hạn sử dụng lực lượng bộ chiến có sự cho phép mở các cuộc hành quân đặc biệt như tấn công các lãnh tụ khủng bố hay giải cứu tù binh con tin. Theo Earnest: “Không thể nào dự trù từng kịch bản là khi nào cần tới quân bộ chiến”. (HC)

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Mối Nguy Lớn và Mới Cho Việt Nam

Vi Anh

Nhiều tin chánh thức và bán chánh thúc trên truyền thông truyền thống và dân dã cho biết mối nguy lớn và mới của Việt Nam là núi rừng VN sẽ do TC thầu khai thác dầu khí trên đá phiến theo kỹ thuật mới gọi là fracking. Dãy núi Trường Sơn của VN là vùng dồi dào đá phiến, có sẵn đường mòn Hồ chí Minh CS Hà nội đã cải tiến thành hạ tầng cơ sở, có đường dây điện cao thế Bắc Nam, rất thuận lợi, dễ dàng, và giá thành thấp cho việc khai thác. Nhiểu dấu chỉ khả tín cho biết TC đã lên kế hoạch, bí mật móc nối với CS Hà nội, bằng nhiều hình thức chiếm cứ vùng này của VN để khai thác như khai thác bauxite ở Cao Nguyên Trung Phần VN mà CS Hà nội gọi là Tây Nguyên.

Như đã biết khả năng kỹ thuật mới khai thác dầu đá phiến hiện thời rất tân kỳ và hữu hiệu. Mỹ là quốc gia đi tiên phuông trong kỹ thuật này. Dùng hơi nước với áp suất mạnh làm bể những phiến đá để hút dầu khí lên. Lâu nay kỹ thuật cổ điển chỉ khoan xuống dỉa hay giếng dầu, đã khai thác qua nhiều nên đã cạn kiệt. Nhưng dầu còn trong cát, trong đá, nên bây giờ làm bể phiến đá, khối cát rút lên. Kỹ thuật mới này giúp Mỹ sẽ trở thành nước sản xuất dầu khi nhiều số 1 thế giới, trong một hai năm nữa.

Trung Cộng sớm muộn gì cũng có thể ăn cắp, áp dụng được kỹ thuật mới này. TC cần dầu như hơi thở. Kinh tế TC sẽ sụp đổ khi nguồn dầu nhập cảng từ Trung Đông bị ngăn trở. Nhứt là trong thời kỳ Mỹ và các nước đồng minh của Mỹ đối đầu với TC, đang tổ chức bao vây quân sự và kinh tế của TC. Để chống TC bành trướng ở Á châu Thái bình dương, Mỹ đã chuyển trục quân sự về Á châu Thái bình dương và thành lập hiệp ước Đối Tác Xuyên Thái Bình dương gồm 12 nước hai bên bờ đông tây Thái bình dương, có VNCS mà không có TC, để bao vây quân sự và kinh tế đối với TC.

Nguồn cung ứng dầu cho TC là vấn đề sanh tử của TC. Thiếu dầu trong 6 tháng thôi, kinh tế TC sẽ suy sụp, kinh tế suy sụp, TC không còn tính chánh đáng để cầm quyền, Đảng Nhà Nước TC bị sụp đổ trước cuộc nổi dậy của người dân Trung Quốc.

Trong khi đó khối lượng dầu khí đá phiến rất lớn đang nằm ở dãy Trường Sơn của VN, rất gần với TQ. Dầu khí đá phiến của Trường Sơn VN là VN là giải pháp dễ làm cho bài toán khó, sanh tử của TC. Trường Sơn là một dãy núi dài từ tây Nghệ An và chạy dài suốt miền Trung, đến Bắc Đông Nam bộ, dãy núi dài nhứt VN. Dãy núi Thất Sơn, Núi Cấm ở Châu đốc ở Miển Nam VN cũng là thuộc dãy Trường Sơn ấy. Trường Sơn là dãy núi cỗ đại của Trái Đất. Nó là biên giới thiên nhiên phía Tây của VN. Vô số vật hữu cơ bị đè nén hàng tỷ tỷ năm đã biến thành dầu trong đất, đá, cát đá và dưới những địa tầng này. Chỉ cần phá vỡ các phiến đá thì rút lên, giá thành chắc chắn rẻ hơn Mỹ khai thác ở các dãy núi chạy dài theo nước Mỹ.

Điện đã sẵn sàng cho máy móc, với dòng điện cao thế Bắc Nam. Nước cũng sẵn trên suối, sông quá nhiều nước với gió mùa nhiệt đới đưa mưa dầm lâu ngày đến rong rêu mọc như ở Huế. Trường sơn là nguồn của tất cả các con sông của VN từ Trường Sơn chảy ra Biển Đông.

Giao thông đã có dường mòn Hồ chí Minh được CS Hà nội cải tiến thành đường chiến lược chuyển quân biên phòng rừng núi. Đường chuyển dầu khí khai thác được ở Trường Sơn ra biển rất ngắn và tiện để chở bằng tàu về TC. Hay làm đường ống dẫn dầu thô ra tàu dầu cũng gần và tiện nhờ địa hình Miền Trung nghiêng ra biển và theo bờ biển là đồng bằng. Nhiều vùng của Trường sơn ra biển chỉ dài 50 km. Như tại Vũng Áng, Thanh Hoá, TC đã có sẵn đầu cầu trong khu kỹ nghệ Vũng Áng, hàng 5000 công nhân TC, hàng trăm nhà xưởng của TC đã có sẵn trong khu kỹ nghệ này.

Chưa cần nói Đảng CSVN đã cam kết với TC trong hội nghị Thành Đô 1990 biến VN thành một tỉnh lẻ của TC. Chỉ nhìn tình hình lệ thuộc của VN hiện tại đối với TC, thì thấy kế hoạch thực dân kiểu mới của TC để khai thác dầu khí trên phiến đá của VN, là rất ngon ăn. Về chánh trị hầu như TC đã cấy sinh tử phù vào hơn 2/3 Bộ Chánh Trị là cơ quan quyền lực nhứt của Đảng Nhà Nước CSVN. Những đại cán này TC bảo sao làm vậy nếu không TC không cần ám sát mà khui những vụ gái, tiền cũng đủ tiêu diêu sinh mạng chánh trị rồi. Như Tổng Bí Thư Nguyễn phú Trọng, Bộ Trưởng Quốc Phòng Phùng quang Thanh, TC đã biến thành “gia nô” cho TC rồi.

Còn ngoài biển TC gần như đã kiểm soát 90% Biển Đông của VN rồi. Trên đất liền, Tây Trường Sơn, TC đã mua đứt nhà cầm quyền Miên, Lào bằng viện trợ kinh tế hào phóng, bằng bỏ tiền ra làm đập thuỷ điện cả chục cái. TC làm cạn dòng sông Cửu Long dần dần biến vựa lúa của VN ở Miền Tây Nam Việt bị nhiễm mặn, khô cằn, khi cần TC xả nước xuống thì vựa lúa VN bị chìm dưới nước.

Còn ở Miền Bắc, TC đã mướn dài hạn cả trăm năm nhiều khu rừng núi của nhiều tỉnh giáp giới với TC, coi như TC đã có tiền đồn chống Việt Nam, kiểm soát biên giới VN rồi. Và trong nội địa, TC đã đưa qua không biết bao nhiêu người gọi là công nhân không có chiếu khán nhập cảnh, họ sống và làm việc tại vô số công trường, khu kỹ nghệ, nhà máy điện nước do TC lãnh thầu và đút lót. Số cơ sở này, công nhân này coi như là đội quân thứ năm của TC trong lòng quốc gia dân tộc VN. Đó là con ngựa thành Troie của TC, sẵn sàng mở cửa VN cho quân TC vào, làm nội ứng cho quân TC. Họ ở kháp nước VN, ở đâu cũng có, từ dưới Ải Nam Quan vì TC đã chiếm Ải Nam Quân dĩ chí đến Mũi Cà Mau môi trường tiến thân quân sự, chánh trị của TT Nguyễn tấn Dũng.

Nguy cơ mất nước VN vào tay TC rất lớn nếu còn CSVN. Trong lịch sử VN 1000 năm chống quân Tàu, tạo ra những thời độc lập, tự chủ huy hoàng của quốc gia dân tộc VN, chánh yếu là nhờ sức mạnh của người dân và tinh thần bất khuất của người dân Việt. TC biết rất rõ nên TC ban sắc chỉ cho TBT Nguyễn phú Trọng cầm đầu tập đoàn đảng viên CSVN làm chư hầu, thái thú cho TC. CS Bắc Kinh ra lịnh cho Đảng Nhà Nước CSVN bó tay, bịt miệng, không cho người dân bày tỏ lòng yêu nước, biểu tình chống TC xâm lăng biển đảo. Lịnh đó là lịnh “định hướng dư luận”, do chính CS Bắc Kinh triệu TBT Nguyễn phú Trọng qua Bắc Kinh giao để về VN trấn áp dân chúng VN

Và mới đây nhứt, tin RFI của Pháp, Đại Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng Quốc Phòng của VNCS tuyên bố, hăm he “ghét Trung Quốc nguy hiểm cho dân tộc" VN, trong hội nghị của chánh phủ, có mặt 63 lãnh đạo đô tỉnh thị, để phát huy Nghị quyết của Quốc hội năm 2015./.(VA)

User avatar
phu_de
Posts: 2917
Joined: Sun Nov 28, 2004 10:57 pm
Has thanked: 7 times

Post by phu_de »

Bản dịch tiếng Anh “Giải Khăn Xô Cho Huế” của Nhã Ca

Giới thiệu sách mới

Tác phẩm “Giải Khăn Xô Cho Huế” của nhà văn Nhã Ca đã ra mắt lần đầu tiên vào năm 1969 tại Việt nam. Năm 1970, tác phẩm này được Giải thưởng Văn học Việt nam. Và vào năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 40 năm vụ Thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế (1968 – 2008), tác phẩm cũng lại được tái bản tại hải ngọai.

Vào tháng 8 năm 2014 vừa qua, bản dịch Anh ngữ lần đầu tiên do dịch giả Olga Dror thực hiện đã được ra mắt với công chúng. Và vào ngày 25 tháng Hai năm 2015, tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror sẽ cùng có mặt trong buổi Giới thiệu bản dịch Anh ngữ này tại Thư viện Doe Library thuộc Đại học Berkeley, California

Image

Xin ghi chi tiết về tác phẩm này như sau:
Mourning Headband For Hue
by Nhã Ca
An Account of the Battle for Hue, Vietnam 1968
Translated and with an Introduction by Olga Dror
Indiana University Press – 2014
Sách dày 378 trang, giấy trắng, khổ chữ 12, bìa cứng
Đối với phần đông độc giả người Việt, thì tôi nghĩ khỏi cần ghi lại chi tiết cuốn sách này bởi lẽ ai ai thì cũng đều có dịp đọc trực tiếp qua nguyên tác rồi. Do đó, trong bài giới thiệu này, tôi sẽ trình bày một số điểm nổi bật trong ấn bản tiếng Anh – đặc biệt là bài Giới thiệu ở đầu cuốn sách dài đến trên 50 trang với rất nhiều chi tiết độc đáo của dịch giả Olga Dror.

I – Sơ lược về tiểu sử dịch giả Olga Dror.

Olga Dror sinh trưởng tại thành phố Leningrad, Liên Xô trong một gia đình gốc Do Thái. Bà chọn học về Ngôn ngữ và Văn hóa Việt nam, đã có văn bằng Cao Học về Đông phương học tại trường Đại học Quốc gia Leningrad năm 1987. Sau đó theo học chuyên sâu tại Viện Ngôn ngữ thuộc Hàn lâm viện Khoa học tại Moscow. Bà làm việc cho bộ phận phát thanh về Việt nam của Đài Phát Thanh Moscow.

Năm 1990, Olga di cư về Do Thái. Tại đây bà học thêm về môn Bang giao Quốc tế tại Đại học Hebrew. Sau đó bà làm việc cho Bộ Ngọai giao Do Thái tại sứ quán Do thái ở thủ đô Riga, nước Latvia.

Qua Mỹ, bà tiếp tục nghiên cứu về Việt nam và năm 2003 đậu thêm văn bằng Tiến sĩ tại Đại học Cornell. Hiện Olga Dror là Giáo sư Phụ tá giảng dậy về Lịch sử tại Đại học Texas A&M, Texas. Phu quân của bà là Giáo sư Keith Taylor người Mỹ dậy học ở Đại học Cornell và cũng là một học giả nổi tiếng chuyên về Lịch sử và Văn hóa Việt Nam.

Olga Dror còn là tác giả cuốn sách viết về Công chúa Liễu Hạnh có nhan đề “Cult, Culture and Authority : Princess Liễu Hạnh in Vietnamese History” được nhà xuất bản Đại học Hawaii ấn hành năm 2007. Và bà còn là người biên tập cho hai cuốn sách về Tôn giáo ở Việt nam và Trung quốc. Hiện bà đang nghiên cứu về vấn đề giáo dục giới trẻ ở cả hai miền Bắc và Nam Việt nam trong giai đọan chiến tranh 1965 – 1975.

Nhân tiện cũng xin ghi vài dòng về nhà xuất bản Đại học Indiana, là nơi có một tủ sách chuyên xuất bản những tác phẩm nghiên cứu về chiến tranh Việt nam. Và vào năm 2012 cơ sở này cũng đã cho ấn hành cuốn Hồi ký viết trực tiếp bằng Anh ngữ của tác giả Nguyễn Công Luận với nhan đề là : “Nationalist in the Vietnam Wars : Memoirs of a Victim Turned Soldier”. Olga Dror cũng đã viết bài điểm sách bằng tiếng Anh khá chi tiết về cuốn này và chính tôi người viết bài này cũng đã có dịp giới thiệu sách với bạn đọc người Việt trước đây nữa.

II – Đánh giá của giới nghiên cứu và nhà báo về tác phẩm.

Các giáo sư Trần Huy Bích, Nguyễn Ngọc Bích cũng như nhà báo Phan Tấn Hải đều đánh giá cao công trình chuyển ngữ rất công phu do Olga Dror thực hiện về cuốn Giải Khăn Sô cho Huế từ nguyên tác tiếng Việt qua tiếng Anh.

Gs Trần Huy Bích viết : “Đây là một cuốn sách giá trị, một trong những tác phẩm xuất sắc và đắc ý nhất của nhà văn/nhà thơ Nhã Ca. Dịch giả Olga Dror là một học giả người Nga, rất uyên bác và rất giỏi tiếng Việt …”

Nha sĩ Cao Minh Hưng viết : “Một cuốn sách mà quý vị phụ huynh nên mua cho các cháu sinh ra và lớn lên ở hải ngọai đọc để hiểu thêm về sự thật của Tết Mậu Thân 1968 …”

Nhà báo Đinh Từ Bích Thúy trên báo Damau.org và nhà báo Ngọc Lan trên báo Người Việt đều đã viết bài giới thiệu rất đày đủ về tác phẩm này – kể cả phần phỏng vấn tác giả Nhã Ca và dịch giả Olga Dror.

Nhà báo Phan Tấn Hải thì nói : “Bài giới thiệu của Olga Dror viết rất kỹ, đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề với sự thận trọng và tinh thần trách nhiệm mà không ai có thể bắt bẻ chê trách vào đâu được…”

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích thì nói: “Chúng ta cần phải cho dịch ra ngọai ngữ thật nhiều cuốn sách và tài liệu quan trọng như thế này – để mà có thể đi sâu vào dòng chính của văn học thế giới…”

Các đại học và nhà xuất bản ngọai quốc đều lên tiếng đánh giá cao và khen ngợi tác giả và dịch giả của tác phẩm này – như mọi người chúng ta đều có thể dễ dàng tìm đọc trên Internet.

III – Tóm lược mấy ý chính trong bài Giới thiệu của dịch giả Olga Dror.
Image

Với tinh thần trách nhiệm và lối làm việc nghiêm túc của một học giả, Olga Dror đã viết bài Giới thiệu nhan đề là:

“Translator’s Introduction” dài đến 50 trang với nhiều chi tiết thật đáng chú ý. Xin ghi ra mấy điểm chính yếu như sau.

1 – Trong thời gian sinh sống và học tập ở Liên Xô, Olga đã không hề được biết đến văn học của miền Nam Việt nam. Mà chỉ sau này, khi qua Mỹ bà mới có cơ hội tìm hiểu cặn kẽ hơn về sinh họat văn hóa tại miền Nam. Và bà đã khởi sự công trình dịch thuật tác phẩm Giải Khăn Sô cho Huế trong gần 2 năm với sự trao đổi thường xuyên với tác giả Nhã Ca – tất cả email hay thư từ, điện thọai giữa hai người đều sử dụng tiếng Việt.

Sẵn biết đến những ký ức đau đớn của ông bà cha mẹ và thân nhân phải chịu đựng trong suốt thời kỳ thành phố Leningrad bị quân Đức bao vây phong tỏa hồi thế chiến thứ hai, nên Olga dễ có sự đồng cảm với nỗi đau thương thống khổ của người dân Huế hồi Tết Mậu Thân 1968 – mà tác giả Nhã Ca đã mô tả thật rành mạch cảm động trong tác phẩm. Vì thế mà Olga đã ra công tìm hiểu chi tiết về bối cảnh văn hóa xã hội liên hệ đến cuộc chiến và đặc biệt về biến cố Tết Mậu Thân – mà chính quyền cộng sản Xô Viết không bao giờ đưa ra một thông tin nào cho người dân được biết đến.

2 – Olga đặc biệt nhấn mạnh đến tiếng nói của người dân vốn vừa là nạn nhân vừa là chứng nhân trực tiếp của hận thù bạo lực trong cuộc chiến phức tạp ở Việt nam. Đây không phải đơn giản là cuộc chiến tranh do người Mỹ hòan tòan chủ động, mà chủ yếu đó là một cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Bà đã tham khảo bao nhiêu sách báo và tài liệu liên quan đến cuộc chiến và còn trưng dẫn lối giải thích của một số tác giả cho là chính mấy trăm cán bộ địa phương của phe cộng sản mới là thủ phạm chính yếu đã ra tay sát hại mấy ngàn người thường dân vô tội của Huế trong mấy ngày đầu họ chiếm giữ được thành phố này.

Trong bài Giới thiệu, Olga đã phân tích rành mạch về nhiều khía cạnh, lối nhìn của hai phía đối nghịch đối với biến cố Tết Mậu Thân ở Huế – kể cả trong công luận ở Mỹ cũng như ở Liên Xô và cả ở nước Nga hiện nay. Để trả lời cho luận điệu thiên vị của một số học giả tại nước Nga hiện nay mà vẫn còn một mực đơn phương kết án sự tàn bạo của Mỹ trong vụ thảm sát Mỹ Lai năm 1968, Olga nói rằng : “Chúng ta cần ghi thêm cả sự tàn ác trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế nữa. Như vậy mới là khách quan, không thiên vị đối với một bên nào trong cuộc chiến tranh này…” Và cũng vói sự thận trọng của người nghiên cứu lịch sử và văn hóa, bà tránh đưa ra những kết luận vội vã vì nhu cầu chính trị nhất thời hay do thiên kiến phát sinh từ một quan điểm ý thức hệ nào đó.

3 – Olga dành đến 7 trang trong bài Giới thiệu để nói về lập luận của hai người mà dân Huế coi là dính líu nặng nề nhất trong vụ sát hại thường dân – đó là Hòang Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân mà hiện vẫn còn sống tại Huế. Bà trích dẫn những sách báo do hai người này viết, cũng như phát biểu của họ trong những cuộc phỏng vấn của các đài phát thanh, truyền hình ngọai quốc. Qua những trích dẫn chi tiết này, người đọc dễ dàng nhận ra cái lối chối tội quanh co, tiền hậu bất nhất của hai nhân vật mà nhiều người ở Huế coi là một thứ “đồ tể với bàn tay nhuốm đày máu” trong vụ Tết Mậu Thân vậy. Tuy thế, Olga cũng vẫn thận trọng và tế nhị ghi lại rằng mình không có ý định xác quyết về vai trò của hai người này trong vụ thảm sát đó.
Olga cũng dành đến 2 trang để thuật lại bài nhan đề “Huế Xuân 68” của Đại tá Lê Minh là một vị chỉ huy trong cuộc đánh chiếm Huế năm 1968, bài viết được đăng vào năm 1988 nhân kỷ niệm lần thứ 20 chiến dịch Tết Mậu Thân 1968. Trong phần kết luận, ông Minh kêu gọi :”Cần phải minh oan cho các gia đình và con cháu của những người đã chết trong hòan cảnh đó…”\

IV – Tóm lược.

Nói chung bản dịch tiếng Anh do Olga Dror thực hiện với tinh thần trách nhiệm và sự thận trọng của một học giả uyên bác – rõ ràng là một đóng góp quan trọng để giúp cho công chúng trên thế giới hiểu biết thấu đáo hơn về những nỗi thống khổ đày đọa mà người dân Việt nam phải chịu đựng trong cuộc chiến tranh tàn khốc cách nay đã trên 40 năm.

Nhân dịp kỷ niệm năm thứ 47 vụ Thảm sát Tết Mậu Thân (1968 – 2015) người viết xin trân trọng giới thiệu tác phẩm quý giá này đến với bạn đọc – đặc biệt với các gia đình có người thân là những nạn nhân bị sát hại tức tưởi hồi đó với lời nguyện cầu cho hương linh của người quá cố luôn được an nhiên thanh thản nơi cõi Vĩnh Hằng./

Costa Mesa California, Tháng Hai 2015

© Đoàn Thanh Liêm

© Đàn Chim Việt

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Bàn chuyện rời bỏ đảng
Nguyễn Minh Cần
Nhân dịp kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), chúng tôi thiết nghĩ những đảng viên Cộng Sản còn có lương tri, còn có lòng yêu nước, thương dân, nên khách quan nhận định lại ĐCSVN mà mình đang có chân trong đó, thực ra nó như thế nào?

Những việc nó đã làm trong suốt 85 năm qua như thế nào? Công và tội của nó đối với dân, với nước ra sao? Để từ đó xác định thái độ cần phải có đối với ĐCSVN mà mình đang có chân và đã từng phục vụ. Tất nhiên, chúng tôi không nói chuyện với đám nịnh thần, đám bồi bút cung đình, bọn dư luận viên... những kẻ chỉ biết cúc cung phục vụ cái ác vì chút bổng lộc được bọn độc tài toàn trị thí cho.

Thiết nghĩ có mấy điều đáng suy nghĩ sau đây:

Điều thứ nhất

Có thể nói không ngoa là rất hiếm có một đảng chính trị nào giống như ĐCSVN, coi sinh mạng con người hết sức rẻ rúng. Xin các bạn cứ ngẫm mà xem! Đọc các chuyện kể của những nhân vật đã từng ở trong Đảng Cộng Sản hay những người đã từng bị Đảng Cộng Sản đày đọa, rồi nhìn kỹ vào thực tế, thì thấy rằng, quả là ĐCSVN “giết người như ngóe.” Ai chống đảng - đảng diệt! Ai chưa chống đảng, mà đảng nghĩ là người đó có thể có ngày sẽ chống đảng - đảng cũng diệt! Những người có quan điểm khác với đảng - nhất là người thuộc các đảng yêu nước không Cộng Sản - thì đảng cho “đi mò tôm,” tức là bỏ rọ trôi sông. Ai bị đảng nghi, ngay cả đối với đảng viên của đảng - chẳng cần chứng cớ gì hết, chẳng cần điều tra gì hết - đảng “thịt.” Người nơi khác lơ ngơ đi lạc vào A-Tê-Ka (ATK, an toàn khu) của đảng - đảng “thịt” ngay, để giữ bí mật của đảng. Người cảm tình với đảng từ nơi xa lần mò tìm đến ATK của đảng mà không có ai trong ATK chứng nhận - đảng cũng “thịt.” Thậm chí, trong kháng chiến, người dân có mang vật gì trong người, chẳng hạn, chiếc khăn lau mặt, có ba màu: xanh, trắng, đỏ, đảng nghi là gián điệp - đảng “thủ tiêu.” Đã có biết bao nhiêu mạng người đã bỏ xác vì những lý do vớ vẩn như thế! Mà chỉ cần một cái hất đầu, một cái nháy mắt, một ngón tay đưa lên... của cán bộ thôi, chứ không cần phải có bất kỳ giấy tờ, quyết định, chữ ký lôi thôi gì cả - thế là một, hai hay nhiều mạng người “đi toong”! Chính cái đầu óc “coi mạng người như ngóe” đó, mà đảng nhất quyết bác bỏ “nhân tính,” chỉ thừa nhận “giai cấp tính,” mà nghĩ cho cùng có khi đó lại là “thú tính.” Xin hãy nghĩ mà xem: cái lối giết người bị quy là “địa chủ” trong cải cách ruộng đất (CCRĐ), như chôn sống, hay chôn người đến cổ rồi cho trâu bừa qua nhiều lần cho đến chết, giam người ở chuồng trâu rồi bỏ đói cho chết; cái lối giết người Hoa trong chuyến ĐCSVN đuổi trên 300 nghìn người Hoa về nước, có nơi đã thu vàng bạc của người ta rồi, cho lên tàu xua về nước lại còn cho tàu đuổi theo xả súng giết chết hết hay đục thuyền cho đắm... đến nỗi xác người nằm san sát nhau lềnh bềnh trên sông như củi rều vậy. Như thế gọi là gì? “Giai cấp tính” ư? Rõ ràng là “thú tính”! Và cái lối tàn sát dân lành kiểu này có khác gì lối giết người của bọn Phát-Xít? Và như vậy, ĐCSVN có khác gì bọn khủng bố quốc tế thuộc các giáo phái cực đoan ngày nay?

Thế nhưng, hễ ai - các nhà trí thức, các đảng viên của đảng - dám đề cao “nhân tính” thì đảng liền phê cho là “mất lập trường,” là tư tưởng xét lại, là quan điểm tư sản, phản động, là không có “đảng tính.” Chính vì thế mới xảy biết bao nhiêu vụ oan khiên suốt trong 85 năm tồn tại của ĐCSVN. Nào là các vụ giết hàng trăm lãnh tụ và đảng viên các đảng yêu nước không Cộng Sản, như Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đảng Đại Việt, v.v... những năm sau khi Đảng Cộng Sản cướp được chính quyền, để không còn ai có thể cạnh tranh quyền lực với đảng nữa. Ngay cả đối với những người yêu nước cùng ý hệ với đảng, nhưng khác về đường lối, như những người trotskistes Việt Nam đã từng một thời hợp tác tốt đẹp với những người Cộng Sản ở miền Nam, ĐCSVN cũng không tha - phải giết hết! Vì sao? Vì hồi 1937-38, Nguyễn Ái Quốc từng hùa theo Stalin, lu loa chửi bới thậm tệ những người trotskistes là “một lũ bất lương, những con chó săn của chủ nghĩa Phát-Xít Nhật và chủ nghĩa Phát-Xít quốc tế,” “đàn chó trotskistes,” “những kẻ đầu trâu mặt ngựa,” “những đứa không còn phẩm giá con người, những tên sẵn sàng gây mọi tội ác,” “kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ,” “bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất,” v.v... Những câu, chữ này còn nằm trong ba bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho trung ương (TƯ) đảng (xem Hồ Chí Minh Toàn tập, t.3, tr.97-100). Cho nên những ông Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch, Nguyễn Văn Sổ, Lê Ngọc, Lê Văn Hương, v.v... (hồi năm 1945-46), Nguyễn Văn Linh, Lưu Khánh Thịnh, Liu Jialang (hồi năm 1948) đã bị sát hại thê thảm! Ngay cả những đảng viên CSVN bị nghi ngờ, dù chẳng có chứng cớ gì hết cũng bị giết hại dễ như bỡn: như vụ giết oan mười mấy đảng viên CSVN người Hoa đã từng bị tù đày vì đấu tranh cách mạng Việt Nam (do Lý Ban “chỉ điểm”) và vụ giết oan mấy chục đảng viên Cộng Sản người Việt (trong vụ H122 do Hoàng Quốc Việt phụ trách). Đó là chưa kể đến các vụ bắt bớ, đày đọa trong trại tù hàng chục nghìn người đã từng làm việc dưới chế độ cũ thời Pháp (có nhiều khi chẳng làm việc gì cho chế độ cũ, như các linh mục, các chánh trương, trùm đạo, các nhà sư Phật Giáo...) sau khi Đảng Cộng Sản tiếp nhận miền Bắc (theo nghị quyết số 49/NQ/TVQH của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội Nước VNDCCH do Chủ Tịch Trường Chinh ký ngày 20 tháng 6, 1961), còn sau 30 tháng 4 năm 1975 là vụ đánh lừa gọi đi học ngắn ngày để bắt giam và đày đọa mấy chục năm ròng trong các trại tù trên hai trăm nghìn người đã từng phục vụ dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa (do lệnh gọi đi học của Uy Ban Quân Quản). Trong cả hai vụ đó đã có hàng nhiều chục nghìn người phải bỏ xác trong các trại tập trung kiểu Phát-Xít, mệnh danh là “trại cải tạo.” Đó là chưa kể đến các vụ thảm sát chừng bốn nghìn người thường dân vô tội trong Tết Mậu Thân 1968, vụ bắn trọng pháo ngay trên đường người dân lành chạy lánh nạn ở Quảng Nam-Đà Nẵng hồi 1975... Chính vì phủ nhận “nhân tính,” nên trong kháng chiến đã từng xảy nhiều vụ tung lựu đạn vào xe đò hay đặt bom mìn trên đường ray để nổ tung các đoàn tàu chợ (chở hành khách) giết hại thường dân “vùng địch.”

Đặc biệt cần nói đến vụ Cải Cách Ruộng Đất (CCRĐ) ở miền Bắc trong những năm 1953-1956 đã tàn sát vô cùng man rợ trên 172 nghìn người dân vô tội, thậm chí giết cả những người đã từng ủng hộ tiền, vàng, thóc gạo, quần áo cho đảng, đã từng che giấu, nuôi nấng cán bộ của đảng và quân kháng chiến trong thời kỳ khó khăn nhất. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên của đảng từng chiến đấu cho đảng đã bị vu oan và hành quyết trong CCRĐ. Tài liệu chính thức của Đảng Cộng Sản đã phải thừa nhận là trong số 172 nghìn người bị giết trong CCRĐ thì 70% là những người bị oan! Đây thực sự là một tội diệt chủng, một tội ác đối với nhân loại, một tội ác tày trời đối với dân tộc và tổ quốc Việt Nam. Tự cổ chí kim chưa từng xảy ra một tội ác như vậy trên Đất nước Việt Nam này! Tội ác đó không thể nào tha thứ được! Thế mà Hồ Chí Minh và Trường Chinh, những kẻ đã gây nên tội ác đó, vẫn ngụy biện tuyên bố “dù CCRĐ có sai lầm, nhưng thắng lợi vẫn là căn bản.”

Vẫn chưa hết, cuộc phiêu lưu của nhóm cầm quyền thân Mao là Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... hồi đầu thập niên 60 thế kỷ trước, đã phát động cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, vô cùng tàn khốc trên mười mấy năm trời đã làm cho trên sáu triệu người dân Việt Nam phải bỏ mạng, đem đến cho cả hai miền biết bao đau thương, tang tóc, biết bao thiệt hại về nhân mạng, về của cải vật chất, về tinh thần, đạo đức và tình cảm. Đã thế, Tổng Bí Thư (TBT) Lê Duẩn, một trong những kẻ khởi xướng cuộc nội chiến, cuối cùng lại nói, “Chúng ta chiến đấu là để cho Liên Xô, Trung quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa.” Một câu nói hết sức phũ phàng đối với biết bao hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam!

Việc phát động chiến tranh chứng tỏ nhóm chóp bu Đảng Cộng Sản thân Mao hồi đó coi thường sinh mạng người dân của cả hai miền, coi thường sinh mạng của hàng triệu binh lính, thanh niên xung phong và dân công. Thế nhưng, khi một số cán bộ - mấy ủy viên TƯ đảng, nhiều cán bộ cao cấp, trung cấp, một số sĩ quan trong quân đội, gồm mấy vị tướng, nhiều sĩ quan cấp tá, ở trong nước và ngoài nước đã phản đối chiến tranh, phản đối đường lối thân Mao của bọn chóp bu Cộng Sản, thì họ bị quy là “phần tử xét lại chống đảng,” bị vu khống “làm gián điệp cho nước ngoài” và bị đàn áp ác liệt, bị tù ngục nhiều năm, thậm chí có những cán bộ đã bị chết trong tù.

Chính việc ĐCSVN phủ nhận “nhân tính” đã đem lại hậu quả nguy hại rất nghiêm trọng cho đạo đức xã hội, là ngày nay trong dân gian, người dân học đòi đảng cũng coi thường tính mạng con người: Cái thói độc ác ngày càng phổ biến, chỉ vì một việc cỏn con thôi, người ta sẵn sàng chém giết nhau. Một nhà báo trong nước đã phải kêu lên, “Chưa bao giờ các hành vi vô nhân tính, vô đạo đức trong các mối quan hệ xã hội, kể cả giữa những người thân trong gia đình lại xuất hiện với một tần xuất dày đặc trên báo chí như hiện nay.”

Điều thứ hai

Từ khi ra đời cho đến nay, 85 năm ròng rã, ĐCSVN đã tỏ rõ là một đảng vô cùng gian dối, thường xuyên dối trá, lừa gạt, chẳng những đối với địch, mà cả đối với dân, cả đối với đảng viên của đảng. Đảng luôn luôn nói dối trắng trợn, nói một đằng, làm một nẻo. Thí dụ thì nhiều vô kể. Chỉ xin đưa ra vài chuyện thôi. Cú lừa gạt đau đớn nhất là đối với “bạn đồng minh gần gũi, thân cận nhất” của đảng (tầng lớp nông dân) là khẩu hiệu “người cày có ruộng.” Khi cần lôi kéo nông dân theo đảng làm cách mạng, Đảng Cộng Sản tung ra khẩu hiệu đó lên, ra rả quanh năm suốt tháng; khi làm CCRĐ, Đảng Cộng Sản vẫn còn hò hét cái khẩu hiệu đó. Nhưng, khi CCRĐ vừa xong, nông dân chưa kịp thụ hưởng gì trên mảnh đất mới được chia, thì Đảng Cộng Sản đã vội lùa họ vào cái gọi là hợp tác xã bậc thấp, rồi nhanh chóng đưa lên bậc cao, lấy ruộng của nông dân cho ban quản trị, thực tế là Đảng Cộng Sản, quản lý; biến nông dân từ người chủ ruộng thành người “làm công ăn điểm” để rồi “Mỗi người làm việc bằng hai/Để cho chủ nhiệm mua đài sắm xe/Mỗi người làm việc bằng ba/Để cho chủ nhiệm xây nhà lát sân,” v.v... Vẫn chưa hết, đến năm 1980, sau khi Đảng Cộng Sản đã nắm quyền trên cả nước, đảng liền thảo hiến pháp (HP) của cái gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), đưa ra điều 19 HP chuyển quyền tư hữu đất đai (tức là toàn bộ thổ canh thổ cư, nói nôm na là ruộng đất) của nông dân và của nhân dân nói chung sang cái gọi là “sở hữu toàn dân”! Tuyên bổ đất đai là “sở hữu toàn dân,” có nghĩa là Đảng Cộng Sản đã “quốc hữu hóa” đất đai, hay nói chính xác hơn “đảng hữu hóa” ruộng đất của nông dân và nhân dân. Từ đây, quyền tư hữu ruộng đất của người dân hoàn toàn bị xóa bỏ, và ruộng đất bây giờ thực tế nằm trong tay sở hữu của Đảng Cộng Sản là đảng độc tôn thống trị đất nước. Từ đây, Đảng Cộng Sản thực tế đã tự biến mình thành một tên siêu đại địa chủ. Đến những lần sửa đổi HP 1992 và HP 2013, điều khoản về đất đai vẫn giữ nguyên nội dung giống như HP 1980, tức là tước đoạt quyền tư hữu ruộng đất của người dân, nhất là nông dân. Từ nay, nông dân chỉ được Nhà nước chuyên chính vô sản cho quyền sử dụng. Khi nào cần thì Nhà nước chuyên chính sẽ cưỡng chế tước đoạt lại! Và cái lối “quốc hữu hóa,” nói đúng hơn là “đảng hữu hóa” này chỉ có lợi cho đám quan lại Cộng Sản cầm quyền ở các địa phương. Bọn này tha hồ áp bức nông dân, cưỡng chế cướp đoạt ruộng đất của nông dân, tự biến chúng thành những địa chủ mới, những cường hào đỏ, biến nông dân thành hàng triệu “dân oan” khốn khổ, hàng chục năm trời đi khiếu kiện khắp các cửa quan một cách vô vọng, chịu biết bao tủi nhục, bị đánh đập, thậm chí bị giết thê thảm. Đấy, sự lừa gạt bỉ ổi, khủng khiếp nhất đối với nông dân là như vậy. Cái vết thương đau đớn này trên cơ thể Dân tộc vẫn còn rướm máu mãi.

Một sự lừa gạt trắng trợn nữa là sau khi phát động cuộc nội chiến dưới chiêu bài “giải phóng miền Nam,” để kích động người dân tham gia cuộc chiến, những kẻ gây chiến phải ra sức nói dối, ra sức lừa gạt, nào là người dân ở miền Nam dưới ách Mỹ Diệm bị khốn khổ vô cùng, nào là chế độ miền Nam độc tài, gia đình trị ghê gớm, người dân không có chút tự do, xã hội thối nát, sa đọa, người ta còn dựng lên biết bao chuyện bẩn thỉu, như Tổng Thống Diệm ngủ cả với em dâu, vợ Ngô Đình Nhu, v.v. và v.v... Ngày nay, sự thật như thế nào thì chắc mọi người đã thấy rõ. Ngay trong ngày đầu tiên khi quân miền Bắc mới vào Sài Gòn, nhà văn Dương Thu Hương, lúc bấy giờ là thanh niên xung phong, thấy và hiểu được sự thật, và chị đã ngồi bên vệ đường khóc ròng!

Còn biết bao chuyện lừa dối, phỉnh gạt khác nữa không thể kể hết. Nào là “nhà nước công nông,” “nông” thì đã rõ như cái thí dụ vừa kể trên, còn “công” thì đồng lương mà “nhà nước công nông” trả cho công nhân, viên chức là “đồng lương bóc lột,” “đồng lương chết đói,” thực tế chỉ đủ ăn trong mười ngày. Nào là “chuyên chính vô sản,” thực tế có anh vô sản nào được xơ múi gì ở cái “chuyên chính” đó, chung quy chỉ là một lũ quan tham lại nhũng tham quyền cố vị, thậm chí những tay hoạn lợn, cai cao su, lưu manh đường phố... khoác cái áo “vô sản lưu manh” (từ ngữ của ông Marx) chễm chệ ngồi trong Bộ Chính Trị (BCT), làm TBT ĐCSVN, làm chủ tịch nước, làm bộ trưởng công an để nắm chặt “chuyên chính” mà đè đầu cưỡi cổ “thằng dân.” Nào là “dân làm chủ, cán bộ là đày tớ của dân” - điều này chẳng cần bình luận gì nữa, dân ta đã chế nhạo quá nhiều rồi. Nào là những hứa hẹn huy hoàng trong “Chương Trình Việt Minh”: xóa bỏ mọi thứ thuế, tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do tín ngưỡng, dân chủ, tự do, hạnh phúc,... nhưng khi Đảng Cộng Sản nắm chính quyền rồi thì tất cả những thứ đó chỉ là những lời nói suông. Nhà báo Trần Đĩnh kể về “nghệ thuật” lừa đảo siêu đẳng của ủy viên BCT Tố Hữu trong việc mua ngôi nhà của bà Lợi Quyền, một nhà tư sản ở Hà Nội đã từng quyên góp nhiều vàng và nhà cửa cho Đẳng Cộng Sản. Bà còn lại một ngôi nhà, Ban Tuyên Huấn TƯ muốn mua; người ta đặt giá thì chê đắt không mua. Đùng một hôm, xe tuyên huấn chở mấy bao tiền đến, đắt mấy cũng mua. Ba ngày sau, đổi tiền! Trần Đĩnh nhận xét rất hay: “Tố Hữu, nguyên trưởng Ban Tuyên Huấn TƯ đã hạ thời cơ tuyệt hảo chấm dứt cơ nghiệp đại gia tư sản Lợi Quyền có tiếng ở Hà Nội. Bằng giấy lộn. Ai cứ bảo nhà thơ trên gió trên mây.”

Việc ĐCSVN cho công an lập ra những tổ chức “kháng chiến” cuội, “phục quốc” cuội để đánh lừa thanh niên yêu nước ở miền Nam, làm cho hàng nghìn người mắc bẫy để tống họ vào tù. Đó cũng là một tội ác kinh tởm.

Trên đây là những chuyện đối nội, còn về đối ngoại thì không thiếu chuyện ĐCSVN gian dối, lừa gạt trắng trợn dư luận thế giới. Chuyện ông Hồ Chí Minh sang Pháp nói dối như thế nào, nhiều người đã biết. Chẳng hạn, có tờ bảo hỏi thẳng: Ông có phải là Cộng Sản không? Ông Hồ chối đây đẩy: không. Trả lời câu hỏi của báo Journal de Genève, ông tuyên bố như đinh đóng cột: “Các bạn của chúng tôi không nên lo chủ nghĩa Mác-Xít sẽ du nhập vào đất nước chúng tôi.” Trên báo Le pays ông cũng đã nói: “Những lý thuyết Mác-Xít không thể áp dụng ở nước chúng tôi được.” Còn trong cuộc phỏng vấn ngày 25 tháng 6, 1946, trả lời đảng viên xã hội Pháp Daniel Guérin hỏi về cái chết của Tạ Thu Thâu, ông Hồ đã nói như sau: “Ce fut un patriote et nous le pleurons... Mais tous ceux qui ne suivent pas la ligne tracée par moi seront brisés,” tạm dịch: “(Tạ Thu Thâu) là một nhà ái quốc, chúng tôi đau buồn khi hay tin ông mất... Nhưng tất cả những ai không theo con đường tôi đã vạch đều sẽ bị tiêu diệt.” Ông Hồ giả dối làm ra vẻ đau buồn về cái chết của nhà ái quốc Tạ Thu Thâu, trong lúc đó chính ông ta biết quá rõ ai là người ra lệnh giết ông Thâu, và chắc chắn ông ta cũng không thể quên ba bức thư ông gửi cho TƯ những năm 1937-38 chửi bới thâm tệ những người trotskistes.

Việc ĐCSVN vi phạm Hiệp Định Genève 1954, để lại vũ khí, cài lại cán bộ ở trong Nam, vi phạm hiệp định ngừng bắn năm 1973, hay là những vi phạm thường xuyên các công ước quốc tế về nhân quyền, về chống tra tấn, v.v. và v.v... càng nổi bật sự gian trá quen thuộc của tập đoàn cầm quyền ĐCSVN. Có thể họ biện bạch rằng đứng trên lập trường vô sản, đánh lừa quốc tế, tức là đánh lừa bọn đế quốc, là đúng đường lối giai cấp và chỉ có lợi cho ta thôi. Họ không hề nghĩ rằng làm như thế là có hại cho quốc thể, là tạo thêm nỗi quốc nhục cho đất nước Việt Nam: đã mang danh tên ăn mày quốc tế vác bị đi xin khắp thế giới lại còn muốn quàng thêm cái danh xưng thằng bạc bịp quốc tế nữa thì thanh danh của tổ quốc Việt Nam mãi mãi bị chôn vùi dưới ba thước đất, làm sao còn ngẩng mặt lên trước thế giới văn minh được?

Điều thứ ba

ĐCSVN thực tế là một đảng độc tài toàn trị, phản dân chủ. Ngay từ sau khi cướp được chính quyền, để củng cố quyền lực độc tài toàn trị đảng đã ra sức tiêu diệt mọi đảng phái yêu nước có thể tranh chấp quyền lực với Đảng Cộng Sản hoặc đánh quỵ mọi thành phần có tiềm năng chống đối để bảo đảm cái mà Lenin gọi trong là tiếng Pháp là hégémonie du prolétariat, tức là địa vị độc tôn của giai cấp vô sản, thực ra là của Đảng Cộng Sản (Hà Nội dịch là độc quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản). Để bảo đảm cái địa vị độc tôn đó thì trong tất cả các cơ quan nhà nước - lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong tất cả các cơ quan chuyên môn, như bệnh viện, trường học, bảo tàng, nhà hát, rạp chiếu bóng, v.v..., trong tất cả các đoàn thể xã hội, trong tất cả các cơ quan truyền thông, tất cả các báo chí của đảng... đều phải do các đảng viên Cộng Sản nắm giữ địa vị chủ chốt. Dù rằng ở một số bộ và cơ quan nhà nước có thể có người ngoài đảng trên danh nghĩa là bộ trưởng, vụ trưởng, giám đốc, v.v... nhưng đảng viên Cộng Sản hay đảng đoàn Cộng Sản những nơi đó vẫn là người có thực quyền quyết định, còn các vị ngoài đảng chỉ “làm vì.” Đó là nguyên tắc bất di bất dịch của đảng. Đối với các lực lượng có tiềm năng chống đối đảng, tính ra chỉ còn giới trí thức và giai cấp tư sản thì Đảng Cộng Sản chủ trương phải “cải tạo” họ. Ở nông thôn, từng lớp phú nông đã bị đánh gục trong CCRĐ rồi, nên đảng không lo. Học theo Trung Cộng, ĐCSVN chủ trương cải tạo trí thức bằng cách “chỉnh huấn,” rập khuôn theo bài bản “chỉnh phong” của Mao Trạch Đông. Trong “chỉnh huấn,” buộc những người trí thức phải tự bộc lộ, tự kiểm điểm, tự xỉ vả những thói hư tật xấu của mình, họ còn phải khai báo về xuất thân của mình, nếu thuộc về những giai cấp gọi là “đối tượng của cách mạng” như địa chủ, tư sản... thì họ phải tố cáo, xỉ vả và căm thù ngay cả bố mẹ, ông bà mình. Tất nhiên, đây là điều sỉ nhục lớn đối với người trí thức biết tự trọng, nhưng nếu anh ta chịu đựng được thì tỏ ra rằng anh ta đã khuất phục giai cấp vô sản, tức là Đảng Cộng Sản, và anh ta sẽ được đảng sử dụng. Tuy vậy, đảng vẫn không hoàn toàn tin anh ta, còn những điều anh ta đã bộc lộ với đảng thì đảng ghi vào hồ sơ lý lịch và theo dõi anh ta suốt đời. Hơn nữa, dù được đảng sử dụng, nhưng bao giờ đảng cũng kỳ thị, phân biệt đối xử với trí thức. Cái đó gọi là “chủ nghĩa thành phần.” Cái “chủ nghĩa” quái gở này áp dụng không chỉ cho cán bộ, nhân viên, sĩ quan và binh lính, mà cả cho học sinh, sinh viên, nhất là khi xét duyệt cho họ vào đại học hay đi nước ngoài. Cái “chủ nghĩa” này đã hủy diệt biết bao tài năng của tuổi trẻ! Giáo Sư Tạ Quang Bửu bị thất sủng chính vì đã phản đối cái “chủ nghĩa” này.

Còn nếu người trí thức có thái độ ngang bướng, không phục tùng đảng, hoặc lời ăn tiếng nói không vừa ý lãnh đạo thì đảng sẽ mở trận đấu tranh không khoan nhượng. Đó là trường hợp đối với các văn nghệ sĩ, các giáo sư trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm” hồi giữa những năm 50 thế kỷ trước. Hậu quả của việc ĐCSVN đánh “Nhân Văn-Giai Phẩm” là cả một nền văn hóa, giáo dục, văn học, nghệ thuật miền Bắc bị lụn bại, méo mó, què quặt trong mấy chục năm ròng, và cả một lớp tinh hoa của dân tộc tiêu biểu cho trí tuệ và sức sáng tạo đã bị đánh gục, bị vùi dập, bị dìm xuống bùn đen trong nỗi sợ triền miên làm cho sự tiết tháo, nhân cách của giới trí thức miền Bắc Việt Nam bị sa sút nặng nề. Đó là một tội ác của ĐCSVN đối với trí tuệ của dân tộc.

Còn việc cải tạo công thương nghiệp, chủ yếu là để tước đoạt (từ ngữ của Marx) phương tiện sản xuất, cơ sở kinh doanh của giai cấp tư sản, lại là một đòn chí tử nữa Đảng Cộng Sản đã giáng xuống những mầm mống đang lên của nền kinh tế non yếu của đất nước làm cho nó càng thêm suy bại.

Mặc dù Đảng Cộng Sản đã độc quyền thao túng bộ máy cai trị gồm cả chính quyền lẫn các tổ chức và đoàn thể xã hội, đã nắm chắc hệ thống chuyên chính vô sản, nhưng sau những sai lầm nghiêm trọng trong CCRĐ, sau những sai lầm và thất bại nặng nề về kinh tế, xã hội, đã làm cho đời sống người dân cực kỳ khó khăn, thua kém rất nhiều so với thời còn dưới chế độ cũ, thì uy tín của ĐCSVN ngày càng sa sút trầm trọng. Vì thế, tập đoàn cầm quyền CSVN thấy cần phải bắt chước ĐCSLiên Xô dưới thời trì trệ của TBT Brezhnev đã đưa điều 6 vào HP Liên Xô 1977, thì họ cũng đã đưa điều 4 vào HP CHXHCNVN 1980. Và sau này họ vẫn giữ nguyên cả trong HP 1992 và 2013. Đây là âm mưu dùng HP để thể chế hóa sự độc quyền cai trị và địa vị độc tôn của ĐCSVN, siết chặt hơn nữa chế độ độc tài toàn trị của một nhúm nhỏ mấy người trong BCT TƯ đảng, nhằm chặn đứng con đường dân chủ hóa xã hội, con đường đa nguyên, đa đảng và tam quyền phân lập. Cho nên đòi hỏi của dân chúng, nhất là các nhà trí thức và các chiến sĩ dân chủ phải xóa bỏ điều 4 HP là điều rất hợp lý và rất chính đáng, vì điều 4 chi phối phần lớn những điều khác trong HP, chi phối toàn bộ sinh hoạt của xã hội Việt Nam. Gần đây, Khối 8406 vận động cuộc biểu tình trên mạng đòi xóa bỏ điều 4 HP cũng là một việc làm rất có ý nghĩa.

Cũng nên thấy rằng một khi Đảng Cộng Sản cầm quyền buộc phải ghi điều đó vào HP thì chứng tỏ là chế độ thống trị Cộng Sản đã rệu rã, rung rinh và có cơ sụp đổ, vì thế tập đoàn thống trị phải dùng điều đó để siết chặt hơn nữa nền thống trị Cộng Sản. Trước đây, khi mới cầm quyền, dân chúng còn hy vọng, còn tin tưởng vào Đảng Cộng Sản, họ không cần đưa điều đó vào HP mà vẫn chuyên chính được. Bây giờ, hy vọng và tin tưởng đã mất hết, nên điều đó là tối cần thiết cho kẻ thống trị. Cho nên TBT Nguyễn Phú Trọng và các ủy viên BCT khác đều nói: “Bỏ điều 4 HP là tự sát!” Nhưng đó cũng chính là tiên triệu báo trước sự sụp đổ không xa của chế độ độc tài. Đấy, năm 1977, ĐCSLiên Xô đưa điều 6 vào HP thì 13 năm sau, Liên Xô sụp đổ và ĐCSLiên Xô tan tành! Vì thế, ngày nay, các quan chức CSVN phải tính chuyện đường dài, họ bắt chước các lãnh tụ Cộng Sản họ Kim ở Bắc Triều Tiên, hay họ Castro ở Cuba, dần dần cài người thân trong gia đình vào bộ máy lãnh đạo từ tỉnh lên đến TƯ để dùng lối cha truyền con nối mà đảm bảo sự độc quyền thống trị của họ. Còn một cách nữa: chuyện mới xảy ra gần đây thôi. Theo báo Nhân Dân ngày 29 tháng 1, 2015, tại hội nghị cán bộ do Ban Tổ Chức TƯ triệu tập ngày 27 tháng 1, 2015, ông Tô Huy Rứa, ủy viên BCT, trưởng Ban Tổ Chức TƯ đã cho biết cuộc họp Ban Chấp Hành TƯ lần thứ 10 vừa qua đã thông qua danh sách gồm 290 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết cho Đại Hội XII, và danh sách 22 ủy viên BCT và ủy viên Ban Bí Thư (BBT) cho khóa XII. Đây quả là một “sáng kiến tân kỳ,” chưa từng thấy của ĐCSVN: bất chấp Điều Lệ Đảng, toàn bộ nhân sự của ĐCSVN khóa XII sắp tới đã được hội nghị TƯ đảng lần thứ 10 khóa XI, gồm 197 ủy viên TƯ chính thức và dự khuyết khóa XI quyết định xong xuôi. Toàn bộ danh sách các vị ủy viên trong BCT và trong BBT khóa XII cũng quyết định xong. Như thế là hội nghị TƯ lần thứ 10 đã làm thay cho toàn bộ quá trình đại hội từ cơ sở đến Đại Hội Toàn Quốc lần thứ XII cả trong việc ứng cử, lựa chọn, bầu cử các cấp ủy từ dưới lên trên cho đến Ban Chấp Hành TƯ, BCT và BBT khóa XII. Tập đoàn thống trị hiện nay cố đấm ăn xôi, quyết bảo đảm cho kỳ được là tập đoàn cầm quyền sắp tới phải theo ý chí của họ. Quả là một sự độc tài, chuyên quyền trắng trợn không thể tưởng tượng nổi.

Điều thứ tư

Hãy nhìn lại trong 85 năm qua, ĐCSVN đã làm được gì cho dân, cho nước.

ĐCSVN rất thích kể công về thời trước. Mà nhiều khi cái “công” đó chưa hẳn là công thật. Đảng thường tự hào là đảng đã cướp được chính quyền từ tay Nhật, Pháp, về sau gọi đó là Cách Mạng tháng 8. Nhưng lịch sử chứng minh rõ ràng đó là sự dối trá: Việt Minh (tức là Đảng Cộng Sản) đã cướp chính quyền không phải từ tay Nhật, Pháp, mà là từ tay Chính phủ Trần Trọng Kim. Chính phủ Trần Trọng Kim là ai? Thực ra, họ không phải là “chính phủ bù nhìn” cho Nhật như Việt Minh và tờ Cờ Giải Phóng của Đảng Cộng Sản đã vu cáo họ, mà là một chính phủ do vua Bảo Đại lập ra sau khi Nhật đảo chính Pháp (9 tháng 3, 1945) gồm nhiều trí thức yêu nước nổi tiếng trong cả nước, chẳng những họ có trí tuệ, có tư tưởng, mà còn có đức hạnh đứng ra gánh vác việc nước vì mục đích giành độc lập thật sự cho Việt Nam. Vì điều kiện phức tạp hồi bấy giờ, chính phủ đó chỉ tồn tại trong bốn tháng thôi. Nhưng trong thời gian ngắn ngủi đó họ đã làm được nhiều việc lớn: Đã cố thu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp, như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng nhằm giữ được toàn vẹn lãnh thổ; đã tổ chức việc cứu đói cho dân miền Bắc; đã Việt hóa nền giáo dục, và việc này đã có ảnh hưởng lâu dài cho cả những thời kỳ và nhiều thế hệ sau này; đã cải tổ thuế má, tư pháp; đã vận động và tổ chức thanh niên, sinh viên (tổ chức Thanh Niên Tiền Tiến) đưa thanh nên vào sinh hoạt chính trị, xã hội... Đại diện của chính phủ Trần Trọng Kim đã năm lần gặp đại diện của Việt Minh (Đảng Cộng Sản) để bày tỏ lòng mong mỏi hợp tác với Việt Minh để cùng lo việc nước, nhưng đại diện của Việt Minh đã khước từ vì chủ trương của Đảng Cộng Sản là: Đảng Cộng Sản phải là đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền.

Đảng Cộng Sản thường kể công và tự hào đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Nhưng cũng có lắm ý kiến bác lại rằng: nếu Đảng Cộng Sản có chính sách mềm dẻo hơn thì chưa chắc đã cần phải đổ máu kháng chiến chống Pháp trong gần 10 năm. Nếu cứ tiếp tục đứng trong Khối Liên Hiệp Pháp (theo Hiệp Định Sơ Bộ – 6 tháng 3, 1946) mà đấu tranh thì cuối cùng Pháp cũng phải trả lại độc lập cho ta, giống như các nước thuộc địa khác đã được Pháp trả lại độc lập, chẳng phải tốn máu xương mà còn được độc lập sớm hơn ta nhiều. Đấy, cái “công” đó cũng chưa hẳn là công thật. Đảng Cộng Sản còn tự hào đã lãnh đạo chiến tranh chống Mỹ giải phóng miền Nam. Nhưng cuộc chiến Bắc-Nam, thực chất là cuộc nội chiến, mà những người lãnh đạo thân Mao hồi đó, như Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu... đã phát động, do sự xúi giục và mưu đồ của Mao Trạch Đông: “Thiên hạ đại loạn, Trung Quốc được nhờ.” ĐCSVN phải chịu trách nhiệm trước dân tộc về cái tội đã phát động cuộc nội chiến này gây ra biết bao đau thương, tang tóc, tốn biết bao máu xương của dân tộc: trên sáu triệu người đã bỏ mạng. Cái “công” này không phải là công mà chính là tội, tội ác.

Về đối ngoại, từ chỗ suy tôn “Mao Trạch Đông là Lenin của thời đại ba dòng thác cách mạng Á-Phi-La,” chửi Liên Xô là “xét lại hiện đại,” rồi lại kình địch với Trung Quốc, chửi Mao, tiến hành chiến tranh với Campuchia Pol Pot, chiếm đóng Campuchia; Lê Duẩn và ĐCSVN lại quay ngoắt chạy theo Liên Xô, tuyên bố coi Liên Xô là tổ quốc thứ hai (nhưng, thực ra trong nội bộ CSVN vẫn coi Liên Xô là “xét lại hiện đại”) cốt để xin viện trợ nhằm tiếp tục chiến tranh, rồi ký kết Hiệp ước Tương Trợ với Liên Xô. Đến khi bị Trung Cộng tung 300 nghìn quân đánh một trận trên suốt đường biên giới phía Bắc, Đảng Cộng Sản lại chửi Trung Quốc là kẻ thù truyền kiếp, ghi hẳn điều đó vào HP. Còn khi Liên Xô và các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Mông Cổ sụp đổ, ĐCSVN bơ vơ, bị cô lập hoàn toàn, thì nhóm chóp bu CSVN là Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng lại muối mặt bay đến Thành Đô, Trung Quốc (3-4 tháng 9, 1990) hạ mình khuất phục Trung Cộng, chui đầu vào dây thòng lọng của Trung Cộng. Sau đó, CSVN lại tự nguyện quàng thêm vào đầu “vòng kim cô” “mười hai chữ vàng” của Giang Trạch Dân ban, mở đầu cho thời kỳ Bắc thuộc mới. Sở dĩ nhóm chóp bu của ĐCSVN phải quy phục như vậy là vì muốn cứu cái chế độ độc tài toàn trị của chúng, cứu cái địa vị thống trị của chúng trên đầu trên cổ người dân. Từ đó đến nay, nhóm cầm đầu ĐCSVN tiếp tục tự biến mình thành những tên “thái thú” nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc; mặc cho Trung Cộng làm mưa là gió trên Biển Đông, cấm đoán, săn đuổi, đánh chìm tàu thuyền của ngư dân, bắn giết ngư dân; mặc cho Trung Cộng làm sân bay, củng cố công sự trên các đảo Việt Nam đã bị chúng chiếm; mặc cho chúng làm thêm những đảo nhân tạo... Còn trên đất liền thì sao? Bất chấp sự phản đối của các nhà trí thức và nhân dân, ĐCSVN cho Trung Quốc khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, nơi xung yếu nhất của tổ quốc, trên diện tích hàng chục nghìn hec-ta rừng, với hai nhà máy Tân Rai, tỉnh Lâm Đồng và Nhân Cơ, tỉnh Đak-Nông, với hàng nghìn công nhân, lao động Trung Quốc đang “chiếm cứ” ở đó. Gần 80% các công trình quan trọng trên cả nước Việt Nam đều do Trung Quốc trúng thầu xây dựng. Các tỉnh miền biên giới đã cho Trung Quốc thuê trên 300 nghìn hec-ta rừng đầu nguồn của 18 tỉnh phía Bắc trong 50 năm. Trung Quốc được phép lập nhiều khu dân cư nhiều nơi trên đất Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam bị Trung Quốc lũng đoạn nặng nề. Văn hóa Trung Quốc cũng xâm nhập sâu vào Việt Nam. Viện Khổng tử cũng đã khai trương tại đại học Việt Nam. Một điều đáng chú ý nữa là gần đây một đoàn cán bộ cao trung cấp của đảng đã đưa sang đào tạo ở Trung Quốc. Đó là chưa nói tới việc Trung Cộng còn tác động đến quyết định chọn lựa các nhân vật quan trọng trong cơ cấu Việt Nam mà nhiều người đã biết. Như vậy là với đường lối đối ngoại hiện nay, rõ ràng là nhóm cầm quyền trong ĐCSVN đã phản bội lại quyền lợi của Đất nước và Dân tộc Việt Nam.

Về đối nội cần nói rõ rằng, trong lúc khuất phục Trung Cộng thì nhóm cấm quyền ĐCSVN lại ra sức đàn áp những người yêu nước Việt Nam đứng lên đấu tranh đòi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam; đàn áp các cuộc biểu tình tố cáo và phản đối những vi phạm bờ cõi và biển đảo Việt Nam, phản đối việc đưa giàn khoan dầu vào lãnh hải Việt Nam. Thậm chí việc đồng bào kính viếng các tử sĩ Việt Nam trong cuộc chiến Việt Trung 1979 cũng bị cấm cản, xua đuổi. Bộ mặt phản nước hại dân của nhóm cấm quyền ĐCSVN ngày càng rõ rệt.

Về đối nội, trong 40 năm kể từ khi cuộc chiến tranh Bắc-Nam chấm dứt, một thời gian dài với đường lối phiêu lưu, duy ý chí của tập đoàn Lê Duẩn, đất nước đã phải trải qua những năm tháng vô cùng khốn khổ, dù Lê Duẩn luôn luôn huênh hoang hứa hẹn mọi điều tốt đẹp. Đến thời “đổi mới” có dễ chịu hơn một chút, kinh tế bắt đầu phát triển, nhưng ban lãnh đạo ĐCSVN vẫn bảo thủ, cứ khư khư giữ chặt địa vị của mình, chỉ đổi mới về kinh tế, mà nhất định không đổi mới về chính trị. Hơn nữa, đổi mới kinh tế mà đảng lại cứ kiên trì cái phương châm trái khoáy: “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,” cho nên dù có nhưng tiến bộ về kinh tế nhưng đà phát triển không mạnh làm cho sụ tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực, như Singapore,Thái Lan, Indonesia, Malaysia, v.v... ngày càng lớn. Phải nói rằng ở Việt Nam chưa bao giờ nạn tham nhũng, cửa quyền trầm trọng và tràn lan như bây giờ. Từ trên xuống dưới hiện tượng tham nhũng rất phổ biến, nó làm cho nền kinh tế phải gánh chịu những thiệt hại nặng nề, đồng thời làm cho cuộc sống người dân càng thêm khó khăn. Đám cầm quyền luôn miệng nói tham nhũng đã trở thành quốc nạn, làm ra vẻ hò hét chống tham nhũng, dọa sẽ “hốt, hốt hết,” nhưng tham nhũng vẫn không hết mà càng nặng nề thêm. Vì sao? Vì cái chế độ cực quyền toàn trị không cho người dân cất tiếng nói, không cho báo chí được tự do ngôn luận, cho nên cái gọi là quyền lực thứ tư không thể nào phát huy tác dụng. Hơn nữa, dưới chế độ độc tài đảng trị, không có tam quyền phân lập, không có tư pháp độc lập nên không thể trừng phạt được những cán bộ đảng viên tham nhũng nắm giữ các địa vị cao. Biết bao nhiêu vụ bị tố cáo đều đã “chìm xuồng,” mà có nhiều trường hợp các nhà báo dũng cảm tố cáo thì lại vô tù.

Dưới chế độ toàn trị của Đảng Cộng Sản, quyền công dân cũng như quyền con người không hề được tôn trọng, người dân không cảm thấy mình là người chủ của Đất nước, trong lúc đó Đảng Cộng Sản lại o bế công an, cảnh sát, lại sử dụng bọn côn đồ trong việc đàn áp dân lành, biến công an, cảnh sát thành những kiêu binh, tha hồ nhũng nhiễu, hành hạ, đánh đập, tra tấn, thậm chí đánh chết người dân. Số người bị công an đánh chết, bị tật nguyền không phải là ít. Trong khi đó, tệ nạn xã hội, rượu chè, cờ bạc, xì ke ma túy, đĩ điếm lan rộng, chẳng những ở thành thị mà tràn lan đến cả vùng nông thôn. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại đến nỗi Tiến Sĩ Hà Sĩ Phu đã phải kêu lên: “Hãy nhìn vào thực tiễn xã hội: Có bao giờ người Việt Nam lại thờ ơ trước nguy cơ vong quốc, nguy cơ bị đồng hóa như bây giờ? Có bao giờ sự thờ ơ trước đau khổ của đồng loại, sự đâm chém, băm chặt nhau dễ dàng như cơm bữa, sự nhố nhăng mất gốc, sự phô bày thú tính, sự vênh váo rởm đời, sự hành hạ người yêu nước một cách ngang nhiên, sự nịnh bợ kẻ nội xâm và ngoại xâm... lại được tôn vinh trước thanh thiên bạch nhật như bây giờ? Có bao giờ sự thành thật thua sự giả dối, người lương thiện lại sợ kẻ gian manh, người yêu nước lại bị lép vế, bậc thức giả lại bị cười khinh, công lý lại bị nhạo báng một cách thảm hại như bây giờ?” Đấy, kết quả nhãn tiền của “đạo đức Cộng Sản” và việc “xây dựng con người mới, xã hội chủ nghĩa” của Hồ Chí Minh và ĐCSVN như thế đó.

Điều thứ năm

ĐCSVN là một đảng rất bảo thủ, thủ cựu, muôn năm vẫn nhìn thế giới, nhìn đất nước và dân tộc qua cái lăng kính Marx-Lenin quá cũ kỹ và lệch lạc. Chủ Nghĩa Marx-Lenin mà loài người đã vứt vào sọt rác hàng mấy chục năm rồi, dân ở các nước vốn là nôi của chủ nghĩa đó đã vĩnh biệt nó từ lâu rồi, thế mà cho đến ngày nay, từ đại hội đảng kỳ này qua kỳ khác vẫn lặp đi lặp lại mãi “phải kiên trì chủ nghĩa Marx-Lenin.” Nghe quá nhàm tai đến nỗi dân phải kêu lên “mãi mãi cái loa rè,” “già rồi đâm lú.” Buồn cười nhất là dưới thời TBT Đỗ Mười, ông ta vẫn nhai đi nhai lại “hai phe, bốn mâu thuẫn,” cái công thức từ đời xửa đời xưa Cộng Sản dùng để nhận định tình hình thế giới. Nhóm cầm quyền trong đảng cứ khư khư ôm cái cũ, không dám, và cũng không đủ trí tuệ, để nhận ra cái mới, cái năng động của mầm non, cái tương lai, để dám đi những bước sáng tạo. Cái thói quen của họ là bắt chước “hai ông anh,” cứ Liên Xô, Trung Quốc làm gì thì rập khuôn làm theo. Ban lãnh đạo, nhất là BCT, BBT già cả không có sức sống của tuổi trẻ để vươn tới trí tuệ, văn minh và tiến bộ, nên Đảng Cộng Sản mãi mãi lạc hậu, dù họ vênh vang tự cho mình là “đỉnh cao của trí tuệ loài người.” Nhìn vào thực tế thì thấy rõ ĐCSVN chống lại văn minh và tiến bộ, chống lại chế độ dân chủ đích thực. Thế mà có ai đề xuất cái mới thì BCT đã vội kêu lên “đổi mới, nhưng không được đổi màu.” Đã thế, nội bộ ban lãnh đạo chóp bu luôn luôn gầm ghè lục đục nhau, cấu xé nhau, và mỗi người đều lợi dụng chức, quyền để trục lợi và tham nhũng!

Chỉ nêu lên năm điểm như thế thôi cũng đủ để mỗi người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng vì nước vì dân, có tinh thần tự trọng hãy tự mình lựa chọn: ánh sáng hay bóng đêm, đức hạnh hay tội ác, dân chủ hay độc tài, văn minh, tiến bộ hay dã man, lạc hậu, vì tổ quốc và dân tộc hay vì một đảng, thậm chí một nhúm độc tài... Mỗi người sẽ tự hỏi và tự quyết định: Có nên tiếp tục ở trong cái Đảng Cộng Sản này nữa không hay rời bỏ nó? Cái đảng khủng bố, gây chiến. Cái đảng phạm tội diệt chủng, phạm tội ác với loài người và với dân tộc. Cái đảng gian dối, lừa gạt, lật lọng. Cái đảng trong 85 năm qua đã gieo rắc bao đau thương, tang tóc, khổ cực, tủi nhục cho mấy chục triệu con người. Cái đảng đang tham quyền cố vị, bám vào quyền lực để thống trị dân tộc và đất nước. Cái đảng đang thuần phục và rước kẻ thù vào nhà.

Ngày nay, ĐCSVN đang là khối u ác tính bám vào cơ thể dân tộc, cơ thể đất nước. Nếu không dũng cảm làm một cuộc phẫu thuật để vứt bỏ khối u đó đi mà để nó di căn thì dân tộc và đất nước chắc chắn sẽ mất vào tay Trung Cộng đầy tham vọng bành trướng. Lẽ nào người đảng viên còn có tấm lòng trong sáng yêu nước thương dân, có tinh thần tự trọng mà không dám rời bỏ cái đảng tội ác đã phản lại cuộc cách mạng Đảng Cộng Sản từng rêu rao và hứa hẹn?

Chính lúc này là lúc phải quyết định! Rời bỏ cái đảng mang tội ác với dân, với nước này sớm được ngày nào càng tốt ngày đó. Đừng có hy vọng là những kiến nghị hay ho, những đề nghị sáng suốt, những yêu cầu thiết tha của các trí thức, các cán bộ, đảng viên, các lão thành cách mạng, cũng như của nhân dân có thể chuyển hóa được được những cái đầu đã bê-tông hóa của đám cầm quyền vì cái đít của chúng quen ngồi ghế cao bao giờ cũng thích leo cao hơn nữa và bám chắc hơn nữa vào cái ghế của chúng. Đừng có hy vọng đại hội đảng kỳ tới sẽ có thay đổi gì tốt đâu. Câu nói dân gian khi xem tuồng chèo: “Vô ra vẫn thằng cha lúc nãy!” Đại hội đảng cũng chỉ là một lớp tuồng chèo, “vô ra vẫn thằng cha lúc nãy” thôi.

Chúng tôi rất thông cảm có nhiều bạn đang phân vân, ngập ngừng, do dự. Đó là điều rất tự nhiên trước một quyết định quan trọng. Nhưng khi đã dám quyết định bước ra khỏi cái đảng độc tài, dối trá, tham nhũng này rồi, thì các bạn sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhõm, thoải mái lạ thường. “Vòng kim cô” trên đầu bạn sẽ biến mất lúc nào không hay. Việc đó sẽ mở ra một chân trời mới để bạn có thể cống hiến sức lực và trí tuệ của mình cho những công việc có ích cho tổ quốc và dân tộc. Tin chắc rằng những người dũng cảm, như các anh Nguyễn Chí Đức, Phạm Đình Trọng và nhiều người khác... đã ra khỏi ĐCSVN cảm thấy thấy nhẹ nhàng, rất thoải mái, vì bây giờ các anh đã thực sự là những con người tự do.

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

VẤN ĐỀ ĐẦU ĐỘC BẰNG PHÓNG XẠ VÀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG NGUYỄN BÁ THANH (1953-2015)


TK Tran
Theo những mô tả được phổ biến trên các phương tiện truyền thông, thì bệnh mà ông Nguyễn Bá Thanh mắc phải là bệnh rối loạn sinh tủy - pancytopenia - khi hồng huyết cầu, tiểu huyết cầu và bạch cầu bị suy giảm trầm trọng. Bệnh này là một bệnh hiếm hoi, không phải là bác sĩ nào cũng gặp trong suốt cuộc đời hành nghề. Theo những thống kê thì tỷ lệ mắc bệnh chỉ là 1-2 phần triệu, nghĩa là trong 1 triệu dân cư chỉ có 1-2 người mắc bệnh. Trong những tháng qua, bệnh của ông được dư luận quan tâm đặc biệt, không hẳn là vì chứng bệnh hiểm nghèo hiếm hoi mà ông mắc phải, mà vì nguyên do gây ra bệnh của ông. Đã có giả thuyết là ông bị đầu độc bằng phóng xạ.

Ngày 13.2.2015 ông đã từ trần vì bệnh rối loạn sinh tủy này cùng với suy gan nặng và nhiễm nấm.

Quan điểm của nhà nước về nguyên nhân gây bệnh, vai trò của phóng xạ

Trong cuộc gặp gỡ với báo chí ngày 7 tháng 1 vừa qua, ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương đã thông tin cho báo chí về tình hình sức khỏe của ông Thanh. Ông Quốc Khánh, phó giám đốc viện Huyết học nói rằng, hội chứng rối loạn sinh tủy này trên thế giới chưa ai tìm được nguyên nhân. Nếu tìm được thì đã phòng, chữa được.

Phát biểu của ông Khánh là đúng, song không hoàn toàn chính xác. Theo những thống kê quốc tế, thì có đến 70-80% trường hợp bệnh không tìm ra nguyên nhân. Song trong số 20-30% còn lại, người ta biết rằng chứng rối loạn sinh tủy là phản ứng phụ hiếm hoi của việc sử dụng một số thuốc thông dụng, ví dụ thuốc chống tê thấp như Indomethacin, Phenylbutazone, Diclofenac, thuốc cường giáp như Carbimazol, Thiouracil, tiểu đường như Tolbutamid, thuốc sốt rét Chloroquin, kháng sinh như Sulfonamide, Cotrimoxazol, Chloramphenicol… Bệnh viêm gan của ông Thanh cũng nằm trong danh sách gây bệnh rối loạn sinh tủy. Có nguyên nhân do di truyền (late onset hereditary bone marrow failure syndromes). Được lưu tâm hơn cả là nguyên nhân do nhiễm phóng xạ.

Trong buổi gặp báo chí nói trên, khi phóng viên báo Tuổi Trẻ đặt câu hỏi: Căn cứ nào để Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương khẳng định ông Bá Thanh không bị đầu độc, thì bị ông Nguyễn Thế Kỷ, phó Ban tuyên giáo trung ương vặn ngược lại với cung cách kẻ cả: Vậy căn cứ nào nói bị đầu độc? Ông Phạm Gia Khải, phó trưởng Ban Bảo vệ chăm sóc sức khỏe trung ương trả lời câu hỏi này nghiêm chỉnh hơn: Chuyện có đầu độc hay không: làm khoa học phải có chứng cứ... chúng tôi chỉ chấp nhận những giả thuyết có bằng chứng cụ thể... Đến nay chưa có triệu chứng nhiễm độc ở bất cứ nơi nào trong cơ thể.

Đầu độc bằng phóng xạ: một phương pháp tối ưu của tội ác

Nếu cho rằng ông Thanh bị đầu độc bằng phóng xạ thì trường hợp của ông không phải là đầu tiên và duy nhất trên thế giới.

Đầu tháng 11 năm 2006 Alexander Liwinenko, một điệp viên nhị trùng làm việc cho phản gián Nga KGB và dồng thời cho phản gián Anh, xin tỵ nạn chính trị ở Anh, bị giết chết ở London bởi chất phóng xạ Polonium 210, chỉ 3 tuần sau khi ông uống 1 ly trà có hòa tan chất phóng xạ này. Người ta cho rằng Putin đã ra lệnh giết Liwinenko vì những cáo buộc của ông ta về những tội ác của chế độ Putin.

Ngày 28 tháng 10 năm 2004 ông Jassir Arafat, thủ lãnh của Palestine đột nhiên lâm bệnh nặng, sau 1 tuần ông không ăn uống được vì viêm đường ruột. Ông được đưa ngay sang Paris, điều trị ở bệnh viện quân đội Percy. Vài ngày sau đó ông bị hôn mê, thận và gan không còn hoạt động, cuối cùng là chảy máu óc. Ngày 11 tháng 11 năm 2004 ông chết, chỉ quãng 2-3 tuần sau khi có những triệu chứng bệnh tật đầu tiên. Các bác sĩ điều trị không kết luận được về nguyên nhân cái chết của ông. Việc mổ tử thi để giảo nghiệm không được gia đình ông cho phép.

Đầu năm 2012 người ta tìm thấy dấu vết của Polonium 210 trong những vật dụng cá nhân của ông còn giữ lại. Từ đó dẫn đến nghi ngờ là ông đã chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ . Tháng 10 năm 2013 mộ của ông được cải táng và di cốt của ông được 3 nhóm chuyên gia Pháp, Thụy Sĩ và Nga khảo nghiệm. Kết quả phân chất (8 năm sau khi ông chết) không đồng nhất: Trong khi Thụy Sĩ cho rằng ông Arafat có khả năng (moderately support) nhiễm độc Polonium 210, thì Pháp và Nga không tìm thấy bằng chứng cụ thể. Cuối cùng, tới nay vai trò của Polonium trong cái chết của Arafat vẫn còn là một hoài nghi.

Mặt khác, điều này cũng cho thấy là việc điều tra chứng minh tác động của chất độc phóng xạ không hề đơn giản. Trong trường hợp cái chết của Litwinenko các bác sĩ và những điều tra viên trong những ngày đầu tiên đã phải xếp vào loại chết không rõ nguyên nhân. Chỉ sau một thời gian dài mò mẫm người ta mới xác định được nguyên nhân ngộ độc phóng xạ. Điều này khẳng định thêm một lần nữa tính „ưu việt“ của chất độc Polonium 210 là giết người không để dấu vết hay rất khó khăn để tìm ra dấu vết.

Polonium 210

Chất độc phóng xạ polonium 210 phát ra tia alpha, không màu sắc, không mùi vị, chỉ cần 1 lượng rất nhỏ (quãng 1-2 µg, nghĩa là 1-2 phần triệu gram) tương ứng với 1 năng lượng quãng 10 Gray là đủ để giết một mạng người. Polonium 210 không cần chuyên chở trong những hộp chì dầy cộm nặng nề lộ liễu dễ gây nghi ngờ như những chất phóng xạ tia gamma bình thường. Cách sử dụng lại rất dễ dàng. Khi sử dụng không gây nguy hiểm gì cho kẻ chủ mưu, bởi vì tia phóng xạ alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 5 cm ở ngoài không khí, có thể được chặn đứng bằng 1 tờ giấy. Hiệu năng phá hoại của nó chỉ được phát huy khi chất độc này lọt vào trong cơ thể qua đường tiêu hóa, hô hấp hay trực tiếp vào mạch máu. Ở trong cơ thể, tia alpha chỉ có hiệu năng trong bán kính 0,04-0,1 mm, song đủ để phá nát các tế bào trên đường đi của nó. Khi polonium 210 còn nằm trong dạ dày, nó làm các tế bào niêm mạc (mucosa) bị phá hoại, nạn nhân cảm thấy khó chịu, buồn nôn sau chừng 6-7 tiếng đồng hồ. Khi chất phóng xạ theo đường máu tỏa ra khắp các mô trong cơ thể thì phá hủy các tế bào, nhanh nhất là những tế bào có khả năng phân chia nhanh ở trong các tủy xương. Từ đó gây ra chứng rối loạn sinh tủy là một biến chứng nguy hiểm sớm đầu tiên. Tủy xương không thể sinh sản được đầy đủ các tế bào máu. Khi làm khám nghiệm sinh học sẽ thấy chỉ số bạch cầu xuống thấp (leucopenie) rất sớm, trong vòng 4-5 ngày, tiểu cầu xuống thấp (thrombopenie) sau chừng 9 ngày. Một khi đã lọt vào trong cơ thể, thì không còn phương pháp nào để trục xuất chất độc này ra khỏi cơ thể, ngoại trừ một phần theo đường bài tiết tự nhiên (phân, nước tiểu) được đưa ra ngoài. Khi đã có rối loạn sinh tủy, tối thiểu lượng phóng xạ đã phải là 3-5 Gray, thì tiên lượng (prognosis) là LD50 (lethal dosis 50), có nghĩa là 50% nạn nhân sẽ phải chết. Nếu bị đầu độc với lượng cao hơn, quãng 10 Gray sẽ có ngay rối loạn đường tiêu hóa và hệ thần kinh, thì tiên lượng là LD100, nạn nhân không có hy vọng sống sót.

Giả thuyết về việc ông Bá Thanh chết vì bị đầu độc bằng phóng xạ

Trang mạng Chân Dung Quyền Lực (CDQL) đã quả quyết rằng một phó thủ tướng đương nhiệm đã chủ mưu việc đầu độc ông Nguyễn Bá Thanh bằng phóng xạ. Việc đầu độc được cho là vào thời điểm cuối năm 2013, khi ông Thanh đi công tác ở Trung Quốc, rồi được „bạn“ chiêu đãi, đưa đi đây đi đó ăn uống và mua sắm. Ở một thời điểm thích hợp ông đã bị đánh thuốc độc phóng xạ. Từ khi đó sức khỏe ông xuống dốc. Trong khi công tác ở Thụy Điển, ông đã vài lần ngất xỉu.Vào đầu tháng 5-2014 đã được điều trị tại bệnh viện 108 với chuẩn đoán „rối loạn sinh tủy“. Tháng 6 và tháng 7–2014 điều trị tại Singapore và từ tháng 8–1014 tới tháng 1-2015 điều trị tại Mỹ. Ngày 9 tháng 1 năm 2015 ông được đưa trở lại Việt Nam. Ông mất hơn 1 tháng sau đó, vào ngày 13–2–2015 tại Đà Nẵng.

Trang mạng CDQL quyết đoán là các bác sĩ Mỹ đã định bệnh „Ngộ độc phóng xạ ARS“ và đã thực hiện phẫu thuật ghép tủy. Nay ông Thanh đã mất, vấn đề trách nhiệm về cái chết này lại càng trở nên sôi bỏng. Thông tin của CDQL có khả tín hay không là vấn đề được mổ xẻ ở đây.

Chỉ có 2 tình huống có thể đã xảy ra:

– Tình huống thứ nhất: Có âm mưu thực sự muốn giết ông Thanh bằng phóng xạ.

Một chi tiết biện minh cho giả thuyết này là yếu tố Trung Quốc. Polonium 210 chỉ sản xuất được ở một số lò nguyên tử trên thế giới, trong đó có lò ở Trung Quốc. Sản xuất ở Nga chiếm tới 95% tổng số sản lượng thế giới. Việc cho rằng người chủ mưu phải nhờ tới nước ngoài để có được Polonium như vậy cũng hợp lý. Song tất cả diễn biến của bệnh ông Thanh lại không „điển hình“, như tiên liệu của một cuộc đầu độc kinh điển bằng phóng xạ: Vài tiếng đồng hồ sau khi ăn uống phải chất phóng xạ ở Trung Quốc là ông Thanh đã phải khó chịu nôn mửa. Sau 2-3 tuần là lẽ ra tủy xương đã bị tiêu hủy dẫn tới chứng suy/rối loạn sinh tủy. Chậm lắm là 1-2 tháng sau là nạn nhân chết. Ở trường hợp ngộ độc phóng xạ điển hình như trường hợp điệp viên Litwinenko cái chết tới chỉ trong vòng 3 tuần. Ở trường hơp ông Bá Thanh thì không như vậy. Chứng rối loạn sinh tủy phát sinh 5-6 tháng sau khi ông từ Trung Quốc trở về, và tới nay, hơn 1 năm sau ngày bị „đầu độc“ ông mới mất.

Nếu đặt tiền đề rằng chứng „rối loạn sinh tủy“ của ông Thanh phải là do phóng xạ gây ra bởi vì ai đó đã có chứng cớ gì mà hiện nay chưa công bố, thì năng lượng nguyên tử đã dùng chỉ tới mức 3-5 Gray vì „chỉ có“ tủy xương bị tàn phá: Để cố ý giết người thì năng lượng này tương đối thấp. Năng lượng thấp này thường là do tai nạn nguyên tử gây ra. Một khả năng khác là cũng có thể là nguyên nhân cố ý giết người, song lại dùng liều lượng thấp hay dùng chất phóng xạ khác, ít nguy hiểm hơn (như Yttrium 90, cũng phát tán tia alpha, vốn được dùng trong Y khoa hạt nhân để chữa phong thấp, dễ mua và rẻ hơn là Polonium 210). Dù sao chăng nữa, với một năng lượng nguyên tử 3-5 Gray thì tiên lượng bệnh của ông cũng là nghiêm trọng: LD50 (lethal dosis 50). Cái chết hay lẽ sống tương đương ngang ngửa 50% với nhau. Nay cái chết đã thắng thế trên thân xác ông.

– Tình huống thứ hai: Bệnh của ông Thanh không liên quan gì tới phóng xạ.

Trong thời gian qua trang mạng CDQL đã tung ra công luận một số thông tin vô cùng phong phú với những chứng cớ, hình ảnh, giấy tờ khó lòng chối bỏ về tài sản bất chính của một số quan chức cao cấp nhất nước. Những người bị nêu tên đích danh không thốt nổi nửa lời để chống cự lại những cáo buộc trên. Song, trong trường hợp của ông Thanh thì lại khác. CDQL chỉ khẳng định,mà không nêu lên bất cứ bằng chứng, tư liệu nào chứng minh cho cáo buộc là ông Thanh bị đánh thuốc độc phóng xạ. Nếu hình ảnh chụp ông Thanh gầy gò, rụng hết tóc được chụp vài tuần sau khi ông từ Trung Quốc trở về vào cuối năm 2013 thì hình này minh chứng được cho tác động phóng xạ làm ông rụng hết tóc,làm thân xác ông tiều tụy. Song hình ảnh này lại được chụp ở Mỹ, sau 2-3 lần hóa trị, thì đó chỉ là phản ứng rất bình thường của hóa trị. Người dân chờ đợi CDQL tung ra hình ảnh chụp ông Thanh trước khi ông được chữa trị, trưng ra bản copie các kết quả thử nghiệm và kết luận sau cùng của các bác sĩ Mỹ, ví dụ như nồng độ Polonium 210 hay chất phóng xạ khác trong nước tiểu, tủy xương của ông Thanh, ví dụ như báo cáo cytology về những biến dạng hay hư hoại của các tế bào máu trong tủy xương hay kết quả khảo nghiệm chromosome ở các bạch cầu trong máu của ông.

Kết quả thử nghiệm máu vào tháng 5-2014 mà ông Phạm gia Khải cho báo chí biết (hồng cầu giảm, tiểu cầu giảm, bạch cầu không rõ ràng) không đưa ra được kết luận cụ thể. Kết quả này cũng không điển hình với biến đổi do phóng xạ gây ra, bởi vì thông thường thì bạch cầu rất nhạy cảm với phóng xạ, sẽ bị phá hủy nhanh chóng và rõ ràng nhất.

Lời kết

Cho tới ngày ông Thanh mất vẫn chưa có thêm thông tin hay bằng cớ gì mới cho biết là ông Thanh có hay không bị đầu độc bằng phóng xạ. Tất cả cáo buộc từ phía CDQL hay phủ nhận từ phía nhà nước cho tới nay chỉ là những khẳng định chung chung, không bằng chứng.

Ông Nguyễn Bá Thanh đã được khám bệnh, trị bệnh nhiều tháng trời ở những bệnh viện hàng đầu ở 3 quốc gia: Việt Nam, Singapore và Mỹ. Tất nhiên là những dữ kiện về bệnh tình của ông không thể thiếu. Kết luận cụ thể về nguyên nhân bệnh của ông từ những bác sĩ chuyên môn hàng đầu thế giới chắc chắn đã có, song tới nay vẫn được giữ kín như một bí mật quốc gia.

Ngày 7 tháng 1 vừa qua ông Nguyễn Quốc Triệu, trưởng ban bảo vệ săn sóc sức khỏe trung ương, cho rằng việc không cung cấp thông tin bệnh tình của ông Nguyễn Bá Thanh là do: Trong luật khám chữa bệnh, bệnh nhân có quyền bí mật về bệnh, việc cung cấp thông tin bệnh tật của cán bộ cao cấp phải xin ý kiến của cấp trên. Chính sách giấu kín thông tin trong lãnh vực sức khỏe của từng cá nhân là phổ thông và ở khắp nơi. Ở phương Tây cũng thế. Song có một điểm khác biệt quan trọng là ở nơi có chế độ dân chủ, người bệnh nhân có quyền cho phép tiết lộ thông tin sức khỏe của mình cho một người thứ ba mà không cần phải xin ý kiến của cấp trên nào. Ở trường hợp có người tố cáo là có kẻ gian đầu độc người khác, như chuyện Bá Thanh, thì không những là có vấn đề sức khỏe của người bệnh mà còn có vấn đề hình sự đối với kẻ gian, còn vấn đề sử dụng pháp luật để ngăn đe trừng trị. Như vậy không thể có chuyện mượn cớ bí mật sức khỏe để bỏ qua việc điều tra được.

Trong trường hợp không có yếu tố phóng xạ, thì công luận và cá nhân Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phải được thông tin giải oan, và là cơ hội để ông Phó Thủ tướng truy tố kẻ vu khống và đòi bồi thường thiệt hại.

Trong trường hợp có yếu tố phóng xạ, thì đây là là một tội ác không thể khoan nhượng vì đã có người chết. Gia đình ông Thanh phải khởi tố. Nhà nước phải vào cuộc, điều tra kỹ lưỡng để tìm ra chính xác thủ phạm của vụ đầu độc này.

Ngành công an Việt Nam, với số lượng nhân sự và phương tiện khổng lồ, vốn nổi tiếng về những vụ giết người, đánh người trong đồn công an hay đàn áp người dân bất đồng chính kiến, không thể bỏ qua cơ hội để phát huy đúng mức chức năng của mình khi làm sáng tỏ vụ án này.

T.K.T.
Tác giả gửi BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 11:42 [/size]

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Di Sản và Ước Mơ Đầu Năm

Sơn Tùng


Tới một tuổi nào đó, khi thực sự bước chân vào đời, một người trẻ thường nhìn lên những thế hệ đi trước để trông đợi nhận được một vài di sản. Của cải vật chất hay những di sản mang giá trị tinh thần giúp họ làm hành trang trên đường đời.


Ngược lại, vào một lúc nào đó, thế hệ đi trước cũng nghĩ đến việc để lại một vài cái gì đó cho con cái và những thế hệ đi sau.

Với một người giàu có và coi của cải vật chất là sự nghiệp, công việc ấy có vẻ dễ dàng và đơn giản. Người ta sẽ tính sổ xem của cải thu nhặt trong cả một đời người có được bao nhiêu và sẽ chia ra như thế nào, để lại cho những ai, mỗi người bao nhiêu, trước khi rời khỏi thế giới này với hai bàn tay không như lúc đến.

Với người không có của cải vật chất và không cho nó một giá trị tuyệt đối, công việc không đơn giản. Người ta cũng sẽ phải tính toán – nhưng không phải bằng những con số - xem sự nghiệp mình có được những gì, và sẽ để lại ra sao.

Việc “tính sổ” này thường được nhìn như một sự bàn giao giữa thế hệ đi trước và thế hệ đi sau để đời sống được tiếp tục. Những thế hệ tới sau sẽ nhận lấy cái thế giới mà những thế hệ đi trước giao lại – với những cái đẹp và cả những cái xấu.

Nhưng, cũng có một quan niệm khác cho rằng “thế giới này không phải do bố mẹ tặng cho ta mà là do con cái cho ta mượn tạm” như câu thơ của một thi sĩ người Nga.

Tôi thích cái quan niệm thứ hai hơn, vì tính chất lãng mạn và yếm thế của nó cũng có, nhưng vì nó buộc con người phải suy nghĩ nhiều hơn về ý nghĩa sự hiện hữu của mình trên hành tinh này. Chúng ta là những con nợ của các thế hệ đi sau.

Với quan niệm này, tôi cho rằng thế hệ trẻ Việt Nam đã không nhận được những gì họ mong đợi khi được “thanh toán nợ nần”.

Vào đầu thập niên 1990, sau khi Liên-Sô sụp đổ, tôi đã có dịp thăm viếng nước Nga vài lần, và đã trải qua một cơn chấn động tâm não khi nhìn thấy nhiều thanh niên Việt Nam ngồi co ro trên mặt cỏ phủ băng tuyết, bán những chiếc quần áo rẻ tiền tại một khu chợ trời ở Mạc-tư-khoa. Đôi mắt họ chứa đựng tất cả nỗi bơ vơ và bóng đen của ngày mai vô định.

Tôi cũng đã nhìn thấy những đôi mắt như vậy của những người trẻ Việt Nam tại ngay quê nhà trước khi tôi bỏ nước đi tị nạn hơn ba mươi năm về trước. Họ không bị lưu đày sang một đất nước xa xôi, nhưng cũng đang sống vất vưởng tại các khu chợ trời hay tụ họp nơi những hàng quán trên hè phố, tự đốt cuộc đời bằng những ly rượu mạnh, tách cà-phê đắng, điếu thuốc nặng cháy phổi. Tôi đã không trở lại Việt Nam từ ngày bước chân xuống chiếc tàu gỗ nhỏ ra khơi trong đêm tối, nhưng ngày nay tôi vẫn nhìn thấy những hình ảnh này trên Internet.

Ở trong nước hay ngoài nước, những thanh niên Việt Nam ấy cũng đã không có được một chỗ đứng trên mặt đất này, và đã bị tước mất cơ hội để được sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.

Những người trẻ Việt Nam tại các nước Tây Âu và tại Hoa Kỳ có đời sống vật chất khá hơn, và có cơ hội để chọn một nghề nghiệp theo ý‎ muốn, nhưng không ít người cũng đã cảm thấy bơ vơ khi muốn định hướng cuộc đời, hay muốn “trở về nguồn”, muốn sống như một người Việt Nam chứ không phải một người Mỹ da vàng, Pháp da vàng…

Những người trẻ Việt Nam ở trong hay ngoài nước quả thật đã không nhận được những gì mà họ mong đợi khi “được trả nợ”, từ các thế hệ đi trước.

Tuổi trẻ Việt Nam đã không được tiếp nhận từ tay các thế hệ đi trước một đất nước tươi đẹp, tự do, giàu mạnh như tuổi trẻ Nhật Bản, Nam Hàn, và ngay cả Singapore hay Malaysia ở gần Việt Nam.

Hẳn nhiên nhiều người trẻ Việt Nam đã oán trách những thế hệ đi trước. Đất nước ta không thiếu tài nguyên thiên nhiên, và dân ta không thiếu nhân tài. Người “chủ nợ” có quyền bày tỏ nỗi bất bình khi không được thanh toán thỏa đáng.

Nhưng, thế giới đang thay đổi rất nhanh, ý niệm tương đối về mỗi thế hệ cũng đang bị thu ngắn lại. Bánh xe tiến hóa của loài người cũng quay với tốc độ nhanh hơn.

Tuổi trẻ Việt Nam hãy đứng dậy hành động hơn là buông trôi ngày tháng và chê trách những thế hệ đi trước, hay lên án các thế hệ đi trước như “những con nợ” đã không làm tròn nghĩa vụ. Hãy làm cái gì để thay đổi vận mệnh của chính mình và của đất nước. Và không có đổi thay nào mà thiếu vai trò nòng cốt của tuổi trẻ.

Tôi không muốn đóng vai trò luật sư để biện hộ cho các thế hệ đi trước và cho chính mình, nhưng không nên gom cả những tội phạm và nạn nhân vào một bó để buộc tội và lên án.

Các thế hệ đi trước, nếu có những kẻ ươn hèn, ích kỷ, cam tâm làm tôi tớ cho ngoại nhân thì cũng có vô số người khí phách đã đứng lên lấy xương máu mình làm phân bón cho các thế hệ đi sau có thể vươn lên tươi tốt hơn. Nếu có những kẻ mang cuồng vọng nô lệ hóa dân tộc cho một chủ thuyết xa lạ điên rồ thì cũng đã có không thiếu những người can trường chống lại.

Trong cái “gia tài xấu xí” do các thế hệ đi trước để lại, có một di sản hết sức quan trọng bị vùi lấp bên trong mà những người đi sau nên đào bới lên: sự không phân biệt phải/trái, chính/tà, đúng/sai chính là lỗi lầm lớn nhất trong những thời đại đã qua và thời đại ngày nay.

Chính não trạng mờ ảo ấy đã khiến Việt Nam không thể ra khỏi bóng đêm và không cất cánh lên được. Hãy nhìn vào xã hội Việt Nam ngày nay: những con người tốt nhất là những kẻ sống khổ nhất với lương tâm của họ, những kẻ gian ác nhất, phạm nhiều tội ác nhất lại là những kẻ đang ngự trị trên ngôi cao để thi hành công lý.

Mọi người hầu như không cần biết đến sự kiện nghịch l‎ý ấy, hay thậm chí còn coi là bình thường, hay tệ hơn nữa, khai thác tình trạng vô đạo ấy để mưu lợi riêng cho mình.

Thời gian gần đây có những dấu hiệu cho thấy đã có sự thay đổi, từ trong giới trẻ, thế hệ sinh ra và lớn lên trong chế độ hiện tại. Có những người trẻ, rất trẻ, đã bất khuất đứng lên, dõng dạc nói ra những đòi hỏi về nhân quyền, về tự do, về nhân phẩm và về những bất bình mà con người có lương tâm không thể bị đè nén mãi dưới bạo lực và lừa dối.

Số người này lúc đầu không có nhiều nhưng đang tăng lên dần. Và, như một tín hiệu gửi ra cho thế giới bên ngoài nhân vụ đứng lên của tuổi trẻ Hồng Kông, 22 tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam đã cùng đứng chung trong bản “Tuyên cáo về tập hợp vì nền dân chủ tại Hồng Kông và Việt Nam”, trong đó có đoạn nguyên văn:

“...Toàn dân trong nước hãy noi gương tranh đấu của người dân, đặc biệt của giới trẻ tại các quốc gia Đông Âu cuối thế kỷ trước, của các quốc gia Bắc Phi và Ả Rập vùng Trung Đông gần đây, hiện thời là của người dân Ukraina, Tân Cương, Tây Tạng và lúc này là giới trẻ Hồng Kông trong tinh thần và khí phách của sinh viên Thiên An Môn. Các dân tộc ấy đã mạnh mẽ cho thế giới thấy họ nghĩ gì, muốn gì. Với truyền thống hào hùng và dòng máu bất khuất của nòi Lạc Việt, chúng ta hãy đồng lòng và can đảm quyết định thay đổi đường đi, thay đổi vận mệnh của quốc gia dân tộc. Bởi lẽ ngày càng hiển hiện nguy cơ mất nước do sự xâm lấn của ngoại thù Cộng sản Tàu và sự bạc nhược, đồng lõa của một bộ phận trọng yếu trong giới cầm quyền Cộng sản Việt.
Cuối cùng, chúng tôi cầu chúc cho cuộc biểu tình bất tuân dân sự của nhân dân, giới trẻ Hồng Kông đạt được các mục tiêu cao cả, đồng thời khơi dậy được tinh thần đấu tranh cho người dân ở Đại lục, để từ đó thêm sức mạnh cho phong trào tranh đấu tại Việt Nam... (hết trích)

Trước sự kinh ngạc và ngưỡng mộ của thế giới trong mấy năm cuối cùng của Thế kỷ 20 và đầu Thế kỷ 21, tuổi trẻ đã đem mùa xuân đến cho một nửa Âu Châu sau mấy chục năm chìm sâu trong đêm dài của gông cùm cộng sản.

Với tín hiệu trên đây từ Việt Nam, chúng ta có lý do để ước mơ một ngày không xa trong năm mới, tuổi trẻ Việt Nam sẽ đồng loạt đứng lên đem Mùa Xuân Dân Tộc về trên đất nước để người Việt trong và ngoài nắm tay cùng nhau xây dựng một quốc gia tự do, phú cường, trở thành một di sản mà các thế hệ mai sau, những người “chủ nợ” tương lai, mong được tiếp nhận khi chúng ta giã từ thế giới này.

Virginia, Mùa Xuân 2015

Sơn Tùng

Post Reply