Quán Vắng không Người ...3
Moderator: khieulong
Mỹ thăm dò động thái của VN trước âm mưu chiếm Biển Đông của TQ Sau khi kết thúc Hội nghị Thượng đỉnh An ninh châu Á tại Singapore/Hội nghị Shangri-la 2015, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã tới thăm lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam trong ba ngày từ 31/5 đến 2/6. Đây là chuyến thăm Việt Nam lần thứ 5 cấp Bộ trưởng quốc phòng Mỹ kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ.
Đây được coi là động thái tích cực khẳng định quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
Để độc giả có thông tin đa chiều, PV báo Người Đưa Tin đã có cuộc trao đổi với Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược (Bộ Công an) – Người đã có trên 35 năm nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai nước Việt – Mỹ.
Ông đánh giá như thế nào về chuyến thăm Hải quân, Cảnh sát biển Việt Nam của Bộ trưởng quốc phòng Mỹ ở thời điểm này?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Việc một người đứng đầu Bộ Quốc phòng của một nước siêu cường trên thế giới đến Việt Nam nhiều ngày hẳn là phải có chủ đích chứ không thể là một chuyến thăm đơn thuần. Bởi một quốc gia thực dụng như Mỹ sẽ không bỏ thời gian, công sức cho những điều viển vông hoặc không có mục đích rõ ràng.
Thiếu tướng Lê Văn Cương - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược - Bộ Công an. (Ảnh: Cao Tuân)
Tôi cho rằng mục đích chuyến thăm lần này của Mỹ là để tìm hiểu mối quan hệ thực sự giữa Việt Nam – Trung Quốc là như thế nào?. Bởi, chính giới chức Mỹ vẫn chưa thực sự hiểu rõ mối quan hệ này.
Vẫn có những ý kiến khác nhau, có trường phái nói rằng giữa Việt Nam và Trung Quốc là một khối ngăn cách. Họ cho rằng, Trung Quốc là kẻ thù, là nước mở ra cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979; chiếm Hoàng Sa năm 1974 và cũng chính nước này chiến tranh xâm lược Trường Sa năm 1988… nên giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều bất ổn. Do vậy, Mỹ muốn lôi kéo Việt Nam vào ảnh hưởng của mình từ đó thiết lập vòng cung để đối phó với Trung Quốc.
Trường phái thứ 2 lại cho rằng: Mặc dù Trung Quốc mở các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và gieo nhiều tai họa trong khi đó phía Việt Nam vẫn có thái độ thân thiện, hợp tác với Trung Quốc vì hòa bình chung.
Chính vì thế chính quyền Mỹ cần mục sở thị Việt Nam để hiểu rõ tình hình, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Từ đó, Mỹ mới quyết định việc ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam về mặt phương tiện, vũ khí để đối phó với những việc làm sai trái của Trung Quốc trên biển Đông.
Vậy ông nhận định thế nào việc Ngài Ashton Carter, người đứng đầu của Bộ Quốc phòng Mỹ đã đến Cảng Hải Phòng và thăm tàu Cảnh sát biển 8003 - con tàu Việt Nam đã bị tàu Trung Quốc đâm, va, phụt vòi rồng trong một cuộc ngăn chặn, yêu cầu Trung Quốc dừng hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan Hải Dương 981 tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam trong năm 2014.
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Theo tôi, đây được coi là mục đích cơ bản của chuyến thăm này. Bởi lẽ, Mỹ muốn kiểm tra thực hư chiếc tàu của Việt Nam bị phía Trung Quốc đâm như thế nào?. Tiếp đó là thông qua các cuộc đối thoại với thủy thủ của tàu 8003 và người chỉ huy con tàu này để họ đánh giá nhận biết xem quan điểm của lãnh đạo cấp cao và chiến sĩ Cảnh sát biển Việt Nam có gì khác nhau không?.
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Ashton Carter đã tới thăm lực lượng Hải quân và Cảnh sát biển Việt Nam ở Hải Phòng vào ngày 31/5. (Ảnh: Văn Biên)
VÌ thế, đại diện Hoa Kỳ chỉ hứa chung chung là sẽ hợp tác và hỗ trợ về phương tiện giúp cảnh sát biển đối phó với những hành động xâm phạm chủ quyền trên biển Đông. Họ rất thận trọng cho biết sẽ kết hợp với các nguồn tin khác nữa từ nhiều phía rồi từ đó mới định hình mối quan hệ với Việt Nam.
Ông có nhận định gì về mối quan hệ đối tác Việt Nam – Mỹ trong tương lai gần, đặc biệt là sau chuyến thăm của ông Ashton Carter đến Việt Nam và sắp tới đây là của Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đến Hoa Kỳ?.
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Dưới góc độ là một Nhà nghiên cứu quốc tế với hơn 35 năm nghiên cứu về Mỹ tôi cho rằng quan hệ Việt Nam và Mỹ trong thời gian tới sẽ có bước tiến triển nhưng chưa thực sự đột phá. Do cả 2 phía cả ở Việt Nam lẫn Hoa Kỳ đều thận trọng.
Trong đó, lý do rõ nhất là phía Hoa Kỳ chưa đủ lòng tin vào Việt Nam để chuyển giao công nghệ, chuyển giao vũ khí, chuyển giao thông tin. Họ cho rằng Việt Nam chưa thật sự kiên quyết, mạnh dạn trong việc thiết lập chiến lược.
Cho nên chuyến đi lần này của ông Ashton Carter được coi là một bước tiến dần dần trong quan hệ Việt - Mỹ chứ chưa thể coi là đột phá được. Điều này phù hợp với mong muốn của Trung Quốc. Vì phía Trung Quốc rất sợ khi Việt Nam có những bước tiến quan hệ đột phá với Mỹ. Mặc dù Trung Quốc hung hăng nhưng rất sợ Mỹ, họ cũng xác định được đối đầu với Mỹ là tự sát. Do vậy, chính quyền của ông Tập Cận Bình chỉ dám ra những “đòn gió” nhằm cản trở quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ. Khi Mỹ căng là ngay lập tức Trung Quốc phải dịu ngay.
Với tình hình căng thẳng leo thang trên biển Đông, nhiều học giả của Mỹ cho rằng biển Đông sẽ trở thành chiến trường của “Chiến tranh Thế giới III”, nơi Trung – Mỹ đối đầu và nếu xảy ra đụng độ, Bắc Triều Tiên có thể tham chiến bởi nước này cũng là một nhân tố cần xem xét khi quan sát tình hình diễn biến trên Biển Đông hiện nay. Ông có nhận định gì về thông tin có vẻ giật gân này?.
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi cho rằng những học giả này chưa thực sự hiểu hết về Biển Đông. Mục đích của Tập Cận Bình bây giờ là hoàn thành mục tiêu cuối của giai đoạn 1921-2021 là xây dựng Trung Quốc thành một xã hội khá giả.
Mục tiêu thứ 2 mang tính chiến lược toàn cầu là “Một vành đai, một con đường”, qua đó làm chủ con đường trên bộ là con đường vắt ngang lục địa Á Châu, con đường trên biển là con đường từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương. Từ đó thống lĩnh vùng lãnh thổ châu Á. Bởi Trung Quốc nhận thức rằng kẻ thống trị được lục địa Á Châu sẽ thống trị thế giới. Do vậy, Trung Quốc luôn tìm cách gây hấn với những nước làm ảnh hưởng con đường chinh phục giấc mơ của họ.
Vậy ở thời điểm này, Việt Nam cần chiến lược gì để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ cũng như tránh lâm vào tình cảnh như bán đảo Bắc Triều Tiên bị chia cắt và phải đối đầu trực tiếp với với kẻ địch, thưa ông?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Việt Nam đang duy trì các phương thức hòa bình để giải quyết tranh chấp và quan điểm này cũng được cộng đồng quốc tế ủng hộ rộng rãi. Tôi cho rằng, về mặt ngoại giao, chúng ta đã rất tích cực và mang lại hiệu quả, làm cho quốc tế hiểu rằng quan điểm của Việt Nam là quang minh chính đại, chúng tôi có chủ quyền, tuân thủ luật pháp, tôn trọng pháp lý và đạo lý để từ đó quốc tế ủng hộ Việt Nam hơn nữa.
Phải nhìn thẳng vào vấn đề rằng, ngoài việc chú ý đến động thái của Việt Nam, hiện quốc tế quan tâm hơn cả là hành động và phản ứng của Mỹ về vấn đề Biển Đông. Mọi hành động của Trung Quốc trên Biển Đông bao giờ cũng vừa làm, vừa nghe ngóng phản ứng cộng đồng quốc tế, đặc biệt là Mỹ. Vì thế nếu Việt Nam và Mỹ xây dựng tốt mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau thì đồng nghĩa với việc đang gián tiếp ngăn chặn âm mưu bá chủ Biển Đông của Trung Quốc.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện!
Cao Tuân
-
- Posts: 859
- Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm
Độc tài kiểu mới
Nguyễn Hưng Quốc Hiện nay, không ai có thể chối cãi chính quyền Việt Nam là một chế độ độc tài. Tính chất độc tài ấy có ba biểu hiện chính: Thứ nhất, đó không phải chính quyền do dân bầu lên nên không thực sự là “do dân” hay “của dân”, và trên thực tế, nó cũng chẳng bao giờ “vì dân”; thứ hai, mặc dù Việt Nam tự xưng là một “nhà nước pháp quyền”, ở đó, có đầy đủ hiến pháp và luật pháp nhưng tất cả đều chỉ được sử dụng để trấn áp dân chúng, còn nhà cầm quyền thì ở ngoài và ở trên pháp luật; và cuối cùng, thứ ba, chính quyền Việt Nam tìm mọi cách để bóp nghẹt các quyền tự do căn bản của con người, từ tự do ngôn luận đến tự do biểu tình và tự do tham gia các hoạt động thuộc xã hội dân sự cũng như các hoạt động chính trị nằm ngoài khuôn khổ của chế độ.
Có điều, chế độ độc tài ở Việt Nam có một số đặc điểm nổi bật cần được nhận diện.
Thứ nhất, đó là một chế độ độc tài không có nhà độc tài, hoặc nếu có, diện mạo của các nhà độc tài ấy cũng rất mờ nhạt, không rõ nét.
Xin lưu ý là trên thế giới có ba loại độc tài chính: độc tài quân chủ, độc tài quân phiệt và độc tài đảng trị. Đằng sau cả ba loại độc tài ấy bao giờ cũng là một cái gì có tính chất tập thể: hoặc dòng dõi (loại đầu tiên) hoặc quân đội (loại thứ hai) hoặc đảng phái (loại thứ ba). Tuy nhiên, trên cái nền tập thể ấy thỉnh thoảng hiện lên những cá nhân thâu tóm toàn bộ quyền lực và hiện hình như những bạo chúa: Hitler ở Đức, Stalin ở Liên Xô, Augusto Pinochet ở Chile, Francisco Franco ở Tây Ban Nha, Saddam Hussein ở Iraq, Muammar Gaddafi ở Libya, v.v…
Với độc tài đảng trị của cộng sản, cũng có những cá nhân nổi bật như vậy: Lenin và Stalin ở Nga, Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Pol Pot ở Campuchia, anh em Castro ở Cuba và dòng họ Kim ở Bắc Hàn. Riêng ở Việt Nam, trước đây, Lê Duẩn cũng có thể được/bị xem là một nhà độc tài.
Tuy nhiên, sau Lê Duẩn thì khác. Quyền lực của các tổng bí thư, từ Trường Chinh đến Nông Đức Mạnh, càng ngày càng giảm sút. Đến Nguyễn Phú Trọng lại càng giảm. Trong khi đó, quyền lực của thủ tướng, đặc biệt của Nguyễn Tấn Dũng, càng lúc càng tăng. Nhưng tăng đến mấy thì vẫn không lấn át hẳn được tổng bí thư.
Cho nên có thể nói, trong ba người ở đỉnh cao quyền lực hiện nay, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng, không ai xứng đáng với danh hiệu độc tài cả. Lý do là quyền lực của họ bị chia sẻ, mỗi người một ít, không có ai thực sự có toàn quyền để có thể tác oai tác quái. Bởi vậy có thể nói chế độ ở Việt Nam là một nền độc tài nhưng không có nhà độc tài (dictatorship without dictator). Đó chỉ là một guồng máy chứ không có mặt người.
Thứ hai, guồng máy độc tài ấy khá “mềm”. Chữ “mềm” ở đây tôi mượn từ bài “The New Dictators Rule by Velvet Fist” của Sergei Guriev và Daniel Treismanmay. Trong bài viết, hai tác giả này nêu lên hai luận điểm chính: Thứ nhất, trên thế giới hiện nay vẫn còn một số chế độ độc tài khát máu như ở Syria và Bắc Triều Tiên nhưng số lượng các nền độc tài tàn bạo như vậy càng lúc càng hiếm. Theo thống kê, vào năm 1982, 27% các quốc gia độc tài có dính líu đến các vụ giết người hàng loạt; năm 2012, con số ấy chỉ còn 6%. Thứ hai, hầu hết các nhà độc tài được chú ý lâu nay như Vladimir Putin ở Nga, Alberto Fujimori ở Peru, Recep Tayyip Erdogan ở Turkey, Mahathir Mohamad ở Malaysia, Hugo Chávez ở Venezuela, v.v… đều có bàn tay bọc nhung (velvet fist). Guriev và Treismanmay gọi đó là những nhà độc tài mềm (soft dictators).
Trong bài “Nhà nước khủng bố”, tôi nêu lên hiện tượng công an Việt Nam thường xuyên sử dụng nhục hình trong các cuộc điều tra dẫn đến chết người như một hình thức khủng bố nhằm làm tê liệt tinh thần phản kháng của dân chúng. Sự kiện ấy có thật và rất phổ biến. Tuy nhiên, nếu so với trước đây, với cảnh hàng chục ngàn người bị giết chết trong các cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc vào giữa thập niên 1950 cũng như hình thức trại cải tạo - nơi giam giữ hàng trăm ngàn người sau năm 1975, những sự khủng bố trong các trại tạm giam và tạm giữ hiện nay, tuy vẫn tàn bạo nhưng thành thực mà nói, thưa thớt và nhẹ nhàng hơn nhiều. Biểu hiện và mức độ khác nhau, nhưng bản chất của chế độ thì vẫn là một: độc tài. Một thứ độc tài “mềm”.
Cả độc tài “cứng” lẫn độc tài “mềm” đều sử dụng hai biện pháp chính để duy trì quyền lực: khủng bố và dối trá. Sự khác biệt căn bản giữa độc tài “cứng” và độc tài “mềm” nằm ở chỗ: với độc tài “cứng”, khủng bố là biện pháp chính; với độc tài “mềm”, dối trá là biện pháp chính. Xin lưu ý: ở đây chỉ có vấn đề chính hay phụ chứ không phải có cái này thì không có cái kia.
Tính chất khủng bố tại Việt Nam hiện nay có ba biểu hiện chính: Thứ nhất là tra tấn đến chết trong các đồn công an; thứ hai là dùng côn đồ hoặc công an giả dạng côn đồ để hành hung những người chống đối, thậm chí, những người chỉ chống đối… Trung Quốc và thứ ba, mang ra toà kết án tù với những lý do vu vơ kiểu trốn thuế hay lợi dụng tự do dân chủ.
Tính chất dối trá của các nhà độc tài “mềm” được thể hiện bằng hai biện pháp chính:
Thứ nhất là đánh tráo khái niệm. Tất cả các chế độ độc tài, trong đó có chế độ hiện hành tại Việt Nam, đều tự xưng là dân chủ. Để chứng minh nền dân chủ giả vờ ấy, người ta cũng tổ chức bầu cử và cũng đề cao luật pháp. Nhưng bầu cử lại không gắn liền với quyền tự do ứng cử và vận động tranh cử. Hơn nữa, người dân chỉ được quyền bầu cử Quốc hội trong khi Quốc hội lại chỉ là bù nhìn, không có quyền lực gì độc lập cả. Còn cái gọi là “pháp quyền” (rule of law) thực chất chỉ là pháp trị (rule by law), ở đó, pháp luật được sử dụng như một thứ công cụ để trấn áp dân chúng và để lừa dối thế giới.
Thứ hai là độc quyền tuyên truyền. Từ thời đổi mới đến nay, chính quyền Việt Nam ít nhiều nới lỏng sự kềm kẹp, cho tư nhân hoá trong khá nhiều lãnh vực, nhưng về truyền thông, họ nhất định không nhượng bộ. Tất cả đều nằm trong tay nhà nước. Để dân chúng chỉ được tiếp nhận một nguồn tin duy nhất, một cách diễn dịch tin tức duy nhất. Ngay trong hệ thống truyền thông nằm trong tay họ, họ cũng áp dụng một chế độ kiểm duyệt rất khắc nghiệt. Những bài vở khác với chủ trương của họ bị cấm đoán. Những người họ xem là phản kháng hay có tinh thần phản biện mạnh mẽ, cho dù viết vu vơ, vẫn bị cấm đoán.
Để kết luận, chúng ta có thể nói độc tài “cứng” hay độc tài ”mềm”, độc tài có nhà độc tài hay không có nhà độc tài đều là độc tài. Tự bản chất, chúng không có gì khác nhau cả.
Tất cả đều là độc tài.
Nguyễn Hưng Quốc Hiện nay, không ai có thể chối cãi chính quyền Việt Nam là một chế độ độc tài. Tính chất độc tài ấy có ba biểu hiện chính: Thứ nhất, đó không phải chính quyền do dân bầu lên nên không thực sự là “do dân” hay “của dân”, và trên thực tế, nó cũng chẳng bao giờ “vì dân”; thứ hai, mặc dù Việt Nam tự xưng là một “nhà nước pháp quyền”, ở đó, có đầy đủ hiến pháp và luật pháp nhưng tất cả đều chỉ được sử dụng để trấn áp dân chúng, còn nhà cầm quyền thì ở ngoài và ở trên pháp luật; và cuối cùng, thứ ba, chính quyền Việt Nam tìm mọi cách để bóp nghẹt các quyền tự do căn bản của con người, từ tự do ngôn luận đến tự do biểu tình và tự do tham gia các hoạt động thuộc xã hội dân sự cũng như các hoạt động chính trị nằm ngoài khuôn khổ của chế độ.
Có điều, chế độ độc tài ở Việt Nam có một số đặc điểm nổi bật cần được nhận diện.
Thứ nhất, đó là một chế độ độc tài không có nhà độc tài, hoặc nếu có, diện mạo của các nhà độc tài ấy cũng rất mờ nhạt, không rõ nét.
Xin lưu ý là trên thế giới có ba loại độc tài chính: độc tài quân chủ, độc tài quân phiệt và độc tài đảng trị. Đằng sau cả ba loại độc tài ấy bao giờ cũng là một cái gì có tính chất tập thể: hoặc dòng dõi (loại đầu tiên) hoặc quân đội (loại thứ hai) hoặc đảng phái (loại thứ ba). Tuy nhiên, trên cái nền tập thể ấy thỉnh thoảng hiện lên những cá nhân thâu tóm toàn bộ quyền lực và hiện hình như những bạo chúa: Hitler ở Đức, Stalin ở Liên Xô, Augusto Pinochet ở Chile, Francisco Franco ở Tây Ban Nha, Saddam Hussein ở Iraq, Muammar Gaddafi ở Libya, v.v…
Với độc tài đảng trị của cộng sản, cũng có những cá nhân nổi bật như vậy: Lenin và Stalin ở Nga, Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Pol Pot ở Campuchia, anh em Castro ở Cuba và dòng họ Kim ở Bắc Hàn. Riêng ở Việt Nam, trước đây, Lê Duẩn cũng có thể được/bị xem là một nhà độc tài.
Tuy nhiên, sau Lê Duẩn thì khác. Quyền lực của các tổng bí thư, từ Trường Chinh đến Nông Đức Mạnh, càng ngày càng giảm sút. Đến Nguyễn Phú Trọng lại càng giảm. Trong khi đó, quyền lực của thủ tướng, đặc biệt của Nguyễn Tấn Dũng, càng lúc càng tăng. Nhưng tăng đến mấy thì vẫn không lấn át hẳn được tổng bí thư.
Cho nên có thể nói, trong ba người ở đỉnh cao quyền lực hiện nay, Nguyễn Phú Trọng, Trương Tấn Sang và Nguyễn Tấn Dũng, không ai xứng đáng với danh hiệu độc tài cả. Lý do là quyền lực của họ bị chia sẻ, mỗi người một ít, không có ai thực sự có toàn quyền để có thể tác oai tác quái. Bởi vậy có thể nói chế độ ở Việt Nam là một nền độc tài nhưng không có nhà độc tài (dictatorship without dictator). Đó chỉ là một guồng máy chứ không có mặt người.
Thứ hai, guồng máy độc tài ấy khá “mềm”. Chữ “mềm” ở đây tôi mượn từ bài “The New Dictators Rule by Velvet Fist” của Sergei Guriev và Daniel Treismanmay. Trong bài viết, hai tác giả này nêu lên hai luận điểm chính: Thứ nhất, trên thế giới hiện nay vẫn còn một số chế độ độc tài khát máu như ở Syria và Bắc Triều Tiên nhưng số lượng các nền độc tài tàn bạo như vậy càng lúc càng hiếm. Theo thống kê, vào năm 1982, 27% các quốc gia độc tài có dính líu đến các vụ giết người hàng loạt; năm 2012, con số ấy chỉ còn 6%. Thứ hai, hầu hết các nhà độc tài được chú ý lâu nay như Vladimir Putin ở Nga, Alberto Fujimori ở Peru, Recep Tayyip Erdogan ở Turkey, Mahathir Mohamad ở Malaysia, Hugo Chávez ở Venezuela, v.v… đều có bàn tay bọc nhung (velvet fist). Guriev và Treismanmay gọi đó là những nhà độc tài mềm (soft dictators).
Trong bài “Nhà nước khủng bố”, tôi nêu lên hiện tượng công an Việt Nam thường xuyên sử dụng nhục hình trong các cuộc điều tra dẫn đến chết người như một hình thức khủng bố nhằm làm tê liệt tinh thần phản kháng của dân chúng. Sự kiện ấy có thật và rất phổ biến. Tuy nhiên, nếu so với trước đây, với cảnh hàng chục ngàn người bị giết chết trong các cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc vào giữa thập niên 1950 cũng như hình thức trại cải tạo - nơi giam giữ hàng trăm ngàn người sau năm 1975, những sự khủng bố trong các trại tạm giam và tạm giữ hiện nay, tuy vẫn tàn bạo nhưng thành thực mà nói, thưa thớt và nhẹ nhàng hơn nhiều. Biểu hiện và mức độ khác nhau, nhưng bản chất của chế độ thì vẫn là một: độc tài. Một thứ độc tài “mềm”.
Cả độc tài “cứng” lẫn độc tài “mềm” đều sử dụng hai biện pháp chính để duy trì quyền lực: khủng bố và dối trá. Sự khác biệt căn bản giữa độc tài “cứng” và độc tài “mềm” nằm ở chỗ: với độc tài “cứng”, khủng bố là biện pháp chính; với độc tài “mềm”, dối trá là biện pháp chính. Xin lưu ý: ở đây chỉ có vấn đề chính hay phụ chứ không phải có cái này thì không có cái kia.
Tính chất khủng bố tại Việt Nam hiện nay có ba biểu hiện chính: Thứ nhất là tra tấn đến chết trong các đồn công an; thứ hai là dùng côn đồ hoặc công an giả dạng côn đồ để hành hung những người chống đối, thậm chí, những người chỉ chống đối… Trung Quốc và thứ ba, mang ra toà kết án tù với những lý do vu vơ kiểu trốn thuế hay lợi dụng tự do dân chủ.
Tính chất dối trá của các nhà độc tài “mềm” được thể hiện bằng hai biện pháp chính:
Thứ nhất là đánh tráo khái niệm. Tất cả các chế độ độc tài, trong đó có chế độ hiện hành tại Việt Nam, đều tự xưng là dân chủ. Để chứng minh nền dân chủ giả vờ ấy, người ta cũng tổ chức bầu cử và cũng đề cao luật pháp. Nhưng bầu cử lại không gắn liền với quyền tự do ứng cử và vận động tranh cử. Hơn nữa, người dân chỉ được quyền bầu cử Quốc hội trong khi Quốc hội lại chỉ là bù nhìn, không có quyền lực gì độc lập cả. Còn cái gọi là “pháp quyền” (rule of law) thực chất chỉ là pháp trị (rule by law), ở đó, pháp luật được sử dụng như một thứ công cụ để trấn áp dân chúng và để lừa dối thế giới.
Thứ hai là độc quyền tuyên truyền. Từ thời đổi mới đến nay, chính quyền Việt Nam ít nhiều nới lỏng sự kềm kẹp, cho tư nhân hoá trong khá nhiều lãnh vực, nhưng về truyền thông, họ nhất định không nhượng bộ. Tất cả đều nằm trong tay nhà nước. Để dân chúng chỉ được tiếp nhận một nguồn tin duy nhất, một cách diễn dịch tin tức duy nhất. Ngay trong hệ thống truyền thông nằm trong tay họ, họ cũng áp dụng một chế độ kiểm duyệt rất khắc nghiệt. Những bài vở khác với chủ trương của họ bị cấm đoán. Những người họ xem là phản kháng hay có tinh thần phản biện mạnh mẽ, cho dù viết vu vơ, vẫn bị cấm đoán.
Để kết luận, chúng ta có thể nói độc tài “cứng” hay độc tài ”mềm”, độc tài có nhà độc tài hay không có nhà độc tài đều là độc tài. Tự bản chất, chúng không có gì khác nhau cả.
Tất cả đều là độc tài.
CSVN Tính Già Hóa Non
Vi Anh Trong những nước Á châu Thái Bình dương bị TC xâm lấn, VNCS là nước bị nặng nhứt. Vấn đề CSVN không một hành động bảo vệ Biển Đông nào coi cho được là một đề tài làm cho dân chúng VN trong ngoài nước rất bất mãn Đảng Nhà Nước CSVN đang cầm quyền. Người thì lên án CSVN thông đồng với TC, mãi quốc cầu an, cầu vinh. Kẻ thì nói CSVN hèn với giặc ác với dân, sợ TC đến nỗi tàu TC cướp phá ngư phủ VN mà CSVN không dám nói đích danh tàu TQ, sợ phạm huý nên gọi la “tàu lạ”. Còn đối với dân thì ác tận cùng cây số. Bị TC “định hướng dư luận” cấm dân chúng biều tinh bày tỏ lòng yêu nước. Bị TC “định hướng ngoại giao”, ngay lúc TC chiếm cứ biển đảo, xây cất thành khu quân sự, Mỹ đưa tàu máy bay đến tuần tra Biển Đông hành lang của con đường hàng hải quốc tế, thì Chủ Tịch Nước Trương tấn Sang của CSVN khuyên các nước tự chế, tức mặc thị để cho TC chiếm cứ Biển Đông và hai đảo Hoàng sa và Trường sa của VN. Còn chuyện ruồi bu hơn nữa, là tại hội nghị Đối thoại Shangri-La, với 30 phái đoàn quốc phòng tham dự, một hội nghị về an nih quan trọng nhứt nhì của thế giới, suốt 3 ngày từ ngày 29 tới 31/5, tại Singapore, Tướng Nguyễn chí Vịnh, Trưởng Phái Đoàn của CSCN, nín khe không lên diễn đàn. Báo chí quốc tế thắc mắc, tin VOA tiếng nói chánh thức của chánh quyền Mỹ cho biết, Tướng Vịnh trả lời tại diễn đàn an ninh khu vực lần này “Việt Nam [CS] lắng nghe là chính, không phát biểu”.
Bên cạnh thái độ của CSVN trước sau như một đối xử với TC như thần tử đối với long nhan. Người ta thấy Đảng Nhà Nước CSVN cũng có cố gắng “phát triển họp tác toàn diện” với Mỹ, với Nhựt, phát triển tương quan quân sự với Ấn độ. Và đặc biệt mua vũ khí, máy bay, tàu lặn, tàu chiến, tăng cường hải quân với tiền hàng tỷ Mỹ kim.
Để một bên cảm tính xuất phát từ tình tự quốc gia dân tộc VN, một nạn nhân trầm trọng nhứt của TC, bên ngoài bị ngoại xâm, bên trong bị độc tài CS thống trị. Thử dùng lưởi dao trí tuệ lạnh lùng mổ xẻ, phân tích duy lý, xem coi CSVN có chiến thuật, chiến lược gì, dài hạn hay ngắn hạn đối phó với đà xâm lấn biển đảo của quốc gia dân tộc VN hay không.
Xin nhấn mạnh có chiến thuật, chiến lược, có phương tiện bảo vệ, phải hành động, chớ không hành động thì cũng như không hay còn tệ hơn không nữa; sách có câu mưu bất hoạch di hại. Thí dụ như xuất tiền hàng mấy chục tỷ Mỹ kim ra mua tàu chiến, tàu lặn, máy bay, hoả tiễn mà không hành động bảo vệ biển đảo, bảo vệ ngư dân, làm nhiệm vụ căn bản và tất yếu của chánh quyền là bảo quốc an dân, thì là hại nước hại dân, làm nghèo đất nước, kiệt quệ kinh tế tài chánh quốc gia mà thôi. Cho đến bây giờ người ta chưa thấy tàu hải quân, tàu cảnh sát biển nào của CSVN ra cứu ngư phủ VN khi bị tàu TC bắn giết, cướp giựt suốt mấy mùa đánh cá đông ken mà TC lại cấm ngay trên ngư trường của VN. Và trong cả chục năm rồi TC chiếm 90% Biển Đông, chiếm gần hết hai quần đảo Hoàng sa và Trường Sa mà chưa thấy hải quân, không quân, lực lượng bán quân sự như cảnh sát biển CSVN bắn một tiếng súng, tấn công trả đũa một tàu TC, trừ những lời tuyên bố sáo mòn chủ quyền của VN bay theo gió biển.
Phân tích những động tác ngoại giao và việc mua vũ khí với hàng tỷ Mỹ kim tiền thuế của dân chúng VN đóng, của Đảng Nhà Nước CSVN người ta thấy VN tính già hoá non, có tới bảy chiến lược, dùng nhiều chiến thuật tránh né, ứng phó thành ra thất sách, biển đảo càng ngày càng mất vào tay TC, càng ngày càng bị liên minh của Mỹ cho ra rìa, không trực tiếp giúp đỡ như giúp Phi luật tân, một nước bị TC chiếm cứ ít biển đảo hơn nhưng đâm đơn ra toà án quốc tế khiếu kiện TC.
Chiến lược cực đoan, cứng rắn của CSVN là tăng cường sự hiện diện lực lượng quân sự lẫn bán quân sự bảo vệ Biển Đông khi TC đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế VN. Đó là lần duy nhứt từ khi bị TC tấn công ở Trường sa năm 1988, lúc bây giờ Bộ Trưởng QP của VNCS Lê đức Anh không cho nổ súng. Khi TC chưa đánh, chưa bành trướng thì VNCS lập thêm từ 10 lên 21 đồn bót thường trực, trên đảo, dựng bia đá, cột móc trên Truờng sa. Năm 2007, di dân ra định cư ở đảo này biến thành cộng đồng VN trên đảo là cộng đồng đông dân nhứt trên đảo. Năm 2012, VNCS lập ra Hội Nghề Cá như một cơ quan kiểm soát ngư dân sau khi hải quân và cảnh sát biển được lịnh tăng cường tuần tra. Và sau khi TC đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế, thì CSVN đoàn ngũ hóa, võ trang ngư dân. CSVN xuất tiền tỷ Đô la mua vũ khí, 6 tàu lặn Kilo, và một số vũ khí của Nga chánh yếu là dành cho hải quân. Nhựt giúp ba tàu tuần cận duyên. Mỹ cũng giúp 18 triệu mua tàu. Ấn cho vay 100 triệu Đô cũng để mua tàu tăng cường cho hải quân VN.
Nhưng Đảng Nhà Nước hoàn toàn không có hành động bảo vệ Biển Đông nào, trừ vụ TC tung giàn khoan Hải Dương vào vùng đặc quyền kinh tế, VN. Cảnh sát biển VNCS chỉ theo đuôi phá đội hình tàu TC, chớ hoàn toàn tránh xung đột, chờ mật đàm với TC, và phản đối của quốc tế như là Mỹ.
Điều này cho thấy CSVN biết quân lực VNCS không thể ngăn chận TC. Nên CSVN dùng sách lược khác là gài độ cho các nước thứ ba can dự vào. Bằng cách liên minh hay liên doanh với khai thác với ExxonMobil của Mỹ, ONGC của Ấn độ, và Gazprom của Nga. Nhưng không thành công vì TC hăm dọa các công ty không tin CSVN có thể bảo vệ an ninh nên giải ước và rút lui.
CSVN tuyên bố mình làm bạn với tất cả và không liên minh với nước nào để chống lại một nước thứ ba để xác định với TC vị thế trung lập của CSVN. Sách lược này cho thấy CSVN tránh không liên minh với siêu cường nào, nhưng quốc tế hoá, đa phương hoá vấn đề Biển Đông. Cái kiểu này là cái kiểu người Mỹ nói bạn với mọi người là không có bạn với một người nào. Không ai dại gì đi làm mọi không công cho CSVN.
Vì vậy cho đến bây giờ chưa có nước nào thực sự giúp CSVN gìn giữ biển đảo, chớ đừng nói lấy lại biển đảo từ tay TC. Và nhiều lần Tổng Bí Thư Đảng CSVN sang triều kiến năn nỉ ỉ ôi TC, nhưng mỗi lần đi về là mỗi lần mất thêm biển đảo.
Kể cả Mỹ khi chuyển trục quân sự vế Á châu Thái bình dương để bao vây TC về quân sự và kinh tế, hầu hết các nước Á châu Thái bình dương tin Mỹ sẽ là lá chắn ngăn chận đà bành trướng của TC. Mỹ muốn lôi kéo VN để làm bể khối CS của ba chế độ CS còn sót lại ở A châu (TC, VNCS, CS Bắc Hàn). Có thế nói dành nhiều dễ dàng giúp VNCS về kinh tế, phát triển họp tác toàn diện và yểm trợ VN không ít trong vấn dề Biển Đông. Nhưng chứng nào tật nấy, cái bịnh CS chống Mỹ và thần phục TC của Đảng Nhà Nước không thay đổi. Hồi 30/4/2015, sau khi Tổng Bí Thư Nguyễn phú Trọng của Đảng CSVN cùng 1/3 bộ chánh trị và chánh phủ đi triểu kiến Tập cận Binh về, nhận lịnh định hướng ngoại giao không được xích lại gần Mỹ, thì Thủ Tướng Dũng người thường có những lời lẽ cứng rắn với hành động xâm lấn đảo VN, đâm ra trở cờ lên tiếng chửi Mỹ là dế quốc, là dã man và tri ơn Liên xô và TQ CS đã giúp CSVN đáng cho Mỹ cút, nguỵ nhào.
Cho đến bây giờ chưa thấy chánh quyền Mỹ chánh thức phản ứng hành dộng có tinh “cảm tính” này, nhưng trong chánh trị, ngoại giao những cái không nói ra công khai nhiều khi lợi hại trăm lần hơn lời tuyên bố. Chưa chắc gì lời TNS McCain, Chủ Tịch Uỷ ban Quân vụ Thượng Viện Mỹ kêu gọi bán vũ khí cho CSVN, và Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ Carter ghé Hà nội trên đường về sau hội nghị Shanbri La, tuyên bố giúp cho CSVN 18 triệu Đô để tăng gia Hải quân, là không có hậu ý. Hậu ý nghi ngờ, chia rẽ Hà Nội với Bắc Kinh. Như Mỹ mời Tổng Bí Thư Nguyễn phú Trọng của Đảng CSVN công du Mỹ, TC “ngửi” được nên mời Trọng sang triều kiến trước để định hướng ngoại giao không cho CSVN xích lại gần Mỹ.
Như hành động của Mỹ chống lại TC quân sự hoá, biến chuổi đảo bồi lắp ở Biển Đông thành khu quân sự và không phận thành khu nhận dạng phòng không, Mỹ cho máy bay, tàu tuần Mỹ xuất hiện, quả quyết là để bảo vệ tự do hàng hải, hàng không, chớ Mỹ không có một tiếng nhỏ to nào nói tới chủ quyền của VNCS trên vùng này.
Sách lược chót nhứt của CSVN không phải để đối ngoại về Biển Đông mà để đối nội, làm cho dân VN bớt bất mãn. CSVN biết nên một mặt có những lời tuyên bố sáo mòn về chủ quyền VN, nhưng không có một hành động cụ thể, bảo vệ nào coi cho đươc. CS có “ý đồ” hoá giải nỗi bất mãn đó của người dân, thỉnh thoảng giở nấp nồi sốt de bất mãn của dân, bằng Thủ Tướng Nguyễn tấn Dũng tuyên bố cứng rắn với TC. Thế mà TC cũng không chịu, ra lịnh cho Tổng bí Thư Đảng CSVN buộc TT Dũng phải trở trái làm mặt chửi mắng Mỹ hồi 30/4/2015./. (VA)
Kế hoạch độc chiếm biển Đông của Trung quốc
Việc quân đội Mỹ dự tính đưa máy bay và tàu Hải quân đến Biển Đông tuần tra là thách thức lớn
đối với hoạt động cải tạo các bãi đá Trung Quốc đang tiến hành.

Tàu chiến và tàu sân bay thuộc Hạm đội 7 của Mỹ hoạt động tại Thái Bình Dương (Ảnh AP) Theo Diplomat, sự hiện diện của máy bay và tàu Hải quân Mỹ trong khu vực lãnh hải 12 hải lý mà Trung Quốc dự định thiết lập trên các bãi đá mà nước này đang tiến hành cải tạo thành các đảo nhân tạo, có thể sẽ khiến những tuyên bố mang tính “pháp lý” của Trung Quốc trở nên vô giá trị.
Trung Quốc gặp khó ngay từ quy định của UNCLOS
Mặc dù vậy, nhiều chuyên gia cho rằng, chưa cần đến sự hiện diện của Mỹ tại đây, thì theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS 1982), những bãi đá mà Trung Quốc mà tiến hành cải tạo sẽ không giúp nước này có thể tuyên bố chủ quyền trên biển tại đây.
Theo khoản 8 Điều 60 của UNCLOS: “Các đảo nhân tạo và các công trình được xây dựng trên đó sẽ không được công nhận là đảo thông thường. Các đảo này sẽ không có vùng lãnh hải riêng của mình và sự hiện diện của các đảo này sẽ không có vai trò gì với việc phân giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Các tàu và máy bay quân sự của Mỹ hoàn toàn có thể vận dụng điều khoản trên. Theo đó, các tàu Hải quân của Mỹ sẽ được điều vào khu vực 12 hải lý của một trong các bãi đá đó nhằm thể hiện rằng, Mỹ không công nhận các bãi đá mà Trung Quốc cải tạo là các đảo để Trung Quốc có thể tuyên bố chủ quyền và thiết lập lãnh hải 12 hải lý tại đó.
Điều này được cho là sẽ gây khó cho Trung Quốc bởi nếu tuyên bố các tàu Hải quân Mỹ vi phạm lãnh hải, nước này sẽ công nhiên công nhận mình có quyền thiết lập lãnh hải 12 hải lý trên các bãi đá nói trên. Tuy nhiên, nếu làm như vậy, trong mắt cộng đồng quốc tế, Trung Quốc rõ ràng đang bất chấp luật pháp quốc tế.
Trong trường hợp Trung Quốc chọn cách “im lặng”, điều đó có thể được hiểu rằng Trung Quốc chấp thuận “nhún mình” trước thách thức trực tiếp từ phía Mỹ về tính pháp lý liên quan đến hoạt động cải tạo các bãi đá của mình.
Mỹ sẽ dồn ép Trung Quốc đến đâu?
Trong khi đó, Mỹ sẽ tuyên bố, nước này đang tuân thủ luật pháp quốc tế và sẵn sàng hành động chứ không chỉ nói suông và đẩy Bắc Kinh vào thế buộc phải có những phản ứng đáp trả.
Dĩ nhiên, nếu làm như vậy, Mỹ cũng gặp không ít khó khăn và phải chấp nhận cả “rủi ro” nếu “lỡ” dồn ép Trung Quốc một cách quá đà.
Chính vì vậy, Washington sẽ phải thận trọng để đảm bảo rằng, những tuyên bố của phía Mỹ chỉ nhằm vào những bãi đá mà Trung Quốc đang cải tạo trái phép và tránh những khu vực khác, nơi tính pháp lý của việc Trung Quốc tuyên bố chủ quyền vẫn còn chưa rõ ràng.

Hình ảnh vệ tinh cho thấy hoạt động cải tạo bãi Vành Khăn của Trung Quốc (Ảnh AP) Ngoài ra, việc đưa tàu Hải quân Mỹ đến gần các bãi đá mà Trung Quốc đang cải tạo có thể khiến hai nước nôn nóng đưa ra “những tính toán sai lầm” khiến tàu và máy bay quân sự của hai nước có thể đụng độ nhau.
Các chuyên gia cho rằng, dù sẵn sàng chấp nhận rủi ro này, Mỹ cũng “thừa khôn ngoan” để hiểu rằng, hậu quả của việc hai bên va chạm với nhau là “khôn lường”.
Trung Quốc chấp nhận phớt lờ luật pháp quốc tế?
Trên thực tế, các máy bay quân đội Mỹ dù bay bên ngoài khu vực 12 hải lý tại các bãi đá mà Trung Quốc tiến hành cải tạo, đã gây ra sự chú ý của giới chức quân sự Trung Quốc và bị tố rằng, những máy bay này đang tiếp cận vùng lãnh hải của Trung Quốc.
Không những thế, phía Trung Quốc đã từng lên tiếng tuyên bố, sẵn sàng bảo vệ chủ quyền của mình và cảnh báo các nước khác “đừng nên mạo hiểm hoặc có những hành động khiêu khích với Trung Quốc”.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng có thể “phớt lờ” dự định của phía Mỹ và ra một tuyên bố hết sức chung chung cáo buộc Mỹ gây bất ổn trên Biển Đông trong khi vẫn cứ tiến hành các hoạt động cải tạo các bãi đá của mình.
Hơn thế nữa, dù Trung Quốc không được thừa nhận về mặt pháp lý trong hoạt động cải tạo rầm rộ các bãi đá của mình, nước này vẫn sẽ bất chấp luật pháp quốc tế và đơn phương thay đổi hiện trạng trên Biển Đông nhằm phục vụ cho lợi ích của nước này cũng như tăng cường sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại đây.
Điều này đã từng xảy ra trước đây, khi Trung Quốc tuyên bố không tham gia vụ kiện do Philippines khởi xướng lên Tòa án Trọng tài Quốc tế ở La Hay, Hà Lan với cáo buộc “đường 9 đoạn” mà Trung Quốc tuyên bố thiết lập trên hầu khắp Biển Đông là vô giá trị
Tư lệnh cấp cao thứ nhì của hải quân Mỹ yêu cầu Trung Quốc giải thích về hoạt động cải tạo đất đá ở Biển Đông và đề nghị ủng hộ các nước Đông Nam Á nếu họ chọn một lập trường thống nhất chống lại Bắc Kinh.
•Những vụ 'chạm trán' quân sự Mỹ - Trung / Mỹ: Nguy cơ quân sự hóa đảo nhân tạo của Trung Quốc gây bất ổn Biển Đông

Đô đốc Michelle Howard, Phó tư lệnh tác chiến của hải quân Mỹ. Ảnh: Defensenews
"Tôi nghĩ bây giờ, đã đến lúc Trung Quốc nói việc cải tạo đất nghĩa là gì", Đô đốc Michelle Howard, Phó tư lệnh tác chiến của hải quân Mỹ, hôm qua nói trong một cuộc phỏng vấn. "Theo quan điểm của tôi, chẳng ai nói họ đang xây khu nghỉ dưỡng ở đó cả, vì vậy ai đó cần giải thích họ đang dựng cái gì ở đó", bà cho biết.
Nữ đô đốc hôm qua trình bày quan điểm về các vấn đề an ninh hàng hải khu vực, tại Triển lãm Phòng vệ Biển Quốc tế (IMDEX) được tổ chức ở Singapore.
Bà Howard cũng cho hay Mỹ sẽ sát cánh cùng các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nếu 10 nước thành viên quyết định phối hợp cùng nhau để làm việc với Trung Quốc. "Nếu các nước ASEAN quyết định là sẽ đoàn kết và làm điều gì đó để thể hiện mục đích chung của họ, chúng tôi sẽ ủng hộ điều đó", bà Howard nói.
Các Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng Trung Quốc chưa có bình luận về tuyên bố của Đô đốc Howard.
Theo ước tính của Mỹ, Trung Quốc năm nay bồi đắp thêm hơn 800 ha đối với các bãi đá mà nước này chiếm giữ trái phép ở quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Washington đang cân nhắc triển khai máy bay hoặc tàu quân sự đến gần các khu vực này, một động thái Bắc Kinh giận dữ. Mỹ tuyên bố không đứng về bên nào trong tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, nhưng có lợi ích trong việc duy trì tự do đi lại ở khu vực.
Trọng Giáp
(Theo Wall Street Journal)
Chu Vĩnh Khang, 'con mồi' lớn nhất bị 'hạ' ở Trung Quốc
Hà Tường Cát
Người Việt (tổng hợp)
Hôm Thứ Năm, Tân Hoa Xã loan tin Chu Vĩnh Khang, cựu ủy viên thường vụ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc, bộ trưởng công an
từ 2002 đến 2007, bí thư ủy ban chính trị pháp luật từ 2007 đến 2012, bị kết án tù chung thân vì những tộ danh tham nhũng và làm lộ bí mật nhà nước.

Ông Chu Vĩnh Khang nghe tòa tuyên án ở Thiên Tân hôm Thứ Năm. (Hình: AFP/Getty Images)
Bản tin này cũng cho biết Chu nhận tội tại một phiên xử kín ở tòa án Thiên Tân và tuyên bố không kháng cáo. Trước đây chỉ có tin Chu bị xét xử từ ngày 22 tháng 5 tiếp theo quyết định chính thức truy tố hồi tháng 4 sau cuộc điều tra kéo dài 9 tháng và không có chi tiết gì khác được công bố về phiên tòa. Như vậy Chu là một trong những nhân vật từng có quyền lực nhất bị thanh trừng trong cái mà mọi người được biết là chiến dịch diệt trừ tham nhũng của chủ tịch Tập Cận Bình.
Chu Vĩnh Khang, 72 tuổi, quê ở Vô Tích tỉnh Giang Tô, gia nhập đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1964. Nghề nghiệp của ông là kỹ sư dầu khí, chuyên về khảo sát và thăm dò địa chất. Hoạt động trong ngành này Chu đã lên tới các chức vụ thứ trưởng công nghiệp dầu khí, Tổng giám đốc tập đoàn dầu khí quốc gia – công ty năng lượng lớn nhất Trung Quốc. Năm 1999, Chu là bí thư đảng ủy tỉnh Tứ Xuyên.
Sau khi người vợ đầu tiên chết trong một tai nạn giao thông có nhiều bí ẩn, Chu lấy cháu gái của chủ tịch Giang Trạch Dân và là một trong những người tích cực tham gia vào việc đàn áp phong trào Pháp Luân Công. Thành tích này khiến Chu được thăng chức bộ trưởng công an và đảm nhiệm vị trí Trưởng Phòng 610, cơ quan bí mật do Giang Trạch Dân lập ra với mục đích đàn áp diệt trừ Pháp Luân Công cả trong và ngoài nước. Chu đã bị kiện ở 10 quốc gia vì vai trò trong vụ Pháp Luân Công.
Truyền thông Trung Quốc đầu năm nay tố cáo Chu Vĩnh Khang đã "kết bè kéo cánh" với Bạc Hy Lai, chính trị gia cao cấp của Trung Quốc "ngã ngựa" trong những năm gần đây, Tờ China Daily cho hay hai cựu quan chức đã "xây dựng bè phái chính trị" và tuyên bố "chơi một trận lớn". Chu và Bạc được cho là từng tổ chức một cuộc họp bí mật, trong đó họ chủ trương "điều chỉnh" chính sách cải cách và mở cửa của cố lãnh đạo Đặng Tiểu Bình vào những năm 1970.
Bài báo cũng cho biết Chu Vĩnh Khang có kế hoạch lật ngược quy định các ủy viên Bộ Chính trị từ 68 tuổi trở lên không được tái cử, nhằm tiếp tục duy trì quyền lực. Theo đó, Chu sẽ giữ chức Ủy viên trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc (Quốc hội). Chu còn dốc toàn lực cài cắm thân tin khắp nới, gây ra phản ứng tiêu cực trong toàn đảng Cộng sản Trung Quốc.
Năm 2012, Chu được cho là đã báo với Bạc về việc giám đốc công an Trùng Khánh Vương Lập Quân, "cánh tay phải" của Bạc, đang tị nạn trong lãnh sứ quán Mỹ tại Thành Đô. Từ đây, vụ bê bối liên quan đến Bạc Hy Lai vỡ lở.
Dư luận tin rằng toàn bộ những diễn biến trong nội bộ đảng Cộng Sản Trung Quốc gần đây là sự đấu tranh quyền lực giữa hai phe Tập Cận Bình và Bạc Hy Lai, một ngôi sao trên chính trường Trung Quốc và được dự đoán sẽ nắm giữ vị trí quan trọng hơn trong cuộc chuyển giao quyền lực ở Trung Quốc năm 2012. Tháng 9 năm 2013, Bạc bị kết án chung thân vì các tội nhận hối lộ, tham nhũng và lạm quyền, đồng thời dính líu đến vụ án giết người của vợ.
Đầu năm nay, sau khi Chu Vĩnh Khang đã bị điều tra và bắt giữ, Ủy ban trung ương đảng qua một cuộc họp do chủ tịch Tập Cận Bình chủ trì, đưa ra một tuyên bố cảnh báo tư tưởng bè phái, nói rằng "Các thành viên của đảng cần ưu tiên thực hiện các nguyên tắc của đảng, và đảng sẽ không khoan nhượng trước những bè phái, phe phái trong nội bộ". Một bài viết trên truyền thông nhà nước Trung Quốc tiếp đó liệt kê các bè phái của những quan chức tham nhũng, trong đó có nhóm quan chức ngành dầu khí nhiều quyền lực mà Chu Vĩnh Khang từng đóng vai trò chủ chốt.
Tờ South China Morning Post dẫn lời một giới chức Tứ Xuyên, cho rằng sự dính líu lâu dài của Chu Vĩnh Khang, đã tạo nên "môi trường xấu", gây hàng loạt các vụ tham nhũng ở tỉnh này và khiến Tứ Xuyên trở thành một "trường hợp đặc biệt" trong chiến dịch chống tham nhũng trên khắp Trung Quốc. Tứ Xuyên, Giang Tây và Sơn Tây là các tỉnh bị ảnh hưởng mạnh nhất trong chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" do Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề ra cuối năm 2012. Từ 2012, Trung Quốc đã trừng phạt gần 28.000 quan chức, gồm các cán bộ của 60 thành phố và cấp cục, vụ, và hơn 24,000 trường hợp vi phạm nguyên tắc của đảng Cộng sản Trung Quốc bị điều tra.
Chu Vĩnh Khang chính thức bị điều tra tháng 7 năm ngoái, tới tháng 1 năm nay vụ án Chu Vĩnh Khang và 29 quan chức cấp cao khác được chuyển sang cơ quan công tố, chuẩn bị xét xử. Chu được coi là đã phát huy ảnh hưởng của mình trong nhiều thập kỷ. Con trai ông là Chu Bân, tham gia một số dự án kinh doanh ở Tứ Xuyên và có sự cộng tác với các quan chức địa phương.
Một số cán bộ cấp cao của Tứ Xuyên và các tỉnh khác cũng bị liên đới, như Lý Sùng Hy, cựu chủ tịch Ủy ban chính hiệp Tứ Xuyên, Quách Vĩnh Tường, cựu Phó tỉnh trưởng Tứ Xuyên, cựu bí thư Thành Đô Lý Xuân Thành và cựu phó chủ tịch Hải Nam Đàm Lực.
Chu Vĩnh Khang còn được cho là đã lợi dụng vị trí của mình để theo dõi nhiều lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc, trong đó có Chủ tịch Tập Cận Bình. Bloomberg dẫn tin từ hai giới chức điều tra cho biết Chu "đã lợi dụng việc nghe lén điện thoại và những phương pháp khác để thu thập thông tin về tài sản gia đình, cuộc sống cá nhân và quan điểm chính trị của các lãnh đạo Trung Quốc". Ông cũng sử dụng Lương Khắc, cựu cục trưởng Cục An ninh Nhà nước Bắc Kinh, để lấy thông tin về các lãnh đạo đảng.
Chu Vĩnh Khang là quan chức cấp cao nhất bị truy tố các tội danh tham nhũng và nhận hối lộ kể từ những năm 1980, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc tuyên bố Chu và 28 quan chức cấp cao khác sẽ được xét xử "công khai theo pháp luật". Tuy nhiên cuối cùng Chu chỉ được xử trong phiên tòa họp kín ở Thiên Tân. Một đoạn video ngắn được đưa lên truyền hình CCTV cho thấy Chu Vĩnh Khang tuyên bố nhận tội và không kháng cáo.
Đứng giữa hai công an dìu lên trước vành móng ngựa, người ta thấy Chu đầu tóc bạc trắng, sự thay đổi nhanh chóng chỉ trong vòng một năm ở con người đầy uy quyền và tiền bạc một thời bây giờ thất thế.
Hà Tường Cát
Người Việt (tổng hợp)
Hôm Thứ Năm, Tân Hoa Xã loan tin Chu Vĩnh Khang, cựu ủy viên thường vụ Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Trung Quốc, bộ trưởng công an
từ 2002 đến 2007, bí thư ủy ban chính trị pháp luật từ 2007 đến 2012, bị kết án tù chung thân vì những tộ danh tham nhũng và làm lộ bí mật nhà nước.

Ông Chu Vĩnh Khang nghe tòa tuyên án ở Thiên Tân hôm Thứ Năm. (Hình: AFP/Getty Images)
Bản tin này cũng cho biết Chu nhận tội tại một phiên xử kín ở tòa án Thiên Tân và tuyên bố không kháng cáo. Trước đây chỉ có tin Chu bị xét xử từ ngày 22 tháng 5 tiếp theo quyết định chính thức truy tố hồi tháng 4 sau cuộc điều tra kéo dài 9 tháng và không có chi tiết gì khác được công bố về phiên tòa. Như vậy Chu là một trong những nhân vật từng có quyền lực nhất bị thanh trừng trong cái mà mọi người được biết là chiến dịch diệt trừ tham nhũng của chủ tịch Tập Cận Bình.
Chu Vĩnh Khang, 72 tuổi, quê ở Vô Tích tỉnh Giang Tô, gia nhập đảng Cộng Sản Trung Quốc năm 1964. Nghề nghiệp của ông là kỹ sư dầu khí, chuyên về khảo sát và thăm dò địa chất. Hoạt động trong ngành này Chu đã lên tới các chức vụ thứ trưởng công nghiệp dầu khí, Tổng giám đốc tập đoàn dầu khí quốc gia – công ty năng lượng lớn nhất Trung Quốc. Năm 1999, Chu là bí thư đảng ủy tỉnh Tứ Xuyên.
Sau khi người vợ đầu tiên chết trong một tai nạn giao thông có nhiều bí ẩn, Chu lấy cháu gái của chủ tịch Giang Trạch Dân và là một trong những người tích cực tham gia vào việc đàn áp phong trào Pháp Luân Công. Thành tích này khiến Chu được thăng chức bộ trưởng công an và đảm nhiệm vị trí Trưởng Phòng 610, cơ quan bí mật do Giang Trạch Dân lập ra với mục đích đàn áp diệt trừ Pháp Luân Công cả trong và ngoài nước. Chu đã bị kiện ở 10 quốc gia vì vai trò trong vụ Pháp Luân Công.
Truyền thông Trung Quốc đầu năm nay tố cáo Chu Vĩnh Khang đã "kết bè kéo cánh" với Bạc Hy Lai, chính trị gia cao cấp của Trung Quốc "ngã ngựa" trong những năm gần đây, Tờ China Daily cho hay hai cựu quan chức đã "xây dựng bè phái chính trị" và tuyên bố "chơi một trận lớn". Chu và Bạc được cho là từng tổ chức một cuộc họp bí mật, trong đó họ chủ trương "điều chỉnh" chính sách cải cách và mở cửa của cố lãnh đạo Đặng Tiểu Bình vào những năm 1970.
Bài báo cũng cho biết Chu Vĩnh Khang có kế hoạch lật ngược quy định các ủy viên Bộ Chính trị từ 68 tuổi trở lên không được tái cử, nhằm tiếp tục duy trì quyền lực. Theo đó, Chu sẽ giữ chức Ủy viên trưởng Ủy ban thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân toàn quốc (Quốc hội). Chu còn dốc toàn lực cài cắm thân tin khắp nới, gây ra phản ứng tiêu cực trong toàn đảng Cộng sản Trung Quốc.
Năm 2012, Chu được cho là đã báo với Bạc về việc giám đốc công an Trùng Khánh Vương Lập Quân, "cánh tay phải" của Bạc, đang tị nạn trong lãnh sứ quán Mỹ tại Thành Đô. Từ đây, vụ bê bối liên quan đến Bạc Hy Lai vỡ lở.
Dư luận tin rằng toàn bộ những diễn biến trong nội bộ đảng Cộng Sản Trung Quốc gần đây là sự đấu tranh quyền lực giữa hai phe Tập Cận Bình và Bạc Hy Lai, một ngôi sao trên chính trường Trung Quốc và được dự đoán sẽ nắm giữ vị trí quan trọng hơn trong cuộc chuyển giao quyền lực ở Trung Quốc năm 2012. Tháng 9 năm 2013, Bạc bị kết án chung thân vì các tội nhận hối lộ, tham nhũng và lạm quyền, đồng thời dính líu đến vụ án giết người của vợ.
Đầu năm nay, sau khi Chu Vĩnh Khang đã bị điều tra và bắt giữ, Ủy ban trung ương đảng qua một cuộc họp do chủ tịch Tập Cận Bình chủ trì, đưa ra một tuyên bố cảnh báo tư tưởng bè phái, nói rằng "Các thành viên của đảng cần ưu tiên thực hiện các nguyên tắc của đảng, và đảng sẽ không khoan nhượng trước những bè phái, phe phái trong nội bộ". Một bài viết trên truyền thông nhà nước Trung Quốc tiếp đó liệt kê các bè phái của những quan chức tham nhũng, trong đó có nhóm quan chức ngành dầu khí nhiều quyền lực mà Chu Vĩnh Khang từng đóng vai trò chủ chốt.
Tờ South China Morning Post dẫn lời một giới chức Tứ Xuyên, cho rằng sự dính líu lâu dài của Chu Vĩnh Khang, đã tạo nên "môi trường xấu", gây hàng loạt các vụ tham nhũng ở tỉnh này và khiến Tứ Xuyên trở thành một "trường hợp đặc biệt" trong chiến dịch chống tham nhũng trên khắp Trung Quốc. Tứ Xuyên, Giang Tây và Sơn Tây là các tỉnh bị ảnh hưởng mạnh nhất trong chiến dịch "đả hổ diệt ruồi" do Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đề ra cuối năm 2012. Từ 2012, Trung Quốc đã trừng phạt gần 28.000 quan chức, gồm các cán bộ của 60 thành phố và cấp cục, vụ, và hơn 24,000 trường hợp vi phạm nguyên tắc của đảng Cộng sản Trung Quốc bị điều tra.
Chu Vĩnh Khang chính thức bị điều tra tháng 7 năm ngoái, tới tháng 1 năm nay vụ án Chu Vĩnh Khang và 29 quan chức cấp cao khác được chuyển sang cơ quan công tố, chuẩn bị xét xử. Chu được coi là đã phát huy ảnh hưởng của mình trong nhiều thập kỷ. Con trai ông là Chu Bân, tham gia một số dự án kinh doanh ở Tứ Xuyên và có sự cộng tác với các quan chức địa phương.
Một số cán bộ cấp cao của Tứ Xuyên và các tỉnh khác cũng bị liên đới, như Lý Sùng Hy, cựu chủ tịch Ủy ban chính hiệp Tứ Xuyên, Quách Vĩnh Tường, cựu Phó tỉnh trưởng Tứ Xuyên, cựu bí thư Thành Đô Lý Xuân Thành và cựu phó chủ tịch Hải Nam Đàm Lực.
Chu Vĩnh Khang còn được cho là đã lợi dụng vị trí của mình để theo dõi nhiều lãnh đạo hàng đầu của Trung Quốc, trong đó có Chủ tịch Tập Cận Bình. Bloomberg dẫn tin từ hai giới chức điều tra cho biết Chu "đã lợi dụng việc nghe lén điện thoại và những phương pháp khác để thu thập thông tin về tài sản gia đình, cuộc sống cá nhân và quan điểm chính trị của các lãnh đạo Trung Quốc". Ông cũng sử dụng Lương Khắc, cựu cục trưởng Cục An ninh Nhà nước Bắc Kinh, để lấy thông tin về các lãnh đạo đảng.
Chu Vĩnh Khang là quan chức cấp cao nhất bị truy tố các tội danh tham nhũng và nhận hối lộ kể từ những năm 1980, Tòa án nhân dân tối cao Trung Quốc tuyên bố Chu và 28 quan chức cấp cao khác sẽ được xét xử "công khai theo pháp luật". Tuy nhiên cuối cùng Chu chỉ được xử trong phiên tòa họp kín ở Thiên Tân. Một đoạn video ngắn được đưa lên truyền hình CCTV cho thấy Chu Vĩnh Khang tuyên bố nhận tội và không kháng cáo.
Đứng giữa hai công an dìu lên trước vành móng ngựa, người ta thấy Chu đầu tóc bạc trắng, sự thay đổi nhanh chóng chỉ trong vòng một năm ở con người đầy uy quyền và tiền bạc một thời bây giờ thất thế.
Ba kịch bản trên Biển Đông
Nguyễn Hưng Quốc

Chiến đấu cơ F/A-18 Hornet của Hải quân Mỹ cất cánh từ tàu sân bay USS Nimitz trong một cuộc tuần tra ở Biển Đông.
Mấy tuần vừa qua, Mỹ liên tục lên án gay gắt việc Trung Quốc bồi đắp và xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và kêu gọi Trung Quốc ngừng ngay tức khắc những hành động mà họ cho là phi pháp, khiêu khích và nguy hiểm ấy. Mặc kệ, Trung Quốc vẫn tiếp tục xây dựng, thậm chí còn đặt cả mấy khẩu pháo trên những hòn đảo nhân tạo ấy. Chuyện gì sẽ xảy ra trên Biển Đông?
Theo tôi, sẽ có một trong ba kịch bản sau đây:
Thứ nhất, Biển Đông sẽ châm ngòi cho cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ.
Điều này, thật ra, đã có nhiều người nói đến từ lâu. Một số học giả đưa ra các lý do khiến Trung Quốc sẵn sàng mở một cuộc chiến tranh với Mỹ, trong đó, có ba lý do chính: Một, là một nước có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, Trung Quốc cần khẳng định vị thế siêu cường của mình, ít nhất là trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và sự khẳng định ấy chỉ có thể thực hiện được qua chiến tranh. Hai, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc hiện nay đã bắt đầu khựng lại, sự phân hoá giàu nghèo càng ngày càng trở nên to lớn, sự bất mãn của dân chúng càng ngày càng sâu sắc, xu hướng đòi hỏi dân chủ càng ngày càng mạnh mẽ, Trung Quốc cần một cuộc chiến tranh để nâng cao chủ nghĩa quốc gia, thống nhất lòng dân và dập tắt mọi ngọn lửa phản kháng, từ đó, duy trì sự thống trị của đảng Cộng sản. Ba, để tiếp tục phát triển, Trung Quốc rất cần nhiên liệu mà Biển Đông, theo họ, là nguồn chứa dầu khí thuộc loại lớn nhất thế giới, do đó, họ xem việc chiếm cứ Biển Đông là một “lợi ích cốt lõi”, không thể nhân nhượng, ngay cả khi họ phải trực tiếp đối đầu với Mỹ.
Về phía Mỹ, có nhiều lý do để họ ngại một cuộc đối đầu quân sự như vậy. Chiến tranh ở Afghanistan và Iraq chưa chấm dứt. Tình hình chính sự ở Trung Đông vẫn còn ngổn ngang. Dân chúng Mỹ đã bắt đầu mệt mỏi với việc can thiệp ở nước ngoài. Tổng thống Barack Obama chỉ còn một năm rưỡi nữa là hết nhiệm kỳ, chắc chắn ông không muốn tham dự vào một cuộc phiêu lưu mới đầy bất trắc. Tổng thống kế tiếp cũng chắc không muốn mở đầu một nhiệm kỳ bằng chiến tranh. Đó là chưa kể kinh tế Mỹ, một mặt, vẫn chưa hồi phục hẳn; mặt khác, có quan hệ chặt chẽ với kinh tế Trung Quốc. Chỉ có hai lý do có thể khiến Mỹ vượt qua tất cả những sự khó khăn và trở ngại ấy: Một, Trung Quốc quyết định khống chế hoàn toàn con đường hàng hải đi ngang qua Biển Đông; và hai, Trung Quốc nổ súng trước vào máy bay hay chiến hạm của Mỹ.
Chuyện Trung Quốc nổ súng trước không phải không có khả năng xảy ra. Nó có thể xảy ra một cách cố ý với một sự tính toán rõ rệt từ nhà cầm quyền Trung Quốc nhưng cũng có thể xảy ra một cách ngẫu nhiên và bất ngờ, hay nói theo giáo sư Michael Auslin, như “một tai nạn” khi máy bay hoặc chiến hạm hai bên đụng vào nhau gây ra thương vong, từ đó, dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ từ cả hai phía và hậu quả là chiến tranh sẽ bùng nổ.
Một cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc chắc chắn sẽ vô cùng khốc liệt và rất dễ dẫn đến nguy cơ lan rộng thành chiến tranh thế giới, và đặc biệt, chiến tranh hạt nhân. Viễn cảnh ấy chắc chắn sẽ làm chột dạ mọi người. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có thể khẳng định vị thế siêu cường trong khu vực của mình bằng một cuộc chiến tranh khác, ví dụ, chiến tranh với một nước đang tranh chấp nào đó. Đó là những nước nào? Có ba nước tranh chấp biển và đảo quyết liệt nhất với Trung Quốc: Nhật Bản, Philippines và Việt Nam. Trong ba nước ấy, mạnh nhất là Nhật Bản. Về quân sự, trừ vũ khí hạt nhân, có khi Nhật Bản còn mạnh hơn cả Trung Quốc. Hơn nữa, sau Nhật Bản là Mỹ. Có lẽ Trung Quốc sẽ không phiêu lưu vào cái nơi nguy hiểm và không nắm chắc phần thắng ấy. Nước yếu nhất là Philippines. Nhưng Philippines lại có liên minh về quốc phòng với Mỹ. Nếu Trung Quốc muốn tránh đương đầu với Mỹ, họ cũng sẽ không gây chiến với Philippines. Chỉ còn lại Việt Nam là vừa yếu vừa thân cô thế cô, dễ đánh nhất. Bởi vậy, chúng ta có kịch bản thứ hai: Chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong bài “Why A War Between China And Vietnam Is Inevitable” đăng trên tờ Business Insider vào tháng 7 năm 2011, Dee Woo cho chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam là chuyện không thể tránh khỏi. Ông cho cuộc chiến tranh ấy phục vụ lợi ích của chính quyền ở cả hai nước: Trung Quốc thì muốn chiếm trọn Trường Sa và, từ đó, Biển Đông, còn Việt Nam thì muốn làm lệch hướng sự quan tâm của dân chúng để không ai còn lên án những thất bại thảm hại về phương diện kinh tế và xã hội của nhà cầm quyền. Nhưng Dee Woo lại vẽ nên một viễn cảnh thê thảm của Việt Nam: sau khi tấn công cả trên biển lẫn trên đất liền, Trung Quốc sẽ phá huỷ toàn bộ các cơ sở hạ tầng của Việt Nam rồi rút về, để lại ở Việt Nam một cảnh tan hoang và thậm chí, nội chiến triền miên cả nửa thế kỷ sau cũng chưa chắc đã hồi phục được.
Viễn cảnh ấy, tuy bi quan, nhưng không có gì quá đáng. Tương quan lực lượng của Việt Nam và Trung Quốc hiện nay khác xa với thời chiến tranh biên giới vào năm 1979. Trung Quốc không những giàu hơn về kinh tế mà còn có kho vũ khí, khi tài cũng như các phương tiện phục vụ chiến tranh dồi dào và tối tân hơn Việt Nam cả mấy chục lần. Việt Nam có đổ thêm bao nhiêu tiền để mua sắm vũ khí thì cũng không thể nào bắt kịp được Trung Quốc. Hơn nữa, cần lưu ý: Đánh nhau trên bộ người ta còn có thể sử dụng chiến thuật du kích và huy động chiến tranh nhân dân nhưng trên mặt biển, yếu tố quyết định nhất vẫn là vũ khí và kỹ thuật. Thua vũ khí và thua kỹ thuật là thua hẳn cuộc chiến. Chắc chắn chính quyền Việt Nam biết rõ điều đó nên họ vẫn tiếp tục chịu đựng và nhân nhượng. Nếu sách lược này kéo dài mãi, chúng ta sẽ có kịch bản thứ ba: Trung Quốc bất chiến tự nhiên thành.
Nên nhớ một trong những sách lược chính của Trung Quốc ở Biển Đông là sách lược tằm ăn dâu (salami slicing). Họ cứ lấn dần dần. Lấn đến cỡ nào Việt Nam cũng nhịn, đến một lúc nào đó, tất cả những gì họ muốn đều biến thành hiện thực. Họ tuyên bố về đường lưỡi bò bao trùm lên 80% diện tích Biển Đông của Việt Nam: Việt Nam nhịn. Họ đem giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam: Việt Nam nhịn. Họ tái tạo bãi đá ngầm thành đảo nhân tạo: Việt Nam nhịn. Một lúc nào đó, họ tuyên bố thành lập vùng nhận dạng hàng không: Việt Nam lại nhịn. Thậm chí, họ có thể chiếm nốt các hòn đảo khác ở Trường Sa: Việt Nam cũng vẫn tiếp tục nhịn. Đến lúc đó, thực tình họ chả cần đánh nhau với Việt Nam làm gì: Họ đã có tất cả những gì họ muốn. Và đến lúc ấy, mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc không còn nữa. Chỉ còn mâu thuẫn trong nội bộ Việt Nam: giữa nhân dân và một chính quyền bất lực, nhu nhược và đớn hèn.
Nguyễn Hưng Quốc

Chiến đấu cơ F/A-18 Hornet của Hải quân Mỹ cất cánh từ tàu sân bay USS Nimitz trong một cuộc tuần tra ở Biển Đông.
Mấy tuần vừa qua, Mỹ liên tục lên án gay gắt việc Trung Quốc bồi đắp và xây dựng các đảo nhân tạo ở Trường Sa và kêu gọi Trung Quốc ngừng ngay tức khắc những hành động mà họ cho là phi pháp, khiêu khích và nguy hiểm ấy. Mặc kệ, Trung Quốc vẫn tiếp tục xây dựng, thậm chí còn đặt cả mấy khẩu pháo trên những hòn đảo nhân tạo ấy. Chuyện gì sẽ xảy ra trên Biển Đông?
Theo tôi, sẽ có một trong ba kịch bản sau đây:
Thứ nhất, Biển Đông sẽ châm ngòi cho cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ.
Điều này, thật ra, đã có nhiều người nói đến từ lâu. Một số học giả đưa ra các lý do khiến Trung Quốc sẵn sàng mở một cuộc chiến tranh với Mỹ, trong đó, có ba lý do chính: Một, là một nước có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, Trung Quốc cần khẳng định vị thế siêu cường của mình, ít nhất là trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, và sự khẳng định ấy chỉ có thể thực hiện được qua chiến tranh. Hai, sự phát triển kinh tế của Trung Quốc hiện nay đã bắt đầu khựng lại, sự phân hoá giàu nghèo càng ngày càng trở nên to lớn, sự bất mãn của dân chúng càng ngày càng sâu sắc, xu hướng đòi hỏi dân chủ càng ngày càng mạnh mẽ, Trung Quốc cần một cuộc chiến tranh để nâng cao chủ nghĩa quốc gia, thống nhất lòng dân và dập tắt mọi ngọn lửa phản kháng, từ đó, duy trì sự thống trị của đảng Cộng sản. Ba, để tiếp tục phát triển, Trung Quốc rất cần nhiên liệu mà Biển Đông, theo họ, là nguồn chứa dầu khí thuộc loại lớn nhất thế giới, do đó, họ xem việc chiếm cứ Biển Đông là một “lợi ích cốt lõi”, không thể nhân nhượng, ngay cả khi họ phải trực tiếp đối đầu với Mỹ.
Về phía Mỹ, có nhiều lý do để họ ngại một cuộc đối đầu quân sự như vậy. Chiến tranh ở Afghanistan và Iraq chưa chấm dứt. Tình hình chính sự ở Trung Đông vẫn còn ngổn ngang. Dân chúng Mỹ đã bắt đầu mệt mỏi với việc can thiệp ở nước ngoài. Tổng thống Barack Obama chỉ còn một năm rưỡi nữa là hết nhiệm kỳ, chắc chắn ông không muốn tham dự vào một cuộc phiêu lưu mới đầy bất trắc. Tổng thống kế tiếp cũng chắc không muốn mở đầu một nhiệm kỳ bằng chiến tranh. Đó là chưa kể kinh tế Mỹ, một mặt, vẫn chưa hồi phục hẳn; mặt khác, có quan hệ chặt chẽ với kinh tế Trung Quốc. Chỉ có hai lý do có thể khiến Mỹ vượt qua tất cả những sự khó khăn và trở ngại ấy: Một, Trung Quốc quyết định khống chế hoàn toàn con đường hàng hải đi ngang qua Biển Đông; và hai, Trung Quốc nổ súng trước vào máy bay hay chiến hạm của Mỹ.
Chuyện Trung Quốc nổ súng trước không phải không có khả năng xảy ra. Nó có thể xảy ra một cách cố ý với một sự tính toán rõ rệt từ nhà cầm quyền Trung Quốc nhưng cũng có thể xảy ra một cách ngẫu nhiên và bất ngờ, hay nói theo giáo sư Michael Auslin, như “một tai nạn” khi máy bay hoặc chiến hạm hai bên đụng vào nhau gây ra thương vong, từ đó, dẫn đến những phản ứng mạnh mẽ từ cả hai phía và hậu quả là chiến tranh sẽ bùng nổ.
Một cuộc chiến tranh giữa Mỹ và Trung Quốc chắc chắn sẽ vô cùng khốc liệt và rất dễ dẫn đến nguy cơ lan rộng thành chiến tranh thế giới, và đặc biệt, chiến tranh hạt nhân. Viễn cảnh ấy chắc chắn sẽ làm chột dạ mọi người. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn có thể khẳng định vị thế siêu cường trong khu vực của mình bằng một cuộc chiến tranh khác, ví dụ, chiến tranh với một nước đang tranh chấp nào đó. Đó là những nước nào? Có ba nước tranh chấp biển và đảo quyết liệt nhất với Trung Quốc: Nhật Bản, Philippines và Việt Nam. Trong ba nước ấy, mạnh nhất là Nhật Bản. Về quân sự, trừ vũ khí hạt nhân, có khi Nhật Bản còn mạnh hơn cả Trung Quốc. Hơn nữa, sau Nhật Bản là Mỹ. Có lẽ Trung Quốc sẽ không phiêu lưu vào cái nơi nguy hiểm và không nắm chắc phần thắng ấy. Nước yếu nhất là Philippines. Nhưng Philippines lại có liên minh về quốc phòng với Mỹ. Nếu Trung Quốc muốn tránh đương đầu với Mỹ, họ cũng sẽ không gây chiến với Philippines. Chỉ còn lại Việt Nam là vừa yếu vừa thân cô thế cô, dễ đánh nhất. Bởi vậy, chúng ta có kịch bản thứ hai: Chiến tranh giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Trong bài “Why A War Between China And Vietnam Is Inevitable” đăng trên tờ Business Insider vào tháng 7 năm 2011, Dee Woo cho chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam là chuyện không thể tránh khỏi. Ông cho cuộc chiến tranh ấy phục vụ lợi ích của chính quyền ở cả hai nước: Trung Quốc thì muốn chiếm trọn Trường Sa và, từ đó, Biển Đông, còn Việt Nam thì muốn làm lệch hướng sự quan tâm của dân chúng để không ai còn lên án những thất bại thảm hại về phương diện kinh tế và xã hội của nhà cầm quyền. Nhưng Dee Woo lại vẽ nên một viễn cảnh thê thảm của Việt Nam: sau khi tấn công cả trên biển lẫn trên đất liền, Trung Quốc sẽ phá huỷ toàn bộ các cơ sở hạ tầng của Việt Nam rồi rút về, để lại ở Việt Nam một cảnh tan hoang và thậm chí, nội chiến triền miên cả nửa thế kỷ sau cũng chưa chắc đã hồi phục được.
Viễn cảnh ấy, tuy bi quan, nhưng không có gì quá đáng. Tương quan lực lượng của Việt Nam và Trung Quốc hiện nay khác xa với thời chiến tranh biên giới vào năm 1979. Trung Quốc không những giàu hơn về kinh tế mà còn có kho vũ khí, khi tài cũng như các phương tiện phục vụ chiến tranh dồi dào và tối tân hơn Việt Nam cả mấy chục lần. Việt Nam có đổ thêm bao nhiêu tiền để mua sắm vũ khí thì cũng không thể nào bắt kịp được Trung Quốc. Hơn nữa, cần lưu ý: Đánh nhau trên bộ người ta còn có thể sử dụng chiến thuật du kích và huy động chiến tranh nhân dân nhưng trên mặt biển, yếu tố quyết định nhất vẫn là vũ khí và kỹ thuật. Thua vũ khí và thua kỹ thuật là thua hẳn cuộc chiến. Chắc chắn chính quyền Việt Nam biết rõ điều đó nên họ vẫn tiếp tục chịu đựng và nhân nhượng. Nếu sách lược này kéo dài mãi, chúng ta sẽ có kịch bản thứ ba: Trung Quốc bất chiến tự nhiên thành.
Nên nhớ một trong những sách lược chính của Trung Quốc ở Biển Đông là sách lược tằm ăn dâu (salami slicing). Họ cứ lấn dần dần. Lấn đến cỡ nào Việt Nam cũng nhịn, đến một lúc nào đó, tất cả những gì họ muốn đều biến thành hiện thực. Họ tuyên bố về đường lưỡi bò bao trùm lên 80% diện tích Biển Đông của Việt Nam: Việt Nam nhịn. Họ đem giàn khoan đến thềm lục địa Việt Nam: Việt Nam nhịn. Họ tái tạo bãi đá ngầm thành đảo nhân tạo: Việt Nam nhịn. Một lúc nào đó, họ tuyên bố thành lập vùng nhận dạng hàng không: Việt Nam lại nhịn. Thậm chí, họ có thể chiếm nốt các hòn đảo khác ở Trường Sa: Việt Nam cũng vẫn tiếp tục nhịn. Đến lúc đó, thực tình họ chả cần đánh nhau với Việt Nam làm gì: Họ đã có tất cả những gì họ muốn. Và đến lúc ấy, mâu thuẫn giữa Việt Nam và Trung Quốc không còn nữa. Chỉ còn mâu thuẫn trong nội bộ Việt Nam: giữa nhân dân và một chính quyền bất lực, nhu nhược và đớn hèn.
Cựu Ngoại trưởng Mỹ: Cứ phái Hạm đội, không cần nói nhiều với Trung Quốc

Bắc Kinh ngày càng lấn tới ở cả vấn đề Biển Đông. (Ảnh minh họa)
(Quốc tế) – Cựu Ngoại trưởng Mỹ đã lên tiếng cảnh cáo Trung Quốc về sức mạnh quân sự của Mỹ, trước lo ngại Bắc Kinh ngày càng lấn tới ở cả vấn đề Biển Đông và an ninh mạng.
Trang Đa Chiều hôm 12/6 đưa tin, cựu Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice mới đây đã có bài diễn thuyết tại một hội nghị về khoa học công nghệ tại Miami được cho là “chĩa mũi giáo” vào các doanh nghiệp Trung Quốc đang bước ra thị trường thế giới.Bắc Kinh ngày càng lấn tới ở cả vấn đề Biển Đông.
Theo đó, bà Rice đã hình dung Mỹ là quốc gia đứng ra bảo đảm và duy trì thị trường cởi mở, tự do trên toàn thế giới. Washington có đủ khả năng ngăn cản Trung Quốc “xâm lược thị trường quốc tế cũng như thế giới thực”.
Bà Rice cho rằng Trung Quốc đang “chơi không đẹp” và đang lợi dụng các doanh nghiệp khổng lồ của mình như những quân bài để thực hiện hoạt động gián điệp đối với Mỹ.
“(Mỹ) chỉ cần hạ lệnh điều động Hạm đội Thái Bình Dương thì bọn họ (Trung Quốc) sẽ ‘nếm mùi’ ngay. Chúng ta hoàn toàn không cần phí thời gian to tiếng qua lại với Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông” – bà Condoleeza Rice cho biết.Cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice tin rằng Mỹ chỉ cần cho Trung Quốc thấy được sức mạnh quân sự thực là có thể trấn áp được Bắc Kinh.

Cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice tin rằng Mỹ chỉ cần cho Trung Quốc thấy được sức mạnh quân sự thực là có thể trấn áp được Bắc Kinh.Tuy vậy, cũng theo cựu Ngoại trưởng Rice, sự căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ không ảnh hưởng đến việc song phương thảo luận các vấn đề hợp tác và tìm kiếm cơ hội để đôi bên cùng có lợi.
“Trung Quốc nhận được tiền đầu tư bởi họ là một thị trường khổng lồ. Nhưng Bắc Kinh nên nhớ quy tắc của trò chơi: Không được tấn công mạng” – bà Rice cảnh cáo.
Washington hôm 4/6 xác nhận dữ liệu cá nhân của ít nhất 4 triệu công chức đã và đang là nhân viên liên bang bị tin tặc xâm nhập.
Một số quan chức nước này tiết lộ những kẻ tấn công “ở Trung Quốc”, nhưng chưa rõ vụ việc có dấu hiệu của chính phủ Trung Quốc đứng sau hay không. Bắc Kinh cũng đã lên tiếng bác bỏ cáo buộc của phía Mỹ.
Trung Quốc đem ông Tập Cận Bình ra “dọa” Mỹ
Cũng trong ngày 12, Thiếu tướng Hải quân Quan Hữu Phi – chủ nhiệm Văn phòng ngoại vụ Bộ quốc phòng Trung Quốc – đã tổ chức họp báo tại Washington công bố kết quả chuyến thăm Mỹ của phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Phạm Trường Long.
Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh căng thẳng Trung-Mỹ leo thang vì vấn đề Biển Đông, trong đó ông Phạm đã nhiều lần “cảnh cáo phủ đầu” Washington rằng “đừng làm gì để phá hoại chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình”.Tại Mỹ, Phạm Trường Long vẫn lớn tiếng rêu rao những luận điệu trắng trợn, phi lý và phi pháp của Trung Quốc đối với chủ quyền khu vực Biển Đông.

Tại Mỹ, Phạm Trường Long (trái) vẫn lớn tiếng rêu rao những luận điệu trắng trợn, phi lý và phi pháp của Trung Quốc đối với chủ quyền khu vực Biển Đông.
Phạm Trường Long cũng lớn tiếng “dọa” Mỹ rằng việc ông Tập thăm Mỹ là “đại sự hàng đầu trong quan hệ 2 nước” và yêu cầu Washington “củng cố cơ sở chứ không phải ‘ném đá’ phá hoại sự kiện này”.
Mặc dù phía Trung Quốc vẫn báo cáo rằng “kết quả chuyến thăm của Phạm Trường Long là thành công”, song thực tế là ông Phạm vẫn ngang ngược tuyên bố luận điểm xằng bậy của Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông.
Ông này trắng trợn nói “các đảo và vùng cận hải thuộc Biển Đông thuộc chủ quyền cố hữu của Bắc Kinh từ thời xưa (mà thực tế là các đảo đá mà nước này chiếm đoạt hoàn toàn phi pháp – PV)”.
Nguy hiểm hơn, Phạm Trường Long đã không che giấu “dã tâm quân sự” trên các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái phép khi ngang ngược tuyên bố “việc Trung Quốc thiết lập khí tài, thiết bị quân sự trên các đảo đá (phi pháp-PV) không có gì phải bàn cãi”.
Đáp trả lại phát ngôn vô lý này, ông Ashton Carter cũng liên tiếp chỉ trích Trung Quốc về các công trình mở rộng, bồi đắp các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và tái khẳng định lập trường kiên quyết của Washington, yêu cầu Bắc Kinh “ngừng ngay hoạt động xây đảo trái phép”.
(Theo Đại Lộ )

Bắc Kinh ngày càng lấn tới ở cả vấn đề Biển Đông. (Ảnh minh họa)
(Quốc tế) – Cựu Ngoại trưởng Mỹ đã lên tiếng cảnh cáo Trung Quốc về sức mạnh quân sự của Mỹ, trước lo ngại Bắc Kinh ngày càng lấn tới ở cả vấn đề Biển Đông và an ninh mạng.
Trang Đa Chiều hôm 12/6 đưa tin, cựu Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice mới đây đã có bài diễn thuyết tại một hội nghị về khoa học công nghệ tại Miami được cho là “chĩa mũi giáo” vào các doanh nghiệp Trung Quốc đang bước ra thị trường thế giới.Bắc Kinh ngày càng lấn tới ở cả vấn đề Biển Đông.
Theo đó, bà Rice đã hình dung Mỹ là quốc gia đứng ra bảo đảm và duy trì thị trường cởi mở, tự do trên toàn thế giới. Washington có đủ khả năng ngăn cản Trung Quốc “xâm lược thị trường quốc tế cũng như thế giới thực”.
Bà Rice cho rằng Trung Quốc đang “chơi không đẹp” và đang lợi dụng các doanh nghiệp khổng lồ của mình như những quân bài để thực hiện hoạt động gián điệp đối với Mỹ.
“(Mỹ) chỉ cần hạ lệnh điều động Hạm đội Thái Bình Dương thì bọn họ (Trung Quốc) sẽ ‘nếm mùi’ ngay. Chúng ta hoàn toàn không cần phí thời gian to tiếng qua lại với Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông” – bà Condoleeza Rice cho biết.Cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice tin rằng Mỹ chỉ cần cho Trung Quốc thấy được sức mạnh quân sự thực là có thể trấn áp được Bắc Kinh.

Cựu Ngoại trưởng Condoleezza Rice tin rằng Mỹ chỉ cần cho Trung Quốc thấy được sức mạnh quân sự thực là có thể trấn áp được Bắc Kinh.Tuy vậy, cũng theo cựu Ngoại trưởng Rice, sự căng thẳng giữa Trung Quốc và Mỹ không ảnh hưởng đến việc song phương thảo luận các vấn đề hợp tác và tìm kiếm cơ hội để đôi bên cùng có lợi.
“Trung Quốc nhận được tiền đầu tư bởi họ là một thị trường khổng lồ. Nhưng Bắc Kinh nên nhớ quy tắc của trò chơi: Không được tấn công mạng” – bà Rice cảnh cáo.
Washington hôm 4/6 xác nhận dữ liệu cá nhân của ít nhất 4 triệu công chức đã và đang là nhân viên liên bang bị tin tặc xâm nhập.
Một số quan chức nước này tiết lộ những kẻ tấn công “ở Trung Quốc”, nhưng chưa rõ vụ việc có dấu hiệu của chính phủ Trung Quốc đứng sau hay không. Bắc Kinh cũng đã lên tiếng bác bỏ cáo buộc của phía Mỹ.
Trung Quốc đem ông Tập Cận Bình ra “dọa” Mỹ
Cũng trong ngày 12, Thiếu tướng Hải quân Quan Hữu Phi – chủ nhiệm Văn phòng ngoại vụ Bộ quốc phòng Trung Quốc – đã tổ chức họp báo tại Washington công bố kết quả chuyến thăm Mỹ của phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc Phạm Trường Long.
Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh căng thẳng Trung-Mỹ leo thang vì vấn đề Biển Đông, trong đó ông Phạm đã nhiều lần “cảnh cáo phủ đầu” Washington rằng “đừng làm gì để phá hoại chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình”.Tại Mỹ, Phạm Trường Long vẫn lớn tiếng rêu rao những luận điệu trắng trợn, phi lý và phi pháp của Trung Quốc đối với chủ quyền khu vực Biển Đông.

Tại Mỹ, Phạm Trường Long (trái) vẫn lớn tiếng rêu rao những luận điệu trắng trợn, phi lý và phi pháp của Trung Quốc đối với chủ quyền khu vực Biển Đông.
Phạm Trường Long cũng lớn tiếng “dọa” Mỹ rằng việc ông Tập thăm Mỹ là “đại sự hàng đầu trong quan hệ 2 nước” và yêu cầu Washington “củng cố cơ sở chứ không phải ‘ném đá’ phá hoại sự kiện này”.
Mặc dù phía Trung Quốc vẫn báo cáo rằng “kết quả chuyến thăm của Phạm Trường Long là thành công”, song thực tế là ông Phạm vẫn ngang ngược tuyên bố luận điểm xằng bậy của Bắc Kinh về vấn đề Biển Đông.
Ông này trắng trợn nói “các đảo và vùng cận hải thuộc Biển Đông thuộc chủ quyền cố hữu của Bắc Kinh từ thời xưa (mà thực tế là các đảo đá mà nước này chiếm đoạt hoàn toàn phi pháp – PV)”.
Nguy hiểm hơn, Phạm Trường Long đã không che giấu “dã tâm quân sự” trên các đảo nhân tạo mà Trung Quốc xây dựng trái phép khi ngang ngược tuyên bố “việc Trung Quốc thiết lập khí tài, thiết bị quân sự trên các đảo đá (phi pháp-PV) không có gì phải bàn cãi”.
Đáp trả lại phát ngôn vô lý này, ông Ashton Carter cũng liên tiếp chỉ trích Trung Quốc về các công trình mở rộng, bồi đắp các đảo thuộc quần đảo Trường Sa và tái khẳng định lập trường kiên quyết của Washington, yêu cầu Bắc Kinh “ngừng ngay hoạt động xây đảo trái phép”.
(Theo Đại Lộ )
CSVN: Nhiều Lệ Phí, Khổ Dân
Vi Anh

(Minh họa: Ngọc Diệp)
Chuyện tưởng như đùa nhưng có thật, “báo đài” của Đảng Nhà Nước CS VN “chạy nhựt chình hẵn hòi”, “đại biểu nhân dân” của cái Quốc Hội “Đảng cử dân bâu“ phát biểu rõ ràng, chớ không phải do đồng bào người dân Việt hay nói thật trên các trang mạng bị CS chụp mũ là “lực lượng thù định” nói thêm, nói bớt gì đâu nhé. “Đại biểu nhân dân” tức dân biểu Trần Hoàng Ngân nói trước Quốc Hội của CSVN, rằng “thì nà”, “một số địa phương đẻ ra nhiều loại phí và lệ phí ngoài quy định”. Còn đại biểu Trần Du Lịch, đơn vị Sài Gòn kể ra một ví dụ như chuyện tiếu lâm màu đỏ, “cà rởn” nói rằng tàu ngư dân chạy ngoài biển mà vẫn phải đóng “phí bảo vệ môi trường” như người dân trong thành phố “là điều vô lý mà chúng ta vẫn làm”.
Báo Tuổi Trẻ một tờ báo của Thành đoàn Thanh Niên CS HCM, phát hành khắp nước, số lượng lớn nhứt, hồi tháng Giêng 2015, nói lên nỗi đau đớn phận nghèo với giọng văn của Hồ biểu Chánh, như vầy đây: nông dân nuôi gà thịt phải chịu “14 loại phí”. Còn báo Người Lao Động từ thuở 5 tháng 10 năm 2012, đã viết, trong nước VN hiện có 357 loại phí và 75 loại lệ phí khác nhau được các cơ quan của Đảng Nhà Nước các cấp truy và thu của người dân. Cấp nào, từ xã thôn, làng xóm, huyện ở thôn quê, phường khóm, quận, đô tỉnh thị cơ quan nào cũng có quyền thu phí và lệ phí, từ trẻ con mới sanh đến già lão bạc đầu, nam phụ lão ấu đều phải đóng, không một ai được miễn trừ.
Đại biểu Lê Đình Khanh, đơn vị Hải Dương, nêu thắc mắc “Lệ phí hoa hồng chữ ký là cái lệ phí gì? Tôi đọc mà không hiểu nổi.” “Khi tàu thuyền chạy trên sông thì phải đóng phí luồng lạch. Vào cảng thì lại phải đóng thêm phí cập cảng, phí neo đậu, phí lưu trú. Nhiều phí quá, đã nộp phí cập cảng rồi thì nên thôi phí neo đậu. Vì người ta vào cảng thì phải neo đậu chứ”.
Ông kể tiếp trên tờ Lao Động cho rằng, đã lập ra Bảo hiểm y tế lại còn quy định bắt dân đóng “phí phòng chống dịch bệnh”. Như thế là “phí chồng phí” “Lệ phí cấp biển số nhà cũng thế, quy định không rõ gì cả. Chẳng lẽ tôi bỏ tiền ra làm bảng, kẻ số, đóng vào tường nhà mà cũng bắt tôi phải đóng phí hay sao”. Bà Lê Thị Nguyệt, đơn vị Vĩnh Phúc, kêu rằng hiện người dân đang phải gánh “xã phí, phường phí rồi cả... thôn phí” thật là vô lý.
Báo Nông Nghiệp Việt Nam ngày 26 tháng 5, 2015, có một ký sự kể câu chuyện xã Quảng Vinh nghèo nàn ở huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa, tổng cộng có 9.500 người dân làng mà phải oằn lưng gánh chi phí lương bổng, phu cấp, chi phí điều hành, chi phí tiếp khách, v.v... cho 500 cán bộ đảng viên của xã. Trung bình 1 người dân phải đóng lệ phí để nuôi 9 cán bộ.
Người Việt trong ngoài nước nếu đọc trên báo giấy hay trên báo điện online đều lạnh xương sống, nổi gai ốc và khổ cho cái khổ người dân Việt sưu cao, thuế nặng, luật phí, lệ phí ngập đầu.
Thiết nghĩ dân bộ lạc, thổ dân du mục ở rừng rậm Amazone sông đời săn bắn hái lươm ăn cá, ăn rau củ, người Esquimaux ở Bắc cực băng tuyết trắng quanh năm ăn cá sống, uống mỡ gấu cũng không phải chịu gánh nặng nuôi tù trưởng, phù thuỷ, thầy lang và chiến sĩ như người dân Việt phải đóng thuế, lệ phí, luật phí để nuôi cán bộ đảng viên CS ở nhà mát, ăn bát vàng, thông trị nhân dân như ở VN vào đầu thế kỷ 21, thiên niên kỷ thứ ba như vậy.
VNCS suốt 70 năm qua ở Miền Bắc và 40 năm ở Miền Nam người dân đen phải quằn lưng, chai tay, nám mặt, đổ mồ hôi trán, ráng mồ hôi lưng làm việc vì sưu cao, thuế nặng của CS. Sưu cao hay làm sâu cho Nhà Nước không được trả tiền công, CS đưa ra một “từ” mỹ miều gọi là “lao động xã hội chủ nghĩa”. Thuế thì quá nặng, còn lệ phí, luật phí thì quá nhiều, quá nặng nên người dân gọi là lệ phí không tên so với lợi tức người dân kiếm được. Để Đảng CS cầm quyền đủ tiền để nuôi ba guồng máy công quyền. Ngân sách quốc gia phải tài trợ cho ba ngân sách: ngân sách của Đảng CS; ngân sách của Nhà Nước, và ngân sách của các đoàn thể như Mặt Trận Tổ Quốc, đoàn Thanh Niên, đoàn phụ nữ, v.v... là tay chân bộ hạ của Đảng CS. Vì quá tốn kém cho Đảng, Đoàn nên CS liệt ngân sách vào bí mật quốc gia. Chỉ có ngân sách Nhà Nước gần đây được công khai một phần và cho Quốc Hội “đảng cử dân bầu” thảo luận đôi chút, nên lòi chánh té bứa như trên dân chúng mới biết một phần nào.
Bên cạnh ngân sách, Đảng Nhà Nước con nhắm mắt để cho nhà cầm quyền cấp trung gian là đô tỉnh thị và địa phương là quận huyện, làng xã, cơ quan chuyên môn như trường học, bịnh viện thu lệ phí của dân chúng. Khiến sự lạm dụng quá nhiều, phi lý quá nhiều. Thế mà bây giờ Đảng Nhà Nước muốn luật hoá những thứ lệ phí ấy thành luật phí.
Một thứ hợp pháp hoá vi hiến hoàn toàn. Thí dụ hiến pháp của CSVN qui định giáo dục cưỡng bách và miễn phí cấp tiểu học và trung học đệ nhứt cấp. Nhưng lâu nay Bộ, Nha, Sở Giáo dục cứ để cho các trường “thoải mái” thu học phí rồi lệ phí. Ở VN ví thế mỗi một mùa tựu trường bây giờ phụ huynh học sinh phải chạy nợ vắt giò lên cổ để đóng học phí và lệ phí cho con được nhập học. Nào lệ phí phát triễn trường sở, lệ phí phụ đạo, lệ phí bồi dưỡng, lệ phí sách vở, lệ phí “tham quan”, lệ phí phòng thí nghiệm, v.v... Học trò và phụ huynh học sinh phải hai hàng lệ rơi với những thứ phí quá nhiều không nhớ hết nên gọi là lệ phí không tên. Thế cho nên đau đớn lắm, học trò Miền Tây trên vựa lúa của cả nước mà phải bỏ học tỷ lệ cao nhứt vì không đủ tiền đóng vô vàn lệ phí có tên và không tên, nhà trường bày đặt ra lúc nào không biết.
Thế mà Đảng Nhà Nước VNCS chưa hài lòng. Nhà Nước mới chuyển qua Quốc Hội dự luật “Luật phí và lệ phí”. Thay vì giản dị hóa, loại bỏ các khoản thu vô lý, chồng chéo lẫn nhau, cái dự luật mới lại đầy những chồng chéo, thậm chí vô lý và tận thu bừa bãi.
Tuy một số “đại biểu nhân dân” chỉ trích để kiếm phiếu, lây lòng dân, một số “báo đài” của đảng Nhà Nước phê bình để câu đọc giả, nhưng như thông lệ, như tập tục lập pháp của VNCS, Quốc Hội là đảng cử dân bầu, đai biểu nhân dân cứ “cú kêu mặc cú, xôi thịt qủi thần ăn, cán bộ đảng viên CS, Đảng Nhà Nước hưởng. Dư luật “Luật phí và lệ phí” do Nhà Nước đưa qua Quốc Hội, Quốc Hội là của Đảng, vì Đảng, do Đảng ắt sẽ “nhứt trí đồng tình” thành luật. Lệ phí lúc ấy sẽ thành luật phí giá trị cưỡng hành và phổ quát hơn lệ phí. Thì dân chúng VN lại khổ sở hơn./. (VA)
Nguồn gốc sức mạnh của IS
Ngô Nhân Dụng
Abu Bilal al-Homsi là một chuyên viên tin học, sống ở Homs, Syria; năm 2012 thành phố bị quân IS đánh chiếm. Năm sau, al-Homsi bắt đầu hoạt động cho IS. Abu Homsi tiêu biểu cho hàng chục ngàn thanh niên Á Rập chạy theo phong trào cực đoan “Quốc gia Hồi Giáo.” Họ là những người Á Rập theo giáo phái Sun Ni.
Abu Bilal al-Homsi phụ trách tuyên truyền và báo chí nên hãng thông tấn AP đã liên lạc với anh ta trong ba năm nay, mới đây đã biết tin anh làm đám cưới, Cô dâu chỉ gặp anh trên mạng, thán phục những bài anh viết. Cô đã từ bỏ gia đình ở Tunisia, tới Syria qua ngả Thổ Nhĩ Kỳ, gia nhập đạo quân IS. Cuối Tháng Năm vừa qua, Homsi hỏi cưới cô sau khi, theo đúng phong tục Hồi Giáo, đã xin phép người anh ruột cô, cũng là quân IS. Ðể làm đám cưới, Homsi đi một quãng đường 250 cây số đầy nguy hiểm tới Raqqa, thủ đô của “Quốc Gia Hồi Giáo.” IS trợ cấp họ một số tiền tương đương với 1,500 đô la. Bình thường, IS vẫn trợ cấp mỗi đám cưới 500 đô la, nhưng vợ chồng Homsi được ưu đãi vì cô dâu là một bác sĩ và biết nói bốn thứ tiếng.
IS không phải chỉ là một đám quân nổi loạn, mà còn được tổ chức như một quốc gia, đúng danh hiệu một “caliphate,” bao gồm nhiều định chế phúc lợi. Ðời sống vật chất của những người theo IS được tổ chức bảo đảm. Nguồn tài chánh lớn nhất của IS là tiền bán dầu lửa, sau khi họ chiếm được các vùng mỏ dầu và nhà máy lọc dầu ở Syria và Iraq.
Sau đám cưới Homsi đưa vợ trở về Homs, mướn nhà ở. Từ nay mỗi tháng mỗi người được IS trợ cấp 50 đô la, đủ sinh sống. Ðôi vợ chồng trẻ, chồng 28, vợ 24 tuổi được cung cấp quần áo, đồ đạc dùng trong nhà, và thực phẩm trị giá 65 đô la mỗi tháng. Cô vợ có bầu, khi sanh con sẽ được trợ cấp 400 đô la.
IS có sức thu hút hàng triệu thanh niên bất mãn, tuyệt vọng, trong các nước Á Rập thuộc phái Sun Ni, đối nghịch với phái Shi A mà đa số tín đồ sống ở Iran. Lực lượng IS mạnh ngàn lần hơn tổ chức khủng bố al-Qaeda. Abu Bakr al-Baghdadi tự xưng là “Giáo Chủ” (calyph), so với Osama bin-Laden ngày xưa nguy hiểm hơn gấp bội.
Trong tiếng Á Rập lực lượng IS tên là Daesh; trong tiếng Anh lúc đầu họ được gọi là ISIS, thêm hai chữ I và S sau vì họ tập trung tại Iraq và Syria. Bây giờ IS đã lan sang các nước Á Rập khác. Trước năm 2001 Al-Qaeda không đặt được căn cứ ở nước nào cả. Abu al-Baghdadi hô hào tiêu diệt những người Hồi Giáo thuộc phái Shi A, người Thiên Chúa Giáo, dân Do Thái, và cả những người Kurd bị gán tội phản đạo, và lật đổ chính quyền các nước Á Rập dù cùng theo phái Sun Ni. Nhiều thanh niên tình nguyện theo IS vì tin tưởng họ đang xây dựng một “quốc gia hoàn hảo” bao gồm tất cả mọi tín đồ Hồi Giáo Sun Ni trên thế giới.
IS tuyên truyền trên mạng Internet, bằng các thứ tiếng Anh, tiếng Nga, Pháp, Hòa Lan, tiếng Indonesia, Malaysia, và nhiều ngôn ngữ ở Ấn Ðộ, Pakistan. Phong trào này mạnh nhất ở Syria và Iraq. Ða số dân Syria theo giáo phái Sun Ni, còn chính quyền nằm trong tay người thuộc phái Shi A. Năm 2011, cuộc nội chiến Syria bắt đầu khi dân Sun Ni nổi lên chống chính quyền Assad. Còn Iraq là cái nôi cho những người Sun Ni bất mãn, sau khi Saddam Hussein bị lật đổ. Trái ngược với Syria, chế độ Hussein thuộc nhóm Sun Ni thống trị đa số dân thuộc nhóm Shi A bằng sắt máu và gây hai cuộc chiến tranh với Iran, một nước theo phái Shi A. Năm 2003, cả guồng máy cai trị của Hussein bị quân đội Mỹ xóa bỏ, quân đội bị giải tán. Chính quyền mới, do dân Shi A đa số bầu lên, đã thi hành những chính sách thiên vị người đồng đạo; mối bất mãn của người Sun Ni tăng lên. IS tuyển mộ được 40,000 thanh niên nam nữ từ các nước kể cả ở Âu và Mỹ châu nhưng lực lượng chính của họ là người bản xứ, ở Iraq chiếm 90%, ở Syria 70%.
Baghdadi đã đậu Ph.D. tại Ðại Học Hồi Giáo Baghdad; tự giới thiệu là thuộc dòng giõi Tiên Tri Mohammad, nghĩa là có tư cách làm calyph. Nhưng Baghdadi không phải là thủ lãnh số một của IS. Người nắm quyền ngang ngửa là Abu Ali al-Anbari, một tướng lãnh trong quân đội Iraq thời Saddam Hussein. Người thứ ba là Abu Muslim al-Turkmani, một đại tá tình báo trong quân đội Iraq cũ - có tin đã bị máy bay Mỹ bắn chết. Ba người này gặp nhau tại Bucca, một trại giam do quân đội Mỹ thiết lập khi chiếm đóng Iraq. Sau khi giải tán quân đội Iraq, chính quyền Mỹ đã mở một chiến dịch tiêu diệt dư đảng, gồm những cán bộ nòng cốt của đảng Bath của Hussein. Tại Bucca còn nhiều sĩ quan Iraq bị quân Mỹ bắt và mười năm sau nhiều người trở thành cán bộ nòng cốt của IS.
Abu Mohammad Maqdisi, được quân đội Mỹ coi là lý thuyết gia số một của phong trào Thánh Chiến Hồi Giáo (jihadism), phê bình nhóm IS là quá khích trong chủ trương bạo lực. Ông thấy nguyên nhân chính là các cựu sĩ quan đảng Bath, họ nắm vai trò quan trọng vì nắm vững cả địa thế lẫn mạng lưới xã hội của người Sun Ni trong nước Iraq. Các cựu sĩ quan của Hussein đã áp đặt được uy quyền trong phong trào này nhờ dùng bạo lực. Maqdisi cho biết bọn này đã bắt tất cả các nhóm dân quân Sun Ni khác ở Iraq và Syria phải phục tòng, để họ chiếm độc quyền lãnh đạo, nếu không sẽ bị tiêu diệt.
Ngày xưa, Saddam Hussein không bao giờ dung túng Ossama ben-Laden và chấp nhận nhóm al-Qaeda. Ngày nay tại Syria, IS đang tuyên chiến với Mặt Trận Nursa, một nhóm tàn quân al-Qaeda còn lại. Các sĩ quan đảng Bath cũ đang chỉ huy các lực lượng IS với kinh nghiệm chiến tranh mới, sau hơn 10 năm chống quân đội Mỹ và quân chính phủ Iraq. Phương châm của họ là tàn bạo. Sau khi chiếm một thành phố, họ thanh lọc dân chúng, tàn sát các đối thủ, tiêu diệt những nhóm có khả năng chống lại. Những tín đồ Shi A phải chạy đi nơi khác, hay là chết. IS còn tổ chức đốt phá nhiều giáo đường Shi A tại Iraq, Syria, và tại cả những nước khác như Yemen, Lybia, Á Rập Sauđi.
Nhóm IS mạnh nhờ các nhóm quân theo phái Sun Ni do các cựu sĩ quan của Hussein chỉ huy, và cũng nhờ thái độ thờ ơ của các lãnh tụ bộ lạc trong nước Iraq, những người cũng theo phái Sun Ni. Chính phủ Iraq muốn lôi cuốn những người phái Sun Ni gia nhập quân đội, nhưng họ còn nghi ngờ ưu thế của người Shi A trong chính quyền mới.
Hiện nay, lực lượng người Iraq chống quân IS hữu hiệu nhất là đạo quân tình nguyện người Shi A, do các tướng lãnh Iran chỉ huy. Bên cạnh là các lực lượng người Kurd, thường được Mỹ viện trợ trực tiếp, nhưng họ chỉ lo bảo vệ vùng đất họ cư ngụ.
Ngoài khả năng tuyên truyền và nhóm cán bộ quân sự nòng cốt rút từ đám quân Iraq đã bị Mỹ giải tán, một sức mạnh khác của phong trào IS là tổ chức kinh tế, tài chánh chặt chẽ. Họ nhắm chiếm các thành phố trung tâm của những vùng mỏ dầu lửa, ở Iraq và Syria. Chiếm được các nhà máy lọc dầu là họ mở đường bán lậu, một nửa số tiền thu vào được chi cho quân sĩ. IS cũng cố chiếm các thành phố có di tích lịch sử. Vùng Trung Ðông từng là sân khấu của nhiều nền văn minh, Hy Lạp, Ba Tư, La Mã, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo. Nhiều đạo quân của các đế quốc cũng từng tranh hùng trong vùng này, kể cả quân Mông Cổ. IS vẫn bán các món đồ cổ lấy được để thu tiền. Một nguồn tài chánh khác là bắt con tin, đòi tiền chuộc.
IS cũng “quốc hữu hóa” các doanh nghiệp, từ các nhà làm bánh tới các cửa hàng bán lẻ. Họ đánh thuế trên các xí nghiệp khác, tạo nguồn thu giúp cho một hệ thống an sinh nuôi cán bộ, như chúng ta đã thấy trong câu chuyện Abu Bilal al-Homsi cưới vợ. Hisham al-Hashemi, một người Iraq chuyên nghiên cứu về IS ước tính IS hiện làm chủ một tài sản khoảng 8 đến 9 tỷ Mỹ kim.
Trong chiến dịch chống IS, quân đội Mỹ đóng vai chính và thành công về tình báo, nhờ vệ tinh nhân tạo, các máy nghe lén hoặc quan sát điện tử, và máy bay không người lái. Tháng trước, biệt kích Mỹ đã đánh giết được một thủ lãnh quan trọng là Abu Sayyaf, một người đứng đầu mạng lưới bán dầu lủa cho IS. Quân Mỹ đã bắt, mang theo bà vợ của ông ta, đưa về Iraq khai thác. Nhưng kho tài liệu quý giá là những tin tức, dữ kiện nằm trong các máy vi tính bắt được. Nhờ thế, Mỹ đã biết rõ hơn về các đường dây buôn lậu dầu lửa của IS. Một tin tức đã được sử dụng ngay, máy bay Mỹ biết chỗ đánh bom giết một thủ lãnh IS khác ở Syria.
Các tin tức dẫn đến trận đột kích Abu Sayyaf là do phỏng vấn một phụ nữ đã trốn khỏi quân IS ở Iraq vào Tháng Ba năm 2015. Nhờ thế, quân Mỹ đã theo dõi việc di chuyển và công việc hàng ngày của Sayyaf trong vùng quân IS chiếm ở phía Ðông Syria, trước khi tấn công vào Tháng Năm vừa qua.
Nhưng mặc dù đã mất nhiều người, mất một phần nguồn tài chánh nhờ dầu lửa, lực lượng IS sẽ còn tồn tại lâu. Trung tâm guồng máy của họ là thành phố Mosul, thủ phủ tỉnh Nineveh, một vùng dầu lửa tại Iraq. Các thành phố của IS trong tỉnh Nibeveh và Anbar đều đặt dưới quyền của các cựu sĩ quan của Hussein, hầu hết từng là tù nhân trong trại Bucca, nơi được coi là lò đào tạo các cán bộ IS. Mười hai năm sau khi Hussein bị lật đổ, bây giờ các tướng lãnh Iran đang chỉ huy các đội quân địa phương ở cả Iraq lẫn Syria. Phong trào IS sẽ tan rã khi nào các chính phủ Á Rập trong vùng kết hợp được với nhau cùng chống họ, đồng thời đương đầu với cuộc bành trướng của Iran. Chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ họ, nhưng không thể làm thay cho họ.
Ngô Nhân Dụng
Abu Bilal al-Homsi là một chuyên viên tin học, sống ở Homs, Syria; năm 2012 thành phố bị quân IS đánh chiếm. Năm sau, al-Homsi bắt đầu hoạt động cho IS. Abu Homsi tiêu biểu cho hàng chục ngàn thanh niên Á Rập chạy theo phong trào cực đoan “Quốc gia Hồi Giáo.” Họ là những người Á Rập theo giáo phái Sun Ni.
Abu Bilal al-Homsi phụ trách tuyên truyền và báo chí nên hãng thông tấn AP đã liên lạc với anh ta trong ba năm nay, mới đây đã biết tin anh làm đám cưới, Cô dâu chỉ gặp anh trên mạng, thán phục những bài anh viết. Cô đã từ bỏ gia đình ở Tunisia, tới Syria qua ngả Thổ Nhĩ Kỳ, gia nhập đạo quân IS. Cuối Tháng Năm vừa qua, Homsi hỏi cưới cô sau khi, theo đúng phong tục Hồi Giáo, đã xin phép người anh ruột cô, cũng là quân IS. Ðể làm đám cưới, Homsi đi một quãng đường 250 cây số đầy nguy hiểm tới Raqqa, thủ đô của “Quốc Gia Hồi Giáo.” IS trợ cấp họ một số tiền tương đương với 1,500 đô la. Bình thường, IS vẫn trợ cấp mỗi đám cưới 500 đô la, nhưng vợ chồng Homsi được ưu đãi vì cô dâu là một bác sĩ và biết nói bốn thứ tiếng.
IS không phải chỉ là một đám quân nổi loạn, mà còn được tổ chức như một quốc gia, đúng danh hiệu một “caliphate,” bao gồm nhiều định chế phúc lợi. Ðời sống vật chất của những người theo IS được tổ chức bảo đảm. Nguồn tài chánh lớn nhất của IS là tiền bán dầu lửa, sau khi họ chiếm được các vùng mỏ dầu và nhà máy lọc dầu ở Syria và Iraq.
Sau đám cưới Homsi đưa vợ trở về Homs, mướn nhà ở. Từ nay mỗi tháng mỗi người được IS trợ cấp 50 đô la, đủ sinh sống. Ðôi vợ chồng trẻ, chồng 28, vợ 24 tuổi được cung cấp quần áo, đồ đạc dùng trong nhà, và thực phẩm trị giá 65 đô la mỗi tháng. Cô vợ có bầu, khi sanh con sẽ được trợ cấp 400 đô la.
IS có sức thu hút hàng triệu thanh niên bất mãn, tuyệt vọng, trong các nước Á Rập thuộc phái Sun Ni, đối nghịch với phái Shi A mà đa số tín đồ sống ở Iran. Lực lượng IS mạnh ngàn lần hơn tổ chức khủng bố al-Qaeda. Abu Bakr al-Baghdadi tự xưng là “Giáo Chủ” (calyph), so với Osama bin-Laden ngày xưa nguy hiểm hơn gấp bội.
Trong tiếng Á Rập lực lượng IS tên là Daesh; trong tiếng Anh lúc đầu họ được gọi là ISIS, thêm hai chữ I và S sau vì họ tập trung tại Iraq và Syria. Bây giờ IS đã lan sang các nước Á Rập khác. Trước năm 2001 Al-Qaeda không đặt được căn cứ ở nước nào cả. Abu al-Baghdadi hô hào tiêu diệt những người Hồi Giáo thuộc phái Shi A, người Thiên Chúa Giáo, dân Do Thái, và cả những người Kurd bị gán tội phản đạo, và lật đổ chính quyền các nước Á Rập dù cùng theo phái Sun Ni. Nhiều thanh niên tình nguyện theo IS vì tin tưởng họ đang xây dựng một “quốc gia hoàn hảo” bao gồm tất cả mọi tín đồ Hồi Giáo Sun Ni trên thế giới.
IS tuyên truyền trên mạng Internet, bằng các thứ tiếng Anh, tiếng Nga, Pháp, Hòa Lan, tiếng Indonesia, Malaysia, và nhiều ngôn ngữ ở Ấn Ðộ, Pakistan. Phong trào này mạnh nhất ở Syria và Iraq. Ða số dân Syria theo giáo phái Sun Ni, còn chính quyền nằm trong tay người thuộc phái Shi A. Năm 2011, cuộc nội chiến Syria bắt đầu khi dân Sun Ni nổi lên chống chính quyền Assad. Còn Iraq là cái nôi cho những người Sun Ni bất mãn, sau khi Saddam Hussein bị lật đổ. Trái ngược với Syria, chế độ Hussein thuộc nhóm Sun Ni thống trị đa số dân thuộc nhóm Shi A bằng sắt máu và gây hai cuộc chiến tranh với Iran, một nước theo phái Shi A. Năm 2003, cả guồng máy cai trị của Hussein bị quân đội Mỹ xóa bỏ, quân đội bị giải tán. Chính quyền mới, do dân Shi A đa số bầu lên, đã thi hành những chính sách thiên vị người đồng đạo; mối bất mãn của người Sun Ni tăng lên. IS tuyển mộ được 40,000 thanh niên nam nữ từ các nước kể cả ở Âu và Mỹ châu nhưng lực lượng chính của họ là người bản xứ, ở Iraq chiếm 90%, ở Syria 70%.
Baghdadi đã đậu Ph.D. tại Ðại Học Hồi Giáo Baghdad; tự giới thiệu là thuộc dòng giõi Tiên Tri Mohammad, nghĩa là có tư cách làm calyph. Nhưng Baghdadi không phải là thủ lãnh số một của IS. Người nắm quyền ngang ngửa là Abu Ali al-Anbari, một tướng lãnh trong quân đội Iraq thời Saddam Hussein. Người thứ ba là Abu Muslim al-Turkmani, một đại tá tình báo trong quân đội Iraq cũ - có tin đã bị máy bay Mỹ bắn chết. Ba người này gặp nhau tại Bucca, một trại giam do quân đội Mỹ thiết lập khi chiếm đóng Iraq. Sau khi giải tán quân đội Iraq, chính quyền Mỹ đã mở một chiến dịch tiêu diệt dư đảng, gồm những cán bộ nòng cốt của đảng Bath của Hussein. Tại Bucca còn nhiều sĩ quan Iraq bị quân Mỹ bắt và mười năm sau nhiều người trở thành cán bộ nòng cốt của IS.
Abu Mohammad Maqdisi, được quân đội Mỹ coi là lý thuyết gia số một của phong trào Thánh Chiến Hồi Giáo (jihadism), phê bình nhóm IS là quá khích trong chủ trương bạo lực. Ông thấy nguyên nhân chính là các cựu sĩ quan đảng Bath, họ nắm vai trò quan trọng vì nắm vững cả địa thế lẫn mạng lưới xã hội của người Sun Ni trong nước Iraq. Các cựu sĩ quan của Hussein đã áp đặt được uy quyền trong phong trào này nhờ dùng bạo lực. Maqdisi cho biết bọn này đã bắt tất cả các nhóm dân quân Sun Ni khác ở Iraq và Syria phải phục tòng, để họ chiếm độc quyền lãnh đạo, nếu không sẽ bị tiêu diệt.
Ngày xưa, Saddam Hussein không bao giờ dung túng Ossama ben-Laden và chấp nhận nhóm al-Qaeda. Ngày nay tại Syria, IS đang tuyên chiến với Mặt Trận Nursa, một nhóm tàn quân al-Qaeda còn lại. Các sĩ quan đảng Bath cũ đang chỉ huy các lực lượng IS với kinh nghiệm chiến tranh mới, sau hơn 10 năm chống quân đội Mỹ và quân chính phủ Iraq. Phương châm của họ là tàn bạo. Sau khi chiếm một thành phố, họ thanh lọc dân chúng, tàn sát các đối thủ, tiêu diệt những nhóm có khả năng chống lại. Những tín đồ Shi A phải chạy đi nơi khác, hay là chết. IS còn tổ chức đốt phá nhiều giáo đường Shi A tại Iraq, Syria, và tại cả những nước khác như Yemen, Lybia, Á Rập Sauđi.
Nhóm IS mạnh nhờ các nhóm quân theo phái Sun Ni do các cựu sĩ quan của Hussein chỉ huy, và cũng nhờ thái độ thờ ơ của các lãnh tụ bộ lạc trong nước Iraq, những người cũng theo phái Sun Ni. Chính phủ Iraq muốn lôi cuốn những người phái Sun Ni gia nhập quân đội, nhưng họ còn nghi ngờ ưu thế của người Shi A trong chính quyền mới.
Hiện nay, lực lượng người Iraq chống quân IS hữu hiệu nhất là đạo quân tình nguyện người Shi A, do các tướng lãnh Iran chỉ huy. Bên cạnh là các lực lượng người Kurd, thường được Mỹ viện trợ trực tiếp, nhưng họ chỉ lo bảo vệ vùng đất họ cư ngụ.
Ngoài khả năng tuyên truyền và nhóm cán bộ quân sự nòng cốt rút từ đám quân Iraq đã bị Mỹ giải tán, một sức mạnh khác của phong trào IS là tổ chức kinh tế, tài chánh chặt chẽ. Họ nhắm chiếm các thành phố trung tâm của những vùng mỏ dầu lửa, ở Iraq và Syria. Chiếm được các nhà máy lọc dầu là họ mở đường bán lậu, một nửa số tiền thu vào được chi cho quân sĩ. IS cũng cố chiếm các thành phố có di tích lịch sử. Vùng Trung Ðông từng là sân khấu của nhiều nền văn minh, Hy Lạp, Ba Tư, La Mã, Thiên Chúa Giáo và Hồi Giáo. Nhiều đạo quân của các đế quốc cũng từng tranh hùng trong vùng này, kể cả quân Mông Cổ. IS vẫn bán các món đồ cổ lấy được để thu tiền. Một nguồn tài chánh khác là bắt con tin, đòi tiền chuộc.
IS cũng “quốc hữu hóa” các doanh nghiệp, từ các nhà làm bánh tới các cửa hàng bán lẻ. Họ đánh thuế trên các xí nghiệp khác, tạo nguồn thu giúp cho một hệ thống an sinh nuôi cán bộ, như chúng ta đã thấy trong câu chuyện Abu Bilal al-Homsi cưới vợ. Hisham al-Hashemi, một người Iraq chuyên nghiên cứu về IS ước tính IS hiện làm chủ một tài sản khoảng 8 đến 9 tỷ Mỹ kim.
Trong chiến dịch chống IS, quân đội Mỹ đóng vai chính và thành công về tình báo, nhờ vệ tinh nhân tạo, các máy nghe lén hoặc quan sát điện tử, và máy bay không người lái. Tháng trước, biệt kích Mỹ đã đánh giết được một thủ lãnh quan trọng là Abu Sayyaf, một người đứng đầu mạng lưới bán dầu lủa cho IS. Quân Mỹ đã bắt, mang theo bà vợ của ông ta, đưa về Iraq khai thác. Nhưng kho tài liệu quý giá là những tin tức, dữ kiện nằm trong các máy vi tính bắt được. Nhờ thế, Mỹ đã biết rõ hơn về các đường dây buôn lậu dầu lửa của IS. Một tin tức đã được sử dụng ngay, máy bay Mỹ biết chỗ đánh bom giết một thủ lãnh IS khác ở Syria.
Các tin tức dẫn đến trận đột kích Abu Sayyaf là do phỏng vấn một phụ nữ đã trốn khỏi quân IS ở Iraq vào Tháng Ba năm 2015. Nhờ thế, quân Mỹ đã theo dõi việc di chuyển và công việc hàng ngày của Sayyaf trong vùng quân IS chiếm ở phía Ðông Syria, trước khi tấn công vào Tháng Năm vừa qua.
Nhưng mặc dù đã mất nhiều người, mất một phần nguồn tài chánh nhờ dầu lửa, lực lượng IS sẽ còn tồn tại lâu. Trung tâm guồng máy của họ là thành phố Mosul, thủ phủ tỉnh Nineveh, một vùng dầu lửa tại Iraq. Các thành phố của IS trong tỉnh Nibeveh và Anbar đều đặt dưới quyền của các cựu sĩ quan của Hussein, hầu hết từng là tù nhân trong trại Bucca, nơi được coi là lò đào tạo các cán bộ IS. Mười hai năm sau khi Hussein bị lật đổ, bây giờ các tướng lãnh Iran đang chỉ huy các đội quân địa phương ở cả Iraq lẫn Syria. Phong trào IS sẽ tan rã khi nào các chính phủ Á Rập trong vùng kết hợp được với nhau cùng chống họ, đồng thời đương đầu với cuộc bành trướng của Iran. Chính phủ Mỹ có thể hỗ trợ họ, nhưng không thể làm thay cho họ.
-
- Posts: 859
- Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm
Sự giả dối của Trung Quốc về vấn đề Biển Đông
Giới phân tích cho rằng Trung Quốc luôn cố đóng vai "nạn nhân" ở Biển Đông, nói một đằng nhưng làm một nẻo,
vì vậy không thể tin những gì quan chức nước này phát biểu.

Trung Quốc nói "kiềm chế" nhưng vẫn ồ ạt bồi đắp, xây dựng ở Biển Đông. Ảnh: CSIS
Nhà phân tích Graeme Dobell của Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI) cho rằng, với chủ đề Biển Đông, mỗi lần Bắc Kinh phát biểu thì lại là những phàn nàn về sự bất công nào đó đang áp đặt cho Trung Quốc "bất chấp quyền và lợi ích không thể chối cãi" của nước này. Ngôn từ kiểu một nạn nhân như "mọi người xúm vào để chống lại nước Trung Quốc tội nghiệp nhưng rồi Bắc Kinh sẽ vượt lên chiến thắng dù những vết thương lòng lịch sử vẫn nhức nhối."
Graem Dobell dẫn ví dụ về trường hợp đáp lại các ý kiến của Mỹ về tự do hàng hải và luật pháp quốc tế ở Biển Đông, chuyên gia Trung Quốc Yanmei Xei cho rằng Bắc Kinh "không xem hành động của Hải quân Mỹ là nhằm vào việc duy trì luật pháp quốc tế. Thay vào đó, Trung Quốc cho rằng Washington chủ yếu là muốn ngăn chặn sự trỗi dậy của Bắc Kinh."
Bắc Kinh thường tự hào tuyên bố về sức mạnh của mình, nhưng trong rất nhiều thông điệp khi cần thể hiện ra, nước này lại cư xử như kiểu các thiếu nữ: "sao mọi người quá đáng với em thế?"
Những tuyên bố sáo rỗng
Một ví dụ nữa về khác biệt giữa lời nói và việc làm là Bắc Kinh luôn nhắc những điệp khúc về hòa bình, ổn định đầy hoa mỹ, bất chấp thực tế các nước trong khu vực sục sôi phản đối hành động bồi đắp, xây dựng ở các bãi đá ngầm của nước này trên Biển Đông.
Tại diễn đàn an ninh khu vực Đối thoại Shangri-La ở Singapore hồi tháng 5/2015, trưởng đoàn Trung Quốc là Đô đốc Tôn Kiến Quốc, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), đã phát biểu: "Chúng tôi hy vọng các nước liên quan sẽ làm việc cùng nhau trên cùng quan điểm để xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác."
Câu này đã được Graem Dobell châm biếm diễn giải là: "Chúng tôi chắc chắc sẽ tiếp tục xây dựng đảo nhân tạo. Hàng núi cát tiếp tục được hút và bồi đắp. Quý vị hãy quen dần với chuyện đó đi. Hãy chấp nhận thực tế mới và những việc đã rồi của chúng tôi."
Còn với kết luận của Đô đốc Tôn "chúng tôi hy vọng rằng tất cả các nước trên thế giới có tinh thần cùng chiến thắng, hợp tác để tất cả cùng chiến thắng, sẽ củng cố đối thoại và tham vấn, có những nỗ lực kiên định để bảo vệ hòa bình và ổn định" thì Dobell cho rằng "cùng chiến thắng có nghĩa Bắc Kinh thắng cả hai lần, còn tất cả cùng chiến thắng có nghĩa Bắc Kinh thắng tất cả."
Một học giả khác là Giáo sư Evelyn Goh, Khoa Quan hệ quốc tế của Đại học Oxford, nhận xét "với người Trung Quốc, Đối thoại Shangri-La chỉ có mục đích để nêu thực tế khó chịu là khu vực châu Á - Thái Bình Dương gồm toàn các đồng minh và bạn bè của Mỹ mà trong đó nhiều nước có nguồn lực lớn."
Cố tình hiểu khác
Nhà phân tích Graeme Dobell cho rằng trong các cuộc gặp song phương gần đây, cả hai bên Mỹ - Trung có nhiều điều chưa nghe nhau nói hết và dùng đầy những ẩn dụ khiến phải phỏng đoán. Đôi lúc, hai bên tưởng sẽ nói về cùng một chủ đề nhưng thực sự thì là những điều rất khác nhau hoặc có cách hiểu không giống nhau.
Với Trung Quốc, quan hệ trục với các nước lớn mới giữ vai trò trọng yếu vì tự coi bản thân là một nước lớn, có tầm vóc kinh tế quan trọng. Chính vì thế, Bắc Kinh hành động với giả định rằng vấn đề các đảo nhân tạo ở Biển Đông chỉ đứng hàng thứ hai hoặc thứ ba trong số các vấn đề tồn tại trong "mối quan hệ kiểu siêu cường" với Mỹ.
Trung Quốc cũng áp dụng mối quan hệ nước lớn để đổi chác lợi ích. Khi Mỹ tuyên bố không tỏ thái độ với bất kỳ bên nào đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông thì Bắc Kinh hài lòng. Nhưng khi Mỹ tỏ quan ngại về tự do hàng hải ở vùng biển này thì lập tức Bắc Kinh phản ứng rồi nhanh chóng chuyển sang nhấn mạnh đến các chủ đề hợp tác được cho là quan trọng khác.
Bắc Kinh cũng giả định rằng "mối quan ngại" lớn nhất của Trung Quốc và Mỹ là xây dựng nhóm g2 (đơn giản là hai nước) thành nhóm G2 (hai siêu cường). Giới phân tích cho rằng chắc chắn Trung Quốc sẽ nhấn mạnh "mối quan hệ kiểu siêu cường" này trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 9 tới.
Vì coi Biển Đông không phải là vấn đề cốt lõi giữa hai siêu cường nên Bắc Kinh đã không nắm bắt tất cả những tín hiệu khác biệt đến từ Mỹ. Theo truyền thống, Hạm đội 7 Thái Bình Dương nói riêng và Hải quân Mỹ nói chung có vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ. Đó là lý do Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương luôn là người của Hải quân Mỹ.
Đối với Hải quân Mỹ, Biển Đông thực sự là vấn đề quan trọng, có tính then chốt. Một trong những phát biểu của quan chức Hải quân Mỹ được chú ý nhất là của Đô đốc Harry Harris tại ASPI vào tháng 3/2015 về "thành lũy cát" của Trung Quốc.
Giới phân tích nhận định từ quan điểm Hải quân Mỹ thể hiện về vấn đề Biển Đông có thể thấy đánh giá của Mỹ là hoàn toàn được hiểu theo nghĩa đen. Washington có thể nhận thức rõ về quan hệ kinh tế Mỹ - Trung nhưng không vì thế mà bỏ qua sự nghiêm trọng trong vấn đề Biển Đông, một lợi ích chiến lược to lớn không thua kém quan hệ với Trung Quốc.
Về vấn đề này, Dobell cho rằng Trung Quốc cần phải cân nhắc câu hỏi của giáo sư Nick Bisley của Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học La Trobe, Australia rằng "Tại sao Mỹ lại chấp nhận rủi ro trong quan hệ Mỹ - Trung để chỉ trích vấn đề đá, đá ngầm và đảo nhân tạo?"
Theo Nick, Trung Quốc đã "thực sự ngạc nhiên khi Mỹ tỏ thái độ cương quyết" trong vấn đề Biển Đông. Thực ra, đơn giản là Bắc Kinh đã không đánh giá đúng mức cách thức mà Mỹ cân bằng lợi ích và xác định lợi ích chiến lược. Ông cũng cho rằng Bắc Kinh nên đọc lại bài phát biểu của đô đốc Harris tại ASPI. Thời điểm đưa ra phát biểu về "thành lũy cát", Harris là tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, nhưng giờ ông đã thăng chức, thành tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương. Khi diễn giải phía bên kia đang nói gì, "điều quan trọng là cần phải nhìn nhận ai đang nói gì và họ nắm quyền lực gì để thực thi lời nói của mình", Nick gửi gắm tới Bắc Kinh.
Minh Châu
(theo National Interest)
Giới phân tích cho rằng Trung Quốc luôn cố đóng vai "nạn nhân" ở Biển Đông, nói một đằng nhưng làm một nẻo,
vì vậy không thể tin những gì quan chức nước này phát biểu.

Trung Quốc nói "kiềm chế" nhưng vẫn ồ ạt bồi đắp, xây dựng ở Biển Đông. Ảnh: CSIS
Nhà phân tích Graeme Dobell của Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI) cho rằng, với chủ đề Biển Đông, mỗi lần Bắc Kinh phát biểu thì lại là những phàn nàn về sự bất công nào đó đang áp đặt cho Trung Quốc "bất chấp quyền và lợi ích không thể chối cãi" của nước này. Ngôn từ kiểu một nạn nhân như "mọi người xúm vào để chống lại nước Trung Quốc tội nghiệp nhưng rồi Bắc Kinh sẽ vượt lên chiến thắng dù những vết thương lòng lịch sử vẫn nhức nhối."
Graem Dobell dẫn ví dụ về trường hợp đáp lại các ý kiến của Mỹ về tự do hàng hải và luật pháp quốc tế ở Biển Đông, chuyên gia Trung Quốc Yanmei Xei cho rằng Bắc Kinh "không xem hành động của Hải quân Mỹ là nhằm vào việc duy trì luật pháp quốc tế. Thay vào đó, Trung Quốc cho rằng Washington chủ yếu là muốn ngăn chặn sự trỗi dậy của Bắc Kinh."
Bắc Kinh thường tự hào tuyên bố về sức mạnh của mình, nhưng trong rất nhiều thông điệp khi cần thể hiện ra, nước này lại cư xử như kiểu các thiếu nữ: "sao mọi người quá đáng với em thế?"
Những tuyên bố sáo rỗng
Một ví dụ nữa về khác biệt giữa lời nói và việc làm là Bắc Kinh luôn nhắc những điệp khúc về hòa bình, ổn định đầy hoa mỹ, bất chấp thực tế các nước trong khu vực sục sôi phản đối hành động bồi đắp, xây dựng ở các bãi đá ngầm của nước này trên Biển Đông.
Tại diễn đàn an ninh khu vực Đối thoại Shangri-La ở Singapore hồi tháng 5/2015, trưởng đoàn Trung Quốc là Đô đốc Tôn Kiến Quốc, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA), đã phát biểu: "Chúng tôi hy vọng các nước liên quan sẽ làm việc cùng nhau trên cùng quan điểm để xây dựng Biển Đông thành vùng biển hòa bình, hữu nghị và hợp tác."
Câu này đã được Graem Dobell châm biếm diễn giải là: "Chúng tôi chắc chắc sẽ tiếp tục xây dựng đảo nhân tạo. Hàng núi cát tiếp tục được hút và bồi đắp. Quý vị hãy quen dần với chuyện đó đi. Hãy chấp nhận thực tế mới và những việc đã rồi của chúng tôi."
Còn với kết luận của Đô đốc Tôn "chúng tôi hy vọng rằng tất cả các nước trên thế giới có tinh thần cùng chiến thắng, hợp tác để tất cả cùng chiến thắng, sẽ củng cố đối thoại và tham vấn, có những nỗ lực kiên định để bảo vệ hòa bình và ổn định" thì Dobell cho rằng "cùng chiến thắng có nghĩa Bắc Kinh thắng cả hai lần, còn tất cả cùng chiến thắng có nghĩa Bắc Kinh thắng tất cả."
Một học giả khác là Giáo sư Evelyn Goh, Khoa Quan hệ quốc tế của Đại học Oxford, nhận xét "với người Trung Quốc, Đối thoại Shangri-La chỉ có mục đích để nêu thực tế khó chịu là khu vực châu Á - Thái Bình Dương gồm toàn các đồng minh và bạn bè của Mỹ mà trong đó nhiều nước có nguồn lực lớn."
Cố tình hiểu khác
Nhà phân tích Graeme Dobell cho rằng trong các cuộc gặp song phương gần đây, cả hai bên Mỹ - Trung có nhiều điều chưa nghe nhau nói hết và dùng đầy những ẩn dụ khiến phải phỏng đoán. Đôi lúc, hai bên tưởng sẽ nói về cùng một chủ đề nhưng thực sự thì là những điều rất khác nhau hoặc có cách hiểu không giống nhau.
Với Trung Quốc, quan hệ trục với các nước lớn mới giữ vai trò trọng yếu vì tự coi bản thân là một nước lớn, có tầm vóc kinh tế quan trọng. Chính vì thế, Bắc Kinh hành động với giả định rằng vấn đề các đảo nhân tạo ở Biển Đông chỉ đứng hàng thứ hai hoặc thứ ba trong số các vấn đề tồn tại trong "mối quan hệ kiểu siêu cường" với Mỹ.
Trung Quốc cũng áp dụng mối quan hệ nước lớn để đổi chác lợi ích. Khi Mỹ tuyên bố không tỏ thái độ với bất kỳ bên nào đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông thì Bắc Kinh hài lòng. Nhưng khi Mỹ tỏ quan ngại về tự do hàng hải ở vùng biển này thì lập tức Bắc Kinh phản ứng rồi nhanh chóng chuyển sang nhấn mạnh đến các chủ đề hợp tác được cho là quan trọng khác.
Bắc Kinh cũng giả định rằng "mối quan ngại" lớn nhất của Trung Quốc và Mỹ là xây dựng nhóm g2 (đơn giản là hai nước) thành nhóm G2 (hai siêu cường). Giới phân tích cho rằng chắc chắn Trung Quốc sẽ nhấn mạnh "mối quan hệ kiểu siêu cường" này trong chuyến thăm Mỹ của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tháng 9 tới.
Vì coi Biển Đông không phải là vấn đề cốt lõi giữa hai siêu cường nên Bắc Kinh đã không nắm bắt tất cả những tín hiệu khác biệt đến từ Mỹ. Theo truyền thống, Hạm đội 7 Thái Bình Dương nói riêng và Hải quân Mỹ nói chung có vai trò quan trọng trong hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ. Đó là lý do Tư lệnh Bộ Chỉ huy Thái Bình Dương luôn là người của Hải quân Mỹ.
Đối với Hải quân Mỹ, Biển Đông thực sự là vấn đề quan trọng, có tính then chốt. Một trong những phát biểu của quan chức Hải quân Mỹ được chú ý nhất là của Đô đốc Harry Harris tại ASPI vào tháng 3/2015 về "thành lũy cát" của Trung Quốc.
Giới phân tích nhận định từ quan điểm Hải quân Mỹ thể hiện về vấn đề Biển Đông có thể thấy đánh giá của Mỹ là hoàn toàn được hiểu theo nghĩa đen. Washington có thể nhận thức rõ về quan hệ kinh tế Mỹ - Trung nhưng không vì thế mà bỏ qua sự nghiêm trọng trong vấn đề Biển Đông, một lợi ích chiến lược to lớn không thua kém quan hệ với Trung Quốc.
Về vấn đề này, Dobell cho rằng Trung Quốc cần phải cân nhắc câu hỏi của giáo sư Nick Bisley của Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học La Trobe, Australia rằng "Tại sao Mỹ lại chấp nhận rủi ro trong quan hệ Mỹ - Trung để chỉ trích vấn đề đá, đá ngầm và đảo nhân tạo?"
Theo Nick, Trung Quốc đã "thực sự ngạc nhiên khi Mỹ tỏ thái độ cương quyết" trong vấn đề Biển Đông. Thực ra, đơn giản là Bắc Kinh đã không đánh giá đúng mức cách thức mà Mỹ cân bằng lợi ích và xác định lợi ích chiến lược. Ông cũng cho rằng Bắc Kinh nên đọc lại bài phát biểu của đô đốc Harris tại ASPI. Thời điểm đưa ra phát biểu về "thành lũy cát", Harris là tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương, nhưng giờ ông đã thăng chức, thành tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương. Khi diễn giải phía bên kia đang nói gì, "điều quan trọng là cần phải nhìn nhận ai đang nói gì và họ nắm quyền lực gì để thực thi lời nói của mình", Nick gửi gắm tới Bắc Kinh.
Minh Châu
(theo National Interest)