Quán Vắng không Người ...3
Moderator: khieulong
Tại sao chúng ta cười?
Tiếng cười là một hình thức đặc biệt của sự nhận thức, một nhà nghiên cứu Australia đã nhận định như vậy khi cố gắng tìm hiểu mô hình đằng sau sự hài hước.
Ann Hale, nhà nhân chủng học y tế tại Đại học Sydney, tin rằng những mẩu chuyện cười được tạo ra bằng cách đặt cạnh nhau 2 khái niệm không tương xứng.
Chẳng hạn, bà Hale kể câu chuyện về một tù nhân chơi bài với người cai ngục. Vì người tù nhân đó chơi gian lận nên họ đã tổng cổ anh ta ra khỏi tù. Hale nói: "Nhà tù giam giữ bạn. Nhưng nếu bạn gian lận, bạn sẽ bị đuổi đi. Vì vậy bạn có 2 khái niệm đối lập ở đây".
Điều tương tự với những trò vui nhộn. Chúng ta cười khi thấy ai đó ngã, nhưng không phải việc ngã khiến chúng ta buồn cười, mà là chính những cố gắng để đứng thẳng được. "Điều khiến mọi người cười khi xem hề xiếc không phải là việc ngã từ dây thừng xuống, mà bạn làm gì để có thể đứng thẳng trên đó", Hale giải thích. "Nó cùng thuộc về một phạm trù nhưng lại không phù hợp nhau".
Các nhà nghiên cứu cho thấy chúng ta có thể nhận ra một cách bản năng những tình huống bất tương xứng ngay từ những năm đầu đời. "Nếu một người mẹ bò về phía mép giường, đứa trẻ sẽ cười khanh khách, bởi điều đó đi ngược lại quy luật truyền thống rằng trẻ em bò, còn mẹ thì đi".
Điều này cho thấy chúng ta phản ứng tức thì với các tình huống bất bình thường mà không nhất thiết phải nhận ra sự hài hước trong đó. Quá trình xử lý suy nghĩ này cũng được so sánh với phản ứng của những vận động viên thể thao nhà nghề, chẳng hạn như một người đánh tennis đỡ trả một quả giao bóng trước khi bộ não vào cuộc.
Tiếng cười là rất cần thiết bởi nó mang lại sự giải lao về nhận thức. "Tiếng cười mang lại sự nghỉ ngơi tạm thời sau những cuộc suy nghĩ căng thẳng. Đó là một hình thức khác của sự nhận thức mà không bị xáo trộn bởi những điều "nên", "nhưng mà" xảy ra mỗi ngày" - Hales nói.
Hale tin rằng tiếng cười là một năng lực đặc biệt của con người. Hiểu được tiếng cười và sự hài hước sẽ giúp chúng ta hiểu được quá trình tiến hoá nhận thức của nhân loại.
M.T. (theo ABC Online)
Ann Hale, nhà nhân chủng học y tế tại Đại học Sydney, tin rằng những mẩu chuyện cười được tạo ra bằng cách đặt cạnh nhau 2 khái niệm không tương xứng.
Chẳng hạn, bà Hale kể câu chuyện về một tù nhân chơi bài với người cai ngục. Vì người tù nhân đó chơi gian lận nên họ đã tổng cổ anh ta ra khỏi tù. Hale nói: "Nhà tù giam giữ bạn. Nhưng nếu bạn gian lận, bạn sẽ bị đuổi đi. Vì vậy bạn có 2 khái niệm đối lập ở đây".
Điều tương tự với những trò vui nhộn. Chúng ta cười khi thấy ai đó ngã, nhưng không phải việc ngã khiến chúng ta buồn cười, mà là chính những cố gắng để đứng thẳng được. "Điều khiến mọi người cười khi xem hề xiếc không phải là việc ngã từ dây thừng xuống, mà bạn làm gì để có thể đứng thẳng trên đó", Hale giải thích. "Nó cùng thuộc về một phạm trù nhưng lại không phù hợp nhau".
Các nhà nghiên cứu cho thấy chúng ta có thể nhận ra một cách bản năng những tình huống bất tương xứng ngay từ những năm đầu đời. "Nếu một người mẹ bò về phía mép giường, đứa trẻ sẽ cười khanh khách, bởi điều đó đi ngược lại quy luật truyền thống rằng trẻ em bò, còn mẹ thì đi".
Điều này cho thấy chúng ta phản ứng tức thì với các tình huống bất bình thường mà không nhất thiết phải nhận ra sự hài hước trong đó. Quá trình xử lý suy nghĩ này cũng được so sánh với phản ứng của những vận động viên thể thao nhà nghề, chẳng hạn như một người đánh tennis đỡ trả một quả giao bóng trước khi bộ não vào cuộc.
Tiếng cười là rất cần thiết bởi nó mang lại sự giải lao về nhận thức. "Tiếng cười mang lại sự nghỉ ngơi tạm thời sau những cuộc suy nghĩ căng thẳng. Đó là một hình thức khác của sự nhận thức mà không bị xáo trộn bởi những điều "nên", "nhưng mà" xảy ra mỗi ngày" - Hales nói.
Hale tin rằng tiếng cười là một năng lực đặc biệt của con người. Hiểu được tiếng cười và sự hài hước sẽ giúp chúng ta hiểu được quá trình tiến hoá nhận thức của nhân loại.
M.T. (theo ABC Online)
Sức Mạnh Đàn Ông
Là một người đàn ông, cần phải có sức mạnh để bảo vệ gia đình. Nhưng sức mạnh là gì?
- Sức mạnh không phải ở chiều rộng của đôi vai mà thể hiện ở bề rộng của vòng tay bao bọc và bảo vệ người khác.
- Sức mạnh không phải ở sự âm vang của giọng nói mà thể hiện trong những lời nói dịu dàng, tử tế.
- Sức mạnh không phải ở chỗ nói hay hoặc hay nói mà thể hiện qua cách anh ta biết giữ im lặng như thế nào.
- Sức mạnh không phải anh ta được tôn trọng như thế nào ở nơi công sở mà là ở ngay trong mái ấm của chính mình.
- Sức mạnh không phải ở trọng lượng của nắm đấm mà ở trong sự dịu dàng của bàn tay biết nắm lấy một bàn tay.
- Sức mạnh không phải là anh ta đã yêu bao nhiêu người phụ nữ mà là anh ta thủy chung như thế nào với một người phụ nữ mà mình đã yêu.
- Sức mạnh không phải là anh ta đã nhấc lên được bao nhiêu cân nặng mà thể hiện qua cách anh ta gánh vác cuộc đời.
- Sức mạnh không phải là có bao nhiêu tài sản được quyền thừa kế mà là ở nỗ lực của anh ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, tự vươn lên phía trước như thế nào.
- Một người đàn ông thực sự mạnh mẽ sẽ biết đặt tình yêu thương và gia đình lên trên hết, danh vọng và sự nghiệp ở hàng thứ hai.

- Sức mạnh không phải ở chiều rộng của đôi vai mà thể hiện ở bề rộng của vòng tay bao bọc và bảo vệ người khác.
- Sức mạnh không phải ở sự âm vang của giọng nói mà thể hiện trong những lời nói dịu dàng, tử tế.
- Sức mạnh không phải ở chỗ nói hay hoặc hay nói mà thể hiện qua cách anh ta biết giữ im lặng như thế nào.
- Sức mạnh không phải anh ta được tôn trọng như thế nào ở nơi công sở mà là ở ngay trong mái ấm của chính mình.
- Sức mạnh không phải ở trọng lượng của nắm đấm mà ở trong sự dịu dàng của bàn tay biết nắm lấy một bàn tay.
- Sức mạnh không phải là anh ta đã yêu bao nhiêu người phụ nữ mà là anh ta thủy chung như thế nào với một người phụ nữ mà mình đã yêu.
- Sức mạnh không phải là anh ta đã nhấc lên được bao nhiêu cân nặng mà thể hiện qua cách anh ta gánh vác cuộc đời.
- Sức mạnh không phải là có bao nhiêu tài sản được quyền thừa kế mà là ở nỗ lực của anh ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, tự vươn lên phía trước như thế nào.
- Một người đàn ông thực sự mạnh mẽ sẽ biết đặt tình yêu thương và gia đình lên trên hết, danh vọng và sự nghiệp ở hàng thứ hai.

Bài hát từ trái tim Có một người đàn ông tốt bụng cưới được người phụ nữ như ông hằng mơ ước. Tình yêu của họ đơm hoa kết trái và họ sinh hạ được một cô con gái rất xinh xắn, dễ thương.
Khi cô gái đã lớn, người cha vẫn thường ôm cô vào lòng và nói: "Bố yêu con, con gái bé bỏng của bố". Cô con gái giận dỗi: "Kìa bố, con không còn là một đứa bé nữa". Nhưng người cha luôn cười xòa và đáp: "Đối với bố, con luôn là con gái bé bỏng của bố".
Một ngày kia, cô-con-gái-không-còn-bé-bỏng ấy quyết định rời khỏi ngôi nhà thân yêu của mình để khám phá thế giới xung quanh. Khi cô gái thật sự hiểu về bản thân mình thì cũng là lúc cô hiểu về cha mình hơn. Một trong những điểm mạnh của ông là ông luôn bày tỏ tình thương yêu với gia đình của mình. bất kể cô đang ở đâu, cha vẫn gọi cho cô và nói rằng: "Bố yêu con, con gái bé bỏng của bố".
Một ngày nọ, cô gái nhận được một cú điện thoại không mong đợi: cha cô đã bị liệt sau một cơn đột quỵ. Ông không thể nói, không thể cười, không thể đi lại... và không thể nói được với cô rằng ông rất yêu cô.
Cô trở về bên cha. Khi bước vào phòng, cô thấy ông nằm đó, trông thật bé nhỏ và ốm yếu. Ông gắng gượng trò chuyện cùng cô nhưng không thể. điều duy nhất mà cô có thể làm là ngồi bên cạnh ông, vòng tay ôm lấy đôi vai bất động của cha mình. Tựa đầu lên ngực cha, cô suy ngẫm nhiều điều. Cô nhớ lại rằng mình luôn cảm thấy được cha che chở, nâng niu từ tấm bé. Cô thấy lòng quặn thắt trước nỗi đau sắp mất đi người cha yêu quý. Không còn nữa rồi những lời yêu thương vỗ về của cha.
Và bỗng nhiên, cô nghe tiếng nhịp đập trái tim người cha. Trái tim ông vẫn đập đều đều, mạnh mẽ, như muốn vượt lên tất cả những phần cơ thể đau yếu còn lại. Và trong giây phút được bình yên trên ngực cha như thế, điều kỳ diệu đã xảy ra: Cô đã nghe được những lời yêu thương mà cô muốn nghe!
Trái tim của người cha phát ra những lời mà miệng ông không còn nói được nữa: "Bố yêu con, con gái bé bỏng của bố... Bố yêu con..." và cô đã được vỗ về, an ủi bởi những lời nói yêu thương vô hình ấy của cha.
Theo Patty Hansen

Sức Mạnh Đàn Ông Là một người đàn ông, cần phải có sức mạnh để bảo vệ gia đình. Nhưng sức mạnh là gì?
- Sức mạnh không phải ở chiều rộng của đôi vai mà thể hiện ở bề rộng của vòng tay bao bọc và bảo vệ người khác.
- Sức mạnh không phải ở sự âm vang của giọng nói mà thể hiện trong những lời nói dịu dàng, tử tế.
- Sức mạnh không phải ở chỗ nói hay hoặc hay nói mà thể hiện qua cách anh ta biết giữ im lặng như thế nào.
- Sức mạnh không phải anh ta được tôn trọng như thế nào ở nơi công sở mà là ở ngay trong mái ấm của chính mình.
- Sức mạnh không phải ở trọng lượng của nắm đấm mà ở trong sự dịu dàng của bàn tay biết nắm lấy một bàn tay.
- Sức mạnh không phải là anh ta đã yêu bao nhiêu người phụ nữ mà là anh ta thủy chung như thế nào với một người phụ nữ mà mình đã yêu.
- Sức mạnh không phải là anh ta đã nhấc lên được bao nhiêu cân nặng mà thể hiện qua cách anh ta gánh vác cuộc đời.
- Sức mạnh không phải là có bao nhiêu tài sản được quyền thừa kế mà là ở nỗ lực của anh ta vượt qua những khó khăn trong cuộc sống, tự vươn lên phía trước như thế nào.
- Một người đàn ông thực sự mạnh mẽ sẽ biết đặt tình yêu thương và gia đình lên trên hết, danh vọng và sự nghiệp ở hàng thứ hai.
Sưu Tầm
Bikini mừng sinh nhật 60 vào mùa hè năm nay

Dù đang ở độ tuổi chưa già nhưng không còn trẻ nữa, Bikini vẫn còn tươi , vẫn sexy, vẫn còn được mọi người yêu chuộng. Bikini vẫn luôn luôn được nồng nhiệt đón chào ngay cả trên những bãi tắm „phần trên không cần che đậy“ nỗi tiếng trên thế giới.
Dù Bikini đã được sinh trưởng từ lâu nhưng mãi đợi đến năm 1962 cô tài tử Holywood Ursula Andress, gốc người Thụy Sỹ mới đưa Bikini lên đài danh vọng trên khắp thế giới qua cuộn phim "James Bond – 007 săn đuổi Dr. No“. Trong vai cô gái thợ lặn tìm ốc Honey Ryder với bộ Bikini xuất hiện thật lôi cuốn : Trên chỉ có mảnh vải che ngực phía dưới quanh cái quần tắm nhỏ là một sợi dây thắt lưng của lính gắn thêm một cây dao găm.
Cho đến ngày nay cô tài tử Andress vẫn còn được xem là nữ hoàng Bikini. Vừa qua bộ Bikini kể trên được bán đấu giá tại London với giá 50 000 Bảng Anh. Đây là điều mà cô Andress trước đó không bao giờ nghĩ đến vì cô từng thố lộ, sau khi đóng phim „James Bond – 007 săn đuổi Dr. No“ cô đã có ý định vất bỏ bộ áo tăm „nhỏ nhoi“ này.
Cách đây chừng 4 năm, Bikini lại được lên đài danh vọng qua cô Halle Berry, nữ diễn viên nhận giãi Oscar trong phim Jame Bond "Chết vào một ngày khác“. Cũng chỉ 2 mãnh vải che thân, cũng với cây dao thắt ngang lưng, Berry đã đưa thế giới chú ý trở lại với Bikini.

Thậr ra ngoài 2 cô kể trên, Bikini còn được hân hạnh „ôm ấp“ những người đẹp của thế giới như là Brigitte Bardot, Raquel Welch, Claudia Schiffer hay là Heidi Klum...
[left]http://img.photobucket.com/albums/v283/ ... ardini.jpg[/left]Thật ra cuộc đời của Bikini cũng lắm điều cay đắng: Ra đời vào ngày 5.7.1946 tại „Molitor“, một nhà tắm sang trọng của Paris. Ông kỹ sư Louis Réard, người cha đẻ của Bikini phải năn nỉ nhiều cô người mẫu để trình diễn Bikini trong dịp này, nhưng không cô nào có can đảm chiu mặc bộ áo 2 mảnh nhỏ nhoi này. Cuối cùng, theo lời một nhà báo :“ Bổng nhiên Micheline Bernardini xuất hiện với bộ áo tắm Bikini, và dường như mọi người đã nín thở vì cô. Chúng tôi như được đưa lên một hành tinh khác, thật bất ngờ“.
Rồi do thành kiến, Bikini bị cấm xuất hiện trên nhiều bãi tắm. Cho mãi đến thập niên 60, khi cuộc cách mạng tình dục được châm ngòi, thì Bikini mới thật sự được đưa lên đài danh vọng. Ngày hôm nay thì mảnh áo tắm Bikini không thể nào vắng mặt từ bãi tắm Copa Cabana cho đến tận vùng biển Đông.
Bikini thành công là do "có mà không, không mà lại có"
Báo Khoa Học và đời sống

Dù đang ở độ tuổi chưa già nhưng không còn trẻ nữa, Bikini vẫn còn tươi , vẫn sexy, vẫn còn được mọi người yêu chuộng. Bikini vẫn luôn luôn được nồng nhiệt đón chào ngay cả trên những bãi tắm „phần trên không cần che đậy“ nỗi tiếng trên thế giới.
Dù Bikini đã được sinh trưởng từ lâu nhưng mãi đợi đến năm 1962 cô tài tử Holywood Ursula Andress, gốc người Thụy Sỹ mới đưa Bikini lên đài danh vọng trên khắp thế giới qua cuộn phim "James Bond – 007 săn đuổi Dr. No“. Trong vai cô gái thợ lặn tìm ốc Honey Ryder với bộ Bikini xuất hiện thật lôi cuốn : Trên chỉ có mảnh vải che ngực phía dưới quanh cái quần tắm nhỏ là một sợi dây thắt lưng của lính gắn thêm một cây dao găm.
Cho đến ngày nay cô tài tử Andress vẫn còn được xem là nữ hoàng Bikini. Vừa qua bộ Bikini kể trên được bán đấu giá tại London với giá 50 000 Bảng Anh. Đây là điều mà cô Andress trước đó không bao giờ nghĩ đến vì cô từng thố lộ, sau khi đóng phim „James Bond – 007 săn đuổi Dr. No“ cô đã có ý định vất bỏ bộ áo tăm „nhỏ nhoi“ này.
Cách đây chừng 4 năm, Bikini lại được lên đài danh vọng qua cô Halle Berry, nữ diễn viên nhận giãi Oscar trong phim Jame Bond "Chết vào một ngày khác“. Cũng chỉ 2 mãnh vải che thân, cũng với cây dao thắt ngang lưng, Berry đã đưa thế giới chú ý trở lại với Bikini.

Thậr ra ngoài 2 cô kể trên, Bikini còn được hân hạnh „ôm ấp“ những người đẹp của thế giới như là Brigitte Bardot, Raquel Welch, Claudia Schiffer hay là Heidi Klum...
[left]http://img.photobucket.com/albums/v283/ ... ardini.jpg[/left]Thật ra cuộc đời của Bikini cũng lắm điều cay đắng: Ra đời vào ngày 5.7.1946 tại „Molitor“, một nhà tắm sang trọng của Paris. Ông kỹ sư Louis Réard, người cha đẻ của Bikini phải năn nỉ nhiều cô người mẫu để trình diễn Bikini trong dịp này, nhưng không cô nào có can đảm chiu mặc bộ áo 2 mảnh nhỏ nhoi này. Cuối cùng, theo lời một nhà báo :“ Bổng nhiên Micheline Bernardini xuất hiện với bộ áo tắm Bikini, và dường như mọi người đã nín thở vì cô. Chúng tôi như được đưa lên một hành tinh khác, thật bất ngờ“.
Rồi do thành kiến, Bikini bị cấm xuất hiện trên nhiều bãi tắm. Cho mãi đến thập niên 60, khi cuộc cách mạng tình dục được châm ngòi, thì Bikini mới thật sự được đưa lên đài danh vọng. Ngày hôm nay thì mảnh áo tắm Bikini không thể nào vắng mặt từ bãi tắm Copa Cabana cho đến tận vùng biển Đông.
Bikini thành công là do "có mà không, không mà lại có"
Báo Khoa Học và đời sống

Ai Bảo Em Là Giai Nhân
Thơ : Lưu Trọng Lư
Nhạc : Anh Bằng
Tiếng Hát : Gia Huy
Em là gái trong song cửa
Anh là mây bốn phương trời
Anh theo cánh gió chơi vơi
Em vẫn nằm trong nhung lụa
Em chỉ là người em gái thôi
Người em sầu mộng cuả muôn đời
Tình em như tuyết dăng đầu núi
Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời
Ai bảo em là giai nhân
Cho đời anh đau khổ ?
Ai bảo em ngồi bên cửa sổ
Cho vương víu nợ thi nhân ?
Ai bảo em là giai nhân
Cho lệ tràn đêm xuân ?
Cho tì nh tràn trước ngõ,
Cho mộng tràn gối chăn ?
XIN ĐỜI MỘT NỤ CƯỜI
Nam Lộc Tháng Tư, 1985, kỷ niệm 10 năm ngày Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản. Truyền thông Mỹ sửa soạn rầm rộ để thực hiện các phóng sự, cùng những cuộc phỏng vấn hầu ghi lại một khúc quanh lịch sử khó quên của đất nước và quân đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam. Trên đường lái xe đến sở làm, suốt những tuần lễ đó, lúc nào mở radio lên tôi cũng đều nghe được các lời phân tích cũng như nhận định về chính sách cùng đường lối của người Mỹ khi họ quyết định đưa quân vào để bảo vệ miền Nam VN. Ngoài những lời phát biểu chua cay của một số cựu viên chức chính quyền thời tổng thống Nixon và Ford, còn thì hầu hết đều là những câu trả lời ngớ ngẩn và không chính xác. Thì ra, chỉ mới có một thập niên mà người ta đã quên đi tất cả? Quên hay không muốn để ý tới, đối với tôi lúc đó đều có ý nghĩa giống nhau
Là một người cố vấn về di trú và tỵ nạn của cơ quan thiện nguyện USCC thời bấy giờ, tôi được mời vào thuyết trình về đề tài “Người Tỵ Nạn VN” tại một lớp học của trường UCLA. Trước khi bắt đầu câu chuyện tôi đưa ra ba câu hỏi để thăm dò xem trình độ hiểu biết của các sinh viên về vấn đề VN vào thời điểm đó cũng như trước năm 1975.
Câu hỏi đầu tiên là “có bao nhiêu bạn sinh viên trong lớp học này biết người Mỹ có tham dự vào chiến tranh VN?”. Hầu hết cả lớp đều giơ tay lên. Nhưng khi tôi hỏi vậy nước Mỹ ủng hộ miền Bắc hay Nam VN, thì tất cả đều ngơ ngác, chỉ còn có hai người đưa tay xin trả lời. Một nói rằng Mỹ ủng hộ quân đội miền Bắc, còn sinh viên kia thì nói người Mỹ chống cả hai!
Câu hỏi kế tiếp “có bao nhiêu bạn biết được lý do về sự hiện diện của người tỵ nạn VN trên đất Mỹ hiện nay?” Có 6 người giơ tay tình nguyện trả lời, nhưng chỉ có một dùng chữ tỵ nạn (refugee) còn 5 sinh viên kia thì cho là người Việt đến HK vì muốn tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn (looking for a better life), người khác thì bảo cũng như các di dân từ Mễ Tây Cơ muốn trốn vào nước Mỹ mà thôi. Ba em kia trả lời giống nhau rằng, cha mẹ các em cho biết, đa số người Việt sống ở Mỹ một cách bất hợp lệ!
Cả lớp học gần 30 sinh viên, mà chỉ có một người biết dân VN đến HK vì lý do tỵ nạn. Vậy thì làm sao mà họ có thể hiểu nổi những đắng cay, chua xót của một khối người đã phải chấp nhận bao hiểm nguy, trăm ngàn tủi nhục, bỏ lại sau lưng gia đình và quê hương để tìm hai chữ Tự Do. Hai chữ Tự Do đánh vần thật giản dị, và lúc nào cũng lai láng trên các miền đất hứa. Nhưng nó là những gì thiêng liêng, cao quý nhất mà hàng triệu người Việt đang phải trả giá bằng nước mắt, bằng máu xương, và bằng thân xác họ. Dù đó là người vượt thoát vào thời điểm khi Sài Gòn vừa thất thủ, hay lang thang qua rừng già, núi thẳm, hoặc lênh đênh trên biển khơi. Mười năm trước đây (1975), thời gian lúc đó (1985) hay mười năm, hai mươi năm sau nữa, nếu Cộng Sản vẫn còn ngự trị trên quê hương đất nước, thì người Việt cũng sẽ tiếp tục bỏ nước ra đi!
Dư âm của buổi thuyết trình tại trường đại học UCLA đã dằn vặt tôi cả hơn một tuần lễ, nhưng đó chính là những dữ kiện thai nghén để tôi cho ra đời nhạc phẩm “Xin Đời Một Nụ Cười”, đúng một tuần lễ trước ngày kỷ niệm 10 năm mất nước. Tôi có nhờ anh Ngô Chí Thịnh, một giáo sư Anh ngữ dịch ngay sang tiếng Anh để đài truyền hình CBS sử dụng trong buổi phỏng vấn chị Kiều Chinh cùng hai người tỵ nạn Cao Miên và Lào. Nhưng tiếc rằng đến khi chương trình CBS được phát hình họ chỉ dùng phần nhạc, nên khán giả theo dõi cũng chẳng biết ý nghĩa của bài hát. Tôi còn nhớ câu nói cay đắng của chị Kiều Chinh lúc đó, chị bảo “tức quá, phải chi mình có một quyển sách Anh ngữ viết về người tỵ nạn VN liệng vào mặt tụi nó, để họ biết tại sao mình phải mang kiếp sống lưu vong”! Tôi chỉ biết nắm tay và nhìn lên đôi mắt buồn diệu vợi của chị.
Ngày 23 tháng 10, 2002, tôi nhận được lời mời của một giáo sư đại học luật khoa, ông Donald Kerwin mời tôi đến nói chuyện với các sinh viên trong một lớp học tại trường đại học Georgetown University ở Hoa Thịnh Đốn với khoảng hơn 30 sinh viên, đặc biệt là có một em người VN. Cô cho biết đã theo cha mẹ vượt biển tỵ nạn và sang HK định cư vào khoảng giữa thập niên 1980, lúc cô vừa được 1 tuổi. Tôi hỏi em là có bao giờ chia sẻ với các bạn câu chuyện nhọc nhằn của thuyền nhân VN cho các bạn đồng lớp được biết hay không? Em trả lời’ “chính em còn không biết rõ cuộc hành trình đó gian khổ ra sao”! Thỉnh thoảng xem TV hoặc báo chí cô có tò mò hỏi cha mẹ về chuyện này, nhưng mẹ đều trả lời là “chuyện dài lắm, kể không hết, thôi lo học đi, để khi khác”. Nhưng theo em thì dường như có điều gì mà mẹ không muốn nói, “hoặc cũng có thể vì cháu không nói rành tiếng Việt, mà mẹ thì không nói giỏi tiếng Anh nên câu chuyện chẳng bao giờ được bắt đầu”! Tôi chợt nhớ lại câu nói của chị Kiều Chinh gần 20 năm về trước, và nói thầm trong bụng là “tức quá, phải chi mình có một quyển sách Anh ngữ viết về ‘Vietnamese Boat People’ liệng vào tay cô bé, để nó biết thế nào là thân phận của một gia đình thuyền nhân, cùng những gì mà họ đã phải trải qua trên đường tìm tự do”! Nhưng chắc chắn không thể là một quyển, vì có thể hàng chục ngàn em như cô bé “thuyền nhân” nói trên đã quên hay không biết đến ý nghĩa của những chuyến đi “tìm chết, để sống” mà người tỵ nạn VN đã phải trải qua.
Tháng Tư 2005, kỷ niệm 30 năm tỵ nạn. Trung tâm Thúy Nga thu hình DVD “30 Năm Viẽn Xứ” và phổ biến nhạc phẩm “Xin Đời Một Nụ Cười” của tôi qua ba giọng hát Khánh Ly, Trần Thái Hòa, và Thế Sơn. Chỉ chưa đầy một tháng sau ngày phát hành, thì trên số báo ra ngày 21, tháng 5, 2005, tờ Công An Thành Phố, qua một bài viết ký tên Phương Liên đã diễn tả (trích nguyên bản) “Quê hương không bao giờ chối bỏ bất cứ ai, kể cả những người vượt biên đã tự động rời bỏ quê mẹ, nhưng đã được lý giải rất lệch lạc, rằng không thể sống ở đất mẹ mà buộc phải bỏ đi như bài ‘Xin Đời Một Nụ Cười’ .... bài hát này đã cố tình tô vẽ và biện minh cho sự ra đi, trốn chạy khỏi đất nước của những kẻ phản quốc là đúng đắn, ca ngợi những vùng đất nơi xứ người là mảnh đất của Tự Do ...”
30 năm sau báo chí nhà nước vẫn gọi những người ra đi là “kẻ phản quốc”. bài “Xin Đời Một Nụ Cười” tôi viết năm 1985, khi cao trào vượt biển lên cao, khi mà “đất mẹ không chối bỏ một ai”, nhưng lại bắt hết đám “sĩ quan ngụy” vào tù, còn người miền Nam thì đi vùng kinh tế mới. Nhà cửa bị tịch thu, nên “không sống ở đất mẹ, mà buộc phải bỏ đi”, tôi không nghĩ đó là những lý giải lệch lạc. Tôi đố tác giả bài báo trích từng câu trong ca khúc “Xin Đời Một Nụ Cười” và tìm được tôi sai ở chỗ nào? Nhưng tiếc rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xẩy ra với chế độ thông tin một chiều ở VN hiện nay. Nhà nước CS chỉ lợi dụng quyền tự do báo chí ở hải ngoại phổ biến bừa bãi, để kết tội và vu khống. Trong khi đó thì lại bưng bít những tin tức từ nước ngoài gởi về quốc nội.
Gần đây nhất, ngày 18 tháng 9, 2006, trên tờ Công An Thành Phố HCM, đã phổ biến một bài báo ký tên Phúc Huy, “chửi rủa” thậm tệ nhạc sĩ Việt Dzũng, có một đoạn nói về thuyền nhân tỵ nạn VN như sau (trích nguyên bản) “Việt Dzũng sáng tác, trình bầy hàng loạt ca khúc phản động như Kinh Tị Nạn, Lưu Vong Khúc .... để kích động nạn vượt biên trái phép. Nhiều người đã bỏ mình trên biển cả hoặc bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, chịu đau đớn cả đời, gia đình tan nát cũng vì tin theo những luận điệu xuyên tạc như thế...”
Nếu CSVN thực tâm muốn tìm hiểu chuyện này thì thử làm một cuộc thăm dò ý kiến để xem trong số gần một triệu thuyền nhân, có bao nhiêu người vì nghe nhạc của ông Việt Dzũng “xúi dục” mà xuống thuyền đi tỵ nạn? Hãy tạm bỏ ra ngoài những phán quyết về tư cách của các bài báo nói trên. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu các thế hệ sau có hiểu được lý do và ý nghĩa của cuộc tìm kiếm tự do vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc VN hay không? Liệu những người dân hoặc thế hệ trẻ ở trong nước, nếu không được giải thích, họ có bị ảnh hưởng bởi những bài báo đang cố tình bóp mép và xuyên tạc lịch sử hay không? Làm sao để cho người bản xứ, đặc biệt là các sinh viên đại học ở HK hoặc các nước tự do khác có được những tài liệu chính xác để đối chiếu với lịch sử cận đại về cuộc hành trình tìm tự do đầy bi hùng của một dân tộc không chấp nhận chế độ Cộng Sản? Chắc chắn không có gì trung thực hơn bằng chính lời tự thuật của những người trong cuộc, bằng các nhân chứng sống và bằng tiếng nói chân thành từ trái tim của một con người VN đích thực với tấm lòng nhân bản. Những câu chuyện “Viết Về Nước Mỹ”, “Chuyện Tù Cải Tạo”, “Hành Trình Biển Đông”, “Người Thương Binh VNCH” v..v.., sẽ là những câu trả lời chính xác nhất. Và đó cũng là lý do tôi hỗ trợ công việc làm hiện nay của anh Ngụy Vũ hay bất cứ ai đang có những nỗ lực sưu tầm, dịch thuật, phổ biến và gìn giữ những tác phẩm văn học và nghệ thuật cho đời ta và cho đời sau.
Quá khứ dù có buồn thảm đến đâu, dù có hận thù thế nào, thì vẫn là lịch sử. Mà lịch sử thì cần phải ghi nhận một cách trung thực và đứng đắn. Cần phải lưu giữ và lại càng phải lưu truyền. Kẻ nào không tôn trọng hay cố tình làm sai lạc, chắc chắn sẽ có tội với giống nói và quê hương, tổ quốc.
Nam Lộc (Tháng 10, 2006)
Nam Lộc Tháng Tư, 1985, kỷ niệm 10 năm ngày Sài Gòn rơi vào tay Cộng Sản. Truyền thông Mỹ sửa soạn rầm rộ để thực hiện các phóng sự, cùng những cuộc phỏng vấn hầu ghi lại một khúc quanh lịch sử khó quên của đất nước và quân đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam. Trên đường lái xe đến sở làm, suốt những tuần lễ đó, lúc nào mở radio lên tôi cũng đều nghe được các lời phân tích cũng như nhận định về chính sách cùng đường lối của người Mỹ khi họ quyết định đưa quân vào để bảo vệ miền Nam VN. Ngoài những lời phát biểu chua cay của một số cựu viên chức chính quyền thời tổng thống Nixon và Ford, còn thì hầu hết đều là những câu trả lời ngớ ngẩn và không chính xác. Thì ra, chỉ mới có một thập niên mà người ta đã quên đi tất cả? Quên hay không muốn để ý tới, đối với tôi lúc đó đều có ý nghĩa giống nhau

Là một người cố vấn về di trú và tỵ nạn của cơ quan thiện nguyện USCC thời bấy giờ, tôi được mời vào thuyết trình về đề tài “Người Tỵ Nạn VN” tại một lớp học của trường UCLA. Trước khi bắt đầu câu chuyện tôi đưa ra ba câu hỏi để thăm dò xem trình độ hiểu biết của các sinh viên về vấn đề VN vào thời điểm đó cũng như trước năm 1975.
Câu hỏi đầu tiên là “có bao nhiêu bạn sinh viên trong lớp học này biết người Mỹ có tham dự vào chiến tranh VN?”. Hầu hết cả lớp đều giơ tay lên. Nhưng khi tôi hỏi vậy nước Mỹ ủng hộ miền Bắc hay Nam VN, thì tất cả đều ngơ ngác, chỉ còn có hai người đưa tay xin trả lời. Một nói rằng Mỹ ủng hộ quân đội miền Bắc, còn sinh viên kia thì nói người Mỹ chống cả hai!
Câu hỏi kế tiếp “có bao nhiêu bạn biết được lý do về sự hiện diện của người tỵ nạn VN trên đất Mỹ hiện nay?” Có 6 người giơ tay tình nguyện trả lời, nhưng chỉ có một dùng chữ tỵ nạn (refugee) còn 5 sinh viên kia thì cho là người Việt đến HK vì muốn tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn (looking for a better life), người khác thì bảo cũng như các di dân từ Mễ Tây Cơ muốn trốn vào nước Mỹ mà thôi. Ba em kia trả lời giống nhau rằng, cha mẹ các em cho biết, đa số người Việt sống ở Mỹ một cách bất hợp lệ!
Cả lớp học gần 30 sinh viên, mà chỉ có một người biết dân VN đến HK vì lý do tỵ nạn. Vậy thì làm sao mà họ có thể hiểu nổi những đắng cay, chua xót của một khối người đã phải chấp nhận bao hiểm nguy, trăm ngàn tủi nhục, bỏ lại sau lưng gia đình và quê hương để tìm hai chữ Tự Do. Hai chữ Tự Do đánh vần thật giản dị, và lúc nào cũng lai láng trên các miền đất hứa. Nhưng nó là những gì thiêng liêng, cao quý nhất mà hàng triệu người Việt đang phải trả giá bằng nước mắt, bằng máu xương, và bằng thân xác họ. Dù đó là người vượt thoát vào thời điểm khi Sài Gòn vừa thất thủ, hay lang thang qua rừng già, núi thẳm, hoặc lênh đênh trên biển khơi. Mười năm trước đây (1975), thời gian lúc đó (1985) hay mười năm, hai mươi năm sau nữa, nếu Cộng Sản vẫn còn ngự trị trên quê hương đất nước, thì người Việt cũng sẽ tiếp tục bỏ nước ra đi!
Dư âm của buổi thuyết trình tại trường đại học UCLA đã dằn vặt tôi cả hơn một tuần lễ, nhưng đó chính là những dữ kiện thai nghén để tôi cho ra đời nhạc phẩm “Xin Đời Một Nụ Cười”, đúng một tuần lễ trước ngày kỷ niệm 10 năm mất nước. Tôi có nhờ anh Ngô Chí Thịnh, một giáo sư Anh ngữ dịch ngay sang tiếng Anh để đài truyền hình CBS sử dụng trong buổi phỏng vấn chị Kiều Chinh cùng hai người tỵ nạn Cao Miên và Lào. Nhưng tiếc rằng đến khi chương trình CBS được phát hình họ chỉ dùng phần nhạc, nên khán giả theo dõi cũng chẳng biết ý nghĩa của bài hát. Tôi còn nhớ câu nói cay đắng của chị Kiều Chinh lúc đó, chị bảo “tức quá, phải chi mình có một quyển sách Anh ngữ viết về người tỵ nạn VN liệng vào mặt tụi nó, để họ biết tại sao mình phải mang kiếp sống lưu vong”! Tôi chỉ biết nắm tay và nhìn lên đôi mắt buồn diệu vợi của chị.
Ngày 23 tháng 10, 2002, tôi nhận được lời mời của một giáo sư đại học luật khoa, ông Donald Kerwin mời tôi đến nói chuyện với các sinh viên trong một lớp học tại trường đại học Georgetown University ở Hoa Thịnh Đốn với khoảng hơn 30 sinh viên, đặc biệt là có một em người VN. Cô cho biết đã theo cha mẹ vượt biển tỵ nạn và sang HK định cư vào khoảng giữa thập niên 1980, lúc cô vừa được 1 tuổi. Tôi hỏi em là có bao giờ chia sẻ với các bạn câu chuyện nhọc nhằn của thuyền nhân VN cho các bạn đồng lớp được biết hay không? Em trả lời’ “chính em còn không biết rõ cuộc hành trình đó gian khổ ra sao”! Thỉnh thoảng xem TV hoặc báo chí cô có tò mò hỏi cha mẹ về chuyện này, nhưng mẹ đều trả lời là “chuyện dài lắm, kể không hết, thôi lo học đi, để khi khác”. Nhưng theo em thì dường như có điều gì mà mẹ không muốn nói, “hoặc cũng có thể vì cháu không nói rành tiếng Việt, mà mẹ thì không nói giỏi tiếng Anh nên câu chuyện chẳng bao giờ được bắt đầu”! Tôi chợt nhớ lại câu nói của chị Kiều Chinh gần 20 năm về trước, và nói thầm trong bụng là “tức quá, phải chi mình có một quyển sách Anh ngữ viết về ‘Vietnamese Boat People’ liệng vào tay cô bé, để nó biết thế nào là thân phận của một gia đình thuyền nhân, cùng những gì mà họ đã phải trải qua trên đường tìm tự do”! Nhưng chắc chắn không thể là một quyển, vì có thể hàng chục ngàn em như cô bé “thuyền nhân” nói trên đã quên hay không biết đến ý nghĩa của những chuyến đi “tìm chết, để sống” mà người tỵ nạn VN đã phải trải qua.

30 năm sau báo chí nhà nước vẫn gọi những người ra đi là “kẻ phản quốc”. bài “Xin Đời Một Nụ Cười” tôi viết năm 1985, khi cao trào vượt biển lên cao, khi mà “đất mẹ không chối bỏ một ai”, nhưng lại bắt hết đám “sĩ quan ngụy” vào tù, còn người miền Nam thì đi vùng kinh tế mới. Nhà cửa bị tịch thu, nên “không sống ở đất mẹ, mà buộc phải bỏ đi”, tôi không nghĩ đó là những lý giải lệch lạc. Tôi đố tác giả bài báo trích từng câu trong ca khúc “Xin Đời Một Nụ Cười” và tìm được tôi sai ở chỗ nào? Nhưng tiếc rằng chuyện đó sẽ không bao giờ xẩy ra với chế độ thông tin một chiều ở VN hiện nay. Nhà nước CS chỉ lợi dụng quyền tự do báo chí ở hải ngoại phổ biến bừa bãi, để kết tội và vu khống. Trong khi đó thì lại bưng bít những tin tức từ nước ngoài gởi về quốc nội.
Gần đây nhất, ngày 18 tháng 9, 2006, trên tờ Công An Thành Phố HCM, đã phổ biến một bài báo ký tên Phúc Huy, “chửi rủa” thậm tệ nhạc sĩ Việt Dzũng, có một đoạn nói về thuyền nhân tỵ nạn VN như sau (trích nguyên bản) “Việt Dzũng sáng tác, trình bầy hàng loạt ca khúc phản động như Kinh Tị Nạn, Lưu Vong Khúc .... để kích động nạn vượt biên trái phép. Nhiều người đã bỏ mình trên biển cả hoặc bị hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, chịu đau đớn cả đời, gia đình tan nát cũng vì tin theo những luận điệu xuyên tạc như thế...”

Nếu CSVN thực tâm muốn tìm hiểu chuyện này thì thử làm một cuộc thăm dò ý kiến để xem trong số gần một triệu thuyền nhân, có bao nhiêu người vì nghe nhạc của ông Việt Dzũng “xúi dục” mà xuống thuyền đi tỵ nạn? Hãy tạm bỏ ra ngoài những phán quyết về tư cách của các bài báo nói trên. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu các thế hệ sau có hiểu được lý do và ý nghĩa của cuộc tìm kiếm tự do vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc VN hay không? Liệu những người dân hoặc thế hệ trẻ ở trong nước, nếu không được giải thích, họ có bị ảnh hưởng bởi những bài báo đang cố tình bóp mép và xuyên tạc lịch sử hay không? Làm sao để cho người bản xứ, đặc biệt là các sinh viên đại học ở HK hoặc các nước tự do khác có được những tài liệu chính xác để đối chiếu với lịch sử cận đại về cuộc hành trình tìm tự do đầy bi hùng của một dân tộc không chấp nhận chế độ Cộng Sản? Chắc chắn không có gì trung thực hơn bằng chính lời tự thuật của những người trong cuộc, bằng các nhân chứng sống và bằng tiếng nói chân thành từ trái tim của một con người VN đích thực với tấm lòng nhân bản. Những câu chuyện “Viết Về Nước Mỹ”, “Chuyện Tù Cải Tạo”, “Hành Trình Biển Đông”, “Người Thương Binh VNCH” v..v.., sẽ là những câu trả lời chính xác nhất. Và đó cũng là lý do tôi hỗ trợ công việc làm hiện nay của anh Ngụy Vũ hay bất cứ ai đang có những nỗ lực sưu tầm, dịch thuật, phổ biến và gìn giữ những tác phẩm văn học và nghệ thuật cho đời ta và cho đời sau.
Quá khứ dù có buồn thảm đến đâu, dù có hận thù thế nào, thì vẫn là lịch sử. Mà lịch sử thì cần phải ghi nhận một cách trung thực và đứng đắn. Cần phải lưu giữ và lại càng phải lưu truyền. Kẻ nào không tôn trọng hay cố tình làm sai lạc, chắc chắn sẽ có tội với giống nói và quê hương, tổ quốc.
Nam Lộc (Tháng 10, 2006)

Đêm Tình Nhân
Thơ : Khiếu Như Long
Nhạc : Hà Lan Phương
Tiếng Hát : Nguyễn Hải & Hà Lan Phương
Em không về trong đêm tình nhân
Ta đứng trên phố ảo âm thầm
Thoảng bay hương cúc mùi thương nhớ
Từng ánh sao buồn rơi bâng khuâng
Em không về trong đêm đắm say
Để vòng tay chợt nhớ vòng tay
Hình như ngày tháng thành xa lạ
Đêm tự tình ngủ dưới mưa bay
Em không về gác nhỏ ngày xưa
Cho mùa xuân cũ vẫn đong đưa
Biến đêm huyền diệu thành giông bão
Ta đầm đìa giữa những hạt mưa
Em không về đêm chẳng còn vui
Trong cơn say hồn bỗng ngậm ngùi
Đêm yêu đương riêng ta một bóng
Dòng sông tình con nước chảy xuôi
Khieu Long

-
- Posts: 2581
- Joined: Mon Dec 06, 2004 5:03 am
- Been thanked: 1 time

Đời Đá Vàng
Nhạc Và Lòi :Vũ Thành An
Tiếng Hát : Diễm Liên
Ta lần mò leo mãi không qua được vách sầu
Ta tìm một tiếng yêu thấy toàn là sầu đau
Ước vọng ngày thơ ấu chưa xin được chút nào
Suốt đời còn ước ao khát vọng còn cấu cào
Ôi thôi đời ta phung phí trong cơn buồn phiền
Ta xin tháng ngày rồi bình yên
Ô hay tại sao ta sống chốn này
Quay cuồng mãi hoài có gì vui
Có một lần mất mát mới thương người đơn độc
Có oằn mình đớn đau mới hiểu được tình yêu
Qua dầm dề mưa tuyết mới vui ngày nắng về
Có một thời khóc than mới hiểu đời đá vàng