QUÁN BIÊN THUỲ

User avatar
mexanh
Posts: 508
Joined: Tue Nov 04, 2008 4:18 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by mexanh »


User avatar
macco
Posts: 3555
Joined: Mon Jan 17, 2005 8:04 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by macco »

Đêm Chờ Ngưng Bắn Nhớ An Lộc

Tưởng niệm Trần Thế Vinh, Nguyễn Cao Hùng Và những cánh chim đã bay cao, không bao giờ hạ cánh
Đào Vũ Anh Hùng -

Cấm quân gắt gao từ nửa tháng trước Tết. Vụ nổ kho bom đầu tháng mười làm căn phòng tạm trú trong dãy cư xá sĩ quan độc thân bên cạnh Phi Đoàn bị xụm tang thương khiến tôi lêu bêu không chỗ ngủ những đêm cấm trại. Tôi phải xuống phòng Hải mượn tấm nệm dư, mỗi tối vác lên Phi Đoàn trải lên bàn làm chỗ ngả lưng qua đêm. Sáng lại hì hục vác xuống trả. Hải đùa:

– Sao mà cực khổ vậy? Lao động quá không tiếc sức sao?

– Tốn bao hơi. Mình cũng nên vận động tay chân một chút cho nó khỏe.

Hải nhăn răng cười:

– Chắc cũng không khỏe hơn được chút nào đâu. Đêm nay còn bao nhiêu đạn nó pháo tối đa cho chạy vung vít cả lũ, tha hồ mà khỏe.

Tôi cuốn tấm nệm cho gọn, lăn xuống đất và ngồi lên:

– Tối nay tụi nó chơi nữa là cái chắc.

Đêm qua địch pháo một loạt 122 và 107. Hai giờ sáng hỏa tiễn nổ tung giấc ngủ. Tôi choàng thức khi quả pháo đầu tiên nổ phành dữ dội như ở ngay bên cạnh. Còi hụ ré lên. Tiếng rít của hỏa tiễn bay vút trên đầu. Nổ chới với, nổ lung tung khắp chung quanh và thật gần trong khu vực Không đoàn.

Tôi tỉnh như sáo, vùng dậy nhanh cấp kỳ. Vội vàng mặc áo bay, vội vàng xỏ chân vào đôi giày trận, vớ theo cây súng cá nhân, bước nhanh ra cửa…

Loạt pháo dứt tiếng khi tôi đứng dưới mái hiên trước phòng hành quân Phi Đoàn. Đêm về sáng trong quang và mát lạnh. Đêm pháo kích mang vẻ lạnh lùng dè dặt. Đêm như co mình lại trong tiếng còi báo động liên miên rền rĩ kéo dài từ ngay khi quả nổ đầu tiên chạm đất.

Chung quanh và trong tầm mắt tôi vắng hoe không một bóng người nhưng tôi nghe như đêm có tiếng thở phập phồng hồi hộp. Tôi nghĩ mọi người đều đang co người trong các hầm tránh pháo hay đang bối rối trong phòng, nằm bẹp dưới chân giường đợi dứt cơn pháo đầu tiên mới phóng chạy tìm nơi trú an toàn.

Tôi chống nạnh nhìn những trái hỏa châu nổ lụp bụp soi sáng vòng đai phòng thủ phi trường và bên Quân Đoàn III. Hỏa châu như những chiếc đèn lồng sáng rỡ treo ngược bằng những giải khói mỏng manh uốn éo, bay la đà lờ lững trên trời xanh lấm tấm sao.

Một đám khói đen cuồn cuộn bốc lên phía chung cư Mỹ gần cổng Một. Ánh châu soi tỏ bóng cột khói đen ngòm vắt ngang những mái nhà và phi đạo trực thăng. Tôi đợi tiếng nổ của đợt pháo thứ hai nhưng đã qua mấy phút chỉ nghe rền rĩ tiếng còi báo động và tiếng pháo binh ta phản pháo. Không khí của những phút chờ đợi đặc sệt và, đột nhiên, khi đám cháy khu barrack Mỹ bùng cao ngọn lửa, tro than bay tung tóe lên không với tiếng nổ lốp bốp của tôn gỗ bị hỏa thiêu, đêm bỗng náo nhiệt…

Có thêm tiếng xe cứu hỏa chạy cuống cuồng. Những xe Jeep chở quân phòng thủ phóng vội vã qua khu vực. Tôi nghe những bước chân thình thịch. Rồi tiếng ồn ào và những đầu người nhô lên khỏi lớp bao cát vây bọc quanh cái trailer phòng nghỉ trực của nhân viên phi hành, cách nơi tôi đứng chừng vài ba bước nhẩy. Thì ra những ông hoa tiêu trẻ trung của Phi đoàn tôi đã nhanh chân trốn pháo ở đó tự bao giờ. Sự xuất hiện đột ngột của những cái đầu sau ụ cát gần bên khiến tôi bỡ ngỡ. Nhưng cái bỡ ngỡ đó cũng chưa bằng nỗi ngạc nhiên khi tôi nghe ngoài phi đạo trực thăng có tiếng phi cơ quay máy và lần lượt đủ ba chiếc UH-1 đèn chớp sáng lòa ầm ầm nối đuôi nhau cất cánh. Tôi phải ngạc nhiên, bởi tôi không tưởng tượng nổi bằng phản ứng nhậm lẹ nào, bằng ý thức trách nhiệm nào mà những nhân viên phi hành trực phòng thủ đêm của Phi Đòan tôi lại có thể khi đang say ngủ, nghe tiếng pháo, vùng dậy lấy nón bay, chạy băng băng một quãng đường dài – dưới đợt mưa pháo kích, mở dây cột cánh quạt, bình tĩnh cho nổ máy phi cơ, bình tĩnh ngồi chờ một Phi Hành Đoàn đầy đủ và cất cánh trong vòng không đầy mươi phút kể từ quả pháo đầu tiên phóng vào căn cứ?

Tôi nói với Hải:

– Đêm qua nó pháo, tao tưởng tao nhanh nhất rồi mà vẫn còn thua nhiều đứa. Pilot vậy mà vẫn còn bị chê. “Tây” nó cũng không có mặt trên trời nhanh bằng “Mít” mình đêm qua.

Hải gật đầu:

– Tụi nó ngon lành. Đêm nay mày trực Night Alert, ráng khi nghe pháo thì phóng liền ra tàu nghe cưng. Hay mày đem mùng mền ra phi cơ mà ngủ, giữ tàu luôn. Tụi nó đứa nào cũng khoái đêm nay lên trời hơn nằm dưới đất, pháo kích nhức tim… Dám tối nay có thằng không trực ra giành phi cơ để bay lắm ạ.

– Tám giờ sáng mai ngưng bắn. Từ giờ tới tám giờ sáng mai còn bao nhiêu bom đạn, hỏa tiễn khuân ra mời nhau đớp cho bằng thích.

– Nản nhỉ? Những đứa mà đi đoong cuộc đời trước giờ ngưng bắn trong đêm nay, một phút trước tám giờ sáng mai, nghĩ mà nản nhỉ?

– Làm như ngưng bắn rồi thì không còn ai chết nữa đấy?

Đột nhiên Hải cao giọng hỏi tôi:

– Khóa mày chết bao nhiêu thằng, nhớ không?

– Nhớ, nhưng không dám đếm. Đếm nhiều chết nhiều, kinh bỏ xừ.

Tôi thở dài, đăm đăm nhìn ngọn đèn điện sáng tỏa căn phòng hẹp. Ngọn sáng làm tôi nhớ cảm giác tê lạnh hãi hùng của phút giây chứng kiến cuộc hóa thân bi thảm của người bạn thiết đang lúc vẫy vùng bay bổng, bỗng rụng rời gẫy cánh trên vùng đất Tân Khai mịt mù lửa đạn, tháng năm, năm ngoái…

Chiếc khu trục thả rơi trái Napalm dữ dội ngay đầu quân địch, xòe đôi cánh sắt, vút lên cao, đột nhiên biến thành một khối lửa cháy bùng, rực sáng, nổ tung trên bốn ngàn độ cao và ngay trước mắt tôi đang bay gần phía Nam. Tôi hãi hùng tưởng như tê liệt trong cái sát-na khủng khiếp ấy. Tôi há hốc miệng, không kêu được một tiếng, mắtmở trợn trừng. Khối lửa hồng rực rỡ như ngọn pháo bông, như tinh cầu lạc loài tinh thể, lao chớp nhoáng một đường thẳng băng, tóe tung tàn lửa trên đám ruộng khô rồi cháy hiu hiu để lại không gian một sợi khói mỏng manh dần dần tan nhạt. Con chim sắt đã rơi… đem theo một đời trai trẻ Phi công mà thịt xương tan nát dính bám vào từng mảnh kim loại vô tri của thân tàu vỡ vụn. Tôi nào biết cánh chim bất hạnh đó là ai? Khổ thân tôi, đến khi biết ra người Phi công tên Nguyễn Cao Hùng, tôi tím lịm cả hồn, mắt mờ giọt lệ, long đong bay trở lại Lai Khê mà lòng tan nát. Tôi đâu ngờ lại có phút giây sầu thảm chứng kiến cuộc giã từ đời, vĩnh biệt không gian đau đớn và âm thầm tội nghiệp của người bạn thân, thật dễ thương cùng khóa.


Một buổi sáng qua Không đoàn 23 họp thuyết trình Quân báo, tôi đến sớm 15 phút, ghé Câu lạc bộ gọi ly càfé sữa với đĩa Pâté chaud. Vừa xoay người toan kiếm chỗ ngồi, bỗng một vòng tay quàng lấy cổ khiến tôi giật mình.

– “Hi” Hùng! Bonjour bồ. Lâu quá mới thấy bồ, nhớ bồ quá bồ ơi. Không bay bổng gì sao mà bò qua đây ăn sáng vậy?

Tôi nhận ra ngay. Lối “bồ bồ tôi tôi”, giọng nói nồng nhiệt thân quen hết sức của Nguyễn Cao Hùng. Hai thằng lâu ngày mới gặp nhau, Hùng nọ vồ vập lấy Hùng kia, tíu tít vui mừng như vớ được người yêu trong mộng. Tôi ôm lấy tay Cao Hùng, vỗ vỗ:

– Bonjour…! Lâu gì, mới gặp nhau đây mà kêu nhớ? Nhớ thì… hôn đi! Hôn một miếng cho đỡ nhớ!

Cao Hùng cười vang, ghé môi gần má tôi, giả vờ hôn “chụt” một tiếng rồi nheo mắt kêu lên:

– Bồ “đĩ” quá bồ ơi. Nước hoa thơm lừng!

Tôi cũng kêu lên:

– Nhờ cậu tí. Đĩ mà biết cạo râu? Bồ không có râu bao giờ biết được Xê-kỳ nó có cái gọi là after-shave “East Jade”?

Như thế đấy, hai đứa mỗi lần gặp nhau thường vui đùa, giả vờ hôn hít loạn cả lên. Kỷ niệm hồi ở Lackland. Hoa Kỳ tổ sư đồng tình luyến ái, lại làm ra vẻ ghê tởm mấy chú “Mít” nắm tay khoác vai nhau diễu phố. Bọn này bèn diễn cảnh Homo trêu ngươi mấy anh bạn đồng minh cho bõ ghét. Thêm hai tên bạn cùng khóa cười cười tiến lại. Tưởng “khu trục” lừ lừ như chiếc Skyraider đang vào cận tiến hạ cánh. Ẩn chìa bắt tay tôi, siết chặt. Ẩn lùn mà bắt tay như bóp nghiến và cất giọng oang oang bất cần thiên hạ:

– “Hi” Hùng! Ăn gì đi toa? Uống cái chi gọi nó đem ra luôn. Ăn uống “free”, đừng ngại.

Tôi nắm tay Ẩn, tay kia ôm vòng lấy Cao Hùng và Tưởng “khu trục”:

– Xong! Xong ngay..! Đớp “chùa” mà từ chối thì phụ cả tấm lòng…

Bốn đứa thân mật dính vào nhau, hể hả. Ẩn nói:

– Đại tá đãi bữa ăn sáng trước khi bọn moa biệt phái Đà Nẵng.

– Bao giờ đi?

– Chín gìờ mới có C-123 ghé đón… Mẹ, Quảng Trị đang sôi sục, tụi moa đi chuyến này cũng thấy hơi lạnh cẳng.

Tôi cười:

– Bay ở đây mà không rét à? Mày biết câu hát này không…“Ta vào An Lộc hay Tân Khai! Phòng không ơi là phòng không!…”

– Đi biết có về hay bỏ mạng sa trường? Khóa mình trận này mất thêm Phan Quang Tuấn, Trần Thế Vinh, buồn ghê há toa?…

Ẩn nhắc đến Tuấn “Khùng”, đến Vinh “Tô Tô”, khơi dậy trong tôi nỗi ngậm ngùi xúc động râm ran buốt nhói suốt từ hôm được Thụy Hùng báo tin Vinh gẫy cánh.

Khóa 65A Phi Hành có ba đứa tên Hùng. Thụy Hùng inapte sức khỏe, ra khỏi Không Quân, đi biệt kích Delta một thời gian rồi trở lại Không Quân khi ngành trực thăng bành trướng. Thụy Hùng rất thân và ở chung phòng với Vinh bên cư xá Bắc Tiến. Tôi nhớ hôm đó là sáng thứ hai 10 tháng 4. Vinh rớt hôm chủ nhật mùng 9 tháng 4. Tôi xách Helmet đi bay, gặp Thụy Hùng ngoài phi đạo. Hùng thắng khựng chiếc Vespa ngay trước mặt tôi, mếu máo:

– Mày biết tin chưa? Thằng Vinh “Tô Tô” nó rớt rồi.

Tôi sửng sốt. Thụy Hùng ngồi lặng trên chiếc Vespa nổ máy, đôi vai run nhẹ, thẫn thờ hướng về phía cuối đường bay, đầm đìa nước mắt trên gò má. Tôi choáng váng, toàn thân bỗng lạnh. Tay tôi run, lời tôi khàn đục như không phải tiếng tôi hỏi bạn:

– Lấy được xác nó về không?

Thụy Hùng cắn môi, đờ đẫn lắc đầu. Tôi phập phồng muốn khóc. Một lát sau, hết nghẹn ngào, tôi mới nói:

– Tao linh cảm được cái chết của Vinh “Tô Tô” ngay từ tối hôm thứ bảy. Coi TV thấy Thiếu tá Nguyễn Quốc Hùng Phi đoàn trưởng 518 ca tụng có quá. Câu nào cũng Đại Úy Trần Thế Vinh chiến đấu xuất xắc. Đại úy Vinh hạ xe tăng Cộng Sản nhiều nhất. Thứ hai này Đại úy Vinh sẽ về Sài Gòn, lên TV nói chuyện với đồng bào… Tao nghe, vừa khoái thằng Vinh, vừa hãnh diện, vừa sợ. Tao hỏi vợ tao, “Em nhớ Vinh “Tô Tô” không? Vợ tao bảo nhớ. Tao nói đấy đấy ông Hùng “Tây Lai” vừa bốc thơm nó đấy. Nhưng anh nghi quá em ơi. Phải làm sao kéo nó về sớm chứ bốc nó nổi quá, khó sống. Nó say máu, bay hoài thế nào cũng “dính”. Phòng không Việt cộng đâu có ít?” Tao nghĩ vậy thôi, đâu ngờ nó chết thật. Nhảm quá.

Suốt ngày hôm đó đi bay, tôi như đứa mất hồn. Vinh bô trai, dễ thương, bay giỏi và tư cách, chết đi thật uổng phí. Gặp Huỳnh Hạnh Kim Hồng ở Lai Khê, Hồng nói Xê kể nghe phút cuối anh hùng của Vinh:

– Nó nói, “Mẹ kiếp phòng không thì đứa nào chẳng sợ. Nhưng cậu bay trên quốc lộ thấy dân chạy loạn lếch thếch mà còn bị tụi nó bắn giết dã man, cậu si-neẹc. Nó bắn mình hả? Thì mình dội bom lên đầu nó, chết bỏ!

Thế là Vinh hùng hục đi bay. Thời tiết xấu tàn nhẫn. Trần mây 500 bộ. Nó bay rasemotte trên mặt biển, tới cửa Việt rẽ vào Đông Hà. Đại bác trên xe tăng bên này sông bên kia sông câu lẫn nhau, Vinh nó chui dưới hai lằn đạn, ngóc lên, bổ nhào xuống. Nó đánh bom thật trúng. Một Napalm là một tăng bốc cháy. Tiếp theo là loạt đại bác, bộ binh tùng thiết VC ngã la liệt. Mỗi pass đánh xong nó chui tọt lên mây tránh phòng không, rồi lại rình rình nhào xuống…

Xê với Định bảo Vinh Tô Tô đánh đẹp và lì, chưa từng thấy ai bay đẹp và lì như nó trong khi thời tiết xấu chỉ sợ hai phi tuần đụng nhau. Cuối cùng Vinh rơi tan xác với con tàu trúng đạn phòng không bắn trực xạ ở cao độ thấp.

Buổi chiều từ mặt trận An Lộc về, tôi mua tờ báo Sóng Thần. Thấy ảnh Vinh, nụ cười má lúm “tí ti đồng tiền”, dáng hiên ngang, tôi nhớ Vinh muốn khóc. Nhớ ngày Vinh mới nộp đơn gia nhập Không Quân, rất sữa. Vinh cao cồ, mặc áo ca rô ngắn tay màu vàng, quần ka ki xám. Khám tổng quát bên Trung Tâm Giám định Y khoa, vì huyết áp cao, cu cậu chui vào phòng tắm xối nước lạnh cho hạ tension. Ai ngờ trúng gió bị rút gân cổ, đầu Vinh tự nhiên ngoẹo một bên, cứng ngắc đến vài phút.

Rốt cuộc Vinh cũng thành Phi công khu trục. Mà là một phi công khu trục tuyệt vời nữa. Một lần gặp Vinh đang học bay ở Randolph qua Lackland chơi, tôi đùa hỏi:

– Ê Vinh, nếu đang bay formation, đầu mày ngoẹo như hôm khám sức khỏe thì làm sao?

– Sao mày hay bới móc đời tư cậu thế? Cậu lại “vật” cho một trận bây giờ.

Vinh to con và khỏe, tính tình đàng hoàng, rất tốt với bạn bè và có tư cách, có tướng chỉ huy. Ngày ở quân trường, Vinh được đề cử làm trưởng toán, làm SVSQ cán bộ và là một trong mấy đứa cao lớn hầu kỳ trong các buổi lễ hay diễn hành. Những ngày đó Vinh dẫn khóa đi học, đi ăn, chạy phạt, v.v… bằng tiếng hô đếm bước dõng dạc và bắt giọng cho chúng tôi vừa di chuyển vừa hát những khúc quân hành. Có bao giờ Vinh ngờ được mình là một “Phi công danh tiếng”, cái chết trở thành huyền sử cánh chim tự do hào quang sáng rỡ?

Về cái hỗn danh Vinh “Tô Tô”, tôi muốn nhắc với các bạn 65A nhớ đến xuất xứ của nó. Ấy là cái hỗn danh do Đỗ Phụng Hoàng đặt cho Vinh khi thấy Vinh làm dáng, viết tên mình theo lối Mỹ: Vinh T.T. – Vinh T2 hay Vinh, Trần Thế – với hai dấu chấm sau mỗi chữ T viết tắt như hai chữ “O” nhỏ và Hoàng “Tôbia” gọi đầu têu là “Vinh Tô Tô”….

Cao Hùng thủ thỉ nói với tôi:

– Vinh “Tô Tô” chết uổng ha bồ? Nó bay “nghề” nhất phi đoàn, tư cách không ai hơn. Bữa nào rảnh bồ nên viết về nó một bài. Tôi gật đầu cười, nói tôi cũng định hôm nào rảnh sẽ viết cho Vinh một bài tưởng niệm. Tôi là bạn thân của Vinh, thật tình hãnh diện vì Vinh đã chết anh hùng, thật tình thương tiếc bạn tôi bất ngờ gãy cánh. Vinh bây giờ đã là người của cả nước, là thần tượng hào quang chói lọi. Việc làm của Vinh và cái chết của Vinh ngời ngợi hai tiếng “anh hùng”, không cần đến ai đánh bóng. Không cần phải dựng đứng lên rằng “Vinh mãn khóa hoa tiêu quan sát tại Nha Trang, được du học khóa T28 tại Hoa Kỳ và đậu thủ khoa..” mới xứng đáng với công nghiệp Trần Thế Vinh dâng cho Tổ Quốc? Đâu cần phải đậu thủ khoa, phải học Cessna mới thành anh hùng khu trục hạ 21 xe tăng địch?

Tôi muốn Trần Thế Vinh là Trần Thế Vinh. Nguyên vẹn là Vinh “Tô Tô” thân mến của chúng tôi đã bay xa, bay cao, không bao giờ hạ cánh. Cao Hùng nhắc đi nhắc lại hoài, bắt tôi phải hứa viết bài tưởng niệm Trần Thế Vinh trước phút Hùng chia tay tôi lên đường biệt phái.

Tôi vui với sự nồng nàn thân mến của Cao Hùng, đồng thời bỗng rờn rợn âu lo cho chuyến biệt phái hành quân vùng địa đầu giới tuyến của bọn Hùng. Người vừa nằm xuống đã có người vội vã bước lên thay nơi tuyến đầu máu lửa.

Tôi quyến luyến không muốn rời gương mặt trắng hồng như con gái của Nguyễn Cao Hùng. “Baby” Hùng môi hồng, răng ngọc, má lúm đồng tiền, tóc mềm lả lơi nghệ sĩ. Tôi vẫn đùa gọi Cao Hùng là “Tây con” hay “Babilac”. Hùng nhà giàu, thế lực, học trường tây, cốt cách phong lưu quý phái. Hồi đó tôi cứ tiếc cho Hùng sao vào Không quân bỏ dở việc học. Hùng có nỗi khổ tâm riêng về tình cảm gia đình, tôi loáng thoáng biết nhưng không bao giờ hỏi han và càng thương quý bạn.

Những ngày Cao Hùng đi biệt phái, tôi vẩn vơ lo lắng hồi hộp chờ tin bạn. Chưa bao giờ tôi lại nghĩ ngợi đến nỗi an nguy của Cao Hùng nhiều như vậy. Nhớ hôm từ giã, Hùng với Ẩn dặn tôi bay cẩn thận, chúc tôi may mắn. Nhớ đôi má bầu bĩnh có lúm đồng tiền sâu hoắm của Hùng, nhìn gần đầy những tàn nhang và lông măng phơi phới.

Cao Hùng thật dễ thương. Ngày tôi lên lon, Hùng lấy dao găm cắt bỏ cặp mai Trung úy trên vai áo bay tôi, bảo mua tặng tôi một cặp lon Đại úy.

– Bồ đeo Trung úy hơn 4 năm rồi còn gì. Bây giờ mang cái lon Đại úy cho “gồ ghề”, đàn em nó khó dỡn mặt.

Mấy ngày sau, Hùng nhờ văn thư đánh máy và thị thực cho tôi mười mấy bản sao quyết định thăng cấp Đại úy thực thụ, đem qua tận Phi đoàn cho tôi, đùa:

– Đeo lon mới, Quân cảnh hỏi, bồ lấy cái này dán vào mắt nó cho đui luôn…

Cao Hùng biệt phái lần đó về vô sự. Tôi gặp Hùng lần cuối cùng là hôm Hùng lái chiếc xe Floride mui trần, mặc đồ bay đen, thấy tôi, cười vẫy vẫy. Tôi cũng đưa tay vẫy lại rồi vội công việc, đi luôn.

***

Hôm 20 tháng 5, tôi bay quần quần phía đông Tân Khai chờ bốn phi tuần khu trục săn hạ hai chiếc xe tăng VC trốn lẩn dưới gầm cầu xe lửa và khóa họng những ổ phòng không dọn đường cho tôi dẫn hợp đoàn vào đáp. Tôi bay trên năm ngàn bộ, theo dõi từng chiếc Skyraider nhanh nhẹn luân phiên đâm bổ xuống mục tiêu, say sưa hào hứng. Bỗng một chiếc AD-6 vừa thả xong hai trái Nalpalm, vút ngược lên cao… Tôi thấy một tia khói cuộn lên từ bụi cây bên bờ con suối cạn. Chiếc phi cơ bỗng phát nổ. Ngay trước mắt tôi, thấp hơn cao độ phi cơ tôi một chút. Và thật rõ ràng kinh khủng, tôi thấy một khối lửa chói lòa rực rỡ như quả pháo bông, vun vút rơi thẳng băng xuống đất…

Tôi trợn tròn đôi mắt. Miệng há hốc không kêu được tiếng nào. Khối lửa bắn tung tóe và đang cháy hiu hiu trên mặt ruộng, để lại không gian một sợi khói đen theo đường rơi của chiếc phi cơ xấu số. Tôi không thấy một cánh dù bung nở. Như là hoa mắt. Như ảo tưởng trong mơ. Tôi nhói điếng ở tim khi nhìn thấy ba chiếc khu trục cơ còn lại gầm rú điên cuồng bay lượn trên vùng trời phi cơ rớt.

Tôi gọi máy báo với toán Liên lạc Điều không:

– 17 giờ 25, SA-7 Cộng Sản bắn rơi một phi tuần khu trục tại Tân Khai. Tọa độ XT… Không thấy hoa tiêu nhảy dù.

Nghĩ thế nào, tôi hỏi thêm:

– “Panther” cho “Charlie One” biết ai bay chiếc Skyraider vừa bị rớt?

Một giọng đầy kích động trong máy UHF, như mũi dao nhọn hoắt xói giữa tim tôi:

– Đại úy Nguyễn Cao Hùng, Phi đoàn 518… Giọng Trung tá Hoàng Thanh Nhã.

***

Tôi bùi ngùi nói với Hải:

– Đứa bạn nào của mình nằm xuống cũng đều đáng thương và tiếc nhớ. Nhưng cái chết của Hùng “Babilac” khiến tao đau đớn nhất bởi vì tao thấy tận mắt và Cao Hùng nó dễ thương thật là dễ thương.

Rồi tôi với Hải xoay qua những kỷ niệm từ xa lắc thời gian gĩa từ sách vở vác đơn đi tình nguyện bước qua cổng trại Phi Long. Thời gian chia xẻ vui buồn sướng khổ nơi quân trường Nha Trang với chuỗi ngày huấn nhục. Những ngày vui tếu ăn học vui chơi trên đất Mỹ. Đời một Phi công trực thăng vùi lăn trong cuộc chiến miệt mài sầu thảm từ miền núi cao biển sâu đến những đồn điền bát ngát. Nỗi lao đao vất vả, sự cực khổ hiểm nguy. Bạn bè ở gần và xa nhau, còn sống hay đã nửa đời gẫy cánh…

– Thời gian qua mau quá Hải ơi. Nhớ hôm nào An Lộc mới ầm tiếng súng và bọn mình dài dặc điêu linh như còn nóng hổi mới hôm qua. Vậy mà đã gần một năm trời, nhanh thật.

– Ừ, nghĩ lại rùng mình. Trận An Lộc như ác mộng.

Tôi thở ra thật nhẹ. Nhớ lại những ngày nắng cháy mưa dầm hành quân mặt trận Bình Long. Thân thể hao mòn, thần kinh căng đứt. Những buổi trưa ở Lai Khê nắng lửa ngột ngạt hay mưa giăng giăng âm u trời đất, Hoa tiêu hàng đàn ngồi dưới mái quán sơ sài ướt át thắc thỏm đợi chờ phi vụ.



Phi vụ như bay vào đất chết. Đất chết kéo dài theo Quốc lộ 13 -.con số xấu xa định mệnh. Từ Lai Khê, điểm cùng là An Lộc, khoảng giữa Bầu Bàng, Chơn Thành, Suối Tàu Ô, Minh Thạnh, Tân Khai, Xa Cam, Xa Trạch… An Lộc như điểm đợi kinh hoàng. Điểm tử. Là nơi hạ cánh để không bao giờ trở lại của những mảnh đời trai trẻ, hiệp sĩ không gian. An Lộc đã trở thành hỏa ngục, thành lò thiêu xác, thành bãi tha ma, vạc dầu sôi bỏng….

An Lộc, bãi chiến trường kinh khiếp phơi bày bộ mặt hãi hùng ghê tởm của cuộc tương tranh tàn sát tới điểm cực cùng bi thảm. Nói như Phan Nhật Nam, đây là nơi thử lửa cuối cùng, nơi chạm nổ kinh hồn giữa hai sức mạnh từ một khối oai hùng lịch sử bốn ngàn năm đã phân rời thành hai chủ nghĩa đắng cay thù nghịch. Nơi minh chứng hùng hồn cho sức đề kháng dữ dội và kiêu dũng của lý tưởng tự do và sự hủy diệt của ý thức hệ ngông cuồng vong bản. Cái sức mạnh được đề cao là sức mạnh vô sản vạn năng dựng xây xã hội chủ nghĩa, thành trì cách mạng Cộng Sản thế giới đã ngừng bước tiến bạo tàn, đã tang thương gãy đổ tại An Lộc. Bởi An Lộc đã vẫy vùng chiến đấu. Giữ vững ngọn cờ chói lòa sức mạnh thiêng liêng của bản năng sinh tồn dân tộc.

An Lộc, Bình Long. Mặt trận đau thương dữ dội và đầy nét bi ai hùng tráng có tôi góp phần tham dự. Cái phần tham dự chỏ nhoi không đáng nhưng nhiều kỷ niệm để đời. Trong trận tàn phá, An Lộc tanh banh quằn quại. An Lộc cháy ngút ngày đêm. An Lộc vỡ, An Lộc nổ. An Lộc gào rú rên la hàng ngày, bừng bừng dẫy nẩy cơn sốt kinh mang hàng tháng. Miền đất máu sông xương núi như bốc dậy mùi tanh lên tận trời cao mà mỗi lần bay trên An Lộc, tôi như ngửi được.

Chưa có mặt trận nào bằng An Lộc. Những cánh trực thăng mỏng manh mỗi lần vào An Lộc như bay vào cõi chết. Đạn bắn như mưa. Bắn cùng mọi phía. Bắn bằng đủ loại phòng không dữ tợn, hỏa tiễn tầm nhiệt, đại bác phòng không, súng cá nhân, 12 ly 7 chụm lại trực xạ, đại bác nổ chụp, súng cối rót vào bãi đáp…

Hợp đoàn tám phi cơ nối đuôi nhau bay hối hả vòng qua Minh Thạnh vào đáp bãi B15 từ hướng tây nam An Lộc năm phút sau trận mưa bom B52 cuối cùng vừa dứt. Những hố bom tươi mới nở, rỗ hoa chằng chịt trên cánh rừng cao su đã tanh banh xơ xác làm một hành lang an toàn cho cuộc chuyển quân không vận. Bụi đỏ chưa tan, những cây cao su âu sầu ngún cháy. Đoàn trực thăng bay thấp, lướt trên ngọn rừng rách rưới theo lệnh “C & C” hướng dẫn:

– Hợp đoàn quẹo phải 10 độ, đi thẳng..! Chiếc số ba bay nhanh một chút. OK đi thẳng… Bãi đáp mười hai giờ, ba trăm thước. Giảm Air speed…coi chừng! Coi chừng nó bắn phòng không bên trái!…

Tôi nín thở. Hợp đoàn đã tới gần bãi đáp. Nhưng trước cả tiếng la coi chừng hốt hoảng của chiếc phi cơ chỉ huy, tôi thấy điểm sáng dưới lòng một hố bom loang loáng lóe lên như chớp kính….

– Quẹo phải! Hợp đoàn quẹo phải!….Chiếc số hai rớt rồi. Số ba nhanh lên! Lead quẹo phải 90 độ bay ra!.. Bay ra! Đừng đáp!…

Tôi kinh khủng. Chiếc số hai đang bay đột ngột cắm đầu đâm thẳng xuống triền đồi, lăn lông lốc như cục đá. Một vùng bụi đỏ mù mịt bốc lên và lửa cháy bùng.

– “Chiếc số hai rớt rồi!”. Mẹ bố cái giọng như tường thuật một quả banh trên sân cỏ. Chiếc phi cơ bất hạnh của Tuân. Cả một phi hành đoàn và 11 lính bộ binh vào An Lộc tiếp hơi cho đoàn người tử thủ đã rơi chết ngon lành khi vừa tới thềm địa ngục. Tuân mới trò chuyện với tôi dưới bóng cao su ở Lai Khê trong giờ cơm trưa dã chiến. Hoa tiêu Thiếu Úy độc thân. Hai mươi tuổi trẻ. Vừa nuốt chưa tiêu bữa cơm rau cỏ Việt Nam, gạo Hoa Kỳ viện trợ… đã chết nổ tung, chết như sét đánh.

An Lộc đầy trời lửa đạn, đầy đất phong ba. Ngày xưa có một Kinh Kha thật ra cái “dũng” chỉ bằng móng tay so với những đôi bàn tay dũng cảm của Hoa tiêu không lực ta hiện đại. Kinh Kha đi thích vua Tần, tiếng gươm đao sát phạt nghe không kinh bằng tiếng súng. Kinh Kha chết, chân còn vững vàng trên đất. Người Phi công phí bỏ cuộc đời, chân lửng lơ bay trên trời cao rộng. Một kẻ ra đi, trên bờ sông Dịch, có hàng ngàn tân khách mời rượu tiễn đưa, biết mình táng mạng cũng còn được người đời ca tụng, cái dũng đẩy đưa từ cái danh và trả ơn đời đãi ngộ. Còn Pilot trực thăng? Lao thân vào cõi chết, họa hoằn mới được thêm những giọt nước mắt bạn bè âm thầm nhỏ xuống.

Xin lỗi những phi công các cường quốc trên thế giới. Tôi muốn ngỏ lời thách đố các người vào An Lộc bằng chiếc trực thăng, vai lon Thiếu Úy mới ra trường. Treo mạng sống mình từ cao năm ba ngàn bộ, tắt máy cho rơi tự do như lá mùa thu. Mắt không thấy kẻ thù nhưng tai điếc loạn bởi đạn thù tưng bừng chào đón rền vang trời đất. Vẫn phải vững vàng đôi chân đạp, tay kiềm, chao liệng tránh né phòng không và tìm hướng vào bãi đáp. Bãi đáp khi chưa đậu xuống đã nảy tung, mịt mù pháo kích. Bàn tay nào điều khiển con tàu tránh pháo. Khối óc nào quyết định cho phút giây sinh tử đời người và quả tim nhiệt huyết nào thúc đẩy lòng chu toàn nhiệm vụ? Để tìm nơi hạ cánh thả đồ tiếp tế cho bao sinh mạng đợi chờ, đón cho bằng được những thương binh khốn khổ chật ních phi cơ đoạn ì ạch bay xuyên lưới đạn về đáp Lai Khê với thân tàu đầy thương tích? Như thế. Hàng ngày. Hàng mấy tháng trường ròng rã, lao đao khổ nhọc. Một lần thoát chết cũng khiến chim sợ cây cong. Nhưng những người hoa tiêu UH-1 rất nhiều lần trong chuỗi ngày cơ cực tang thương An Lộc đó đã bao bao người là những anh hùng mất ngựa. Phi cơ trúng đạn, đồng đội bị chết, bị thương, vẫn bình tĩnh bay khỏi vùng kinh khiếp tìm trảng cỏ giữa rừng đáp khẩn cấp, bỏ tàu bay, may mắn lắm sẽ được phi cơ bạn nhào xuyên lưới lửa đón về. Hay bỏ tàu mà chạy, vượt qua rừng qua bụi trốn tránh kẻ thù về đất sống hoặc long đong phần số hẩm hiu rơi vào tay giặc. Những người anh em đã rơi vào tay giặc hay đã biền biệt ra đi, vĩnh viễn cùng với xác tàu vỡ vụn trên cánh rừng cao su tơi tả đầy đặc hố bom. Đi không còn ai nghe tiếng nói. Xác rữa. Xương phơi khô trắng tới ngày An Lộc giải tỏa, bạn bè ngậm ngùi tìm đến đem về những mảnh xương khô. Có những anh em đã thành tàn phế. Và người còn sống nguyên lành vẫn sáng lửa đấu tranh trong mắt, vẫn kiêu hãnh nụ cười trên môi, ngày ngày tung bỗng cánh chim lao vào trận địa.

Bây giờ An Lộc đã tàn, Bình Long đã thành vùng đất vang danh của lịch sử đấu tranh dân tộc. Điêu tàn và đổ vỡ của An Lộc là vết tích thảm thương đau đớn cực cùng mà ai qua đó cũng ngậm ngùi cay đắng trong niềm đau buốt và xấu hổ như mang một vết thương nhục nhã trên cơ thể, nghe âm âm “Điếu cổ chiến trường văn”…

Điếu vô thanh hề sơn tịch mịch
Dạ trường hề phong tích tích
Hồn phách kết hề thiên trầm trầm
Quỷ thần tụ hề vân tịch mịch..
Huyết mãn trường thành
Thương tâm thảm mục
Thiên địa vi sầu, thảo mộc thê bi…


Quả thật chim chóc cũng không dám bay vào An Lộc giữa cơn ầm ầm chấn động miên man như đất sụp. Côn trùng cũng không dám cất tiếng kêu trong những đêm An Lộc giãy dụa điên cuồng. Mờ sáng khi mặt trời chưa mọc, tôi bay trên An Lộc cũng thấy An Lộc nổ và cháy sáng lòa. Những cơn mưa bốc thành khói khi rơi xuống An Lộc bỏng dẫy ngàn độ nhiệt. Nửa đêm tôi bay “C and C” cho tướng Hồ Trung Hậu vào An Lộc “để mấy đứa em nó nghe tiếng nói của qua trên trời tụi nó yên tâm”… Mây mù. Bão Mannie. Bão đánh phi cơ đùng đùng và phũ phàng như hàng loạt B40 thổi muốn bay đuôi chiếc phi cơ nhỏ bé tựa cánh bèo dập dềnh trên biển động. Bão dúi tôi từ sáu ngàn bộ xuống tận đất đen, lại đưa tôi bổng lên khỏi không gian mù mù tối thẳm như chót tầng địa ngục. Nỗi rụng rời tưởng chết chưa tan, đèn ngoài phi cơ tắt hết, những cụm lửa phòng không địch bắn cầu âu lên trời như thắp đuốc soi đường cho chiếc trực thăng đi tìm thần chết.

Hung hiểm không phải chỉ vì súng đạn. Không giới hạn thời gian. Thành ra tôi phải nghiêm trang nói với một vài người ngỏ lời dị nghị tinh thần chiến đấu của các anh em Thiếu Úy phi công trực thăng trong một lần nói chuyện về mặt trận An Lộc. Rằng xin đừng chê trách các hoa tiêu cấp nhỏ. Tôi hơn họ vài ngàn giờ bay, đeo lon Đại Úy. Nhưng cái hồi Thiếu Úy của tôi bay H-34, VC chưa có súng AK chứ đừng nói chi tới hỏa tiễn tầm nhiệt SA-7. Mặt trận hồi đó cũng chưa bằng một góc Bình Long. Đất nước này còn không phải nhờ những người tự phụ có giờ bay nhiều, kinh nghiệm chiến trường nhiều, mà là nhờ lớp đàn em mang lon Thiếu Úy có bộ đồ bay rách phải mất càfé thuốc lá mới được anh Thượng sĩ già “thông cảm” cho đổi gấp.

Tôi nói thêm về cái hèn mọn của tôi. Là chiến đấu nhiều, bay bổng nhiều, thoát chết nhiều lần, bây giờ có vợ con, cũng thực tình hơi lạnh cẳng. Nhưng cái hèn chỉ đôi khi làm tôi nhận phi vụ, đờ đẫn lo âu, nhưng không bao giờ từ chối những phi vụ coi là chơi đỏ đen lần chót với số mệnh. Vả lại những phi vụ đó tôi có hoàn tất tốt đẹp, cũng không đáng để ai khen bởi kinh nghiệm và khả năng tôi làm được. Đáng khen phục là những người hoa tiêu trẻ trung, giờ bay chưa tới số ngàn, vừa chân ướt chân ráo về nước đã được tung vào cuộc chiến tàn khốc như An Lộc. Họ trưởng thành quá mau và tôi phải yêu và phục.

***

Tôi ngồi như thế, trầm mặc miên man với những hồi tưởng về chiến trận đau thương thảm khốc đã qua và những nỗi điêu linh vất vả của người Phi công thời chiến. Tất cả đã qua đi. Thực tình như một cơn mộng dữ. Như một ám ảnh khổ đau chung cho dân tộc. Tôi hỏi Hải:

– Ngưng bắn chắc hòa bình không? Thực tình tao chẳng quan thiết chút nào và cũng chẳng nôn nao đón đợi tám giờ sáng mai ngưng bắn. Tâm hồn mình đã chai mòn và thờ ơ đến thế sao?

– Bây giờ coi như giờ thứ hai mươi lăm. Ráng đêm nay nếu có pháo kích thì giữ lấy thân. Mai, ngưng bắn rồi sao nữa, cứ “wait and see” và hy vọng…..

Đào Vũ Anh Hùng
Saigon 1973
(Ngày Ấy Khi Ta Yêu Nhau)

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by TheLang »

Tía

SAPY NGUYỄN VĂN HƯỞNG


Image
Hình ảnh Trần Thị Ngọc Bích (Kimberly Mitchell) gặp lại ân nhân thiếu úy thủy quân lục chiến QLVNCH Trần Khắc Bảo


Lời Tác Giả: Câu chuyện dưới đây đã được loan truyền nhiều trên internet, báo chí, các đài truyền thanh lẫn truyền hình của cả Việt Nam lẫn Hoa Kỳ. Tôi may mắn có dịp hỏi han vài nhân vật trong câu chuyện, nên muốn viết lại để gởi độc giả Việt Báo.
LTS: Trong khi cả thế giới đang hướng đến Ukraine, mời đọc lại câu chuyện em bé Việt trên đại lộ kinh hoàng trong cuộc chiến Việt, để cùng thông hiểu và cầu nguyện cho dân tộc Ukraine với biết bao em bé mất cha mất mẹ trở thành mồ côi trong một khoảnh khắc bom đạn.

*

Chiếc xe chạy qua khỏi quận lỵ Phong Điền độ một lúc, tôi biết mình sắp vào tới địa phận tỉnh Quảng Trị, liền ngoái nhìn lại phía sau. Thấy bà vợ thản nhiên nằm dài trên băng ghế, tôi nói với giọng mời mọc:

- Em ngồi dậy mà xem, khúc quốc lộ này cảnh đẹp lắm!

Vợ tôi nhỏm người lên vấn lại mái tóc, cùng chồng lẳng lặng ngắm màu mạ non đồng lúa cùng cỏ cây xanh lá, hòa quyện với màu cát trắng tinh lạ mắt cả hai chưa từng thấy bao giờ, làm khung cảnh hai bên đường thêm lung linh sinh động! Tôi thản nhiên nhìn mây trời cảnh vật lướt qua chẳng được lâu, chợt tâm trí liên tưởng ngay tới bao nhiêu sự việc xảy ra trên đoạn đường này từ gần một phần tư thế kỷ trước, qua lời kể của bạn bè từng có thời chiến đấu nơi vùng lửa đạn địa đầu giới tuyến, cũng như trong phim ảnh tài liệu thường được chiếu đi chiếu lại mỗi khi nhắc tới nỗi oan nghiệt của chiến tranh.

Chẳng có một dự tính trước nào, tự dưng tôi xoay qua căn dặn chú tài xế:

- Từ đây đến cầu Mỹ Chánh bắc ngang con sông Ô Lâu còn độ chục cây số nữa thôi. Khi chạy trên cây cầu đó cháu chạy thiệt chậm cho chú. Còn chạy qua khỏi cầu Bến Đá, cháu tìm ngay một cái quán cóc hay quán ăn nào tắp vô kiếm nước ngọt hay cà phê uống rồi sẽ đi tiếp.

Linh ngạc nhiên hỏi:

- Ủa! Chú mới ra đây lần đầu, sao lại biết rành địa thế vùng này quá vậy hả chú?

Tôi đáp như kể lể:

- Ở tuổi chú mà còn là lính nữa thì dù chưa ra tới đây nhưng mấy cái tên Mỹ Chánh, Hải Lăng, Cam Lộ, Đông Hà,… đều chẳng xa lạ chi hết.

Trò chuyện đến đây, tấm biển "Cầu Mỹ Chánh" hiện ra phía trước. Đột nhiên tôi ra dấu cho tài xế dừng xe ngay lại. Tôi mở cửa bước xuống đường, cứ thế lẳng lặng cuốc bộ qua cầu.


Đến khi xe chạy tới bờ Bắc cầu Bến Đá, Linh từ từ đỗ trước một cái quán ven đường, ẩn dưới một tàng cây rợp bóng mát. Quán xá lèo tèo chỉ có vài ba cái ghế cho khách ngồi với chiếc bàn dài độ hơn thước tây, trên mặt đặt một tủ thuốc lá và mấy bịch bánh kẹo phủ đầy bụi đường. Quán trông bớt bệ rạc phần nào nhờ các màu cam, vàng, xanh, đỏ,… của mấy chai nước ngọt bày trên kệ như giải phân cách bên trong với bên ngoài.

Quán vắng teo, bà chủ đứng ngay dậy tươi cười đon đả bước ra đón khách. Gọi nước uống xong, tôi lấy từ trong bóp ra một mảnh giấy, vuốt thẳng trải lên bàn nói như giãi bày với Linh:

- Khi chú nói cho một ông bạn hồi trước đi lính Thủy Quân Lục Chiến hay, về nước lần này chú sẽ ra Quảng Trị. Ông ta liền phác họa cho chú cái sơ đồ chỉ rõ các địa danh từ quận Phong Điền ra tới vĩ tuyến 17.

Nghe vậy Linh thắc mắc:

- Thủy Quân Lục Chiến với Lính Thủy Đánh Bộ có phải là một thứ lính không vậy chú?

Tôi đáp:

- Phía Việt cộng thì gọi là Lính Thủy Đánh Bộ còn bên Quốc gia gọi là Thủy Quân Lục Chiến.

Tôi chỉ vào tấm sơ đồ nói tiếp:

- Hồi cuối tháng Ba năm 1972, sau cả tháng trời bị quân Miền Bắc vượt sông Bến Hải tấn công vô Quảng Trị, khúc đường dài hơn chục cây số từ cầu Bến Đá này đi thẳng quốc lộ Số 1 theo hướng Hải Lăng, chẳng rõ một người nào đó đã đặt cho nó cái tên là "Đại Lộ Kinh Hoàng". Bởi từng có cả hàng vạn thường dân lẫn lính tráng đã cố thoát thân khỏi vùng giao tranh bằng đủ mọi phương tiện. Người ngồi trên xe nhà binh, xe thiết giáp, xe đò, xe đạp, xe trâu, xe bò, xe gắn máy,… Nhưng vì phần đông đều cuốc bộ, tay sách nách mang được thứ nào hay thứ nấy, không thể đi nhanh khiến đường bị tắc nghẽn. Thêm phần Việt cộng liên tục pháo kích tới tấp, nên chỗ nào cũng có người chết. Pháo thì pháo, ai còn sức vẫn chạy, không chạy nổi thì đi hoặc lết. Người thoát chết đợt pháo đầu, cũng khó thoát các đợt pháo sau. Nhiều thân người bị pháo đi pháo lại không biết bao nhiêu lần. Bị thương chưa kịp băng bó, đã bị đợt khác pháo tới làm chết ngay tại chỗ! Khó mà biết được bao nhiêu cảnh gia đình ly tán, khó mà đếm xuể có bao nhiêu xác con người, xác thú bị thối rửa trên đường,… Chú chỉ nhìn cảnh đó qua phim ảnh với nghe kể lại thôi đã rợn người rồi! Những ai phải sống trong hoàn cảnh đó còn kinh hoàng đến mức độ nào!

Kể đến đây tôi ngước nhìn Linh hỏi:

- Cháu biết vì sao hồi nãy chú đi qua đi lại trên cầu Mỹ Chánh tới hai bận không?

Linh lắc đầu, tôi nói tiếp:

- Để chú cảm nhận và cố hình dung lại mọi điều từng nghe một ông bạn kể về câu chuyện của ông Trần Khắc Báo, có liên quan tới một sự việc xảy ra ngay trên cây cầu Mỹ Chánh đó.

Chẳng đợi hỏi han thêm, tôi ôn lại câu chuyện cũ:

- Ông Báo cùng tuổi với chú, có mặt tại chiến trường Quảng Trị ngay từ khi Miền Bắc cho quân tràn qua vĩ tuyến 17 tấn công tỉnh Quảng Trị. Sau suốt cả tháng trời cố sức chiến đấu, rốt cuộc tới sáng ngày 1 tháng Năm năm 1972, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đành phải bỏ Quảng Trị. Lúc đó ông Báo mang cấp bậc thiếu úy, chỉ huy một đoàn quân xa khoảng hai mươi chiếc GMC, được lệnh đón các binh sĩ của Tiểu Đoàn 7 Thủy Quân Lục Chiến, rút từ cổ thành Quảng Trị để đưa về Phong Điền, nơi Bộ Chỉ Huy Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến chọn làm tuyến đầu cố thủ. Ngay từ sáng tinh mơ, mặc pháo thì pháo, đoàn xe của ông Báo liên tục chở hết chuyến này đến chuyến khác, suốt trên đoạn đường gần ba chục cây số giữa cầu Mỹ Chánh về tới Phong Điền. Ông ra lệnh cho xe trước cứ thế nối theo bánh xe sau mà chạy hầu tránh mìn bẫy. Thấy số quân nhân Thủy Quân Lục Chiến đón được mỗi chuyến giảm dần, ông Báo bèn xin lệnh cấp trên để được phép đón bất kỳ binh lính lẫn thường dân nào gặp trên đường di tản. Đến khoảng gần năm giờ chiều, khi cả đoàn vượt qua khỏi cầu Mỹ Chánh lần cuối, ông Báo ra lệnh dừng lại nghỉ ngơi chốc lát, luôn tiện chờ đợi xem có thể đón thêm người nào nữa không. Khi quay đầu nhìn lại, ông Báo thấy một người để mình trần, mặc mỗi cái quần xà lỏn, tay ôm chiếc nón lá, đang cà lơ thất thểu đi như lết trên cầu, ông lập tức rời khỏi xe. Lúc đang bước vội trên cầu, ông nghe tiếng thiếu tá tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Hồ Quang Lịch thét lên: "Báo, đứng lại ngay! Tao đã cho gài mìn cây cầu, sắp tới giờ mìn nổ rồi! Mày không quay lại, coi chừng tan xác hay bị kẹt luôn lại đó đó." Ông Báo không đang tâm để mặc người đàn ông lại, chân tiếp tục rảo bước, còn miệng nói như nài nỉ: "Đại Bàng chờ tôi một chút, cho phép tôi đón thêm một người cuối cùng nữa thôi". Nói tới đó ông Báo bắt kịp chàng trai, vội dìu anh ta đi mau hơn. Thấy anh này không còn bao nhiêu sức lực, mà tay vẫn ôm khư khư chiếc nón lá, ông Báo hỏi với giọng cằn nhằn: "Đi không nổi mà còn mang theo vàng bạc châu báu làm gì nữa đây cha nội?" Tới khi qua khỏi chân cầu, anh ta nhẹ hé mở chiếc nón lá trên tay ra, miệng thều thào: "Thưa thiếu úy, em là lính Quân cụ của tiểu khu Quảng Trị. Trên đường chạy về gần tới cầu Mỹ Chánh em lượm được con bé này đang trườn trên ngực mẹ tìm vú. Còn mẹ nó thì máu me đầy người, mũi không còn thở nữa! Giờ em mệt quá đi hết nổi rồi, xin thiếu úy làm ơn làm phước ráng cứu lấy nó".

Linh bất chợt lên tiếng:

- Con sanh đầu năm 1972, như vậy chắc chị này lớn hơn con vài tháng.

Nói dứt câu Linh ngây người ra nghe tiếp câu chuyện:

- Đưa anh lính Quân cụ lên một chiếc GMC rồi, ông Báo ôm vội đứa nhỏ mặt còn dính máu khô, da xám ngắt vì nắng gió, mặc mỗi manh áo màu cháo lòng nhăn nheo,… Sau khi ngồi vững vàng trên chiếc xe Jeep rồi, ông Báo ra lệnh cho đoàn xe tiếp tục lên đường.

Nằm trong vòng tay êm ái vậy mà đứa bé vẫn khóc liên tục, ông Báo bèn xoay qua hỏi hạ sĩ Nguyễn Hữu Tài, người lái xe đã có vợ con đùm đề:

- Ê Tài, nó khóc quá trời, giờ tao phải làm sao đây mày?

- Ông thầy ơi chắc con nhỏ đói lắm rồi! Nó khóc kiểu này là khóc khát sữa đòi bú đó, nhưng sữa đâu mà cho nó bú! Vậy thì ông thầy lấy nước từ bi đông ra, chấm vô đầu ngón tay nhỏ vô miệng, chắc nó sẽ bớt khóc.

Ông Báo chẳng rõ nhờ mấy giọt nước hay vì đã khóc hết hơi mà đứa bé nín thinh suốt trên đoạn đường từ cầu Mỹ Chánh về đến Phong Điền. Đến khi thiếu tá Nguyễn Văn Nhiều, trưởng phòng Tư Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến vừa nhìn thấy thiếu úy Báo từ trên xe bước xuống cùng với một đứa bé trên tay, ông liền đùa cợt:

- Ê Báo, bộ mày tưởng bắt chước Phạm Công bồng con ra mặt trận là Việt cộng không bắn hai cha con bay sao?

Ông Báo vội đáp:

- Dạ, nó đâu phải con của tôi thiếu tá! Nó được một anh lính của tiểu khu Quảng Trị lượm trên đường di tản. Vì lết hết nổi nên ảnh mới nhờ tôi đem về hậu cứ đó chớ thiếu tá!

- Vậy thì mày đưa đứa nhỏ qua bên phòng Xã Hội liền đi, rồi lo ngay xe cộ xăng dầu để ngày mai còn hành quân sớm!

Lúc bàn giao đứa bé, cô nữ quân nhân đứng ra nhận lãnh đã nói với ông Báo rằng: "Thiếu úy giao cho tôi thì thiếu úy phải có trách nhiệm! Thiếu úy phải đặt cho đứa nhỏ đầy đủ tên họ, thì sau này nó mới biết cội nguồn của nó". Lúc đó ông Báo còn độc thân, nhưng trong đầu đã có ý, sau này lấy vợ nếu sinh con trai sẽ chọn tên Bảo, còn con gái thì đặt tên Bích, tất cả cùng một vần "B". Nên chẳng chút do dự, ông Báo nói ngay tên đứa bé là Trần Thị Ngọc Bích.

Nghe đến đây Linh trầm ngâm một lúc mới lên tiếng:

- Cháu thấy câu chuyện xảy ra không khác gì một phép mầu, nhưng cháu vẫn thắc mắc: Vì sao dân Quảng Trị lại không theo quân giải phóng chạy thẳng luôn ra ngoài Bắc? Chạy về phía đó vừa gần vừa ít nguy hiểm, như vậy thì làm sao có cái Đại Lộ Kinh Hoàng này, phải vậy không chú?

Tôi chưa kịp trả lời, Linh đã nói tiếp:

- Cháu hỏi thêm để hiểu chắc vậy thôi, chớ cháu nghe ông bà ngoại với má cháu kể: Hồi trước giải phóng, Việt cộng ló mặt tới đâu dân mình chạy tới đó, đến sau giải phóng hết đường chạy thì vượt biên luôn. Cháu còn nghe người ta ví von đó là cách bỏ phiếu bằng chân của người Miền Nam nữa đó chú. Giờ chú kể tiếp cho cháu nghe vì sao ông Báo qua được bên Mỹ? Ổng có trốn tù vượt biển như chú không vậy?

- Chú nhớ là ông Báo bị bắt làm tù binh cả tháng trời trước 30 tháng Tư. Ông bị tù hơn 6 năm, mãi đến năm 1981 Việt cộng mới thả về. Theo chú, ngày ông Báo ra khỏi trại tù, coi như cuộc chiến Bắc Nam mới thực sự chấm dứt đối riêng với ông Báo. Tới năm 1994, tức hồi năm ngoái ông Báo cùng với vợ con được sang Mỹ theo chương trình HO, định cư tại thành phố Albuquerque thuộc tiểu bang New Mexico, cách San Diego nơi chú ở hơn một ngàn hai trăm cây số, tương đương với đoạn đường từ Vĩnh Long ra Huế. Kể từ đó cuộc sống của ông Báo mới thực sự được an lành.

Linh nôn nóng hỏi thêm:

- Chú biết ông Báo lập gia đình hồi nào không chú?

- Nếu chú nhớ không lầm thì ông Báo cưới bà vợ người Huế vào năm 1973, sau ngày cô chú lấy nhau vài tháng. Hai ông bà sanh được cả thảy ba người con, hai trai một gái.

Linh mau miệng nói:

- Như vậy chắc chắn có một người con trai tên là Bảo phải không chú?

Tôi gật đầu đáp:

- Đúng như cháu nói, người con trai đầu tên là Bảo. Ngoài ra còn thêm một điều trùng hợp ngồ ngộ nữa, bà vợ ông cũng tên Báu. Chồng "Báo O" vợ "Báu U". Đầy đủ họ tên của bà ấy là Dương Thị Báu. Ông Báo thường diễu cợt với bạn bè, bà vợ ông là "Quý Báu", còn ông chuyên "Báo Đời".

Linh cười:

- Cháu thấy ông Báo nịnh vợ thiệt là hay!

Tôi nhẹ lắc đầu:

- Chú thì thấy ông Báo nịnh vợ chút đỉnh thôi. Làm tròn vai trò một bà vợ lính trong thời chiến đã khó khăn rồi! Làm tròn vai trò một bà vợ tù cải tạo, phải bươn chải kiếm tiền nuôi con cái, dạy dỗ con cái, lặn lội tìm thăm nuôi chồng trong thời buổi đóng cửa nền kinh tế kín mít, khiến cho cả nước thiếu ăn thiếu mặc càng khó khăn hơn gấp bội! Bà Báu hay bất cứ bà vợ lính, bà vợ tù cải tạo nào mà làm tròn mấy việc này, đương nhiên ông chồng phải tuyên dương chứ! Nhưng chuyện con cái gọi ông Báo thì mới thiệt không giống ai hết!

Nhà tôi ngạc nhiên hỏi:

- Ủa sao kỳ cục vậy anh? Tuy dân mình có nhiều cách khác nhau để gọi người cha, nhưng gia đình nào cũng chỉ gọi một cách thôi. Con mình đều gọi anh là "Bố", còn con của mấy đứa em của em ở Cà Mau thì gọi là "Ba", các con ông Báo gọi ổng cách nào mà anh cho là không giống ai?

Tôi đáp:

- Cái lạ ở đây là ba đứa con ông Báo gọi ông bằng ba cách, vì tụi nó sinh vào ba thời điểm khác nhau. Thằng con trai đầu Trần Khắc Bảo sinh cuối năm 1974, gọi ông Báo là "Ba", bởi khi bập bẹ biết nói, trẻ con trong xóm phần nhiều đều gọi cha như vậy. Đến cuối năm 1975 sanh con Trần Thị Y Bình, lúc đó người miền Bắc vô Huế lập nghiệp đã nhiều, nó bắt chước tụi con nít gốc Bắc gọi ông là "Bố". Vài năm sau ngày ra khỏi tù, bà Báu sinh thêm thằng Trần Khắc Bằng, khi đó ông Báo dạy nó phải gọi ông bằng "Tía", theo cách của người Bình Dương nơi ông sinh ra. Tới chừng phỏng vấn đi Mỹ, ông Báo sợ khi nhân viên phỏng vấn nghe các con gọi ông mỗi đứa mỗi cách, dễ bị nghi ngờ chúng không phải là con ruột của ông, làm trở ngại việc xin đi định cư, ông mới ra lệnh: "Đứa nào không gọi tao bằng "Tía" thì cứ việc ở lại với Việt cộng, khỏi cần đi phỏng vấn." Thế là kể từ đó đứa con nào cũng gọi ông bằng "Tía" hết.

Nghe đến đây Linh ngó qua tôi hỏi tiếp chuyện Ngọc Bích:

- Vậy sau này ông Báo có gặp lại chị Ngọc Bích với ông lính Quân cụ không vậy chú?

Tôi lắc đầu đáp:

- Câu chuyện Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng chú chỉ biết tới đó thôi!

Linh nói với giọng tiếc nuối:

- Câu chuyện này chẳng những hay mà hấp dẫn nữa! Trở lại bên Mỹ nếu biết gì thêm, chú nhớ email về cho cháu liền nghen.

Tôi nhìn Linh mỉm cười gật đầu, cầm ly nước lên uống cạn, đứng dậy hối chú tài chuẩn bị lên đường.

Xe chạy gần tới Hải Lăng, tự dưng Linh lên tiếng hỏi:

- Nghe chú kể về Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng làm cháu nhớ tới chuyện một cô bé nữa. Cháu gọi là cô bé cho giống mọi người thôi chớ chị này hơn cháu gần cả chục tuổi lận. Chú có biết chuyện Cô Bé Napalm không vậy chú?

Tôi hỏi ngược lại Linh:

- Cháu nói cho chú nghe những gì cháu biết về cô bé này trước đi.

Linh đáp:

- Cháu không rõ cháu biết về Cô Bé Napalm là nhờ đọc tờ báo Sài Gòn Giải Phóng hay tờ Tuổi Trẻ nữa. Cháu nhớ câu chuyện xảy ra cùng thời gian với chuyện chú vừa kể. Nghĩa là vào khoảng giữa năm 1972, có một chiếc máy bay của Mỹ hay của Ngụy bất ngờ thả mấy quả bom xuống một thánh thất Cao Đài ở Trảng Bàng Tây Ninh. Lúc đó bên trong thánh thất đang có nhiều thường dân ẩn núp, đã làm chết hai đứa nhỏ, còn dân chúng thì kêu khóc chạy tán loạn. Trong số đó ngoài Cô Bé Napalm bị cháy hết quần áo, để người trần truồng chạy ra giữa đường, bên cạnh còn nhiều đứa nhỏ khác cũng khóc la kiêu cứu. Tờ báo cháu đọc lên án, đó là hành động vô nhân tính, dã man, đàn áp giết hại dân lành kể cả đàn bà trẻ con một cách điên cuồng của bọn Mỹ Ngụy.

Linh nói vừa dứt, tôi liền hỏi lại:

- Cháu vừa kể là: "Có một chiếc máy bay bất ngờ thả mấy quả bom xuống một thánh thất Cao Đài", có đúng vậy không?

Linh gật đầu, tôi ôn tồn giải thích:

- Chú cho cháu biết ngay: Không khi nào tự dưng hoặc bất ngờ mà máy bay tới ném bom đâu! Phải có giao tranh mới có dội bom. Trận chiến ngày hôm đó đến giờ vẫn còn lưu lại nhiều hình ảnh lắm, trong số đó tấm hình Cô Bé Napalm được xem là nổi tiếng nhất. Chú không muốn nói gì đến việc báo chí Cộng sản lên án vụ này, chú chỉ nêu ra vài câu hỏi để cháu tự tìm hiểu rồi suy ra câu trả lời để biết rõ sự thật thôi.

Tôi ngồi trầm ngâm nghĩ ngợi thêm một lúc mới nói tiếp:

- Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, không có giết hại lẫn nhau! Đó là quy luật của chiến tranh! Có khi nào cháu tự hỏi: Tại sao từ người lớn đến trẻ nít trong câu chuyện Cô Bé Napalm đều không chạy theo toán quân hay đoàn quân tới giải phóng họ, mà lại chạy về phía lính Việt Nam Cộng Hòa, mà Việt cộng luôn miệng gọi là ngụy, lên án là dã man tàn độc không? Ai đã tận tình cứu chữa cho Cô Bé Napalm với hết thảy người bị thương? Cháu có biết cô Kim Phúc tức Cô Bé Napalm đã xin tỵ nạn chính trị và hiện sống với chồng con tại Canada chưa? Vì sao Cô Bé Napalm trở thành dân tỵ nạn, chấp nhận sống lưu vong mà lại không chịu sống ở một đất nước hoàn toàn được giải phóng? Một đất nước mọi người lúc nào cũng đều phải viết là: "Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc?"

Vẫn chưa nghe Linh trả lời, tôi nhíu mày giãi bày thêm:

- Nói tới chuyện phải trái, đúng sai về cuộc chiến phi nhân lẫn phi nghĩa, làm chết tới mấy triệu sinh mạng mà phần nhiều là thường dân, chắc chắn lúc nào cũng gây tranh cãi! Vài chuyện chú nghe được về Đại Lộ Kinh Hoàng chú đã kể ra. Cháu biết tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có một câu nói cảnh báo dân Việt Nam về người Cộng sản không?

Giọng Linh đáp lại như diễu cợt:

- Dạ, câu ông Thiệu nói đó người Miền Nam nào cũng đều biết, nhưng kẹt cái là hiện giờ chỗ nào cũng có mấy cái loa phường lải nhải suốt ngày suốt đêm, muốn đừng nghe những gì Cộng sản nói cũng đâu có được chú!

Tôi nhìn Linh nhẹ lắc đầu, biết mình chẳng cần giãi bày thêm điều gì nữa!

*
San Diego ngày 9 tháng Mười Một năm 20...

Cháu Duy Linh thân mến,

Cho mãi đến đầu tháng trước, trong chuyến cô chú lái xe từ San Diego sang chơi bên tiểu bang Arizona, nơi có công viên quốc gia Grand Canyon tức Hẻm Núi Vĩ Đại, một thắng cảnh nổi tiếng trên thế giới chớ không riêng gì nước Mỹ. Sau đó chạy thẳng tới New Mexico, một tiểu bang rộng gần bằng nước Việt Nam mà chỉ có hơn hai triệu người sinh sống, tương đương với dân số thành phố Hải Phòng. Suốt hơn chục ngày chỉ mỗi mình chú lái xe, vuợt hơn bốn ngàn cây số, vậy mà không cảm thấy mệt nhọc, ê ẩm mình mẩy giống như chuyến chú cháu mình đi nối liền Sài Gòn Hà Nội, ra tận ngôi làng Tri Chỉ nơi chú chào đời. Nếu không có chút chuyện đột xuất phải trở lại San Diego gấp, chắc chuyến đi còn kéo dài hơn thế nữa.

Hôm nay ngồi viết những dòng email này gởi về cháu, không phải để khoe khoang đường xá bên Mỹ thênh thang, xe phóng bon bon cảnh đẹp vô ngần, mà chú chỉ muốn kể tiếp câu chuyện Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng năm xưa còn dang dở. Bởi chuyến đi này, nhân dịp ghé thăm một người bạn, ở cách nhà ông Trần Khắc Báo chỉ vài dặm đường, nhờ vậy cô chú được dịp gặp gỡ cùng trò chuyện riêng với ông. Sau đó qua sự trung gian của linh mục Lê Quang Hiền, nguyên chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ, chú còn được trò chuyện thêm với một số nữ tu có liên hệ tới câu chuyện này.

Trước khi kể tiếp, chú muốn nói đôi chút về lối xưng hô cụt ngũn "toa", "moa" trong tiếng Pháp hay "you", "I" trong tiếng Anh hoặc "nị", "ngộ" trong tiếng Tàu, mà một số người thường dịch đơn giản là "mày", "tao". Chú thấy dịch như thế vừa không mấy chính xác, còn có vẻ hơi thiếu nhã nhặn tế nhị và thiếu cả lịch sự nữa! Vì vậy khi thuật lại lời đối thoại, chú cố tình dựa theo lối của người Việt mình, gọi nhau, xưng hô theo vai vế, tuổi tác,…

Duy Linh thân mến,

Chú vẫn nhớ khi nghe xong phần đầu câu chuyện Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng, cháu đã nói ngay: "Cháu thấy câu chuyện xảy ra không khác gì một phép mầu". Quả đúng như vậy, phép mầu đó không dừng lại nơi việc Ngọc Bích được tìm thấy trên thân xác bà mẹ đã chết bên vệ đường để đưa về nơi an toàn vẫn còn tiếp nối cho đến tận bây giờ.

Ông Trần Khắc Báo kể với chú rằng: Từ ngày sống ly hương, mỗi lúc nhớ về quá khứ cuộc đời, nhớ đến nước non, thì hình ảnh bao chiến trận ác liệt, hình ảnh bé Ngọc Bích, vẫn luôn rõ nét trong ông. Khi cuộc sống trên đất Mỹ tạm ổn định, ông Báo sinh hoạt chung cùng đồng hương với vai trò tổng thư ký Cộng Đồng Việt Nam New Mexico.

Một hôm để chuẩn bị cho buổi họp hàng tháng, ông Báo đến văn phòng hội sớm, nhờ vậy ông có dịp thư thả ngồi lật những trang tạp chí Việt Báo Hải Ngoại, phát hành tại tiểu bang New Jersey, mà tòa soạn thường xuyên gởi tặng riêng cho hội. Đọc qua số báo 66 phát hành ngày 18 tháng Năm năm 2012 vừa nhận được, có đăng tải chuyến đi Việt Nam của nữ trung tá Mỹ Kimberly Mitchell, phục vụ tại bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Cô từng mang tên Việt Nam là Trần Thị Ngọc Bích. Ông Báo giật mình như không tin vào đôi mắt. Ông vừa đọc vừa xúc động trộn lẫn với vui mừng, ông tin đây chính là đứa bé ông đã ôm vào lòng, nhỏ từng giọt nước lấy từ bi đông ra cho vô miệng nó, dỗ dành cho nín khóc từ hơn bốn mươi năm về trước. Ông còn xem đây là một sự tình cờ ngoài sức tưởng tượng, cũng là một món quà vô giá Ơn Trên vừa ban xuống cho riêng ông.

Trong lúc bối rối chưa biết làm cách nào để gặp Ngọc Bích, lại thêm một tình cờ hy hữu nữa xảy đến. Khi ông Báo đem câu chuyện vừa đọc trên mặt báo kể cho vợ chồng bà chị họ Đàm Thị Lệ ở cùng một thành phố với ông nghe. May thay ông anh rể lại quen biết với một thiếu tá Hải Quân đang làm việc tại Ngũ Giác Đài. Thế rồi qua sự giúp đỡ làm trung gian của bà Lệ, ông Báo lần hồi biết thêm nhiều diễn biến xảy ra cho Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng kể từ sau ngày ông trao em cho cô nữ quân nhân Thủy Quân Lục Chiến, hồi còn chiến đấu bên quê nhà.

Duy Linh thân mến,

Từ nơi tuyến đầu Phong Điền, em bé Ngọc Bích được đem về Huế sau đó đưa thẳng tới cô nhi viện Thánh Tâm Đà Nẵng, một cơ sở do các bà phước Dòng Nữ Tu Thánh Phaolô Công giáo trông coi. Độ khoảng nửa tháng sau, trong lần trung sĩ James Mitchell, một quân nhân thuộc binh chủng Không quân Hoa Kỳ, đồn trú tại phi trường Đà Nẵng tình cờ ghé thăm. Nhìn Ngọc Bích, tự dưng ông James nảy sinh ý muốn nhận bé làm con nuôi. Đến ngày giải ngũ trở về nước, ông James đem theo luôn cô con gái chưa tròn một năm tuổi.

Ông bà James Mitchell sinh sống tại trang trại Solon Springs, thuộc tiểu bang Wisconsin, vùng Trung Tây nước Mỹ. Và Ngọc Bích đến với quê hương bố mẹ nuôi bằng tên họ mới: Kimberly Mae Mitchell. Cô sống với tràn đầy tình yêu thương hệt như bao đứa trẻ khác trong vùng. Tới chừng cô nhận biết mình có nhiều điểm không giống bố mẹ từ màu da, mái tóc cho đến gương mặt,… Kimberly đánh bạo hỏi bố. Lúc đó cô mới hay mình là người Việt Nam. Sau khi đưa cho con xem một số hình ảnh và kể lại những gì ông James biết về quá khứ đời cô, ông khuyên con, khi có dịp thuận tiện nên về Đà Nẵng, may ra có thể tìm được gốc gác cùng họ hàng thân tộc.

Ngày còn đi học, Kimberly là một nữ sinh năng động hoạt bát, tham gia hầu hết mọi sinh hoạt trong họ đạo, cùng các hoạt động thiện nguyện, thể thao, xã hội nơi học đường. Về nhà cô là đứa con ngoan, phụ giúp bố mẹ đắc lực trong công việc chăn nuôi bò và làm phó mát. Thấy con lanh lợi siêng năng, nên ngay từ khi Kimberly mới học lớp Ba, ông James đã tỏ cho con gái biết, ông mong sau này Kimberly sẽ gia nhập Không quân giống như ông khi xưa. Nhưng ông vẫn chiều theo ý con, bởi sau khi hoàn tất bậc trung học, Kimberly đã nạp đơn xin và được nhận vào Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ.

Đến năm Kimberly tròn mười chín, thiên tai mưa lũ bất chợt đổ ập xuống vùng trang trại của gia đình, cướp đi sinh mạng ông James. Kimberly bỏ cả năm học vì tang cha, nên mãi đến năm 1996 cô mới hoàn tất văn bằng cử nhân Khoa Học Hàng Hải, và bắt đầu sống đời quân ngũ.

*
Hè năm 2011, trung tá Kimberly Mitchell đang giữ chức vụ Phó giám đốc Văn phòng Hỗ Trợ Chiến Binh Và Gia đình, có một chuyến công tác lần đầu tiên tại Việt Nam. Ngoài việc chu toàn nhiệm vụ do thượng cấp giao phó, Kimberly còn muốn nhân chuyến đi này sẽ kết nối với bao nhiêu người liên hệ tới cô mà cô chưa hề biết trong quá khứ. Cô từng ví von cuộc đời cô giống như một quả bóng lăn trên sân cỏ, mà tự cô chẳng biết đá vào đâu.

Suốt cả tuần lễ sống nơi quê mẹ, Kimberly như một du khách đến thăm Việt Nam, cô viếng Sài Gòn rồi bay thẳng ra Đà Nẵng cùng ba người bạn. Kimberly đi tìm lại tông tích mình với tấm ảnh ngày còn bé cô được một bà phước bồng trên tay, và một nơi chốn có thời mang tên "Cô Nhi Viện Thánh Tâm". Bởi nhân viên tiếp tân tại khách sạn không biết cô nhi viện hiện giờ ở đâu, họ điện thoại đến Tu viện Phaolô và gọi giúp xe đưa cô đến đó, với hy vọng các sơ có thể biết về nơi này.

Nhờ hay trước việc có một nhóm người ngoại quốc muốn tới thăm viếng, nhà dòng liền cử sơ Maria Trần Thị Hưởng, một người nói rành tiếng Anh đứng ra tiếp đón. Khi nghe Kimberly tự giới thiệu ngắn gọn tên mình là Kim mới từ Mỹ về, sơ Hưởng cứ ngỡ là đang tiếp chuyện với một người Mỹ gốc Hàn Quốc. Tới chừng Kimberly kể rõ hơn, cô là người Việt Nam, hồi năm 1972 từng được các sơ nuôi nấng tại cô nhi viện Thánh Tâm, nay muốn trở về thăm lại chốn xưa. Vừa nói Kimberly vừa đưa cho sơ Hưởng xem ảnh. Nhìn phớt qua sơ nói ngay:

- Kimberly ơi, sơ Angela Phan Thị Hồng là người bồng con đó! Như vậy con là con của các sơ, sơ rất vui mừng đón tiếp con trở về thăm gia đình.

Nhân đó sơ cũng tự giới thiệu đôi chút về mình:

- Hồi năm 1972, lúc đó sơ 21 tuổi, là một Thỉnh sinh tại Tập viện. Sơ ở cách cô nhi viện chỉ vài trăm thước về hướng biển thôi, nên mỗi cuối tuần sơ đều sang bên cô nhi viện vui đùa, bồng bế với đút cháo cho các em bé ăn.

Kimberly ôm chầm lấy sơ Hưởng, y như một đứa con từ xa về gặp mẹ, giọng liến thoắng reo vui:

- Như vậy chắc là sơ đã cho con bú, tắm rửa với thay tã cho con phải không?

Sơ Hưởng liền ôm Kimberly âu yếm hỏi:

- Vậy con còn nhớ tên con là gì không?

- Dạ, tên con là Bích Ngọc Thị Trần.

Sơ Hưởng ồ nhẹ lên một tiếng, ôn tồn cắt nghĩa:

- Tên con đẹp lắm! Nhưng con không thể đọc như thế được, con phải đọc là Trần Thị Ngọc Bích thì mọi người mới hiểu trọn vẹn ý nghĩa, đó là một loại ngọc trai màu xanh biếc quý giá lắm!

Mắt Kimberly rưng rưng khi hiểu rõ ý nghĩa tên mình. Ba người đi cùng như cảm nhận được nỗi xúc động đang dâng trào trong lòng bạn, nên chỉ lặng thinh ngồi nhìn sơ Hưởng thân mật nắm tay kéo Kimberly qua một gian phòng khác. Vừa đi sơ vừa kể như tâm tình:

- Con biết không, sau 30 tháng Tư năm 1975 cô nhi viện nơi con ở đã bị chính quyền mới đóng cửa, các sơ không còn được phép chăm sóc nuôi dưỡng các bé cô nhi nữa! Nhưng may một điều mọi giấy tờ hồ sơ liên quan tới trẻ mồ côi đều được mẹ bề trên nhà Dòng lưu giữ cẩn thận và cất vào căn phòng này.

Sơ Hưởng lục tìm trong những quyển sổ ghi chép tên tuổi các em cô nhi theo thứ tự thời gian một lúc, mới lôi ra quyển danh bạ, chậm rãi lật từng trang một. Tay sơ hơi run lên, còn Kimberly mở to đôi mắt khi nhìn rõ dòng chữ viết tay: "899 - Trần Thị Ngọc Bích", với luôn cả tấm ảnh chụp ngày còn bé. Dáng hình cô được diễn tả với vài dòng ngắn gọn: Sinh ngày 23 tháng Mười Một năm 1971 tại Đà Nẵng, cao 80 phân, tóc đen, miệng rộng, cằm vuông,…

Niềm vui như vỡ òa khi nhìn lại dấu tích ngày trước còn cất giữ nơi tu viện Thánh Tâm, nằm ngay bên cạnh nhà thờ chánh tòa Đà Nẵng. Kimberly chụp hình liên tục từng trang một, hết xa đến gần như không muốn bỏ sót một góc cạnh nào. Chụp ảnh xong chốc chốc Kimberly lại ôm sơ Hưởng thay cho lời biểu tỏ tấm lòng yêu thương lẫn sự quý mến.

Trước lúc rời tu viện đưa nhau đi thăm lại viện cô nhi thủa nào, sơ Hưởng nói như giãi bày:

- Viện mồ côi con ở trước đây là một phần rất nhỏ trong khuôn viên mấy chục mẫu tây đất của nhà Dòng, nằm cạnh năm ngọn núi được đặt tên "Ngũ Hành Sơn", đều bị quốc hữu hóa. Chính quyền chỉ cho giữ lại chút ít đất đai để nhà Dòng tạo dựng một "Mái Ấm Tình Thương", chăm sóc cho các cụ già neo đơn, nghèo khó, cùng một chỗ nuôi dạy trẻ em khuyết tật với hai dãy nhà làm tập viện huấn luyện các sơ. Con may mắn về đây đúng lúc, vì sơ nghe nói chỗ nuôi trẻ mồ côi trước đây sắp bị nhà nước phá bỏ, để xây "Trung Tâm Nghỉ Dưỡng Chăm Sóc Người Có Công Với Cách Mạng".

Kimberly lên tiếng hỏi:

- Chỗ đó cách xa đây không thưa sơ?

- Không xa lắm đâu con, nó nằm phía bên kia bờ sông Hàn, cách đây chừng năm cây số.

Duy Linh thân mến,

Chú tạm ngưng kể chuyện Cô Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng, để nói đôi chút về Dòng Nữ Tu Thánh Phaolô, một trong số mấy chục dòng tu nữ Công giáo ở Việt Nam. Dòng Phaolô có mặt trên thế giới từ ngoài ba trăm năm qua với khoảng hơn bốn ngàn nữ tu. Đến Việt Nam từ năm 1860, và hiện có hơn một ngàn bốn trăm nữ tu. Mọi việc các sơ làm xuất phát từ lời Chúa mời gọi: "Những gì anh em làm cho một kẻ bé nhất của Ta đây, là anh em làm cho chính Ta vậy". Với tôn chỉ đó các sơ chuyên phục vụ trong các lãnh vực: Giáo dục thanh thiếu niên, nuôi dưỡng trẻ em thiếu may mắn, những người già không ai chăm sóc, tật nguyền bệnh hoạn,… Riêng tại Mỹ Tho quê hương của cháu, Nhà Dòng Phaolô chỉ cách nhà thờ chánh tòa mỗi con đường Nguyễn Trãi. Ngay phía cổng chính trên đường Hùng Vương, trước năm 1975 cũng có một cô nhi viện và nhà hưu dưỡng để các sơ nuôi trẻ mồ côi và chăm sóc người già tàn tật bệnh hoạn. Hai nơi này sau năm 1975 cũng đã thuộc về nhà nước. Riêng phần cô, vợ của chú may mắn được làm học trò các sơ Dòng Phaolô gần hai năm trước khi chuyển qua học trường nữ trung học Lê Ngọc Hân Mỹ Tho cách đó không xa, vì các sơ lúc bấy giờ chỉ dạy đến hết bậc tiểu học.

Giờ chú lại kể tiếp câu chuyện về Việt Nam của Kimberly.

Trên đường ngồi xe từ nhà Dòng đi sang cô nhi viện Thánh Tâm ngày trước, lòng sơ Hưởng chộn rộn với ngập tràn tâm tình nồng ấm, bởi Kimberly chốc chốc lại tựa đầu vào vai sơ, âu yếm như hai mẹ con đưa nhau về thăm ngôi nhà cũ.

Kimberly đưa mắt ngắm nhìn kỹ mỗi khung cửa, sờ từng cái bàn cái ghế, đưa máy ảnh lên bấm cả cái mái tôn xiêu vẹo. Mắt sơ Hưởng lúc đó dường như cũng thấy lại hình ảnh hàng trăm cô nhi, đứa còn đỏ hỏn, đứa biết lẫy, đứa bò lê bò la, đứa tập tễnh bước mấy bước đầu đời,… Dưới mái mấy căn nhà này, các em bé thơ ngây gồm đủ sắc màu: Da đen có, da trắng da vàng cũng nhiều, đứa tóc quăn, đứa tóc nâu, luôn mấy đứa mất tay mất chân bởi đạn nổ bom rơi cũng có tại nơi đây. Các nữ tu ngày ấy chỉ biết trông cậy vào ơn Chúa để đủ sức chăm sóc nuôi nấng cho từng em bé mỗi ngày.

Sơ Hưởng chỉ cho Kimberly thấy nơi dành riêng cho trẻ sơ sinh, nơi cho các bé một, hai, ba, bốn tuổi, nơi nào cho các em nam, chỗ nào cho các em nữ ở. Dõi theo ngón tay sơ Hưởng, Kimberly quan sát tỷ mỷ hơn khi biết nơi chốn đó dành riêng cho các em nhỏ mới vài tháng ở độ tuổi cô. Chốc chốc Kimberly nhìn chằm chằm vào một nơi như cố tưởng tượng ra cái nôi cô từng nằm khi trước.

Cô nhi viện Thánh Tâm tọa lạc tại đây từ năm 1958, ngăn cách với nơi các sơ nghỉ hưu dưỡng chỉ mỗi một bức tường. Kimberly được sơ Hưởng đưa sang bên đó, tận mắt thấy những đôi má nhăn nheo cười thật tươi, vui mừng đón con trở về nhà. Biết bao nhiêu lớp cô nhi đã đến rồi đi, sự việc Kimberly quay về cũng là dịp để các sơ già nua yếu đuối ôn lại một phần quãng đời mình với con cái từ ngàn dặm xa xôi vẫn còn nhớ về chốn cũ. Dựa vào những mảng quá khứ còn lưu trong ký ức, với giọng thều thào, các sơ cố diễn đạt để Kimberly hiểu ngày còn bé cô sống thế nào, được chăm sóc ra sao?

Đến khi đưa Kimberly tới nơi lưu giữ hài cốt các sơ đã về nước Chúa. Đứng lặng yên trước một tấm mộ bia, sơ Hưởng khẽ nói:

- Đây là nơi chôn cất hài cốt sơ Angela Phan Thị Hồng, người ôm con trong tấm ảnh mà con đưa cho sơ xem lúc ban sáng. Ngày con được đem đến viện mồ côi, chính sơ Hồng ra đón nhận con và chụp chung với con tấm ảnh đó, để lưu giữ trong hồ sơ của con.

Tiếng lách cách bao máy ảnh rộn ràng vang lên. Kimberly chụp mộ phần, còn các bạn cố chụp nỗi lòng cô biểu tỏ trước một người thân đã rời cõi thế. Sơ Hưởng như nghe được hai tiếng "Mẹ ơi" văng vẳng bên tai. Buông máy ảnh xuống Kimberly đặt tay lên bia mộ một hồi lâu, lúc ngước lên mặt vẫn còn đọng vài giọt lệ, nói trong thổn thức:

- Như vậy đây chính là mộ phần của mẹ con.

Sau giây phút thinh lặng tưởng nhớ cùng cầu nguyện cho linh hồn các sơ đã mất, quá khứ lại quay về ngập hồn sơ Hưởng. Sơ nhớ tới những năm tháng khó khăn trôi qua trong cuộc đời mình cũng như nhà Dòng. Đôi lúc sơ những tưởng mình không thể tiếp tục tu hành được nữa bởi biết bao cấm đoán, ràng buộc của người nắm quyền hành trong tay. Sơ cũng không biết các em thơ ngây bé dại sống ra sao sau ngày các sơ bị buộc phải rời cô nhi viện! Bởi còn quá nhỏ các em làm sao đủ nhận thức để phân tích những gì đã xảy đến trong cuộc đời mình.

Cuộc hội ngộ nào rồi cũng đến lúc phải chia tay. Sơ Hưởng cảm nhận những cái ôm cùng bao lời tràn đầy tình nghĩa từ con người Kimberly truyền sang. Sơ xem đó như một phần thưởng quý giá Thiên Chúa ban xuống cho các sơ trên bước đường theo Chúa nơi trần thế. Trước lúc chia tay, sơ Hưởng dặn dò Kimberly:

- Đây là nhà của con, con có thể trở về bất cứ lúc nào con muốn.

Kimberly rời Đà Nẵng được mấy hôm, học trò sơ Hưởng hết đứa này đến đứa khác điện thoại hỏi thăm:

- Sơ ơi! Có phải thứ Sáu tuần rồi sơ đã tiếp một nữ quân nhân Mỹ tại nhà Dòng không?

Sơ Hưởng ngạc nhiên hỏi lại:

- Ai nói với con như vậy? Từ trước tới giờ sơ đâu có tiếp xúc với người lính nước ngoài nào!

- Con thấy hình của sơ với sơ Vincent Phục chụp chung với một nữ trung tá Hải Quân Mỹ đăng đầy trên mạng. Để con gởi mấy cái "link" đó cho sơ vào xem.

Đến chừng đó sơ Hưởng mới chợt nhớ ra, sau khi giải thích cho Kimberly hiểu rõ tên mình, sơ vui mừng quá đỗi, chẳng lưu tâm gì đến lời một anh bạn đi cùng giới thiệu về thân thế Kimberly. Với lại sơ cũng không mấy am hiểu về chức tước trong quân đội. Và rồi kể từ đó, nhờ phương tiện liên lạc email dễ dàng tiện lợi, qua trung gian sơ Hưởng, Kimberly luôn gắn bó với Dòng Nữ Tu Thánh Phaolô Đà Nẵng.

Duy Linh thân mến,

Sơ Maria Trần Thị Hưởng còn kể với chú một việc riêng giữa sơ với Kimberly, xảy ra khoảng vài năm sau chuyến hội ngộ tại Đà Nẵng. Quãng thời gian này nhà Dòng chuyển sơ Hưởng lên vùng cao nguyên phố núi Pleiku, phục vụ tại một cộng đoàn chuyên nuôi dạy trẻ em người dân tộc. Ở đó nhà Dòng có một mảnh đất trống, rộng cả ngàn thước vuông vẫn chưa dùng vào việc gì, nên sơ Hưởng dự định biến nó thành một mảnh vườn, vừa dạy dỗ các em biết cách trồng trọt, biết cách làm ra tiền để tự lo phần nào cho cuộc sống. Ý tưởng đã có, nhưng lấy tiền bạc đâu để làm vốn? Câu trả lời vẫn chưa tìm ra thì sơ Hưởng nhận được email Kimberly gởi tới. Sau mấy lời hỏi thăm sức khỏe cùng công việc làm, còn thòng theo câu: "Sơ có cần con giúp gì không?" Thế là qua năm sau khu vườn trong mơ của sơ Hưởng bắt đầu trổ sinh hoa trái. Có thêm thu nhập, giúp cho cuộc sống các em học sinh nội trú người dân tộc ngày một ý nghĩa hơn. Các em biết tích cóp tiền bán rau để trang trải cho các cuộc đi chơi xa. Và nơi chốn luôn xanh tươi bởi hàng ngày đều được các sơ, các em học sinh chăm sóc vun sới đó mang tên "Vườn Rau Sơ Angela", cái tên Kimberly muốn đặt để tưởng nhớ một trong những người mẹ đã đến với cô trong cuộc đời.

*
Duy Linh thân mến,

Từ khi kết nối liên lạc bằng email qua trung gian bà chị họ của ông Báo, Kimberly dự tính, sau một hai tuần lễ thu xếp công việc, cô sẽ bay từ thủ đô Washington DC sang New Mexico gặp gỡ gia đình. Nhưng gần đến giờ phút chót, cô cho biết: Cô không thể gặp riêng tư như vậy được, bởi câu chuyện Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng không còn là của riêng ông Trần Khắc Báo với cô nữa. Nó đã trở thành câu chuyện có quá nhiều người hay biết, họ đều muốn thấy sự hội ngộ giữa hai nhân vật chính vẫn còn sống trên cõi đời và đang có mặt tại đất nước Hoa Kỳ. Vì vậy Kimberly nhờ bà Đàm Thị Lệ giúp tìm một nơi hội họp có thể chứa khoảng bốn năm chục người. Ông Báo nghĩ ngay tới văn phòng Cộng Đồng Việt Nam New Mexico, và liền gọi xin vị chủ tịch Lương Thông để được dùng vào công việc này.

Bởi Kimberly muốn cuộc hội ngộ diễn ra tự nhiên trước mọi con mắt, cô phải dằn lòng từ chối việc ông Báo muốn đón rước cô tại phi trường. Cô nhờ bà Lệ tỏ riêng với ông Báo rằng: Cô mong được nhìn thấy ông mặc bộ quân phục Thủy Quân Lục Chiến, như lúc cô nằm trong lòng ông từ Đại Lộ Kinh Hoàng để được đưa về nơi an toàn.

Rồi ngày hẹn thứ Năm, 29 tháng Ba năm 2012 cũng đến. Ông Báo hết sức ngạc nhiên khi bước vào hội trường, bởi mọi việc diễn ra hoàn toàn khác thường. Vị hội trưởng căn dặn ông phải có mặt lúc 9 giờ 30 sáng. Ông đến đúng giờ gấc, vậy mà gần hai chục hội viên đã tới trước ông. Thêm một điều ngạc nhiên nữa, cả trong lẫn ngoài phòng hội đều có cảnh sát giữ gìn an ninh trật tự. Ngoài ra còn năm bẩy người lạ mặt lăng xăng tìm ổ điện, cắm các loại đèn chiếu sáng, máy quay phim, chụp ảnh,… Ông Báo nhận ra vài nhân viên đài SBTN, một đài truyền hình tiếng Việt từ thủ phủ Little Saigon của người Việt tỵ nạn cũng có mặt. Riêng vợ chồng bà chị họ Đàm Thị Lệ luôn bận rộn đi tới đi lui đón tiếp cả khách Mỹ lẫn khách Việt. Ông Báo chẳng thể hỏi han ai, bởi mọi sự đang diễn ra đều do Kimberly sắp xếp và cô không muốn ông hay biết trước điều gì.

Đúng mười giờ sáng hôm đó, từ bên ngoài phòng hội một nhóm bảy tám người, dẫn đầu là một phụ nữ thân hình rắn chắc tóc hớt cao, mặc chiếc sơ mi màu xanh, khoác bên ngoài tấm áo len tươi tắn giản dị, dáng oai vệ đi như đang diễn hành cùng tiến thẳng vào phòng hội. Các máy quay phim, máy ảnh hướng hết về phía đó. Khi cô ta vừa bước qua cánh cửa, vị chủ tịch Cộng Đồng liền tiến tới đứng trước mặt lên tiếng hỏi:

- Chào cô, hôm nay cô đến với Cộng Đồng Việt Nam New Mexico của chúng tôi chắc có điều gì quan trọng lắm phải không?

Cô ta nhã nhặn đáp:

- Dạ thưa vâng, rất là quan trọng! Thưa ông, cháu đến đây để tìm ông Trần Khắc Báo.

Nghe vậy ông Báo vội vàng đứng dậy bước tới bên cạnh, vị chủ tịch thân mật vỗ vai ông Báo nói:

- Thưa cô, đây là ông Trần Khắc Báo.

Quá bàng hoàng, ông Báo không cầm được nước mắt lúc ôm chầm lấy Ngọc Bích, miệng lẩm bẩm như người mất hồn:

- Con lớn như vầy rồi hay sao?

Dẫu biết Ngọc Bích chẳng hiểu gì, vì ông nói tiếng Việt. Mấy tiếng đó tự đáy lòng bật ra, bởi quá khứ với hiện tại đang quyện vào nhau khiến ông thổn thức. Ngọc Bích cũng ôm ông trong nước mắt. Rồi ông Báo đưa Ngọc Bích đến gặp bà vợ và cô con gái Trần Thị Y Bình. Hỏi han nhau xong, Ngọc Bích ngước nhìn ông Báo khẽ hỏi:

- Thưa ông, nhờ ông cứu mạng mà con mới có được ngày hôm nay! Xin ông dạy cho con biết: Trước tiên con phải làm điều gì trong lần đầu hội ngộ này?

Chẳng chút nghĩ ngợi, ông Báo trả lời ngay:

- Hiện giờ ta chỉ muốn con nói với ta bằng tiếng Việt Nam một lời thôi. Hãy gọi ta bằng "Tía", vì các em con đều gọi ta như vậy. Đó là tất cả những gì ta mong muốn ở nơi con vào giây phút này.

Thế là mọi người hiện diện đều nghe rõ tiếng Tía, tiếng Việt Nam mà cô Kimberly Mitchell thốt ra lần đầu trong cuộc đời.

Ôm Ngọc Bích thêm lần nữa, ông Báo cười thật tươi, ngắn gọn bày tỏ nỗi lòng ra với con:

- Giờ Tía mãn nguyện lắm rồi!

Ông Báo nào hay biết, từng lời ông nói đều được dịch sang tiếng Anh ngay tức thời. Mỗi cử chỉ dù nhỏ nhặt đều được mọi người dõi theo, vì vậy cả phòng hội vừa cười vừa đưa tay quệt nước mắt.

Trong cuộc hội ngộ tràn đầy tình yêu thương lẫn cảm động ấy, nữ trung tá Kimberly Mitchell bày tỏ cùng cử tọa bao sự việc liên quan tới cuộc đời cô. Ông Báo nhớ nhất điều cô nói với một phóng viên: Tuổi thơ của cô có hai cái may mắn, thứ nhất là cô đã được tìm thấy và mang tới trại mồ côi, thứ hai là cô được ông James Mitchell bước vào trại mồ côi và nói với các bà phước rằng: Ông muốn nhận em bé này làm con nuôi. Cô từng chia sẻ với nhiều người, khi cô hiểu rõ ý nghĩa cái tên Việt Nam của mình, cô đúng là viên ngọc quý. Lần đến Việt Nam là chuyến thăm của một đời người và chỉ một lần duy nhất! Chắc chắn cô sẽ không thể chờ đợi thêm bốn mươi năm nữa mới quay trở lại.

Cháu Duy Linh thân mến,

Kể từ sau cuộc hội ngộ với người đã đặt cho Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng một cái tên trước mặt bao nhiêu quan khách cùng giới báo chí truyền thanh truyền hình, Ngọc Bích dành nhiều thời gian ghé thăm gia đình ông Tía. Tâm tình chia sẻ với con lần hồi giúp ông Tía nhận ra, bề ngoài Ngọc Bích mang dáng dấp oai vệ của một người lính chiến, còn bên trong ẩn chứa nhiều cử chỉ, lời nói dịu dàng của một phụ nữ thông minh, nhanh nhẹn luôn quan tâm tới người khác. Lúc còn mù mờ về quá khứ, đôi lần Ngọc Bích thầm trách cha mẹ, sao nỡ bỏ rơi cô? Sao phải gởi cô vào cô nhi viện? Sau khi thổ lộ điều này ra, Ngọc Bích hỏi ông: "Từ khi gặp Tía, trong lòng con luôn xem Tía là vị 'anh hùng'. Tía có thể nói cho con biết vì sao Tía can đảm như vậy không?" Ông Báo thấu hiểu hai tiếng anh hùng trong văn hóa Mỹ khác hẳn với cách dùng của người Việt. Ông ôn tồn giải bày: "Con mà gọi Tía là anh hùng trước mặt người Việt Nam chắc họ cười Tía tắt tiếng luôn! Việc Tía làm đó không thể xưng tụng kiểu này được. Tía đến với con chỉ độ hơn một giờ đồng hồ, đồng hành cùng con trên đoạn đường ngắn ngủi khoảng ba mươi cây số, từ cầu Mỹ Chánh về tới tuyến đầu Phong Điền. Tía chỉ là một nhân chứng vẫn còn sống của cuộc đời con thôi. Chính con đã trả lời khi một phóng viên nêu ra câu hỏi: Nếu ở vào hoàn cảnh đó con sẽ làm gì? Và con đã đáp ngay: Chắc chắn tôi sẽ làm giống Tía tôi thôi". Ông Báo còn tỏ bày thêm: "Hồi trước Tía đi lính chỉ với một mục đích duy nhất là muốn bảo vệ quê hương Miền Nam, trong quê hương đó đương nhiên có con người, và lúc gặp con, con là một sinh linh cần được cứu, sự việc đơn giản thế thôi! Nhân đây Tía nhắc lại một điều nữa, không phải để kể công, chớ lúc ôm con ngồi trên xe, mỗi khi pháo địch ầm ầm bắn tới, như một phản ứng tự nhiên, Tía cúi gập người xuống, để tấm áo giáp Tía mặc trên người che chắn đạn cho con. Con được sống đến giờ này đều kết tụ toàn bằng tình yêu thương chân thành không vị lợi, không toan tính. Trước tiên là cái tình của mẹ ruột con, bà yêu thương con nhất trên cõi đời. Khi biết mình không thể sống nổi, bà vẫn cố sức vách vú cho con bú. Sự việc này Tía nghe chính miệng bác lính Quân cụ của tiểu khu Quảng Trị nói lại với Tía. Bác ấy rất thương và lo lắng cho con nhiều lắm. Trao con lại cho Tía rồi, bác ngất xỉu ngay, lính tráng của Tía phải dìu bác lên xe. Đến giờ Tía chẳng biết bác ấy còn hay đã mất. Rồi đến ông bà James Mitchell bố mẹ nuôi con và ngay cả vị đại tá chỉ huy trưởng, người đưa con về tận đây, đã cùng khóc mừng cho câu chuyện đời con. '23 tháng Mười Một năm 1971 tại Đà Nẵng', dòng chữ này được ghi rõ ràng vào quyển sổ thông hành để đưa con sang Mỹ. Nhưng Tía nghĩ, đó chỉ là điều mấy bà phước Dòng Phaolô đoán chừng vậy thôi, chớ không ai biết đích xác con sinh vào ngày tháng năm nào và tại nơi đâu? Theo Tía suy đoán: Con chào đời đúng vào giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc nội chiến xảy ra trên đất nước Việt Nam. Những ngày tháng đó đã được đặt cho cái tên là Mùa Hè Đỏ Lửa. Và vùng đất khô cằn chó ăn đá gà ăn sỏi, nắng cháy da người Quảng Trị mới chính là nơi con sinh ra. Chốn này gánh chịu nhiều nỗi oan nghiệt chết chóc nhất trong nước Việt Nam. Được ví là cái Cối Xay Thịt, từng xay hàng vạn thân xác của cả dân lẫn lính. Con đã được cứu sống giữa cảnh đạn pháo đỏ trời, người chết như rạ. Mẹ ruột con chắc chắn đã mất trong trận chiến đó, còn cha con thì Tía không biết là ai."

Khi câu chuyện Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng được loan truyền rộng rãi trên nhiều phương tiện truyền thông cả Mỹ lẫn Việt, mỗi người đều có cái nhìn, có lối suy nghĩ riêng. Ông Báo kể cho chú nghe về một thánh lễ trong ngôi giáo đường gần nhà. Bài Phúc Âm hôm đó nhắc tới việc Chúa cứu chữa khỏi cho mười người mắc bệnh phong cùi. Vào thời buổi Chúa Giêsu đi rao giảng Tin Mừng, bất cứ ai vướng mắc căn bệnh ngặt nghèo này đều bị loại bỏ ra khỏi cộng đồng dân cư, đi tới đâu cũng phải trùm mặt, phải rung chuông báo cho mọi người biết họ là người ô uế cần phải tránh xa. Trong phần bài giảng, linh mục chủ tế thuật lại câu chuyện của Ngọc Bích, và xem việc cô quay trở về Đà Nẵng, tìm tới Dòng Nữ Tu Thánh Phaolô, còn tổ chức họp báo để vinh danh người đã cứu vớt cô giống như việc người cùi sau khi được chữa lành đã quay trở lại cảm tạ Thiên Chúa. Thế là sau thánh lễ ông Báo trở thành nhân vật chính, trả lời biết bao câu hỏi mọi người muốn biết về câu chuyện hai Tía con ông.

Duy Linh thân mến,

Tuy chú với ông Báo mới gặp nhau lần đầu, nhưng chẳng khác gì tri kỷ. Có lẽ là bởi cả hai cùng tuổi Mậu Tý, rời giảng đường đại học lúc việc học hành còn dang dở để bước vào đời lính. Khi chú hỏi tới chuyện nhà, khiến ông Báo nhớ đến mẹ. Mẹ ông chào đời vào năm cuối cùng của thế kỷ XIX, rời cõi thế trong năm đầu của thiên niên kỷ thứ Ba. Bà thọ ngoài trăm tuổi, nhưng góa bụa từ lúc mới bước vào tuổi năm mươi, bởi chồng mất khi đứa con trai út là ông Báo chưa tròn thôi nôi. Một mình bà phải tảo tần nuôi dạy tới bảy đứa con!

Lại thêm một lần nữa ông Báo đem cái tên mình ra ví von. Ông nói: Nửa phần đầu cuộc đời, ông chuyên "Báo Mẹ", vì tuổi thơ ông là đứa trẻ ham thích đánh bi đánh đáo, hay phá làng phá xóm, hái trộm trái cây,… Đến chừng trở thành người lính Thủy Quân Lục Chiến, lại mải miết đánh nhau ngoài mặt trận hết ngày này sang tháng khác, đi khắp mọi miền đất nước, đâu còn chút thời gian nào để nhớ tới mẹ, chớ đừng nói chi đến việc chăm sóc cho đấng sinh thành. Rồi cuộc chiến tàn, trở thành một tên tù cải tạo, khi thả ra bị mất quyền công dân, sống bám vào vợ thì lấy gì để báo đáp công ơn dưỡng dục! Từ ngày sang đến Mỹ, may mà nửa phần đời sau được thong thả tự do làm lụng nuôi vợ con, còn dư dả chút đỉnh giúp đỡ người thân bạn hữu. Nhất là thường xuyên trở về Việt Nam thăm nom chăm sóc cho mẹ già. Từ đó cái tên Báo trong lòng người mẹ kính yêu được bà xem là "Báo Hiếu".

Cháu biết không, chú cũng rất cảm động khi đọc mấy dòng chữ Ngọc Bích viết tay chan chứa tình người, bày tỏ nỗi lòng ra ngay nơi trang đầu quyển album, cô tự làm để tặng riêng gia đình ông Báo: "Tía yêu dấu của con và tất cả gia đình họ Trần. Thưa Tía, không một từ ngữ nào có thể diễn tả đầy đủ mọi nỗi xúc cảm con nhận được từ hôm gặp gỡ Tía tại Cộng Đồng Việt Nam bang New Mexico trong ngày 29 tháng Ba năm 2013. Chỉ với một hành động thật nhỏ nhặt của Tía hồi năm 1972 thôi, đã làm thay đổi mãi mãi cuộc đời con. Từ nay con mong sẽ là một thành viên tốt trong gia đình Tía. Con cảm ơn Tía đã đặt cho con một cái tên thật đặc biệt và hết sức ý nghĩa,… Kimberly Mae Mitchell - Trần Thị Ngọc Bích."

Duy Linh thân mến,

Một chiến trường đẫm máu diễn ra tại Quảng Trị suốt bao nhiêu năm trường, từ trước ngày con chào đời, tính đến nay đã gần nửa thế kỷ trôi qua. Mọi người may mắn không bị cuộc chiến đó hủy diệt vẫn tiếp tục tồn tại. Nhiều người đã tận mắt thấy hoặc từng đọc qua, hoặc nghe nói về viên Ngọc Bích định mệnh mà ông Tía Trần Khắc Báo dùng để đặt cho Em Bé Trên Đại Lộ Kinh Hoàng ngày một tỏa sáng thêm. Viên Ngọc Bích đó hòa quyện vào tình yêu thương giữa con người với con người, của hai dân tộc cả Việt lẫn Mỹ. Tình đồng bào, tình đồng loại, lòng nhân ái, sự khoan dung độ lượng như một loại thuốc thần kỳ, chữa lành bao vết thương sau cuộc chiến kéo dài suốt hơn hai mươi năm. Riêng phần Ngọc Bích nay đã thấu rõ cô chưa hề bị bỏ rơi, ngược lại cô là một em bé được chuyền từ bàn tay nhân ái này sang bàn tay yêu thương tay khác, đón nhận biết bao ân sủng trong cuộc sống! Cô nguyện sẽ dùng hết những ngày tháng còn lại của đời mình, để báo đáp công ơn những người đã ban phát cho cô. Còn đối với ông Tía Trần Khắc Báo, giờ đây Ngọc Bích là một ân nhân lớn, giúp ông hãnh diện hơn với sáu năm sống đời quân ngũ, giúp cho sự thảm khốc của cuộc chiến cũ dần phai mờ trong trí nhớ, để rồi tự nó chôn vùi vào dĩ vãng.

Đôi dòng thư khơi lại một câu chuyện trong quá khứ gởi về cháu, chúc cháu và gia quyến luôn có được cuộc sống an lành và hạnh phúc.

Thân mến,

Chú Nguyễn Văn Hưởng.

User avatar
nangchieu
Posts: 2094
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nangchieu »

MIẾNG CƠM TRONG CHIẾC LON BIA
quatructuyen
( Câu chuyện đầy tình người )


Sáng nào cũng thấy thằng nhỏ cầm cái lon đứng chầu chực trước quán ăn. Tôi theo dõi thì hễ thấy thực khách vừa kêu tính tiền thì thằng bé chạy lại nhìn vào những cái tô, nếu còn thức ăn dư mứa thì nó vội vã trút vào cái lon rồi chạy ra ngoài đứng ngóng tiếp.

Khi cái lon gần đầy thì nó biến mất , chập sau thấy nó lại có mặt thập thò trước quán tiếp tục . Bàn tôi ngồi thì đứa bé không bao giờ quan tâm tới , bởi mỗi sáng tôi chỉ đủ tiền uống 1 ly xây chừng . Vì tôi cũng nghèo cải tạo mới về sáng nhịn đói ngồi uống cà phê đen như một cái thú hay một cái tật không bỏ được.

Cứ thế , mà hơn một năm tôi mới quen được và tìm hiểu chút ít về hoàn cảnh gia đình của đứa bé. Hôm ấy trời mưa, thằng bé đứng nép vào trong quán . Vì mưa ngày càng lớn nên nó đứng nép càng sâu trong quán chỉ cách tôi chừng độ nửa thước. Tôi vói tay kéo nó ngồi xuống bàn và hỏi nó có thích uống cà phê không ?

Thằng bé lắc đầu lia lịa và nói không uống. Tôi hỏi nó làm gì ngày nào cũng ra đây và hiện sống với ai ? Thằng bé như đoán được rằng: tôi chỉ là người khách ghiền cà phê nặng nên hàng ngày đóng đô ở đây nên nó cũng trả lời nhanh nhẹn :

– Con sống với ba má . Ba con đi làm xa còn Má con đi phụ buôn bán ở ngoài chợ !

Tôi hỏi tiếp :

– Còn con có đi học không ?

Thằng bé :

– Con không có đi học , ở nhà phụ với má nuôi heo !

Đó là lý do để nói lên sự hiện diện hằng ngày của nó nơi quán ăn nầy . Nghe thằng bé nói như thế, tôi nói với chị chủ quán ăn giúp cho nó lấy những cơm và thức ăn thừa . Cũng từ đó nó không còn đứng lúp ló ngoài cửa quán nửa và nhờ tánh tình hiền hậu thật thà , chị chủ quán cho nó vô phụ việc , dọn bàn đề lấy thức ăn dư mang về . Từ đó tôi và nó gần gũi nhau hơn và thân với nhau lắm !

Có lần thằng bé hỏi tôi :

– Chú làm nghề gì vậy hả chú ?

Tôi chỉ trả lời ngắn gọn :

- Chú đang làm thinh !

Đúng vậy mới cải tạo về mà , vợ con thì đã theo bên ngoại vượt biển hết rồi . Nghe đâu đã định cư bên Úc , nay về ở với mẹ già ngày một buổi cà phê , hai bửa cơm độn qua ngày.
...

Thời gian ngột ngạt chậm chạp trôi qua , may mắn vợ chồng tôi đã bắt liên lạc được với nhau. Thế là những bữa cơm không còn ăn độn khoai củ hay bo bo nữa , nhưng vẫn quen cử sáng cà phê quán gần nhà.

Một hôm , tôi đề nghị theo thằng bé về nhà nó chơi cho biết vì nó nói ở cũng gần không xa lắm . Thấy nó do dự và tỏ vẻ sợ sệt , tôi biết ngay nó đang dấu diếm điều gì . Thương nó lắm , tôi dúi tiền cho nó hoài . Mấy hôm sau tôi lẳng lặng đi theo khi nó mang cơm và thức ăn dư về nhà buổi trưa .

Thấy nó lủi vô một cái chòi nhỏ xíu thì tôi thật sự không ngờ.
Đứng dưới gốc cây gòn cách nhà nó không xa tôi thầm nghĩ, nhà chút xíu như vậy gia đình 3 người ở thì chổ đâu mà nuôi heo . Tôi đang đứng suy nghĩ đốt cũng hết mấy điếu thuốc thì thằng nhỏ lục tục xách lon xách nồi đi ra quán để thu dọn thức ăn buổi chiều .

Đợi thằng bé đi khuất tôi lò mò đến nơi mà hồi nãy nó vào. Đến đó mới nhìn rõ thì thật ra đâu có phải là nhà , một lõm trống được che dựng lên bằng những phế liệu , muốn chui vào phải khom mọp xuống.

Nghe tiếng chân dừng lại , có tiếng đàn bà vọng ra hỏi. Tôi trả lời là đi kiếm thằng Tuất . Một giọng đàn ông cho biết nó vừa đi khỏi rồi , và hỏi tôi là ai , mời tôi vào .

Vừa khom người chui vào tôi mới thật sự không ngờ những gì hiển hiện trước mắt . Người đàn ông hốc hác cụt hai giò tuổi cũng trạc tôi nhưng trông yếu đuối , lam lũ và khắc khổ lắm . Một người đàn bà bệnh hoạn xác xơ cả hai đang ăn những thức ăn thừa mà thằng bé vừa mới đem về.

Vừa bàng hoàng, vừa cảm động xót xa , nước mắt tôi bất chợt tuôn rơi mặc dù tôi cố nén...

Từ đó , tôi hiểu rõ về người phế binh sức tàn lực kiệt sống bên người vợ tần tảo nuôi chồng bao năm nay giờ mang bịnh ác tính nặng nề thật đau xót. Tôi móc hết tiền trong túi biếu tặng và cáo lui.

Về đến nhà tôi vẫn mãi ám ảnh hoàn cảnh bi thương của gia đình thằng bé mà tôi bỏ cơm nguyên cả ngày luôn.

Sáng hôm sau ra uống cà phê, thằng bé gặp tôi nó lấm lét không dám nhìn tôi vì nó đã biết trưa hôm qua tôi có tới nhà nó. Nó thì tỏ vẻ sợ tôi, nhưng tôi thực sự vừa thương vừa nể phục nó nhiều lắm. Tôi kêu nó lại và nói nhỏ với nó tại sao không cho tôi biết. Tội nghiệp nó cúi đầu im lặng làm lòng tôi thêm nỗi xót xa. Có khách kêu trả tiền, như có cơ hội né tránh tôi nó chạy đi dọn bàn và tiếp tục công việc thu dọn thức ăn. Hèn gì sau nầy nó để thức ăn dư phân loại đàng hoàng .

Tội nghiệp hoàn cảnh của thằng bé mới mấy tuổi đầu mà vất vả nuôi cha mẹ theo khả năng chỉ tới đó. Cha là một phế binh cũ trước 75 cụt hai chân, mẹ thì bị bệnh gan nặng bụng phình trướng to khủng khiếp và cặp chân sưng vù lên đi đứng thật khó khăn, nước da thì vàng mét như nghệ. Thằng bé là lao động chánh trong gia đình, nó có hiếu lắm. Từ đó tôi thường cho tiền đứa bé mua bánh mì cơm gạo về nuôi cha mẹ.

Vợ tôi làm thủ tục bảo lãnh tôi sang Úc. Ngày đi tôi đau xót phải để lại hai nỗi buồn đó là để mẹ và em gái lại quê nhà và không còn cơ hội giúp đỡ thằng bé nữa.

Sang Úc định cư, tôi sống tại tiểu bang Victoria mấy năm đầu hết sức cơ cực vì phải vật lộn với cuộc sống mới nơi đất mới và đối với tôi tất cả đều mới mẻ và xa lạ quá. Từ ngôn ngữ đến thời tiết đã làm tôi lao đao không ít. Thỉnh thoảng tôi gởi tiền về nuôi mẹ và em gái không quên dặn em gái tôi chuyển cho thằng bé chút ít gọi là chút tình phương xa.

Mấy năm sau tôi về thăm gia đình , có ghé tìm thằng bé thì nó không còn lấy thức ăn trong quán đó nữa. Tôi mới kể rõ hoàn cảnh thằng bé cho chị chủ quán biết. Chị chủ quán đôi mắt đỏ hoe trách tôi sao không cho chị biết sớm để chị tìm cách giúp gia đình nó. Tôi chỉ bào chữa rằng tại thằng bé muốn giấu không cho ai biết .Tôi ghé vội qua nhà thằng bé thì mới hay mẹ nó đã qua đời vì căn bệnh ung thư gan.
Chỉ còn chèo queo một mình ba nó ở trần nằm một góc trông hết sức thương tâm. Hỏi thăm thì mới biết nó đã xin đi phụ hồ kiếm tiền về nuôi cha .

Chúa nhật tôi tới tìm thằng bé, chỉ mới có mấy năm mà nó đã cao lớn thành thanh niên rất đẹp trai duy chỉ đen đúa vì phơi nắng để kiếm đồng tiền. Tôi dẫn nó trở ra quán cà phê cũ, thấy nó hơi ái ngại, tôi trấn an là bà chủ quán tốt lắm tại không biết được hoàn cảnh gia đình nó. Ra đến quán ăn chị chủ quán năn nỉ nó về làm với chị, dọn dẹp và bưng thức ăn cho khách nhẹ nhàng hơn đi phụ hồ và chị sẽ trả lương như đang bên phụ hồ .

Tối về thức ăn thường bán không hết chị cho đem về nhà dùng khỏi phải mua hay đi chợ . Lần đầu tiên tôi thấy nó khóc, chị chủ quán cũng khóc theo làm tôi phải đứng dậy bỏ ra ngoài để khỏi phải rơi nước mắt vì chịu không nỗi . Thằng Tuất vừa khóc vừa nói :

- Sao ai cũng tốt với gia đình con hết , nhưng vì con đang làm phụ hồ cho anh Năm, anh ấy cũng tốt lắm giúp đỡ gia đình con nhiều lắm . Sáng nào cũng mua cho ba con gói xôi hay bánh mì trước khi tụi con đi làm. Con cũng mang ơn ảnh nhiều nên con không thể nghỉ được, con xin lổi !

Không biết thằng Tuất nó nói thật hay nó ái ngại khi quay về chỗ mà ngày nào cũng cầm cái lon chầu chực trút đồ ăn dư về nuôi cha mẹ. Phải thông cảm nó, phải hiểu cho nó, phải cho nó có cái hiện tại và tương lai tốt hơn, đẹp hơn ngày trước. Chị chủ quán vừa gạt nước mắt vừa nói :

- Bất cứ lúc nào con cần đến cô thì con đừng ngại, cho cô biết nhé !

Đời này cũng còn có những hoàn cảnh bi đát ít ai biết đến, và cũng có những đứa con xứng đáng như thằng Tuất. Ngày về lại Úc, tôi đến biếu hai cha con nó hai triệu đồng , thấy nó và ba nó mừng lắm tôi cũng vui lây. Không biết phải giúp gia đình nó như thế nào, tôi chụp hình ba nó, photo giấy tờ ba nó đem về Úc gởi cho "Hội cứu trợ thương phế binh bị quên lãng " trụ sở ở Sydney.

Mấy tháng sau nhận được thư ba thằng Tuất viết qua, ông quá vui mừng khi được Hội bên Úc giúp đỡ gởi tiền về, ông cho biết suốt bao nhiêu năm qua lần đầu tiên ông thấy được niềm hạnh phúc khi cuộc đời phế binh của ông còn có người nhớ đến . Không biết ông ấy vui bao nhiêu mà chính tôi cũng hết sức vui mừng khi thực hiện một việc làm đem niềm vui đến cho những người phế binh sống đói nghèo bên quê mẹ.

Tôi xin cảm ơn cả hai : Người chiến sĩ vô danh sống trong hẩm hiu và Hội cứu trợ thương phế binh đã thể hiện tình người trong công việc hết sức cao cả này.

quatructuyen

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by dodom »

NÓ và TÔI
(Nguyễn Khắp Nơi)

Image
Viết cho Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự,

Image
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân,

Và tất cả các Chiến Sĩ Vô Danh của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Nó đây là Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.

Thiếu Tá Tự là một trong những Sĩ Quan kiêu hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã không chịu nhục đầu hàng mà chọn con đường chiến đấu tới viên đạn cuối cùng. Tới khi hết đạn, lưỡi dao oan nghiệt của anh đã kết liễu cuộc đời chiến đấu vì chính nghĩa Tự Do của Dân Tộc.

Thiếu Tá Trần Đình Tự đã hy sinh vì Tổ Quốc, tại chiến trường, vào ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Còn Tôi, Nguyễn Hữu An, một người bạn thân của Tự từ thủa thiếu thời, hiện đang ngụ tại Tiểu Bang Victoria, Úc Đại Lợi.

Tôi quen Tự từ ngày di cư vào Nam, tháng Bẩy năm 1954.

Tôi không nhớ ngày nào của Tháng Bẩy tôi đã đến bến bờ Tự Do, chỉ còn nhớ là từ phi trường Tân Sân Nhất, gia đình tôi đã được đưa về Trường Nữ Trung Học Gia Long. Lúc đó, đang là thời gian đi học, nhưng các học sinh đều được tạm nghỉ để trường học biến thành những trung tâm tạm trú cho dân di cư. Gia đình tôi được phân phối một khoảng trống ở gầm một cái cầu thang nào đó của trường.

Chúng tôi ở đó khoảng vài tuần thì Phủ Tổng Ủy Di Cư cho biết, chúng tôi có thể định cư ở những vùng sau đây: Thị Nghè, Phụ Thọ, Gò Vấp, Hố Nai. Cha Mẹ tôi vừa chân ướt chân ráo vào Nam, làm sao mà biết chỗ nào tốt chỗ nào xấu? Chỗ nào cũng là bến bờ Tự Do cả mà! Rút cục, cha mẹ tôi bàn với nhau: Đã đi quá nhiều rồi, bây giờ chọn nơi nào gần thành phố là được rồi. Chỗ gần trường Gia Long nhất và cũng gần Sài Gòn nhất là vùng Thị Nghè, nên gia đình chúng tôi lại khăn gói quả mướp leo lên xe đi tới vùng được gọi là Quê Hương Mới. Tại đây, một lần nữa, chúng tôi lại được đưa vào tạm trú tại Trường Tiểu Học Thạnh Mỹ Tây. Trường này chỉ có một dẫy nhà trệt mà thôi, gia đình chúng tôi được chia một góc của lớp học.

Mỗi ngày, cha mẹ chúng tôi được phân phối thực phẩm và gạo nước để tự nấu ăn lấy. Mỗi tuần cũng được phát thêm một ít tiền tiêu vặt. Trường học có hàng rào bao chung quanh, đám con nít chúng tôi vui vẻ chơi đùa một cách riêng biệt trong khuôn viên của ngôi trường Tiểu Học này, chưa hề biết gì về dân bản xứ miền Nam cả.

Ở được vài tuần lễ thì trung tâm tỵ nạn đóng cửa, mỗi gia đình được cấp một số tiền nhỏ để tự tìm nơi ăn chốn ở lấy. Số còn dư thì làm vốn sinh nhaị Những ai là công chức và giáo chức đều được tái tuyển dụng. Trong đám dân di cư ở Thị Nghè, lại có một số lớn làm giáo chức, nên chính phủ chấp thuận cho mở một trường mới, dạy ngay tại khuôn viên của trường Tiểu Học hiện tại Thạnh Mỹ Tây, đặt tên là “Trường Tiểu Học Di Chuyển Thạnh Mỹ Tây II”. Trường chính thì học hai buổi: Buổi sáng, từ 7 giờ sáng tới 11 giờ sáng, buổi chiều từ 2 giờ 30 trưa tới 6 giờ 30 chiều. Đám học sinh “di chuyển” chen vào giữa hai buổi học này, để học từ 11 giờ 30 sáng tới 2 giờ trưa.

Bố tôi là một trong những Giáo Viên được tuyển dụng dạy ở trường này, nên gia đình chúng tôi đã mướn một căn nhà ở vùng “Sở Bông” tức là nơi trồng bông cung cấp cho Sở Thú ở sát bên (Vì Sở Bông sát cạnh sông Thị Nghè, nên sau này, Tiểu Đoàn II “Trâu Điên” đã lập doanh trại ở đây, lấy tên là Trại Nguyễn Văn Nho).

Tôi và Tự cùng được xếp vào học Lớp Nhì (bây giờ gọi là lớp 4, tiếng Úc gọi là Grade 4). Cô giáo đầu tiên của chúng tôi là Cô Giáo Đoan. Đám học trò gồm cả trai lẫn gái với mọi lứa tuổi khác nhau: lớn nhất là cô Én, 16 tuổi, và nhỏ nhất là tôi, 8 tuổi (cô Én học xong lớp Nhì thì bỏ học để lấy chồng). Lớp có hai dẫy bàn, đám con gái được ưu tiên ngồi ở phía trong, đám con trai ngồi dẫy phía ngoài, gần cửa lớp. Tôi nhỏ con nên được ngồi bàn trên, Tự lớn con, ngồi gần cuối lớp.

Giờ bắt đầu học và tan học được báo hiệu bằng một hồi trống dài. Lớp Nhì Và Lớp Nhất được giao nhiệm vụ đánh trống báo hiệu.

Tôi và Tự quen nhau là nhờ nhiệm vụ đánh trống này. Mỗi lần đánh trống, phải có hai học sinh: Một đứa đánh trống, đứa kia làm phụ tá, vừa đứng trông chừng đừng cho ai lại gần, lỡ bị trúng dùi trống, vừa để thay thế nếu đứa đánh trống chính bị đau tay không đánh trống được, hoặc bị ốm không đi học được. Ngày thứ hai của buổi học, lớp Nhì được giao nhiệm vụ đánh trống. Cô Đoan chọn tôi và Tự.

Nhiệm vụ đánh trống vào thời gian đó, được coi là rất quan trọng, học sinh nào … có thớ lắm mới được giao nhiệm vụ này, cả trường cùng nhìn vào cái trống và người đánh trống. Tự cầm dùi trống tiến tới, nhìn quanh, thấy ai cũng đang ngừng chơi nhìn vào mình, thì … hơi rét, thay vì đánh ngay một hồi trống, thì nó lại rụt rè, đưa dùi trống lại cho tôi mà nói:

“Mày … đánh trống đi, tao … giữ cái trống cho nó khỏi quay!”

Tôi còn nhát gan hơn nữa, vội vàng dấu hai tay ra đằng sau, từ chối kịch liệt:

“Tao sức vóc thế này, đánh trống làm sao mà kêu to được! Mày … cứ đánh đi, tao … phụ cho”

Vì không thể nhì nhằng kéo dài, làm chậm trễ buổi học của cả trường được, nên hai đứa đồng ý cùng hợp lực với nhau mà đánh. Hồi trống của lớp Nhì vang lên không giống ai, vì được đánh bởi hai cánh tay, một dài một ngắn. Từ đó, chúng tôi quen nhau.

Sau buổi học, hai đứa ở lại lân la làm quen với đám con nít Nam Kỳ để học những trò chơi lạ mắt của họ. Trò chơi hấp dẫn nhất vào thời đó là chơi “Tạt Lon” mà cả hai đứa không thể nào phát âm theo đúng giọng của đám con nít người Nam được: “Tạc loong”.

Trò chơi này tối thiểu cần có ba đứa, và càng đông con nít càng vui. Con trai con gái đều chơi chung với nhau được hết. Khởi đầu, đứa chủ chốt sẽ vẽ một vòng tròn ở giữa khoảng đất được chọn làm sân chơi. Những đứa khác sẽ chạy ra hai đầu vẽ hai lằn mức cách xa vòng tròn khoảng từ 3m tới 4m. Cả bọn sẽ tụm lại lựa đứa đầu tiên “Bị” làm nhiệm vụ giữ lon, bằng cách chơi ra dấu bằng bàn tay: Dùi, Búa, Bao, Kéo. Luật chơi sẽ như sau: Đám con nít còn lại sẽ chia ra làm hai phe, đứng ở phía sau lằn mức đã vẽ, có nhiệm vụ phải chạy đổi chỗ cho nhau từ đầu này qua đầu kia. Đứa giữ lon sẽ đứng kế bên vòng tròn để giữ lon và bắt bất cứ đứa nào chạy ngang qua cái lon. Khi nó bỏ cái lon xuống đất, sẽ bắt đầu đếm từ 1 tới 3, hai đám con nít đứng ở hai đầu sẽ phải chạy đổi chỗ cho nhau. Để khỏi bị đứa giữ lon bắt và giao lại vai trò giữ lon, cả hai đám con nít sẽ phải dùng một “Cục Tràm” làm bằng một miếng ngói bể, nhắm ngay cái lon mà tạt cho nó văng ra khỏi vòng tròn. Đứa giữ lon sẽ phải đi lượm cái lon, đặt trở lại trong vòng tròn thì mới có thể bắt những đứa chạy ngang được. Bắt rất khó, vì cả chục đứa tạt tràm vào lon, không đứa này thì cũng có đứa khác tạt trúng cái lon văng ra xa. Vừa mới lượm được cái lon đặt vào vị trí cũ thì lại có đứa khác tạt cái lon văng ra nữa. Đứa nào nhanh thì vẫn có thể bắt đứa khác chạy ngang được. Đứa nào chân tay vụng về, bị bắt lượm lon đổ mồ hôi hột.

Hai đứa tôi đứng quan sát hết một buổi trưa mới thông thuộc cách thức chơi. Sáng hôm sau, hai thằng hẹn nhau đi học sớm, thực sự là để đi vòng vòng kiếm cho ra mấy miếng ngói bể, gõ gõ mài mài cho nó trở thành một cục tràm ngon lành, thử đi thử lại cho thật vừa tay rồi mới cất vào cặp đi tới trường. Tan học, hai đứa đi vòng vòng xem đám nào ít người chơi thì nhào vô chơi ké:

“Tụi bay … cho tao chơi chung với!”

Cả bọn đang chơi chọi dừng tay lại, nhìn chúng tôi như hai con quái vật, nhưng chưa đứa nào có quyết định gì hết. Chợt có một đứa con gái trong bọn la lớn lên:

“Đừng có chơi dzới mấy thằng Bắc Kỳ, bay!”

Thế là cả bọn nhao nhao lên:

“Đừng có chơi dzới Bắc Kỳ”!

“Hổng cho tụi bay chơi đâu!”

Đứa con gái mạnh miệng nhất, chọc quê tụi tôi:

“Bắc Kỳ cong, bỏ dzô long, kiu chít chít,
Bỏ dzô đích hớt kiu!”

Một đứa khác, tử tế hơn, nói nhẹ nhàng:

“Tụi bay biếc cái gì mà đòi chơỉ”

Tôi và Tự đỏ mặt quê một cục, đứng nhìn tụi nó chơi một lúc rồi bỏ cục tràm vào cặp, đi chỗ khác.

Hôm sau, tôi và Tự tìm ra chân lý: Trong trò chơi tạt lon này, đứa nào có cái lon sẽ là chủ cuộc chơi. Dĩ nhiên rồi! Không có cái lon, lấy gì mà tạt? Đang vui chơi, đứa chủ lon buồn tình xách lon đi chỗ khác, là cả đám nghỉ chơi.

Thế là hai đứa hùng hục dắt nhau đi lùng lon sữa bò ở những quán bán cà phê hủ tíu của mấy chú Hoa Kiều. Rình cả buổi trời mới lượm được một cái lon sữa bò mới tinh, ông chủ Tầu bụng phệ mới vứt ra đường. Hai thằng vội vàng chớp lấy đem về nhà lau rửa sạch bóng, thủ vào cặp sẵn sàng cho cuộc chơi ngày mai. Hôm sau, tan buổi học, hai đứa ôm cặp đi vòng vòng tìm dịp may. Dịp may đây rồi: Một đám con nít đang hăng say chơi tạt lon, bất ngờ có đứa tạt mạnh quá, cái lon văng tuốt ra tới giữa đường bị xe vận tải cái dẹp lép. Cả bọn xìu như cái bong bóng bể, mặt đứa nào đứa nấy xẹp còn hơn cái lon bị cán. Tôi vội vàng mở cặp lấy cái lon sữa bò đưa cao lên:

“Tụi tao có cái lon mới, cho tụi bay mượn đó!”

Tôi không dám đặt điều kiện phải cho tụi tôi chơi mới cho mượn lon, vì sợ tụi nó từ chối nữa thì quê mặt.

Tụi nhóc Nam Kỳ đưa một mắt nhìn nhau dọ ý, còn con mắt kia thì nhìn vào cái lon sữa bò mới tinh đang sáng chói dưới ánh mặt trời một cách thèm muốn.

Cuối cùng, một đứa trong bọn hỏi tụi tôi:

“Mà tụi bay … biếc chơi hông?”

Tự và tôi hăm hở gật đầụ Một đứa có vẻ đầu sỏ, nhìn những đứa khác như hỏi ý, rồi ngập ngừng nói:

“Dzậy thì … tụi bay bỏ cái loong xuống … chơi chung!”

Thế là Nam Bắc đã chung một nhịp cầu rồi đấy!

Tự lại chơi đẹp, chịu…“Bị” để cho đứa đang làm nghề giữ lon được chạy ra tạt lon. Kể từ đó, bọn con nít Nam Kỳ mới cho chúng tôi nhập bọn chơi chung và không gọi chúng tôi là “Bắc Kỳ Dzốn” nữa. Tụi nó dạy tụi tôi bí quyết mài cục tràm sao cho đi nhanh và trúng đích. Còn tụi tôi thì lo đi kiếm lon sữa bò. Có lần ham tìm lon quá mà tôi dành lon với một đứa khác. Tên này thấy tôi mặt lạ và đi có một mình, thì lên mặt ăn hiếp:

“Cái lon đó của tao, đưa trả cho tao, lẹ lên! Không trả, tao … úynh thấy … mẹ mầy đó!”

Tôi nắm chặt cái lon, cung tay thủ thế:

“Tao lượm được trước, mày tới sau mà đòi sao được!”

Tụi nó ỷ đông, tính nhào tới làm thịt tôi. Tự đang kiếm lon trong tiệm ăn, nghe léo xéo bên ngoài, vội vàng chạy ra, thấy tụi nó đang vây tôi, hắn liền xô bắn một thằng ra đằng sau, rồi mặt hầm hầm, xuống tấn, nạt lớn:

“Cái lon đó tụi tao lượm được trước. Đứa nào muốn dành, tao … chơi liền!”

Đám con nít thấy tụi tôi bây giờ có tới hai đứa, đứa nào cũng gan lì, Tự lại bự con nữa, nên không dám làm tới, tìm cách rút dù, nhưng cũng cố chọc quê:

“Cái đầu thằng này niểng niểng, coi ngộ quá ta!”

Tự đỏ mặt, vì cái cổ nó bị tật, làm cái đầu bị nghiêng qua một bên thật. Nó quát lớn:

“Kệ tao!”

Tụi con nít Nam Kỳ vừa rút lui, vừa chọc quê:

“Niểng … Niểng”

Từ đó, tụi con nít nể mặt tụi tôi. Và cũng từ đó, Tự có cái biệt danh: “Thằng Niểng”

Qua năm lớp Nhất, chúng tôi học với thầy Phạm Văn Cảng. Bố Mẹ tôi cũng đã thuê được một căn nhà khác rộng rãi hơn, ở đường Nguyễn Văn Nhàn, còn gia đình của Tự vẫn ở Sở Bông. Chúng tôi không mê tạt lon nữa, mà đổi qua mê Xi Nê (Movie). Có một lần, rạp Văn Cầm chiếu phim “Hiệp Sĩ Zoro Bịt Mặt”. Tôi ngày nào đi học cũng lội bộ qua rạp hát, nhìn thấy cái bảng quảng cáo to tướng, đề hai chữ Zoro là đã mê rồi, vào lớp kể cho Tự nghe. Tan học, hai đứa dắt nhau ra rạp hát, ngắm chàng hiệp sĩ Zoro mặc quần áo đen, đội mũ đen, khăn bịt mặt cũng mầu đen, một tay cầm cương ngựa, một tay múa kiếm thật là oai hùng. Nhìn hình đã mê rồi, nói chi tới xem phim! Hai đứa nhìn nhau: Làm sao có tiền mà xem phim? Hai đứa chưa từng bao giờ xem xi nê, và cũng chẳng bao giờ có tiền mà đi xem cả! Không riêng gì hai đứa chúng tôi không, cả đám con nít ở vùng Thị Nghè cũng bu đầy rạp hát, ngước cổ lên mà ngắm chàng Zoro.

Buổi chiều Chủ Nhật, rạp mở xuất đầu tiên: Người lớn, con nít đứng chật rạp, lớp chen nhau mua vé, lớp đẩy nhau trình vé vào cửa. Bán vé thì chỉ có một người, soát vé tới hai người mà cũng không làm sao kịp với lớp người đông nghẹt rạp. Tự xúi tôi:

“Mày nhỏ con, cúi thấp xuống, luồn qua người xoát vé mà chui vào. Xem được, về nhà … kể cho tao nghe.”

Rồi Tự làm bộ xô đẩy những người chung quanh, tìm dịp che cho tôi chui vào rạp. Bất ngờ, tôi gặp gia đình một thằng bạn cùng lớp. Cha mẹ nó cầm một đống vé đang chen chúc cùng với lũ con vào cửa. Tôi mừng quá, kề tai nó nói nhỏ:

“Cường, cho tụi tao … vào chung nhe!”

Cường mỉm cười thông cảm, nắm tay tôi giới thiệu với bố mẹ nó:

“Bố ơi, thằng này là thằng An, con ông giáo, học cùng lớp với con đó”

Thế là tụi tôi dính chùm lại với nhau, chen chúc vào cửa. Ông bố của Cường đưa một nắm vé ra, người soát vé chưa kịp đếm vé và đầu người thì tụi tôi đã chui tuốt vào trong rạp mất tiêu rồi!

Tôi và Tự ngồi xem đã đời rồi mới đi về. Tới đầu ngõ, tôi dặn Tự:

“Mày đi về cùng với tao, gặp bố tao trước. Bố tao sẽ hỏi tao đi đâu mà lâu thế? Mày sẽ phải nói là tao đến nhà mày chơi, nhớ nghe chưa?”

Tự khoái chí:

“Mày cũng phải nói với bố tao là tao đến nhà mày chơi, nhớ chửa?”

Từ đó, chúng tôi cứ theo cái mánh đó mà đi xem phim cọp. Được vài lần, ông soát vé biết mánh của tụi tôi: Ông không tin rằng, mỗi tuần tụi tôi lại có một người cha khác nhau để đi theo vào xem hát. Có lần, ông đã nắm cứng tôi lại mà hỏi người đi kế bên tôi, có phải tôi là con của ông ta hay không? Thế là tụi tôi bể mánh, đành đứng ngoài nhìn hình thôi.

Hết lớp Nhất, chúng tôi thi vào lớp Đệ Thất trường công. Hồi đó, trường công ít lắm, vỏn vẹn có vài trường.

Từ ngoài Bắc di chuyển vào, cho con trai thì có trường Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục, Chu Văn An. Con gái thì có độc nhất một trường Trưng Vương mà thôi.

Trường của phe người Nam đã có từ lâu là Võ Trường Toản, Petrus Ký và Gia Long.

Tự và đa số đám học sinh Bắc Kỳ ở quanh vùng Thị Nghè, Hàng Xanh, Bà Chiểu, Tân Định, thi vào trường Hồ Ngọc Cẩn. Gia đình tôi, từ bố tôi tới anh tôi đều học ở trường Bưởi (sau này đổi tên là Chu Văn An), nên mặc dù tôi ở Thị Nghè mà cũng lóc cóc nộp đơn thi ở cái trường Chu Văn An tuốt tận Chợ Lớn.
Image
Trường Hồ Ngọc Cẩn 1965
Trường Trung-Học Hồ-Ngọc-Cẩn tọa lạc tại đầu đường Lê-Quang-Ðịnh, Gia-Ðịnh, là trường Nam Trung-Học Công Lập lớn nhất tỉnh .Trường Hồ Ngọc Cẩn được sáng lập từ tỉnh Bùi Chu, Bắc Phần. Cụ Hồ Ngọc Cẩn là vị Giám Mục thứ nhì của Thiên Chúa Giáo Việt Nam . Cụ cũng là Giám mục tiên khởi của giáo phận Bùi Chu. Do biến cố lịch sử, trường di cư vào miền Nam sau hiệp định Geneve năm 1954.Trong thời gian đầu, trường tá túc tại Tiểu Chủng Viện Công Giáo tại đường Bùi Thị Xuân, cạnh nhà thờ Huyện Sĩ. Lúc bấy giờ trường chỉ gồm hai dẫy nhà lầu bằng gỗ, lợp ngói xi măng đơn giản. một phần ba thành phần học sinh là chủng sinh, chuẩn bị để trở thành linh mục.

Ðầu thập niên 60 trường đổi đến địa điểm hiện tại là một phần của trường Nam Tỉnh Lỵ Gia-Ðịnh. Sau năm 1975 trường trở thành trường tiểu học với tên mới là Nguyễn Ðình Chiểu.(Tài liệu của Hội Ái Hữu Cựu Học sinh Trương Hồ Ngọc Cẩn)
Image
Một lớp học Trường Hồ Ngọc Cẩn 1966

Image
Một lớp học Trường Hồ Ngọc Cẩn
(Cô GS Phượng đang dạy lớp Đệ Tứ)
Mặc dù học khác trường, chúng tôi vẫn gặp nhau đều đều, ngày nghỉ vẫn đôi khi đi xem xi nê, ăn cà rem chung với nhau.

Cuối năm Đệ Tứ (Lớp 9), cả hai chúng tôi đều thi đậu bằng “Trung Học Đệ Nhất Cấp”.

Tự gặp tôi, tâm sự:

“Bố tao nghỉ làm rồi, cả nhà chỉ còn Mẹ tao buôn bán, không được bao nhiêu nhưng cả gia đình trông vào đó. Tao phải nghĩ cách học cho mau để đi làm phụ mẹ.”

Thế là nó vừa học Đệ Tam (Lớp 10) ở Hồ Ngọc Cẩn, rồi học thêm Đệ Nhị (Lớp 11) ở trường tư. Cuối năm, nó cứ đi thi Tú Tài I thử thời vận: Ai dè nó thi đậu!

Tự đến gặp tôi, rủ đi xi nê ở rạp Cao Đồng Hưng (Bà Chiểu). Nhưng khi gặp bố tôi, là thầy học cũ của Tự (thầy Cảng dạy chúng tôi được nửa năm thì mất. Bố tôi dạy thế), nó ngập ngừng một lúc rồi chào tạm biệt bố tôi để đi lính. Thời đó, chiến truờng chưa khốc liệt cho lắm, việc đi lính cũng còn xa vời, nên bố tôi hơi ngạc nhiên vì quyết định của Tự, nhưng cũng chúc nó an toàn và thành công trong cuộc đời binh nghiệp. Đi xe bus đến rạp hát, thay vì vào xem xi nê, chúng tôi ngồi ngoài quán uống nước mía. Tự lại tâm sự:

“Tao đã nói với mày rồi, nhà tao còn có một mình mẹ tao buôn bán nuôi cả gia đình, cực quá. Tao ráng đậu cái Tú Tài để xin đi làm. Tao đi làm được hơn một tháng rồi. Tao đã có thể góp chút ít phụ với mẹ tao, nhưng thực sự thấy không hợp với cuộc sống đó. Tao không thích hợp với nghề “thư ký quèn”, nên đã làm đơn xin đi học khóa 14 Thủ Đức rồi, vài ngày nữa sẽ nhập trường. Đi lính sướng hơn, vừa ngang dọc đời trai, đánh VC bảo vệ miền Nam, vừa có tiền giúp cha mẹ. Mình đã bỏ miền Bắc mà đi rồi, không bảo vệ miền Nam, lấy đất đâu mà sống!”

Nói xong, nó móc túi rút ra một bao thuốc lá Bastos xanh, lấy một điếu hút rồi đưa bao ra mời tôi hút. Tôi ngạc nhiên, không biết nó học hút thuốc lá từ lúc nào? Riêng tôi thì chưa (Tự lớn hơn tôi 3 tuổi, nó 18, còn tôi mới có 15 tuổi thôi), nên tôi lắc đầu từ chối.

Ra trường, Tự đến thăm tôi vào một chiều nhạt nắng. Nó mặc bộ quân phục mới tinh, mặt mày đen sạm, rắn chắc nhưng vui tươi thoải mái. Hai thằng lại dắt nhau đi lang thang suốt buổi tối. Chúng tôi không uống nước mía nữa, mà uống cà phê đen và hút thuốc Quân Tiếp Vụ. Khi về, Tự bắt tay tôi, nắm chặt một lúc, rồi nói:

“Đời lính nay đây mai đó, chẳng biết trước được! Khi nào nghỉ phép, tao sẽ tìm cách về thăm mày, nhưng chắc cũng còn lâu lắm. Thôi, tao về. Cho tao gửi lời thăm thầy.”

Thật vậy, kể từ đó, tôi chưa gặp lại Tự lần nào.

Cuộc chiến cũng lần lần leo thang, đời lính dễ gì có ngày nghỉ, mà nếu có, Tự cũng còn thiếu gì chuyện để làm. Phần tôi, tôi cũng phải lo tiếp tục học hành, hết Tú Tài I lại đến Tú Tài II. Hết Đại Tá Nguyễn Chánh Thi đảo chánh, lại đến Tướng Dương Văn Minh, rồi Tổng Thống Diệm bị giết … Cuộc đời học sinh của tôi cũng theo đó mà lung tung cả lên. Tôi quên mất cả Tự! Có nhớ thì cũng không biết nó ở đâu mà tìm?

Vào khoảng năm 1968 – 1969, VC tổng tấn công. Cả nước lâm chiến. Tôi đang học cũng phải xếp bút nghiên đi Quân Sự Học Đường một tháng ở Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Học xong, được giao cho khẩu súng Carabin, làm nhiệm vụ “Sinh Viên bảo vệ thành phố”.

Trong một chuyến đi thăm chiến sĩ tiền tuyến, đám sinh viên chúng tôi đi thăm một tiểu đoàn lính vừa đi hành quân về. Đó là Tiểu Đoàn 33 Biệt Động Quân.

Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng có một biệt danh rất dễ sợ là … “Thiếu Tá Tử Thần” và bộ chỉ huy Tiểu Đoàn đón tiếp phái đoàn chúng tôi ở cổng trại và dắt chúng tôi đi thăm anh em binh sĩ đang gác ở cám trạm gác, ở tiền đồn. Khi trở về doanh trại, chúng tôi đang nghe thuyết trình thì bất ngờ có một giọng nói thật là quen thuộc vang lên. Tôi ngạc nhiên, quay ngay đầu lại: Trước mặt tôi, một sĩ quan BĐQ rất trẻ, mang lon Đại Úy, cái đầu hơi nghẹo qua một bên. Tôi mừng quá, hét lên:

“Tự! Phải mày đó không, Tự?”

Tự cũng mừng rỡ, đưa hai tay ra:

“An! Mày là An đó hả?”

Thế là hai đứa nắm tay nhau nói chuyện rối rít. Tôi nhìn Tự:

“Mày … đi Biệt Động cơ à! Dám … dỡn mặt với Tử Thần đó hả? …Oai quá nhỉ! Đã … Đại Úy rồi! Lên lon mau thật! Vợ con gì chưa?”

Tự chỉ Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng, vừa cười vừa nói:

“Tử thần đứng ngay trước mặt tao nè … Tao dỡn mặt với ổng hàng ngày! …Thầy ra sao rồi? Còn đi dạy học không? (Thầy tức là bố của tôi, thầy giáo của Tự)

Mày học tới đâu rồi? Sao học hoài vậy? Đi lính đi, vào Biệt Động với tao!”

Đang ba điều bẩy chuyện thì Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng nắm vai Tự kéo ra một góc, nói vài câu gì đó, Tự đanh mặt lại, quay trở lại nói với tôi:

“Có chuyện rồi, tao lại phải dẫn quân đi liền. Hẹn gặp mày kỳ tới. Cho tao gởi lời hỏi thăm thầy, nhe!”

Ngày qua ngày, tôi bận rộn với việc dạy học kiếm tiền, với thi cử, bầu cử, ứng cử … ở trường Luật. Còn Tự thì chắc chắn là lại rày đây mai đó với những cuộc hành quân liên miên của người lính Biệt Động. Mỗi đứa mỗi phương trời.


o O o

Tôi học xong Đại Học năm 1971, còn sót lại một ít thời gian hoãn dịch, cả đám sinh viên lo chạy tứ tán kiếm đường binh: Đứa thì đi ứng cử vào Hội Đồng Xã, đứa thì xin vào chương trình “Người Cầy Có Ruộng”, Xây Dựng Nông Thôn … để mong được hoãn dịch. Đứa khác thì nộp đơn thi vào Hải Quân, Không Quân. Tôi trình diện nhập ngũ và được xếp vào khóa 1/72 Thủ Đức.

Suốt khóa học, tôi học tàng tàng, với hy vọng là, sẽ được biệt phái về làm ở Nha Quân Pháp hoặc Tòa Án Quân Sự. Nhưng hy vọng của tôi càng ngày càng tiêu tan dần với tình hình chiến trận càng ngày càng sôi động hơn lên. Kết quả là đến cuối khóa, không có ban ngành nào tuyển thêm người nữa, tất cả các Tân Sĩ Quan đều được dành cho tiền tuyến. Những Sinh Viên Sĩ Quan lựa chọn đơn vị của mình theo thứ tự đậu cao thấp. Ai thích về gần nhà thì chọn Địa Phương Quân, Sư Đoàn … Ai muốn sống hùng sống mạnh thì chọn các binh chủng nổi tiếng như Nhẩy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Cách, Biệt Động Quân … Phần tôi, từ hồi nhìn thấy các anh hùng Mũ Nâu đánh đuổi bọn Việt cộng ở Hàng Xanh, tôi đã khoái binh chủng Biệt Động Quân rồi, nay được dịp, tôi hăng hái cầm bút viết ngay tên mình vào bảng danh sách các Tân Sĩ Quan Biệt Động Quân, chợt nhớ ra là đã có lần Tự rủ tôi vào Binh Chủng Cọp Đen này.

Mãn khóa 50 Rừng Núi Sình Lầy, tôi được đưa đi thực tập với Tiểu Đoàn 42 Cọp Ba Đầu Rằn đang hành quân ở Takeo, Campuchia, rồi Tiểu Đoàn 44 Cọp Đen hành quân ở Kiến Phong (1). Sau khi trui luyện kỹ càng, tôi mới được khăn gói lên vùng Pleiku gió núi mưa mùa để bổ xung vào Tiểu Đoàn 90 Biệt Động Quân Biên Phòng (2).

Vừa đúng lúc Trung đội Thám Sát đang thiếu Sĩ Quan chỉ huy (Sĩ Quan cũ vừa tử trận), tôi đã đuợc Đại Úy Giác, Tiểu đoàn trưởng, chỉ định làm Trung Đội Trưởng Thám Sát.

Từ đó, tôi trở đã trở thành một người lính “Cọp Đen” chính hiệu:

Đời Biệt Động của tôi, cũng như những anh em trong binh chủng, là những chuỗi ngày hành quân liên miên trong vùng II chiến thuật gió núi mưa mùa, với những trận đánh thật đinh tai nhức óc của đại bác 105, đại bác 130, Sky Raider và A37 … cùng với những trận đánh xáp-lá-cà im lặng tới rợn người, chỉ nghe tiếng lưỡi lê và dao rừng vung lên mà thôi (3). Chỉ ở vùng II này, mới có những tiểu đoàn BĐQ phải trở về Dục Mỹ bổ sung quân số và tái huấn luyện. Bên VC, có những Trung Đoàn, Sư Đoàn bị tan nát, xóa sổ.

Tôi sống sót tại Quân Y Viện Ngọc Minh, với tờ giấy phân loại II và giải ngũ vào cuối năm 1974.

Trở về cuộc sống dân sự, tôi lang thang khắp Sài gòn Chợ Lớn xin việc. Các văn phòng Luật Sư, các ngân hàng đều đủ người hết rồi.

novatoi_thuongbinhTôi nhớ lại đời sống quân ngũ, nhớ cái mũ nâu với mầu áo hoa rừng, muốn trở lại với Biệt Động Quân. Ngồi suy tư bên khói thuốc và ly cà phê đen, tôi nhớ lại các đồng đội, nhớ lại Trần Đình Tự, người bạn thủa xưa đã cùng ngồi chung với nhau trong quán nước này. Không biết bây giờ, nó còn: “Đang xông pha đèo cao núi thẳm?” Hay …“Đã về bên kia khung trời biền biệt trên cao?”

Cuối cùng, tôi đã được Luật Sư Đào Văn Sáu nhận cho tập sự tại văn phòng của ông ở Biên Hòa (Luật Sư Sáu hiện đang định cự tại Tiểu Bang Victoria với tôi. Tôi đã gặp và chào ông). Sau đó, tôi đổi về Saigòn, tập sự với Luật Sư Nguyễn Duy Nguyên, ở đường Gia Long. Ngày ngày, tôi xách cặp đi bộ từ văn phòng qua Tòa Thượng Thẩm Saigòn mà biện hộ cho thân chủ.

Tháng Tư năm 1975, toàn bộ Miền Nam tan hàng mà không hô “Cố Gắng” (4). Thành phố Saigòn tràn ngập dép râu nón cối và nón tai bèo:

“Đôi dép râu dẫm nát đời trai trẻ,
Chiếc nón tai bèo che phủ kín tương lai!”

Bọn Việt cộng cai trị dân Nam bằng những trận dịch đau mắt và ghẻ lở phát không và chiến dịch “Đánh Tư Sản Mại Bản” với kết quả là biết bao nhiêu người dân phải đi vùng “Kinh Tế Mới” và hàng đoàn xe Zin và Molotova bít bùng chở chiến lợi phẩm từ Nam ra Bắc. Đám sinh viên nằm vùng trốn ra bưng ngày xưa, như Nguyễn Đăng Trừng, Trịnh Đình Ban, Huỳnh Tấn Mẫm, Nguyễn Văn Nuôi … xuất đầu lộ diện với những chức vụ lạnh lùng: Giám đốc Sở Công An Thành Phố, Chủ Tịch Hội Trí Thức Yêu Nước …

Đám Sĩ Quan Miền Nam tan hàng thê thảm. Người có phương tiện thì nhanh chân bay qua đảo Guam. Đám không chấp nhận đầu hàng, nhất định đánh VC tới hơi thở cuối cùng để rồi chết thê thảm nơi trận tiền không ai chôn cất. Đám khác lẳng lặng buông súng nhập vào cuộc sống bình thường, giả dạng dân cầy, ngư phủ … để tìm đường vượt biên tìm Tự Do.

Số còn lại chấp nhận ra trình diện bọn VC để đi “Học Tập Cải Tạo”, nhưng thực sự là bị đi tù, từ ba ngày, thành ba năm, mười năm, mười bẩy năm. Có người bị xử tử, có người chết vì bệnh hoạn, phơi thây nơi rừng thiêng nước độc, không thân nhân không bạn bè, không manh chiếu đắp.

Năm 1981, tôi may mắn vượt biên thành công, tìm Tự Do nới xứ Úc. Cũng như mọi người, tôi nhẩy vào factory cầy túi bụi, kiếm tiền gửi về cho gia đình, cho vợ con tìm đường vượt biên tiếp.

Đến khi đoàn tụ vợ chồng, tôi mới trở lại trường học mà ráng sức học hành. Tôi không theo nghề cũ mà chuyển sang học Kế Toán.

Khi cuộc sống đã tạm ổn, tôi mới mon men ra sinh hoạt với anh em cựu quân nhân trong tiểu bang Victoria. Tôi nhận thấy mọi quân binh chủng đều có hội đoàn riêng, chỉ có Biệt Động Quân là vắng bóng. Không phải vì anh em Mũ Nâu bị cọp liếm hết (5), mà vì anh em đã quá mệt mỏi rồi, không muốn hội hè gì nữa cả.

Tôi ra sức quy tụ anh em cùng chí hướng và cuối cùng đã thành lập được “Hội Biệt Động Quân QLVNCH, tiểu bang Victoria”.

Lễ ra mắt đã được cử hành long trọng vào ngày 19 02 2001 tại Trung Tâm Sinh Hoạt Cựu Quân Nhân, Footscray. Mục đích là tụ hội anh em mũ Nâu cũ, hàn huyên chuyện xưa và giúp đỡ nhau trong cuộc sống hàng ngày tại Úc. Từ hội Biệt Động Quân này, chúng tôi đã bắt liên lạc được với những Biệt Động Quân khác trên thế giới và gia nhập “Tổng Hội Biệt Động Quân” lúc đó do anh Trần Tiễn San làm Tổng Hội Trưởng.

Tôi nhớ lại người bạn thủa xa xưa, nhắn tin tìm Trần Đình Tự trên tập san Mũ Nâu của Tổng Hội.

Từ bên Mỹ, anh Trần Tiễn San báo cho tôi biết:

“Đã có tin của Trần Đình Tự, cấp bậc và chức vụ cuối cùng là Thiếu Tá, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân.
Nhưng Tự đã không còn nữa.

Thiếu Tá Trần Đình Tự đã tử trận.
Thiếu Tá Trần Đình Tự đã hy sinh vì Tổ Quốc, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến”.

Tôi bàng hoàng đọc đi đọc lại tin tử trận của Tự trong bài viết “Sự trả thù đê hèn và dã man” của tác giả Thiên Lôi, trong tập san Mũ Nâu số 2 và xin trích ra đây một đoạn cho tất cả cùng đọc:

“Lúc đó là 11giờ sáng ngày 30 tháng Tư năm 1975, tại trung tâm hành quân của Liên Đoàn 32 BĐQ, Trung Tá Liên Đoàn Trưởng Lê Bảo Toàn nhận được lệnh từ cấp chỉ huy Quân Đoàn:

“Hãy ngưng bắn ngay lập tức, ở yên tại chỗ để đợi phía bên kia đến bàn giao khu vực.”

“Trung Tá Toàn chết sững, buông cái ống liên hợp máy truyền tin rớt xuống đầu người lính truyền tin đang ngồi dưới chân. Ông đổ vật xuống chiếc ghế như cây chuối bị đốn ngang. Hai mươi năm phục vụ quân ngũ, 19 năm rong ruổi vào ra vùng đạn bom, năm lần bị thương, lần nào cũng thập tử nhất sinh, nhưng chưa bao giờ ông thấy đau như lúc này. Ông nghẹt thở, buốt trong óc tưởng chừng như ai đang đóng ngập cái đinh muời phân vào đầu, có lẽ cắt ruột cũng chỉ đau đến thế. Ông lịm đi.

Người sĩ quan hành quân phải gọi khẽ:

“Trung Tá!”

Ông gượng dậy để lấy lại bản lãnh. Sau cú “Sốc”, Trung Tá Lê Bảo Toàn đã điềm tĩnh trở lại, ông cầm máy gọi lần lượt từng Tiểu Đoàn Trưởng:

-Tiểu Đoàn 30 Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Khoan,
-Tiểu Đoàn 33 Thiếu Tá Đinh Trọng Cường,
-Tiểu Đoàn 38 Thiếu Tá Trần Đình Tự.

Cả ba đáp nhận. Trung Tá Toàn chậm rãi, ông cố giữ cho tiếng nói của mình,với âm hưởng đều đặn như mọi ngày:

“Các anh ra lệnh cho con cái buông súng. Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng rồi! Sẽ có đại diện của “Phe họ” đến để nhận bàn giao.

Cám ơn các anh, các vị Tiểu Đoàn Trưởng, các Sĩ Quan trong Liên Đoàn.

Tôi cũng đặc biệt cám ơn các anh em Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ.

Chúng ta đã bấy lâu cộng tác, sống chết với nhau

Nay, nhiệm vụ của tôi kể như đã chấm dứt, tôi không còn trách nhiệm với Liên Đoàn nữạ Thân chào tất cả anh em trong Liên Đoàn.

Lời cuối cùng của tôi trong cương vị Liên Đoàn Trưởng là yêu cầu các anh bình tĩnh và chúc tất cả may mắn!”

Lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng trong đời Trần Đình Tự đã cưỡng lệnh cấp chỉ huy. Sau khi nhận lệnh buông súng và lời chào của Trung Tá Liên Đoàn Trưởng, anh quay qua Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó:

“Anh Xường, tôi vừa nhận lệnh mình phải buông súng đầu hàng. Đây là lần chót, tôi yêu cầu và cũng là lệnh:

Anh nói cho các Đại Đội Trưởng và thay tôi dẫn đơn vị ra điểm tập trung.
Tôi sẽ ở lại, đánh nữa, tôi không đầu hàng, anh hiểu cho!
Tôi không khi nào để lọt vào tay tụi nó lần nữa (6).
“Ai ở lại chiến đấu thì đi theo tôi!”

Tiếp đó, anh cho tập trung Bộ Chỉ Huy, trung đội Thám Báo, nói vói họ đã có lệnh quy hàng, các anh em sẽ theo lệnh của Đại Úy Tiểu Đoàn Phó, còn ai muốn ở lại chiến dầu với anh đến giờ chót thì đứng riêng một bên.

Lần lượt số người tách khỏi hàng được gần 40 chiến sĩ.

Trần Đình Tự đưa tay chào Đại Úy Xường và các quân nhân dưới quyền, rồi dẫn những người quyết tử tiến vào khu vực vười khoai mì để tiếp tục “Ăn thua đủ” với địch.

Kết cục, cuộc chiến đấu cuối cùng cũng phải chấm dứt. Tự và anh em hết đạn, địch tràn ngập, bắt trói tất cả những người còn sống (9 người) giải về sân trường Tiểu Học gần đó.

Tên chỉ huy của giặc Cộng tiến về phía Tự, lớn tiếng lăng nhục QLVNCH và chỉ ngay mặt Tự thóa mạ thậm tệ, rồi bắt anh cởi áo quần (Lon Thiếu Tá may dính trên cổ áo).

Tự đứng yên nhất định không chịu, tên VC rít lên:

“Đến lúc này mà mày còn bướng hả? Lũ uống máu! Bọn tay sai! Những thằng ác ôn! Mày có làm theo lệnh của ông không thì bảỏ

Nhân danh Cách Mạng, ông ra lệnh cho mày cởi áo quần Ngụy và nằm xuống! Chúng mày đã đầu hàng, nghe rõ chưa?”

Tự trả lời:

“Ai đầu hàng, nhưng tao thì không! Mày nghe đây: Chúng mày mới là lũ ác ôn. Chúng mày mới đích thực là lũ tay sai, lũ vong thân chó má. Bọn mày chính là những tên tội phạm của Dân Tộc Việt Nam.

Hiểu không? Một lũ đê tiện!”

Tên chỉ huy VC mắt nổi gân máu, tiến đến sát Tự, tay giật mạnh bung hai hàng nút từ cổ xuống đến bụng. Tên giặc Cộng rút luôn con dao găm Tự đeo bên hông, nó đâm mạnh vào bụng Trần Đình Tự, rọc mạnh xuống phía dưới. Ruột Tự lòi tuột ra ngoài. Chưa hả, nó còn ngoáy mạnh mũi dao vào tận trong bụng Tự.

Tự hét lên bi ai và nghẹn uất, đổ sụm xuống oằn mình giật từng cơn trong vũng máu.

Đồng thời với hành động dã thú ấy, tên giặc nghiêng đầu nhìn Tự rồi nói gọn:

“Đem những thằng này bắn hết đi! Toàn là ác ôn cả đấy!”

Tám quân nhân còn lại bị dẫn ra phía sau trường đễ được bắn xối xả mấy loạt AK 47. Xác họ bị quăng xuống cái đìa gần đó. Bọn VC dẫn nhau đi”.

Sự đền nợ nước của Trần Đình Tự tôi kể lại hôm nay là do lời thuật lại của Đại Úy Xường, Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 38 BĐQ. Anh cũng đã hy sinh trong trại tù CS Nghệ Tĩnh, năm 1979. Tôi gặp Xường lúc ở trại 8 Yên Bái năm 1997. Anh bị VC bóp cổ chết trong ngục thất vì sau nhiều lần trốn trại anh đều bị bắt.

Xường xuất thân khóa 22A Võ Bị QGVN. Người thứ hai thuật lại những giờ phút sau cùng của Cố Thiếu Tá Trần Đình Tự là người lính Mũ Nâu mang máy truyền tin cho Tự – cũng bị tàn sát chiều ngày 30 04 75 một lượt với Tự và các anh em khác. May mắn, Đức Trọc – tên anh ta – bị thương giả chết chờ cho VC đi xa rồi ráng bò vào nhà dân, được dấu diếm, băng bó, rồi thuê xe Lam chở về Saigòn.

Đức đã ráng sống, ráng tìm cách vượt biên sang Mỹ, để sau đó, kể lại cái chết đau buồn của Thiếu Tá Tự cho mọi người nghe.

Tôi đọc đi đọc lại bài báo, nước mắt nhiểu đầy trang giấy.

Anh em sau bao năm không đuợc tin tức, lần đầu tiên đuợc tin nhau thì lại là tin cuối!

Ôi! Buồn làm sao!

Anh em sống với nhau từ nhỏ, tôi biết rõ Tự oai hùng. Tôi biết Tự dám chiến đấu tới cùng. Tôi đau thương, xót xa cho cái chết quá thảm khốc của Trần Đình Tự – Một Thiếu Tá Biệt Động Quân – cầm quân đánh trận, bị bắt ngay tại mặt trận mà lại không được bảo vệ bởi Luật Quốc Tế về Tù Binh, mà lại bị sỉ vả, chửi bới thậm tệ và cuối cùng bị hành hình một cách dã man như vậy hay sao?

Trần Đình Tự, một Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Biệt Động Quân, lại bị giết chết một cách bi thương, bị giết chết một cách dã man như vậy sao?

Cả Thế Giới ngoảnh mặt làm ngơ!

Những phóng viên truyền hình của Mỹ, của Úc, đâu hết cả rồỉ? Ông phóng viên nào chụp hình Tướng Nguyễn Ngọc Loan đâu rồỉ ? Ông Eđie Adams và đài truyền hình AP đâu? Sao không ra quay phim, phỏng vấn, làm rùm beng lên đi!

Phóng viên chiến trường Neil Davids của Úc đâu? Sao không viết tin này lên cho cả thế giới đọc?

Hồi Tết Mậu Thân, một tên phiến loạn không mặc sắc phục (dù là sắc phục của bọn GPMN) cầm súng bắn lại các chiến sĩ VNCH. Khi bị bắt, đương nhiên y bị coi là phiến loạn phá rối trị an. Bắt buộc là phải xử bắn tại chỗ theo đúng Hiến Pháp của VNCH. Tướng Loan xử bắn nó là đúng. Tại sao bọn nhà báo ngoại quốc lại làm rùm beng lên? Đễ đến nỗi tới chết, ông vẫn bị hàm oan!

Những tên nhà báo này chỉ giỏi bắt nạt VNCH mà thôi, còn thì sợ bọn VC bằng chết. Cả lũ im thin thít, để một người lính VNCH bị hành hình mà không dám có một tấm hình, một đoạn phim, một lời nói bênh vực?

Công bằng ở đâu? Lẽ phải ở đâu?

Sau khi Tướng Minh đầu hàng, đám ký giả ngoại quốc còn lại ở Miền Nam nhiều lắm chứ! Chắc chắn họ biết chuyện này. Có đều cả đám im lặng mà phụ họa với bọn VC mà thôi?

Có lẽ tại tôi thương cho bạn quá mà nói càn hay chăng?

Thôi thì, cuối cùng, Trần Đình Tự cũng đã chết rồi!

Một cái chết oan nghiệt, nhưng đó là cái chết oai hùng của một chiến binh không đầu hàng giặc.

Cái chết danh dự của người lính ngay giữa trận tiền.

Cái chết không có da ngựa bọc thây, nhưng gương sáng của Tự sẽ còn lưu lại cho đến ngàn sau:

Trần Đình Tự, Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân, bạn thân của tôi từ thủa nhỏ, và biết bao nhiêu chiến sĩ vô danh khác, đã chiến đấu cho Tổ Quốc Việt Nam Cộng Hòa tới hơi thở cuối cùng.

Ai đó vừa quăng cái lon sữa bò vào thùng rác. Tôi nhớ tới Tự, tới trò chơi tạt lon ngày xưa, muốn chạy ra lượm cái lon để dành chơi.
Nhưng Tự đã chết rồi, đâu còn ai để chơi trò chơi này nữa!

Mới đây, rạp xi nê Rivoli cũng đã chiếu lại phim Zorro. Tôi cũng tới rạp đứng xem hình quảng cáo, cứ tưởng tượng đâu đây, Tự đang đẩy vai tôi chui vào rạp hát coi cọp.
Nhưng Tự đã chết rồi, đâu có đẩy vai tôi được nữa!

Tự ơi,

Mày chết ở đâu, tao cũng không biết. Tới khi biết tin mày chết, tao cũng không thắp được cho mày một nén nhang.

Tao cũng ráng tìm thân nhân, bạn bè của mày, để, nếu được, nhờ họ thắp một nén nhang cho mày, nhưng mãi đến bây giờ cũng chẳng tìm được ai.

Tao có hai thằng bạn Biệt Động nữa, là thằng Châu và thằng Đạm. Người quen cũng cho biết tin về hai đứa đó. Thằng Đạm còn sống, đang mở nhà hàng ở ngay Orange County, bên Mỹ, nhưng thằng Châu thì cũng đã chết rồi. Có điều tao may mắn đã liên lạc với vợ con của nó, để nhờ thắp cho nó một nén nhang.

Mới đây, có anh Sơn, cũng là người ở cùng xóm với mày hồi xưa, cũng đang ở bên Mỹ, có cho tao biết một ít tin tức về mày:

“Năm 2008, Sơn có trở về lại xóm cũ vào dịp TẾT, thì gia đình anh Tự đã không còn ai ở đó hết. Hàng xóm có kể cho sơn nghe, là anh Tự đã bị Việt cộng giết tại chỗ vì anh không chịu đầu hàng , gần cận chiến 30-04 đúng như anh đã viết trong Việt Luận và take2tango. Ba má anh Tự đã mất hết chỉ còn người em trai tên Lộc và cô em gái út tên Tâm đã dọn về Thủ Đức.

Đó là phần về anh Tự, còn chị Mỹ vợ và con anh Tự thì sơn không biết đã đi về đâu?

Đài tưởng niệm chiến tranh duy nhất trên thế giới có Lá Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ tung bay suốt ngày đêm cùng với 6 lá cờ của những quốc gia đã trực tiếp gởi quân tham chiến giúp Việt Nam Cộng Hòa, và chiếc trực thăng đã từng tham chiến ở Việt Nam, bao quanh tượng đồng hai chiến sĩ Úc, Việt trong thế tác chiến.
Anh em cựu quân nhân Úc tham chiến ở Việt Nam cùng với anh em lính chiến nhà mình, thuộc Tiểu bang Victoria, nơi tao ở, cũng đã gom công góp sức xây được một Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Úc để tưởng nhớ những “Anh Hùng Vị Quốc Vong Thân” trong đó có mày.

Vào ngày khánh thành bức tượng, 30 tháng Tư năm 2005, tao và các bạn đã thắp cho mày và những chiến sĩ vô danh khác một nén nhang.

Ấm lòng rồi nhé!

Các bạn lính chiến của tôi ơi,

Các bạn bè ở hậu phương của tôi ơi,

Image Hãy đến tượng đài Chiến Sĩ Úc Việt ở Dandenong, Victoria Australia, hoặc đến bất cứ Tượng Đài Chiến Sĩ ở bất cứ nơi nào trên thế giới, vào ngày 30 tháng Tư, thắp cho Trần Đình Tự và những chiến sĩ vô danh khác của QLVNCH một nén nhang tưởng niệm, bạn nhé!

Người Việt của tôi, là thế đấy!

NGUYỄN KHẮP NƠI
Người lính già xa Quê Hương.

Ghi chú:

(1) Thực tập tại chiến trường: Từ Khi Thiếu Tướng Đỗ Kế Giai nhận chức Chỉ Huy Trưởng Biệt Động Quân, ông đã cho các Tân Sĩ Quan BĐQ đi thực tập bằng cách đi theo các Sĩ Quan thâm niên của những Tiểu Đoàn BĐQ đang hành quân. Mục đích là để họ học cách chỉ huy và làm quen với chiến trường. Tôi được đi thực tập hai tuần lễ, với TĐ 42 ở Takeo (Campuchia) và Tiểu Đoàn 44 ở Kiến Phong. Sau đó mới đi chọn đơn vị ở Pleiku.

(2) Biệt Động Quân Biên Phòng: Những tiểu đoàn BĐQ biên phòng, trước đây có tên là “Biệt Kích Mỹ” do lực lượng đặc biệt Mỹ tuyển và huấn luyện tại chỗ, đóng ở các trại biên phòng. Khi Mỹ rút quân, các trại biên phòng này được chuyển qua QLVNCH và đổi tên thành Biệt Động Quân Biên Phòng. Các Sĩ Quan và Hạ Sĩ Quan được đưa đi huấn luyện đặc biệt ở Thủ Đức hoặc Đồng Đế để có thêm kiến thức quân sự. Sau này, Liên Đoàn 6 BĐQ mới được thành lập để bao gồm những tiểu đoàn biên phòng.

(3) Phân biệt bạn, thù trong đêm tối: Lính VNCH mang dây ba chạc giữ dây lưng TAB, chỉ có hai sợi dây nhỏ ở đằng trước ngực và hai sợi phía sau lưng. Mọi thứ cần thiết đều được máng vào dây TAB đeo quanh bụng: Bao đạn, lựu đạn, biđông nước, áo poncho … Lính VC đeo bao đạn thật lớn ở ngay trước ngực, giống như áo giáp. Trung đội Thám Sát của tôi đi đột kích ban đêm, không có trăng sao và hỏa châu, lính ta không mang ba lô, chỉ đeo dây ba chạc mà thôi. Khi đụng địch, lính hai bên đánh xáp lá cà, chỉ có thể phân biệt giữa ta và địch bằng cách lần mó phía trước: Hễ rờ thấy người trước mặt bỏ trống ngực, đó là phe ta. Còn nếu có có bao đạn trước ngực thì biết ngay đó là VC, đâm lút cán liền.

(4) Tan Hàng, Cố Gắng: Lính VNCH, sau khi tập họp nhận lệnh, cấp chỉ huy hô “Tan Hàng”, tất cả đồng thanh hô “Cố Gắng” rồi mới tan hàng ra về.

(5) Cọp Liếm: Theo truyền thuyết, Cọp rình mồi, nếu không thể bắt được con mồi, sẽ đi chung quanh liếm bóng của con mồi, làm cho con mồi bị say, bị thôi miên, tự động đi kiếm cọp để bị bắt ăn thịt. BĐQ từ hồi thành lập, mặc dù có Bộ Chỉ Huy riêng, nhưng các Liên Đoàn và Tiểu Đoàn lại do các Quân Khu điều động, để được tăng phái cho mọi nơi. Do đó, lính BĐQ đánh trận mệt xỉu. Huy chương nhiều, lên chức mau, và … lên bàn thờ càng mau hơn nữa. Tỷ số thương vong của BĐQ cao hơn các binh chủng khác rất nhiều, vì thế, những chàng Trai nào đăng lính Biệt Động, được người đời khóc trước, bằng cách gọi họ là những người … Bị … Cọp Liếm!

(6) Thà chết, không đầu hàng: Hồi đánh trận ở Quảng Trị, Tự mang cấp bậc Đại Úy, Đại Đội Trưởng. Khi đơn vị rút qua sông Mỹ Chánh, Tự và Đại Úy Tiểu Đoàn Phó tình nguyện ở lại chặn hậu. Khi VC ập tới, hai anh còn ba lô súng đạn đầy mình, mặc dù đã nhẩy xuống sông, nhưng bơi chưa đủ xa, bị VC bắt làm tù binh. Tới năm 1973 trao trả tù binh hai bên, Tự được thả trở về. Anh đã quá kinh nghiệm sống với VC nên thà chết chứ không đầu hàng giặc.

hoangphong
Posts: 413
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by hoangphong »

Image


Người lính lẫm liệt giữa tháng 4 hung hãn

Phan Nhật Nam

Tháng 4 năm 2022
Image
Di ảnh Tướng Lê Minh Đảo với Bảo quốc Huân chương.

Courtesy: Facebook BPhuong Le
Kính tiễn biệt Thiếu Tướng Lê Minh Đảo
Để nhớ Ngày “Anh Tư Về Trời”
Kết thúc cuộc chiến dang dở không thành
Nơi Quê Nhà Ở Việt Nam.

(30/4/1975-19/3/2020).
I- Giữa vũng lầy chính trị

Trong những ngày đầu tháng 4, 1975 Cựu Bộ trưởng Thông Tin Chiêu Hồi Hoàng Đức Nhã, nay giữ chức vụ cố vấn riêng của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu, đã có mặt tại Singapore theo lời mời của Thủ Tướng Lý Quang Diệu. Cá nhân cố vấn Nhã rất ái mộ nhà lãnh đạo họ Lý, bởi vị nầy đã thành công trong quá trình cai trị (dẫu bị phê phán là độc tài, độc đảng theo thói tục của chính giới Tây Phương) bằng việc thực hiện cho người dân Singapore những điều mà chế độ cộng sản hứa hẹn “sẽ có nơi địa đàng trần thế”: Tự do, dân chủ, việc làm, phồn thịnh kinh tế, ổn định xã hội… Mức sống người dân Singapore được xếp hạng cao nhất Châu Á. Môi trường, thành phố, phi cảng Singapore được đánh giá là những địa điểm công cộng sạch nhất thế giới. Tháp Đôi ở thủ đô nầy có chiều cao nhất hơn hẳn toàn nhà Empire State Building hay Twin Towers của New York.
Thủ Tướng Diệu không mời Cố Vấn Nhã đến do liên lạc bình thường giữa những chính khách. Ông mời ông Nhã đến để trao gởi một “nguồn tin” quan trọng. Thủ Tướng Lý vào thẳng vấn đề: “Đừng để mất thì giờ vô ích, tôi mời ông tới đây bởi kết thúc (ở Việt Nam) sắp xảy đến. Rockefeller vừa hỏi ý kiến tôi cũng như những vị lãnh đạo Á Châu khác, liệu chúng ta có cách gì để đưa ông Thiệu ra đi hay không.”(2)
Hóa ra chuyến viếng thăm không chính thức các nước Đông Nam Á của Phó Tổng Thống Mỹ Rockefeller nhân dịp viếng lễ tang người lãnh đạo cuối cùng của thế hệ Thế Chiến thứ Hai, Thống Chế Tưởng Giới Thạch vừa qua (5 tháng 4) là để thông báo điều: “Đã đến lúc chính phủ Mỹ cần thay người cầm quyền ở Nam Việt Nam”. Thủ Tướng Lý không nói thêm điều gì khác – việc “ai” sẽ thay thế ông Thiệu là vấn đề của Sài Gòn với những người như Đại Tướng Minh, Khiêm, hoặc Cựu Phó Tổng Thống Kỳ… Ông chỉ thúc dục cố vấn Nhã: “Hãy khẩn báo cho ông anh của ông như thế mà thôi. Riêng ông nên ở lại đây. Đừng về lại Sài Gòn, tôi sẽ lo liệu cho gia đình ông ra khỏi nước. Người Mỹ cũng đã xếp đặt sẵn một nơi cho ông Thiệu lưu trú…”(3)
Không biết cuộc mạn đàm đã được thâu băng, cũng như nơi Dinh Độc Lập máy ghi âm mật (do văn phòng CIA Sài Gòn gài) luôn hoạt động, Nhã thông báo liền cho Tổng Thống Thiệu nguồn tin chẳng mấy phấn khởi nầy; một phần ông cố vấn cũng đã hiểu ra thực tế: “Giới quân nhân, những tư lệnh chiến trường đã không còn tin tưởng nơi ông tổng thống vốn xuất thân từ quân đội này nữa.”
Cuộc rút bỏ Tây Nguyên sau ngày 10 tháng Ba (ngày quân đội Bắc Việt tổng tấn công Ban Mê Thuột), tiếp theo lần di tản Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang (cuối tháng 3) với thảm cảnh kinh hoàng của dân và lính vượt khỏi tất cả những dự kiến; làm tan vỡ sức chiến đấu, phá hủy quân trang cụ, vũ khí của hai Quân Khu I và II đã bày ra điều cùng cực phi lý và tàn nhẫn: Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa không nắm vững chính trị lẫn quân sự của tình thế. Chỉ riêng về mặt quân sự không thôi, ông cũng đã là một người chỉ huy mất khả năng kiểm soát chiến lược lẫn chiến thuật mà một nhà lãnh đạo cần phải có.
Nghĩ cho cùng cũng chẳng phải riêng của Tổng Thống Thiệu với tình thế Việt Nam. Lời thông báo của Phó Tổng Thống Rockefeller cũng không là ý kiến riêng của người lãnh đạo ở Tòa Bạch Ốc nhưng là phản ảnh thực tế về quyết định của chính giới Mỹ đối với tình thế chung cho toàn vùng Đông Nam Á. Ngày 12 tháng 4, Nam Vang thất thủ, người lãnh đạo Sirik Matak cùng tất cả bộ trưởng của chính phủ Long Boret (chỉ trừ một người thuận di tản theo đề nghị của Toà Đại Sứ Mỹ) là những nạn nhân đầu tiên của cách hành hình man rợ hơn cả thời Trung cổ do đám đao phủ Kmer Đỏ hành quyết. Họ không chết do bất ngờ, vì không lường được tính ác ghê rợn của lực lượng cộng sản Khmer mà hơn ai hết, vị cố vấn chính trị của tổng thống Campuchia đã có lá thư tuyệt mệnh gởi đến Đại Sứ Dean John của Hoa Kỳ với lời lẽ khẳng quyết bi tráng như sau: “Kính gởi Ngài Đại Sứ và các Bạn… Tôi chân thành cảm ơn lá thư ngài chuyển tới với đề nghị giúp tôi phương tiện đi đến vùng tự do… Nhưng hỡi ơi, tôi không thể bỏ đi một cách hèn hạ như thế được. Xin ngài cứ ra đi, và tôi cầu chúc ngài cùng đất nước Hoa Kỳ có được nhiều điều hạnh phúc dưới cõi trời nầy. Nếu tôi có phải chết thì cũng chết trên đất nước mà tôi vô cùng yêu quý dẫu cho đấy là điều bất hạnh, nhưng chúng ta ai chẳng sinh ra và một lần mất đi. Tôi chỉ phạm một lỗi lầm là đã tin vào ngài và tin vào những người Bạn Mỹ.“(4)
Lời báo động của người thân cận Hoàng Đức Nhã cùng tình thế bi thảm của Campuchia, lẫn thực tế tuyệt vọng của miền Nam khi phòng tuyến Phan Rang (mà cũng không bao giờ đã là một tuyến phòng thủ vững chắc được, bởi đấy là một vùng đất có thể tiếp cận đến bởi bất cứ hướng tiến quân nào, kể cả hình thái bao vây, chia cắt) bị tan vỡ, buộc Tổng Thống Thiệu phải hiểu ra rằng: Những lá thư bảo đảm của Tổng Thống Nixon với những lời trịnh trọng “Tự do và độc lập của Việt Nam Cộng Hòa luôn là mục tiêu tối thượng của chính sách đối ngoại của nước Mỹ. Tôi hằng dốc sức thực hiện mục ấy suốt cuộc đời chính trị của bản thân” (5) đã không còn mảy may giá trị, vì người viết như giòng chữ (cho là thực tâm kia) đã đi ra khỏi Tòa Bạch Ốc với tình cảnh của kẻ “phạm tội” sau vụ Watergate (9/8/1974).
Người thay thế ông, tổng thống không do dân cử, Gerald Ford, lại bị trói buộc toàn diện bởi Nghị Quyết Sử Dụng Vũ Lực Chiến Tranh đã được Quốc hội phê chuẩn từ tháng 11, 1973, cho dù Tổng Thống Nixon đã dùng quyền phủ quyết bác bỏ. Nghị quyết này thật sự là phần hiện thực hiến định của đạo luật cắt bỏ quỹ “Hoạt Động Tác Chiến” do Tu Chính Án Cooper-Church đệ trình Thượng Viện Mỹ nhằm hạn chế quyền lực sử dụng quân đội Mỹ ở Đông Dương từ 1970 (6) – Tất cả điều khoản, đạo luật này đã được lưỡng viện Quốc Hội Mỹ phê chuẩn thi hành sau khi ký Hiệp Định Paris (27 tháng 1, 1973) và Thông Cáo Chung của Kissinger cùng Lê Đức Thọ, ngày 13 tháng 7 cùng năm để “thúc đẩy các bên ký kết thi hành hiệp định “Tái Lập Hòa Bình tại Việt Nam (sic).”
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nhất quyết không để thân phận mình kết thúc tan thương oan khốc như tình cảnh của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cũng không muốn “hiển thánh vị quốc vong thân” trước nòng súng của binh đội cộng sản. Ông dư biết “những kẻ thù chính trị sẽ không để cho ông yên thân; ông lại càng ngao ngán tình đời vì Cựu Phó Tổng Thống Kỳ đã xuất hiện lại với một khẩu P38 cặp kè bên hông hiện thực lời răn đe “phải làm một cái gì… và Sài gòn sẽ là một Stalingrad” như trong lần nói chuyện ở Trường Chỉ Huy Tham Mưu tại căn cứ Long Bình. Nhưng cốt yếu đối với người “bạn Mỹ”, người bạn mà vị chính khách Campuchia Sirik Matak bên nước láng giềng kia đã phẫn uất kêu lên lời tán thán – Ông Nguyễn Văn Thiệu phải ra tay trước – Vất bỏ gánh nặng mà ông cho là “vô lý” với luận cứ: “Người Mỹ đòi hỏi chúng ta làm một việc bất khả thể. Tôi đã từng nói với họ: Các ông đòi chúng tôi làm một việc mà các ông không làm nổi với nửa triệu quân hùng mạnh, với những viên chỉ huy tài giỏi, và tiêu hơn 300 tỷ (Mỹ kim) trong hơn sáu năm… Rồi bây giờ tương tự như các ông chỉ cho tôi ba đồng, bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất, thuê phòng khách sạn 30 đồng một ngày, ăn bốn, năm miếng bíp-tếch, uống bảy, tám ly rượu vang mỗi ngày. Đấy là một chuyện hết sứ vô lý.” (7)
Sau khi so sánh cuộc chiến đấu của một dân tộc với cách thức đi ăn tiệc với giá biểu “kỳ cục” kể trên, ông cao giọng tố cáo người bạn quý không e dè: “… các ông để mặc chiến sĩ chúng tôi chết dưới mưa đạn pháo. Đấy là một hành động bất nhân của một đồng minh nhân.” (8) Ông chát chúa lập lại: “Từ chối giúp một đồng minh và bỏ mặc họ là một hành vi bất nhân.” (8bis)
Giới chức cao cấp của Tòa Đại Sứ Mỹ ở đường Thống Nhất (đối diện với Dinh Độc Lập, nơi ông tổng thống đang nói cho buổi truyền hình trực tiếp) theo dõi đủ nội dung của bài nói chuyện với những lời lẽ nặng nề như trên (bài nói chuyện của một người đang cơn nóng giận chứ không phải ngôn ngữ ngoại giao của một vị nguyên thủ quốc gia, một chính khách lãnh đạo). Tuy nhiên, người Mỹ luôn là một người “bạn tốt“. Họ đã chuẩn bị cho ông một nơi an toàn và cách ra đi kín đáo (cũng không thể kín đáo hơn), thích hợp với “danh dự của một vị nguyên thủ” vì dù gì ông đã giúp họ cởi bỏ gánh nặng chiến tranh qua lần rút quân có tính “danh dự” khỏi Việt Nam theo điều khoản của Hiệp định Paris.
Tuy nhiên, cuối cùng lời của Ông Nguyễn Văn Thiệu có phần chính xác như câu nói bất hủ: “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy nhìn những gì cộng sản làm” vì quả thật pháo đang rơi xuống, đang trút xuống như mưa lũ trên đầu người lính… cũng trên đầu người dân. Đạn pháo, hỏa tiễn của binh đoàn quân cộng sản Bắc Việt (thuần là đơn vị quân đội Hà Nội) đang dội xuống như mưa lũ ở Long Khánh – Cửa ngõ phía Đông-Bắc dẫn vào Sài Gòn – nơi bản doanh Sư Đoàn 18 Bộ Binh do Thiếu Tướng Lê Minh Đảo giữ quyền tư lệnh – Vị tướng lãnh thăng cấp cuối cùng của quân lực để chứng thật cùng thế giới và lịch sử: Người Lính nào đã quyết tâm chiến đấu thực hiện nghĩa vụ Bảo Quân An Dân nơi Miền Nam. Và sự sụp vỡ ngày 30 tháng Tư, năm 1975 hoàn toàn vượt tầm đạn bắn ra từ nòng súng chiến đấu của họ – Quân Lực Cộng Hòa.

II- Mặt đối Mặt qua bãi lửa

Bình nguyên tỉnh Long Khánh trải rộng trên vùng rừng miền Đông Nam Bộ, tả ngạn sông Đồng Nai, trước đây vốn là Quận Xuân Lộc thuộc Tỉnh Biên Hòa. Năm 1955 Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa thành hình những đơn vị hành chánh mới, Xuân Lộc tách ra thành một tỉnh riêng với thủ phủ là vị trí của quận đường cũ nay được mang thêm danh xưng là Quận Châu Thành, Tỉnh Long Khánh. Long Khánh nằm trên ngã ba của Quốc Lộ 20 (đi Đà Lạt) và Quốc Lộ I, lối ra Trung, đường đi Hàm Tân, Phan Thiết. Sau thành công đánh chiếm Tây Nguyên (Vùng II) và Vùng I Chiến Thuật do sự rút bỏ hỗn loạn của quân đội Miền Nam (mà thật sự chỉ do quyết định toàn quyền, độc nhất của Tổng Thống NguyễnVăn Thiệu); phía cộng sản rút kinh nghiệm từ Mậu Thân (1968) và Tổng công kích Xuân-Hè 1972 (thất bại do phân tán lực lượng trên nhiều mục tiêu, lẫn lộn giữa “điểm-mặt trận chính” và “diện-mục tiêu phụ”); chiến dịch năm nay, 1975, Bộ Tổng Quân Ủy quân đội Miền Bắc quyết tâm tiêu diệt Miền Nam qua chiến thuật tập kích tấn công từ một điểm xong mở rộng ra, tránh giao tranh nếu gặp kháng cự mạnh để tất cả đồng nhất tiến về Sài Gòn – mục tiêu cuối cùng phải đánh chiếm của cuộc chiến tranh “giải phóng ngụy danh”…
Trung Ương Đảng ra lệnh cho Trung Ương Cục Miền Nam cùng tất cả lực lượng vũ trang phải hoàn thành công cuộc giải phóng Miền Nam. “Xung phong tiến lên tấn công Sài Gòn, mà hiện tại kẻ thù đang tan rã, không còn sức mạnh chiến đấu. Chúng có năm sư đoàn, chúng ta có mười lăm sư đoàn, chưa kể đến lực lượng hậu bị chiến lược. Chúng ta phải chiến thắng bất cứ giá nào: Đấy là quan điểm của Trung Ương Đảng. Khi tôi (Lê Đức Thọ) rời miền Bắc, các đồng chí ở Bộ Chính Trị đã nói rằng: “Đồng chí phải đoạt thắng lợi, đồng chí chỉ trở về với chiến thắng” (9)
Chiến dịch Hồ Chí Minh được đặt tên qua công điện 37/TK do chính Lê Đức Thọ, Chính ủy chiến dịch phổ biến đến với tất cả lực lượng vũ trang đang có mặt tại miền Nam: Mười lăm sư đoàn quân chính quy cộng sản Bắc Việt. Những danh xưng này cần phải viết đủ để trả lời cho những quan điểm chiến lược vạch nên từ Tòa Bạch Ốc, Ngũ Giác Đài, được phổ biến khắp hệ thống truyền thanh, truyền hình thế giới trong bao năm qua: “Chiến tranh Việt Nam là do lực lượng Việt cộng (những người “quốc gia yêu nước Miền Nam” nổi dậy lật đổ chính quyền Việt Nam Cộng Hòa); nếu lực lượng của Hà Nội có kể đến chăng thì cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng vai trò “yểm trợ” vì “98% của vấn đề (chiến tranh) là ở Miền Nam, chứ không là Miền Bắc”(10).
Bởi quan niệm như thế kia, nên hôm nay, sau lần ký Hiệp Định Paris hai năm, ba tháng, tình hình quân sự hoá nên tồi tệ như một điều tất yếu, và chắc rằng Lê Đức Thọ được chọn lựa giữ nhiệm vụ chính ủy cho chiến dịch đánh chiếm không phải do tình cờ, vô cớ – bởi đấy là kẻ được thế giới trao tặng giải Nobel Hòa Bình do đã thiết lập cùng Ngoại Trưởng Kissinger cái gọi là hiệp định “tái lập hòa bình tại Việt Nam” kia. Chúng tôi không đủ nhẫn tâm, trân tráo để viết hoa nên nhóm danh tự nầy – Vì nếu thế sẽ được đánh giá là “đã tham gia vào một quá trình lừa lọc – Quá trình đùa cợt và khinh miệt nỗi khổ đau của toàn Dân Tộc Việt” – Khối dân bi thương luôn cầu mong được sống một ngày bình an qua gần nửa thế kỷ sống trong lửa.
húng ta trở lại chiến trường với Tướng Quân Lê Minh Đảo và những người lính đang giữa trùng vây của lửa. Ở mặt trận Long Khánh. Ngay từ ngày đầu của năm 1975, Sư đoàn 18 đã phải đối phó với tình trạng căng quân ra giữ vững vùng lãnh thổ trách nhiệm, cùng tập trung lực lượng để chiếm lại phần đất đã bị lấn chiếm. Tiếng gọi là một sư đoàn, nhưng Tướng Đảo chưa hề tập trung đủ lực lượng cơ hữu để điều động trong một cuộc hành quân quy mô cấp sư đoàn. Đầu tháng Ba 1975, Trung Đoàn 48 lại tăng phái cho Sư Đoàn 25 trách nhiệm mặt trận Tây Ninh, vùng Tây Sài Gòn cũng chung Vùng III Chiến Thuật với Sư Đoàn 18. Thế nên khi trận chiến bắt đầu ngày 9 tháng 4, 1975 ông chỉ có một lực lượng sư đoàn (trừ) gồm những đơn vị:
– Chiến đoàn 43 do Đại Tá Lê Xuân Hiếu chỉ huy gồm trung đoàn 43 (trừ Tiểu Đoàn 2/43 đóng giữ các cao điểm quan trọng) gồm Tiểu Đoàn 2/52 (cơ hữu của Trung Đoàn 52;
– Tiểu đoàn 82 Biệt Động Quân Biên Phòng của Thiếu Tá Vương Mộng Long.
Trước khi trận chiến bùng nổ, Thiếu Tướng Đảo khẩn thiết yêu cầu viên tư lệnh quân đoàn, Trung Tướng Nguyễn Văn Toàn hoàn trả lại Trung Đoàn 48; khi nhận được trung đoàn nầy về, Tướng Đảo xử dụng đơn vị để trấn giữ mặt đông thị xã – đoạn đường từ Xuân Lộc đến thị trấn Giá Rai, mặt Bắc của Ngã Ba Ông Đồn đường đi vào Quận Tánh Linh, Tỉnh Bình Tuy, trung tâm của mật khu Rừng Lá mà từ đầu khởi cuộc chiến (1960) đã là một vùng bất khả xâm phạm, do đấy là hành lang chuyển quân từ đồng bằng, vùng biển (Vùng III của VNCH) lên miền Tây Nguyên.
Phải nói qua đơn vị kỳ lạ này với sự tồn tại tưởng như huyền thoại. Tiểu Đoàn 82 vốn thuộc Quân Khu II Tây Nguyên, khi mặt trận Ban Mê Thuộc bị vỡ, Thiếu Tá Long vừa đánh vừa rút lui xuống đồng bằng. Từ Ban Mê Thuột, Long đưa đơn vị vượt Cao Nguyên Di Linh băng rừng về Bảo Lộc (nằm trên Quốc Lộ 20 khoảng giữa đường đi Đà Lạt), ông tiếp tục băng rừng theo hướng Tây Nam về Long Khánh. Ngày 6 tháng 4 (gần một tháng sau trận Ban Mê Thuột, ngày 10 tháng 3), Tướng Đảo nhận được một công điện khẩn từ các toán tiền đồn. Một đơn vị lạ với y phục Biệt Động Quân xuất hiện. Sau khi kiểm chứng với Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu III (Biên Hòa), Tướng Đảo dùng trực thăng bốc toán quân của Thiếu Tá Long – một tiểu đoàn biệt động chỉ còn khoảng 200 người. Lực lượng Chiến Đoàn 43 có nhiệm vụ phòng thủ nội vi Xuân Lộc hợp cùng các đơn vị của Tiểu Khu Long Khánh do Đại Tá Phúc làm chỉ huy trưởng – Chiến Đoàn 52 của Đại Tá Ngô Kỳ Dũng gồm Trung Đoàn 52 (trừ Tiểu Đoàn 2/52 tăng phái như kể trên) và các đơn vị trinh sát, thiết giáp, pháo binh thống thuộc hành quân. Đơn vị nầy trấn giữ dọc Quốc Lộ 20 (Bắc-Tây Bắc Long Khánh) từ Kiệm Tân (cứ điểm chặn đường từ Đà Lạt xuống) đến Ngã Ba Dầu Giây (giao điểm của hai Quốc Lộ I và 20), nút chặn về Biên Hòa, nơi đặt bản doanh của Quân Đoàn III, Sư Đoàn 3 Không Quân, thị xã cách Sài Gòn 30 cây số về hướng Bắc.
Với quân số như kể trên, Sư Đoàn 18 Bộ Binh quả thật đã gánh một nhiệm vụ quá khổ, dẫu trong thời bình yên chứ chưa nói về tình thế khẩn cấp của tháng 4, 1975. Trước 1972, vùng này được tăng cường một lữ đoàn thuộc lực lượng Hoàng Gia Úc – Tân Tây Lan, Lữ Đoàn 11 Chiến Xa do Đại Tá Patton chỉ huy (con của Danh Tướng Patton của lực lượng thiết kỵ Hoa Kỳ trong Đệ Nhị Thế Chiến) cùng những đơn vị bộ binh, nhảy dù Mỹ; chưa kể đến Sư Đoàn Mãng Xà Vương Thái Lan tăng phái, trách nhiệm vùng Long Thành, dọc Quốc Lộ 15, đường đi VũngTàu. Sư đoàn 18 lại là một đơn vị tân lập (chỉ trước Sư Đoàn 3 Bộ Binh của Vùng I), nhưng những người lính cơ hữu cùng các đơn vị diện địa, tăng phái đã lập nên kỳ tích tưởng không thực vào trong lúc toàn bộ quân lực, đất nước thậm khẩn cấp nguy nan, những đại đơn vị đã vỡ tan vì cách điều quân “di tản chiến thuật” quái đản phát xuất từ Dinh Độc Lập.
Thành lập từ năm 1965, đầu tiên đơn vị có danh hiệu là “Sư Đoàn 10 Bộ Binh”, và quả như số hiệu không mấy may mắn này báo trước, theo báo cáo lượng giá hằng tháng SAME (System Advisor Monthly Estimation) của giới chức cố vấn Mỹ cao cấp trong năm 1967, sư đoàn bị xếp hạng là một trong những đại đơn vị yếu nhất của quân lực. Tính đến năm 1972, hiệu kỳ sư đoàn chỉ nhận một lần tuyên công. Nhưng tất cả điều nầy đã thuộc về quá khứ, năm 1974 đơn vị trở nên thành đơn vị xuất sắc nhất mang giây Biểu Chương Quân Công Bội Tinh (11), bởi một điều đơn giản nhưng vô cùng thiết yếu đã được thực hiện: Tướng Quân Lê Minh Đảo về nắm quyền chỉ huy đơn vị từ sau trận chiến Mùa Hè 1972, và ông đã dựng nên sự biến đổi thần kỳ kia với bản lãnh thực sự của một “võ tướng”: Sống-Chết cùng Binh Sĩ-Đơn Vị.
Phải, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không có gì ngoài những người lính gian khổ dưới quyền, những viên sĩ quan cấp úy trung đội trưởng, với quân số còn lại đúng “mười hai người” chờ đợi để chết trước lần một biển người, chiến xa, đại pháo dập tới (12). Nếu có một người (chỉ một người thôi) để ông có thể trao lòng tin cậy cùng là một vị tướng nổi danh liêm khiết – Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn III – Nhưng oan nghiệt và uất hận thay, trong giờ phút sôi lửa kia, vị tướng trung chính ấy đã chết vì một viên đạn bức tử tại văn phòng do “sẩy tay, lạc đạn khi chùi súng?!” (13)
Quả thật, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo không còn ai, không có ai ngoài tập thể những Người Lính đang quyết lòng giữ chắc tay súng – Nhiệm vụ mà họ xả thân tận hiến từ một thuở rất lâu không hề nói nên lời. Trận thử sức cuối cùng, tháng 4, 1975 tại Xuân Lộc, Long Khánh là một dấu tích sẽ còn lại muôn thuở với lịch sử.
Chúng ta không nói điều quá đáng. Hãy nhìn sang phía đối phương để thử tìm so sánh, từ đấy lập nên phần thẩm định chính xác. Đối mặt binh đội của Tướng Đảo là Quân Đoàn IV cộng sản Bắc Việt do Trung Tướng Hoàng Cầm chỉ huy. Một quân đoàn vừa thành hình trong ngày 20 Tháng 7, 1974 theo sách lược chung của cộng sản Hà Nội – Toàn phần vất bỏ Hiệp Định Paris, quyết thanh toán Miền Nam bằng vũ lực với trận mở màn thử xem phản ứng của chính quyền, quân đội Mỹ: Tấn Công Thị Xã Phước Long thuộc tỉnh Phước Bình (Đông Bắc Sài Gòn, 12 Tháng 12, 1974). Sau lần toàn phần chiếm đóng Phước Long (6 tháng 1, 1975) mà chính phủ Mỹ hoàn toàn im lặng, cũng tương tự như phản ứng thụ động của Hạm Đội 7 Mỹ để mặc Hải Quân Trung Cộng chiếm đóng Trường Sa, tấn công tiêu diệt Hạm Đội Việt Nam, Bộ chính trị trung ương đảng cộng sản Hà Nội quyết định thanh toán Miền Nam bằng súng đạn, điển hình qua câu nói khoái trá của Phạm Văn Đồng trong buổi hội đầu năm 1975: “Cho kẹo Mỹ cũng vào lại Việt Nam“. (14)
Hoàng Cầm chủ nhân của loại bếp ém khói, là tiểu đoàn trưởng của lực lượng tấn công vào trung tâm phòng thủ Điện Biên Phủ năm 1954; khi chiến tranh khởi cuộc (1960), Hoàng Cầm giữ chức tư lệnh Sư Đoàn 312, chuyển vào Nam năm 1965 để chỉ huy Sư Đoàn 9 khi đơn vị này mới thành lập; Mậu Thân 1968, Cầm phụ trách tham mưu của Trung Ương Cục Miền Nam; Tổng Công Kích 1972, tiếp lên chức tham mưu trưởng và bây giờ, kể từ 1974 tư lệnh Quân đoàn 4, trách nhiệm tấn công Sài Gòn từ mặt Đông Bắc qua ngõ Long Khánh của Tướng Đảo. Tướng Hoàng Cầm có dưới tay ba sư đoàn: 6, 7 và 341, chưa kể lực lượng địa phương, yểm trợ thuộc Quân Khu 7 cộng sản. Tương quan lực lượng coi như 4 đánh 1. Nhưng cũng không hẳn thế, Tướng Hoàng Cầm còn được cả một bộ chính trị đảng cộng sản Hà Nội trực tiếp chỉ đạo, yểm trợ và tăng cường với Văn Tiến Dũng, Tổng tham trưởng quân đội Miền Bắc, Phạm Hùng, bí thư Trung ương cục Miền Nam, Lê Đức Thọ ủy viên Bộ chính trị, Bí thư chiến dịch… Tất cả đang có mặt tại Lộc Ninh, nơi chỉ cách chiến trường Xuân Lộc hơn 100 cây số đường chim bay.
Thọ vừa đến từ Hà Nội không phải theo “đường mòn Hồ Chí Minh” với ba lô trên lưng như cách “mô tả” thành thạo trong những cuốn sách “nghiên cứu” về chiến tranh Việt Nam; Thọ đến từ sân bay Nam Vang, đi xe hơi đến biên giới Việt-Miên, xong dùng Honda tới Lộc Ninh (để tránh phi cơ và biệt kích của phía VNCH phát hiện). Trước những nhân vật kể trên, Trần Văn Trà, Tư lệnh Khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược; viên cán bộ phụ trách hậu cần trả lời: “Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để bắn (bọn ngụy) sợ đến ba đời…” (15)
Đấy không phải là lời nói đùa, vì sau này khi thắng lợi nghiêng về phía quân Cộng Hòa, bộ tư lệnh mặt trận (cộng sản) đã cho thay thế Tướng Hoàng Cầm bằng Trần Văn Trà, vốn là người chỉ huy chiến trường miền Đông từ chiến tranh 1945-1954; và tăng cường thêm Sư Đoàn 325, đơn vị tổng trừ bị quân đội miền Bắc, lực lượng nỗ lực chính đánh chiếm Nha Trang, Phan Rang đầu tháng 4, và Trung Đoàn 95B biệt lập từ vùng châu thổ Sông Cửu Long kéo lên tăng cường – nâng tỷ số tác chiến (ban đầu) lên thành 5 đánh 1.

III- Trận Đánh

Thiếu Tướng Tư Lệnh Lê Minh Đảo chuẩn bị chiến trường đến mức được coi là toàn hảo. Lấy kinh nghiệm đau thương của những đơn vị bạn thuộc hai Quân Khu I và II: Sở dĩ các đơn vị này mất sức chiến đấu mau chóng vì không có người lính nào còn được khả năng chiến đấu khi trong tay họ thay vì nắm chắc vũ khí bấy giờ chỉ để bế đứa con nhỏ, lưng cõng cha, mẹ già bị nạn. Bằng tất cả mọi phương tiện có được, Tướng Đảo cho di tản toàn bộ gia đình binh sĩ về hậu cứ Long Bình và tổ chức một hậu phương an lành, tương đối đầy đủ cho tất cả. Cất bỏ được nặng gánh gia định, người lính chỉ còn một hướng trước mặt – hướng địch quân tiến tới.
Pháo binh là một yếu tố chiếm giữ phần lớn quyết định sự thắng, bại chiến trường. Một khuyết điểm mà quân lực cộng hòa thường vấp phải là luôn tập trung pháo binh lại một địa điểm để dễ chỉ huy, điều động. Nay Tướng Đảo thay đổi chiến thuật, ông phân tán pháo binh lên những cao điểm như Núi Thị (bên cạnh Đường 20 lên Định quán, đi Đà Lạt), đồi Mẹ Bồng Con (cạnh Quốc Lộ I, đường về Biên Hòa), những cao điểm phía Đông và Đông Nam Xuân Lộc, nơi ngã ba Tân Phong (cũng là một vị trí di động của Bộ chỉ huy; phần sau của chiến trận, giai đoạn rút lui về Bà Rịa (Phước Tuy), dọc Tỉnh Lộ 2; những vị trí pháo này sẽ yểm trợ vô cùng hữu hiệu cho đoàn quân di tản). Tuy phân tán nhưng khi tác xạ, những vị trí pháo này cùng bắn một lượt nên “tập trung được hỏa lực vào một mục tiêu” mà địch không dò tìm, phát hiện được vị trí pháo bắn đi (để phản pháo).
Thứ đến yếu tố an toàn cho Bộ chỉ huy là một yêu cầu tối thượng phải thực hiện. Tướng Đảo cho thiết lập những vị trí chỉ huy khác nhau được đánh số 1,2,3… Khi một vị trí bị pháo, ông cho di chuyển qua vị trí thứ hai, và luôn thay đổi trong suốt trận đánh (vị trí thứ nhất ở nhà ông trong thị xã; cái thứ hai ở Tân Phong; thứ ba trong một vườn vú sữa phía Đông của vị trí thứ hai). Để không cho đối phương an toàn trong vùng họ chiếm giữ, ông tổ chức những trung đội thám sát hoạt động đằng sau phòng tuyến địch, chỉ định vị trí tập trung quân, vị trí pháo binh (địch) xong gọi pháo binh (bạn) bắn tiêu diệt. Điểm cao nhất của thị xã, Trường Trung Học Hòa Bình, ông thiết trí trung tâm đề kháng với Đại Đội Trinh Sát Sư Đoàn do viên đại úy cứng cựa nhất trong số những sĩ quan đại đội trưởng, Đại Úy Lê Phú Đa, Khóa 25 Đà Lạt. (16)
Và cuối cùng, bảo mật liên lạc truyền tin của ta, khai thác truyền tin của địch để phát hiện ý đồ, cách điều quân, các hướng tiến quân của đối phương để chặn đánh, giải quyết chiến trường, phá vỡ mưu định tấn công của giặc. 5 giờ 40 sáng ngày 9 tháng 4, 1975- “Giờ H của Ngày N”, chiến dịch đánh chiếm Xuân Lộc bắt đầu (17) với một trận mưa pháo 2.000 quả đạn từ nhiều vị trí cùng đổ xuống trung tâm thị xã Xuân Lộc lập lại cảnh tàn sát của một ngày năm 1972, cũng buổi tháng 4 tại An Lộc.
Chính xác một giờ sau, 6 giờ 40, tám xe tăng được lính Trung Đoàn 165, đơn vị tiền phong Sư Đoàn 7 tùng thiết xông vào trung tâm thị xã Xuân Lộc, nơi đặt bộ chỉ huy Sư Đoàn 18. Lính cộng sản ngỡ rằng sau đợt pháo hung hãn, và đội hình ào ạt, bề thế của những chiếc T54, thế nào cũng sẽ tràn ngập mục tiêu dễ dàng như đã xảy ra ở những mặt trận “không cần giao tranh” nơi Vùng I và II của tháng 3 vừa qua. Họ cũng được học tập, “Sư Đoàn 18 chỉ là một đơn vị bộ binh tầm thường, nếu không nói là yếu kém.”
Nhưng hoàn toàn không phải là như thế, những xe tăng này mắc kẹt giữa bãi mìn của một hệ thống tám lớp kẽm gai và mìn bẫy mà Thiếu Tướng Đảo đã sẵn bố trí; không những chỉ thế, những phi cơ A37 và F5 từ phi trường Biên Hòa được gọi đến chỉ sau ít phút cất cánh, và trên đồng trống, giữa những khu rừng cao su đều đặn, đội hình của toán quân tùng thiết, chiến xa cộng sản trở nên thành mục tiêu lộ liễu, trần trụi. Nhưng lính bộ binh của Trung Đoàn 165 cộng sản không nhận ra chỉ dấu thất bại, họ tiếp tục tiến lên đợt xung phong thứ hai với những chiến xa còn lại. Lính Đại Đội 1, Tiểu Đoàn 3, Trung Đoàn 48 đã đợi sẵn với “hỏa tiễn 2.75 ly” đặt trên giá hai chân. Lưu ý yếu tố một đại đội đương cự một trung đoàn – tức là tỷ lệ “1 chống 16”; và hỏa tiễn 2.75 vốn là vũ khí cơ hữu của trực thăng vũ trang, sau khi quân đội Mỹ rút đi, khối lượng hỏa tiễn này trở nên thặng dư, Thiếu Tướng Đảo biến chế thành vũ khí bộ binh dùng để chống chiến xa bằng cách đặt trên giá tre hai chân, kích hỏa bằng pin, bắn hạ ngay những chiến xa nầy trên tuyến phòng thủ cuối cùng, nếu như thoát được những lớp mìn bẫy tiền tuyến.
Mặt Đông của thị xã, dọc Quốc Lộ I, Trung Đoàn 209 (cũng của SĐ 7) số phận cũng không mấy khả quan hơn – bởi họ gặp một đơn vị đang cơn uất hận – Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân của Thiếu Tá Vương Mộng Long. Lính biệt động đánh để trả hận lần lui quân bi thảm của tháng trước từ mặt trận Ban Mê Thuột, hai tiểu đoàn của Trung Đoàn 209 bị chôn chân trước tuyến phòng thủ của 82 Biệt Động và Tiểu Đoàn 3/48 của Tướng Đảo. Sau nầy Hoàng Cầm ghi lại trận đánh trong Hồi Ký Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Những đợt xung phong đánh vào sở chỉ huy của Sư Đoàn 18 và hậu cứ Trung Đoàn 52 ngụy đều không thành công. Chiến sĩ ta giành giựt với đich từng đoạn giao thông hào, qua mỗi căn nhà, căn phố. Điều đáng ngạc nhiên là cuộc tấn công đã bị chặn lại không phải chỉ do pháo binh và không quân yểm trợ, hệ thống phòng thủ vững chắc và sức chiến đấu ngoan cố của Trung đoàn 43 ngụy, nhưng điều đáng nói là Đảo đã tổ chức cho từng người lính thuộc sư đoàn mỗi một vị trí chiến đấu..” (18)
Mặt trận phía Bắc của Sư Đoàn 341 tương đối khả quan hơn, một phần địa thế không thích hợp cho việc bố phòng của Chiến Đoàn 52 do Trung Tá (Đại Tá) Ngô Kỳ Dũng chỉ huy. Viên tư lệnh sư đoàn cộng sản Trần Văn Trấn đi theo với Trung Đoàn 266, đích thân chỉ huy cuộc tiến công. Bộ đội cộng sản tùng thiết thoạt tiên mở được đường qua lớp kẽm gai, mìn bẫy thứ nhất tiến gần đến vùng “Hố Heo Rừng”, nơi Quốc Lộ I chạy một đường quanh gắt trước khi đổ vô thị xã. Nhưng quả như ước tính của Tướng Đảo, đại đội trinh sát của Đại Úy Đa giăng một hàng lưới lửa bằng đại liên 50 chống chiến xa, hiệp cùng máy bay AC119 Hỏa Long tự tầng trời đan kín thêm bằng đại liên Minigun bốn nòng chống biển người vô cùng hữu hiệu.
Sư Đoàn 341 vốn là một sư đoàn tân lập gồm những thanh thiếu niên vùng Quảng Bình vào Nam do nhu cầu “chính trị-quân sự” hơn là một đơn vị tác chiến thuần thành, nên đám tân binh thiếu kinh nghiệm của đơn vị này quá hoảng sợ hỏa lực của đại đội trinh sát, phi cơ Hỏa Long chạy dạt qua phần đất của các Đại Đội 340 và 342 Địa Phương Quân Tiểu Khu Long Khánh. Thật không may, đấy lại là những đại đôi địa phương cự phách của tiểu khu, cũng là của vùng chiến thuật, nên cuối cùng đám lính trẻ tuổi của hai Tiểu Đoàn 5 và 7 thuộc Trung Đoàn 266 phải tan hàng, chạy vào lẫn trốn trong khu vực dân cư, bến xe, nhà thờ, trung tâm thị xã. Đại Đội Trinh Sát của Đại Úy Lê Phú Đa lập lại thành tích “1 chống 16 – Một đại đội chặn đứng mũi tiến công một trung đoàn.”
Tưởng nên nói rõ cũng không thừa chi tiết: Theo tổ chức “tứ chế” của quân đội cộng sản, một tiểu đoàn có 4 đại đội; một trung đoàn có 4 tiểu đoàn. Vậy Trung Đoàn 266 kia đã xử dụng đến 16 đại đội để tấn công một đại đội trinh sát của Đa. Cho dù rằng Sư Đoàn 341 báo cáo đã chiếm được một vài cơ sở trong thành phố như dinh Tỉnh Trưởng, bến xe, khu chợ, nhưng đến 11 giờ cùng ngày, Thiếu Tướng Đảo tương kế tựu kế, sử dụng những đơn vị trừ bị, Tiểu Đoàn 1/48 và chiến xa của Chi Đoàn 1/5 đẩy Trung Đoàn 270 ra khỏi ngoại vi thị xã; phần bên trong Xuân Lộc. Ông phối hợp với vị Tỉnh Trưởng, Đại Tá Phúc dùng hai đại đội địa phương tăng cường Tiểu Đoàn 1/43 diệt gọn tất cả các ổ chống cự lẻ tẻ do những đám nhỏ của Trung Đoàn 266/Sư Đoàn 341 xâm nhập được nhân cơ hội đợt pháo kích sáng sớm.
Tổng kết ngày chiến trận đầu tiên, chỉ riêng Sư Đoàn 341 đã bị thiệt hại khoảng 600 chết và bị thương, cùng một số tù binh (ba mươi người). Đám thanh thiếu niên nông thôn miền Bắc ngồi ngơ ngẩn giữa nhà cửa, gạch ngói tan vỡ do đạn pháo họ vừa thực hiện, hiểu mường tượng ra về một phần ý nghĩa của công tác “giải phóng” sau lần giao tranh với quân lực Miền Nam. Buổi chiều, Thiếu Tướng Đảo khi đi thanh sát mặt trận bên trong thị xã, ông không quên ra lệnh cho Phòng Quân Tiếp Vụ Sư Đoàn trích một số khẩu phần lương khô để nuôi ăn đám tù binh còn rất mới. Chiều tối ngày 9 tháng 4 không hẳn là thời gian nghỉ ngơi, phía cộng sản lại dụng tâm gây căng thẳng bằng cách pháo vào khu vực thị xã thêm một loạt liên tục, cũng khoảng 2.000 ngàn quả đạn trên khắp các vị trí, không loại trừ khu vực dân chúng, nhà thương, chùa, nhà thờ… Những địa điểm mà họ ước tính dân chúng hay tập trung để trú ẩn do có ý nghĩ tội nghiệp cam chịu: “Việt cộng sẽ tránh các nơi dân cư đông đúc, chốn tôn nghiêm, nhà thương trường học…”
Năm 1972, ở An Lộc người dân đã nghĩ như thế và pháo cộng sản cũng đã đánh giá Bệnh Viện Bình Long là một mục tiêu phải bị hủy diệt vì bọn ngụy sẽ tải thương người bị thương đến đấy. Đêm 9 rạng 10, ngày 11 tháng Tư, 1975 ở Xuân Lộc cuộc pháo kích cũng mang chung một tính chất với cường độ ác liệt hơn – do để yểm trợ cho bộ binh tiến chiếm bởi Bộ tư lệnh Quân Đoàn 4, cộng sản vẫn không tin quân phòng thủ Xuân Lộc đứng vững sau hai cuộc tấn công.
5 giờ 30 sáng ngày 11, đợt tấn công thứ hai bắt đầu. Sư Đoàn 341 tiến chiếm từ hướng Tây Bắc dọc Quốc Lộ 20; Sư Đoàn 7 từ mặt Bắc đâm thẳng vào thị xã; Sư Đoàn 6 từ hướng Đông, chân núi Chứa Chan nơi đặt Bộ tư lệnh chiến dịch của Quân Đoàn 4. Tất cả ba mũi dùi đồng hẹn ở điểm đến – trung tâm Thị Xã, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 18. Kết quả cũng tương tự như ngày 9, quân Cộng Hòa giữ chắc vị trí, có khác chăng thêm một số chiến xa bị bắn hạ trên tuyến phòng ngự và một số tù binh bị bắt. Những ngày chẳng mấy vinh quang này được Hoàng Cầm viết lại trong Lịch Sử Quân Đội Nhân Dân: “Trong ba ngày đầu tiên của chiến dịch, Sư Đoàn 7 bị tổn thất 300 chiến sĩ; Sư 341 thiệt hại 1.200… Cụ thể tất cả pháo 85 và 57 ly đồng bị phá hủy “(19).
Cùng lúc Văn Tiến Dũng cũng phải thú nhận trong Đại Thắng Mùa Xuân: “Từ ngày đầu mặt trận Xuân Lộc đã diễn ra vô cùng gay go, ác liệt. Những sư đoàn của ta tổ chức nhiều đợt tấn công vào thị xã, đánh đi đánh lại để chiếm từng vị trí, và phải đẩy lui nhiều cuộc phản công của địch.” (19)
Cùng ngày Không Quân VNCH cũng góp thêm vào chiến thắng qua hủy diệt hơn 100 xe quân sự tăng viện cho mặt trận. Ở Sài Gòn, không khí lạc quan hừng lên, Tổng Thống Thiệu thúc dục Tướng Toàn cố gắng giữ vững Xuân lộc để có thế đảo ngược tình thế… để “B52 có thể trở lại!” Tướng Toàn xử dụng Lữ Đoàn 3 Thiết Kỵ của Chuẩn Tướng Trần Quang Khôi từ Trảng Bom cố mở đường tiếp cận với cánh quân Xuân Lộc, nhưng lực lượng thiết kỵ không thành công trong việc phá chốt ở Ấp Hưng Lộc.
Không thành công trong việc dùng chiến xa để giải toả áp lực cộng sản tại Xuân Lộc, Tướng Toàn xử dụng một thành phần hữu hiệu hơn – Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù gồm bốn tiểu đoàn 1, 2, 8 và 9 được Tiểu Đoàn 3 Pháo Binh Dù trực tiếp yểm trợ. Cuộc hành quân không vận lớn nhất của trận chiến thực hiện trong hai ngày 11, 12 đưa đơn vị tổng trừ bị cuối cùng của Miền Nam vào trận. (20)
Sự xuất hiện của lực lượng nhảy dù tại trận địa đặt nên vấn đề nghiêm trọng đối với tập thể lãnh đạo Bộ tư lệnh chiến dịch của Cộng quân. Chiều ngày 11 tháng Tư, Văn Tiến Dũng, Lê Đức Thọ, Trần Văn Trà duyệt soát lại kế hoạch tấn công theo chiều hướng mới. Dũng có ý kiến: “Nếu địch tăng cường lực lượng phòng thủ Xuân Lộc thì ta không cần phải tập trung lực lượng để tấn công chúng nữa… Chúng ta nên sử dụng sức mạnh của mình để đánh những lực lượng ngoại vi (hàm chỉ Lữ Đoàn I Dù) trước khi chúng đặt chân xuống đất. Cũng nên dùng pháo tầm xa phá hủy căn cứ Biên Hòa để máy bay chúng không thể cất cánh.”
Nội dung buổi hội cũng bàn thảo lại chiến thuật tấn công chính diện mà đã không đem lại kết quả từ bốn ngày qua. Hẳn Trà và giới chức lãnh đạo Trung ương Cục không quên lần tấn công thất bại An Lộc trong Mùa Hè 1972, cũng trên địa bàn Quân Khu III này với lực lượng Quân Khu 7 cộng sản (21). Theo quan điểm của Dũng, Tướng Cầm, Tư lệnh Sư Đoàn 7 ra lệnh cho các Trung Đoàn 165, 266 tiếp tục giữ vững vị trí đang trách nhiệm để sau đó từ từ rút đi, riêng Trung Đoàn 209 trở hướng tấn công vào đơn vị nhảy dù vừa nhảy xuống trận địa.
Tóm lại, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định mở một mặt trận giả (để đánh lạc hướng quân phòng thủ) bằng hai cuộc tấn công chính diện vào vị trí đóng quân của Tiểu Đoàn 1/43 (có nhiệm vụ giữ thị xã) để phía quân đội Cộng Hòa nghĩ rằng phía cộng sản vẫn cố công dứt điểm Xuân Lộc theo như kế hoạch ban đầu – Trong khi chuyển hướng tấn công bằng cách đi vòng Xuân Lộc để (thực sự) tiến thẳng về Sài Gòn. Trần Văn Trà thay thế Hoàng Cầm để trực tiếp thực thực hiện kế hoạch.
Ngày 13 tháng 4, Trà họp ban tham mưu của Quân Đoàn 4 để thông báo về việc thay đổi kế hoạch với luận cứ chính xác: “Địch tăng cường phòng thủ Xuân Lộc sẽ gây nhiều bất lợi cho ta nếu cứ tiếp tục tấn công thị xã. Thế nên, nếu chúng ta tiến chiếm Dầu Giây (Nam Xuân Lộc, trên Quốc Lộ I, lối về Biên Hòa) thì Xuân Lộc không còn nằm trong tuyến phòng thủ của chúng nữa. Đồng thời ta xử dụng pháo tầm xa 130 ly pháo sân bay Biên Hòa thì địch sẽ bị hạn chế khả năng cho phi cơ xuất kích yểm trợ.” (22)
Trong chiều hướng của kế hoạch nầy, lực lượng cộng sản dần rút đi, nới rộng vòng đai phòng thủ của thị xã. Tướng Đảo lập tức ra lệnh cho các đơn vị chiếm lại những vị trí bị phía cộng sản chiếm giữ, tiếp nhận thực phẩm, quân trang, đạn dược và tải thương. Cũng quả thực ông không biết được sự thay đổi quan trọng về kế hoạch của Trung Ương Cục Miền Nam chỉ đạo từ Hà Nội. Nhưng ông làm được gì hơn với chức vụ tư lệnh một sư đoàn bộ binh trong giờ phút nguy nan nhất của cuộc chiến – mặt nổi của lần xếp lại “một trật tự mới trên toàn thế giới”.
Hai trái bom CBU 55 “Daisy Cutter” nặng 15.000 cân Anh rơi xuống từ lòng chiếc C130 phá toang một vùng rộng lớn trong phòng tuyến của quân cộng sản dọc Quốc Lộ 20 tăng cường thêm sự quyết tâm giữ vững Long Khánh của phía quân Cộng Hòa, nhưng cũng chính là màn khói (bất đắc dĩ phải chấp nhận) giúp cho lần rút đi của bộ đội cộng sản với 235 xác đếm được trên trận địa thêm phần hợp lý. Không một ai trong Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn III ở Biên Hòa, nơi Phòng hành quân Tổng Tham Mưu Sài Gòn có ý niệm địch sẽ siết chặt Biên Hòa-Sài Gòn với hai gọng kềm (hướng Bắc và Đông) bằng cách cắt Quốc Lộ I ở Dầu Giây và Quốc Lộ 15 ở Long Thành qua thay đổi quan niệm chiến thuật theo tình hình thực tế nên bỏ qua Long Khánh nơi họ đã thực sự thất bại – và biến thất bại nầy thành một kế nghi binh.
Kế sách này càng thêm hữu hiệu khi mặt trận được tăng cường thêm hai đơn vị mới, Sư Đoàn 325, tổng trừ bị quân đội Miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3; và Trung Đoàn 95B biệt lập từ đồng bằng Sông Cửu Long kéo lên tăng cường. Tòa Đại Sứ Mỹ phấn khởi trước chiến thắng Long Khánh cố nài Quốc Hội Mỹ chuẩn chi $722 triệu quân viện khẩn cấp cho Việt Nam, nhưng trong phiên họp ngày 17 tháng 4, Ủy Ban Quân Sự Thượng Viện bác bỏ thẳng thừng như câu nói bất cận nhân tình của hai Thượng Nghị Sĩ Jacob Javits và Edmund Muskie trong show truyền hình đại chúng “Face the Nations”: “Cho tiền để lo việc di tản thì bao nhiêu cũng được chứ một xu cho ngân sách quân sự cho Thiệu cũng không có”. (23)
Hai con người nầy trong ngày 15 tháng Ba vừa qua cũng đã “cứu giúp” toàn bộ Dân Tộc Campuchia với giá tiền đúng $82,5 triệu đô-la Mỹ. (23bis).
Đây là quan điểm thống nhất của Thượng lẫn Hạ Viện Mỹ hiện do Dân Chủ nắm đa số mà không thiếu mặt hôm nay với Joe Biden, hai nhiệm kỳ Phó Tổng Thống thời Obama (2008-2016), cũng là ứng viên đảng Dân Chủ sáng giá nhất của trong cuộc bầu cử năm nay 2020.
Chiến trận lắng xuống, các đơn vị cộng sản dần rút đi, chỉ còn pháo kích cầm chừng vào các vị trí phòng thủ. Ngày 20 tháng 4, Tướng Toàn và Đại Tá Thọ, Trưởng Phòng Hành Quân Quân Đoàn III đích thân đến giao cho Tướng Đảo một lệnh mơ hồ như vô cùng kích động: Rời bỏ Xuân Lộc về bảo vệ mặt trận Sài Gòn. Hóa ra quân cộng sản đã hoàn tất kế sách bỏ trống Xuân Lộc từ một tuần trước. Thiếu Tướng Đảo phản đối, nhưng viên tướng tư lệnh khẳng định: Đó là lịnh của ông Thiệu! Thiếu Tướng Lê Minh Đảo chỉ có đúng nửa ngày để hoàn tất một kế hoạch rút quân bao gồm lực lượng một sư đoàn cơ hữu cùng các đơn vị tăng phái và yểm trợ, chưa kể thành phần diện địa của Tiểu Khu Long Khánh. Hành quân rút lui là hình thái hành quân khó nhất – Bởi đã mang sẵn mầm thất bại – Những danh tướng của quân sử thế giới mấy ai thực hiện được kể cả Hốt Tất Liệt, Napoléon, Rommel…
Nhưng như một phép mầu – một mầu nhiệm do trí tuệ và dũng lược kết hợp nên thành, cộng với lòng yêu quý chiến sĩ, đơn vị của một tướng lãnh trên chiến địa. Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đã hoàn tất cuộc lui binh về Bà Rịa, bảo toàn đơn vị, vũ khí, thậm chí đến hai khẩu pháo 175 ly hạng nặng cũng giao lại đủ cho quân đoàn. Cũng một phần, lực lượng giữ phần hậu vệ đoàn di tản là Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Đỉnh chỉ huy. Trung Tá Đỉnh là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 6 Dù – Đơn vị đã giải tỏa An Lộc trong trận đánh ngày 8 tháng 6, 1972 mà đơn vị cộng sản đóng chốt ở Xa Cam, Nam An Lộc chỉ còn đúng một người – Tù binh tên Nguyễn Văn Tiền.
Cũng có một điều cần ghi thêm là Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng, Tư Lệnh Sư Đoàn Dù đã bất chấp lệnh của Tổng tham mưu, vất bỏ mưu đồ “xé lẻ” đơn vị bách thắng này của ông Thiệu (do lo sợ một cuộc đảo chánh), nên đã gởi một đơn vị nhảy dù khác – Tiểu Đoàn 7 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Lô. Lô “lọ rượu” đơn độc đưa quân đi ngược Tỉnh Lộ 2 (từ Bà Rịa – Phước Tuy lên Long Khánh) đón đoàn quân di tản. Lô dẫn quân đi như ánh chớp, và Tiểu Đoàn 7 Dù là đơn vị cuối cùng chặn giặc nơi Cầu Xa Lộ, cửa ngõ chính của Sài Gòn ở hướng Bắc.

IV- Kết Từ

Khi Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, buông súng, Thiếu Tướng Lê Minh Đảo dừng quân trên xa lộ Biên Hòa, nhìn vào hướng Trường Bộ Binh Thủ Đức, Long Thành, Bà Rịa, và xa kia Xuân Lộc, Long Khánh, gần hơn Trung Liệt Đài của Nghĩa Trang Quân Đội, Long Bình… Ông thấy thấp thoáng bức tượng Tiếc Thương (24) tạc hình Người Lính Chờ Đợi in hình trong không gian mờ khói đạn. Người lính cuối cuộc chợt thoáng nhớ những lời thơ ngắn “Vì anh là lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy trăng mới về…”
Những câu thơ của em ông, Trung Tá Lê Hằng Minh – Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến “Trâu Điên”, người lính đã ra đi từ ngày Hè năm 1966 nơi chiến trường Trị Thiên, ở chân Cầu Câu Nhi Phường. Cầu thuộc Phường Câu Nhi, Phong Điền, Thừa Thiên là nơi đâu? Rất nhiều người lính đã ra đi, không trở về từ những vùng đất không mấy ai biết. Hôm ấy, sáng 30 Tháng Tư năm 1975, rất nhiều người lính không còn chốn trở về, trong số có Anh, Người Lính mất Quê Hương – Người Lính Sống – Chết một lần với Miền Nam. Với Việt Nam.

hoangphong
Posts: 413
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by hoangphong »

Người Lính Dù Năm Xưa
Lê Như Đức


......Bộ đồ trận anh mặc trong ngày bỏ nước ra đi từ đáy chiếc rương cũ. Nó được xếp thật ngay ngắn với cái mũ bê rê đỏ đặt lên trên. Anh đã sửa soạn để mặc lại nó trong ngày ra đi lần thứ hai: trở về nước hay từ bỏ kiếp làm người.

Tôi gặp anh là duyên số. Anh gặp tôi là cố tình. Dù duyên phận hay cố ý, tôi vẫn luôn sung sướng khi biết được anh. Cho dù chỉ ở với anh chưa đến hai ngày tôi vẫn nhớ mãi những kỷ niệm thật đậm đà, nhẹ nhàng đến từ anh, từ gia đình anh và cả từ thành phố anh ở, El Paso. Tháng 7 năm 1998, gia đình tôi qua California làm. Công ty chỉ cho gia đình tôi bốn người mướn một cái xe. Khi tôi lái xe đi làm, vợ con tôi bị treo giò, nằm ở nhà ngóng. Nhiều khi cần đi chợ hay đi học, vợ tôi lại phải chở tôi tới sở sáng sớm. Nhìn hai cô con gái còn ngái ngủ phải thức dậy sớm, tôi chịu hết nổi. Một buổi chiều thứ năm, nhân nghỉ lễ cuối năm, tôi phóng ra phi trường, lấy vé bay về Houston rồi một mình lái xe qua lại California.

Đường từ Houston qua tới Huntington Beach dài khoảng 1550 dặm Anh. Tôi tính lái đi tổng cộng hai ngày, rời Houston từ sáng sớm hôm thứ sáu và sẽ tới California vào chiều thứ bẩy. Theo lịch trình thì ngày đầu tiên tôi sẽ lái một nửa, khoảng hơn 750 dặm tới thành phố nằm tận cùng của tiểu bang Texas, El Paso. Tôi sẽ tìm một quán ăn Việt nam, dùng bữa cơm chiều thật xôm tụ để lấy sức rồi kiếm một khách sạn nghỉ qua đêm. Sáng hôm sau thức dậy lúc mặt trời chưa mọc, vừa phóng xe đi vừa ăn sáng thì có lẽ sẽ tới California trước bữa cơm chiều.
Có lẽ đối với dân Mỹ thì bữa cơm chiều là quan trọng nhất. Thường thì người Mỹ ăn trưa trong sở làm. Một miếng bánh mì sandwich kẹp vài ba miếng thịt nguội, một trái táo và lon nước ngọt. Có người bỏ luôn bữa trưa, chỉ ăn bữa sáng thật nhiều rồi nhịn cho tới bữa ăn chiều.
Với dân Việt nam thì ba bữa sáng, trưa, chiều đều quan trọng như nhau. Ngày còn nhỏ, tôi nhớ sáng sáng thường làm một bụng đầy trước khi đi học. Lúc thì cơm tấm, khi lại bánh xèo, nào bánh tầm bì, nào bánh cuốn rồi bánh mì thịt nguội. Trưa đi học về, cả nhà quay quần chung quanh bàn ăn với đầy đủ các món trước khi làm một giấc ngủ trưa dài. Chiều, trời chưa tối gia đình chúng tôi lại quay quần chung quanh bàn ăn một lần nữa. Thỉnh thoảng ngủ trưa dậy tôi lại ra đầu xóm làm một tô bánh canh giò heo nóng hổi. Tối khuya, có lúc bố tôi kêu đói, anh em chúng tôi lại lục đục lên xe đi tới quán mì. Không mì xào cây dừa thì cũng mì xào cây me. Cây nào anh em chúng tôi cũng xơi. Tính tới tính lui, tôi nhớ có ngày ăn đến năm lần. Anh em chúng tôi vẫn không mập.

Qua đến Mỹ, ngày ngày phải đi làm tám tiếng, nên buổi trưa đối với tôi giấc ngủ quan trọng hơn miếng ăn. Do vậy bữa ăn chiều phải thật thịnh soạn, phải đầy đủ chất bổ dưỡng. Với bữa sáng, nhiều khi ly cà phê cần thiết hơn miếng bánh mì. Tuy nhiên phải có một chút xíu vô bụng thì mồm miệng mới thơm tho, ăn nói mới thông. Ngày còn nhỏ, bố tôi thường dạy anh em chúng tôi sáng phải có chút gì vô bụng để bịt cái hơi hôi, thông từ ruột đi lên. Cho dù mình có đánh răng, nạo lưỡi hay xúc nước thơm cách mấy, không có chút gì vô bụng, mở miệng nói vẫn nặng mùi. Mùi hôi xông từ bao tử, từ ruột non, ruột già đi lên không thuốc thơm nào trị được. Chỉ cần một miếng bánh donut nho nhỏ hay nửa củ khoai lang đóng cái cửa thông hơi, hơi miệng bảo đảm sẽ không bay mùi. Cà phê chỉ để tỉnh ngủ chứ không chữa được hết mùi. Do đó tôi thường chỉ ăn một chút xíu vào buổi sáng sớm để ăn nói cho ngọt ngào chứ chẳng phải cho no. Bữa ăn trưa thường lè phè, có ít ăn ít, có nhiều ăn cũng ít để lẹ cho giấc ngủ trưa. Tất cả tôi đều tập trung vào bữa ăn chiều. Tôi phải tới El Paso và California trước bẩy giờ tối để sửa soạn cho bữa cơm chiều.
image3.jpeg
Tôi tới El Paso sớm hơn dự tính, trước sáu giờ chiều. Kiếm được một khách sạn thuận tiện nằm cạnh quốc lộ số 10. Quốc lộ số 10 có lẽ tất cả dân của mọi tiểu bang phía nam nước Mỹ ít nhiều cũng phải một lần đi qua. Nó chạy từ tiểu bang Florida qua tới California. Nối Thái Bình Dương với Đại Tây Dương. Cái khách sạn be bé xinh xinh, chỉ có khoảng năm chục phòng là cùng. Tôi thích chọn khách sạn nhỏ với một tầng trệt để đậu xe ngay trước cửa phòng, khỏi mất công khiêng đồ lên xuống. Đi với vợ con thì tôi phải chọn khách sạn lớn, đầy đủ tiện nghi vì con tôi thích cầu thang máy và vì vợ tôi sợ không được an toàn.

Vừa lấy được phòng ngủ là tôi vội tìm cuốn sách niêm giám điện thoại. Hầu như ngày nay bất cứ cuốn sách niêm giám điện thoại của mọi thành phố trên đất Mỹ đều có họ Nguyễn và bất cứ người Việt Nam tỵ nạn Cộng sản cũng đều có họ hàng sống ở Cali. Lựa một tên thật bình thường tôi bấm số hỏi địa chỉ nhà hàng Việt Nam. Đầu dây bên kia, giọng người đàn bà trả lời ngắn một tiếng Hello. Tôi lên tiếng:
- Xin lỗi có phải nhà Việt Nam không ạ?
Người đàn bà ngập ngừng giây lát rồi bập bẹ trả lời tôi:
- Ông... đợi... chút...chút.
Khoảng hai phút sau, giọng người đàn ông vang trong điện thoại:
- A-lô, ai đó?
Tôi lập lại câu hỏi cũ:
- Xin lỗi có phải nhà Việt Nam không ạ?
- Đúng vậy. Anh tìm ai?
Tôi vội giải thích:
- Thưa anh, em lái xe từ Houston qua Cali, giữa đường ngừng nghỉ ở El Paso tối nay. Em muốn tìm một quán ăn Việt Nam. Em coi trong cuốn điện thoại thấy tên anh nên gọi hỏi đường. Anh có thể chỉ giúp em quán ăn Việt ở vùng này?
Người đàn ông cười trả lời:
- Vùng này có vài quán nhưng họ lại nấu lai theo kiểu Mễ để câu khách Mỹ, khách Mễ. Chú ăn không được như ở Houston hay Cali đâu. Có một tiệm tạm tạm được nhưng đường đi lại hơi khó, tiệm lại không có bảng hiệu rõ ràng. Chú hiện giờ đang ở đâu?
Tôi nói tên khách sạn của tôi đang mướn. Người đàn ông tiếp:
- Anh biết chỗ chú ở rồi. Cũng gần nhà anh thôi. Chú đợi khoảng mười lăm phút anh tới dẫn chú đi.

Tôi chưa kịp trả lời chỉ nhờ anh chỉ đường để khỏi làm phiền thì anh đã nhanh cúp điện thoại. Nằm dài trên cái giường to nhìn lên trần nhà, tôi nghĩ vớ vẩn đến người đàn ông kỳ lạ này. Mình chỉ hỏi đường, anh đòi tới dẫn mình đi. Chưa kịp nói số phòng, anh đã cúp phôn. Hình như anh đã biết tôi là ai và sẽ phải làm gì. Tôi bước vào phòng tắm xả nước nằm ngâm mình cho bớt cơn mệt nhọc sau hơn mười tiếng đồng hồ lái xe mà lòng vẫn băn khoăn nghĩ tới người đàn ông lạ kỳ này.
Chưa đầy mười lăm phút, điện thoại phòng tôi reo vang. Tôi nghe giọng anh vang rền trong máy:
- Chú ra văn phòng chính của Hotel. Anh đang đợi chú ở ngoài này đây.
Vẫn vội vã như lúc trước, tôi chưa kịp trả lời, anh đã cúp điện thoại. Tôi khóa trái cửa phòng, lững thững đi ra văn phòng của khách sạn tôi đang mướn. Ngay chỗ quầy làm giấy tờ cho mướn phòng, một người đàn ông Việt Nam tuổi dễ quá năm mươi, người to lớn, đang đứng phân trần với nhân viên của khách sạn. Tôi bước lại gần thấy họ nói với nhau bằng tiếng... Mễ. Người đàn ông Việt Nam bỗng nhiên ngưng nói, quay qua nhìn tôi như ra lệnh:
- Chú đưa credit card cho nó đi. Nó bằng lòng hoàn lại tiền phòng cho chú rồi. Nhà anh dư phòng, chú tới ở đêm nay, đỡ được hơn sáu chục bạc.
Tôi ú ớ chưa biết trả lời ra sao, thì anh lại tiếp:
- Chú mới mướn phòng chưa được nửa tiếng đồng hồ nên có quyền lấy lại hết tiền.

Anh nhìn cái đầu ướt của tôi rồi cười hì hì:
- Theo luật thì chú không được tắm đâu. Nhưng anh nói với tên ngố này chú chưa đụng gì đến đồ trong phòng. Ngay cả cái thùng rác. Lẹ lẹ lên không nó đổi ý, lại mất công giải thích. Mình phải đánh thật mau, rút thật lẹ mới được.
Tôi ngập ngừng:
- Anh đừng lo. Tiền khách sạn, công ty của em sẽ hoàn lại. Ngay cả tiền ăn dọc đường nữa. Em chỉ cần tìm tiệm Việt Nam để ăn tối nay.
Anh lắc đầu, quơ tay liên tục:
- Có trả cũng về nhà anh ở. Vừa rộng rãi, thoải mái, vừa an toàn đóng quân hơn nơi đây nhiều. Chú nghe anh nói, đưa credit card cho nó đi.
Thấy anh hối mấy lần, tôi phải đưa thẻ tín dụng của tôi cho người nhân viên khách sạn. Hình như anh ta cũng không muốn cãi lộn bằng tiếng Mễ với người Việt nữa nên nhận lấy thẻ nhanh nhẹn quẹt vào máy, trả tiền lại cho tôi trong tích tắc. Khi người nhân viên khách sạn đưa tờ biên nhận hoàn lại tiền cho tôi, anh cẩn thận nhắc nhở:
- Chú coi cho kỹ đó. Lộn tới Cali gọi kiện nó không chịu trả đâu. Có lấy lại được thì cũng tốn gần hết tiền cho điện thoại long distance. Đừng để địch nắm đằng chuôi.
Anh theo tôi về lại phòng ngủ để dọn đồ đạc ra xe. Vừa đi anh vừa tự giới thiệu mình:
- Anh ở đây dễ cũng tới hai chục năm hơn. Ngày xưa lúc mới qua cũng trấn ở Cali một thời gian. Rồi không thích ồn ào bay về đây ở ẩn. Án binh bất động.
Tôi cười tiếp lời anh:
- Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người xuống phố Bô-sa.
Anh cười lớn lặp lại câu thơ... thẩn của tôi rồi bỗng thấp giọng:
- Đây đàn bà Mễ nhiều lắm, lại chịu đàn ông Việt mình nên không phải là nơi vắng vẻ đâu. Chú nhớ đấy, đàn bà Mễ hành quân còn mạnh hơn cả cánh ta ở Cali nhiều.

Tôi khuân đồ ra xe rồi lái theo anh về nhà. Nhà anh cách cái khách sạn tôi mướn chỉ khoảng năm dặm Anh thôi, nhưng trời đã xẩm tối nên anh lái thật chậm sợ tôi theo không kịp. Khi tôi tới được nhà anh thì đường phố đã lên đèn, nhà nhà đều đèn đuốc sáng trưng. Trước cửa nhà, một người đàn bà và hai đứa con trai vội mở cửa ra đứng đón khi nghe tiếng còi xe anh bấm lúc chúng tôi đậu xe vào bãi đậu xe của nhà.
Căn nhà anh vừa vặn, xinh xắn sơn mầu xanh nhạt. Vườn trước rộng mênh mông với bãi cỏ lớn, hợp đúng tiêu chuẩn của tiểu bang Texas. Một cây cổ thụ lâu đời mọc giữa bãi cỏ như che phủ lấy căn nhà. Thân cây cắm hai lá cờ: cờ Việt Nam Cộng Hòa và cờ Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Trước cửa vào nhà là một dãy hàng hiên dài với cái ghế xích đu treo lủng lẳng và vài ba cái ghế nhựa mầu xanh lá cây đậm để ngổn ngang gần cửa ra vào.

Anh mở cửa xe bước xuống, hai đứa bé chạc mười tuổi chạy vội ra ôm anh. Chúng nhìn tôi lễ phép khoanh tay chào. Giọng Việt nghe rõ ràng. Người đàn bà đứng yên nơi cửa chào đón. Từ xa tôi cũng đã nhận đoán chị không phải người Việt Nam qua vóc dáng cao lớn của chị. Nếu mang giầy hơi cao gót, tôi chắc chắn chị sẽ cao hơn anh. Mái tóc hơi ngả mầu vàng, chị trông lối bốn mươi hơn.
Thường thường, người đàn bà Mễ không giữ được thân hình thon gọn sau khi lấy chồng sinh con. Có lẽ vì dân Mễ thích ăn đậu, ưa ngồi nhiều nên dễ phì. Người đàn bà Mễ đang đứng trước mặt tôi là một ngoại lệ. Dáng chị cao lớn nhưng không xồ xề, thân người to nhưng không thô, tay chân dài nhưng không thừa thãi. Chị nhìn tôi mỉm cười nhẹ, nói bập bẹ vài ba câu xã giao tiếng Việt:
- Mời anh vô nhà. Mời anh nghỉ. Anh đi xe có mệt không?

Tôi có bạn gốc Mễ, được dạy nói vài câu xã giao vớ vẩn, nên trả lời câu hỏi của chị bằng tiếng Mễ. Anh và chị đều cười to khi thấy tôi pha trò. Hai đứa bé không hiểu mấy nên ngẩn mặt tò te. Có lẽ anh ít bạn tới nhà chơi nên chúng có vẻ không được tự nhiên với tôi nhiều. Riêng anh và chị thì thoải mái hơn. Anh vừa kéo lê cái va-li hành lý của tôi vào nhà vừa chỉ chị và hai đứa con giới thiệu tên:
- Đây là Silvia. Tụi nhỏ tên An và Lộc. Chú đóng quân ở đây rộng rãi không sướng sao. Tội chi ẩn vào cái Hotel đó. Anh nói chú nghe. Nhân tiện chú đi ngang qua đây, ở chơi với anh mấy ngày rồi hãy về Cali.
Tôi cười thoái thác ngay:
- Anh cho em ở một đêm thôi. Mai phải lên đường. Em có nhiều chuyện lắm. Sáng thứ hai đi làm sớm, không ở lâu được đâu. Khi lái xe về lại Houston, có nhiều giờ hơn em sẽ ở lâu hơn.
Anh lắc đầu liên tục:
- Mấy khi có dịp. Chú đừng dùng kế hoãn binh. Mai thứ bẩy chú ở lại đây một ngày. Sáng sớm chủ nhật lái xe đi sớm, tới Cali vào lúc xế chiều. Sáng thứ hai dậy đi làm lại. Anh tính chú thấy sao?
Tôi vẫn lắc đầu từ chối:
- Mệt lắm anh ạ. Em muốn tới sớm, có một ngày nghỉ cho khoẻ.
- Thanh niên như chú thì đánh đấm Việt cộng sao nổi. Tới Cali chỉ cần ngủ một đêm thôi là mai có thể đi làm được rồi. Ngày xưa đi đánh giặc, chúng tôi chỉ ước được vài tiếng nghỉ mà chả có. Nhiều khi thức trắng đêm đến sáng thức tiếp. Ngủ nhiều là có thể... ngủ luôn.

Thấy anh có lòng, tôi im lặng chấp nhận. Tính tôi dễ dãi. Ngày xưa, lúc mợ tôi còn sống thường nói tôi là con cừu, muốn sao cũng được, không thích làm trái ý ai.
Trong nhà anh đồ đạc bầy đơn sơ, không kiểu cách mấy. Phòng khách nhỏ với bộ ghế xa lông có lẽ trên chục năm hơn đã ngã mầu xanh lá cây đậm thành lạt. Cái vô tuyến truyền hình đặt góc phòng cũng kiểu xa xưa với hai cây ăn-ten cao lêu nghêu để trên nóc. Dàn máy nhạc cũ kỹ để cạnh với cái giá nhỏ đựng dĩa và băng nhạc. Phía trong là nhà bếp bốc khói nghi ngút. Tôi ngửi được mùi bún riêu thoang thoảng cộng lẫn mùi nồng nồng của mắm tôm. Phía trái của phòng khách là phòng ăn với cái bàn gỗ mầu vàng nhạt và sáu cái ghế đặt chung quanh. Hai đứa bé lo phụ mẹ bầy chén đũa lên bàn. Người đàn bà Mễ đương hý hoáy nấu đồ ăn Việt Nam trong bếp. Anh nhìn tôi quảng cáo:
- Hôm nay anh cho chú thưởng thức món bún riêu nổi tiếng của vùng này. Đặc sản thuần túy của dân Việt Nam do đầu bếp... ngoại quốc nấu. Chả có tiệm nào ở đây nấu đồ ăn Việt Nam bằng Silvia đâu. Khỏi phải đi đâu kiếm tiệm chi cho mất công. Nhà này là tiệm ăn số một của vùng El Paso.

Trong cuộc đời, tôi may mắn sống nhiều nơi, đi nhiều chỗ và cũng được ăn nhiều món lạ. Có thể nói tôi rất hài lòng khi có được một cuộc sống đa dạng và trôi nổi. Tôi đã từng sống trong tù vượt biên, lúc lang thang ngủ trên nóc xe lửa cả tháng trời, khi lại nằm trong khách sạn thật sang trọng, mắc tiền, tuần lễ hơn. Từng phá rừng Long Khánh, đốn cây trên đảo tỵ nạn Mã Lai, rồi một ngày lại được ngồi họp trong những phòng ốc tối tân nhất của thế giới. Có lúc khổ cực phải bươi khoai mì ăn sống, nhiều khi tôm hùm, đồ biển lại ngập bàn. Đi nhiều, thấy nhiều, nhưng có lẽ hình ảnh người đàn bà Mễ có chồng Việt Nam đứng trong bếp nêm nước mắm vô nồi bún riêu là một thích thú đặc biệt nhất trong cuộc sống lưu vong của tôi. Nó vừa là hình ảnh của một sự buồn bã chia cắt sống lưu lạc nơi xứ người phải lấy vợ ngoại quốc, vừa lại là một sự kết hợp hạnh phúc giữa các sắc dân nơi vùng đất tạm dung. Nó là sự chấp nhận thay đổi với cuộc sống mới nhưng lại không quên được quê hương qua những mùi vị của chai nước mắm, của lọ mắm tôm. Silvia sẽ mãi mãi không nấu bún riêu ngon bằng chị tôi hay vợ tôi nấu. Nhưng chiều hôm đó tôi đã có được một bữa ăn đầy hương vị của đất nước tôi. Tô bún của tôi có cả rau muống chẻ, có tía tô, kinh giới, có hành phi cháy dòn, và có đậu hũ chiên chấm nước mắm nguyên chất hiệu một con cua. Tôi còn nhớ mãi lời anh dặn:
- Nước mắm phải là đúng hiệu một con cua, tuy hơi đắt nhưng ăn mới đúng điệu. Ba con cua rẻ hơn nhưng không đậm đà bằng. Nước mắm mực chỉ dùng để nêm vô nồi nước lèo chứ không thể chấm ăn được. Chú nhớ đấy.

Buổi tối mùa đông trời El paso chuyển lạnh xuống thật mau. Anh và tôi bước ra ngoài hàng hiên trước nhà ngồi ghế xích đu, uống cà phê phin, ngắm trời xứ người. Hai lá cờ, Mỹ và Việt, gió lộng thổi tung bay phần phật trước mặt chúng tôi. Hình như tối nào sau bữa cơm chiều anh cũng đều ra đây ngồi ngắm chúng. Đã hơn hai mươi năm sau ngày nước mất, hình ảnh cuộc chiến vẫn chưa phai nhòa trong anh.
Ngồi càng lâu sương khuya xuống càng đậm, anh càng ít nói. Giọng anh lạc hẳn khi hỏi tôi hay tự hỏi chính mình:
- Tại sao một quân đội hùng mạnh, thiện chiến vào bậc nhất của thế giới lại vất súng đầu hàng một lũ người ngu dốt, người không ra người, ngợm chả ra ngợm. Không bắn được một viên đạn mà phải bỏ chạy. Cho đến giờ nghĩ lại anh cũng không thể tưởng tượng nổi ngày đó lại đến quá mau như vậy.
Tôi chưa nghĩ được câu trả lời thì anh lại lẩm bẩm tiếp:
- Nếu nói Mỹ cố tình sắp đặt thì tại sao những tướng lãnh, chỉ huy của mình lại nghe họ bỏ súng đầu hàng. Mình vẫn còn dự trữ đạn dược dùng cả năm trời cũng chưa hết mà.
Đêm càng khuya càng lạnh. Anh vẫn ngồi yên lặng trên cái ghế xích đu, trầm tư nhìn hai lá cờ nghĩ về cuộc chiến năm xưa. Anh đã ngồi như vậy mỗi buổi tối suốt hơn hai mươi năm qua.

Cuộc chiến đã kết thúc, nhưng nó vẫn hằn in đậm trong tâm hồn của kẻ tới chiếm lẫn người ra đi. Ai ai cũng thấy cái thất bại của phe mình, cái giá phải trả cho cuộc tương tàn. Đoàn quân chiến thắng kéo từ rừng rú về thấy được sự phồn thịnh, tự do của những người bỏ cuộc. Kẻ mệnh danh đi giải phóng người trông thật ngu ngơ, tồi tàn hơn người được giải phóng. Người vất súng bỏ chạy uất ức thua vì sự ngu dốt của quân đội Bắc phương, sự lừa bịp của đám lãnh tụ về một chủ nghĩa không tưởng. Cả hai bên, thắng và thua, cũng đều thua đậm trong cuộc chiến. Người lính bên tôi ngày ngày ngồi ôm đầu trách mình sao bỏ súng quá nhanh. Người lính bên kia, xưa lấy thân lấp lỗ châu mai, chống Mỹ cứu quốc nay đứng ngẩn ngơ nhìn các lãnh tụ, mà một thời mình sùng bái hèn hạ, dâng không đất cho đàn anh kết nghĩa ruột thịt. Thật thương cho sự hy sinh của người thua và tội nghiệp cho sự ngu dốt của kẻ chiến thắng.
Tôi chậm rãi bâng khuâng trả lời câu hỏi của anh:
- Có thể chúng ta thua vì bọn chúng quá... ngu chăng!

Sau ngày nước mất, tôi có được nghe một câu chuyện thật khôi hài, đầy mỉa mai về một cán bộ cấp tá vào miền Nam thăm người em trai của mình. Ông mang chức vụ trung tá chỉ huy cả một sư đoàn sao đỏ tới thăm em chỉ là một công chức quèn của chế độ cũ với chiếc túi xách nặng chĩu trên vai. Vì lịch sự, gia đình người em không hỏi gì về cái túi cả. Một tuần sau, chả thấy người anh nhắc gì đến nó, vợ người em thắc mắc nhờ chồng hỏi vì sợ bác có đồ dơ áy náy không dám nhờ giặt dùm. Người anh đỏ mặt ấp úng chối quanh. Người em vội mở túi xách ra thấy toàn giấy báo cũ xếp thật gọn gàng. Người anh đành thú thật:
- Nghe chúng tuyên truyền trong nam Mỹ, Thiệu rất ác, người dân khổ sở thiếu thốn mọi thứ. Ngay cả giấy đi cầu cũng không cho, bắt phải chùi bằng lá chuối nên đít ai cũng lở không ngồi được. Mỗi ngày tôi lấy báo cũ trong sư đoàn tích lại, tính vào đây cho gia đình chú. Vào đến đây thấy nhà cửa của chú tôi mới biết mình cũng bị tên chính ủy sư đoàn lừa luôn.
Một vị sĩ quan mang cấp bậc trung tá mà còn ngây thơ và đần độn đến nỗi bị lừa phỉnh một cách ấu trĩ như vậy thì thử hỏi tại sao không có cả một quân đội chục triệu quân ngu dốt cứ đâm đầu sinh Bắc tử Nam cho vài tên ác độc, bịp bợm ngồi hưởng lộc tại Bắc bộ phủ.

Nghe xong câu chuyện của tôi, anh gật đầu đồng ý:
- Cũng có thể lắm. Chúng ta thua vì chúng quá ngu. Ngu không tưởng được nên mới nghe lời dụ dỗ thật nhảm nhí như vậy. Càng ngày càng đói nhe răng mà lúc nào cũng mơ sống trong thiên đường cộng sản, đồ ăn vất đầy đường không ai thèm lượm. Thật là... ngu. Nhưng mà nếu nói mình thua vì chúng quá ngu thì ai mà tin được.

Buổi sáng tôi thức giấc trễ hơn mọi ngày vì El paso trễ hơn California một múi giờ đồng hồ. Cả gia đình anh thức giấc từ lâu. Họ đã dùng xong bữa ăn sáng và đang ở vườn sau tưới cây, nhặt cỏ. Hơn một phần ba vườn, anh làm nhà kính bao chung quanh để trồng rau miền nhiệt đới. Tôi trông thấy được cả những cọng rau muống thật to và dài. Anh chỉ tôi, hãnh diện khoe:
- Chú thấy đấy. Mùa nào gia đình anh cũng có đầy đủ các loại rau. Chỉ cần chịu khó một tí là tha hồ có rau tươi ăn quanh năm. Còn các bà thì càng dễ hơn. Cứ huấn luyện vài lần thì Mỹ, Mễ gì cũng nấu được bún ốc, quấn được chả giò ngay. Nếu biết cách chỉ huy là xong thôi.
Trưa hôm đó tôi được ăn bánh xèo, quấn rau cải đắng chấm nước mắm pha nhạt. Anh còn bẻ cho tôi vài ba quả ớt tươi trồng trong nhà kính của anh. Buổi chiều xuống chúng tôi lại ra ngồi trước cửa ngắm trời và nghe anh kể chuyện chinh chiến năm xưa. Chúng tôi lại kết thúc câu chuyện bằng câu hỏi của ngày hôm qua:
- Tại sao một quân đội hùng mạnh, thiện chiến vào bậc nhất của thế giới lại vất súng đầu hàng quá nhanh?
image4.png
Trước khi đi ngủ anh còn cẩn thận lôi ra cho tôi coi bộ đồ trận anh mặc trong ngày bỏ nước ra đi từ đáy chiếc rương cũ. Nó được xếp thật ngay ngắn với cái mũ bê rê đỏ đặt lên trên. Anh đã sửa soạn để mặc lại nó trong ngày ra đi lần thứ hai: trở về nước hay từ bỏ kiếp làm người. Không một bộ đồ nào khác anh muốn mặc. Một ngày khoác bộ quân phục làm người lính Việt Nam Cộng Hòa, một đời chỉ muốn chết cho tổ quốc, cho quê hương. Tôi sờ nhẹ lên mép của cái áo như thấy được cả một cuộc chiến trôi nhanh qua. Mùi thuốc súng và mùi mồ hôi thoang thoảng đâu đây. Tôi nhìn anh, thương thật nhiều cho người lính của nước tôi năm xưa.

Sáng hôm sau, ngày chủ nhật, tôi dậy sớm để sửa soạn cho nửa cuộc hành trình còn lại. Gia đình anh cũng vẫn dậy sớm hơn tôi. Anh giúp tôi mang hành lý ra xe. Hai đứa bé ôm chân mẹ đứng trước cửa nhà nhìn ra im lặng. Anh đứng cạnh cửa xe tôi bùi ngùi chúc:
- Chú đi đường bình an.
Tôi gật đầu đáp lại lời anh:
- Anh, chị và hai cháu khoẻ luôn.
Anh nhìn tôi một lúc bỗng dưng mỉm cười hỏi tôi câu cuối:
- Chú còn thắc mắc gì về anh cứ việc hỏi, không đi đường suy nghĩ vớ vẩn dễ đụng xe. Con người của chú mang nhiều tình cảm, hay suy nghĩ.
Tôi ngần ngừ giây lát, không nhìn anh, ấp úng hỏi:
- Một điều em không hiểu. Người như anh, tại sao có người lại... chê, bỏ... anh đi.
Anh im lặng nhìn về hướng trước như ôn lại quá khứ rồi chậm rãi trả lời:
- Những ngày mới qua còn thiếu thốn khổ cực. Lại thêm cái buồn mất nước, cái nhục thua trận. Nhiều khi anh nóng nẩy, có lời lẽ không được nhẹ nhàng. Lỗi do anh cả.

Lời anh ngắn, nhưng tôi thấy được cả nỗi khổ dài bao năm của người lính nước tôi đã trải qua: nước mất đến nhà tan. Tinh thần lẫn thể xác đều tổn thương. Anh trầm tư thêm giây lát rồi bỗng vỗ mạnh vào thành xe tôi nói to:
- Chú đi không trễ. Khi nào muốn trốn đời, về lại El Paso tìm anh.
Tôi từ từ lái xe ra khỏi sân. Ngoái lại nhìn mọi người lần cuối như muốn thu tất cả hình ảnh vào trong lòng. Xe tôi đi xa vẫn thấy anh đứng yên đấy. Nhìn qua cái kính chiếu hậu hông xe, tôi thấy được cả cái ghế xích đu mà chiều chiều anh ngồi vò đầu nhìn hai lá cờ để tìm câu giải đáp về một cuộc chiến đã tham gia. Hai lá cờ vẫn lộng gió tung bay như thách thức câu trả lời. Hai đứa bé vẫn ôm chân mẹ đứng nhìn hiện lờ mờ trên kính sau anh. Tên của chúng gợi tôi nhớ đến hai câu thơ nói về một địa danh đẫm máu và một binh chủng bách thắng mà năm xưa, một lần đã được ghi vào quân sử.

An Lộc địa sử lưu chiến tích,
Biệt Kích Dù vị quốc vong thân.

LÊ NHƯ ĐỨC

nhuvan
Posts: 373
Joined: Sun Mar 27, 2016 8:29 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nhuvan »

Bến cũ chiều Xuân
Trần Bạch Thu
28 tháng 5, 2022

Image
Một trại “học tập cải tạo” sau 1975 ở Tây Ninh; Tháng Sáu 1976 (ảnh: Sovfoto/Universal Images Group via Getty Images)

Ga Phủ Lý chiều 28 Tết, một đoàn người ăn mặc lếch thếch, áo quần vá chằng vá đụp, tay xách túi nhỏ đựng lon, hũ nhựa lỉnh ca lỉnh kỉnh từng cặp một, mang chung còng tay mỗi bên trái, phải. Bên kia đường, dân chúng hiếu kỳ với dáng vẻ e dè sợ sệt, đưa mắt nhìn tò mò về phía đám đông hơn hai trăm người đang ngồi duỗi chân dựa trên vạt đất thấp dọc theo dốc đường ray xe lửa. Mặt trời đỏ thẫm đang dần tắt sau dãy núi Ba Sao gồ ghề đen như mực. Chúng tôi đang chờ tàu xuôi Nam.

Lúc xếp hàng chuẩn bị lên xe tải để ra ga, một anh bạn chen tới gần nói nhỏ với tôi vì anh thuận tay trái nên muốn được còng tay phải với tôi. Ừ thì tôi thuận tay phải nên đồng ý ngay. Anh là sĩ quan trẻ, cấp bậc Thiếu tá, nguyên Tiểu đoàn trưởng thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh, đóng quân ở Định Tường. Tôi quen anh hồi mới chuyển về trại Hà Nam Ninh được mấy tháng, trước khi xếp thành tổ đội để chuẩn bị về Nam.

Trước đây, các trại cải tạo thường được phân chia ra làm hai loại dành riêng cho quân nhân và công chức ở những địa điểm khác nhau trong miền Nam cũng như sau nầy ra miền Thượng du Bắc Việt. Mãi cho đến khi Trung cộng tiến đánh các tỉnh sát biên giới phía Bắc, các trại cải tạo được di dời về một số tỉnh miền Trung du, mạn phía Tây Bắc Hà Nội và các thành phần cải tạo bấy giờ mới được sáp nhập lại với nhau và không còn phân biệt dân hay quân nữa. Từ đó các trại đa phần là quân nhân đủ mọi cấp bậc, trừ cấp Tướng và Đại tá được xếp ở riêng, còn tất cả đều được đưa vào các tổ đội lẫn lộn với thành phần dân sự.


Suốt gần năm năm trời bị giam giữ, từ trại cải tạo Long Thành, Đồng Nai cho đến khi ra tận ngoài Phú Sơn, Bắc Thái tôi luôn được xếp vào tổ đội thuộc thành phần dân sự chế độ cũ. Nay sinh hoạt chung với thành phần quân đội có rất nhiều điều khác biệt, vui vẻ và năng động hơn. Tính gan dạ và mưu trí của họ đã giúp “mưu sinh thoát hiểm” cho rất nhiều người đồng cảnh tù.

Trong suốt mấy ngày trên xe lửa tôi mới biết gia cảnh hiện nay của anh, vợ gởi quà thăm nuôi được mấy lần khi còn ở trại cải tạo trong Nam, rồi sau đó biệt tăm luôn cho đến khi ra miền Bắc, họa hoằn lắm anh mới nhận được một ít quà do mẹ anh gởi ra theo những người quen đi thăm nuôi chồng ở cùng trại. Nhà quê nghèo, còn nuôi thêm bốn đứa con nhỏ của anh nữa thì làm sao đủ sức mà đi thăm nuôi.

Anh lặng lẽ cam chịu thân phận người “tù mồ côi.” Dù khó khăn đến mấy cũng phải sống, anh rất giỏi cải thiện rau dại và thường khi còn mò bắt được nhiều con “rạm” (cua nhỏ to bằng ngón chân cái), đồng thời ngày nào anh cũng giấu được một ít củi khô, chẻ nhỏ quấn trong người, qua mặt được cán bộ gác cổng để đem vào trại. Người có gạo, bột ngọt hay tôm khô, anh có củi, rau, cua cá và công nấu nướng cùng nhau chia sẻ qua ngày.

Cho đến khi gia đình được phép thăm nuôi sau năm năm trời chịu đựng với đói rét và bệnh tật, tình hình cải tạo mới bắt đầu đỡ khổ. Nhờ thăm nuôi mà số người chết giảm dần. Dân chúng sinh sống quanh các trại cải tạo bắt đầu cảm thông và hiểu biết nhiều hơn về thành phần tù nhân chế độ cũ nên một số lén lút quan hệ với tù nhân để “mua bán đổi chác” đủ thứ, thông thường là cung cấp thực phẩm, thuốc men để đổi lấy quần áo, đồ dùng, dĩ nhiên là mấy tù nhân “đại lý” cũng phải biết điều với cán bộ.

Về phần anh em tổ đội trưởng, trừ một số ít bản tính ác tâm, không lương thiện, còn lại đa phần đều ra sức giúp đỡ nhau để cùng sống sót mà chờ ngày về. Tôi còn nhớ hồi ở trại Mễ (Nam Hà) có một anh Nhà trưởng nguyên là Trung tá Công binh, sau khi kiểm tra nhân số để báo cáo nhập buồng giam, cán bộ ra lệnh nhắc nhở anh kiểm soát nội qui, giữ gìn yên lặng, không được tụ tập ồn ào hay nấu nướng linh tinh. Anh gật đầu.

– Thưa vâng.

Nhưng khi cán bộ đóng cửa buồng giam và áng chừng đã đi xa, anh quay ra đầu nhà, hướng về phía anh em nói vừa đủ nghe:

– Tự do.

Thế là cả buồng mọi người cười che miệng, lục đục lên lò tự chế bằng lon Guigoz cắt đôi, đốt củi nhỏ, có khi đốt bằng nhựa ni-lông nấu cà phê, trà lá với nhau. Ra lao động hay ở buồng giam, cán bộ nói gì anh cũng nghe, bảo gì anh cũng xin vâng, đôi khi trước mặt cán bộ anh còn quơ tay nói lớn bảo anh em cố gắng làm cho xong, nhưng khi cán bộ đi rồi thì đâu cũng vào đấy, lao động cầm hơi. Cải tạo lâu dài mà. Ít lâu sau, khi tôi đã chuyển trại vào Nam, nghe anh em nói lại rằng anh đã chết ở trong trại giam nào đó ngoài miền Bắc.

Khi xe lửa từ ga Phủ Lý lần lượt qua khỏi ga Thanh Hóa… đến Đồng Hới, anh em vui mừng vô hạn vì biết chắc rằng mình đang trên đường xuôi về miền Nam thân yêu. Tới nhà ga Quảng Trị, Huế, anh em cầm tay nhau mà ứa nước mắt. Nhớ hồi di tản Tháng Ba năm 1975, càng đi xa vào trong Nam bao nhiêu càng an toàn bấy nhiêu. Mọi người chạy bán sống bán chết bằng đủ mọi phưong tiện để về tới Sài Gòn, nhưng than ôi… vận nước đã đến hồi mạt vận. Chỉ chạy thôi mà thua trắng tay. Giờ tâm trạng cũng giống y như vậy, mong được tới ga Bình Triệu, nhưng khi xe lửa vừa qua Tháp Chàm một đỗi thì dừng hẳn lại. Chúng tôi xuống ga Thuận Hải và được xe tải đưa về trại Z30 (Hàm Tân).

Trời nắng nóng, mồ hôi nhễ nhại, anh em muốn cởi bỏ những bộ quần áo chống rét ngoài miền Bắc mà không được… vì tay còn bị còng. Gió thổi thốc tung bụi mù. Bước xuống xe chao đảo mà ai nấy cũng cố gắng nhìn quanh, lòng vui mừng khôn tả. Sự sống tưởng chừng như đang được hồi sinh. Rừng xanh bạt ngàn, đất đai, hoa màu bát ngát…

Anh và tôi được xếp chung vào đội lao động nông nghiệp, làm rẫy trồng khoai, bắp. Về đến Hàm Tân ăn uống được cải thiện rất nhiều. Nhớ hôm sáng đầu tiên mới tới trại, trực cơm mang về một thau khoai mì tươi nấu chín, anh em rất đỗi ngạc nhiên vì suốt mấy năm ở ngoài Bắc, hai bữa ăn chính chỉ có khoai mì lát, phơi khô mốc xanh hoặc bo bo còn nguyên vỏ, chứ làm gì có cái khác mà ăn sáng. Đã thế, tương đối gần nhà, non một ngày đường nên gia đình đi thăm nuôi thường xuyên, mỗi tháng một lần và tù nhân được tiếp tế thực phẩm rất dồi dào. Tù nhân được đăng ký tiền mặt nên thứ gì cũng có, miễn là có tiền.

Lao động có kết quả, ngoài phần thu hoạch cho trại, mấy anh em giỏi và có sức được canh tác riêng trên những vạt đất ven đường ra rẫy trại để cải thiện như bầu, bí, mướp, cải xanh… Anh bạn thuận tay trái chung còng với tôi hôm về Nam nay đã trở thành “người hùng” ngang dọc, trồng trọt cải thiện tứ phía. Anh chọn vạt đất gần suối để tranh thủ tưới nước, chăm sóc vì sau khi hết giờ lao động, cán bộ thường hay cho xuống suối tắm trước khi về nhập trại. Lớp ăn, lớp chia hoặc đổi lấy thực phẩm khô, riêng tôi được anh đặc biệt biếu không.

Sinh hoạt hằng ngày anh ăn cơm chung với “Bố già”, Thiếu úy cảnh sát, nguyên Trưởng cuộc ở Quảng Ngãi, luôn tự xưng mình là già hơn hết. Mà già thiệt, năm ấy cũng đã gần sáu mươi. Cứ hết đợt nầy đến đợt khác có khi gồm cả sếp cũ. Đại úy cảnh sát trẻ về nhiều rồi mà “Bố già” Thiếu úy vẫn còn ở mãi. Cứ mỗi lần có đợt thả về là có khiếu nại, ban đầu còn viết đơn, riết rồi cũng chán bèn đâm ra than phiền với cán bộ quản giáo. Cuối cùng cũng có kết quả là được theo đội ra rẫy nhưng không lao động mà chỉ đun nước uống cho đội nên có thì giờ cải thiện, nấu nướng linh tinh.

Sinh hoạt trong buồng giam ở Hàm Tân tương đối thoải mái. Buồng giam lợp tôn thấp lè tè, lán gỗ ở trên, sạp dưới đúc xi măng, lối đi ở giữa nền đất, vách ván trống thưa. Số tù nhân giam giữ gồm hai hoặc ba đội hơn trăm người. Sau khi cán bộ đóng cửa, anh em tụ tập nhau thành từng nhóm, lập “bàn đèn” chiếu phim miệng, thường là tiểu thuyết của Kim Dung, Tiếu Ngạo Giang Hồ hay Cô Gái Đồ Long. Phim kiếm hiệp đôi lúc cũng bị ngưng, cắt đoạn khi máy chiếu phim được thăm nuôi bèn chuyển qua tin tức thời sự: Phục quốc đã về tới Cà Mau hay Tướng lãnh VNCH đã về tới Thái Lan.



Ngoài những rạp chiếu phim kiếm hiệp còn có những “bàn đèn” văn nghệ nho nhỏ, chỉ năm ba anh em đàn hát trong buồng giam. Nhớ hồi còn ở trại Nam Hà, cứ mỗi sáng Chủ nhật nghỉ lao động, anh em thường hay tụ tập ngoài sân, sau khi nấu nướng ăn uống xong là tụ tập đàn hát và các rạp chiếu phim ngoài trời bắt đầu, máy chiếu rải rác từng nhóm nhỏ, nhiều bộ phim rất hấp dẫn với đề tài là những câu chuyện thuộc “thâm cung bí sử” của VNCH do chính người có thẩm quyền trong cuộc kể lại.

“Bố già” không tham gia vào các “bàn đèn” chiếu phim hay văn nghệ bỏ túi vì đau lưng không thể ngồi lâu được, nhưng cung cấp đèn dầu tim nhỏ và thuốc lào với điều kiện là khi ra lao động, anh em phải thay phiên nhau ra suối gánh nước về cho Bố để nấu nước pha trà giảo cho toàn đội giải lao.

Anh bạn thuận tay trái cũng ít khi tham dự “bàn đèn” viện cớ là lao động vất vả, lớp nào cho đội, lớp nào lo cho mấy vạt đất cải thiện nên mệt phờ râu, ngủ sớm để ngày mai cày tiếp. Nhưng từ trong sâu thẳm anh em cũng đoán biết anh có cả một trời tâm sự buồn. Rất ít nói, khi xếp chỗ nằm, anh tình nguyện chọn trong góc khuất tối thui ở cuối buồng giam. Có hôm, khi các “bàn đèn” máy chiếu phim bị rè do cảm cúm, sổ mũi nên tắt sớm, về ngủ, anh em mới phát hiện ra là anh vẫn còn thao thức.

“Bố già” luôn đem niềm vui đến cho anh em, nhất là cánh trẻ có nhiều dịp đùa giỡn. Nhớ những buổi chiều ra suối tắm, mình trần như nhộng, quần đùi ướt đẫm, té nước về phía “Bố già.”

– Bố xem các con còn ngon lành không? Khi về bố chọn đứa nào?

– Tau gả hết rồi.

“Bố già” kể có đứa cháu gái kêu bằng Dượng, lỡ thời, chồng chết hồi Tết Mậu Thân, ở vậy nuôi con. Vừa nói Bố vừa ngóng lên vạt đất cải thiện trên bờ suối. Anh em cười vang hiểu ý Bố. Cán bộ ra lệnh còn năm phút nữa tập trung về trại. Anh bạn thuận tay trái, nãy giờ lo tưới nước đám rẫy ở trên bờ mới lật đật xuống suối tắm giặt. Anh luôn là người vội vã sau cùng nên có nghe được gì đâu.

– Bố định làm mai cho anh đấy.

Anh cười cho vui với anh em thôi, chứ vợ con gì nữa, vết thương lòng còn chưa nguôi.

Khi chuyển trại về Nam, anh em ai cũng tràn đầy hy vọng là sắp được thả vì theo kiểu gối đầu, trước khi có tù nhân từ miền Bắc chuyển vào thì trại đã có các đợt thả đại trà hằng trăm người, đông đến độ sau khi thả tù rồi, nhiều buồng giam còn lại trống trơn, nhất là khu trại C và D dã chiến ở vòng ngoài, chỉ rào bằng dây thép gai, không có tường xây chung quanh. Thật ra, khi đã bị giam giữ nhiều năm, hơn bảy, tám năm rồi còn gì, mà lại không biết thời gian thụ án là bao nhiêu nên anh em cũng không còn nôn nóng như trước nữa. Thôi kệ cứ vui qua ngày, có thế mới sống được chứ. Vả lại, khi về Nam không còn cảnh đói rét như ở miền Bắc nữa nên không khí trong tù cũng khác hẳn.

Không biết bên ngoài có can thiệp gì hay không mà các đợt thả tù lại dồn dập với số lượng rất đông so với hồi năm năm về trước, mỗi năm chỉ thả một hai đợt nhỏ giọt vài ba chục người mà nghe nói toàn là bảo lãnh, chứ làm gì có học tập cải tạo tốt. Có khi là do đổi mới hay sửa sai không chừng? Tù gì mà nhiều lắm thế. Chủ hãng nước tương nổi tiếng hiệu con mèo cũng vào tù vì tội làm ăn giàu có. Chủ hãng sản xuất xe đạp cũng vào tù vì tội cạnh tranh với thương nghiệp quốc doanh, chuyên nhập khẩu xe đạp Trung cộng.

Có cả sư thầy ở các chùa chiền địa phương. Vui nhất là có giáo sư hội trưởng Hội Khổng học Sài Gòn vào tù chỉ vì biết xem tử vi, bốc quẻ như thần. Mỗi tối, khi cửa buồng giam vừa đóng lại, anh vỗ tay ba tiếng, ngày nào cũng vậy. Anh em tò mò, gạn hỏi năm lần bảy lượt vì ngại đến tai cán bộ, anh giải thích: Vỗ tay ba tiếng là để mừng rằng mình đã từng ngày một, trả hết nợ vay kiếp trước. Hai là tội nghiệp cho những người gây nghiệp mới, không biết chừng nào họ mới trả được. Ba là nên tha thứ cho họ vì họ không biết việc họ làm. Anh đoan quyết là “chúng mình sắp về hết rồi.” Thế là anh em yên chí chờ ngày về.



Ban đầu còn nói đùa chơi cho vui thôi, nhưng sau đó từng đợt tù được thả càng ngày càng khít dần nên “Bố già” sợ mất cơ hội làm mai cho đứa cháu gái. Thật tình Bố rất thương và thích bọn trẻ trong tù nhưng Bố chọn anh bạn thuận tay trái là vì cho xứng đôi vừa lứa, chứ không chê bai gì bọn trẻ, giờ cũng đã ngoài ba mươi. Tội nghiệp “Bố già” lo khi được thả về rồi, đâu còn có dịp nào gặp lại nữa. Quảng Ngãi xa xôi quá, đâu có đứa nào chịu ra. Hơn nữa, sinh hoạt hằng ngày cơm nước và nhất là chiều nào cũng giúp Bố gánh nước về trại để nấu ăn hay rửa chén bát. Chỉ có anh bạn thuận tay trái là bền bỉ nhất. “Bố già” từ từ gợi chuyện.

Anh tốt nghiệp Khóa 22 trường Sĩ Quan Bộ Binh Thủ Đức, ra trường chọn về Tiểu khu Quảng Ngãi và trở thành sĩ quan tác chiến thuộc Tiểu đoàn địa phương đóng quân trên địa bàn quê hương của “Bố già” gọi là thôn Bình An mà không bao giờ có bình an. Tết Mậu Thân năm 1968 anh bị thương trong lúc giao tranh và bị địch bắt, sau đó chuyển lên giam giữ ở vùng Datsut, Kontum. Sáu tháng sau, anh vượt ngục thành công về tới Dakto và ra trình diện với chính quyền VNCH. An ninh quân đội điều tra (giam lỏng) và làm việc hơn sáu tháng. Sau khi hồ sơ bạch hóa anh được phục hồi cấp bậc cũ và thuyên chuyển về vùng IV, khu chiến thuật Tiền Giang làm sĩ quan tác chiến thuộc Sư đoàn 7 Bộ Binh.

Khi vừa đổi về đơn vị đóng gần nhà, gia đình liền ngắm nghé và tổ chức đám cưới ngay trong năm. Để đánh dấu cho sự trở về của anh như một phép mầu, gia đình tổ chức đám cưới thật lớn, thật linh đình. Cô dâu con nhà khá giả, học hành tử tế sánh vai bên anh chàng Trung úy trẻ, đẹp trai, oai phong lẫm liệt. Cả phố ai cũng mê.

“Bố già” sốt ruột không muốn nghe tiếp, chỉ ngắn gọn có chịu không thì Bố nhắn về cho vợ, kỳ tới thăm nuôi sẽ dẫn cháu theo vào cho có bạn, rồi sẵn dịp xem ra sao. Còn người đã bỏ đi rồi thì kể làm chi. Nhưng anh bạn thuận tay trái bỏ lửng, coi như không muốn bàn tới nữa. Sự đời đã tắt lửa lòng. “Bố già” buồn năm phút.

Tưởng đâu như thế là quên đi, nhưng có một hôm dưới bóng mát tàng cây trong trại nhân ngày nghỉ không lao động, anh em tụ tập nhau ăn uống, “Bố già” kể rằng tội nghiệp con nhỏ mới lấy chồng chưa được bao lâu thì chồng nó tử trận. Chồng mất rồi mới biết mình có thai và sau đó sinh ra một bé gái, nó lập bàn thờ chồng và ở vậy nuôi con cho đến ngày nay. Nghe cảm động và ngưỡng mộ quá, anh em bèn hỏi:

– Hiện nay cô ấy đang làm gì ở đâu Bố?

– Cô giáo Lan dạy học ở quê vợ tau từ trước tới giờ.

Đang rít một bi thuốc lào, ém hơi chờ nhả khói, anh bạn thuận tay trái bỏ dựng đứng điếu cày, chống tay lên, mặt mày xanh mét y như người say thuốc lào. Bình thường, khỏe như anh có khi phải hai bi mới đã điếu. Giọng nói hơi lạc đi.

– Võ Thị Lan ở Sông Vệ phải không Bố?

– Ừ, sao mi biết?

Hồi mới còn là Thiếu úy ở Quảng Ngãi, anh theo đơn vị hành quân thường hay qua lại những bến đò ngang sông Vệ. Rồi một hôm tình cờ anh gặp cô giáo Lan là người có nhan sắc trong vùng, vừa đi dạy vừa phụ giúp mẹ có quán nước và bán thêm một ít đồ chạp phô ở gần bờ sông. Trong đơn vị có người quen giới thiệu, tới lui nhiều lần rồi dính luôn. Đơn vị đứng ra tổ chức “đám cưới nhà binh” chỉ có cô dâu chú rể và anh em cùng đơn vị tại hậu cứ của tiểu đoàn. Chưa tròn năm, trận Mậu Thân xảy ra anh bị thương và bị địch bắt, đơn vị báo cáo mất tích và anh em cùng đại đội báo riêng cho gia đình biết là chắc chết vì bị phi pháo của ta truy kích. Nhưng anh đã sống sót trở về và âm thầm chuyển đi nơi khác.

Thế rồi vào một buổi sáng trời vừa tạnh mưa, anh em đang ngồi chờ thăm nuôi, kẻ có người không, trễ hẹn là chuyện thường. “Bố già” được gọi ra nhà thăm nuôi cùng lúc với anh bạn thuận tay trái. Có khi gần tám năm rồi anh chưa được một lần thăm nuôi. Anh em rất vui khi thấy anh đi sóng đôi với Bố ra nhà thăm nuôi. Đây là một kỳ tích của “Bố già.”



Hôm ấy cuối tuần có đông tù nhân được thăm nuôi, anh em nhường chỗ cho vợ chồng “Bố già” chọn đầu dãy bàn ở gần góc nhà, khuất tầm nhìn của cán bộ đang bắt ghế ngồi ở ngoài cửa ra vào. Chưa ngồi xuống, anh bạn thuận tay trái đã nhũn người muốn đổ xuống ghế. Đứng bên cạnh vợ “Bố già” là người đàn bà trung niên khẳng khiu mặc chiếc áo bà ba màu mỡ gà với khuôn mặt sạm nắng nhưng có nét, đôi mắt to đen lay láy đang tràn đầy nước mắt.

– Anh Mai, anh còn sống…

Anh ngồi xuống gật đầu ứa nước mắt vói tay qua dãy bàn nắm lấy tay “người ấy” mà tưởng chừng như còn xa xôi lắm…

Tối hôm đó, bàn đèn của đội lao động nông nghiệp ngoài thuốc lào, trà đậm còn có thêm một ít kẹo gương Quảng Ngãi. Chuyện như “châu hoàn hợp phố” gây nhiều xúc cảm khiến buổi chiếu phim anh em ngồi đầy mấy sạp, máy chiếu hơi bị rè và ngắt quãng vì không quen kể và cảm động. “Bố già” ngồi bên kia sạp xi măng thỉnh thoảng quay qua chen vào.

– Cái tưởng là của mình có khi không phải là của mình. Còn cái mà mình bỏ đi, tưởng không phải là của mình đôi khi chính lại là của mình.

– Con rơi con rớt hả Bố?

– Già rồi mới thấm.

Thời gian qua nhanh, thăm nuôi mấy lượt, đường đi Quảng Ngãi-Hàm Tân không còn xa nữa. Vợ chồng con gái trùng phùng. Cô giáo Lan ngày càng mượt mà, sắc diện tươi tỉnh, vui mừng vô hạn. Mười mấy năm qua tưởng đâu đã mất, ai ngờ người vẫn còn đây, còn có ngày nầy.

Đến cuối năm, trại có đợt thả tù nhân hằng mấy trăm người, gần hết lán trại. Lại đúng đợt thăm nuôi vào dịp gần Tết nên thân nhân đều nán ở lại nhà thăm nuôi vài ngày chờ làm xong thủ tục để cùng về. Không khí thật rộn rịp, tràn đầy niềm vui, nhất là cánh tù nhân trẻ.

Chúng tôi ra khỏi trại vào buổi chiều, anh em cùng nhau đến xóm nhỏ trước cổng trại ghé vào quán nước bên đường. Riêng anh chị Mai Lan từ giã sớm ra đón xe đò để về Sông Vệ cho kịp Tết.

Thấy hai anh chị nắm tay nhau dìu lên xe, bất giác một anh bạn nhớ lại chuyến xe lửa xuôi Nam hồi hai năm trước buột miệng lên tiếng.

– Tự do rồi muốn nắm tay nào cũng được. Tình yêu đâu cần trái, phải.

Nghe thế cả bọn cười vang. Ngoài kia gió Xuân đang về.

User avatar
nangchieu
Posts: 2094
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by nangchieu »

Một lần gặp Anh
Xa nhau bao nỗi nhớ thương
Xa nhau bao nỗi vấn vương trong lòng
Con đường thiên lý bão giông
Lẻ loi vạn dặm tìm chồng, bơ vơ
Cho dù cực khổ vô bờ
Núi mòn, sông cạn, vẫn chờ đợi nhau.


Phải nói là cái ngày mà miền Nam Việt Nam được gọi là giải phóng bởi chế độ Cộng sản, thì người dân miền Nam cũng được giải phóng luôn sự tự do, sự no ấm của mình.


Chồng tôi là một sĩ quan trong quân lực VNCH. Anh cũng như bao nhiêu đồng đội của mình, đã bị lừa gạt bằng lời hứa mười ngày học tập để rồi bị bắt giam trong những trại tù, được mệnh danh bằng một danh từ hoa mỹ “Trại cải tạo”, và nơi giam cầm thì chẳng ai hay, mà ngày về cũng không ai biết.

Trong những năm đầu, chị em chúng tôi còn ngược xuôi tìm chồng khắp nơi, vì lời hẹn mười ngày qua đã lâu, mà người đi thì như bóng chim, tăm cá. Lâu dần, khả năng tài chánh không còn, chúng tôi đành chỉ biết đợi chờ và lời hẹn mười ngày của chồng như một lời thầm nhắn hẹn “chờ anh em nhé”, trong thâm tâm chúng tôi mà thôi.

Đã hơn bốn năm rồi, bốn năm tôi chưa một lần được nhìn thấy anh, nhưng bằng giao cảm, tôi biết rằng anh vẫn còn tồn tại đó, vẫn là điểm tựa cho mẹ con tôi bám vào, để qua đi những ngày tháng khó khăn, khổ sở, rồi sau này, bằng những lần gửi quà cho anh tại bưu điện, bằng những lá thư mà chẳng cần mở ra, tôi cũng biết những gì anh đã viết.

Hôm nay cũng như mọi ngày ngóng thư anh, dù chẳng phải ngày nào cũng có thư, nhưng cứ đúng giờ đó là tôi lại chờ để nghe tiếng gọi của bác phát thơ ngoài cổng mà hy vọng: ”Số 5, có thư, số 9 có thư...”sao bây giờ đã quá 10 giờ rồi mà chả thấy bác đâu. Còn đang buồn buồn thì nghe tiếng bác từ đầu ngõ:”Số 8, lấy thư”. Tôi chạy vội ra cửa đứng chờ:

- ”Bác Tùng ơi, số 17 có thư không bác?”

- ”Có, bác vừa đưa lá thư cho tôi vừa nhìn tôi cười hóm hỉnh, thơ học tập đấy”.

Tôi run run cầm lá thư, cám ơn bác rồi hấp tấp vào nhà. Không hiểu sao cứ mỗi lần nhận được thư anh, là chân tay tôi run lẩy bẩy, trái tim đập liên hồi, vì vui hay vì sợ, tôi cũng không biết nữa, mặc dù lần nào cũng vậy, lời thư chỉ như những bài học mà tôi đã thuộc lòng dù không cần mở thư ra, nhưng khi nhìn thấy nét chữ của anh là lòng tôi lại xốn xang khó tả, và đọc nó cả ngày cũng không thấy chán, cứ có cảm giác như là anh đang ở bên cạnh mình. Lá thư hôm nay hình như hơi dầy hơn một chút, tôi nhìn vào địa chỉ bì thơ, vẫn là hòm thư 25A TD63/NH trại Ba Sao, Hà Nam Ninh. Tôi xé vội lá thư, bên trong, ngoài tờ thư nhỏ như mọi lần, lại rớt ra một tờ giấy giống như một tờ biên lai, tôi nhặt lên và đọc, thì ra đó là giấy báo thăm nuôi. Tôi ấp tờ giấy vào ngực và nước mắt tự đâu trào ra: “Anh ơi, rốt cuộc rồi em cũng sẽ được gặp lại anh, chúng mình sắp lại được thấy nhau rồi, Sơn ơi, em thật mừng quá”. Đã bao năm rồi, kể từ ngày anh đi trình diện học tập, chung quanh tôi, chị em, họ hàng, bạn bè, họ đều có những lần được thăm nuôi chồng, chỉ riêng tôi, mong chờ có được một lần đi thăm anh mà cứ như đợi chờ một phép lạ chả bao giờ xảy đến. Những lo sợ, những nghi vấn về những gì bất trắc xảy ra cho anh, luôn luôn ám ảnh tâm trí tôi: Anh đang ở đâu, anh có khỏe không, có bị thương, có bị đau, có bị sao không, đói, rét như thế nào?..Những nhớ thương về anh nhiều khi làm cho tôi thấy mình giống như người bị bệnh tâm thần, ngơ ngơ, ngẩn ngẩn.

Hôm nay có lẽ là ngày vui độc nhất của tôi kể từ ngày anh đi xa vắng. Gạt những dòng nước mắt sung sướng vừa trào ra, tôi đọc lại một lần nữa tờ giấy phép thăm nuôi. Tôi chỉ có một thời gian ngắn lo mọi thứ để đi thăm anh. Biết bao việc phải làm, trước hết là phải lên phường xin giấy phép đi đường, sau đó phải tính toán tiền bạc cho những chi tiêu như sắm ít đồ dùng cần thiết, thuốc men, làm đồ ăn khô, mặn như lời dặn trong thư, lại còn phải dành một chút tiền cho anh tiêu, số tiền này sẽ dấu trong cái áo treilli mà tôi đã may lót thêm một lớp bông gòn bên trong, ở giữa hai lớp vải để anh mặc cho đỡ lạnh trong những ngày đông tháng giá. Ngoài ra còn phải có tiền để đăng ký đồ ăn thêm cho anh tại trại, tiền mua vé xe lửa khứ hồi và chút tiền để lại nhờ gia đình trông coi các cháu, cùng tiền cho mình phòng khi cơ nhỡ lúc dọc đường đi. Cái gì cũng phải cần đến tiền, để có được số tiền như vậy, không phải dễ, nói có là có, tôi đã phải chắt chiu dành dụm thật lâu để mong có ngày sẽ sử dụng đến nó. Và cái ngày hôm nay mà tôi chờ đợi từng giây, từng phút đã đến. Sau khi đã thu xếp ổn thỏa mọi việc, tôi chỉ còn phải đi mua vé xe lửa nữa là có thể an tâm cho chuyến ngược Bắc thăm anh lần đầu.

Sáng ngày 6/1/1979, tôi cầm giấy tờ tới ga xe lửa Sóng thần để mua vé. Tại nơi ghi tên đi Bắc mà họ gọi là quầy đăng ký, tôi không thấy có ai đứng đợi ở đây như những quầy khác, tôi kiếm người hỏi thăm thì được biết, muốn ghi tên mua vé thì phải đến đây từ 12 giờ đêm để sắp hàng theo thứ tự. Quầy chỉ làm việc đến 9 giờ sáng là ngưng:

- “Cô đến bây giờ quá trễ, đã 9 giờ 10 rồi, ngày mai quay lại đi, đó cái quầy đằng kia kìa, cửa đã đóng rồi đó.”

Nhìn theo ngón tay anh ta chỉ, quả nhiên có một khung cửa nhỏ đã được đóng lại từ bao giờ. Cám ơn người con trai tốt bụng, tôi định ra về nhưng trong lòng còn phân vân và thật lo lắng vì chỉ còn có vài ngày nữa là đến ngày thăm nuôi rồi. Đã bao năm nay tôi chờ đợi cái ngày này, bây giờ tất cả đã sửa soạn xong hết, chỉ còn lấy vé nữa là đi, không lẽ bỏ sao? Tôi tính đi lang thang để hỏi thăm, nhưng không hiểu sao bàn chân tôi lại cứ đi dần về phía quầy, cánh cửa sổ ở quầy chợt mở ra, một người đàn bà đứng tuổi, ở phía trong đưa tay ngoắc tôi và gọi:

- ”Cưng ơi, lại đây.”

Tôi ngơ ngác nhìn quanh mình, chẳng có ai ngoài tôi ở khu vực này cả, tôi quay lại chỉ vào mình ra dấu và hỏi: “Chị gọi em?”rồi tiến dần về phía bà. Người đàn bà cười:

- ”Không gọi em thì gọi ai, đăng ký vé đi Bắc phải không? Sao giờ này mới đến? Thôi đưa giấy tờ đây chị làm cho.”

Bà quay sang người đàn ông, đội nón cối đứng bên cạnh, đang cho một cuốn sổ vào cặp:

- ”Ông anh, khoan đã, ghi cho cô em gái tôi một vé đi.”

- “Ô hay cái nhà bà lày, hết giờ rồi còn ghi ghi cái gì? Sao nộn xộn thế?”

- ”Một vé thôi mà, ông anh không muốn ghi thì để tôi ghi cho.”

Vừa nói bà vừa lấy cuốn sổ trong tay tên nón cối và ghi giấy tờ của tôi vào mặc cho gã lải nhải cằn nhằn, sau đó bà trả giấy tờ đã đóng dấu cho tôi:

- “Xong rồi đó cưng, đi mua vé rồi còn về với con đi, để tụi nó chờ tội nghiệp.”

Bà với tay đóng cánh cửa sổ nhỏ lại, vừa cười vừa nháy mắt với tôi, không kịp để tôi nói tiếng cám ơn với bà, tôi đành phải nói to tiếng cám ơn sau cánh cửa đóng. Cầm xấp giấy tờ trên tay mà tôi vẫn còn chưa hết ngơ ngác, chuyện xảy ra trong vòng năm phút, như một phép lạ. Người đàn bà người miền Nam này là ai? Sao bà biết tôi gặp khó khăn mà giúp đỡ? Bà đã nhận lầm tôi với một người quen nào đó của bà? Cho đến bây giờ cái thắc mắc này vẫn còn vương vấn trong tôi, nhưng dù sao tôi cũng vẫn mãi biết ơn bà, thật lòng cám ơn người thiếu phụ vô danh, nhưng tốt bụng đó.

Có dấu trên giấy cho phép di chuyển của phường rồi thì mới được mua vé. Tôi tới khu vực bán vé đi Bắc đã thấy người ta đứng, ngồi la liệt khắp nơi. Tôi xà xuống bên cạnh một bà cụ vấn khăn theo kiểu người Bắc, ngồi có vẻ nhàn nhã, đang nhai trầu bỏm bẻm, hỏi thăm:

- ”Xin phép cụ, cho con hỏi thăm, có phải mua vé đi Bắc ở đây không ạ?”

Bà cụ nhìn tôi, không trả lời câu tôi hỏi mà lại hỏi ngược lại:

- ”Đã đăng ký mua vé chưa? Đăng ký hôm nào?”

- ”Dạ rồi, mới bữa nay thôi.”

Vừa nghe tôi nói vậy, Một chị, ngồi kế bà cụ, vọt miệng:

-”Trời ơi, mới bữa nay hả? Vậy thì còn khuya mới mua được vé, tụi này đăng ký mấy bữa rồi mà còn ngồi mãi dưới này lận. Tui nói thiệt, về nhà đi ngủ còn sướng hơn, chờ đây biết chừng nào tới lượt, đó chị thấy người ta ngồi chờ đông không? Tui đâu có nói láo.”

Lại một lần nữa sự thất vọng và lo lắng lại trở lại với tôi. Tôi cám ơn mọi người, đứng lên và dợm bước đi, chợt có tiếng nói sau lưng:

-”Nếu cần thì chị mua vé tầu đêm mà đi, nhưng chị đi có một mình thì cũng nguy hiểm lắm, nên cẩn thận.”

Tôi quay lại cám ơn người mách nước. Lúc này thật tình tôi không hiểu tại sao lại phân biệt tầu đêm, tầu ngày. Và cũng không hiểu tại sao đi tầu đêm lại nguy hiểm hơn đi tầu ngày. Nhưng với tôi, đêm hay ngày không quan trọng, cái quan trọng là làm sao tôi có thể mua được vé, để đến được với anh mà thôi. Mãi sau này khi đi thăm anh lần thứ nhì, tôi mới hiểu được ý nghĩa của hai chữ tầu đêm và tầu ngày. Tầu đêm là tầu đi ra tới Bắc phải mất hai ngày, ba đêm, và khi tầu chạy tới khu vực giáp ranh của miền Trung và Bắc thường vào ban đêm, nơi rất có nhiều bọn cướp, khi là dân đói, khi là công an, bộ đội giả dạng làm cướp, nhất là ở những ga vắng người. Còn tầu ngày đi ba ngày, hai đêm, an toàn hơn vì tầu đi qua khu vực này lúc ban ngày. Ở quầy bán vé tầu đêm thật vắng khách, do đó tôi đã mua được vé dễ dàng.

Ngày 7/1/1979 tôi lên xe lửa tại ga Bình Triệu, rời Sàigòn, rời những đứa con thơ dại thân yêu, để tìm đến với anh. Ngồi trên xe, nhìn thành phố Sàigòn đang lùi dần sau lưng mà nghe trong lòng buồn, vui lẫn lộn. Vui vì sẽ gặp lại được người chồng sau bao tháng năm xa cách, buồn vì phải xa những đứa con thơ còn quá bé bỏng, thiếu thốn tình cha, đang cần sự ấp ủ thương yêu của người mẹ. Với tâm trạng đó, ngồi trên tầu, tôi nhìn thành phố xa dần trong tiếng còi vang lên não nuột.

Con tầu cứ lầm lũi đi, Thủ Đức, Biên Hòa rồi Phan Thiết... Tới Nha Trang tầu dừng lại lấy thêm hành khách rồi lại tiếp tục đoạn đường.Tôi tựa đầu vào thành tầu, nhìn qua khung cửa sổ. Từng làng mạc, từng cánh đồng nối tiếp nhau vùn vụt trôi qua. Đất nước mình trông thật bình dị, cuộc sống trông thật êm ả vô cùng, thế nhưng có ai ngờ đâu, trong cái bình dị, êm ả kia đã bị một loài thú đội lốt người cai trị, mang lại cho người dân sống trong đó biết bao nhiêu khổ sở, cay đắng và điêu linh.

Tôi nhắm mắt, cố gắng dỗ cho mình một giấc ngủ trong tiếng sình sịch của con tầu và tôi đã thiếp đi cho đến khi nghe được tiếng ồn ào, trầm trồ của những người bên cạnh:

-”Bãi biển Đại Lãnh đó, đẹp quá trời.”

Tôi mở bừng mắt ra, tầu đang đi ngang Tuy Hòa, trước mắt tôi một phong cảnh đẹp tuyệt vời. Nước biển xanh, bờ cát trắng, những con sóng nhấp nhô, từng đợt, từng đợt xô nhau vào bờ, óng ánh như ngàn con rắn bạc lấp lánh dưới ánh mặt trời. Bầu trời thì xanh thẳm, một vài cụm mây trắng đang lững lờ trôi, xa xa một phần của rặng núi Trường Sơn biên biếc nằm dọc theo bờ biển càng tạo cho khung cảnh nơi đây một vẻ hùng vĩ lạ kỳ: “Đất nước mình đẹp thiệt.” Nhìn biển xanh, mây trắng, tôi lại chợt nghĩ đến anh, nghĩ đến những lần hai đứa đi Vũng Tầu, cũng biển xanh, sóng bạc, vui biết bao nhiêu, mà giờ đây chỉ còn mình tôi bơ vơ đi tìm anh, chỉ còn mình tôi lẻ loi với nỗi nhớ thương anh rã rời. “Anh ơi, em thật nhớ anh quá” và những giọt nước mắt lại âm thầm trào ra để lại nghe mằn mặn trên bờ môi.

Qua vài ga nhỏ, tầu không ngừng lại, để khi tới Quảng Ngãi mới từ từ dừng bánh. Ga Quảng Ngãi còn gọi là ga gà, vì nơi đây đồ ăn bán cho khách phần lớn là gà: gà luộc, cháo gà, miến gà, phở gà, ngay cả mì cũng nấu bằng thịt gà. Tôi thường nghe nói vùng này là nơi “chó ăn đá, gà ăn muối” là nơi sinh sống khó khăn, nhưng không hiểu sao gà lại nhiều và rẻ thế? Nhìn những con gà đã luộc rồi, họ mời mua trông mới thật hấp dẫn làm sao, tuy không béo tròn và vàng hườm như những con gà bán ở tiệm cơm gà Hồng Phát, Tân Định, hay trong những tiệm cơm Tầu, nhưng cũng vẫn làm cho tôi thấy thèm thuồng vô cùng. Mà thèm thì thèm cũng chả dám mua vì tài chánh không có khoản chi cho cá nhân mình một món hậu hĩ như thế. Đã lâu lắm rồi, kể từ ngày CS cưỡng chế miền Nam, danh từ thịt gà hình như đã biến mất trong thực đơn của người dân Saigon thì phải. Nghĩ cho cùng, đến cơm gạo còn chả có mà ăn thì nói chi đến thịt, nhất lại là thịt gà. Những đồ ăn cao cấp như thế này và trong thời buổi này chỉ dành riêng cho đám quan ôn tham nhũng, đâu có phần cho người dân. Đang suy nghĩ lung tung, tôi bỗng nghe có tiếng đàn ông sau lưng mình:

-”Bán cho chú một con gà đi, tầu sắp chạy rồi, nhanh lên.”

Tôi quay người lại, một anh bộ đội khoảng 40, 45 tuổi, đang cúi người ra ngoài cửa sổ để mua bán với một thanh niên cỡ tuổi 20. Anh thanh niên đưa con gà lên nhưng giữ một khoảng cách để anh bộ đội không thể lấy được:

-”Chú đưa tiền cho con trước đi, chú lấy gà rồi tầu chạy làm sao con lấy tiền?”

-”Tao đưa tiền mà mày không đưa gà cho tao thì sao?”

-”Kìa tầu chạy rồi đó, thôi chú nắm cái đầu gà đi, rồi chú đưa tiền thì con buông con gà ra, lẹ lên.”

Lúc đó tầu đã bắt đầu chầm chậm lăn bánh, Anh thanh niên vừa chạy theo tầu vừa nói. Anh bộ đội nghe lời cầm cái đầu gà và đưa tiền ra trả. Anh thanh niên đã lấy tiền rồi mà vẫn giữ khư khư con gà không chịu buông. Tầu đã bắt đầu chạy nhanh hơn mà hai người vẫn còn giằng co nhau với con gà:


-”Mày đã lấy tiền rồi sao còn không buông tay?”

Anh bộ đội vừa la vừa cầm cái đầu gà, cố gắng giật mạnh về phía mình. Mọi người trên tầu đang quan sát hai người, bỗng “phịch” anh bộ đội ngã ngửa ra phía sau, trên tay còn lủng lẳng cái đầu gà đã có vết cắt nơi cổ tự bao giờ. Tất cả bật cười ồ lên. Anh bộ đội đứng dậy, nét mặt đầy vẻ sượng sùng, cầm cái đầu gà ném về phía anh thanh niên lúc đó đã cách khá xa con tầu, đang đứng cười với vẻ đểu cáng pha lẫn chế riễu. Buông một tiếng chửi thề tức giận, anh bộ đội quay về chỗ ngồi với vẻ hầm hầm. Nhìn màn hài kịch đó, tuy buồn cười nhưng tôi lại thấy tội nghiệp cho cả hai, cả người bị lừa lẫn kẻ đi lừa. Chung quy chỉ tại cuộc sống của người dân quá khốn khổ, quá đói rách dưới ách gông cùm CS mà con người đã đánh mất đi lương tâm, đã tìm mọi thủ đoạn để lừa đảo lẫn nhau hầu có thể sinh tồn.

Con tầu cứ lầm lũi đi, từng ga lại từng ga, từng làng lại từng làng, con tầu cứ đi đi mãi để mang tôi lại gần anh hơn. Tới Huế, tầu ngừng lại khá lâu để lấy thêm nhiên liệu và để nhân viên nghỉ ngơi đôi phút. Rút kinh nghiệm từ sự kiện lừa đảo ở ga gà, tôi không dám mua bán gì, dù đã được những người bạn đi trước mách bảo nên mua ít quà khi ra tới Hànội bán lại sẽ có lời như sữa bột, đường phổi, mè xửng ...tôi cũng chỉ dám mua vài bịch đường phổi và kẹo gương cho chồng mà thôi, lớ quớ không biết mà bị lừa thì chết, còn tiền đâu mà đi thăm chồng.

Tầu lại tiếp tục lên đường, gần qua Thừa Thiên để vào địa phận Quảng Trị, đột nhiên tôi thấy hai bên đường trắng xóa những vòm tròn tròn như những chiếc bát úp, nhiều thật nhiều.Tôi nghe có những tiếng nói ở chung quanh tôi:

-”Chỗ này là quốc lộ kinh hoàng, dân di tản vào Nam chết biết là bao nhiêu ở chỗ này. Những vòm trắng trắng là mồ đó...!”

Tôi nhìn những nấm mồ đó mà trong trí tưởng tượng ra một cảnh hãi hùng, cảnh người chết nằm la liệt khắp nơi.

Tôi rùng mình, nhắm mắt lại và thầm khấn:

-”Xin quý vị hãy yên nghỉ, cầu mong hương hồn quý vị sớm về chốn an lành nơi Thiên đàng, nơi cõi Phật.”

Xa xa, cổ thành Quảng Trị, sừng sững trong không gian bao la như nhắc nhở với mọi người về những chiến tích oai hùng của những người chiến sĩ VNCH, đã quyết chiến và đã hy sinh một cách oanh liệt, hào hùng để bảo vệ tổ quốc khỏi rơi vào tay bọn quỷ đỏ bạo tàn, để ngọn cờ vàng mãi ngạo nghễ tung bay trên thành cổ, thế nhưng giờ đây, những chiến tích đó, những hy sinh đó đã chỉ còn là một dĩ vãng ngậm ngùi của người dân Việt mà thôi:


Thành Cổ đó là chứng nhân ghi dấu
Thành tích oai hùng Quân Lực Việt Nam
Thủy Quân Lục Chiến, Nhẩy Dù chiến đấu
Bên Biệt Động Quân anh dũng vô vàn

Con tầu vẫn đi, càng về miền Bắc, sự nghèo đói càng được thể hiện rõ nét hơn trên những lớp nhà tranh rách nát, trên những cánh đồng xơ xác, tiêu điều, và trên những con người gầy còm, cằn cỗi. Trời đã vào tối, tôi đang thiu thiu ngủ, chợt nghe có tiếng la to của một người đàn ông ngồi ở cuối toa:

-”Có cướp, đóng các cánh cửa sổ lại.”

Hai tiếng “có cướp” làm mọi người trong toa như bừng tỉnh, tiếng sầm sập rơi xuống của các cánh cửa gỗ đồng loạt vang lên.

Tất cả những người đàn ông đều đứng bật dậy, họ với tay lấy ra những gậy gộc, xích sắt...không biết đã để sẵn tự bao giờ, rồi thì kẻ chạy ra canh ở hai đầu toa, người thì gác ở chỗ các cửa sổ, sẵn sàng trong tình trạng tác chiến. Còn nhóm đàn bà, người già và con nít thì nấp ở giữa hai hàng ghế, vừa lo giấu giếm chút tài sản, vừa đề phòng trường hợp bất trắc mà ứng phó. Vẻ mặt ai nấy đều căng thẳng và lo lắng. Vì là lần đầu tiên đi xa một mình nên tôi rất sợ, ngồi chúi bên đám hành khách mà người cứ run lên bần bật, lại nhớ đến lời cảnh cáo của người thanh niên trên sân ga lúc đi mua vé tầu. Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Rồi nghĩ đến chồng, đến lũ con thơ chờ mẹ ở nhà, nếu rủi có gì không may, tôi thật không dám suy nghĩ tiếp, chỉ còn biết run run những lời cầu xin ơn trên cho tai qua nạn khỏi mà thôi. Thật may mắn thay, toa tầu của tôi đã được an toàn ra khỏi vùng hắc ám đó và mọi người lại lục đục trở về chỗ ngồi. Tuy vậy mọi người vẫn còn bàn tán và chuyện đánh cướp của những lần trước lại được kể lại. Thì ra một số lớn khách trên tầu là dân buôn hàng chuyến Bắc Nam, thảo nào cách họ hành động và xử lý mọi việc thật thành thạo và lẹ làng vô cùng. Sau đó chúng tôi được biết toa tầu nằm cách chúng tôi bốn toa, vì ít khách nên đã bị bọn cướp nhảy lên, nhưng không thiệt hại gì, vì chỉ là những tên cướp lẻ, không phải là đám cướp có tổ chức, có súng ống như một vài lần nào trước đó. Nói đến súng ống là mọi người biết ngay là chỉ có bọn công an hoặc bộ đội mà thôi. Nhà nước CS nuôi chúng đói rách quá, chúng phải ăn cướp để mà sống. Nên “cướp đêm là bộ đội, cướp ngày là công an” dưới chế độ CS không phải là chuyện lạ lùng gì, chỉ khổ cho người dân đen thấp cổ, bé miệng phải chịu thiệt thòi. Trong chuyến đi này, ngoài những việc xảy ra mà tôi đã được chứng kiến, còn một điều mà tôi cứ thắc mắc hoài là dọc đường đi đã nhiều lần tàu chúng tôi bị những đứa trẻ, có khi cả những thanh niên, đứng dọc hai bên đường ném đá lên tầu, những cục đá thật to, đập rào rào vào thành cửa sổ của toa tầu, họ ném đá một cách thích thú, vô tội vạ, không cần biết có ai vì những cục đá này mà bị thương hay không. Chắc do vì có kinh nghiệm của nhiều lần trước mà chúng tôi đã được khuyến cáo, là thời gian tầu chạy qua những khu vực này, tất cả các cửa sổ toa tầu đều phải kéo lên để bảo đảm an toàn cho hành khách. Mọi người trong tầu ai nấy đều bất mãn vì hành vi vô giáo dục của bọn người này. Nhưng nói cho cùng sống dưới một chế độ bị cai trị bởi một lũ mặt người dạ thú thì những hành động này chẳng đáng gì so với những việc làm vô nhân đạo của bọn đầu sỏ chế độ CS. Chúng còn tàn nhẫn, vô lương hơn nhiều.

Tầu đã vào ga Thanh Hóa, hành khách lại mua mua, bán bán như chưa hề xảy ra chuyện gì. Cam Thanh nổi tiếng từ lâu, nhìn những trái cam họ mời mua thấy ngon lành quá, tôi đã tính lấy tiền ra mua đem vô cho chồng, nhưng lại nhớ hình như lúc ở ga gà, có ai đó đã nói chuyện về ga Thanh Hóa thì phải:

-”Mua bán ở ga này phải cẩn thận, họ dối trá lắm, cam họ mời mua, ăn tại chỗ thì ngon, mua về nhà thì toàn cam hư, ở trong khô như giấy. Giò lụa, bánh chưng ăn tại chỗ thì là thịt, là nếp thiệt, mua về lại là giò bột, bánh chưng gói bằng cát, thật dã man!”

Thế là con bé lại nhát gan, nhịn thèm, nhịn thuồng để khỏi bị mắc lừa.

Khi tầu đến ga Phủ Lý thì trời bắt đầu vào đêm. Một số chị có chồng cùng trại với anh, ngày mai được thăm nuôi nên đã xuống đây. Tôi còn phải chờ thêm một ngày nữa, vả lại tôi có hẹn với người nhà ở Hànội ra đón nên tôi theo tầu ra thẳng Hànội.

Khi tầu đỗ tại ga Hàng Cỏ thì đã quá khuya, tôi một mình hì hục vần hai bao tải lớn đồ ăn thăm nuôi, từng bước một, ra khỏi ga. Ngay ở bên ngoài cửa nhà ga, tôi đã thấy có một số người với hàng hóa chung quanh, kẻ ngồi, người nằm hỗn độn. Hỏi thăm mới biết là người mình, cũng đi thăm nuôi “cải tạo”. Ban đêm chờ ở đây “Khách sạn Hilton Hàng Cỏ”, sáng mai mới dám xuất phát, tối mà đi một mình mỗi người, mỗi ngả rất nguy hiểm.

Thấy tôi chờ hoài mà người nhà không đến, một chị nói:

-”Thôi đừng chờ nữa, ở lại đây với tụi mình cho vui, chứ đi một mình bây giờ không tốt đâu, thủ đô Hànội cướp giựt như rươi đó. Còn chờ họ đón, chắc gì họ đến vào giờ này.”

Tôi cám ơn chị và tự dọn cho mình một “phòng” trong khách sạn ngàn sao này. Ngồi tựa vào bờ tường nhà ga, tôi ngắm nhìn Hànội về đêm.

Cũng nơi này, hai mươi lăm năm về trước, gia đình tôi đã từng sống, tuổi thơ của tôi cũng đã từng trôi qua trong yên bình. Thế rồi hiệp định Genève chia đôi đất nước, gia đình tôi cũng như cả triệu người dân miền Bắc, đau lòng rời bỏ quê cha đất tổ, lên đường vào Nam tránh hiểm họa CS. Cứ tưởng cái họa CS sẽ ngừng ở vĩ tuyến 17, ai ngờ đâu nó đã vượt lằn ranh Bến Hải tiến về miền Nam khiến oán hờn dâng ngập trời, biển Đông hận sôi sóng. Và hôm nay đây, tôi đã phải lang thang nơi này, trở về cái thành phố ngày xưa, nơi đã từng ấp ủ, nuôi dưỡng cái tuổi thơ êm đềm của tôi ngày nào, với một tâm trạng nhung nhớ, lo âu cho thân phận của chồng tôi, người tôi yêu thương nhất trên đời:

-”Anh ơi, anh có biết em đang ngồi bên lề đường ga Hàng Cỏ mà nhớ về anh thật nhiều hay không? Sơn ơi, sao mà buồn thế này, sao mà nhớ anh thế này!”

Biết bao giờ chúng mình không phải
Nhớ thương nhau đến rã rời tim
Và em anh không còn vất vả
Tìm kiếm anh chốn chẳng nên tìm

Mùa Đông ngoài Bắc thật lạnh, những cơn gió cứ rít lên từng hồi trên mái nhà ga, trên các cành cây trơ lá. Tôi cuốn chặt chiếc áo len vào mình và nép người giữa hai bao tải đồ ăn cho đỡ lạnh. Dù mệt mỏi, chúng tôi cũng không ngủ được, chúng tôi thì thầm trò chuyện với nhau trong lúc đợi chờ thời gian trôi qua chầm chậm. Trời đã sáng dần, mọi người lục đục sửa soạn hành lý, để rồi lại bắt đầu một cuộc hành trình khác.

Rời nhau trong bịn rịn, quyến luyến, chúng tôi chúc cho nhau mọi điều thuận lợi, tốt lành. Dù chỉ gặp nhau có một đêm, nhưng vì cùng hoàn cảnh, chúng tôi cũng thấy thân thiết và thương nhau vô cùng:

-”Hẹn gặp lại ở Sàigòn nhe...

Tôi thuê một chiếc xích lô để về nhà người cô ở phố Hàng Bài, gần hồ Hoàn Kiếm. Xích lô ở miền Bắc cũng nghèo nàn như con người ở đây. Chỗ ngồi không có nệm, chỉ là một tấm ván cứng ngắc, mỗi khi qua ổ gà thì thật khổ cho người khách bị ê ẩm cả người. Bác xích lô bắt chuyện:

-”Cô ở trong Nam ra thăm học tập hả? Nhìn cách ăn mặc của các cô là biết ngay, trông đẹp hơn các bà các cô ở ngoài này nhiều. Ở đây ai trông cũng giống nhau cả, thấy chán cả mắt! Tôi cũng từng có chở mấy cô ở trong Nam ra đây thăm chồng, ai nấy đều lễ phép và lịch sự lắm. Cô ra đây mấy lần rồi?”

-”Dạ, ba lần, họ hàng cháu ở ngoài này nhiều lắm.”

Tôi nói láo vì không muốn bị gạt như mấy người bạn đi trước. Họ dặn tôi:

-”Ra Bắc, đi xích lô thì phải coi chừng, thấy mình không biết đường họ bắt bí đòi giá cao, đôi khi còn đưa đến chỗ vắng để cướp đồ nữa đó.”

Nhân vì nói đến cách ăn mặc của phụ nữ Hànội, tôi mới để ý. Quả nhiên không sai, người nào giống như người nấy, cũng có cái quần đen ngắn trên mắt cá chân thêm vào chiếc áo sơ mi trắng ngà, cùng với những cái bím tóc lủng lẳng phía sau lưng. Ngoại trừ những người già thì có chiếc khăn mỏ quạ màu nâu hoặc màu đen, chít đầu, trông thật nhàm chán và mất thẩm mỹ. Đã vậy phần lớn, thân hình con gái gì mà cứ tròn ủng ra, chả trách ở miền Nam đã có một câu vè tả chân cho gái Hànội:

Gái Sàigòn như nhành dương liễu
Gái Hànội như củ khoai môn
Trai Sàigòn như chim oanh vũ
Trai Hànội như khỉ trên rừng
Chim oanh vũ đậu nhành dương liễu
Khỉ trên rừng gậm củ khoai môn.

Nghĩ tới đây tôi muốn bật cười vì hình ảnh ngộ nghĩnh của chú khỉ đang gậm củ khoai môn.

Hànội của năm 1979 không có gì thay đổi lắm so với Hànội năm 1954, ngày mà gia đình chúng tôi ra Hải Phòng để lên tàu thủy vào Nam. Ngoại trừ một vài nơi như những trường học và tu viện của nhà dòng đã bị trưng thu để trở thành bệnh viện, như bệnh viện Việt-Đức, bệnh viện Việt-Xô...Còn lại thành phố hình như cũ kỹ hơn, nghèo nàn hơn, buồn nản hơn. Hình ảnh các cô gái tha thướt trong tà áo dài Lemur, khoác những chiếc khăn san đủ mầu phất phơ trong chiều lộng gió, bên cầu Thê Húc, trên phố Godard hay những thiếu phụ đài các với bới tóc mượt mà trễ tràng sau lưng đã không còn nữa, mà Hànội bây giờ chỉ còn có “Dép quai râu giẫm nát đời son trẻ, mũ tai bèo che khuất cả tương lai” và khắp nơi nơi, đâu đâu cũng chỉ là nón cối, đuôi sam mà thôi. Hànội cái nôi của “đỉnh cao trí tuệ” là như vậy đó.

Sau một ngày ở lại Hànội, đi mua sắm thêm chút đồ ăn và đồ dùng cho chồng, cùng đi thăm lại những nơi ngày xưa tôi đã từng sống, từng đi học, để kiếm tìm chút kỷ niệm xa xưa của thời thơ ấu, tôi đã được hai cha con người chú cho quá giang lên Phủ Lý nhân dịp họ đi lấy hàng về Hànội bán. Tại đây tôi lại phải kiếm phương tiện để lên Ba Sao mới tới được trại tù của chồng tôi. Còn đang tìm người hỏi thăm, thì thấy một chị nữa cũng đang kéo lê trên đường hai bao tải nặng nề, nhìn là biết ngay người cùng cảnh ngộ, tôi vội vàng chạy tới phụ chị:

-”Chị cũng đi thăm nuôi, anh ấy cũng ở Hà Nam Ninh?”

-”Dạ, ông xã tôi là thiếu tá thủy quân lục chiến, trước tù ở Vĩnh Phú, mới chuyển qua đây gần một năm...

Hai chị em vừa nói chuyện, vừa kiếm người để vào Ba Sao, chợt một chiếc command car dừng ngay trước mặt, người tài xế bộ đội nghiêng người ra hỏi:

-”Các chị ơi, lên Ba Sao phải không, em chở cho.”

Tôi ngơ ngác nhìn anh ta chưa kịp trả lời thì anh ta đã tiếp ngay:

-”Các chị cho em mỗi người một đồng nhớn, em sẽ chở các chị đến tận trại học tập, các chị đừng lo, em đã chở nhiều chị như thế này rồi, không sao đâu, chỉ có một đồng nhớn thôi mà.”

-”Một đồng nhớn là gì?”

-“Là mười đồng ấy, em vào Ba Sao đón thủ trưởng, nhân tiện có xe đây, em kiếm thêm chút cháo, chị giúp em, chị em mình cùng có lợi. Em khuân đồ lên xe cho các chị nhé.”

Mới đầu tôi từ chối vì mười đồng với tôi quá đắt, nhưng sau nghĩ lại, đi xe hơi đỡ vất vả hơn xe thồ, lại nhanh nữa vả lại tôi nghĩ có hai người chắc an toàn hơn nên sau khi hội ý với nhau, chúng tôi bằng lòng. Lúc ngồi trên xe, tôi thấy lần thăm anh kỳ này tôi gặp được rất nhiều may mắn, có lẽ vì tôi là một đứa con gái khờ khạo như nhận xét của anh, mà được ông trời đãi ngộ chăng, rồi lại thấy mình ngồi chễm chệ trên xe jeep mà tự cười thầm :”Mình vợ tù mà oai thiệt, được đi xe của thủ trưởng Việt cộng lại còn có lính cung cung kính kính mới chết chứ.” Nghĩ đi rồi nghĩ lại, lại thấy buồn: “Nếu thời thế không thay đổi thì chuyện được ngồi xe jeep đối với bà như thế này có gì là lạ đâu, bây giờ thì cho chúng mày hầu bà cho bõ ghét.”

Tới nơi xe ngừng ở chân núi, anh lính vừa khuân đồ của chúng tôi xuống vừa bảo

-”Các chị xuống đây rồi thuê mấy người tù hình sự đang làm việc ở gần đây, họ chở đồ lên núi cho, em lên trên đó không được”.

Tôi cám ơn và trả tiền cho anh bộ đội. Nhớ lời những người bạn đi trước dặn dò, tôi hỏi thăm dân gần đó chỗ bán gạo để mua thêm cho chồng. Với chỗ gạo này hy vọng anh sẽ có được một khoảng thời gian không bị đói lòng, sau đó tôi thuê mấy người tù hình sự sắp mãn án được làm việc ở ngoài, chung với dân, chở đồ lên núi bằng xe cải tiến.

Vì ghi tên thăm nuôi quá trễ nên chiều hôm đó chúng tôi và một vài chị nữa phải ngủ lại “nhà khách” qua đêm, sáng ngày mai mới được gặp chồng.

Tôi trằn trọc mãi, không thể nào ngủ được, phần vì lạ chỗ, phần vì nhớ đến anh, đến ngày mai chúng mình mới gặp nhau, không biết bây giờ anh như thế nào nhỉ, gầy ốm hay già đi? Tôi ngồi dậy, quấn tấm chăn vào người đi ra đầu thềm nhà, ngồi xuống nhìn chung quanh. Trên cao ánh trăng chiếu những tia sáng nhợt nhạt xuống vùng thung lũng mù sương, ánh trăng thật lạnh và những ngọn gió đông cũng thật buốt. Tôi ngồi đó trong vùng tối nhạt nhòa để nhớ đến anh, nhớ thật nhiều, thương anh thật nhiều và cũng buồn cho thân phận hai đứa thật nhiều.

Chợt nghe thấy mặn ở bờ môi
Chợt thấy bơ vơ giữa núi đồi
Ước gì, em ước gì anh đến
Ấp ủ vai gầy một chút thôi

Vâng, đêm nay, chỉ mình em bên thềm nhà khách, đối bóng mình và bóng trăng trong cái giá lạnh thê lương của một mùa đông miền Bắc mà thấm thiết cái nỗi khổ anh đã phải chịu đựng trong bao nhiêu năm nay, em thật thương anh lắm, anh có biết không?

Trăng không xanh, mà lạnh não nùng
Cái lạnh trong lòng kẻ nhớ mong
Một người yêu dấu, ngàn xa cách
Mà nhớ, mà thương đến nát lòng

Ngày mai hai đứa mới gặp nhau
Rồi lại chia tay, lại hẹn sầu
Em về, mang mảnh hồn tê tái
Anh ở, coi thường kiếp khổ đau

Trời chưa sáng rõ, chúng tôi đã dậy để lo sửa soạn cho buổi thăm nuôi, sắp xếp lại các đồ ăn, đồ dùng cho thứ tự gọn ghẽ, để khi các anh mang vào trong trại sẽ dễ dàng hơn. Xong công việc tôi và cô bạn ra bên thềm “nhà khách” ngồi chờ các anh. Một nhóm bốn cô gái từ trong trại đi ra, thấy chúng tôi, các cô đến làm quen:

-“Mấy chị ngồi chờ các anh ấy hả, chưa tới giờ đâu, tám giờ các anh ấy mới được ra cơ. Chị ơi, chúng em nghe nói các chị trong Nam biết bói bài tú lơ khơ hay lắm, chị có biết bói không bói hộ chúng em với”

-”Bài Tú Lơ Khơ là bài gì tụi tôi đâu có biết.”

Một cô chìa ra bộ bài tây trong tay:

-”Tú lơ khơ là bài này đây“
-”À, là bài tây, tôi ...”

-”Chị biết bói bài hả, chị bói cho tụi em đi.”

Thế là họ rối rít đẩy tôi vào trong nhà. Một ý nghĩ chợt đến:”Tại sao mình không lợi dụng mấy người này để xin thăm thêm giờ, biết đâu được, đi từ Nam ra Bắc vất vả bao nhiêu, nếu được thăm thêm cũng bõ cho công chờ đợi hơn bốn năm không một lần gặp mặt.” Nghĩ vậy nên tôi xem bói cho họ. Chưa xem xong cho người thứ hai thì tôi nghe có tiếng lao xao ngoài cửa. Tôi ngó ra:

-”Có lẽ các anh ấy ra tới đó, thôi để khi khác...”

Vừa nói tôi vừa nhẩy xuống giường hấp tấp chạy ra cửa, quả nhiên các anh đang sắp hàng từ trong trại đi ra. Một cô chạy theo tôi:

-”Chúng em đợi chị sau buổi thăm nuôi, chị nhớ coi cho tụi em đấy.”

Lúc này tôi đâu còn tâm trí mà hiểu cô ấy muốn nói gì, tôi ừ đại cho xong chuyện.

Các anh đã tới gần, tôi lách người ra khỏi đám người đang nhốn nháo đợi người nhà, đưa mắt cố tìm anh. Anh kia rồi, nước mắt tôi trào ra. Anh của em đó ư? Cái người lính hào hoa ngày nào bây giờ như thế sao? cái con người gầy gò hốc hác, đen đủi này là chồng em sao? anh ơi, tôi nhào người ra ôm chặt lấy anh, nước mắt ràn rụa, vòng tay này, hơi ấm này đã bao năm nay tôi chờ đợi. Anh dìu tôi vào phòng thăm nuôi. Tôi ước muốn thời gian ngừng trôi để tôi mãi mãi được ở trong vòng tay anh. Nhưng tiếng nói của người nữ trung úy công an đã tách chúng tôi ra:

-”Các anh ngồi một bên, người nhà một bên, thời gian thăm là 30 phút.”

Ba mươi phút thăm nuôi này cho quãng thời gian chờ đợi hơn 4 năm quả là quá ít ỏi cho tôi, tôi cố gắng kể cho anh nghe thật nhanh, thật ngắn và đầy đủ tất cả những gì về các con, về gia đình, vì tôi biết nếu tôi không làm vậy thì những cảm xúc đang chất chứa trong lòng sẽ bị trào ra theo dòng nước mắt, và tôi sẽ không nói được gì. Anh ngồi nghe tôi với cặp mắt đỏ hoe, anh không khóc, nhưng tôi biết trái tim anh thật đau. Tôi muốn nắm lấy đôi bàn tay anh đang để trên bàn kia để trao tất cả tình yêu đậm đà nhất của tôi cho anh, nhưng không được, tôi đành nhìn anh để thu lấy tất cả hình ảnh yêu thương này vào trong trái tim mình. Rồi anh kể cho tôi nghe sơ đời anh sống, nước mắt tôi cứ ràn rụa như không thể ngừng. Anh bảo:

-”Nghe anh này, đừng khóc nữa, phải giữ gìn sức khỏe để còn lo cho các con, lo cho mẹ, cho bố thay anh vì anh không biết bao giờ anh sẽ trở về..và...”

-”Em biết rồi, và em sẽ đợi chờ anh trở về phải không? Vâng em sẽ chờ, em sẽ chờ mà, anh tin em đi, em sẽ chờ đến khi nào anh trở về mới thôi, anh sẽ về, nhất định thế, anh sẽ về với em, với các con, em tin thế anh ơi.”

Tôi đã cố gắng không khóc nữa, cố gắng nuốt vào tận trong lòng những giọt nước mắt đớn đau, đã nghe lời để anh đừng buồn.

Thời gian qua thật mau, đã đến lúc anh phải vào trại, lợi dụng lúc ra cửa, đông người nhốn nháo, anh ôm tôi thật chặt, và kín đáo hôn nhanh lên môi tôi. Nụ hôn này đến chết tôi cũng không thể quên.

Nhìn theo bóng anh đẩy chiếc xe cút kít, bước thấp bước cao, xa dần, tôi nghe trong tim một luồng buốt nhói dâng tràn, nhớ anh lắm anh ơi, thương anh lắm anh ơi. Sơn ơi.

Quay vào phòng đóng thêm tiền ăn cho anh, sau đó khi tôi sửa soạn đi về, thì một cô trong đội văn hóa đến gần thì thầm:

-”Chị ơi, chị ở lại coi bói cho tụi em, em có xin với chị trung úy trại trưởng cho chị sáng mai thăm anh thêm một lần nữa.”

Nghe được thăm thêm tôi mừng quá:

- “Thật hả, được rồi tôi sẽ ở lại nhưng tôi còn người bạn đi cùng, cô có thể nói cho chị ấy cùng thăm thêm không?

-”Chắc được, chị trung úy còn ở bên kia, em qua nói ngay bây giờ“

Nhờ tài coi bói cho mấy người trong ban văn hóa của trại, mà tôi có hạnh phúc được thăm anh thêm một lần nữa. Lần này chỉ có mấy người chúng tôi đó là vợ chồng chị bạn, và vợ chồng tôi.

Có hợp rồi sẽ có tan, tôi nhìn theo bước anh quay vào mà tim như rã rời trăm mảnh, biết đến bao giờ mình lại có lại nhau đây. Sơn ơi, em yêu anh thật nhiều, anh có biết không?


Hai đứa chúng tôi rời Ba Sao mà bước chân như ngập ngừng không muốn đi, như có gì níu kéo, như có gì cản ngăn. Anh ơi, có phải vì tình yêu, có phải vì thương nhớ mà bước chân em nghe nằng nặng, nghe vướng víu không nỡ rời hả anh? Nước mắt như đong đầy, tâm hồn như rạn nứt. Hai đứa đi bên nhau không đứa nào nói một câu, lòng nặng đầy tâm sự, bước từng bước thất thểu như những bóng ma vật vờ.

Chúng tôi đi bộ từ Ba Sao ra bến xe lửa Phủ Lý. Trời đã về chiều, chỉ còn một chuyến xe chót để về Hà Nội nên người chờ rất đông. Tầu vừa tới, mọi người ùa nhau, chen lấn lên xe. Tôi và chị bạn nhờ nhỏ con và không có hành lý nên dễ len lỏi trong đám người cồng kềnh đồ đạc, tuy vậy cũng phải chật vật, vất vả lắm mới lọt được lên tầu. Dù đang trong mùa đông tháng giá, nhưng vì người trên tầu quá đông, ai nấy cũng chỉ đủ chỗ đặt được hai bàn chân để đứng mà thôi, nên người nào người nấy mồ hôi chảy đầm đìa, chợt trong không khí ngột ngạt ấy, một giọng đàn ông cất lên:

-“Trời ơi, ngạt thở quá, người gì mà đông thế này, cứ như lợn cả một lũ ấy”

Nghe câu nói có vẻ phỉ báng, mọi người nhao nhao lên:

-“Ăn nói kiểu gì mà mất dạy thế, người cả đây mà lại bảo là lợn, ai là lợn hả?”

Một cụ già thấy không khí có vẻ căng, nói đỡ:

-“Thôi bỏ đi, chàng thanh niên lỡ lời mà.”

-“Cháu không lỡ lời, là lợn thì nói là lợn có gì phải sợ, nhìn xem, ai nấy đều bẩn thỉu, nhếch nhác, hôi hám, chen chúc nhau trong cái tầu cà khổ này. Không giống lợn thì giống cái gì, còn sĩ diện hão!”

Có lẽ thấm thía cái thân phận sống dưới một chế độ phi nhân như thế này, con người mà không được giống người lại giống lợn như lời chàng thanh niên nói, nên không thấy ai trả lời lại hết. Nửa đêm thì tầu tới ga Hàng Cỏ, Hà Nội.

Tôi còn thăm anh thêm một lần nữa thì đến cuối năm 1980, các anh được chuyển vào miền Nam ở tại Z30D Rừng Lá, Hàm Tân. Trong Nam, những chuyến thăm nuôi chồng cũng đỡ vất vả hơn và nhất là không phải chen chúc nhau trong những toa tầu chật hẹp, hôi hám và cũ kỹ để được ví như một bầy lợn nữa. Vào thời điểm của năm 1980, đã có lác đác người từ địa ngục trở về, vì thế niềm hy vọng anh cũng sẽ về đoàn tụ với mẹ con tôi đã bắt đầu nhen nhúm chút chút trong lòng. Và cuối cùng thì niềm hy vọng đã thành sự thật khi cầm trong tay tờ giấy báo anh được trả tự do. Niềm vui vỡ òa thành những dòng nước mắt tưởng đã cạn kiệt từ lâu, lại có dịp tuôn chảy:

Anh trở về sau bao năm tù ngục
Để xóa đi những tủi cực ngày qua
Để em anh không còn phải xót xa
Và mơ ước một vòng tay ấm áp...

Tháng 7 năm 1982 anh từ nhà ngục nhỏ trở ra nhà ngục lớn. Cái hạnh phúc nhỏ bé ngỡ đã xa tầm tay, nay đã về đây, bao trùm lên căn nhà mà từ ngày anh đi, vốn đã trống vắng cả vật chất lẫn tình yêu, nay lại đầy ắp tiếng cười, dù nụ cười không tươi, không trọn vẹn trong cái địa ngục trần gian này. Nhưng có anh là có tất cả, anh có biết không, người lính VNCH ngày nào của miền Nam yêu dấu.

Tường Thúy
Tucson - Arizona

hoangphong
Posts: 413
Joined: Tue Feb 12, 2019 7:20 am

Re: QUÁN BIÊN THUỲ

Post by hoangphong »

Rừng xưa đã khép.. -

Lê văn Nguyên -
Đơn vị tiến vào đồn nghĩa quân xã Huy Khiêm mà không gặp sự kháng cự nào của địch quân. Từ đầu hôm qua tín hiệu cầu cứu từ nơi đây hoàn toàn im bặt, nói khác đi là tình hình cực kỳ nguy ngập dữ nhiều lành ít, chính vì vậy mà pháo binh cơ hữu trung đoàn tác xạ vào mục tiêu, bắn suốt đêm cho đến mờ sáng vừa yểm trợ vừa dọn đường cho các đơn vị chủ lực tiến vào giải cứu. Trung đội 3 của tôi là lực lượng tiên phong bước vào khu vực, xung quanh đồn nghĩa quân hoang tàn đổ nát, nó bị cày nát bởi đạn pháo binh, những thân cây bị đốn ngã rơi rụng trên nền đất, mùi thuốc súng nồng nặc cùng mùi máu tươi tanh tưởi còn vương lại trong không khí, nhiều mảnh thân thể, áo quần còn vẫn vướng trên các cành cây, từng hố đạn đều đặn rải rác xung quanh đồn, với tác xạ khủng khiếp như vậy thì đá cùng phải tan huống hồ da thịt con người.

Đồn nghĩa quân Huy Khiêm bị san bằng thành bình địa, cái chòi canh trước đòn bị sụp đổ hoàn toàn, cạnh đó xác một người lính với lỗ chỗ vết đạn trên thân, anh nằm đó mà mắt vẫn còn mở trừng trừng như không cam lòng, khói còn nghi ngút từ bên trong, thỉnh thoảng vài tiếng nổ lép bép của những viên đạn còn sót lại. Tôi cùng Lắm, người lính mang máy truyền tin bước vào bên trong, thận trọng quan sát, nghe ngóng từng chỗ một và cái cuối cùng nhận định là không còn bất kỳ ai còn sống sót, toan bước ra ngoài thì Lắm khều nhẹ tay tôi:

– Ông thầy…bên kia có tiếng rên nhỏ.. Có người còn sống..

Trong căn phòng nhỏ ẩm thấp và tối tăm áng chừng là trung tâm chỉ huy của đồn nghĩa quân, tôi thấy thân người nằm ngửa trên nền đất dưới ánh sáng lờ mờ từ khung cửa nhỏ trên cao hắt xuống, người anh đầy máu bởi những phát súng bắn trực tiếp từ phía trước, ngực bị phá nát, bầy nhầy thịt cùng xương, vài bong bóng máu phập phều theo hơi thở. Với vết thương trí mạng như vậy thì anh đã phải chết từ lâu thế mà còn kéo dài hơi thở như hiện tại là một phép nhiệm mầu-

Trước cảnh tượng đau lòng như thế thì tôi chỉ có còn có thể nói:

– An tâm..chúng tôi mang anh ra ngoài, trực thăng tải thương sắp đến, hy vọng mọi thứ sẽ tốt thôi. Người lính nhếch mép cười, nụ cười ảm đạm, héo hắt và chua chát, máu rỉ ra từ khóe miệng theo cử động:

– Muộn rồi. Cứu không kịp đâu..Tôi biết…Mong các anh tìm.. dùm… vợ…con.. của …tôi…họ.. ngoài kia….Xin…Cầu xin…

– Họ ở đâu? Nơi nào?

Nhưng vô ích bởi người lính sau vài lời trăn trối cuối cùng thì anh nghẹo đầu ra đi vĩnh viễn, đôi mắt trừng trừng nhìn tôi như van xin khẩn cầu tha thiết tha, vài giọt nước mắt long lanh trong suốt ứa ra từ khóe mắt, nó lăn trên má rồi hòa vào máu miệng trước khi rơi xuống đất, tôi không hiểu sức mạnh huyền bí nào đó giúp anh chống lại sự đau đớn, kiệt sức để chờ chúng tôi đến và để rồi gửi gắm lời trối trăng cuối cùng.

– Tôi sẽ tìm nhất định sẽ tìm ra người thân của anh

Tôi run rẩy đưa tay vuốt mắt cho người lính, lòng buồn vô hạn vì sự mất mát đầy đau thương của 2 người.

– Đông Sơn.. Lam Giang gọi.

– Đông Sơn nghe.. Nói đi.

Tôi tóm tắt trình bày sự việc và cuối cùng xin chỉ thị từ người đại đội trưởng, thật lâu có tiếng thở dài từ bên kia đầu máy áng chừng là ông xúc động vì chuyện thương tâm ấy.

– Lam Giang, mày nghe đây.. Cho con cái bung rộng ra tìm nhưng tuyệt đối không được đi sâu vào bên trong bởi đây là vùng an toàn của tụi nó dù không tìm thấy cũng phải trở lại vị trí xuất phát trước khi về chiều. Nghe rõ Lam Giang.

Thằng Đức ngồi trong lòng của tôi cầm quyển tập đọc trên tay ê a đánh vần từng chữ một. Dù mới lên 5 nhưng thằng bé rất thông minh và lanh lợi, không những thế nó còn ăn nói rành rọt như người lớn. Có bé Đức bên cạnh tôi cảm thấy bớt buồn cùng nỗi cô đơn từ khi người mẹ thân yêu ra đi vĩnh viễn, nó là nguồn an ủi cho tôi ở hiện tại và cả tương lai bởi bé Đức không biết cha nó là người tù cải tạo, không bao giờ biết cái chữ Ngụy mà người ta khoác lên người cha. Trong trí óc non nớt của bé Đức thì tôi là người cha mẫu mực và hiền lành, có thể nói sau bà nội thân yêu thì nhất định kẻ thứ hai chính là tôi bởi bà là người nuôi dưỡng thằng bé từ lúc còn đỏ hỏn trong tã lót, là người chăm chút từng miếng ăn, dành từng vật lạ cho nó nhất là thời gian dài đói khổ thiếu thốn sau ngày giải phóng, lắm lúc bà thức trắng đêm canh giữ khi thằng bé bị bệnh, trong thời gian cải tạo dài đăng đẳng người thường xuyên thăm viếng tôi là bà má và thằng con dễ thương này.

– Ba.. Sao ba không về với con với nội? ba xấu lắm con không thèm thương ba nữa đâu!

– Ba đang làm việc ở đây mà khi nào người ta cho phép lúc đó ba sẽ về với con. Ngoan nghe bé.

– Nhớ nghe ba.. nghéo tay đi, ba xạo lắm con không tin đâu.

Một người khách nói đúng hơn là phụ nữ với chiếc khẩu trang bịt kín mặt mũi chỉ chừa đôi mắt, bà đang dẫn chiếc xe gắn máy áng chừng bị trục trặc vấn đề nào đó nên không chạy được nên chỉ biết đẩy đi từng chút một, bà ta ngập ngừng với vẽ e dè khi nhìn căn chòi tồi tàn với vài ba thứ lỉnh kỉnh treo trên vách nhà, một nơi sửa xe không chút tin tưởng thêm vào đó người chủ nghèo nàn, hom hem cùng nét khô khan khó tính trên mặt. Người phu nữ còn đang lưỡng lự thì thằng Đức từ trên chiếc ghế tuột xuống đồng thời chạy u ra ngoài miệng kiếng thoắng nói liền miệng:

– Dì.. xe bị hư phải không? Ba con sửa xe lấy tiền không mắc lắm đâu mà dì biết không ngoài nơi này không còn chỗ nào khác phải đi hết con lộ này mới có xa lắm dì ơi.

Có lẽ thấy thằng bé kháu khỉnh, ăn nói dễ thương khiến bà ta không một chút chần chừ liền đẩy xe vào căn chòi trong lúc tôi xem xét và tìm kiếm chỗ hư hỏng thì thằng bé khệ nệ bưng ra chiếc khay nhỏ cùng cái ấm nhỏ trên tay:

– Con mời dì uống nước, hà thủ ô cùng rễ tranh mà ba mới nấu, ngon và mát lắm dì.

Người đàn bà khẽ bẹo vào má thằng bé dịu dàng nói:

– Không được gọi là dì nghe, kêu là cô. Con tên gì, mấy tuổi? Học lớp mấy rồi?

– Thưa cô, con tên Hoài Đức, 5 tuổi con chưa đi học.

Trong lúc tôi lui cui sửa xe nên không chú ý đến cuộc trò chuyện của thằng con và người khách lạ nhưng khẳng định là vui vẻ, bởi lâu lâu có tiếng cười giòn dả của bé Đức hòa cùng giọng nói êm ả của cô gái.

– Chiếc xe sửa chữa xong, bình xăng con bị dơ, hy vọng sẽ không có gì trục trặc xảy ra, còn tiền công là 500 đồng.

Cô không nói điều gì chỉ lẳng lặng lấy tiền đưa cho tôi nhưng có điều lạ là khuôn mặt thoáng buồn, khóe mắt vương vài giọt nước mắt, nhất là ánh mắt có chút quen quen mà tôi không tài nào nhớ ra chắc chắn là đã gặp qua, nó ủ dột, thê lương và nhiều buồn phiền. Đêm hôm đó sau khi cơm nước xong xuôi và dạy bé Đức ráp vần để năm sau có thể đến trường:

– Ba.. Ba à.. Cái cô hôm nay kỳ cục lắm, cổ khóc hoài hà mà con dổ riết mà không nín.

– Tại sao lại khóc? có phải con nói cái gì đó khiến người ta không vui?

Tôi nhíu mày ngờ ngợ có cái gì đó không hay sắp đến với cha con tôi.

– Ba nói kỳ cục không à.. Bé Đức lắc đầu phụng phịu.. Cổ cầm sợi dây chuyền của con lên coi rồi khóc, con không biết vì cái gì mà cô khóc.. Nín..Nín..Khóc như vậy xấu lắm..

– Sau đó thì sao con, cô còn nói thêm gì nữa không!?

– Có ba. Cổ hỏi má đâu rồi và làm gì, con thưa là má ở xa lắm, xa từ chỗ con đến các ông sao trên trời, ba còn nói con cứ đếm bao nhiêu ông sao trên trời là bấy nhiêu khoảng cách giữa con với má.

Tôi bàng hoàng trong giây lát, câu nói của con tôi và cô gái gợi lại hình ảnh thương tâm và đầy nước mắt của năm xưa, trong suốt thời gian dài vẫn còn đau đáu trong lòng tôi, cố quên mọi thứ với hy vọng thời gian sẽ xóa nhòa nỗi ray rứt ấy. Thời gian cứ thấp thoáng trôi nhanh, bé Đức hiện tại vào mẫu giáo và học rất giỏi và tôi cũng nguôi ngoai chuyện hôm nào, hàng ngày cặm cụi sửa xe kiếm tiền hầu cải thiện đời sống của 2 nhân mạng trong cái xó xỉnh ít người lui tới. Nhưng.. cái chữ nhưng lúc nào cũng có thể xảy ra là điều không một ai mong muốn, cô gái hôm nọ lại xuất hiện lần này không mang khẩu trang cho nên tôi nhìn rất rõ diện mạo của cô ta. Dong dỏng người với nước da trắng hồng mạnh khỏe, giản dị với chiếc quần tây và sơ mi dài tay tuy vậy không dấu nét kiêu sa đài các, một nhan sắc khó tìm so với nhiều cô gái mà tôi từng gặp qua, nó pha trộn cái đẹp giữa cô thôn nữ dân dã cùng nét quyến rũ của nàng công chúa trên cao.

Cô bước vào trong căn chòi đảo mắt nhìn quanh như tìm kiếm, đoán được ý định của cô ta, tôi lập tức lên tiếng:

– Cô muốn tìm bé Đức? Hôm nay nó đến trường rồi, cô có thể cho tôi biết chuyện gì liên quan đến thằng bé?

Cô gái yên lặng không nói lời nào cúi đầu nhìn xuống hình như đang lưỡng lự về vấn đề nào đó khó khăn mà cô khó giải bày. Thật lâu mới buông tiếng thở dài như chất chứa bao nỗi đau thương u uất trong lòng.

– Tôi không biết khởi đầu câu chuyện như thế nào nhưng chắc chắn có liên quan đến bé Đức, chị Khánh Dung và có cả ông trong đó. Gia đình tôi thuộc loại giàu có, cha là thương gia làm nghề thầu khoán, mẹ là giáo sư trường trung học công lập nổi tiếng ở Sài gòn, trong nhà chỉ có 2 chị em, Khánh Dung và tôi, Khánh Hà. ngay từ nhỏ chị Dung rất thông minh và hiếu học cho nên mọi hy vọng của gia đình là mong chị ấy tiến thân vào con đường học vấn để trở thành dược hoặc bác sĩ trong tương lai, không ngờ mọi mong ước của gia đình tiêu tan khi chị tuyên bố chọn ngành sư phạm không phải đệ nhất cấp hay đệ nhị cấp mà là giáo viên bậc tiểu học. Không những vậy, điều làm cho gia đình tức giận là chị tự chọn nơi phục vụ là tỉnh Bình Tuy, quận Hoài Đức, một nơi xa xôi nghèo nàn thiếu thốn mọi phương tiện trong sinh hoạt hàng ngày bất chấp mọi phản đối của cha mẹ, chị Khánh Dung tự mình chọn con đường để phục vụ.

Việc chị dấn thân vào cái nghề bạc bẽo đã gây không biết bao nhiêu nỗi thất vọng cho cha mẹ và kể tiếp một hành động khác của chị là lập gia đình với người lính Nghĩa quân ở nơi chị đang công tác, điều này đưa đến việc cha tôi cắt đứt mọi quan hệ cha con cũng như không muốn một ai nói nhắc tên của chị trước mặt ông. Ngày Chị lên xe hoa về nhà chồng không có lời chúc phúc của cha mẹ,không người thân bên cạnh.

Khánh Hà bụm mặt khóc tức tưởi, tiếng khóc ai oán khiến tôi xót xa trong lòng, mối tình của hai người quả thật đẹp và lãng mạn để rồi cuối cùng họ không còn bị ai chia uyên rẽ thúy.

– …Hôm ngày đầy tháng bé Đức tôi có đến nơi đó cùng lời chúc phúc đứa cháu thân yêu và sợi dây chuyền vàng có khắc K H đeo trên cổ nó như là kỷ niệm của tôi dành cho, cùng có ý nghĩa là tôi luôn ủng hộ mối lương duyên của chị mình bất chấp sự phản đối của ông bà cha mẹ, mối tình cô giáo xinh đẹp trí thức cùng người lính nghĩa quân thật thà chất phác và bình dị khiến tôi khâm phục vô cùng, yêu thương không phải vật được đặt trên bàn cân để tính toán hơn thua nặng nhẹ mà căn cứ vào lòng thành tín và hiểu biết, từ đó cuộc sống cho cả hai mới trường tồn vĩnh viễn. Tin tức chiến sự xảy khắp nơi trên đất nước đều được tôi theo dõi thường xuyên, đặc biệt là tỉnh Bình Tuy, quận Hoài Đức nơi chị Dung đang công tác, linh cảm sẽ có cái gì đó không hay xảy ra cho cả hai và điều này chứng thực, đồn nghĩa quân xã Huy Khiêm bị tràn ngập và không còn một ai sống sót. Có điều kỳ lạ là xác người lính trưởng đồn không tìm thấy và chị tôi cũng vậy, một sự mất tích khó hiểu theo luận cứ thì cả hai có thể bị lực lượng địch mang đi và bắn hạ trong rừng già. Từ việc suy luận ấy cho nên tôi bỏ nhiều thời gian tìm kiếm đồng thời thuê người vào tận trong rừng sâu với hy vọng nếu người còn sống càng tốt bằng không phải bằng mọi cách mang thân xác về nếu họ đã mất đi, thế nhưng hoài công vô ích mọi mong ước của tôi tiêu tan cho đến ngày nước mất nhà tan, kế tiếp cả nhà di tản ra nước ngoài sinh sống từ ngày ấy. Tuy nhiên tôi không bỏ cuộc, luôn nghe ngóng tin tức về người chị của mình cũng như thực hiện nhiều chuyến về nước để tìm kiếm và đây là lần đi cuối cùng cuối cùng để rồi sẽ không bao giờ trở lại vùng đất nhiều bi thương này. Không ngờ và không bao giờ nghĩ là mình gặp lại đứa cháu thân yêu của mình và sợi dây chuyền trên cổ của nó là chứng minh điều này. Ông có thể thuật lại mọi chuyện xảy ra ở ngày hôm ấy cho tôi nghe được không? Cầu xin ông!

……Chúng tôi đi vào khu rừng buông sau khi vượt qua quãng lau sậy dày đặc, rậm rạp. Trung đội dàn đội hình hàng ngang vừa đi vừa nghe ngóng cũng như thận trọng trước mọi động tỉnh xung quanh bởi đây là mật khu của địch quân cùng với lực lượng đông đảo trú đóng. Trời càng về chiều với oi bức nóng nực của mùa hè, trong rừng già không có lấy một tiếng động ngoài trừ vài tiếng chim kêu thê thảm phá tan sự tĩnh lặng vốn có của nó. Dọc theo con suối nhỏ uốn mình theo bờ đất, âm thanh rì rào liên tục của tiếng nước chảy, vài bọt nước trắng xóa tung lên không khi nó va chạm các khối đá đầy rong rêu. Rút cái khăn trong ba lô ra lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt, thằng Kính lẩm bẩm gắt gỏng:

– Mẹ cha nó! Trời gì mà nóng thấy sợ, đã vậy còn tối hù thấy mà ghê.

– Mày nói ít được không Kính! Ráng vãnh lỗ tai nghe xem có động tĩnh gì thì cho tao biết.

Tôi trừng mắt lườm người lính mang máy truyền tin đang đi bên cạnh với vẻ bực bội, thấy ông thầy của mình lộ vẻ không vui, Kính cười giả lả làm lành:

– Em đang nghe mà thầy, lỗ tai của em thính lắm không có cái gì giấu em đâu.

Chúng tôi len lỏi qua các lùm cây, leo qua các thân cây mục nát nằm chỏng chơ trên đám lá mục cũng như băng qua con suối để tìm kiếm thế nhưng cho đến giờ phút này tung tích của vợ con người lính vẫn bặt tăm, hơn nữa trời càng tối dần, tôi bặm môi quyết định:

– Lên phía trước một chút, nếu không tìm thấy thì mình rút ra ngoài cho an toàn.

Trong khi tôi vừa ra lệnh thì thằng Kính nghẹo đầu như đang lắng nghe rồi sau đó đưa tay chỉ về phía trước:

– Hình như có tiếng khóc nếu không lầm là con nít

Vừa lúc đó Phú, người trung đội phó chạy đến anh vừa thở vừa hỏi:

-Thiếu úy, mình lùi ra ngoài hay là vẫn tiếp tục tìm? Hai tiểu đội bên kia báo cáo là không thấy bất kỳ khả nghi nào hết.

– Tôi biết rồi, nói anh em chuẩn bị rút lui, tôi lên phía trước một chút xem sao, Kính nghe tiếng khóc của con nít.

– Nếu vậy thì mình lên đó đi ông thầy, hy vọng thằng Kính nói không sai.

chúng tôi hướng về phía trước với tâm trạng bồn chồn lo lắng đoòng thời hy vọng bắt đầu nhen nhúm khi tiếng khóc ngày càng rõ dần, tiếng khóc của đứa bé khi còn khi mất nương theo chiều gió, thận trọng từng chút tôi hướng mũi súng về trước và sẵn sàng siết cò nếu có bất kỳ bất lợi xảy ra và..

Ba người chúng tôi khựng lại và ngây người trước cảnh tượng hết sức thương tâm: Một người đàn bà ngồi dựa vào thân cây, các khuy áo mở tung ra lộ làn da xám xanh, trước ngực loang lổ máu đã ngả sang màu sẫm đen, viên đạn quái ác nào đó đã cướp đi mạng sống của người phụ nữ này, đứa bé áng chừng vài tháng tuổi nằm trong lòng mẹ rúc đầu tìm vú, miệng đầy máu, đôi lúc nó giãy dụa, la khóc tiếng khóc mòn hơi vì đói khát vì đau đớn. Lũ kiến rừng bu đầy trên người đứa bé, chúng đánh hơi mùi máu, đánh hơi được sự sống sắp rời bỏ từ sinh vật nhỏ bé này. Thằng Kính vất khẩu súng vội vã bế nó lên, bên cạnh người trung đội phó nhanh chóng rút cái khăn quàng cổ phủi lia lịa những con kiến còn đeo dính trên người đứa nhỏ.

Tôi cúi xuống cầm bàn tay người đàn bà để xác định tình trạng còn sống hay đã chết, bất thình lình bà ta hé mắt nhìn tôi, đôi mắt đã lạc thần nhưng hiện lên nét mừng rỡ, có lẽ nhìn ra bộ áo quần màu xanh quen thuộc mà người chồng thường mặc trên người, bà đăm đăm nhìn về phía trước, môi mấp máy như muốn nói điều gì đó mà không thể, kế tiếp ánh mắt dần hướng về đứa trẻ với nỗi yêu thương pha lẫn chua chát nghẹn ngào, chúng tôi im lặng nhìn nhau mà không một ai lên tiếng vì biết trong giờ phút này nếu nói những lời an ủi cũng cầm bằng vô ích.

– Nuôi.. dùm… con.. t..ô..i.. Xin..c.á..c ..

Bà ta rướn người thu hết tàn lực nắm tay tôi cùng với ánh mắt cầu khẩn và mong đợi.

– Chị yên tâm ra đi, tôi sẽ chăm sóc đứa bé chính tay mình nuôi dưỡng mà không trao nó cho bất cứ ai cũng như viện mồ côi.

Người đàn bà thở một hơi dài thật nhẹ, bàn tay lơi dần và cuối cùng buông thõng trên nền đất, bà đã chết sau vài lời nhắn nhủ cuối cùng, đôi mắt nhìn đăm đắm vào khoảng không trên cao, nơi không có hận thù, giết chóc. Khánh Dung được an táng cùng người chồng cạnh con suối nhỏ dưới tàng cây thao lao rậm mát. Tôi chọn nơi đó bởi họ có thể nghe tiếng suối chảy, tiếng gió reo, ngắm những nụ hoa tím trong khoảng không vô tận. Một thế giới riêng biệt cho hai người nơi không có chiến tranh thù hằn.

– Tội nghiệp cho chị tôi! Khánh Dung ơi! Đau đớn cho chị quá đi thôi.

Khánh Hà bụm mặt khóc ngất, tiếng khóc xé lòng khiến tôi cay cay mũi tưởng chừng nước mắt có thể rơi ra bởi chuyện thương tâm ấy, dù bao năm trôi qua tôi cố quên cũng như cố không nghĩ đến nhưng khi mường tượng đến đôi mắt của người sắp chết cùng với lời trăn trối cuối cùng khiến trong lòng ray rứt mãi không nguôi.

Tối hôm đó sau khi trình mọi việc cho người đại đội trưởng khả kính và xin ông cho ra quyết định về trường hợp của đứa bé.

– Chuyện này không đơn giản như mày nghĩ! Ai cũng biết 2 người có con và hiện tại nó ở đâu? Mẹ nó ra sao? Xác người trưởng đồn tại sao mất tích? Chi khu,Tiểu khu rồi sẽ điều tra thực hư câu chuyện và lúc đó tao lẫn mày bị dính cán búa.

– Tôi đã nhận lời với vợ chồng họ là nuôi dưỡng thằng nhỏ ít ra nó còn có người thân bên cạnh, tôi không muốn đứa bé là trẻ mồ côi khi giao cho hội từ thiện hoặc trong các cô nhi viện, xin đại úy cho đặc ân cấp cho tôi nghỉ một vài ngày phép để mang nó về cho người nhà chăm sóc. Nếu có chuyện gì xảy ra tôi xin gánh toàn bộ trách nhiệm cũng như không nêu ra bất kỳ vấn đề nào liên lụy đến cấp chỉ huy.

Tôi rời khỏi đơn vị khi trời vừa mờ sáng, đi với sự chấp thuận ngầm của người chỉ huy khả kính, đi mà không có bất kỳ tờ giấy phép trong người. Không hiểu tại sao khi qua nhiều trạm kiểm soát mà không có bất cứ ai chậm lại để hỏi han căn vặn, nhất là đi qua khu Quân Cảnh phụ trách, họ thờ ơ và không quan tâm gì đến người lính mặc quân phục nhàu nát dơ bẩn đầy bùn đất, hơn nửa còn có đứa bé trên tay, một điều huyền diệu khó có thể hiểu được nhưng tự đáy lòng của tôi thì hẳn cha mẹ của đứa nhỏ linh thiêng phù hộ giúp tôi vượt qua mọi chướng ngại.

Tôi kể lại đầu đuôi câu chuyện với mẹ và mong muốn bà chấp thuận nuôi thằng bé trong khi tôi còn miệt mài ngoài sương gió, xông pha ở chiến trường. Trần Hoài Đức tên của đứa bé mà tôi đặt cho nó, nơi cha con tôi gặp nhau trong khu rừng váng thuộc quận Hoài Đức cũng là nơi mà cha mẹ nó tương ngộ, mối tình thật đẹp giữa cô giáo xinh đẹp thông minh và người lính nghĩa quân mộc mạc,hiền lành chân thật.

– Tôi muốn mang bé Đức về nuôi không biết ý kiến của ông như thế nào?

– Không có gì trở ngại cho tôi cả nhưng cô sẽ trả lời sao với đứa bé khi nó hỏi về ba nó, nguyên do gì nó ra đi một mình mà không có ba bên cạnh. Ở cái tuổi còn quá nhỏ chúng ta tốt nhất không nói về cái chết bi thảm của cha mẹ thằng bé.

– Thôi được.. Tôi về suy nghĩ lại xem sao, phải chọn một phương án nào tốt nhất thuận lợi cho tôi, anh và bé Đức.

Thật lâu kể từ hôm ấy Khánh Hà không trở lại, theo ý nghĩ của tôi thì cô ta thay đổi quan điểm của mình hoặc thấy đứa cháu có người cha tốt quan tâm cùng chăm sóc chu đáo cho nên cũng yên lòng và bản thân tôi dần quên đi chuyện ấy, bởi những gì uẩn uất trong lòng đã được bộc lộ. Còn vấn đề khác cũng quan trọng không kém là cật lực kiếm tiền, thời gian gần đây sinh hoạt hai cha con bắt đầu khó khăn bởi nhiều tiệm sửa chữa xe được mở ra để cạnh tranh và cái thua thiệt dĩ nhiên về phần tôi bởi cái tồi tàn của căn chòi cùng dụng cụ cũ kỹ không đáng tin cậy, nhiều khi cả ngày không thu được mấy đồng bạc. Cứ như tình trạng này kéo dài thì hai cha con phải húp cháo trừ bữa. Hôm nay tôi ra chợ với sự tính toán chi ly từng món đồ bởi không còn bao nhiêu tiền trong túi, vài con cá khô, một bó rau cải ngọt và chút bánh ngọt cho bé Đức, quãng đường không dài nhưng tôi cảm thấy mệt mỏi và choáng váng đầu óc, có lẻ sau bao năm tù đày khổ ải đã cướp đoạt hết sức lực, thêm vào đó ăn uống thiếu thốn cho nên mới xảy ra tình trạng này.

Còn đang ngồi trên đầu con dốc nghỉ ngơi đôi chút thì bóng dáng của đứa con xuất hiện trước mặt, thằng bé chạy u đến ve vẩy lá thư trên tay liến thoắng liền miệng:

– Ba..mình có thư mà người viết có tên lạ nghe… Ơ nờ ân khờ anh khanh sắc Khánh …A huyền à hờ.. Hà.. Khánh Hà là ai hả ba?

Tôi như bị điện giật ngây người thật lâu mà không thốt lời nào, thằng nhỏ thấy điệu bộ thất thần của tôi cho nên hoảng hốt đưa tay lên trán thăm dò rồi cằn nhằn:

– Ba.. Ba làm sao vậy? Bị bệnh phải hông? Con nói rồi mà ba không nghe, ra nắng phải đội nón lên đầu.

Tôi vuốt tóc thằng con đoạn gượng cười trấn an nó:

– Khỏe mà con, đưa thư cho ba xem sao.

“….Anh Lam, ngày 12 tháng 5 này em về thăm cha con anh, nói cho nó biết là có mẹ về, chuyện chúng ta rồi sẽ nói sau..”

Tôi đọc lá thư mà như người trong mộng, sự việc đến quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng của tôi bởi lối xưng hô thân mật và không cần dấu diếm mục đích của mình khi về nước lần này, nhận thân và kết mối lương duyên cùng người lính sa cơ thất thế.

– Khánh Hà là ai hả ba?

– Là tên của mẹ con, mẹ về thăm và báo cho biết trước.

Thăng Đức hò hét nhảy lưng tưng quanh tôi, âm thanh vui mừng hớn hở.

– Má về thăm mình hả ba? Con nói rồi nhất định là má thương và nhớ con nhiều lắm mà. Con có má rồi ba ơi.. con có má rồi.

Trong suốt thời gian chờ đợi, thằng Đức cứ ra vô ngoài cửa mắt trông ngóng hướng về đầu con dốc, nó mòn mỏi trông chờ đôi khi cầm bức thư lẩm nhẩm ráp vần từng câu một, sau đó cẩn thận xếp ngay ngắn rồi bỏ vào túi như đang cất giữ vật vô cùng quý giá, thậm chí trong giấc ngủ còn mớ gọi người mẹ của mình.

Khánh hà thong thả kéo chiếc va li từ bên trong đi ra, cô ăn mặc thật giản dị và không một chút trang điểm nhưng vẫn ẩn hiện nét xinh đẹp dịu dàng và quyến rũ. Tôi đẩy nhẹ thắng bé về phía trước đoạn nhẹ nhàng nói vào tai:

– Mẹ con đó, ra mừng mẹ đi con.

Bé Đức ngần ngừ pha lẩn rụt rè bởi nó không ngờ người mẹ của mình lại xinh đẹp và đài các như vậy. Trong ý nghĩ của thằng bé thì bà chắc hẳn phải lam lũ nghèo nàn và xấu xí như cha con nó, nhưng rồi không thể ngăn cản nỗi khao khát tình mẫu tử mà bấy lâu nay nó chưa bao giờ có cho nên vừa chạy vừa kêu khóc:

– Má.. Má.. Con nhớ má ..Con thương má…

Khánh Hà vội bỏ chiếc va li rồi ôm chầm lấy thằng bé ràn rụa nước mắt:

– Má cũng nhớ con nhiều mà. Tội nghiệp con của tôi! Mẹ thương con lắm biết không Đức.

Tôi đứng đó mà lòng bùi ngùi xúc động, mắt nhòa lệ vì vui mừng rốt cuộc rồi thằng bé cũng tìm thấy người thân của mình sau bao năm xa cách, dù chỉ là bà mẹ hờ nhưng giữa 2 người vẫn có máu mủ tình thâm còn tôi trong tương lai thì sao? Ở lại trong xứ sở đầy nghi kỵ cũng như phân biệt giai cấp hay là cùng cô ra nước ngoài với tư cách là người chồng hờ để rồi sau đó đường ai nấy đi.

Đêm hôm đó sau khi bé Đức an giấc, tôi cùng Khánh Hà ra ngoài hiên nhà để trò chuyện đồng thời nghe cô nói về hướng đi trong tương lai:

– Sau nhiều đêm suy nghĩ để rồi đưa đến quyết định cuối cùng là mang anh cùng bé Đức ra nước ngoài sinh sống. Chỉ có biện pháp này mới vẹn toàn cho chúng ta mà thôi, mang thằng bé ra đi thì có thể nhưng còn anh thì sao? Em sẽ trả lời với nó như thế nào khi không có anh bên cạnh? Chắc chắn tình thương của thằng bé đối với anh sâu đậm hơn, em không bao giờ hiện diện bên cạnh trong suốt quãng đời thơ ấu cho đến hiện tại mặc dù bé Đức khao khát tình mẫu tử nhưng trong thâm tâm của nó thì hình ảnh người cha mới thật sự quan trọng, thiếu vắng anh bên cạnh thì chắc hẳn tâm lý sẽ bị tổn thương nặng nề, không đứa trẻ nào mà không cần tình thương của cha mẹ, chỉ có tình thương ấy mới có thể khiến chúng vui vẻ trong cuộc sống và hạnh phúc trong sự đầm ấm của gia đình, chúng ta không thể làm cho bé Đức mất mát thêm nữa. Anh và em sẽ hiện diện bên cạnh nó trong quãng đời còn lại chỉ có như vậy mới vẹn toàn cho cả ba.

– Hay là chúng ta tạm thời sống với nhau như vậy rồi sau đó.

Tôi chỉ có thể tạm chấp nhận biện pháp ổn thỏa mà Khánh Hà đưa ra nhưng đồng thời đưa ra ý kiến của mình khi cùng sinh sống ở nước ngoài sau này:

– Không có tạm thời hay gì gì đó sau này, chúng ta sẽ có một gia đình đầm ấm và hạnh phúc, thay mặt vợ chồng chị Dung chăm sóc cùng nuôi dưỡng bé Đức cho đến ngày khôn lớn. Ngày mai, anh và em lên chính quyền địa phương làm thủ tục kết hôn. Có giấy tờ hợp lệ thì thủ tục làm hồ sơ xuất cảnh sẽ dễ dàng hơn.

Tôi có những ngày vui vẻ và hạnh phúc ở xứ người, Khánh Hà làm tròn bổn phận người vợ, người mẹ mà không có bất kỳ phàn nàn hay kêu ca điều gì, nhiều khi tôi không bao giờ dám tin về những gì xảy ra trước mắt, một người vợ đẹp đẻ hiền lành và nết na và đàn con kháu khỉnh. May mắn hay là duyên xảo ngộ mà ông trời dành cho tôi, người lính sa cơ thất trận đã có những ngày cơ cực ở quê hương.

– Em à..Tại sao lại tốt với anh như vậy? Thiếu gì người lựa chọn tại sao lại phải là anh?

– Ngày xưa ông bà ta có bao giờ tìm hiểu hay ngỏ lời yêu thương, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thế có ai bỏ nhau, họ sống đến đầu bạc răng long con cái đầy đàn. Em chưa bao giờ yêu ai mà cũng chẳng có hình bóng chàng trai nào trong trái tim, sống như vậy cho đến ngày gặp anh ở con dốc nhỏ, trong căn chòi tồi tàn rách nát, người đàn ông nghèo khổ nhưng có trái tim vàng cùng lòng nhân hậu, anh ta chăm chút vá từng mụn vải trên áo quần, dành nhiều yêu thương sâu đậm cho đứa con. Trái tim của em rung động từ dạo đó cũng như phát hiện khi yêu không cần phải mặt mũi, địa vị trong xã hội mà phát sinh từ sự nhận thức tư cách cùng hành động. Em yêu người ta nhiều lắm nhất là khi biết sự khốn cùng của cha con anh trong xã hội mà tình người chỉ đong đầy lòng bàn tay. Chỉ một lời hứa với người sắp mất mà anh ngậm đắng nuốt cay nuôi dưỡng đứa bé xấu số mồ côi cả cha lẫn mẹ, con người như thế thì bảo sao con tim của không rung động.. Một cuộc hôn nhân giả trên giấy tờ nhưng thật sự từ con tim của em thúc giục mà ra, thật cũng là giả mà giả cũng là thực, người thực, việc thực hóa ra còn tốt hơn là người thực, việc thực trong tưởng tượng.

Ngày tháng trôi qua, Hoài Đức bây giờ thành chàng thanh niên cao lớn, lực lưỡng và tràn đầy nhiệt huyết, con đường học vấn đang mở ra trước mắt nhưng có một điều khiến tôi và Khánh Hà bất ngờ là thằng bé tuyên bố chọn ngành sư phạm, một công việc nhàm chán và ít có tương lai, nghề nghiệp mà ông bà ngày xưa cho là bạc béo, bán cháo phổi.

…Chẳng lẻ thằng bé lại đi vào con đường của mẹ nó, con đường nhiều chông gai lắm thử thách, với tài sức cùng sự thông minh thì thằng bé có thể chọn nghề nghiệp nhàn hạ và hái ra tiền.Tôi nhiều đêm suy nghĩ và trò chuyện cùng Khánh Hà về tương lai của Hoài Đức

– Ý của chị Dung lúc còn sống là thế dù đã mất đi nhưng em tin rằng chị của em luôn mãi bên cạnh đứa con của mình, chị dìu dắt nó trên con đường sự nghiệp cũng như kế tiếp con đường của mình còn dở dang, một hoài bảo mà chị Dung ôm ấp khi còn ở bậc trung học, chị dùng mọi kiến thức cùng tài học của mình để truyền bá cho các em nhỏ hiếu học ở vùng thôn quê nơi thiếu thốn nhiều phương tiện cùng khó khăn trong cuộc sống.

Ở nơi thật xa, thật cao Khánh Dung có lẽ mãn nguyện khi nhìn thấy đứa con của mình đã thành tài và sẽ nối gót bà để thực hiện những hoài bão to lớn mà bà chưa có thể hoàn thành, một con đường đòi hỏi sự kiên nhẫn và lòng vị tha. Ngày nào đó tôi sẽ dẫn thằng bé về quê hương, thăm lại ngôi mộ của người thân nơi đó sẽ kể lại câu chuyện ngày xưa cùng những lời nhắn nhủ cuối cùng.

Bên con suối nhỏ, dưới tàng cây thao lao rậm mát với những nụ hoa tím lung linh trong gió, Hoài Đức ngồi cạnh ngôi mộ nhỏ, nó thì thầm nói về quãng đời đã qua, những ngày tháng hạnh phúc bên người cha bất đắc dĩ, bên cạnh người dì cũng là người mẹ thân yêu duy nhất, họ trìu mến nâng niu và dành hết mọi tình thương cho đứa con, đứa cháu lạc loài cùng xấu số của mình.

Xã Huy Khiêm, quận Hoài Đức ngày xưa với hàng buông bát ngát, những rặng cây thao lao cao vút trong khu rừng già và giờ đây mọi thứ đều khép lại, ba má của Hoài Đức yên tỉnh dưới tàng cây, lắng nghe tiếng suối rì rào, đón những nụ hoa tím lượn lợ rơi trong gió. Một vùng đất thanh bình không có chiến tranh, không có tiếng súng và không có người chết cùng hận thù.

Lê văn Nguyên

Post Reply