Góc nhỏ của anh 3 Giang
Moderator: CNN
Đàn Ông Và Đàn Bà
Đàn ông và đàn bà là cả 2 thế giới khác biệt nhau. Họ khác nhau về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ, cũng như về cách hành sự trong cuộc sống. Bởi những nguyên nhân này mà thường xảy ra biết bao nhiêu là chuyện hục hặc, hiểu lầm lẫn nhau, cơm không lành canh không ngọt, khắc khẩu, ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh phúc gia đình… Bài viết này được phỏng theo tác phẩm nổi tiếng đã đạt số bán kỷ lục 8 triệu cuốn: Why Men Don’t Listen & Women Can’t Read Maps by Barbara and Allan Pease, Broadway Books, New York. Ở đây người viết không có chủ đích đánh giá hay phán xét sự tốt xấu của các hành động ở phía người Đàn ông cũng như ở phía người Đàn bà. Tất cả các điều nêu ra dưới đây là kết quả nghiên cứu và nhận xét của giới y khoa và của các nhà tâm lý học Tây phương. Đúng hay sai đều do bạn đọc tự mình phê phán lấy…NTC
Đàn ông và Đàn bà khác nhau về nhiều mặt: về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ cũng như đôi khi về cách giải quyết một vấn đề! Họ thường tuân theo những quy luật khác nhau… Đấy là chưa nói đến cá tánh bẩm sinh của từng cá nhân. Ngoài ra, tôn giáo, giáo dục gia đình và kinh nghiệm sống cũng chi phối phần nào cách suy nghĩ và hành động của họ.
Mỗi khi người Đàn ông vào washroom, là họ có một mục đích rõ rệt và nhất định rồi. Đàn bà thì không những xem washroom là một nơi để giải quyết một nhu cầu của cơ thể mà nó còn là một nơi hẹn hò, để các bà tâm sự to nhỏ với nhau về đủ thứ chuyện và dĩ nhiên cũng là nơi chốn để làm duyên, để tô lại môi son, thêm chút má hồng và chải lại mái tóc…Bạn có để ý không? Giữa buổi tiệc, các bà có lệ là thường rủ nhau đi washroom cùng một lúc. Ngược lại, các ông nếu cần đi thì chỉ tự động đi có một mình mà thôi… Lúc xem TV, đến phần quảng cáo thương mại các ông thường bóp cái tầm xa (remote control) lia lịa để đổi đài, ngược lại các bà thì nhẫn nại hơn và vẫn tiếp tục xem phần quảng cáo một cách bình thản… Các bà thường phàn nàn các ông sao làm biếng kéo nắp toilet xuống quá mỗi khi tè xong, còn các ông thì càu nhàu tại sao các bà sao không chịu dỡ nắp lên khi các bà xong việc cho người ta nhờ một tí… Các bà thường hay tỉ mỉ từng ly từng chút, chi tiết quá trời nên thường trách các ông sao quá bừa bãi. Đàn ông thường phải mất rất nhiều thời giờ để tìm được 2 chiếc vớ cùng màu bỏ lộn xộn không thứ tự trong ngăn tủ, nhưng ngược lại các CDs của họ đều được xấp xếp rất ư là có thứ tự trên bàn. Đàn ông phải mất cả buổi mới tìm ra xâu chìa khóa xe bị thất lạc, trong khi Đàn bà tìm ra ngay chỉ trong một thời gian rất ngắn… Đàn bà thường không thấy ánh đèn phựt lên ngay trước mặt báo hiệu xe sắp hết xăng, nhưng họ thấy ngay chiếc vớ bẩn vất bừa bãi trong góc kẹt phòng… Các ông thường trách các bà về cách lái xe, còn các bà thì không hiểu tại sao các ông lại rất thích đậu xe kiểu song song (parallel parking) bằng cách vừa nhìn kính chiếu hậu vừa lui vô chỗ đậu hẹp té… Đàn ông có khiếu xác định vị trí trong không gian, họ đọc bản đồ rất nhanh và tìm ra hướng Bắc rất dễ dàng. Nhờ năng khiếu này mà thuở tạo thiên lập điạ, người Đàn ông mới có thể đi săn thú trong rừng để nuôi sống gia đình. Đàn bà nếu có xem bản đồ họ thường xem ngược ngạo. Lỡ có lạc đường, thì các bà thường mau mau ngưng xe lại trạm xăng để hỏi thăm, còn các ông thì ít chịu làm như vậy để khỏi bị chê là mình quá yếu quá dở. Các ông thường ráng chạy loanh quanh cả tiếng đồng hồ để tìm đường, miệng thì lẩm bẩm: “hình như tôi có thấy chỗ này rồi”...Đàn bà thường có thị giác ngoại biên rộng lớn (wider peripheral vision), Đàn ông thì có thị giác hẹp hơn nhưng lại thấy rất xa (narrow tunnel vision). Bởi vậy, nếu có lái xe đường xa, người ta khuyên nên để Đàn bà lái xe lúc ban ngày sáng tỏ, còn Đàn ông thì nên lái xe lúc về đêm tăm tối vì họ có thể nhận thấy các xe khác từ xa ở phía trước lẫn phía sau…Đàn bà xem việc đi chợ, đi shopping hay đi window shopping là một cái thú tiêu khiển, một cách để giảm stress mặc dù không cần phải mua một món hàng nào cả. Ngoại trừ mấy năm đầu vừa mới cưới vợ, Đàn ông thường tò tò theo chân bà xã cho bả vừa vui lòng vừa hãnh diện với thiên hạ, nhưng lần lần vài năm sau thì các ông rất ngại cái món này, nó vừa mỏi cẳng, vừa bực mình và nó cũng vừa mất công mất thời giờ quá đi thôi. Trong các tiệm bán thời trang cũng như trong các thương xá người ta thường thấy có băng có ghế cho các ông và các cụ ông ngồi chờ các bà, các cụ bà. Đàn ông nếu có muốn mua một món gì thì họ đã biết họ thích cái gì rồi, cho nên đi thẳng vào tiệm mà mua một cái rụp khỏi phải mất công lê bước hết tiệm này đến tiệm khác. Đàn bà rất tinh ý, và có lẽ có giác quan thứ 6 gì đó. Người Đàn bà có khiếu bắt mạch, và hiểu rất dễ dàng ý nghĩa của các sự thay đổi trên nét mặt người Đàn ông. Các ông đừng có mong dối gạt các bà được đâu. Nếu có muốn nói dối thì hãy dùng telephone, viết thơ, hoặc gởi email thì có thể dễ thành công hơn là phải chạm mặt thẳng với các bà. Đàn ông không có cái khiếu này như ở Đàn bà…Đàn bà cũng rất thính tai hơn Đàn ông. Nửa đêm, nếu cháu bé khóc oẹ oẹ ở phòng bên cạnh thì thường là các bà hay liền. Nước lavabo nhểu lỏn tỏn thì các bà biết liền, còn các ông thường ngủ khò mà thôi. Não của Đàn ông chỉ program để làm mỗi lần một việc mà thôi. Họ chỉ sử dụng có 1 bán cầu não (thường là phía trái) để suy nghĩ. Mỗi khi ngừng xe lại để đọc bản đồ là họ cần phải vặn nhỏ cái radio xuống rồi mới có thể đọc được. Đang xem TV mà bà xã hỏi thì có ông nào nghe đâu. Bởi vậy lúc các ông xã đang lái xe các bà xã đừng nên nói đừng nên hỏi gì hết có thể nguy hiểm đó! Ngược lại ở Đàn bà, mỗi khi suy nghĩ họ thường sử dụng cả 2 bán cầu não phía trái và phía phải , và nhờ vậy các bà có thể dễ dàng làm được nhiều việc cùng một lúc. Đàn bà có thể vừa đọc sách và vừa nghe radio hoặc vừa làm bếp nấu nướng vừa nói điện thoại. Các bạn có để ý không, trong các siêu thị ở quày trả tiền thường các cô thu ngân viên, mắt vừa nhìn các món hàng, tay thì bấm máy lia lịa, đôi khi vừa làm vừa trả lời khách hàng hoặc vừa viết và vừa nói điện thoại kẹp nơi cổ. Nếu được hỏi thình lình phía nào là tay phải, phía nào là tay trái, các bà thường hay lộn nếu họ không nhìn vào chiếc nhẩn đeo trên tay. Các ông thường phàn nàn các bà là miệng thì biểu người ta quẹo trái nhưng trong đầu họ thật sự muốn mình quẹo mặt. Đàn ông thán phục Đàn bà về cách bắt chuyện giữa đám đông hay trong các buổi tiệc. Mặc dù toàn là khách lạ nhưng các bà vẫn có cách trau đổi với nhau về đủ thứ chuyện, người này khen qua người kia khen lại, nói đẩy đưa quên thôi…Các bà cho rằng các ông thường hay lạnh nhạt về tình cảm, ít thố lộ tâm sự và có vẻ kín đáo e dè trước đám đông. Các bà nghĩ rằng Đàn bà có nhiều tình cảm hơn Đàn ông, còn các ông thì cho rằng bọn họ cũng rất tình cảm nhưng ít bộc lộ ra ngoài. Tuy nhiều lúc thấy người Đàn ông im lặng nhưng thật sự chính lúc đó họ nói một cách âm thầm cho chính họ! Đàn ông không thích ai cho mình ý kiến nầy nọ. Sự ít nói của người Đàn ông có thể được người Đàn bà hiểu lầm là mình không còn được thương nữa. Đối với chuyện chăn gối, các bà thường trách các ông thiếu sự lãng mạn, sao chỉ muốn vụ đó một cách nhanh chóng, nhào vô là làm liền để các ông có thể hạ hỏa gấp rút rồi sau đó thì lăn ra ngủ khò quên cả người ta nằm bên cạnh, còn các ông đôi khi trách các bà hơi thụ động và thiếu sáng kiến… Nói tóm lại, theo Allan Pease thì men want to have sex but women want to make love. Đàn ông thường trách Đàn bà thường hay nói nhiều và cũng thường hay so sánh quá. Nói chuyện mới đả đành đi, đàng này chuyện cũ đã nói nhiều lần rồi các bà vẫn có thể hâm nóng lại và đem ra nói nữa. Ở người Đàn bà, các dữ kiện, tín hiệu, thông tin bên ngoài được cất giữ trong não của họ một cách khá lộn xộn. Cách duy nhất để các bà đem vấn đề ra ngoài là phải nói nó ra và nhìn nhận nó. Bởi vậy Đàn bà nói nhiều hơn Đàn ông là lẽ thường. Các bà cần nói ra để bớt căng thẳng tinh thần, để làm giảm stress. Các ông phải rán nghe mà thôi và đừng bao giờ đề nghị một giải pháp nào hết cho vấn đề mà các bà tuôn ra. Các bà chỉ cần có người ngồi nghe chớ không phải các bà muốn tìm cách giải quyết vấn đề đâu. Ở Đàn bà, việc nói chuyện và việc tâm sự là cách duy nhất để họ làm bạn với nhau. Tuy cả ngày đã đi shopping với bà bạn, mà khi vừa về đến nhà các bà cũng còn chuyện để nói với nhau qua điện thoại cả tiếng đồng hồ nữa. Các ông mỗi khi cần nói chuyện là họ đi thẳng vào vấn đề. Ở người Đàn ông các tín hiệu thông tin bên ngoài được cất giữ riêng rẽ trong những ngăn riêng biệt trong não. Cuối ngày các ông đem nó ra ngoài rất dễ dàng để giải quyết. Việc nói nhiều của các bà thường làm các ông bực mình không ít, nhưng đó là dấu hiệu tốt có nghĩa là các bà còn thương, còn quan tâm đến các ông, cần người chia xẻ các vui buồn khổ cực trong cuộc sống vợ chồng. Trường hợp các bà im lặng, thì các ông phải đề phòng là có điều chẳng lành sắp xảy ra đó, còn tệ hơn nữa là các bà phớt tỉnh ăn glê, không thèm đếm xĩa đá động gì đến các ông và xem các ông như nơ pa không có, đó là dấu hiệu sắp rã hùn rồi đố tránh khỏi!
Tóm lại dù Đông hay Tây, dù Xưa hay Nay, Đàn bà vẫn là Đàn bà còn Đàn ông vẫn là Đàn ông.
Chồng giận thì vợ bớt lời. Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.
Đầu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon.
Montreal, March 15, 2007
NGUYỄN THƯỢNG CHÁNH
---
Đàn ông và đàn bà là cả 2 thế giới khác biệt nhau. Họ khác nhau về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ, cũng như về cách hành sự trong cuộc sống. Bởi những nguyên nhân này mà thường xảy ra biết bao nhiêu là chuyện hục hặc, hiểu lầm lẫn nhau, cơm không lành canh không ngọt, khắc khẩu, ảnh hưởng không nhỏ đến hạnh phúc gia đình… Bài viết này được phỏng theo tác phẩm nổi tiếng đã đạt số bán kỷ lục 8 triệu cuốn: Why Men Don’t Listen & Women Can’t Read Maps by Barbara and Allan Pease, Broadway Books, New York. Ở đây người viết không có chủ đích đánh giá hay phán xét sự tốt xấu của các hành động ở phía người Đàn ông cũng như ở phía người Đàn bà. Tất cả các điều nêu ra dưới đây là kết quả nghiên cứu và nhận xét của giới y khoa và của các nhà tâm lý học Tây phương. Đúng hay sai đều do bạn đọc tự mình phê phán lấy…NTC
Đàn ông và Đàn bà khác nhau về nhiều mặt: về thể chất, về tinh thần, về cách suy nghĩ cũng như đôi khi về cách giải quyết một vấn đề! Họ thường tuân theo những quy luật khác nhau… Đấy là chưa nói đến cá tánh bẩm sinh của từng cá nhân. Ngoài ra, tôn giáo, giáo dục gia đình và kinh nghiệm sống cũng chi phối phần nào cách suy nghĩ và hành động của họ.
Mỗi khi người Đàn ông vào washroom, là họ có một mục đích rõ rệt và nhất định rồi. Đàn bà thì không những xem washroom là một nơi để giải quyết một nhu cầu của cơ thể mà nó còn là một nơi hẹn hò, để các bà tâm sự to nhỏ với nhau về đủ thứ chuyện và dĩ nhiên cũng là nơi chốn để làm duyên, để tô lại môi son, thêm chút má hồng và chải lại mái tóc…Bạn có để ý không? Giữa buổi tiệc, các bà có lệ là thường rủ nhau đi washroom cùng một lúc. Ngược lại, các ông nếu cần đi thì chỉ tự động đi có một mình mà thôi… Lúc xem TV, đến phần quảng cáo thương mại các ông thường bóp cái tầm xa (remote control) lia lịa để đổi đài, ngược lại các bà thì nhẫn nại hơn và vẫn tiếp tục xem phần quảng cáo một cách bình thản… Các bà thường phàn nàn các ông sao làm biếng kéo nắp toilet xuống quá mỗi khi tè xong, còn các ông thì càu nhàu tại sao các bà sao không chịu dỡ nắp lên khi các bà xong việc cho người ta nhờ một tí… Các bà thường hay tỉ mỉ từng ly từng chút, chi tiết quá trời nên thường trách các ông sao quá bừa bãi. Đàn ông thường phải mất rất nhiều thời giờ để tìm được 2 chiếc vớ cùng màu bỏ lộn xộn không thứ tự trong ngăn tủ, nhưng ngược lại các CDs của họ đều được xấp xếp rất ư là có thứ tự trên bàn. Đàn ông phải mất cả buổi mới tìm ra xâu chìa khóa xe bị thất lạc, trong khi Đàn bà tìm ra ngay chỉ trong một thời gian rất ngắn… Đàn bà thường không thấy ánh đèn phựt lên ngay trước mặt báo hiệu xe sắp hết xăng, nhưng họ thấy ngay chiếc vớ bẩn vất bừa bãi trong góc kẹt phòng… Các ông thường trách các bà về cách lái xe, còn các bà thì không hiểu tại sao các ông lại rất thích đậu xe kiểu song song (parallel parking) bằng cách vừa nhìn kính chiếu hậu vừa lui vô chỗ đậu hẹp té… Đàn ông có khiếu xác định vị trí trong không gian, họ đọc bản đồ rất nhanh và tìm ra hướng Bắc rất dễ dàng. Nhờ năng khiếu này mà thuở tạo thiên lập điạ, người Đàn ông mới có thể đi săn thú trong rừng để nuôi sống gia đình. Đàn bà nếu có xem bản đồ họ thường xem ngược ngạo. Lỡ có lạc đường, thì các bà thường mau mau ngưng xe lại trạm xăng để hỏi thăm, còn các ông thì ít chịu làm như vậy để khỏi bị chê là mình quá yếu quá dở. Các ông thường ráng chạy loanh quanh cả tiếng đồng hồ để tìm đường, miệng thì lẩm bẩm: “hình như tôi có thấy chỗ này rồi”...Đàn bà thường có thị giác ngoại biên rộng lớn (wider peripheral vision), Đàn ông thì có thị giác hẹp hơn nhưng lại thấy rất xa (narrow tunnel vision). Bởi vậy, nếu có lái xe đường xa, người ta khuyên nên để Đàn bà lái xe lúc ban ngày sáng tỏ, còn Đàn ông thì nên lái xe lúc về đêm tăm tối vì họ có thể nhận thấy các xe khác từ xa ở phía trước lẫn phía sau…Đàn bà xem việc đi chợ, đi shopping hay đi window shopping là một cái thú tiêu khiển, một cách để giảm stress mặc dù không cần phải mua một món hàng nào cả. Ngoại trừ mấy năm đầu vừa mới cưới vợ, Đàn ông thường tò tò theo chân bà xã cho bả vừa vui lòng vừa hãnh diện với thiên hạ, nhưng lần lần vài năm sau thì các ông rất ngại cái món này, nó vừa mỏi cẳng, vừa bực mình và nó cũng vừa mất công mất thời giờ quá đi thôi. Trong các tiệm bán thời trang cũng như trong các thương xá người ta thường thấy có băng có ghế cho các ông và các cụ ông ngồi chờ các bà, các cụ bà. Đàn ông nếu có muốn mua một món gì thì họ đã biết họ thích cái gì rồi, cho nên đi thẳng vào tiệm mà mua một cái rụp khỏi phải mất công lê bước hết tiệm này đến tiệm khác. Đàn bà rất tinh ý, và có lẽ có giác quan thứ 6 gì đó. Người Đàn bà có khiếu bắt mạch, và hiểu rất dễ dàng ý nghĩa của các sự thay đổi trên nét mặt người Đàn ông. Các ông đừng có mong dối gạt các bà được đâu. Nếu có muốn nói dối thì hãy dùng telephone, viết thơ, hoặc gởi email thì có thể dễ thành công hơn là phải chạm mặt thẳng với các bà. Đàn ông không có cái khiếu này như ở Đàn bà…Đàn bà cũng rất thính tai hơn Đàn ông. Nửa đêm, nếu cháu bé khóc oẹ oẹ ở phòng bên cạnh thì thường là các bà hay liền. Nước lavabo nhểu lỏn tỏn thì các bà biết liền, còn các ông thường ngủ khò mà thôi. Não của Đàn ông chỉ program để làm mỗi lần một việc mà thôi. Họ chỉ sử dụng có 1 bán cầu não (thường là phía trái) để suy nghĩ. Mỗi khi ngừng xe lại để đọc bản đồ là họ cần phải vặn nhỏ cái radio xuống rồi mới có thể đọc được. Đang xem TV mà bà xã hỏi thì có ông nào nghe đâu. Bởi vậy lúc các ông xã đang lái xe các bà xã đừng nên nói đừng nên hỏi gì hết có thể nguy hiểm đó! Ngược lại ở Đàn bà, mỗi khi suy nghĩ họ thường sử dụng cả 2 bán cầu não phía trái và phía phải , và nhờ vậy các bà có thể dễ dàng làm được nhiều việc cùng một lúc. Đàn bà có thể vừa đọc sách và vừa nghe radio hoặc vừa làm bếp nấu nướng vừa nói điện thoại. Các bạn có để ý không, trong các siêu thị ở quày trả tiền thường các cô thu ngân viên, mắt vừa nhìn các món hàng, tay thì bấm máy lia lịa, đôi khi vừa làm vừa trả lời khách hàng hoặc vừa viết và vừa nói điện thoại kẹp nơi cổ. Nếu được hỏi thình lình phía nào là tay phải, phía nào là tay trái, các bà thường hay lộn nếu họ không nhìn vào chiếc nhẩn đeo trên tay. Các ông thường phàn nàn các bà là miệng thì biểu người ta quẹo trái nhưng trong đầu họ thật sự muốn mình quẹo mặt. Đàn ông thán phục Đàn bà về cách bắt chuyện giữa đám đông hay trong các buổi tiệc. Mặc dù toàn là khách lạ nhưng các bà vẫn có cách trau đổi với nhau về đủ thứ chuyện, người này khen qua người kia khen lại, nói đẩy đưa quên thôi…Các bà cho rằng các ông thường hay lạnh nhạt về tình cảm, ít thố lộ tâm sự và có vẻ kín đáo e dè trước đám đông. Các bà nghĩ rằng Đàn bà có nhiều tình cảm hơn Đàn ông, còn các ông thì cho rằng bọn họ cũng rất tình cảm nhưng ít bộc lộ ra ngoài. Tuy nhiều lúc thấy người Đàn ông im lặng nhưng thật sự chính lúc đó họ nói một cách âm thầm cho chính họ! Đàn ông không thích ai cho mình ý kiến nầy nọ. Sự ít nói của người Đàn ông có thể được người Đàn bà hiểu lầm là mình không còn được thương nữa. Đối với chuyện chăn gối, các bà thường trách các ông thiếu sự lãng mạn, sao chỉ muốn vụ đó một cách nhanh chóng, nhào vô là làm liền để các ông có thể hạ hỏa gấp rút rồi sau đó thì lăn ra ngủ khò quên cả người ta nằm bên cạnh, còn các ông đôi khi trách các bà hơi thụ động và thiếu sáng kiến… Nói tóm lại, theo Allan Pease thì men want to have sex but women want to make love. Đàn ông thường trách Đàn bà thường hay nói nhiều và cũng thường hay so sánh quá. Nói chuyện mới đả đành đi, đàng này chuyện cũ đã nói nhiều lần rồi các bà vẫn có thể hâm nóng lại và đem ra nói nữa. Ở người Đàn bà, các dữ kiện, tín hiệu, thông tin bên ngoài được cất giữ trong não của họ một cách khá lộn xộn. Cách duy nhất để các bà đem vấn đề ra ngoài là phải nói nó ra và nhìn nhận nó. Bởi vậy Đàn bà nói nhiều hơn Đàn ông là lẽ thường. Các bà cần nói ra để bớt căng thẳng tinh thần, để làm giảm stress. Các ông phải rán nghe mà thôi và đừng bao giờ đề nghị một giải pháp nào hết cho vấn đề mà các bà tuôn ra. Các bà chỉ cần có người ngồi nghe chớ không phải các bà muốn tìm cách giải quyết vấn đề đâu. Ở Đàn bà, việc nói chuyện và việc tâm sự là cách duy nhất để họ làm bạn với nhau. Tuy cả ngày đã đi shopping với bà bạn, mà khi vừa về đến nhà các bà cũng còn chuyện để nói với nhau qua điện thoại cả tiếng đồng hồ nữa. Các ông mỗi khi cần nói chuyện là họ đi thẳng vào vấn đề. Ở người Đàn ông các tín hiệu thông tin bên ngoài được cất giữ riêng rẽ trong những ngăn riêng biệt trong não. Cuối ngày các ông đem nó ra ngoài rất dễ dàng để giải quyết. Việc nói nhiều của các bà thường làm các ông bực mình không ít, nhưng đó là dấu hiệu tốt có nghĩa là các bà còn thương, còn quan tâm đến các ông, cần người chia xẻ các vui buồn khổ cực trong cuộc sống vợ chồng. Trường hợp các bà im lặng, thì các ông phải đề phòng là có điều chẳng lành sắp xảy ra đó, còn tệ hơn nữa là các bà phớt tỉnh ăn glê, không thèm đếm xĩa đá động gì đến các ông và xem các ông như nơ pa không có, đó là dấu hiệu sắp rã hùn rồi đố tránh khỏi!
Tóm lại dù Đông hay Tây, dù Xưa hay Nay, Đàn bà vẫn là Đàn bà còn Đàn ông vẫn là Đàn ông.
Chồng giận thì vợ bớt lời. Cơm sôi bớt lửa chẳng đời nào khê.
Đầu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp, gật đầu khen ngon.
Montreal, March 15, 2007
NGUYỄN THƯỢNG CHÁNH
---
Tạp ghi của một chuyến trở về
Trương Văn Tân
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đại học Cần Thơ, tôi có cơ hội được đến đây thỉnh giảng. Bốn mươi năm trước, chính phủ Việt Nam Cộng hoà nhận thấy tầm quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long đã quyết định thành lập Viện Đại học Cần Thơ với ba phân khoa chính là Nông nghiệp, Khoa học và Sư phạm. Ngày hôm nay, Đại học Cần Thơ là một đại học tổng hợp bao gồm nhiều phân khoa kể cả khoa Y Dược. Khoa Nông nghiệp vẫn là khoa chủ lực, có chương trình đào tạo cao học với học vị thạc sĩ (Master) và tiến sĩ (PhD).
Những con đường sình lầy trong khuôn viên đại học, những căn nhà tiền chế dùng làm phòng học mà tôi biết ở những năm cuối thập niên 60 bây giờ là những con đường xe chạy rợp bóng cây với những bụi hoa nhiệt đới nở thật đẹp, dẫn đến những toà nhà hoành tráng dùng làm phòng học, phòng nghiên cứu và phòng làm việc của ban giảng huấn. Vào những năm đầu mới thành lập, trường còn phải "mượn" giảng viên của Đại học Sài Gòn đến giảng dạy. Ngày hôm nay nhà trường có một ban giảng huấn trẻ, ưu tú và nhiệt tình. Ở khoa Công nghệ nơi tôi làm việc với các đồng nghiệp, số tuổi trung bình của các giảng viên vào khoảng 35. Nguyện vọng của ban quản trị nhà trường là các giảng viên phải có ít nhất bằng thạc sĩ được đào tạo tại nước ngoài.
Được biết hiện nay Đại học Cần Thơ và Đại học Đà Nẵng là hai đại học Việt Nam có nhiều liên hệ giáo dục và giao lưu quốc tế đứng đầu cả nước. Khoa Công nghệ của Đại học Cần Thơ vừa mới được thành lập gần 5 năm đào tạo kỹ sư với tên gọi tiếng Anh là "College of Technology" (theo tôi từ chính xác nên là: Faculty of Engineering) . Khoa mô phỏng theo Đại học Bách khoa Tp HCM (tên cũ: Trung tâm Kỹ thuật Quốc gia Phú Thọ), ngoài những bộ môn đã có từ lâu như công nghệ Điện (electrical engineering) , công nghệ Hoá (chemical engineering) , khoa Công nghệ đặt trọng điểm giảng dạy và nghiên cứu về Vật liệu học (Materials Sciences), chú trọng đến các loại vật liệu tiên tiến (Advanced Materials).
Trong bối cảnh là một trường đại học nông nghiệp, chính sách giáo dục và nghiên cứu của Đại học Cần Thơ đa dạng và có tầm nhìn xa. Phần lớn khoa Công nghệ (kỹ sư) của các đại học Việt Nam vẫn phân chia các bộ môn công nghệ không khác gì thời Pháp thuộc. Ngoài Viện Vật liệu trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam tại Hà Nội, tôi nghĩ không có một đại học Việt Nam nào chú trọng đến khoa Công nghệ Vật liệu (Materials Science/ Engineering) . Khoa này đã là một phân khoa chính thức của các đại học tại Bắc Mỹ, Nhật, châu Âu hơn nửa thế kỷ nay. Trong vài thập niên gần đây, nó đã trở thành một khoa quan trọng tại Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Iran.
Bộ môn này liên quan đến việc khảo sát những đặc tính và ứng dụng của các loại vật liệu như ceramics (gốm), kim loại và polymers (plastics - nhựa). Nó đòi hỏi người học và nghiên cứu phải có một kiến thức đa ngành về Hoá học, Vật lý, Toán học và biết áp dụng những môn này vào việc cải tạo hoặc biến chế vật liệu cho một ứng dụng nhất định. Những vật liệu có thể là chất cách điện, chất dẫn điện hoặc bán dẫn. Những ứng dụng bao gồm những việc trong cuộc sống đời thường như chống ăn mòn (cầu, tàu bè, máy bay...), những dụng cụ điện tử, pin mặt trời, cho đến những áp dụng trong của thế kỷ 21 như vật liệu thông minh và công nghệ nano. Sự trì trệ trong việc phát triển khoa Công nghệ Vật liệu tại các đại học Việt Nam có thể phát sinh từ sự tôn sùng cách học thuần lý của Liên Xô và các nước Đông Âu cũ, chỉ biết dựa trên toán và vật lý lý thuyết. Cách học này sản sinh ra những nhà lý luận tuyệt vời "trên trời" nhưng lại lơ ngơ trong ứng dụng.
Liên quan đến việc học toán, có một số người trong nước thường thắc mắc hỏi tôi, "Người Việt Nam ở nước ngoài làm nghiên cứu khoa học chắc giỏi hơn người nước khác?", "Tại sao mình lại giỏi hơn người khác?" tôi hỏi lại. "Vì ta giỏi toán"! Thật ra, người Việt Nam nghiên cứu không thua cũng không hơn, học không giỏi cũng không kém hơn người nước khác. Nhưng sinh viên Việt Nam có cái khuyết điểm chung là dễ tự mãn, không có sự khiêm tốn của sinh viên Nhật, sự cần cù của sinh viên Trung Quốc và sự trầm lặng hiền hoà của sinh viên Thái Lan. Ta đã tự tạo cho ta một huyền thoại "giỏi toán" và để huyền thoại vây quanh ta, trở thành người tù của ảo tưởng "đỉnh cao trí tuệ". Học sinh Mỹ không giỏi toán như học sinh Việt Nam, nhưng Mỹ là cường quốc khoa học kỹ thuật đứng đầu thế giới. Học sinh Ấn Độ, Nhật Bản chắc chưa bao giờ có huy chương vàng Olympic Toán, nhưng là những nước nhất nhì thế giới về công nghệ thông tin, điện tử và những công nghệ tiên tiến khác.
Một người quen, bây giờ là giảng viên đại học, thổ lộ với tôi rằng anh đã từng là học sinh giỏi toán. Anh đã được chọn vào những "lò" luyện toán để cuối cùng được tuyển chọn tham gia thi Olympic Toán. Anh đã được dạy giải những bài tích phân sao cho thật nhanh, nhưng không ai nói cho anh biết ý nghĩa của tích phân là gì. Mãi đến sau này, anh mới biết tích phân chẳng qua là một dạng của phép tổng (summation). Hoá ra, khi những cuộc thi Olympic được xem như những cuộc thi giao hữu ở những nước khác, thì chính phủ Việt Nam xem như là một "quốc sách" đào tạo những học sinh chỉ biết làm toán như cái máy để đi thi lấy tiếng, nhưng không biết áp dụng.
Tôi vào một hiệu sách xem qua một số sách đại học. Những kệ sách giáo khoa đại học tại các nhà sách phản ảnh khuynh hướng học nặng về lý thuyết, phần lớn bày bán những sách bài giải Toán, Lý, Hoá. Sách giải toán chiếm gần 80%, bao gồm đủ mọi đề tài: Hình học, Đại số, Vi tích phân v.v... Sách giáo khoa viết ở một trình độ bình thường, không hơn những quyển sách xuất bản vài chục năm trước. Tác giả vẫn còn lấn cấn trong việc giải thích một khái niệm khó hiểu bằng một ngôn ngữ giản dị. Các sách giáo khoa tiếng Anh rất thành công về mặt này, vì mỗi lần tái bản người học có thêm dữ liệu, hình ảnh minh hoạ, nhiều thí dụ, bài tập liên quan và đề nghị các sách tham khảo đọc thêm. Không có sách giáo khoa chuyên đề cho những năm cuối đại học hay sau đại học. Trừ một vài quyển sách Vật lý của hai nhà Vật lý Nga nổi tiếng, L. Landau và E. Lifshitz, rất ít sách dịch từ tiếng nước ngoài. Bản dịch tiếng Việt từ những quyển vật lý và khoa học đại chúng tiếng Nga là những bản dịch đồ sộ rất công phu, dễ hiểu. Giá cả lại phải chăng, nếu không nói là quá rẻ (sách dày 800 trang, giá $8 USD). Sách dịch không thịnh hành có lẽ vì độc giả quá ít, không bán được. Điều nầy rất khác biệt với Nhật Bản, hầu hết những sách nổi tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc... của tất cả mọi môn học, ngành nghề, từ khoa học đến văn học đều có bản tiếng Nhật. Sách dịch trở thành một nguồn tri thức ngoại nhập và món ăn tinh thần không thể thiếu của người Nhật Bản hơn hai trăm năm nay.
Các đại học Việt Nam hiện nay chỉ là nơi cung cấp nhân lực có học vị kỹ sư hoặc cử nhân cho những doanh nghiệp. Mặc dù nhiều đại học đã có kinh nghiệm giáo dục, nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp và khoa học tự nhiên với chiều dài hơn nửa thế kỷ, cộng với vài chục ngàn tiến sĩ khoa học, tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ, đại học Việt Nam vẫn chưa đạt đến trình độ là nơi cung cấp một nền tảng tri thức cần thiết trong quá trình "nghiên cứu và phát triển" cho việc phát minh và biến phát minh thành những sản phẩm thương mãi hữu dụng.
Nguyên nhân chính đầu tiên vẫn là tiền đâu. Cái vòng luẩn quẩn vì không tiền nên không thể nghiên cứu sản phẩm bán ra tiền. Đâu là bước đột phá? Tiếp xúc với đồng nghiệp làm việc tại đại học và các viện nghiên cứu Việt Nam, tôi được biết có những đề án nghiên cứu rất hấp dẫn, nhưng kinh phí nhận được từ trung ương chỉ có vài ngàn USD cho một đề tài, trong khi với đề tài tương tự tại các nước Âu Tây, số tiền cần thiết phải 50 đến 100 lần nhiều hơn. Có một điều phấn khởi và đáng mừng là nghe đâu Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tăng gia kinh phí nghiên cứu khoa học theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Có nghĩa là kinh phí sẽ được tăng lên gấp 10 hoặc thậm chí 100 lần cho các đề án cấp nhà nước. Nếu theo phương thức "nghiên cứu khoa học là quá trình biến tiền thành tri thức", thì tri thức gặt hái được sẽ tỉ lệ thuận với số tiền cung cấp nếu được sử dụng đúng chỗ. Vì nguy cơ tham nhũng, ta cũng chớ vội mừng khi tiền có gia tăng nhưng hội đồng thẩm định đề án nghiên cứu và cơ chế giám sát sử dụng kinh phí chưa được thành hình.
Tham nhũng trong khoa học sẽ rất khó phát hiện vì những thành quả và thất bại trong nghiên cứu khoa học phần lớn vượt ra ngoài sự hiểu biết và cách lý giải thông thường. Nếu không có một hội đồng chuyên môn độc lập thẩm định các đề án và cơ quan giám sát kinh phí khi đề án được chấp nhận thực thi, và nếu không có những biện pháp phát hiện và trừng trị những vi phạm tài chính, tham nhũng trong khoa học sẽ lan tràn và xảy ra trong nhiều tình huống ngụy trang rất tinh vi. Với các đề án cấp nhà nước, hội đồng thẩm định cần phải có ý kiến phản biện của chuyên gia nước ngoài về mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, kết quả có thể gặt hái và các khoản kinh phí của đề án.
Đại học tại chức và đại học địa phương là một hiện tượng đặc thù Việt Nam nhưng khá phổ biến, manh nha từ nhu cầu kinh tế, sự tôn vinh bằng cấp hơn là vì học thuật. Ở nhiều đại học, số "sinh viên" tại chức cũng gần bằng sinh viên thực thụ. Nhu cầu có bằng cử nhân, kỹ sư nở rộ trong giới quan quyền cho việc trang sức địa vị và thăng quan tiến chức. Người dạy có thêm thu nhập, người được "dạy" sẽ có mảnh bằng với điều kiện thi cử dễ dãi, đôi bên đều có lợi đúng theo nguyên tắc bách chiến bách thắng "win - win" của chủ nghĩa kinh tế thị trường. Chỉ có nền học thuật thì suy đồi và bị thui chột.
Đại học địa phương được lập nên chỉ cần một toà nhà với một vài phân khoa. Gần Sài Gòn, người ta thấy có đại học Bình Dương, đại học Bà Rịa-Vũng Tàu, đại học Tiền Giang. Ở miền Tây, cách đại học Cần Thơ non 100 km là đại học An Giang. Đại học Bạc Liêu gần đó rồi sẽ được thành lập. Tôi nghĩ không lâu cũng sẽ có đại học Kiên Giang, đại học Đồng Tháp v.v... Nó đi ngược khuynh hướng tập trung hoá các đại học nhỏ thành một đại học lớn để thống nhất giáo trình, nâng cao chất lượng giáo dục và đơn giản hoá cung cách quản trị hành chính. Việc này chính phủ Úc thực hiện rất thành công và hiệu quả 15 năm trước. Nó cũng đi ngược lại chính sách thành lập đại học đẳng cấp quốc tế mà các bậc trí giả trong, ngoài nước bỏ nhiều công sức hoạch định, bàn tán sôi nổi từ mấy năm qua.
Trong một thập niên gần đây, chính phủ đã liên tục kêu gọi sự đóng góp và hợp tác chất xám Việt Kiều. Thậm chí, có những đại học như đại học Cần Thơ viết thư ngỏ kêu gọi hợp tác quốc tế trên bình diện tổ chức cũng như cá nhân. Cũng theo chiều hướng này, không ít những người Việt Nam làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại nước ngoài đều mang một hoài bão phục vụ quê hương. Tuy nhiên, sự kêu gọi của chính phủ như một lời chào khách sáo, chỉ mang tính chất tuyên truyền không cụ thể. Thói quen ngửa tay nhận viện trợ vô hình trung đã thâm nhập rất sâu vào tư duy của giới giáo dục và làm công tác khoa học. Muốn tận dụng chất xám Việt kiều thì chính phủ phải có một ngân khoản đầu tư cho những vấn đề hợp tác cụ thể lâu dài, bao gồm từ việc nhỏ như chuyện đi lại ăn ở, chi phí hội thảo, mở những lớp học chuyên đề, tổ chức dịch thuật sách giáo khoa, đến chuyện lập ra những tiện nghi giáo dục cho con cái, nhà ở cho những người muốn trở về hợp tác trung hạn hoặc dài hạn.
Phần lớn cá nhân những người làm công tác khoa học tại nước ngoài chỉ ở mức lương trung bình. Họ có thể rất giàu về kiến thức chuyên môn, nhiều nhiệt tình nhưng không sung túc trên mặt tài chính. Những cá nhân này thường tận dụng những chuyến đi hội thảo hoặc thăm nhà tại Việt Nam bỏ thì giờ và tiền túi tự nguyện đến các đại học và viện nghiên cứu trong nước để trao đổi chuyên môn. Hình thức này đã có từ nhiều năm qua, nhưng vì bản chất "tự nguyện" nên thường chỉ là cục bộ, ngắn hạn. Hiệu quả như cơn gió thoảng trên mặt nước hồ thu.
Từ những kinh nghiệm cá nhân, tôi cảm thấy có một sự chênh lệch về mục đích giữa chủ và khách. Phía chủ cần tiền, cần tri thức, cần sách vở, cần tài liệu nhưng có lẽ tiền là quan trọng hơn hết, trong khi khách chỉ có thể cung cấp tri thức, tài liệu trong ngành chuyên môn của mình, mặc dù những tri thức này biết sử dụng khéo léo cũng có thể là nguồn tiền của vô tận. Cho đến bây giờ, lời kêu gọi hợp tác và lợi dụng chất xám Việt Kiều chỉ là lời nói suông, không có giá trị thực tế, ngay trên bình diện giao lưu đơn giản.
Một cơ duyên đã đưa tôi đến tỉnh Bình Dương. Bình Dương đứng đầu cả nước trong việc thu hút những khoản đầu tư của các công ty nước ngoài, chủ yếu là Đài Loan và Hàn Quốc. Ngoài vị thế chiến lược ở gần Sài Gòn, Bình Dương xây dựng nhiều hạ tầng cơ sở và tạo nhiều điều kiện kinh doanh dễ dãi cho công ty nước ngoài. Khu công nghiệp "Vietnam Singapore Industrial Park" trên quốc lộ nối liền Sài Gòn-Bình Dương là một biểu hiện thành công của chính sách đầu tư của tỉnh Bình Dương.
Trên những hương lộ dẫn đến những huyện Tân Uyên, Tân Lương tiếp giáp với chiến khu D khi xưa, xuất hiện rất nhiều nhà máy sản xuất, phần lớn của các trung tiểu xí nghiệp Đài Loan. Nếu không có những hàng chữ Hoa và chữ Anh bên ngoài toà nhà, thì không ai biết đó là những công ty Đài Loan. Đọc được tên công ty, nhưng bảng hiệu không cho biết họ sản xuất những sản phẩm gì. Phương thức "úp úp mở mở" này có lẽ phản ảnh lối kinh doanh âm thầm không khoa trương, làm giàu trong im lặng cố hữu của người Hoa, khác hẳn kiểu "chơi nổi" của một vài doanh nhân nước ta; chưa vào "top 100" hay thậm chí "top 1000" người giàu nhất hành tinh thì đã có người mua chiếc xe hơi Maybach 62 đắt nhất thế giới đáng giá 1 triệu USD, chạy rong làm thiên hạ lác mắt cho vui! Những người Đài Loan, Hàn Quốc làm việc ở đây dễ dãi chấp nhận với nếp sống yên bình của một tỉnh lỵ. Các tiệm ăn đặc sản Đài Loan mọc lên rải rác trên quốc lộ. Thực khách ra vào dập dìu các quán "mộc tồn" hữu nghị Hàn Việt, với các món "cờ tây" làm theo khẩu vị ta lẫn khẩu vị Hàn.
Những đầu tư nhỏ đưa đến đầu tư lớn. Trong những ngày tôi ở Việt Nam, giới truyền thông đưa bản tin hàng đầu về tập đoàn Kumho sản xuất vỏ xe nhất nhì của Hàn Quốc chính thức ký kết một văn kiện làm nhà máy tại Bình Dương. Những đầu tư lớn nhỏ này đã hoàn toàn làm thay đổi bộ mặt nông thôn tỉnh Bình Dương. Những khu rừng cao su rộng lớn âm u, có một thời là một trong những nguồn sản xuất quan trọng, bây giờ được san phẳng để cung cấp mặt bằng cho những khu công nghiệp tương lai. Những thanh niên, thiếu nữ ở đây bây giờ không phải những anh nông dân hay cô thôn nữ, quanh quẩn trên những mảnh vườn cha ông để lại, chỉ biết trồng trọt, chăn nuôi. Họ tìm mọi cách để nâng cao trình độ học vấn và học tiếng Anh để xin việc ở những công ty nước ngoài. Họ sẽ được trả lương khoảng 1 triệu VND/tháng (60 USD) cho lao động bình thường, 2 triệu (120 USD) cho công việc văn phòng. Số lương nhỏ nhưng đủ để giúp người dân thoát khỏi cảnh nghèo khó ở thôn quê.
Những trung tiểu xí nghiệp sản xuất những sản phẩm mang tính chất "trung tiểu" như giày dép, quần áo, đồ gia dụng, các sản phẩm chế biến từ gỗ v.v... Việt Nam mang lại cho doanh nghiệp nước ngoài một nguồn lao động rẻ. Ngược lại, tuy những xí nghiệp mang công việc cho người dân địa phương, nhưng trên đường dài phát triển không mang một ích lợi kỹ thuật nào cho nền kinh tế quốc dân. Công nghệ điện tử, tin học, y sinh học, công nghệ nano, công nghiệp sản xuất máy móc chính xác (precision machinery) là những ngành mũi nhọn tạo nên sự giàu có cho một đất nước, vẫn chưa thấy manh nha ở các khu công nghiệp này. Tất cả đầu tư nước ngoài, theo sự quan sát phiến diện của tôi, chỉ ở công nghệ "trung" đến công nghệ "thấp," bao gồm công nghệ lắp ráp.
Bình Dương không phải là nơi độc nhất có nhiều khu công nghiệp. Trên quốc lộ 1 về miền Tây đi qua tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, những khu công nghiệp lớn, nhỏ mọc lên như nấm. Thành lập khu công nghiệp có lẽ thành một cái "mốt" trên toàn quốc. Dù không phải là một nhà nghiên cứu kinh tế, tôi có cảm giác là các tỉnh tranh nhau thu hút đầu tư, nếu không được đầu tư nước ngoài thì đầu tư nội địa. Hệ quả là số cung nhiều hơn số cầu. Nhiều khu công nghiệp không rộng lớn nhưng đất đai thừa thãi, cả khu chỉ có lèo tèo một vài nhà máy nội địa. Cũng giống như các khu phố của người Việt hải ngoại, khi có một tiệm bán phở đắt khách thì vài tháng sau sẽ có một tiệm phở khai trương kế bên. Cứ như thế mà phát triển thì một khu phố nhỏ sẽ có năm sáu quán phở cùng thi đua thu hút số khách ăn nhất định.
Tính sáng tạo và đa dạng hoá không thấy ở những khu công nghiệp. Cần Thơ nằm ở một vị trí chiến lược trung tâm, tiếp giáp với Vĩnh Long, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Kiên Giang, là vựa lúa Việt Nam, một khu vực với tiềm năng vô hạn trong việc khai thác tôm cá nước ngọt, hải sản, và cũng là trung tâm sản xuất hoa quả nhiệt đới toàn quốc, nhưng tôi không thấy một khu "nông công nghiệp" nào trong đó có những nhà máy cao cấp chế biến nông phẩm, đóng hộp hoa quả ngũ cốc. Được gọi là Tây Đô, nhưng Cần Thơ đã mất đi nhiều dịp để biến thành phố này trở thành một trung tâm sản xuất nông ngư nghiệp cho cả nước.
Việt Nam đang chuyển mình để hội nhập thế giới và thế giới cũng đang dang tay chấp nhận Việt Nam như một đối tác đáng tin cậy. Việt Nam sẽ là một con rồng châu Á, bay lên như cá vượt vũ môn. Tuy rằng có muộn nhưng còn hơn làm thân phận con cá chép lượn lờ lửng lơ mãi trong ao! Nhưng cho đến bây giờ, con rồng Việt Nam sẽ bay được bao xa, theo phương hướng nào, vẫn là một hàm số có nhiều ẩn số. Trước những thắng lợi cục bộ, nhà nước cũng không quên nhắc nhở người dân qua những chương trình TV, radio, rằng "một lần nữa, những thành quả rực rỡ về kinh tế và ngoại giao là một bằng chứng hùng hồn khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và nhà nước". Sao chỉ có Đảng và nhà nước, còn sáng kiến nhân dân ở đâu?
Trên đường phố Sài Gòn thỉnh thoảng xuất hiện những băng rôn điện tử to đùng "Thành phố Hồ Chí Minh: thành phố của anh hùng". Vâng, theo tôi đây là thành phố của những anh hùng chạy xe ôm vài ngàn đồng cho một cuốc xe về nuôi vợ con, bất kể những buổi trưa nắng gắt hay những cơn mưa tầm tã; anh hùng là những người buôn bán nhỏ bên lề đường, ở những quán cóc bán cà phê, cơm, phở; những anh thợ hớt tóc tận tâm phục vụ khách hàng với một loạt nghiệp vụ làm đẹp, kể cả cạo mặt, lấy ráy tai với giá bèo 60 cents US; anh hùng là một đoàn quân nam phụ lão ấu bán vé số từ 7 đến 70 tuổi nhẫn nại năn nỉ khách mua ở tất cả hang cùng ngõ hẻm. Tôi cũng thấy những anh hùng nông dân "miệt vườn" thấp cổ bé miệng sinh sống dọc theo những khúc đường liên tỉnh gần quê tôi, mịt mù bụi đường những ngày nắng ráo, lầy lội bùn đất những ngày mưa. Họ phải hít thở hàng tấn bụi mỗi ngày trong 2, 3 năm qua, con cái họ phải chịu những chứng bệnh hen suyễn với một thái độ chấp nhận số phận, không một lời than vãn, trên một đoạn đường đầy hang lỗ không hơn 10 km, chỉ vì nhà nước "thiếu" tiền tu sửa. Những "anh hùng" này là giai cấp nghèo "mới" trong nền kinh tế thị trường, nơi mà sự phân cực giàu nghèo càng lúc càng gia tăng. Họ là những thành phần cốt cán làm xã hội chuyển mình, làm ăn lương thiện, chắt bót từng đồng, nhưng bị xã hội bỏ quên.
Nhìn sự phát triển của khu công nghiệp Bình Dương, qua sự tiếp xúc với những đồng nghiệp làm công tác khoa học, và nhìn vào chính sách phát triển khoa học công nghệ của nhà nước, phải nói là chưa có sự đối thoại và liên thông giữa khoa học, kinh tế, doanh nghiệp và công nghiệp sản xuất. Nếu nhà nước không có những chính sách cụ thể, "ngôn hành hợp nhất", dùng người đúng chỗ, và nếu tiềm năng chất xám Việt kiều không được sử dụng triệt để, hệ quả tất nhiên sẽ là nội lực quốc gia phát xuất từ những thành quả nghiên cứu của khoa học kỹ thuật tạo ra tiền của, vật chất chắc còn lâu lắm mới thành hình. Mãi mãi, Việt Nam chỉ là nơi tập họp của "anh hùng" xe ôm, những người mua gánh bán bưng lam lũ không biết bao giờ thoát ra được cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Khi đề cập đến sự phát triển và giàu có của Singapore, Lý Quang Diệu có lần trả lời báo giới Việt Nam, "Tôi không phải là người tài, nhưng tôi biết sử dụng người tài đúng chỗ".
12 March 2007
Trương Văn Tân
---
Trương Văn Tân
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đại học Cần Thơ, tôi có cơ hội được đến đây thỉnh giảng. Bốn mươi năm trước, chính phủ Việt Nam Cộng hoà nhận thấy tầm quan trọng của đồng bằng sông Cửu Long đã quyết định thành lập Viện Đại học Cần Thơ với ba phân khoa chính là Nông nghiệp, Khoa học và Sư phạm. Ngày hôm nay, Đại học Cần Thơ là một đại học tổng hợp bao gồm nhiều phân khoa kể cả khoa Y Dược. Khoa Nông nghiệp vẫn là khoa chủ lực, có chương trình đào tạo cao học với học vị thạc sĩ (Master) và tiến sĩ (PhD).
Những con đường sình lầy trong khuôn viên đại học, những căn nhà tiền chế dùng làm phòng học mà tôi biết ở những năm cuối thập niên 60 bây giờ là những con đường xe chạy rợp bóng cây với những bụi hoa nhiệt đới nở thật đẹp, dẫn đến những toà nhà hoành tráng dùng làm phòng học, phòng nghiên cứu và phòng làm việc của ban giảng huấn. Vào những năm đầu mới thành lập, trường còn phải "mượn" giảng viên của Đại học Sài Gòn đến giảng dạy. Ngày hôm nay nhà trường có một ban giảng huấn trẻ, ưu tú và nhiệt tình. Ở khoa Công nghệ nơi tôi làm việc với các đồng nghiệp, số tuổi trung bình của các giảng viên vào khoảng 35. Nguyện vọng của ban quản trị nhà trường là các giảng viên phải có ít nhất bằng thạc sĩ được đào tạo tại nước ngoài.
Được biết hiện nay Đại học Cần Thơ và Đại học Đà Nẵng là hai đại học Việt Nam có nhiều liên hệ giáo dục và giao lưu quốc tế đứng đầu cả nước. Khoa Công nghệ của Đại học Cần Thơ vừa mới được thành lập gần 5 năm đào tạo kỹ sư với tên gọi tiếng Anh là "College of Technology" (theo tôi từ chính xác nên là: Faculty of Engineering) . Khoa mô phỏng theo Đại học Bách khoa Tp HCM (tên cũ: Trung tâm Kỹ thuật Quốc gia Phú Thọ), ngoài những bộ môn đã có từ lâu như công nghệ Điện (electrical engineering) , công nghệ Hoá (chemical engineering) , khoa Công nghệ đặt trọng điểm giảng dạy và nghiên cứu về Vật liệu học (Materials Sciences), chú trọng đến các loại vật liệu tiên tiến (Advanced Materials).
Trong bối cảnh là một trường đại học nông nghiệp, chính sách giáo dục và nghiên cứu của Đại học Cần Thơ đa dạng và có tầm nhìn xa. Phần lớn khoa Công nghệ (kỹ sư) của các đại học Việt Nam vẫn phân chia các bộ môn công nghệ không khác gì thời Pháp thuộc. Ngoài Viện Vật liệu trực thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam tại Hà Nội, tôi nghĩ không có một đại học Việt Nam nào chú trọng đến khoa Công nghệ Vật liệu (Materials Science/ Engineering) . Khoa này đã là một phân khoa chính thức của các đại học tại Bắc Mỹ, Nhật, châu Âu hơn nửa thế kỷ nay. Trong vài thập niên gần đây, nó đã trở thành một khoa quan trọng tại Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Iran.
Bộ môn này liên quan đến việc khảo sát những đặc tính và ứng dụng của các loại vật liệu như ceramics (gốm), kim loại và polymers (plastics - nhựa). Nó đòi hỏi người học và nghiên cứu phải có một kiến thức đa ngành về Hoá học, Vật lý, Toán học và biết áp dụng những môn này vào việc cải tạo hoặc biến chế vật liệu cho một ứng dụng nhất định. Những vật liệu có thể là chất cách điện, chất dẫn điện hoặc bán dẫn. Những ứng dụng bao gồm những việc trong cuộc sống đời thường như chống ăn mòn (cầu, tàu bè, máy bay...), những dụng cụ điện tử, pin mặt trời, cho đến những áp dụng trong của thế kỷ 21 như vật liệu thông minh và công nghệ nano. Sự trì trệ trong việc phát triển khoa Công nghệ Vật liệu tại các đại học Việt Nam có thể phát sinh từ sự tôn sùng cách học thuần lý của Liên Xô và các nước Đông Âu cũ, chỉ biết dựa trên toán và vật lý lý thuyết. Cách học này sản sinh ra những nhà lý luận tuyệt vời "trên trời" nhưng lại lơ ngơ trong ứng dụng.
Liên quan đến việc học toán, có một số người trong nước thường thắc mắc hỏi tôi, "Người Việt Nam ở nước ngoài làm nghiên cứu khoa học chắc giỏi hơn người nước khác?", "Tại sao mình lại giỏi hơn người khác?" tôi hỏi lại. "Vì ta giỏi toán"! Thật ra, người Việt Nam nghiên cứu không thua cũng không hơn, học không giỏi cũng không kém hơn người nước khác. Nhưng sinh viên Việt Nam có cái khuyết điểm chung là dễ tự mãn, không có sự khiêm tốn của sinh viên Nhật, sự cần cù của sinh viên Trung Quốc và sự trầm lặng hiền hoà của sinh viên Thái Lan. Ta đã tự tạo cho ta một huyền thoại "giỏi toán" và để huyền thoại vây quanh ta, trở thành người tù của ảo tưởng "đỉnh cao trí tuệ". Học sinh Mỹ không giỏi toán như học sinh Việt Nam, nhưng Mỹ là cường quốc khoa học kỹ thuật đứng đầu thế giới. Học sinh Ấn Độ, Nhật Bản chắc chưa bao giờ có huy chương vàng Olympic Toán, nhưng là những nước nhất nhì thế giới về công nghệ thông tin, điện tử và những công nghệ tiên tiến khác.
Một người quen, bây giờ là giảng viên đại học, thổ lộ với tôi rằng anh đã từng là học sinh giỏi toán. Anh đã được chọn vào những "lò" luyện toán để cuối cùng được tuyển chọn tham gia thi Olympic Toán. Anh đã được dạy giải những bài tích phân sao cho thật nhanh, nhưng không ai nói cho anh biết ý nghĩa của tích phân là gì. Mãi đến sau này, anh mới biết tích phân chẳng qua là một dạng của phép tổng (summation). Hoá ra, khi những cuộc thi Olympic được xem như những cuộc thi giao hữu ở những nước khác, thì chính phủ Việt Nam xem như là một "quốc sách" đào tạo những học sinh chỉ biết làm toán như cái máy để đi thi lấy tiếng, nhưng không biết áp dụng.
Tôi vào một hiệu sách xem qua một số sách đại học. Những kệ sách giáo khoa đại học tại các nhà sách phản ảnh khuynh hướng học nặng về lý thuyết, phần lớn bày bán những sách bài giải Toán, Lý, Hoá. Sách giải toán chiếm gần 80%, bao gồm đủ mọi đề tài: Hình học, Đại số, Vi tích phân v.v... Sách giáo khoa viết ở một trình độ bình thường, không hơn những quyển sách xuất bản vài chục năm trước. Tác giả vẫn còn lấn cấn trong việc giải thích một khái niệm khó hiểu bằng một ngôn ngữ giản dị. Các sách giáo khoa tiếng Anh rất thành công về mặt này, vì mỗi lần tái bản người học có thêm dữ liệu, hình ảnh minh hoạ, nhiều thí dụ, bài tập liên quan và đề nghị các sách tham khảo đọc thêm. Không có sách giáo khoa chuyên đề cho những năm cuối đại học hay sau đại học. Trừ một vài quyển sách Vật lý của hai nhà Vật lý Nga nổi tiếng, L. Landau và E. Lifshitz, rất ít sách dịch từ tiếng nước ngoài. Bản dịch tiếng Việt từ những quyển vật lý và khoa học đại chúng tiếng Nga là những bản dịch đồ sộ rất công phu, dễ hiểu. Giá cả lại phải chăng, nếu không nói là quá rẻ (sách dày 800 trang, giá $8 USD). Sách dịch không thịnh hành có lẽ vì độc giả quá ít, không bán được. Điều nầy rất khác biệt với Nhật Bản, hầu hết những sách nổi tiếng Anh, Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc... của tất cả mọi môn học, ngành nghề, từ khoa học đến văn học đều có bản tiếng Nhật. Sách dịch trở thành một nguồn tri thức ngoại nhập và món ăn tinh thần không thể thiếu của người Nhật Bản hơn hai trăm năm nay.
Các đại học Việt Nam hiện nay chỉ là nơi cung cấp nhân lực có học vị kỹ sư hoặc cử nhân cho những doanh nghiệp. Mặc dù nhiều đại học đã có kinh nghiệm giáo dục, nghiên cứu trong lĩnh vực nông nghiệp và khoa học tự nhiên với chiều dài hơn nửa thế kỷ, cộng với vài chục ngàn tiến sĩ khoa học, tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ, đại học Việt Nam vẫn chưa đạt đến trình độ là nơi cung cấp một nền tảng tri thức cần thiết trong quá trình "nghiên cứu và phát triển" cho việc phát minh và biến phát minh thành những sản phẩm thương mãi hữu dụng.
Nguyên nhân chính đầu tiên vẫn là tiền đâu. Cái vòng luẩn quẩn vì không tiền nên không thể nghiên cứu sản phẩm bán ra tiền. Đâu là bước đột phá? Tiếp xúc với đồng nghiệp làm việc tại đại học và các viện nghiên cứu Việt Nam, tôi được biết có những đề án nghiên cứu rất hấp dẫn, nhưng kinh phí nhận được từ trung ương chỉ có vài ngàn USD cho một đề tài, trong khi với đề tài tương tự tại các nước Âu Tây, số tiền cần thiết phải 50 đến 100 lần nhiều hơn. Có một điều phấn khởi và đáng mừng là nghe đâu Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ tăng gia kinh phí nghiên cứu khoa học theo đúng tiêu chuẩn quốc tế. Có nghĩa là kinh phí sẽ được tăng lên gấp 10 hoặc thậm chí 100 lần cho các đề án cấp nhà nước. Nếu theo phương thức "nghiên cứu khoa học là quá trình biến tiền thành tri thức", thì tri thức gặt hái được sẽ tỉ lệ thuận với số tiền cung cấp nếu được sử dụng đúng chỗ. Vì nguy cơ tham nhũng, ta cũng chớ vội mừng khi tiền có gia tăng nhưng hội đồng thẩm định đề án nghiên cứu và cơ chế giám sát sử dụng kinh phí chưa được thành hình.
Tham nhũng trong khoa học sẽ rất khó phát hiện vì những thành quả và thất bại trong nghiên cứu khoa học phần lớn vượt ra ngoài sự hiểu biết và cách lý giải thông thường. Nếu không có một hội đồng chuyên môn độc lập thẩm định các đề án và cơ quan giám sát kinh phí khi đề án được chấp nhận thực thi, và nếu không có những biện pháp phát hiện và trừng trị những vi phạm tài chính, tham nhũng trong khoa học sẽ lan tràn và xảy ra trong nhiều tình huống ngụy trang rất tinh vi. Với các đề án cấp nhà nước, hội đồng thẩm định cần phải có ý kiến phản biện của chuyên gia nước ngoài về mục tiêu, phương pháp nghiên cứu, kết quả có thể gặt hái và các khoản kinh phí của đề án.
Đại học tại chức và đại học địa phương là một hiện tượng đặc thù Việt Nam nhưng khá phổ biến, manh nha từ nhu cầu kinh tế, sự tôn vinh bằng cấp hơn là vì học thuật. Ở nhiều đại học, số "sinh viên" tại chức cũng gần bằng sinh viên thực thụ. Nhu cầu có bằng cử nhân, kỹ sư nở rộ trong giới quan quyền cho việc trang sức địa vị và thăng quan tiến chức. Người dạy có thêm thu nhập, người được "dạy" sẽ có mảnh bằng với điều kiện thi cử dễ dãi, đôi bên đều có lợi đúng theo nguyên tắc bách chiến bách thắng "win - win" của chủ nghĩa kinh tế thị trường. Chỉ có nền học thuật thì suy đồi và bị thui chột.
Đại học địa phương được lập nên chỉ cần một toà nhà với một vài phân khoa. Gần Sài Gòn, người ta thấy có đại học Bình Dương, đại học Bà Rịa-Vũng Tàu, đại học Tiền Giang. Ở miền Tây, cách đại học Cần Thơ non 100 km là đại học An Giang. Đại học Bạc Liêu gần đó rồi sẽ được thành lập. Tôi nghĩ không lâu cũng sẽ có đại học Kiên Giang, đại học Đồng Tháp v.v... Nó đi ngược khuynh hướng tập trung hoá các đại học nhỏ thành một đại học lớn để thống nhất giáo trình, nâng cao chất lượng giáo dục và đơn giản hoá cung cách quản trị hành chính. Việc này chính phủ Úc thực hiện rất thành công và hiệu quả 15 năm trước. Nó cũng đi ngược lại chính sách thành lập đại học đẳng cấp quốc tế mà các bậc trí giả trong, ngoài nước bỏ nhiều công sức hoạch định, bàn tán sôi nổi từ mấy năm qua.
Trong một thập niên gần đây, chính phủ đã liên tục kêu gọi sự đóng góp và hợp tác chất xám Việt Kiều. Thậm chí, có những đại học như đại học Cần Thơ viết thư ngỏ kêu gọi hợp tác quốc tế trên bình diện tổ chức cũng như cá nhân. Cũng theo chiều hướng này, không ít những người Việt Nam làm công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật tại nước ngoài đều mang một hoài bão phục vụ quê hương. Tuy nhiên, sự kêu gọi của chính phủ như một lời chào khách sáo, chỉ mang tính chất tuyên truyền không cụ thể. Thói quen ngửa tay nhận viện trợ vô hình trung đã thâm nhập rất sâu vào tư duy của giới giáo dục và làm công tác khoa học. Muốn tận dụng chất xám Việt kiều thì chính phủ phải có một ngân khoản đầu tư cho những vấn đề hợp tác cụ thể lâu dài, bao gồm từ việc nhỏ như chuyện đi lại ăn ở, chi phí hội thảo, mở những lớp học chuyên đề, tổ chức dịch thuật sách giáo khoa, đến chuyện lập ra những tiện nghi giáo dục cho con cái, nhà ở cho những người muốn trở về hợp tác trung hạn hoặc dài hạn.
Phần lớn cá nhân những người làm công tác khoa học tại nước ngoài chỉ ở mức lương trung bình. Họ có thể rất giàu về kiến thức chuyên môn, nhiều nhiệt tình nhưng không sung túc trên mặt tài chính. Những cá nhân này thường tận dụng những chuyến đi hội thảo hoặc thăm nhà tại Việt Nam bỏ thì giờ và tiền túi tự nguyện đến các đại học và viện nghiên cứu trong nước để trao đổi chuyên môn. Hình thức này đã có từ nhiều năm qua, nhưng vì bản chất "tự nguyện" nên thường chỉ là cục bộ, ngắn hạn. Hiệu quả như cơn gió thoảng trên mặt nước hồ thu.
Từ những kinh nghiệm cá nhân, tôi cảm thấy có một sự chênh lệch về mục đích giữa chủ và khách. Phía chủ cần tiền, cần tri thức, cần sách vở, cần tài liệu nhưng có lẽ tiền là quan trọng hơn hết, trong khi khách chỉ có thể cung cấp tri thức, tài liệu trong ngành chuyên môn của mình, mặc dù những tri thức này biết sử dụng khéo léo cũng có thể là nguồn tiền của vô tận. Cho đến bây giờ, lời kêu gọi hợp tác và lợi dụng chất xám Việt Kiều chỉ là lời nói suông, không có giá trị thực tế, ngay trên bình diện giao lưu đơn giản.
Một cơ duyên đã đưa tôi đến tỉnh Bình Dương. Bình Dương đứng đầu cả nước trong việc thu hút những khoản đầu tư của các công ty nước ngoài, chủ yếu là Đài Loan và Hàn Quốc. Ngoài vị thế chiến lược ở gần Sài Gòn, Bình Dương xây dựng nhiều hạ tầng cơ sở và tạo nhiều điều kiện kinh doanh dễ dãi cho công ty nước ngoài. Khu công nghiệp "Vietnam Singapore Industrial Park" trên quốc lộ nối liền Sài Gòn-Bình Dương là một biểu hiện thành công của chính sách đầu tư của tỉnh Bình Dương.
Trên những hương lộ dẫn đến những huyện Tân Uyên, Tân Lương tiếp giáp với chiến khu D khi xưa, xuất hiện rất nhiều nhà máy sản xuất, phần lớn của các trung tiểu xí nghiệp Đài Loan. Nếu không có những hàng chữ Hoa và chữ Anh bên ngoài toà nhà, thì không ai biết đó là những công ty Đài Loan. Đọc được tên công ty, nhưng bảng hiệu không cho biết họ sản xuất những sản phẩm gì. Phương thức "úp úp mở mở" này có lẽ phản ảnh lối kinh doanh âm thầm không khoa trương, làm giàu trong im lặng cố hữu của người Hoa, khác hẳn kiểu "chơi nổi" của một vài doanh nhân nước ta; chưa vào "top 100" hay thậm chí "top 1000" người giàu nhất hành tinh thì đã có người mua chiếc xe hơi Maybach 62 đắt nhất thế giới đáng giá 1 triệu USD, chạy rong làm thiên hạ lác mắt cho vui! Những người Đài Loan, Hàn Quốc làm việc ở đây dễ dãi chấp nhận với nếp sống yên bình của một tỉnh lỵ. Các tiệm ăn đặc sản Đài Loan mọc lên rải rác trên quốc lộ. Thực khách ra vào dập dìu các quán "mộc tồn" hữu nghị Hàn Việt, với các món "cờ tây" làm theo khẩu vị ta lẫn khẩu vị Hàn.
Những đầu tư nhỏ đưa đến đầu tư lớn. Trong những ngày tôi ở Việt Nam, giới truyền thông đưa bản tin hàng đầu về tập đoàn Kumho sản xuất vỏ xe nhất nhì của Hàn Quốc chính thức ký kết một văn kiện làm nhà máy tại Bình Dương. Những đầu tư lớn nhỏ này đã hoàn toàn làm thay đổi bộ mặt nông thôn tỉnh Bình Dương. Những khu rừng cao su rộng lớn âm u, có một thời là một trong những nguồn sản xuất quan trọng, bây giờ được san phẳng để cung cấp mặt bằng cho những khu công nghiệp tương lai. Những thanh niên, thiếu nữ ở đây bây giờ không phải những anh nông dân hay cô thôn nữ, quanh quẩn trên những mảnh vườn cha ông để lại, chỉ biết trồng trọt, chăn nuôi. Họ tìm mọi cách để nâng cao trình độ học vấn và học tiếng Anh để xin việc ở những công ty nước ngoài. Họ sẽ được trả lương khoảng 1 triệu VND/tháng (60 USD) cho lao động bình thường, 2 triệu (120 USD) cho công việc văn phòng. Số lương nhỏ nhưng đủ để giúp người dân thoát khỏi cảnh nghèo khó ở thôn quê.
Những trung tiểu xí nghiệp sản xuất những sản phẩm mang tính chất "trung tiểu" như giày dép, quần áo, đồ gia dụng, các sản phẩm chế biến từ gỗ v.v... Việt Nam mang lại cho doanh nghiệp nước ngoài một nguồn lao động rẻ. Ngược lại, tuy những xí nghiệp mang công việc cho người dân địa phương, nhưng trên đường dài phát triển không mang một ích lợi kỹ thuật nào cho nền kinh tế quốc dân. Công nghệ điện tử, tin học, y sinh học, công nghệ nano, công nghiệp sản xuất máy móc chính xác (precision machinery) là những ngành mũi nhọn tạo nên sự giàu có cho một đất nước, vẫn chưa thấy manh nha ở các khu công nghiệp này. Tất cả đầu tư nước ngoài, theo sự quan sát phiến diện của tôi, chỉ ở công nghệ "trung" đến công nghệ "thấp," bao gồm công nghệ lắp ráp.
Bình Dương không phải là nơi độc nhất có nhiều khu công nghiệp. Trên quốc lộ 1 về miền Tây đi qua tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ, những khu công nghiệp lớn, nhỏ mọc lên như nấm. Thành lập khu công nghiệp có lẽ thành một cái "mốt" trên toàn quốc. Dù không phải là một nhà nghiên cứu kinh tế, tôi có cảm giác là các tỉnh tranh nhau thu hút đầu tư, nếu không được đầu tư nước ngoài thì đầu tư nội địa. Hệ quả là số cung nhiều hơn số cầu. Nhiều khu công nghiệp không rộng lớn nhưng đất đai thừa thãi, cả khu chỉ có lèo tèo một vài nhà máy nội địa. Cũng giống như các khu phố của người Việt hải ngoại, khi có một tiệm bán phở đắt khách thì vài tháng sau sẽ có một tiệm phở khai trương kế bên. Cứ như thế mà phát triển thì một khu phố nhỏ sẽ có năm sáu quán phở cùng thi đua thu hút số khách ăn nhất định.
Tính sáng tạo và đa dạng hoá không thấy ở những khu công nghiệp. Cần Thơ nằm ở một vị trí chiến lược trung tâm, tiếp giáp với Vĩnh Long, Đồng Tháp, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, An Giang, Kiên Giang, là vựa lúa Việt Nam, một khu vực với tiềm năng vô hạn trong việc khai thác tôm cá nước ngọt, hải sản, và cũng là trung tâm sản xuất hoa quả nhiệt đới toàn quốc, nhưng tôi không thấy một khu "nông công nghiệp" nào trong đó có những nhà máy cao cấp chế biến nông phẩm, đóng hộp hoa quả ngũ cốc. Được gọi là Tây Đô, nhưng Cần Thơ đã mất đi nhiều dịp để biến thành phố này trở thành một trung tâm sản xuất nông ngư nghiệp cho cả nước.
Việt Nam đang chuyển mình để hội nhập thế giới và thế giới cũng đang dang tay chấp nhận Việt Nam như một đối tác đáng tin cậy. Việt Nam sẽ là một con rồng châu Á, bay lên như cá vượt vũ môn. Tuy rằng có muộn nhưng còn hơn làm thân phận con cá chép lượn lờ lửng lơ mãi trong ao! Nhưng cho đến bây giờ, con rồng Việt Nam sẽ bay được bao xa, theo phương hướng nào, vẫn là một hàm số có nhiều ẩn số. Trước những thắng lợi cục bộ, nhà nước cũng không quên nhắc nhở người dân qua những chương trình TV, radio, rằng "một lần nữa, những thành quả rực rỡ về kinh tế và ngoại giao là một bằng chứng hùng hồn khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và nhà nước". Sao chỉ có Đảng và nhà nước, còn sáng kiến nhân dân ở đâu?
Trên đường phố Sài Gòn thỉnh thoảng xuất hiện những băng rôn điện tử to đùng "Thành phố Hồ Chí Minh: thành phố của anh hùng". Vâng, theo tôi đây là thành phố của những anh hùng chạy xe ôm vài ngàn đồng cho một cuốc xe về nuôi vợ con, bất kể những buổi trưa nắng gắt hay những cơn mưa tầm tã; anh hùng là những người buôn bán nhỏ bên lề đường, ở những quán cóc bán cà phê, cơm, phở; những anh thợ hớt tóc tận tâm phục vụ khách hàng với một loạt nghiệp vụ làm đẹp, kể cả cạo mặt, lấy ráy tai với giá bèo 60 cents US; anh hùng là một đoàn quân nam phụ lão ấu bán vé số từ 7 đến 70 tuổi nhẫn nại năn nỉ khách mua ở tất cả hang cùng ngõ hẻm. Tôi cũng thấy những anh hùng nông dân "miệt vườn" thấp cổ bé miệng sinh sống dọc theo những khúc đường liên tỉnh gần quê tôi, mịt mù bụi đường những ngày nắng ráo, lầy lội bùn đất những ngày mưa. Họ phải hít thở hàng tấn bụi mỗi ngày trong 2, 3 năm qua, con cái họ phải chịu những chứng bệnh hen suyễn với một thái độ chấp nhận số phận, không một lời than vãn, trên một đoạn đường đầy hang lỗ không hơn 10 km, chỉ vì nhà nước "thiếu" tiền tu sửa. Những "anh hùng" này là giai cấp nghèo "mới" trong nền kinh tế thị trường, nơi mà sự phân cực giàu nghèo càng lúc càng gia tăng. Họ là những thành phần cốt cán làm xã hội chuyển mình, làm ăn lương thiện, chắt bót từng đồng, nhưng bị xã hội bỏ quên.
Nhìn sự phát triển của khu công nghiệp Bình Dương, qua sự tiếp xúc với những đồng nghiệp làm công tác khoa học, và nhìn vào chính sách phát triển khoa học công nghệ của nhà nước, phải nói là chưa có sự đối thoại và liên thông giữa khoa học, kinh tế, doanh nghiệp và công nghiệp sản xuất. Nếu nhà nước không có những chính sách cụ thể, "ngôn hành hợp nhất", dùng người đúng chỗ, và nếu tiềm năng chất xám Việt kiều không được sử dụng triệt để, hệ quả tất nhiên sẽ là nội lực quốc gia phát xuất từ những thành quả nghiên cứu của khoa học kỹ thuật tạo ra tiền của, vật chất chắc còn lâu lắm mới thành hình. Mãi mãi, Việt Nam chỉ là nơi tập họp của "anh hùng" xe ôm, những người mua gánh bán bưng lam lũ không biết bao giờ thoát ra được cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
Khi đề cập đến sự phát triển và giàu có của Singapore, Lý Quang Diệu có lần trả lời báo giới Việt Nam, "Tôi không phải là người tài, nhưng tôi biết sử dụng người tài đúng chỗ".
12 March 2007
Trương Văn Tân
---
-
- Posts: 2581
- Joined: Mon Dec 06, 2004 5:03 am
- Been thanked: 1 time
Cám ơn anh 3 Giang nhen, lâu lâu được xem và được nghe mấy bản nhạc này từ YouTube hay wa' hả anh ???linhgia wrote:Mời nghe nhạc
Cô Đơn
3G
Cám ơn anh và anh Phú De đã post nhạc hết sẩy không hà ...


OTGH
Một tấm ảnh có thể làm sụp đổ chế độ
Phan Ngọc tường trình từ Paris:
VOA: Tin cho biết là dư luận Pháp đã rất xúc động về tin linh mục Nguyễn Văn Lý lãnh án 8 năm tù phải không ạ?
Phan Ngọc: Không hẳn phải là như vậy vì trước đây thì người ta đã quen thấy tòa án ở Việt Nam đã từng tuyên nhiều án phạt rất nặng đối với những người tranh đấu đòi tự do dân chủ, có khi án phạt tới hàng mấy chục năm tù. Nhưng lần này dư luận Pháp đã bị shock chính là vì bức hình chụp cảnh linh mục Lý bị còng tay trước tòa án rồi còn bị công an bịt miệng không cho nói lên điều ông ta muốn nói. Điều đó đã làm cho dư luận Pháp xúc động rất mạnh. Người dân Pháp thì ai cũng đã quen với những hành động đòi tự do dân chủ rất thường thấy diễn ra ở đường phố hay tại các tòa án tại Pháp. Tại các phiên tòa ở các nước có chế độ khắt khe nhất như ở Trung Đông cũng không có cảnh bịt miệng như vậy. Dư luận Pháp bị shock là khi thấy hình ảnh về cách xử án chớ không phải là vì bản án. Do vậy mà đã có những phản ứng gay gắt mà người ta đánh giá là nó sẽ có hại cho chế độ Việt Nam về lâu về dài.
VOA: Tại soa những phản ứng ấy lại có thể có hại về lâu về dài?
Phan Ngọc: Sự đánh giá mức tai hại lâu dài của hình ảnh trong vụ án này đối với chế độ cộng sản ở Việt Nam là ý kiến của nhiều trí thức ở Paris. Một giáo sư sử địa không muốn được đưa danh tánh thì đã giải thích với tôi rằng với hình ảnh của vụ án này chế độ CHXHCNVN có nguy cơ bị dư luận thế giới bỏ rơi. Để hiểu về tầm tác hại về lâu về dài của bức hình này thì phải nhớ lại ảnh hưởng vô cùng tai hại của những bức hình đã từng gây căm phẫn như cảnh tự thiêu của TT Thích Quảng Đức được phổ biến vòng quan thế giới, nó đã là một nguyên nhân làm sụp đổ chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam trước đây. Rồi cũng sau đó chỉ vì bức hình tướng Loan chỉa nòng súng sát màng tang của du kích Việt cộng ở Sài Gòn trong vụ đánh Tết Mậu Thân năm 1968, bức hình đó cũng được coi là sự đánh dấu sự sụp đổ của chế độ tướng lãnh của miền Nam Việt Nam.
Bởi vì những hình ảnh có tính cách tàn nhẫn, dễ gây căm phẫn ấy thì bất kể nó có lý do chính đáng đến đâu nhưng nó đã làm cho dư luận thế giới ghê tởm. Một khi mà dư luận thế giới ghê tởm thì nó có nguy cơ bỏ rơi nước đó, khó mà chuộc lại lỗi lầm đó trước dư luận. Lịch sử đã chứng minh điều này như là một quy luật, không có trường hợp ngoại lệ.
Vẫn theo nhà sử học này thì hình ảnh linh mục Lý bị bịt miệng trước tòa án của Việt Nam như thế có thể được coi như một sự tự tố cáo mình. Một sự khích lệ, có khi là sự vui mừng cho những ai đang muốn tranh đấu phát triển đòi tự do dân chủ cho Việt Nam.
VOA: Tại sao vụ xét xử này lại có thể là một sự vui mừng được, thưa anh?
Ông Phan Ngọc: Tôi đã tranh cải với nhà sử học này và nói là có lẽ ông ta đã "lộng ngôn" như vậy! Nhưng ông ta đã giải thích rằng khi ông là người thân với chế độ mà ông vẫn còn thấy rất xúc động, hơn nữa trong bức hình này LM Lý được tấn phong thành một anh hùng cho lý tưởng tự do dân chủ
Nay thì hình ảnh bi thảm này được loan truyền vòng quanh thế giới, nguy hiểm là hình ảnh bi thảm này là một biểu tượng sống động, đầy căm phẩn, dễ kích thích các nhà tranh đấu vì hình người bị bịt miệng có thể tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam
Việc công an bịt miệng Cha Lý là biểu tượng cho một chế độ đang bịt mồm, bịt miệng nhân dân và nhà sử học này còn nói rõ rằng: "Những vụ như thế thường xảy ra ở Việt Nam là do một số cán bộ trong chính quyền quá thiếu trình độ, thiếu kinh nghiệm về dân chủ nên đã dàn dựng ra cảnh xét xử công khai như vậy! . Đấy là một hành động phản công lý, phản văn hóa nhất là rất phản tuyên truyền" . Và ông ta kết luận: "Thật là một việc là hớ hênh và tai hại quá!"
VOA: Thưa anh, thật sự thì dư luận Pháp đã nói gì về vụ án này ?
Ông Phan Ngọc: Báo chí Pháp khi tường thuật về vụ án này thì phê phán nhẹ nhàng về án 8 năm tù, nhưng họ đồng loạt tỏ ra phẩn nộ về cách xét xử như vậy đối với các nhà bất đồng chính kiến, nhất là các báo cánh tả đều lên án cách xử án như vậy . Tờ báo thế giới Le Monde là tờ báo cánh tả bậc nhất của Pháp là biểu tượng cho giới trí thức Pháp đã đăng lớn 1 tấm hình màu cảnh Cha Lý đang bị bịt miệng, đó là trường hợp rất hy hữu nơi tờ báo này và tờ báo đã diễn giải nguyên văn như sau dưới tấm hình: "Hôm thứ sáu, 30/3 một viên an ninh đã cố bịt miệng LM Nguyễn Văn Lý khi Ông lớn tiếng tố cáo chống lại thứ luật rừng của những người cọng sản" và thêm rằng " Bản án này phản ảnh sự nóng nảy của chính phủ trước sự gia tăng hoạt động của giới tranh đấu"
Nền tư pháp Việt Nam do ĐCSVN kiểm soát đã tuyên phạt 8 năm tù LM Nguyễn Văn Lý, 60 tuổi , người đã bị tù nhiều lần vì tranh đấu đòi tự do, dân chủ qua một phiên xử đầy náo động
Các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền đã tố cáo chính phủ Việt Nam là lợi dụng Việt Nam đang có hình ảnh đầy hứa hẹn trước thế giới nên xiết lại sự kèm kẹp ở trong nước
Nói chung những người khách quan cho rằng vụ xử án là hành động vô cùng đáng tiếc và đáng trách nhất là kẻ đã dàn dựng công khai vụ xử án như vậy
Hình ảnh này là bia miệng sẽ mãi mãi tồn tại theo thời gian y như những bức hình cảnh Thích Quảng Đức hay Tướng Loan trước đây trong lịch sử đau thương của Việt Nam
VOA: Xin cám ơn anh Phan Ngọc
----

VOA: Tin cho biết là dư luận Pháp đã rất xúc động về tin linh mục Nguyễn Văn Lý lãnh án 8 năm tù phải không ạ?
Phan Ngọc: Không hẳn phải là như vậy vì trước đây thì người ta đã quen thấy tòa án ở Việt Nam đã từng tuyên nhiều án phạt rất nặng đối với những người tranh đấu đòi tự do dân chủ, có khi án phạt tới hàng mấy chục năm tù. Nhưng lần này dư luận Pháp đã bị shock chính là vì bức hình chụp cảnh linh mục Lý bị còng tay trước tòa án rồi còn bị công an bịt miệng không cho nói lên điều ông ta muốn nói. Điều đó đã làm cho dư luận Pháp xúc động rất mạnh. Người dân Pháp thì ai cũng đã quen với những hành động đòi tự do dân chủ rất thường thấy diễn ra ở đường phố hay tại các tòa án tại Pháp. Tại các phiên tòa ở các nước có chế độ khắt khe nhất như ở Trung Đông cũng không có cảnh bịt miệng như vậy. Dư luận Pháp bị shock là khi thấy hình ảnh về cách xử án chớ không phải là vì bản án. Do vậy mà đã có những phản ứng gay gắt mà người ta đánh giá là nó sẽ có hại cho chế độ Việt Nam về lâu về dài.
VOA: Tại soa những phản ứng ấy lại có thể có hại về lâu về dài?
Phan Ngọc: Sự đánh giá mức tai hại lâu dài của hình ảnh trong vụ án này đối với chế độ cộng sản ở Việt Nam là ý kiến của nhiều trí thức ở Paris. Một giáo sư sử địa không muốn được đưa danh tánh thì đã giải thích với tôi rằng với hình ảnh của vụ án này chế độ CHXHCNVN có nguy cơ bị dư luận thế giới bỏ rơi. Để hiểu về tầm tác hại về lâu về dài của bức hình này thì phải nhớ lại ảnh hưởng vô cùng tai hại của những bức hình đã từng gây căm phẫn như cảnh tự thiêu của TT Thích Quảng Đức được phổ biến vòng quan thế giới, nó đã là một nguyên nhân làm sụp đổ chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam trước đây. Rồi cũng sau đó chỉ vì bức hình tướng Loan chỉa nòng súng sát màng tang của du kích Việt cộng ở Sài Gòn trong vụ đánh Tết Mậu Thân năm 1968, bức hình đó cũng được coi là sự đánh dấu sự sụp đổ của chế độ tướng lãnh của miền Nam Việt Nam.
Bởi vì những hình ảnh có tính cách tàn nhẫn, dễ gây căm phẫn ấy thì bất kể nó có lý do chính đáng đến đâu nhưng nó đã làm cho dư luận thế giới ghê tởm. Một khi mà dư luận thế giới ghê tởm thì nó có nguy cơ bỏ rơi nước đó, khó mà chuộc lại lỗi lầm đó trước dư luận. Lịch sử đã chứng minh điều này như là một quy luật, không có trường hợp ngoại lệ.
Vẫn theo nhà sử học này thì hình ảnh linh mục Lý bị bịt miệng trước tòa án của Việt Nam như thế có thể được coi như một sự tự tố cáo mình. Một sự khích lệ, có khi là sự vui mừng cho những ai đang muốn tranh đấu phát triển đòi tự do dân chủ cho Việt Nam.
VOA: Tại sao vụ xét xử này lại có thể là một sự vui mừng được, thưa anh?
Ông Phan Ngọc: Tôi đã tranh cải với nhà sử học này và nói là có lẽ ông ta đã "lộng ngôn" như vậy! Nhưng ông ta đã giải thích rằng khi ông là người thân với chế độ mà ông vẫn còn thấy rất xúc động, hơn nữa trong bức hình này LM Lý được tấn phong thành một anh hùng cho lý tưởng tự do dân chủ
Nay thì hình ảnh bi thảm này được loan truyền vòng quanh thế giới, nguy hiểm là hình ảnh bi thảm này là một biểu tượng sống động, đầy căm phẩn, dễ kích thích các nhà tranh đấu vì hình người bị bịt miệng có thể tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam
Việc công an bịt miệng Cha Lý là biểu tượng cho một chế độ đang bịt mồm, bịt miệng nhân dân và nhà sử học này còn nói rõ rằng: "Những vụ như thế thường xảy ra ở Việt Nam là do một số cán bộ trong chính quyền quá thiếu trình độ, thiếu kinh nghiệm về dân chủ nên đã dàn dựng ra cảnh xét xử công khai như vậy! . Đấy là một hành động phản công lý, phản văn hóa nhất là rất phản tuyên truyền" . Và ông ta kết luận: "Thật là một việc là hớ hênh và tai hại quá!"
VOA: Thưa anh, thật sự thì dư luận Pháp đã nói gì về vụ án này ?
Ông Phan Ngọc: Báo chí Pháp khi tường thuật về vụ án này thì phê phán nhẹ nhàng về án 8 năm tù, nhưng họ đồng loạt tỏ ra phẩn nộ về cách xét xử như vậy đối với các nhà bất đồng chính kiến, nhất là các báo cánh tả đều lên án cách xử án như vậy . Tờ báo thế giới Le Monde là tờ báo cánh tả bậc nhất của Pháp là biểu tượng cho giới trí thức Pháp đã đăng lớn 1 tấm hình màu cảnh Cha Lý đang bị bịt miệng, đó là trường hợp rất hy hữu nơi tờ báo này và tờ báo đã diễn giải nguyên văn như sau dưới tấm hình: "Hôm thứ sáu, 30/3 một viên an ninh đã cố bịt miệng LM Nguyễn Văn Lý khi Ông lớn tiếng tố cáo chống lại thứ luật rừng của những người cọng sản" và thêm rằng " Bản án này phản ảnh sự nóng nảy của chính phủ trước sự gia tăng hoạt động của giới tranh đấu"
Nền tư pháp Việt Nam do ĐCSVN kiểm soát đã tuyên phạt 8 năm tù LM Nguyễn Văn Lý, 60 tuổi , người đã bị tù nhiều lần vì tranh đấu đòi tự do, dân chủ qua một phiên xử đầy náo động
Các tổ chức quốc tế bảo vệ nhân quyền đã tố cáo chính phủ Việt Nam là lợi dụng Việt Nam đang có hình ảnh đầy hứa hẹn trước thế giới nên xiết lại sự kèm kẹp ở trong nước
Nói chung những người khách quan cho rằng vụ xử án là hành động vô cùng đáng tiếc và đáng trách nhất là kẻ đã dàn dựng công khai vụ xử án như vậy
Hình ảnh này là bia miệng sẽ mãi mãi tồn tại theo thời gian y như những bức hình cảnh Thích Quảng Đức hay Tướng Loan trước đây trong lịch sử đau thương của Việt Nam
VOA: Xin cám ơn anh Phan Ngọc
----

Cựu Học Sinh HNC - niên khoá 60-67 .
Cựu Sinh viên Y Khoa - niên khoá 67-74 . Khánh Vân trong chuyến về thăm gia đình - Có dịp tham gia cùng phái đoàn Y Tế - Khám Bịnh và Phát thuốc cho đồng bào nghèo tại Bình Chánh .
Trong chuyến đi này KV đã gặp BS Nguyệt - cựu nữ sinh LVD - và anh Diên cựu học sinh HNC . KV rất hân hạnh giới thiệu cùng tất cả các anh HNC Hải Ngoại Bác Sĩ - Nguyễn Hữu Diên . Trong bài phỏng vấn chớp nhoáng anh Diên - KV có thu tiếng nói cuả anh - nhưng kV ở ẹc - không biết làm sao gửi cho Thầy Phú De - để Thầy load lên D/Đ - cho mọi người cùng nghe - Chắc sau này Thầy De phải từ từ dậy KV - làm cho cho lên D/Đ nha . Từ từ KV cho lên tiếp hình cuả anh Diên và Bà Xã .
-
- Posts: 2581
- Joined: Mon Dec 06, 2004 5:03 am
- Been thanked: 1 time
Tìm hiểu ĐÀN BÀ CON GÁI qua Tướng thuật
Bài này là cả 1 cuốn sách, dài lắm. Xin tạm trích 1 đọan thôi để mời quí vị đọc cho biết !
I - CÁI ĐẸP CỦA MẮT TỤC VÀ CÁI ĐẸP
DƯỚI MẮT CỦA THẦY TƯỚNG...
Cái đẹp tục nhãn thường thấy qua miệng các nhà văn như Lý Bạch từng ca tụng Dương Quí Phi bằng những câu thơ :
“Xuân tưởng nghê thường hoa tưởng dung...
Nhất chi nùng diệm lộ ngưng hương ...”
Hoặc trong bộ kinh ái tình của Ấn Độ tán tụng:
“Nàng uyển chuyển như con thiên nga, khoan thai yểu điệu. Đôi mông tuyệt diệu; đó là một trái Nitambini. Nàng đen tựa như một nụ sen, đẹp như Rathi nữ thần của khoái lạc.”
Người Y-Pha-Nho (Spaniard / Spanish ?) nói người đàn bà muốn hoàn toàn đẹp phải hội tụ đủ 30 (?) điều kiện :
Ba thứ trắng: da, răng và đôi bàn tay.
Ba thứ đen: Mắt, đôi mi và đôi mày.
Ba thứ đỏ: môi, má và móng tay.
Ba thứ dài: thân, tóc và tay.
Ba thứ ngắn: răng, tai và đôi bàn chân.
Ba thứ nở: ngực, trán và mi mắt.
Ba thứ hẹp: miệng, eo và gót chân.
Ba thứ bụ bẫm: cánh tay, đùi và bắp chân.
Ba thứ nhỏ: núm vú, mũi và đầu.
(Chú thích: Phải còn 3 thứ nữa mới đủ số 30 ; Hổng hiểu chạy đâu mất tiêu nhỉ ?)
Thi sĩ Ronsard say sưa tả mỹ nhân:
“J''aime la bouche imitante la rose
Au lent solei de Mai déclose.”
Tướng lý đã chẳng khác chi một gáo nước lạnh dội vào mặt văn chương cho văn chương tỉnh mộng nhìn vào thực tế tàn nhẫn. Sách tướng đưa ra quy luật :
"Mỹ nhân thường tác kỹ
(người đẹp thường hay làm điếm)."
Nếu ta đi vào các vũ trường, các nhà hát cô đầu hoặc những chốn ăn chơi tất không ai phủ nhận rằng nơi ấy có nhiều người đàn bà đẹp theo con mắt tục hơn là vào một dạ hội gồm các bà lớn tụ hội.
Nếu ta lại tách riêng mười kỹ nữ ra, ta sẽ dễ dàng tìm thấy từ 4 đến 8 người đẹp (tục nhãn), còn nếu nhìn các bà vợ của cả một nội các thì phải khó khăn lắm mới thấy vài ba mỹ nhân !
Tướng nhãn và tục nhãn khác biệt hẳn nhau ở điểm này. Nhưng chính tướng nhãn và tục nhãn lại gặp nhau trên một điểm khác đó là vẻ đẹp hoàng hậu, vẻ đẹp công chúa. Tuy nhiên vẻ đẹp ấy cực hiếm không phải lúc nào cũng có. Vẻ đẹp ấy là vừa đẹp người vừa đẹp tướng. Tại sao đàn bà có nhan sắc thường hay làm điếm ?
Sách tướng giảng rằng :
“Mỹ nhân thường tác kỹ, mỹ trung hữu chí sũ”
(Đàn bà nhan sắc làm điếm bởi trong vẻ đẹp có cái cực xấu).
Cực xấu ấy mệnh danh chuyên môn là "phá tướng." Tỷ dụ như diện mạo rất đẹp nhưng tiếng nói rè rè như lệnh vỡ; thể thái mảnh mai mà bước đi nặng nề như đàn ông; môi má trắng sạch mà thân thể lại ô cấu, hôi hám, hoặc tóc không cứng, hoặc tay mềm nhũn như không có xương. Rõ hơn nữa, gái điếm phần lớn đều có tướng trán rất xấu: thấp quá, hẹp quá, lệch lạc, không bằng phẳng, hoặc khoảng chân tóc không đều đặn, thiên sương (bộ phận từ góc trán thái dương) hãm hay óp, ấn đường (khoảng trên sống mũi giữa hai đầu chân mày) quá hẹp, lõm sâu. Trán là thuộc vận hành từ 16 đến 21 tuổi, cũng là khoảng tuổi dễ bước chân vào nghề kỹ nữ.
Về phá tướng có một chuyện điển hình là chuyện nàng ca kỹ Hạnh Xuân tại xóm ăn chơi Bát Đại Hồ Đồng, Bắc Kinh đời vua Quang Tự nhà Thanh.
Nhìn Hạnh Xuân từ diện mạo đến thể thái không ai không nghĩ nàng là một quý phu nhân, vừa đẹp vừa đoan trang bất luận đi đứng, ăn nói, nằm ngồi nhất nhất đều đều không bợn một cử chỉ thô tục, không lộ một vẻ dâm tiện. Thế mà Hạnh Xuân lại là một kỹ nữ. Có điều nàng rất nổi tiếng, những người đến với nàng hầu hết là đại quan quí nhân, giang hồ khí phách, phong lưu văn sĩ hay đại phú thương.
Thường thường một danh kỹ tiếng tăm như thế không bao giờ hành nghề quá một năm là đã theo về các hào tộc phú gia để làm thiếp hầu. Lạ lùng thay Hạnh Xuân ở Bát Đại Hồ Đồng có tới ba năm trường.
Một hôm, trong đám người yêu Hạnh Xuân cuồng nhiệt có vị phú thương ở Sơn Tây họ Hạ, muốn cưới Hạnh Xuân về làm thiếp. Giá cả chuộc Hạnh Xuân tuy rất cao nhưng đối với ông ta chẳng thành vấn đề. Hệ trọng nhất đối với phú thương họ Hạ trái ngược với thường tình lấy thiếp mong con, ông ta không muốn Hạnh Xuân có con bởi vợ cả và người thiếp đã sản xuất cho gia đình nhà ông tám chín mạng rồi. Ông say mê vẻ đẹp mê hồn của Hạnh Xuân mà người đàn bà sinh đẻ sắc đẹp dễ tàn phai, làm thế nào biết chắc Hạnh Xuân không sinh hài tử ? Số Bát tự của nàng vì sớm lưu lạc từ ấu thơ nên chẳng ai biết. Chỉ còn cách xem tướng. Họ Hạ bèn mở tiệc mời một vị túc nho rành tướng số đến xem cho Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh (tên vị túc nho) uống vài chung rượu do Hạnh Xuân tiếp rót, ông định thần ngắm nghía nàng hồi lâu rồi ghé tai nói nhỏ với Hạ phú thương rằng:
- Tôi khuyên ông không nên lấy Hạnh Xuân, tuy đẹp nhưng tướng cách nàng nhất định không thể sinh con đẻ cái được.
Lời nói của Mạc tiên sinh làm cho phú thương họ Hạ rất vui mừng nên hỏi thêm :
- Hạnh Xuân còn tướng xấu nào khác nữa ?
Mạc tiên sinh đáp:
- Thật quái lạ ! Tướng mạo biểu diện của Hạnh Xuân đúng là một quý phu nhân ít nhất cũng từ tam phẩm trở lên mà sao lại luân lạc chốn lầu xanh. Tôi chưa tìm ra nguyên do. Lẽ ra bây giờ nàng đã lấy chồng bậc quí nhân chứ không phải lấy ông chồng là phú thương.
Họ Hạ tự tay rót rượu mời Mạc tiên sinh và xoắn suýt xin Mạc tiên sinh cố tìm kiếm lý lẽ ba đào của Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh lại ngắm nghía hồi lâu rồi lắc đầu nói :
- Không thấy ! Chắc Hạnh Xuân có một điểm phá tướng ẩn kín đâu đó ?
Nhân dịp Mạc tiên sinh lưu lại Bát Đại Hồ Đồng cùng Hạ phú thương mươi bữa, ông có dịp cùng Hạnh Xuân đàm đạo mới đem chuyện tướng ra nói. Mạc tiên sinh bảo Hạnh Xuân:
- Cứ xem tướng mạo của cô thì phải ở ngôi tam phẩm phu nhân mới phải, thế mà chẳng hiểu có điểm phá tướng nào đã khiến cho cô lâm vào chốn giang hồ !
Lần khác Mạc tiên sinh cùng Hạnh Xuân nói chuyện lâu hơn và lần này cuối đường hầm đã có tia sáng. Ông già hơn năm mươi tuổi suốt buổi không hề mót tiểu tiện mà cô gái mới 19 xuân xanh chốc chốc lại phải cáo lỗi ! Lúc đó đương vào hạ tiết, “đa hạn thiểu thuỷ” (nhiều mồ hôi, ít tiểu tiện) mới phải. Đúng rồi ! Đây gọi là “ám trung tiết khí” sách tướng ghi rành rành. ("Ám trung tiết khí" này có nhiều loại, đây chỉ là 1 trong số !)
Mạc tiên sinh ghi nhận điểm phá tướng đó, tiết lộ với bạn của Hạnh Xuân là Hồ Ngọc kể cho biết thêm chẳng những Hạnh Xuân có thói quen luôn luôn tiểu tiện mà thôi; cả việc đại tiện cũng khác người ta, mỗi lần nàng làm công việc đó tưởng chừng như xổ ruột. Tiểu tiện đại tiện chẳng phân biệt trước sau ào ào rơi xuống như hắt chậu nước. “Mỹ trung hữu chí sũ” là như vậy!
Sách tướng viết:
"Sũ nữ gia quý phu, sũ trung hữu đại mỹ"
(Nghĩa là gái xấu lấy chồng sang, trong cái xấu có cái cực đẹp).
Trên tướng thuật nhìn cái đẹp theo nhãn tuy có điểm tương đồng nhưng ở mặt khác lại có điểm tương phản, cho nên quan điểm và quan niệm về Đẹp của tướng nhãn thường thường xung đột với quan điểm và quan niệm của tục nhãn.
Tỉ dụ như vẻ đẹp của mỹ nhân là da thịt mềm mại êm như bông hay “thiên kiều bách mị.” Thế nhưng tướng lý cho như vậy là dâm tiện. Nếu cứ theo tục nhãn để định thì cuộc đời tất có ngày hố to!
Dĩ nhiên những vẻ đoan trang, thuỳ mị, nhàn tĩnh, hoa quý, trong sáng thì tướng nhãn và tục nhãn đều cùng một quan niệm và quan điểm. Tuy vậy qua kinh nghiệm và thực tế đầy rẫy ngoài đời thì người đang bà ở vị nguyên phối (vợ lớn) ít người đẹp theo tục nhãn mà người đàn bà ở địa vị trắc thất (vợ bé) thì nhiều người đẹp theo quan điểm tục nhãn. Các cụ cổ khôn lắm nên đặt lệ :
“Thủ thê thủ đức (lấy vợ lấy đức)
Thủ thiếp thủ sắc (lấy thiếp lấy sắc)”
Cũng lạ là hồng nhan bạc mệnh hay phong lưu khuyết đức phần lớn ứng vào thân phận thiếp mọn.
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”
Ấy vậy mà kẻ đắp chăn bông thường không đẹp bằng kẻ chịu lạnh, kẻ chịu lạnh đa số có sắc, tướng, mỹ. Đã có sắc, tướng, mỹ thì cũng đa số vướng vào cảnh “hoa tường liễu ngõ” nên mới gặp kẻ tìm hoa hỏi liễu để trở thành thân lẽ mọn.
Cho nên, về tướng lý, chỉ đẹp sắc không phải là quý tướng. Chẳng phải ngàn xưa mới thế, ngày nay cũng vậy. Các minh tinh màn bạc chưa lấy chồng đã nổi tiếng nhiều chồng. Và khi lấy chồng các minh tinh gần như chẳng bao giờ ở địa vị nguyên phối. Hồng nhan, phong lưu, khuyết đức, bạc mệnh theo tướng lý vẫn hằng liên hệ với nhau.
Trái lại, những người đàn bà ở ngôi vị nguyên phối không phải là người có sắc tướng mỹ mà là người có tướng cách mỹ (đẹp tướng). Bởi tại tướng cách mỹ ít người nhìn ra nếu không biết tướng thuật nên phê phán qua tục nhãn bằng hai chữ "xấu xí."
Hồi Ngô Bội Phu còn làm mưa làm gió trên chính trường Trung Quốc (thời mạt Thanh sắp xảy ra cách mạng Tân Hợi), có mở bữa yến tiệc lớn mời khắp mặt vai vế đương thời. Trong số đó có nhà coi tướng họ Đàm. Theo những biên chép của vị tiên sinh coi tướng ghi lại thấy bữa tiệc ấy như sau:
"Nhờ bữa tiệc này tôi thể nghiệm rõ ràng nguyên tắc tướng pháp về lẽ xấu đẹp của người đời. Tôi thấy ở đây, ngoại sảnh để tiếp loại thiếp hầu thì ai ai cũng mặn mà quyến rũ nhưng nhìn kỹ chẳng một người là con nhà phiệt duyệt hay khuê các. Phảng phất chỉ có “sắc thái xuất tường hồng hạnh” hoặc “tỳ bà biệt diệu” mà thôi.
Khi vào tới nội sảnh, nơi dành cho phu nhân Ngô Bội Phu tiếp các bà nguyên phối khác thì tuyệt nhiên không thấy một vết tích truỵ lạc, phong trần. Hơn 24 vị thái thái, quá nửa không có sắc tướng mỹ thì thật là
“mãn thiên tinh đẩu” (đầy trời sao sáng). Có người lưng lạc đà, có người cục mịch như thôn phụ, nhưng không người nào không có một tướng cách rất đẹp! Người thì một cái mũi đầy đặn giữa đôi mắt đôi mi phi thường thanh tú; Người thì tam đình (mặt chia ra làm 3 phần gọi là tam đình: từ trán xuống đến giữa hai mắt (ấn đường) là thượng đình, từ giữa hai mắt đầu sống mũi (sơn căn) xuống đến đầu mũi (chuẩn đầu) là trung đình, từ đầu mũi xuống cằm là hạ đình); Ngưòi thì ngũ quan tương phối, đoan chính minh lượng.”
Như vậy, theo pháp quy nạp thì “ưu điểm cửu tướng cục khả dĩ” chia làm ba loại:
1 - Trong xấu có điểm cực tốt ("Sũ trung hữu đại mỹ.")
2 - Cái tốt bên trong ("Nội tại mỹ") là tính kiên trinh, ôn nhu.
3 - Thái độ bao dung.
Vô luận nam hay nữ, nội tại mỹ bao giờ cũng hơn cái đẹp bề ngoài. Nhất là con gái lẳng lơ càng đẹp càng hạ cách.
Nhớ đến Vương Chiêu Quân ngày xưa sở dĩ nàng phải chịu kiếp cống Hồ chắc là nàng có điểm phá tướng; cái điểm phá tướng ấy là sự thực chứ không phải Mao Diên Thọ vẽ thêm đâu!
II - TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ QUAN TRỌNG BẬC NHẤT
Tướng gia Tề Đông Giã kể rằng thuở thiếu niên ông theo người cậu ruột đi yến tại một nhà ở đường Tây Trực tại thủ phủ Bắc Kinh. Người cậu vốn là công chức cao cấp chính phủ đương thời, giao du rộng lớn, lại rất am tường tướng thuật. Biết tướng thuật cũng là một tài năng cần thiết để giao thiệp trong chính giới lúc bấy giờ. Bữa yến hôm ấy vấn đề tưóng số được đem ra bàn cãi sôi nổi. Đề tài đưa ra là tướng về âm thanh, nhiều người không tin rằng âm thanh có thể ảnh hưởng đến vận mạng con người như cậu tôi nghị luận (lời Tề Đông Giã). Cuối cùng chủ nhân bầy cuộc thử tài. Buồng bên trong có một bàn các bà đánh bài mạt chược, tấm màn che kín. Chủ nhân yêu cầu cậu tôi lắng nghe tiếng nói của 5 bà trong đó để đóan vận mạng. Mọi người ngồi im nghe. Vào lúc bên buồng có ván bài ù muỗi, các bà huyên náo cả lên vì ba bà khác người nào cũng chờ mủn cun.
Ông cậu tôi bỗng nói:
- “Nữ đới nam thanh” (người đàn bà nói âm thanh đàn ông). Ai có tiếng nói ấy tất dã khắc phu.
Chủ nhân chịu ngay và nói cho mọi người biết bà ta là goá phụ của họ Tiều trong Bộ giáo dục.
Cậu tôi vẫn lắng nghe và nói tiếp:
- “Cô nhạn thất thần chi thanh tất thị ly phu !” (tiếng nói nức nở cắt đoạn chẳng khác chi con chim nhạn lạc đàn tất phải xa lìa chồng con.)
Chủ nhân hân hoan ra mặt:
- Tiên sinh đoán không sai, đó là tiếng nói của bà vợ ông Tổng lý bưu điện đã bị bọn quyền phỉ bắt đi mất tích từ 5 năm nay chẳng biết sống chết thế nào.
Cậu tôi hầu như chẳng để ý đến lời tán tụng, lắng nghe tiếp rồi nói luôn:
- “Cuồng thuyền vãn tháo sát nhị phu” (ồ ạt như tiếng ve sầu buổi chiều, sát hai chồng).
Đến đây thì chủ nhân hoàn toàn bái phục, ông vỗ tay khen lấy khen để rồi giục cử toạ đồng thanh yêu cầu cậu tôi giải thích.
Cậu tôi chậm rãi giảng giải :
- “Nữ đới nam thanh” là một lọai phá tướng của phụ nữ, nhưng không nhất định phải khắc phu vì cuối tiếng có âm thanh sắc nhọn làm chói tai (thích nhĩ). Bà ta lấy chồng không quá 2 năm thì chôn chồng. Nói thanh âm chói tai làm người ta nhớ lại bà Trần Lệ Xuân trong những bài diễn văn bà đọc năm 1963 hay trước đấy. Còn về “Cô nhạn thất quần chi thanh” muốn đoán cần phải rõ nó đã trở thành tiếng kêu thương chưa. Nếu chuyển rồi mà tiếng kêu thường thanh trường thì chồng chết, thanh đoản may ra người xa còn sống, đến như “Cuồng thuyền vãn tháo” tiếng đầu tiếng cuối đồng âm vốn là tướng bần tiện chứ không khắc phu. Tướng ấy chỉ khắc phu khi nào tiếng đầu tiếng cuối như có khoảng nghẹn ngào cắt đứt.
Chủ nhân chen vào nói :
- Chúng tôi bội phục tiên sinh đoán tướng 3 bà goá phụ, bây giờ đến lượt 2 người đàn bà mà tiên sinh chưa nói tới.
Trong số thực khách cũng có vài ba vị nghiên cứu tướng học nên cậu tôi quay lại thỉnh họ cho ý kiến. Thế là mấy vị kia nghe theo lời chủ nhân cùng lắng tai nghe.
Một lát, ông họ Kha nói :
- Tiếng nhẹ nhưng có lực, “vượng phu ích tử.”
Ông họ Đặng nói theo :
- Thanh âm có vận điệu, “trường thọ chi tướng.”
Và cuối cùng ông họ Ngũ :
- Nhỏ nhẹ như tiếng suối reo, “nữ nhân tài đức kiêm toàn.”
Cậu tôi nghe tất cả mọi người phát biểu xong rồi mới nói :
- Các vị đoán trên đại thể rất đúng nhưng đi vào chi tiết có điều sai. Thanh âm người đàn bà này tuy hữu lực giống tiếng nước suối reo, khốn nỗi vì thanh hơi cụt cho nên dù thừa tài năng nhưng không thể thọ. Bà ấy năm này chừng ngoài bốn mươi, tôi chắc không thể sống lâu quá năm mươi.
Chủ nhân lại hỏi đến bà thứ 5 thì các vị kia đi sau khi nghe tiếng nói của bà ta không ai đoán định được một điểm nào đặc biệt. Riêng cậu tôi đã làm cho mọi người sửng sốt khi ông nói giọng chắc như đinh đóng cột :
- Người này trước ở thanh lâu, nay làm thân vợ bé.
Lẽ ra, tướng kỹ nữ thì phải trông sắc diện mới thấy, nghe tiếng nói mà đoán ra thì thật hoang đường ! Tôi không nhớ cậu tôi giảng ra sao, sau này đi học tướng thuật tôi thấy sách có ghi : “Đàn bà tiếng nói lớn mà tán mạn, tức là “Kim thanh phạt mộc chi tượng” thường ở thanh lâu hoặc hành nghề chứa gái."
Coi tướng phụ nữ trước hết phải nghe tiếng nói rồi mới đến sắc mặt, rồi đến hình thể, rồi mới đến tâm tư. Tiếng nói đặc biệt liên hệ với tính mạng, hạnh phúc lứa đôi. Thanh âm phá thì các bộ vị khác dù tốt đẹp cũng khó lòng cứu vãn khỏi mệnh số sinh ly tử biệt với chồng con.
Tiếng nói nam tử lấy âm thanh hồng lượng làm chủ tốt, còn tiếng nói nữ tử chủ nhu hoà cần nhỏ nhẹ, có âm điệu mới hay. Tối kỵ là tiếng nói sắc nhọn chói tai nghe khó chịu. Đàn bà nói ra thích nhĩ (chói tai) thì chẳng chôn chồng cũng khóc con, đàn ông nói ra thích nhĩ suốt đời phá bại. Thanh âm thích nhĩ có hai loại: một lọai thuộc kim, một loại thuộc mộc. Khắc phu vào loại mộc thì người chồng chết bình thường, còn nếu khắc về loại kim thì người chết bất đắc kỳ tử.
"Thu có hạn sầu dài không hạn,
Cảm thu sang nhớ bạn lứa đôi.
Đoạn trường biết mấy tao nôi,
Khóc rồi lại khóc hờn thôi lại hờn.
Khúc duyên dạo dây đờn ai dứt.
Dao sầu kia cắt đứt lồng son.
Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn,
Hờn duyên tủi phận lệ còn chứa chan."
(Tương Phố)
Những câu thơ thê thảm trên phải chăng chỉ là tiếng kêu thương của định số ? Khắc sát phu ngoài thanh âm ra còn có tướng nào khác nữa ?
Tướng khắc phu nặng nhất là tiếng nói ! Sau mới đến các tướng khác được phân biệt như sau :
Lưỡng quyền quá cao lộ cốt; trán khuyết hãm, quá thô không tương xứng với mặt; lưỡng quyền lệch cao thấp không đều; "quyền phản" nghĩa là không chầu vào mũi. Tuy nhiên phải nhìn cho tinh tường đừng nhầm quyền rộng, đầy đặn với quyền cao. Lưỡng quyền đầy đặn là tính lan ra từ sát làn ranh của tai, vòng xương hàm xuống đến lằn ranh của miệng làm thành một khoảng to lớn sáng đẹp thì lại là tướng quý phu nhân nếu cộng thêm với cái mũi tốt.
Trán dài, trán vẹo, trán khuyết hãm, trán có ba vết răn bị tạp văn phá, trán có xoáy tóc như trôn ốc. Mắt lộ tứ bạch (bốn phía trắng), mắt đỏ, mắt vàng, mắt lồi, lông mày mỏng tản mạn, giao nhau.
Tóc xoăn (khô xoăn chứ không phải ra tiệm uốn quăn đâu nha), tóc dầy nặng, chân tóc vượt quá về đằng sau trán, tóc cứng.
Môi cuốn, răng lộ, miệng chụm như thổi lửa (“khẩu suy như hoả”), miệng lệch.
Xương cốt to thô, vai so.
Mặt gầy sác lộ gân, mặt nhiều lông, mặt trì lệ như sáp.
III - LUẬN VỀ TƯỚNG HỒNG NHAN BẠC MỆNH
Mở đầu tập Chinh phụ ngâm ông Đặng Trần Côn viết:
“Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân.”
Bà Đoàn Thị Điểm dịch:
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.”
Hồng nhan bạc mệnh đã thành thiên cổ tục ngữ.
Hồng nhan đa truân là lẽ thường tình trong vấn đề nhân sinh.
Bạc mệnh là chết sớm, chết non, phận mỏng, lao đao. Đa truân nghĩa là phiêu bồng, lãng đãng.
Hồng nhan là những người đàn bà trời ban cho một sắc đẹp cực kỳ diễm lệ. Hồng nhan cũng là những người đàn bà trời ban cho một tâm hồn mẫn tiệp tài hoa thu hút nam phái.
Thiên địa phong trần là cơ duyên để tạo thành những cảnh thảm sầu bạc mệnh và đa truân.
Về tướng thuật trước hết hồng nhan có liên hệ phần nào đến tướng khắc sát chồng.
Tại Trung Quốc có lưu truyền từ lâu đời một truyện thơ ngụ ngôn kể rằng:
Có ba vị lão nhân ngồi uống rượu, đánh cờ bên dòng suối vẻ mặt ai nấy đều thanh thản, vui sướng. Có người đến chắp tay hỏi ba cụ về cái thuật trường thọ. Thì thấy ở trong thơ ghi câu : “Thất trung lão ẩu xũ” (nghĩa là “Trong nhà vợ già xấu”). Cả ba cụ nói:
- Nhà ngươi có biết câu tục ngữ “Hồng nhan bạc mệnh” không ? Các lão đây sở dĩ thọ là bởi tại vợ các lão đây không thuộc loại hồng nhan.
Người kia ngạc nhiên hỏi:
- Trường thọ với lão bà có chi quan hệ ? Lấy vợ đẹp chẳng phải một đại hạnh trên đời sao ?
Cả ba cụ đều lắc đầu quầy quậy:
- Không đâu, không phải là đại hạnh đâu. "Hồng nhan bạc mệnh yêu khắc phu."
Hai chữ bạc mệnh ở đây là phận mỏng trên phương diện khắc phu.
Sách tướng nói:
"Tất cả những gì thái quá cũng không tốt! Sắc đẹp quá hay xấu quá đều thuộc tướng sát phu nếu chính bản thân người đó không yểu!"
Bạc mệnh không chỉ đơn thuần là non yểu như người ta vẫn quan niệm đã thành thói quen từ lâu nay.
Đa truân vốn là nghiệp dĩ của hồng nhan, nếu người đàn bà hồng nhan có nhiều tiện tướng hay dâm tướng (sẽ giải thích ở sau). Có thể nói khác đi cái đẹp là nguyên nhân của đa truân, còn ai đa truân bằng những danh kỹ và nếu không đẹp thì làm sao trở thành danh kỹ ?
"Nhất song ngọc tí thiêm nhân trẩm
Bán điểm chu thần vạn khách thường. "
Dịch là :
"Đôi cánh tay ngọc cho vạn người gối
Nửa vành môi đỏ để vạn nguời hôn."
Không lẽ bọn phong lưu hoa công tử đổ xô đi gối tay người hôi nách xấu xí, để thưởng thức cái môi sứt hay sao?
Thiên nhân trẩm và vạn khách thường xưa nay vẫn là nghịch cảnh vạn cổ sầu của hồng nhan vậy.
Sách tướng nói :
“Người đàn bà cần có vẻ đẹp đoan trang, quỷ quái (hihi nhầm, quý phái) và rất kỵ vẻ đẹp yêu mị tiện cách. Nếu đẹp yêu mị tiện cách thì đó chính là đẹp hồng nhan bạc mệnh.”
Nói đa truân, nói bạc mệnh không phải chỉ ở địa vị tầm thường như ca kỹ hay bần gia nữ mới phải gánh chịu. Một khi đã phạm tướng hồng nhan bạc mệnh rồi thì dù ở địa vị tột đỉnh cũng chẳng tài nào tránh khỏi!
Như cuộc đời nàng Lục Châu vợ của phú gia địch quốc Thạch Sùng. Quê Lục Châu ở Hợp Phố nơi sản xuất những ngọc quý, nàng họ Lương. Lịch sử ghi chép nàng là một mỹ nhân nổi tiếng đời Tấn. Các tay buôn ngọc đồng ý với nhau lấy tên Lục Châu là một loại ngọc quý nhất, đắt nhất mà đặt tên nàng. Đương thời có một triệu phú danh tiếng giàu có thành điển cổ của Trung quốc tên là Thạch Sùng nhân lần viếng thăm nước Giao Chỉ, lúc về qua Hợp Phố (thuộc tỉnh Quảng Tây) đã gặp nàng Lục Châu. Thạch Sùng cậy người mai mối với sính lễ ba đấu ngọc lớn đắt vô kể. Cha mẹ nàng thuận gả cho Thạch Sùng làm ái thiếp. Thạch Sùng đem nàng về đất Lạc Dương ở tỉnh Hà Nam, ở đây Thạch Sùng có một dinh cơ cực kỳ mỹ lệ là Kim Cốc Viên nơi mà nhiều danh hoạ đã từng lấy làm đề tài cho hoạ phẩm. Trong Kim Cốc Viên mỹ nhân nhiều như mây tụ, nhưng từ khi có Lục Châu đến thì sắc đẹp của mọi người lu mờ ảm đạm hết, Thạch Sùng giao du quảng bác, từ khi được Lục Châu quán xuyến công việc giao thiệp thì Kim Cốc Viên càng nổi danh. Trong đám bạn bè lai vãng của Thạch Sùng có tên Tôn Tú là người thân tín của Triệu vương Tư Mã Luân. Tôn Tú mê Lục Châu đã nhiều lần chọc ghẹo Lục Châu bị nàng cự tuyệt, Thạch Sùng nổi giận cấm cửa Tôn Tú, Tôn Tú oán giận. Nhân cơ hội Thạch Sùng không ủng hộ Triệu vương trong sí đồ thoán nghịch, Tôn Tú xúi Triệu vương mang quân đánh Kim Cốc Viên bắt giết Thạch Sùng, nàng Lục Châu chạy lên lầu cao nhảy xuống tự vẫn. Cái chết của Lục Châu trở thành một kịch phẩm hay của Văn học Trung Quốc, đó là vở kịch Trụy Lâu.
Một chuyện khác nữa là chuyện Mai Phi :
Mai Phi là một phi tần rất được sủng ái của Đường Minh Hoàng. Nhưng từ khi Dương Thái Chân tức Dương Quý Phi vào cung thì Mai Phi bị thất sủng.
Nàng sinh ra đời ở Mai Hoa thôn tên thực là Giang Thái Tần do Cao Lực Sĩ tuyển về Trường An. Đường Minh Hoàng vừa trông thấy là mê luyến ngay. Nhân vì nàng yêu hoa mai nên Đường Minh Hoàng gọi nàng là Mai Phi. Mai Phi có sắc dáng mảnh dẻ và hai mắt sáng như viên ngọc. Về sau Đường Minh Hoàng đổi tính yêu người bụ bẫm (!) là Dương Quý Phi nên xa lánh nàng. Vì Dương Quý Phi có tính ghen ghê gớm, bởi vậy Đường Minh Hoàng đôi lúc nhớ đến sủng phi cũ thì cũng không dám bén mảng đến Thượng Dương cung nơi nàng ở. Một lẫn, có sứ thần dâng vua đôi trân châu, Đường Minh Hoàng tưởng nhớ Mai Phi, lén gọi người thân tín đem lại tặng nàng. Mai Phi buồn rầu không nhận gửi trả lại cùng với 1 bài thơ như sau:
“Liễu diệp song mi cửu bất miêu
Tàn trang hoà lệ ố hồng tiêu
Trường môn tự thị vô sơ tẩy
Hà tất trân châu uỷ tịch liêu.”
Dịch là :
"Lâu rồi không vẽ chân mày lá liễu
Quần áo xưa đã hoen ố lệ buồn
Cửa ngõ căn phòng không còn lau rửa
Thì cần gì châu ngọc để vỗ về nỗi cô đơn."
Về sau, An Lộc Chân khởi loạn, Đường Minh Hoàng phải rời kinh đô chỉ mang theo Dương Quý Phi. Mai Phi ở lại bị giết trong cơn binh lửa.
Lịch sử tướng thuật chép: Mai Phi và Lục Châu đều có đôi mắt "Nhãn lệ uông uông," lúc nào cũng ướt như đầy nước mắt. Đó là một phạm kỵ vì theo tướng thuật người đàn bà đẹp cần có nét tươi nếu "Diện đới sầu dung" là sẽ bị "Bất đắc thiện chung".
Nói đến hồng nhan bạc mệnh người ta không thể quên cái chết của ngôi sao chiếu bóng Lâm Đại. Khi báo chí loan tin Lâm Đại tự tử, các nhà tướng số tại Hương Cảng đã thi nhau giảng luận về tướng và mệnh của nàng. Số mệnh học của Trung Quốc thường căn cứ vào tướng và số, nếu nhìn tướng có điều không giải đáp được thì phải xem số; Nếu xem số có sự gì quá khó khăn không khám phá được hoặc không dám xác quyết thì lại phải xem thêm tướng. Điểm đáng chú ý trên gương mặt của Lâm Đại là đôi mắt nàng có hung quang lại cộng thêm vào đấy tính tình của nàng rất nóng nẩy, bạo tháo. Tướng diện và tướng tâm khắng khít với nhau tạo ra một thứ đaỏn mệnh tướng cho nàng. Theo sách tướng thì mắt lộ hung quang chẳng những đoản mệnh mà còn dễ bị bạo tử hoành nghĩa là chết không toàn hoặc chết bất đắc kỳ tử. Ai đã xem phim Lâm Đại đóng tất không thể không lưu ý diện mạo nàng có ba đặc điểm:
1 - Quang lộ.
2 - Quyền cao.
3 - Nhãn hung.
Quang lộ tức tài lộ, lộ tài thường chiêu oán!
Quyền cao thường chiêu kỵ (nghi kỵ, ganh ghét)!
Nhãn hung tức tính hung, tính hung ắt chiêu hung!
Đàn ông mà quang lộ, quyền cao, tính hung chính là tướng du đãng giết người và bị giết, nếu không là tướng tự tử. Gia Cát Lượng khi xưa cũng mắt lộ, quyền cao nhưng vì không có tính hung nên được thiện chung.
Tướng Lâm Đại là tướng trọng hậu rất tốt, mặt nàng ít vẻ hồng nhan bạc mệnh nhưng vì tính hung đi đôi với quyền cao nhãn lộ nên kết cuộc tính mệnh bất đắc thiện chung vậy.
Bởi vậy, sách tướng thuật mới nói :
“Tướng do tâm sinh, tướng do tâm cải.”
(Tâm tướng ảnh hưởng rất nhiều đến hình tướng).
Tuy nhiên cái chết của Lâm Đại vẫn còn gây nhiều tranh luận trong giới tướng số. Họ lập luận mặc dù tính tình Lâm Đại bạo tháo nhưng nàng có vẻ đẹp trung hậu, mặc dù đôi mắt Lâm Đại chứa đầy chất hung quang nhưng nàn lại có vẻ đẹp đường mật dịu dàng. Thêm nữa nếu bảo nàng chết vì nhãn tướng thì vận mắt là 37, 38 tuổi - tất không thể chết vào vận 30 tuổi. Đó là một câu vặn hỏi có lý, cho nên nhà đoán tướng phải mượn thuật số để giải đáp.
Người Trung Quốc là cha đẻ ra Tử Vi nhưng họ không (thích) xem Tử Vi mà họ xem số Bát tự (Số Bát tự thế nào xin mời ghi danh học lớp Tử Bình). Lâm Đại sinh năm 1934 (Giáp Tuất), ngày 26 tháng 12 giờ Ngọ. Chuyển thành bát tự là:
Giáp Tuất Đinh Sửu Bính Ngọ Giáp Ngọ
Toàn số Hoả Mộc chiếm tám phần mười. Mộc trợ Hoả thái quá làm cho người mang số đó trở thành ngoạn ngạnh tư ý tạo thành kiếp khổ sinh hay hung thủ. Cho nên khi Lâm Đại chít vào đúng lúc giữa hoả viêm thổ táo, tháng 6 ngày Đinh Mão giờ Ngọ.
Hành vận 28 tuổi của Lâm Đại là Giáp Tuất, lưu niên của hành vận Giáp Tuất năm 30 tuổi là Giáp Thìn cộng mệnh số thành ra 3 Hoả 4 Mộc đốt - thế là đen thui!
Hồng nhan với hào kiệt chung một kiếp.
“Hồng nhan bạc mệnh.
Hào kiệt thán phiêu linh.”
Nhưng nếu nói theo triết lý nhân sinh thì hồng nhan mà không bạc mệnh thì thật là vô duyên mà bạc mệnh nhưng không hồng nhan thì cũng chả có gì đáng để nói ! Cũng như hào kiệt anh hùng mà không phiêu linh thì cũng chỉ là những hào kiệt anh hùng “hàng mã !”
IV - NÓI VỀ ĐẶC BIỆT DỊ TƯỚNG CỦA PHỤ NỮ
Tướng học rất bí ảo huyền diệu nên môn học này được quan niệm là môn dễ học khó tinh. Nếu thiếu kinh nghiệm hoặc có kinh nghiệm mà kém linh cảm thì cũng khó lòng đoán biết lẽ cùng thông.
Tỷ dụ có người trông bề ngoài đường đường tướng mạo mà đường thế đồ gót rỗ kỳ khu, vận mạng nổi chìm ưu uất bất đắc chí. Tất nhiên người ấy phải có một bộ vị tướng sinh hoại, sách tướng gọi là “Thanh trung hữu trọc” (Trong cái thanh quý có cái ô trọc). Ngược lại có những người trông bề ngoài “hình dong sủ lậu” mà cuộc sống “nhất phàm phong thuận” (con buồm thuận gió). Tất nhiên nguời ấy phải có một dị tướng.
Cho nên khi xem tướng trước hết phải phân biệt rõ ràng thanh trọc để làm căn bản cho sự phán đoán quý tiện hiền ngu.
Xem tướng đàn bà con gái vấn đề thanh quý và ô trọc lại càng quan trọng lắm ! Rồi xem đến diện hình mắt, mũi, miệng. Ba thứ đó cần biết đoan chính hay khuyết hãm để dịnh cách quý tiện vượng phu hại phu. Tuy nhiên phải hết sức lưu ý để tìm biết người đàn bà con gái nào có mang một dị tướng đặc biệt nào không ? Có điều lạ là đàn bà sinh quý tử, cực vượng phu hưng gia thường mang dị tướng, tỷ dụ: nhũ đầu như chu sa, lỗ rốn đỏ hồng, hay sâu rộng hình tròn hoặc nốt ruồi son ở chỗ kín (khoảng từ bụng xuống tới gần đầu gối). Một khi đã mang dị tướng thì người đàn bà bất kể diện mạo đoan trang hay thô lậu đều có thể “Vượng phu ích tử !”
Tướng đẹp bề ngoài của phụ nữ thì sách tướng ghi như sau:
Nga mi (mày ngài),
Phượng nhãn (mắt phượng),
Huyền đởm tị (mũi như trái mật treo),
Anh đào khẩu (miệng như trái anh đào hồng nhỏ),
Chu sa trưởng (bàn tay hồng hào mịn màng).
Những ai có tướng kể trên đều được liệt vào hàng phu nhân tướng. Ngoài ra, dị tướng còn phải kể đến tướng thanh âm vì thanh âm rất quan hệ đến sự phân định quý tiện. Phàm nữ tử thanh âm xuất tự đan điền hữu lực, thanh âm như phượng kêu oanh rót nghe êm tai, dịu hiền trong sạch, âm điệu trầm bổng đều được hưởng hạnh phúc gia đình. Nhược bằng thanh âm vẩn đục, thô lỗ rầu rĩ tất là tiện tướng “phá gia ly tổ, phu tử bạc duyên.” Đời Mạt Thanh bên Trung Quốc, mẹ một danh thần cực phẩm là Lý Hồng Chương tướng mạo rất sũ lậu nhưng bà có một tiếng nói tuyệt hay, ai nghe bà nói cũng cảm mến ! Nhờ tiếng nói đó mà người ta quên hết các nét xấu của diện mạo. Sách tướng gọi là “Nhất quý yểm tam sũ” (một cái quý chôn vùi ba cái tiện). Hồi bà còn là con gái, tiếng bà xấu bay ra ngoài chẳng ai dám hỏi. Về sau bố của Lý Hồng Chương đi qua quê bà và ghé lại tá túc ở nhà tổ phụ của bà. Lúc gặp, họ Lý thấy bà sũ lậu chẳng hề để ý. Vài ngày sau, cứ mỗi sáng họ Lý thấy bà ra sân cho gà vịt ăn thì con nào con nấy mỗi khi bà cất tiéng gọi là chạy tới quấn quýt nom thật vui mắt, cứ mỗi tối tiếng bà gọi vang lên là con nào con nấy ngoan ngoãn vào chuồng. Họ Lý vốn rành tướng thuật biết người con gái này là một loại sử nữ quý cách nên kết duyên với bà. Một trường hợp khác là bà mẹ của Đới Hồng Từ, vị thượng thư danh tiếng văn vũ toàn tài cảu Trung Quốc. Không chỉ riêng ông mà cả ba anh em đều rất hiển đạt. Theo truyền thuyết thì anh em họ Đới nhờ được ảnh tướng số, chỉ vì mệnh lận đận nên ông từ bỏ ý định làm quan đi buôn, ngoài ba mươi tuổi chưa lập gia đình, ông tin rằng vận mệnh chưa tới cưỡng làm chi.
Một hôm, có một nữ tử đến mua hàng tuy tướng mạo chẳng đặc sắc lắm nhưng cô ta mũi cao, sống mũi vươn thẳng tới ấn đường, “ngũ quan đoan chính, nhãn thần trừng triệt,” lúc nói thanh âm trong êm, tiếng nói thoát ra tự đan điền. Đới Công đang mải ngắm nghía tướng mạo cô gái thì con hầu sấp ngửa vào tìm. Đới Công quyết nhiên cô ta là con nhà gia thế. Đới Công bấy giờ mới biết cô ta còn dị tướng khác nữa mới cho tiền nữ tì hỏi dò, nữ tì cho hay cô ta trông xấu xí nhưng rốn cô tròn to, sâu, đầu vú đỏ như tô son. Theo sách tướng những dấu vết ấy là quý cách không những đa phúc lại sinh quý tử. Đới Công bèn nhờ người đến hỏi, bên gái tuy nhà danh gia quý tộc nhưng thấy con gái mình xấu xí vả chăng đã quá lứa nên cũng dễ bằng lòng.
Kể từ ngày Đới Công kết hôn với người con gái xấu xí đó thì công việc buôn bán tiến triển không ngừng, phụ sướng phụ tuỳ gia đạo êm ấm. Đới Công sinh ba người con trai là Đới Hồng Từ, Đới Hồng Hiến và Đới Hồng Tuệ, cả ba cùng làm đến bậc nhất phẩm!
Sách tướng viết:
“Nữ tử chu sa nhũ tất định sinh quý tử ! ”
Thật nghiệm vậy !
Trong sách Liễu trang tướng pháp, thiên Vĩnh lạc bách vấn có ghi một dị tướng khác có thể sinh quý tử là tướng mồ hôi như sau :
Vua hỏi : “Tuyển cung phi cho mặc áo gấm dầy rồi cho đi bộ đến mướt mồ hôi để làm gì ?”
Đáp : “Nếu không làm sao biết được hương của thân thể. Phàm con gái mồ hôi ướt đằm mà thân thể vẫn thơm tho tất đại cát, trái lại là hạ tiện. Văn chương nói sắc nước hương trời là đã đi vào khoa tướng mà không biết đó thôi.”
Vua hỏi : “Trong cung có nhiều cung nữ không đẻ con là tại sao ?”
Đáp : “Cổ nhân có câu: Mỹ nữ vô kiên (gái đẹp không vai), tướng quân vô hạng (võ tướng không cổ). Vai suôi quá mà thân hình lại yếu ớt, eo nhỏ quá mà thân hình nhẹ bẫng. Phạm bốn điều ấy khó lòng hưởng phúc nói gì đến con cái.”
... tạm ngưng…
ĐÔNG HẢI THẦN NHÃN Vũ Tri Thiên
----
Bài này là cả 1 cuốn sách, dài lắm. Xin tạm trích 1 đọan thôi để mời quí vị đọc cho biết !
I - CÁI ĐẸP CỦA MẮT TỤC VÀ CÁI ĐẸP
DƯỚI MẮT CỦA THẦY TƯỚNG...
Cái đẹp tục nhãn thường thấy qua miệng các nhà văn như Lý Bạch từng ca tụng Dương Quí Phi bằng những câu thơ :
“Xuân tưởng nghê thường hoa tưởng dung...
Nhất chi nùng diệm lộ ngưng hương ...”
Hoặc trong bộ kinh ái tình của Ấn Độ tán tụng:
“Nàng uyển chuyển như con thiên nga, khoan thai yểu điệu. Đôi mông tuyệt diệu; đó là một trái Nitambini. Nàng đen tựa như một nụ sen, đẹp như Rathi nữ thần của khoái lạc.”
Người Y-Pha-Nho (Spaniard / Spanish ?) nói người đàn bà muốn hoàn toàn đẹp phải hội tụ đủ 30 (?) điều kiện :
Ba thứ trắng: da, răng và đôi bàn tay.
Ba thứ đen: Mắt, đôi mi và đôi mày.
Ba thứ đỏ: môi, má và móng tay.
Ba thứ dài: thân, tóc và tay.
Ba thứ ngắn: răng, tai và đôi bàn chân.
Ba thứ nở: ngực, trán và mi mắt.
Ba thứ hẹp: miệng, eo và gót chân.
Ba thứ bụ bẫm: cánh tay, đùi và bắp chân.
Ba thứ nhỏ: núm vú, mũi và đầu.
(Chú thích: Phải còn 3 thứ nữa mới đủ số 30 ; Hổng hiểu chạy đâu mất tiêu nhỉ ?)
Thi sĩ Ronsard say sưa tả mỹ nhân:
“J''aime la bouche imitante la rose
Au lent solei de Mai déclose.”
Tướng lý đã chẳng khác chi một gáo nước lạnh dội vào mặt văn chương cho văn chương tỉnh mộng nhìn vào thực tế tàn nhẫn. Sách tướng đưa ra quy luật :
"Mỹ nhân thường tác kỹ
(người đẹp thường hay làm điếm)."
Nếu ta đi vào các vũ trường, các nhà hát cô đầu hoặc những chốn ăn chơi tất không ai phủ nhận rằng nơi ấy có nhiều người đàn bà đẹp theo con mắt tục hơn là vào một dạ hội gồm các bà lớn tụ hội.
Nếu ta lại tách riêng mười kỹ nữ ra, ta sẽ dễ dàng tìm thấy từ 4 đến 8 người đẹp (tục nhãn), còn nếu nhìn các bà vợ của cả một nội các thì phải khó khăn lắm mới thấy vài ba mỹ nhân !
Tướng nhãn và tục nhãn khác biệt hẳn nhau ở điểm này. Nhưng chính tướng nhãn và tục nhãn lại gặp nhau trên một điểm khác đó là vẻ đẹp hoàng hậu, vẻ đẹp công chúa. Tuy nhiên vẻ đẹp ấy cực hiếm không phải lúc nào cũng có. Vẻ đẹp ấy là vừa đẹp người vừa đẹp tướng. Tại sao đàn bà có nhan sắc thường hay làm điếm ?
Sách tướng giảng rằng :
“Mỹ nhân thường tác kỹ, mỹ trung hữu chí sũ”
(Đàn bà nhan sắc làm điếm bởi trong vẻ đẹp có cái cực xấu).
Cực xấu ấy mệnh danh chuyên môn là "phá tướng." Tỷ dụ như diện mạo rất đẹp nhưng tiếng nói rè rè như lệnh vỡ; thể thái mảnh mai mà bước đi nặng nề như đàn ông; môi má trắng sạch mà thân thể lại ô cấu, hôi hám, hoặc tóc không cứng, hoặc tay mềm nhũn như không có xương. Rõ hơn nữa, gái điếm phần lớn đều có tướng trán rất xấu: thấp quá, hẹp quá, lệch lạc, không bằng phẳng, hoặc khoảng chân tóc không đều đặn, thiên sương (bộ phận từ góc trán thái dương) hãm hay óp, ấn đường (khoảng trên sống mũi giữa hai đầu chân mày) quá hẹp, lõm sâu. Trán là thuộc vận hành từ 16 đến 21 tuổi, cũng là khoảng tuổi dễ bước chân vào nghề kỹ nữ.
Về phá tướng có một chuyện điển hình là chuyện nàng ca kỹ Hạnh Xuân tại xóm ăn chơi Bát Đại Hồ Đồng, Bắc Kinh đời vua Quang Tự nhà Thanh.
Nhìn Hạnh Xuân từ diện mạo đến thể thái không ai không nghĩ nàng là một quý phu nhân, vừa đẹp vừa đoan trang bất luận đi đứng, ăn nói, nằm ngồi nhất nhất đều đều không bợn một cử chỉ thô tục, không lộ một vẻ dâm tiện. Thế mà Hạnh Xuân lại là một kỹ nữ. Có điều nàng rất nổi tiếng, những người đến với nàng hầu hết là đại quan quí nhân, giang hồ khí phách, phong lưu văn sĩ hay đại phú thương.
Thường thường một danh kỹ tiếng tăm như thế không bao giờ hành nghề quá một năm là đã theo về các hào tộc phú gia để làm thiếp hầu. Lạ lùng thay Hạnh Xuân ở Bát Đại Hồ Đồng có tới ba năm trường.
Một hôm, trong đám người yêu Hạnh Xuân cuồng nhiệt có vị phú thương ở Sơn Tây họ Hạ, muốn cưới Hạnh Xuân về làm thiếp. Giá cả chuộc Hạnh Xuân tuy rất cao nhưng đối với ông ta chẳng thành vấn đề. Hệ trọng nhất đối với phú thương họ Hạ trái ngược với thường tình lấy thiếp mong con, ông ta không muốn Hạnh Xuân có con bởi vợ cả và người thiếp đã sản xuất cho gia đình nhà ông tám chín mạng rồi. Ông say mê vẻ đẹp mê hồn của Hạnh Xuân mà người đàn bà sinh đẻ sắc đẹp dễ tàn phai, làm thế nào biết chắc Hạnh Xuân không sinh hài tử ? Số Bát tự của nàng vì sớm lưu lạc từ ấu thơ nên chẳng ai biết. Chỉ còn cách xem tướng. Họ Hạ bèn mở tiệc mời một vị túc nho rành tướng số đến xem cho Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh (tên vị túc nho) uống vài chung rượu do Hạnh Xuân tiếp rót, ông định thần ngắm nghía nàng hồi lâu rồi ghé tai nói nhỏ với Hạ phú thương rằng:
- Tôi khuyên ông không nên lấy Hạnh Xuân, tuy đẹp nhưng tướng cách nàng nhất định không thể sinh con đẻ cái được.
Lời nói của Mạc tiên sinh làm cho phú thương họ Hạ rất vui mừng nên hỏi thêm :
- Hạnh Xuân còn tướng xấu nào khác nữa ?
Mạc tiên sinh đáp:
- Thật quái lạ ! Tướng mạo biểu diện của Hạnh Xuân đúng là một quý phu nhân ít nhất cũng từ tam phẩm trở lên mà sao lại luân lạc chốn lầu xanh. Tôi chưa tìm ra nguyên do. Lẽ ra bây giờ nàng đã lấy chồng bậc quí nhân chứ không phải lấy ông chồng là phú thương.
Họ Hạ tự tay rót rượu mời Mạc tiên sinh và xoắn suýt xin Mạc tiên sinh cố tìm kiếm lý lẽ ba đào của Hạnh Xuân. Mạc tiên sinh lại ngắm nghía hồi lâu rồi lắc đầu nói :
- Không thấy ! Chắc Hạnh Xuân có một điểm phá tướng ẩn kín đâu đó ?
Nhân dịp Mạc tiên sinh lưu lại Bát Đại Hồ Đồng cùng Hạ phú thương mươi bữa, ông có dịp cùng Hạnh Xuân đàm đạo mới đem chuyện tướng ra nói. Mạc tiên sinh bảo Hạnh Xuân:
- Cứ xem tướng mạo của cô thì phải ở ngôi tam phẩm phu nhân mới phải, thế mà chẳng hiểu có điểm phá tướng nào đã khiến cho cô lâm vào chốn giang hồ !
Lần khác Mạc tiên sinh cùng Hạnh Xuân nói chuyện lâu hơn và lần này cuối đường hầm đã có tia sáng. Ông già hơn năm mươi tuổi suốt buổi không hề mót tiểu tiện mà cô gái mới 19 xuân xanh chốc chốc lại phải cáo lỗi ! Lúc đó đương vào hạ tiết, “đa hạn thiểu thuỷ” (nhiều mồ hôi, ít tiểu tiện) mới phải. Đúng rồi ! Đây gọi là “ám trung tiết khí” sách tướng ghi rành rành. ("Ám trung tiết khí" này có nhiều loại, đây chỉ là 1 trong số !)
Mạc tiên sinh ghi nhận điểm phá tướng đó, tiết lộ với bạn của Hạnh Xuân là Hồ Ngọc kể cho biết thêm chẳng những Hạnh Xuân có thói quen luôn luôn tiểu tiện mà thôi; cả việc đại tiện cũng khác người ta, mỗi lần nàng làm công việc đó tưởng chừng như xổ ruột. Tiểu tiện đại tiện chẳng phân biệt trước sau ào ào rơi xuống như hắt chậu nước. “Mỹ trung hữu chí sũ” là như vậy!
Sách tướng viết:
"Sũ nữ gia quý phu, sũ trung hữu đại mỹ"
(Nghĩa là gái xấu lấy chồng sang, trong cái xấu có cái cực đẹp).
Trên tướng thuật nhìn cái đẹp theo nhãn tuy có điểm tương đồng nhưng ở mặt khác lại có điểm tương phản, cho nên quan điểm và quan niệm về Đẹp của tướng nhãn thường thường xung đột với quan điểm và quan niệm của tục nhãn.
Tỉ dụ như vẻ đẹp của mỹ nhân là da thịt mềm mại êm như bông hay “thiên kiều bách mị.” Thế nhưng tướng lý cho như vậy là dâm tiện. Nếu cứ theo tục nhãn để định thì cuộc đời tất có ngày hố to!
Dĩ nhiên những vẻ đoan trang, thuỳ mị, nhàn tĩnh, hoa quý, trong sáng thì tướng nhãn và tục nhãn đều cùng một quan niệm và quan điểm. Tuy vậy qua kinh nghiệm và thực tế đầy rẫy ngoài đời thì người đang bà ở vị nguyên phối (vợ lớn) ít người đẹp theo tục nhãn mà người đàn bà ở địa vị trắc thất (vợ bé) thì nhiều người đẹp theo quan điểm tục nhãn. Các cụ cổ khôn lắm nên đặt lệ :
“Thủ thê thủ đức (lấy vợ lấy đức)
Thủ thiếp thủ sắc (lấy thiếp lấy sắc)”
Cũng lạ là hồng nhan bạc mệnh hay phong lưu khuyết đức phần lớn ứng vào thân phận thiếp mọn.
“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng.”
Ấy vậy mà kẻ đắp chăn bông thường không đẹp bằng kẻ chịu lạnh, kẻ chịu lạnh đa số có sắc, tướng, mỹ. Đã có sắc, tướng, mỹ thì cũng đa số vướng vào cảnh “hoa tường liễu ngõ” nên mới gặp kẻ tìm hoa hỏi liễu để trở thành thân lẽ mọn.
Cho nên, về tướng lý, chỉ đẹp sắc không phải là quý tướng. Chẳng phải ngàn xưa mới thế, ngày nay cũng vậy. Các minh tinh màn bạc chưa lấy chồng đã nổi tiếng nhiều chồng. Và khi lấy chồng các minh tinh gần như chẳng bao giờ ở địa vị nguyên phối. Hồng nhan, phong lưu, khuyết đức, bạc mệnh theo tướng lý vẫn hằng liên hệ với nhau.
Trái lại, những người đàn bà ở ngôi vị nguyên phối không phải là người có sắc tướng mỹ mà là người có tướng cách mỹ (đẹp tướng). Bởi tại tướng cách mỹ ít người nhìn ra nếu không biết tướng thuật nên phê phán qua tục nhãn bằng hai chữ "xấu xí."
Hồi Ngô Bội Phu còn làm mưa làm gió trên chính trường Trung Quốc (thời mạt Thanh sắp xảy ra cách mạng Tân Hợi), có mở bữa yến tiệc lớn mời khắp mặt vai vế đương thời. Trong số đó có nhà coi tướng họ Đàm. Theo những biên chép của vị tiên sinh coi tướng ghi lại thấy bữa tiệc ấy như sau:
"Nhờ bữa tiệc này tôi thể nghiệm rõ ràng nguyên tắc tướng pháp về lẽ xấu đẹp của người đời. Tôi thấy ở đây, ngoại sảnh để tiếp loại thiếp hầu thì ai ai cũng mặn mà quyến rũ nhưng nhìn kỹ chẳng một người là con nhà phiệt duyệt hay khuê các. Phảng phất chỉ có “sắc thái xuất tường hồng hạnh” hoặc “tỳ bà biệt diệu” mà thôi.
Khi vào tới nội sảnh, nơi dành cho phu nhân Ngô Bội Phu tiếp các bà nguyên phối khác thì tuyệt nhiên không thấy một vết tích truỵ lạc, phong trần. Hơn 24 vị thái thái, quá nửa không có sắc tướng mỹ thì thật là
“mãn thiên tinh đẩu” (đầy trời sao sáng). Có người lưng lạc đà, có người cục mịch như thôn phụ, nhưng không người nào không có một tướng cách rất đẹp! Người thì một cái mũi đầy đặn giữa đôi mắt đôi mi phi thường thanh tú; Người thì tam đình (mặt chia ra làm 3 phần gọi là tam đình: từ trán xuống đến giữa hai mắt (ấn đường) là thượng đình, từ giữa hai mắt đầu sống mũi (sơn căn) xuống đến đầu mũi (chuẩn đầu) là trung đình, từ đầu mũi xuống cằm là hạ đình); Ngưòi thì ngũ quan tương phối, đoan chính minh lượng.”
Như vậy, theo pháp quy nạp thì “ưu điểm cửu tướng cục khả dĩ” chia làm ba loại:
1 - Trong xấu có điểm cực tốt ("Sũ trung hữu đại mỹ.")
2 - Cái tốt bên trong ("Nội tại mỹ") là tính kiên trinh, ôn nhu.
3 - Thái độ bao dung.
Vô luận nam hay nữ, nội tại mỹ bao giờ cũng hơn cái đẹp bề ngoài. Nhất là con gái lẳng lơ càng đẹp càng hạ cách.
Nhớ đến Vương Chiêu Quân ngày xưa sở dĩ nàng phải chịu kiếp cống Hồ chắc là nàng có điểm phá tướng; cái điểm phá tướng ấy là sự thực chứ không phải Mao Diên Thọ vẽ thêm đâu!
II - TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI ĐÀN BÀ QUAN TRỌNG BẬC NHẤT
Tướng gia Tề Đông Giã kể rằng thuở thiếu niên ông theo người cậu ruột đi yến tại một nhà ở đường Tây Trực tại thủ phủ Bắc Kinh. Người cậu vốn là công chức cao cấp chính phủ đương thời, giao du rộng lớn, lại rất am tường tướng thuật. Biết tướng thuật cũng là một tài năng cần thiết để giao thiệp trong chính giới lúc bấy giờ. Bữa yến hôm ấy vấn đề tưóng số được đem ra bàn cãi sôi nổi. Đề tài đưa ra là tướng về âm thanh, nhiều người không tin rằng âm thanh có thể ảnh hưởng đến vận mạng con người như cậu tôi nghị luận (lời Tề Đông Giã). Cuối cùng chủ nhân bầy cuộc thử tài. Buồng bên trong có một bàn các bà đánh bài mạt chược, tấm màn che kín. Chủ nhân yêu cầu cậu tôi lắng nghe tiếng nói của 5 bà trong đó để đóan vận mạng. Mọi người ngồi im nghe. Vào lúc bên buồng có ván bài ù muỗi, các bà huyên náo cả lên vì ba bà khác người nào cũng chờ mủn cun.
Ông cậu tôi bỗng nói:
- “Nữ đới nam thanh” (người đàn bà nói âm thanh đàn ông). Ai có tiếng nói ấy tất dã khắc phu.
Chủ nhân chịu ngay và nói cho mọi người biết bà ta là goá phụ của họ Tiều trong Bộ giáo dục.
Cậu tôi vẫn lắng nghe và nói tiếp:
- “Cô nhạn thất thần chi thanh tất thị ly phu !” (tiếng nói nức nở cắt đoạn chẳng khác chi con chim nhạn lạc đàn tất phải xa lìa chồng con.)
Chủ nhân hân hoan ra mặt:
- Tiên sinh đoán không sai, đó là tiếng nói của bà vợ ông Tổng lý bưu điện đã bị bọn quyền phỉ bắt đi mất tích từ 5 năm nay chẳng biết sống chết thế nào.
Cậu tôi hầu như chẳng để ý đến lời tán tụng, lắng nghe tiếp rồi nói luôn:
- “Cuồng thuyền vãn tháo sát nhị phu” (ồ ạt như tiếng ve sầu buổi chiều, sát hai chồng).
Đến đây thì chủ nhân hoàn toàn bái phục, ông vỗ tay khen lấy khen để rồi giục cử toạ đồng thanh yêu cầu cậu tôi giải thích.
Cậu tôi chậm rãi giảng giải :
- “Nữ đới nam thanh” là một lọai phá tướng của phụ nữ, nhưng không nhất định phải khắc phu vì cuối tiếng có âm thanh sắc nhọn làm chói tai (thích nhĩ). Bà ta lấy chồng không quá 2 năm thì chôn chồng. Nói thanh âm chói tai làm người ta nhớ lại bà Trần Lệ Xuân trong những bài diễn văn bà đọc năm 1963 hay trước đấy. Còn về “Cô nhạn thất quần chi thanh” muốn đoán cần phải rõ nó đã trở thành tiếng kêu thương chưa. Nếu chuyển rồi mà tiếng kêu thường thanh trường thì chồng chết, thanh đoản may ra người xa còn sống, đến như “Cuồng thuyền vãn tháo” tiếng đầu tiếng cuối đồng âm vốn là tướng bần tiện chứ không khắc phu. Tướng ấy chỉ khắc phu khi nào tiếng đầu tiếng cuối như có khoảng nghẹn ngào cắt đứt.
Chủ nhân chen vào nói :
- Chúng tôi bội phục tiên sinh đoán tướng 3 bà goá phụ, bây giờ đến lượt 2 người đàn bà mà tiên sinh chưa nói tới.
Trong số thực khách cũng có vài ba vị nghiên cứu tướng học nên cậu tôi quay lại thỉnh họ cho ý kiến. Thế là mấy vị kia nghe theo lời chủ nhân cùng lắng tai nghe.
Một lát, ông họ Kha nói :
- Tiếng nhẹ nhưng có lực, “vượng phu ích tử.”
Ông họ Đặng nói theo :
- Thanh âm có vận điệu, “trường thọ chi tướng.”
Và cuối cùng ông họ Ngũ :
- Nhỏ nhẹ như tiếng suối reo, “nữ nhân tài đức kiêm toàn.”
Cậu tôi nghe tất cả mọi người phát biểu xong rồi mới nói :
- Các vị đoán trên đại thể rất đúng nhưng đi vào chi tiết có điều sai. Thanh âm người đàn bà này tuy hữu lực giống tiếng nước suối reo, khốn nỗi vì thanh hơi cụt cho nên dù thừa tài năng nhưng không thể thọ. Bà ấy năm này chừng ngoài bốn mươi, tôi chắc không thể sống lâu quá năm mươi.
Chủ nhân lại hỏi đến bà thứ 5 thì các vị kia đi sau khi nghe tiếng nói của bà ta không ai đoán định được một điểm nào đặc biệt. Riêng cậu tôi đã làm cho mọi người sửng sốt khi ông nói giọng chắc như đinh đóng cột :
- Người này trước ở thanh lâu, nay làm thân vợ bé.
Lẽ ra, tướng kỹ nữ thì phải trông sắc diện mới thấy, nghe tiếng nói mà đoán ra thì thật hoang đường ! Tôi không nhớ cậu tôi giảng ra sao, sau này đi học tướng thuật tôi thấy sách có ghi : “Đàn bà tiếng nói lớn mà tán mạn, tức là “Kim thanh phạt mộc chi tượng” thường ở thanh lâu hoặc hành nghề chứa gái."
Coi tướng phụ nữ trước hết phải nghe tiếng nói rồi mới đến sắc mặt, rồi đến hình thể, rồi mới đến tâm tư. Tiếng nói đặc biệt liên hệ với tính mạng, hạnh phúc lứa đôi. Thanh âm phá thì các bộ vị khác dù tốt đẹp cũng khó lòng cứu vãn khỏi mệnh số sinh ly tử biệt với chồng con.
Tiếng nói nam tử lấy âm thanh hồng lượng làm chủ tốt, còn tiếng nói nữ tử chủ nhu hoà cần nhỏ nhẹ, có âm điệu mới hay. Tối kỵ là tiếng nói sắc nhọn chói tai nghe khó chịu. Đàn bà nói ra thích nhĩ (chói tai) thì chẳng chôn chồng cũng khóc con, đàn ông nói ra thích nhĩ suốt đời phá bại. Thanh âm thích nhĩ có hai loại: một lọai thuộc kim, một loại thuộc mộc. Khắc phu vào loại mộc thì người chồng chết bình thường, còn nếu khắc về loại kim thì người chết bất đắc kỳ tử.
"Thu có hạn sầu dài không hạn,
Cảm thu sang nhớ bạn lứa đôi.
Đoạn trường biết mấy tao nôi,
Khóc rồi lại khóc hờn thôi lại hờn.
Khúc duyên dạo dây đờn ai dứt.
Dao sầu kia cắt đứt lồng son.
Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn,
Hờn duyên tủi phận lệ còn chứa chan."
(Tương Phố)
Những câu thơ thê thảm trên phải chăng chỉ là tiếng kêu thương của định số ? Khắc sát phu ngoài thanh âm ra còn có tướng nào khác nữa ?
Tướng khắc phu nặng nhất là tiếng nói ! Sau mới đến các tướng khác được phân biệt như sau :
Lưỡng quyền quá cao lộ cốt; trán khuyết hãm, quá thô không tương xứng với mặt; lưỡng quyền lệch cao thấp không đều; "quyền phản" nghĩa là không chầu vào mũi. Tuy nhiên phải nhìn cho tinh tường đừng nhầm quyền rộng, đầy đặn với quyền cao. Lưỡng quyền đầy đặn là tính lan ra từ sát làn ranh của tai, vòng xương hàm xuống đến lằn ranh của miệng làm thành một khoảng to lớn sáng đẹp thì lại là tướng quý phu nhân nếu cộng thêm với cái mũi tốt.
Trán dài, trán vẹo, trán khuyết hãm, trán có ba vết răn bị tạp văn phá, trán có xoáy tóc như trôn ốc. Mắt lộ tứ bạch (bốn phía trắng), mắt đỏ, mắt vàng, mắt lồi, lông mày mỏng tản mạn, giao nhau.
Tóc xoăn (khô xoăn chứ không phải ra tiệm uốn quăn đâu nha), tóc dầy nặng, chân tóc vượt quá về đằng sau trán, tóc cứng.
Môi cuốn, răng lộ, miệng chụm như thổi lửa (“khẩu suy như hoả”), miệng lệch.
Xương cốt to thô, vai so.
Mặt gầy sác lộ gân, mặt nhiều lông, mặt trì lệ như sáp.
III - LUẬN VỀ TƯỚNG HỒNG NHAN BẠC MỆNH
Mở đầu tập Chinh phụ ngâm ông Đặng Trần Côn viết:
“Thiên địa phong trần
Hồng nhan đa truân
Du du bỉ thương hề thuỳ tạo nhân.”
Bà Đoàn Thị Điểm dịch:
“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm từng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này.”
Hồng nhan bạc mệnh đã thành thiên cổ tục ngữ.
Hồng nhan đa truân là lẽ thường tình trong vấn đề nhân sinh.
Bạc mệnh là chết sớm, chết non, phận mỏng, lao đao. Đa truân nghĩa là phiêu bồng, lãng đãng.
Hồng nhan là những người đàn bà trời ban cho một sắc đẹp cực kỳ diễm lệ. Hồng nhan cũng là những người đàn bà trời ban cho một tâm hồn mẫn tiệp tài hoa thu hút nam phái.
Thiên địa phong trần là cơ duyên để tạo thành những cảnh thảm sầu bạc mệnh và đa truân.
Về tướng thuật trước hết hồng nhan có liên hệ phần nào đến tướng khắc sát chồng.
Tại Trung Quốc có lưu truyền từ lâu đời một truyện thơ ngụ ngôn kể rằng:
Có ba vị lão nhân ngồi uống rượu, đánh cờ bên dòng suối vẻ mặt ai nấy đều thanh thản, vui sướng. Có người đến chắp tay hỏi ba cụ về cái thuật trường thọ. Thì thấy ở trong thơ ghi câu : “Thất trung lão ẩu xũ” (nghĩa là “Trong nhà vợ già xấu”). Cả ba cụ nói:
- Nhà ngươi có biết câu tục ngữ “Hồng nhan bạc mệnh” không ? Các lão đây sở dĩ thọ là bởi tại vợ các lão đây không thuộc loại hồng nhan.
Người kia ngạc nhiên hỏi:
- Trường thọ với lão bà có chi quan hệ ? Lấy vợ đẹp chẳng phải một đại hạnh trên đời sao ?
Cả ba cụ đều lắc đầu quầy quậy:
- Không đâu, không phải là đại hạnh đâu. "Hồng nhan bạc mệnh yêu khắc phu."
Hai chữ bạc mệnh ở đây là phận mỏng trên phương diện khắc phu.
Sách tướng nói:
"Tất cả những gì thái quá cũng không tốt! Sắc đẹp quá hay xấu quá đều thuộc tướng sát phu nếu chính bản thân người đó không yểu!"
Bạc mệnh không chỉ đơn thuần là non yểu như người ta vẫn quan niệm đã thành thói quen từ lâu nay.
Đa truân vốn là nghiệp dĩ của hồng nhan, nếu người đàn bà hồng nhan có nhiều tiện tướng hay dâm tướng (sẽ giải thích ở sau). Có thể nói khác đi cái đẹp là nguyên nhân của đa truân, còn ai đa truân bằng những danh kỹ và nếu không đẹp thì làm sao trở thành danh kỹ ?
"Nhất song ngọc tí thiêm nhân trẩm
Bán điểm chu thần vạn khách thường. "
Dịch là :
"Đôi cánh tay ngọc cho vạn người gối
Nửa vành môi đỏ để vạn nguời hôn."
Không lẽ bọn phong lưu hoa công tử đổ xô đi gối tay người hôi nách xấu xí, để thưởng thức cái môi sứt hay sao?
Thiên nhân trẩm và vạn khách thường xưa nay vẫn là nghịch cảnh vạn cổ sầu của hồng nhan vậy.
Sách tướng nói :
“Người đàn bà cần có vẻ đẹp đoan trang, quỷ quái (hihi nhầm, quý phái) và rất kỵ vẻ đẹp yêu mị tiện cách. Nếu đẹp yêu mị tiện cách thì đó chính là đẹp hồng nhan bạc mệnh.”
Nói đa truân, nói bạc mệnh không phải chỉ ở địa vị tầm thường như ca kỹ hay bần gia nữ mới phải gánh chịu. Một khi đã phạm tướng hồng nhan bạc mệnh rồi thì dù ở địa vị tột đỉnh cũng chẳng tài nào tránh khỏi!
Như cuộc đời nàng Lục Châu vợ của phú gia địch quốc Thạch Sùng. Quê Lục Châu ở Hợp Phố nơi sản xuất những ngọc quý, nàng họ Lương. Lịch sử ghi chép nàng là một mỹ nhân nổi tiếng đời Tấn. Các tay buôn ngọc đồng ý với nhau lấy tên Lục Châu là một loại ngọc quý nhất, đắt nhất mà đặt tên nàng. Đương thời có một triệu phú danh tiếng giàu có thành điển cổ của Trung quốc tên là Thạch Sùng nhân lần viếng thăm nước Giao Chỉ, lúc về qua Hợp Phố (thuộc tỉnh Quảng Tây) đã gặp nàng Lục Châu. Thạch Sùng cậy người mai mối với sính lễ ba đấu ngọc lớn đắt vô kể. Cha mẹ nàng thuận gả cho Thạch Sùng làm ái thiếp. Thạch Sùng đem nàng về đất Lạc Dương ở tỉnh Hà Nam, ở đây Thạch Sùng có một dinh cơ cực kỳ mỹ lệ là Kim Cốc Viên nơi mà nhiều danh hoạ đã từng lấy làm đề tài cho hoạ phẩm. Trong Kim Cốc Viên mỹ nhân nhiều như mây tụ, nhưng từ khi có Lục Châu đến thì sắc đẹp của mọi người lu mờ ảm đạm hết, Thạch Sùng giao du quảng bác, từ khi được Lục Châu quán xuyến công việc giao thiệp thì Kim Cốc Viên càng nổi danh. Trong đám bạn bè lai vãng của Thạch Sùng có tên Tôn Tú là người thân tín của Triệu vương Tư Mã Luân. Tôn Tú mê Lục Châu đã nhiều lần chọc ghẹo Lục Châu bị nàng cự tuyệt, Thạch Sùng nổi giận cấm cửa Tôn Tú, Tôn Tú oán giận. Nhân cơ hội Thạch Sùng không ủng hộ Triệu vương trong sí đồ thoán nghịch, Tôn Tú xúi Triệu vương mang quân đánh Kim Cốc Viên bắt giết Thạch Sùng, nàng Lục Châu chạy lên lầu cao nhảy xuống tự vẫn. Cái chết của Lục Châu trở thành một kịch phẩm hay của Văn học Trung Quốc, đó là vở kịch Trụy Lâu.
Một chuyện khác nữa là chuyện Mai Phi :
Mai Phi là một phi tần rất được sủng ái của Đường Minh Hoàng. Nhưng từ khi Dương Thái Chân tức Dương Quý Phi vào cung thì Mai Phi bị thất sủng.
Nàng sinh ra đời ở Mai Hoa thôn tên thực là Giang Thái Tần do Cao Lực Sĩ tuyển về Trường An. Đường Minh Hoàng vừa trông thấy là mê luyến ngay. Nhân vì nàng yêu hoa mai nên Đường Minh Hoàng gọi nàng là Mai Phi. Mai Phi có sắc dáng mảnh dẻ và hai mắt sáng như viên ngọc. Về sau Đường Minh Hoàng đổi tính yêu người bụ bẫm (!) là Dương Quý Phi nên xa lánh nàng. Vì Dương Quý Phi có tính ghen ghê gớm, bởi vậy Đường Minh Hoàng đôi lúc nhớ đến sủng phi cũ thì cũng không dám bén mảng đến Thượng Dương cung nơi nàng ở. Một lẫn, có sứ thần dâng vua đôi trân châu, Đường Minh Hoàng tưởng nhớ Mai Phi, lén gọi người thân tín đem lại tặng nàng. Mai Phi buồn rầu không nhận gửi trả lại cùng với 1 bài thơ như sau:
“Liễu diệp song mi cửu bất miêu
Tàn trang hoà lệ ố hồng tiêu
Trường môn tự thị vô sơ tẩy
Hà tất trân châu uỷ tịch liêu.”
Dịch là :
"Lâu rồi không vẽ chân mày lá liễu
Quần áo xưa đã hoen ố lệ buồn
Cửa ngõ căn phòng không còn lau rửa
Thì cần gì châu ngọc để vỗ về nỗi cô đơn."
Về sau, An Lộc Chân khởi loạn, Đường Minh Hoàng phải rời kinh đô chỉ mang theo Dương Quý Phi. Mai Phi ở lại bị giết trong cơn binh lửa.
Lịch sử tướng thuật chép: Mai Phi và Lục Châu đều có đôi mắt "Nhãn lệ uông uông," lúc nào cũng ướt như đầy nước mắt. Đó là một phạm kỵ vì theo tướng thuật người đàn bà đẹp cần có nét tươi nếu "Diện đới sầu dung" là sẽ bị "Bất đắc thiện chung".
Nói đến hồng nhan bạc mệnh người ta không thể quên cái chết của ngôi sao chiếu bóng Lâm Đại. Khi báo chí loan tin Lâm Đại tự tử, các nhà tướng số tại Hương Cảng đã thi nhau giảng luận về tướng và mệnh của nàng. Số mệnh học của Trung Quốc thường căn cứ vào tướng và số, nếu nhìn tướng có điều không giải đáp được thì phải xem số; Nếu xem số có sự gì quá khó khăn không khám phá được hoặc không dám xác quyết thì lại phải xem thêm tướng. Điểm đáng chú ý trên gương mặt của Lâm Đại là đôi mắt nàng có hung quang lại cộng thêm vào đấy tính tình của nàng rất nóng nẩy, bạo tháo. Tướng diện và tướng tâm khắng khít với nhau tạo ra một thứ đaỏn mệnh tướng cho nàng. Theo sách tướng thì mắt lộ hung quang chẳng những đoản mệnh mà còn dễ bị bạo tử hoành nghĩa là chết không toàn hoặc chết bất đắc kỳ tử. Ai đã xem phim Lâm Đại đóng tất không thể không lưu ý diện mạo nàng có ba đặc điểm:
1 - Quang lộ.
2 - Quyền cao.
3 - Nhãn hung.
Quang lộ tức tài lộ, lộ tài thường chiêu oán!
Quyền cao thường chiêu kỵ (nghi kỵ, ganh ghét)!
Nhãn hung tức tính hung, tính hung ắt chiêu hung!
Đàn ông mà quang lộ, quyền cao, tính hung chính là tướng du đãng giết người và bị giết, nếu không là tướng tự tử. Gia Cát Lượng khi xưa cũng mắt lộ, quyền cao nhưng vì không có tính hung nên được thiện chung.
Tướng Lâm Đại là tướng trọng hậu rất tốt, mặt nàng ít vẻ hồng nhan bạc mệnh nhưng vì tính hung đi đôi với quyền cao nhãn lộ nên kết cuộc tính mệnh bất đắc thiện chung vậy.
Bởi vậy, sách tướng thuật mới nói :
“Tướng do tâm sinh, tướng do tâm cải.”
(Tâm tướng ảnh hưởng rất nhiều đến hình tướng).
Tuy nhiên cái chết của Lâm Đại vẫn còn gây nhiều tranh luận trong giới tướng số. Họ lập luận mặc dù tính tình Lâm Đại bạo tháo nhưng nàng có vẻ đẹp trung hậu, mặc dù đôi mắt Lâm Đại chứa đầy chất hung quang nhưng nàn lại có vẻ đẹp đường mật dịu dàng. Thêm nữa nếu bảo nàng chết vì nhãn tướng thì vận mắt là 37, 38 tuổi - tất không thể chết vào vận 30 tuổi. Đó là một câu vặn hỏi có lý, cho nên nhà đoán tướng phải mượn thuật số để giải đáp.
Người Trung Quốc là cha đẻ ra Tử Vi nhưng họ không (thích) xem Tử Vi mà họ xem số Bát tự (Số Bát tự thế nào xin mời ghi danh học lớp Tử Bình). Lâm Đại sinh năm 1934 (Giáp Tuất), ngày 26 tháng 12 giờ Ngọ. Chuyển thành bát tự là:
Giáp Tuất Đinh Sửu Bính Ngọ Giáp Ngọ
Toàn số Hoả Mộc chiếm tám phần mười. Mộc trợ Hoả thái quá làm cho người mang số đó trở thành ngoạn ngạnh tư ý tạo thành kiếp khổ sinh hay hung thủ. Cho nên khi Lâm Đại chít vào đúng lúc giữa hoả viêm thổ táo, tháng 6 ngày Đinh Mão giờ Ngọ.
Hành vận 28 tuổi của Lâm Đại là Giáp Tuất, lưu niên của hành vận Giáp Tuất năm 30 tuổi là Giáp Thìn cộng mệnh số thành ra 3 Hoả 4 Mộc đốt - thế là đen thui!
Hồng nhan với hào kiệt chung một kiếp.
“Hồng nhan bạc mệnh.
Hào kiệt thán phiêu linh.”
Nhưng nếu nói theo triết lý nhân sinh thì hồng nhan mà không bạc mệnh thì thật là vô duyên mà bạc mệnh nhưng không hồng nhan thì cũng chả có gì đáng để nói ! Cũng như hào kiệt anh hùng mà không phiêu linh thì cũng chỉ là những hào kiệt anh hùng “hàng mã !”
IV - NÓI VỀ ĐẶC BIỆT DỊ TƯỚNG CỦA PHỤ NỮ
Tướng học rất bí ảo huyền diệu nên môn học này được quan niệm là môn dễ học khó tinh. Nếu thiếu kinh nghiệm hoặc có kinh nghiệm mà kém linh cảm thì cũng khó lòng đoán biết lẽ cùng thông.
Tỷ dụ có người trông bề ngoài đường đường tướng mạo mà đường thế đồ gót rỗ kỳ khu, vận mạng nổi chìm ưu uất bất đắc chí. Tất nhiên người ấy phải có một bộ vị tướng sinh hoại, sách tướng gọi là “Thanh trung hữu trọc” (Trong cái thanh quý có cái ô trọc). Ngược lại có những người trông bề ngoài “hình dong sủ lậu” mà cuộc sống “nhất phàm phong thuận” (con buồm thuận gió). Tất nhiên nguời ấy phải có một dị tướng.
Cho nên khi xem tướng trước hết phải phân biệt rõ ràng thanh trọc để làm căn bản cho sự phán đoán quý tiện hiền ngu.
Xem tướng đàn bà con gái vấn đề thanh quý và ô trọc lại càng quan trọng lắm ! Rồi xem đến diện hình mắt, mũi, miệng. Ba thứ đó cần biết đoan chính hay khuyết hãm để dịnh cách quý tiện vượng phu hại phu. Tuy nhiên phải hết sức lưu ý để tìm biết người đàn bà con gái nào có mang một dị tướng đặc biệt nào không ? Có điều lạ là đàn bà sinh quý tử, cực vượng phu hưng gia thường mang dị tướng, tỷ dụ: nhũ đầu như chu sa, lỗ rốn đỏ hồng, hay sâu rộng hình tròn hoặc nốt ruồi son ở chỗ kín (khoảng từ bụng xuống tới gần đầu gối). Một khi đã mang dị tướng thì người đàn bà bất kể diện mạo đoan trang hay thô lậu đều có thể “Vượng phu ích tử !”
Tướng đẹp bề ngoài của phụ nữ thì sách tướng ghi như sau:
Nga mi (mày ngài),
Phượng nhãn (mắt phượng),
Huyền đởm tị (mũi như trái mật treo),
Anh đào khẩu (miệng như trái anh đào hồng nhỏ),
Chu sa trưởng (bàn tay hồng hào mịn màng).
Những ai có tướng kể trên đều được liệt vào hàng phu nhân tướng. Ngoài ra, dị tướng còn phải kể đến tướng thanh âm vì thanh âm rất quan hệ đến sự phân định quý tiện. Phàm nữ tử thanh âm xuất tự đan điền hữu lực, thanh âm như phượng kêu oanh rót nghe êm tai, dịu hiền trong sạch, âm điệu trầm bổng đều được hưởng hạnh phúc gia đình. Nhược bằng thanh âm vẩn đục, thô lỗ rầu rĩ tất là tiện tướng “phá gia ly tổ, phu tử bạc duyên.” Đời Mạt Thanh bên Trung Quốc, mẹ một danh thần cực phẩm là Lý Hồng Chương tướng mạo rất sũ lậu nhưng bà có một tiếng nói tuyệt hay, ai nghe bà nói cũng cảm mến ! Nhờ tiếng nói đó mà người ta quên hết các nét xấu của diện mạo. Sách tướng gọi là “Nhất quý yểm tam sũ” (một cái quý chôn vùi ba cái tiện). Hồi bà còn là con gái, tiếng bà xấu bay ra ngoài chẳng ai dám hỏi. Về sau bố của Lý Hồng Chương đi qua quê bà và ghé lại tá túc ở nhà tổ phụ của bà. Lúc gặp, họ Lý thấy bà sũ lậu chẳng hề để ý. Vài ngày sau, cứ mỗi sáng họ Lý thấy bà ra sân cho gà vịt ăn thì con nào con nấy mỗi khi bà cất tiéng gọi là chạy tới quấn quýt nom thật vui mắt, cứ mỗi tối tiếng bà gọi vang lên là con nào con nấy ngoan ngoãn vào chuồng. Họ Lý vốn rành tướng thuật biết người con gái này là một loại sử nữ quý cách nên kết duyên với bà. Một trường hợp khác là bà mẹ của Đới Hồng Từ, vị thượng thư danh tiếng văn vũ toàn tài cảu Trung Quốc. Không chỉ riêng ông mà cả ba anh em đều rất hiển đạt. Theo truyền thuyết thì anh em họ Đới nhờ được ảnh tướng số, chỉ vì mệnh lận đận nên ông từ bỏ ý định làm quan đi buôn, ngoài ba mươi tuổi chưa lập gia đình, ông tin rằng vận mệnh chưa tới cưỡng làm chi.
Một hôm, có một nữ tử đến mua hàng tuy tướng mạo chẳng đặc sắc lắm nhưng cô ta mũi cao, sống mũi vươn thẳng tới ấn đường, “ngũ quan đoan chính, nhãn thần trừng triệt,” lúc nói thanh âm trong êm, tiếng nói thoát ra tự đan điền. Đới Công đang mải ngắm nghía tướng mạo cô gái thì con hầu sấp ngửa vào tìm. Đới Công quyết nhiên cô ta là con nhà gia thế. Đới Công bấy giờ mới biết cô ta còn dị tướng khác nữa mới cho tiền nữ tì hỏi dò, nữ tì cho hay cô ta trông xấu xí nhưng rốn cô tròn to, sâu, đầu vú đỏ như tô son. Theo sách tướng những dấu vết ấy là quý cách không những đa phúc lại sinh quý tử. Đới Công bèn nhờ người đến hỏi, bên gái tuy nhà danh gia quý tộc nhưng thấy con gái mình xấu xí vả chăng đã quá lứa nên cũng dễ bằng lòng.
Kể từ ngày Đới Công kết hôn với người con gái xấu xí đó thì công việc buôn bán tiến triển không ngừng, phụ sướng phụ tuỳ gia đạo êm ấm. Đới Công sinh ba người con trai là Đới Hồng Từ, Đới Hồng Hiến và Đới Hồng Tuệ, cả ba cùng làm đến bậc nhất phẩm!
Sách tướng viết:
“Nữ tử chu sa nhũ tất định sinh quý tử ! ”
Thật nghiệm vậy !
Trong sách Liễu trang tướng pháp, thiên Vĩnh lạc bách vấn có ghi một dị tướng khác có thể sinh quý tử là tướng mồ hôi như sau :
Vua hỏi : “Tuyển cung phi cho mặc áo gấm dầy rồi cho đi bộ đến mướt mồ hôi để làm gì ?”
Đáp : “Nếu không làm sao biết được hương của thân thể. Phàm con gái mồ hôi ướt đằm mà thân thể vẫn thơm tho tất đại cát, trái lại là hạ tiện. Văn chương nói sắc nước hương trời là đã đi vào khoa tướng mà không biết đó thôi.”
Vua hỏi : “Trong cung có nhiều cung nữ không đẻ con là tại sao ?”
Đáp : “Cổ nhân có câu: Mỹ nữ vô kiên (gái đẹp không vai), tướng quân vô hạng (võ tướng không cổ). Vai suôi quá mà thân hình lại yếu ớt, eo nhỏ quá mà thân hình nhẹ bẫng. Phạm bốn điều ấy khó lòng hưởng phúc nói gì đến con cái.”
... tạm ngưng…
ĐÔNG HẢI THẦN NHÃN Vũ Tri Thiên
----