Quán Vắng không Người ...3

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »


Trung Quốc xoay trục ra biển


Alexander L. Vuving | Biên dịch: Lê Hoàng Giang
Yếu tố then chốt đang thay đổi cục diện trò chơi của các quốc gia khu vực Châu Á – Thái Bình Dương là gì? Dựa theo những quan điểm có ảnh hưởng nhất trên các phương tiện truyền thông thì câu trả lời có vẻ là sự trỗi dậy của Trung Quốc. Tuy bề ngoài hiển nhiên là vậy, song đây lại là câu trả lời sai. Dù sự trỗi dậy của Trung Quốc đang gây ra những thay đổi lớn nhất về lượng trong cục diện an ninh Châu Á – Thái Bình Dương, việc Trung Quốc chuyển hướng ra biển mới là bước phát triển có tầm quan trọng nhất về chất.

Trung Quốc đã vươn lên đứng đầu châu Á nhiều lần trong quá khứ, nhưng việc nước này chuyển hướng chiến lược sang phía biển trong thời gian gần đây thì chưa từng có tiền lệ. Nếu quả thực tương lai là do quá khứ định đoạt, thì sự trỗi dậy của Trung Quốc sẽ không thực sự ảnh hưởng đến ưu thế tuyệt đối về hải quân của Mỹ ở khu vực Tây Thái Bình Dương, và sự tranh giành bá quyền giữa Mỹ và Trung Quốc có thể sẽ không xảy ra. Quan điểm này chính là cốt lõi của chiến lược “cân bằng ngoài khơi” (offshore balancing – đứng từ xa giữ cân bằng quyền lực trong một khu vực mà không can thiệp trực tiếp vào khu vực đó) đang thịnh hành tại nước Mỹ ngày nay và được nhiều người cho là chiến lược lớn mà Tổng thống Barack Obama đang theo
đuổi.

Cứ theo như quan điểm này thì vì Trung Quốc là cường quốc lục địa nên sự trỗi dậy của nước này sẽ khiến nó trở thành một con voi khổng lồ. Trong khi đó, nước Mỹ, với tư cách một cường quốc biển, lại giống như một con cá voi lớn. Dù cả hai đều rất mạnh, nhưng mỗi bên chỉ mạnh trong lãnh địa riêng của mình, và không bên nào có đủ khả năng vật chất hay ý chí chính trị để định đoạt tình hình trong lãnh địa của bên kia. Từ đây suy ra, nếu Washington chấp nhận ưu thế của Bắc Kinh trên lục địa châu Á, thì Mỹ có thể tránh được một cuộc xung đột không cần thiết với Trung Quốc trong khi vẫn duy trì vai trò chi phối của mình ở khu vực hải dương của châu Á.

Một người ủng hộ mạnh mẽ quan điểm này là cựu Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Zbigniew Brzezinski. Brzezinski cũng là người cổ võ cho khái niệm về một nhóm G-2 gồm Mỹ và Trung Quốc. Có tin cho rằng ông đã mang ý tưởng này sang đề xuất với Trung Quốc trong tư cách phái viên không chính thức của Obama chỉ vài ngày trước khi Obama nhậm chức tổng thống. Trong cuốn sách Tầm nhìn Chiến lược: Nước Mỹ và Cuộc Khủng hoảng Quyền lực Toàn cầu (Strategic Vision: America and the Crisis of Global Power), Brzezinski cho rằng cuộc tranh giành quyền lực tối cao ở châu Á sẽ không diễn ra giữa con cá voi Mỹ và con voi Trung Quốc, mà giữa hai con voi châu Á với nhau là Trung Quốc và Ấn Độ. Do cường quốc biển có những hạn chế cố hữu trong một cuộc tranh đua trên đất liền như
vậy, ông ta khuyên nước Mỹ nên đứng bên ngoài và không liên kết chiến lược với Ấn Độ để tránh bị lôi kéo vào một cam kết quan trọng trên đất liền. Cách tiếp cận giữ khoảng cách như vậy sẽ khiến Mỹ trở thành tác nhân cân bằng ngoài khơi theo đúng nghĩa, có thể tuỳ cơ mà ủng hộ nước này chống lại nước kia, hoặc “toạ sơn quan hổ đấu” từ xa đứng nhìn Trung Quốc và Ấn Độ đấu nhau đến mệt nhừ trong khi Washington đứng ngoài và tiết kiệm sức mạnh của mình.

Chiến lược khôn khéo như vậy quả là hấp dẫn trong thời đại mà sự kiệm sức được ưu tiên, và nếu để trực giác quyết định thì đây sẽ là lựa chọn số một của một nước Mỹ đã mệt mỏi với những cuộc can thiệp ở hải ngoại. Thế nhưng, ý tưởng cốt lõi của chiến lược này lại dựa trên một cách hiểu sai lầm về các xu hướng địa chính trị trong thế kỷ vừa qua. Quá trình công nghiệp hóa và toàn cầu hóa đã chuyển “trái tim” kinh tế châu Á từ đất liền sang vùng biển. Cùng với xu hướng này, Trung Quốc không còn là một đế chế tự cung tự cấp của ngày trước nữa; nền kinh tế của Trung Quốc ngày nay đang lệ thuộc vào các tuyến đường buôn bán trên các biển Đông Á. Không có gì đáng ngạc nhiên khi Trung Quốc ngày càng tin tưởng
rằng để đoạt ngôi vị bá chủ châu Á thì trước hết phải làm chủ được vùng biển của khu vực này. Hiểu được điều này, ta sẽ lý giải được vì sao Trung Quốc gần đây đã có những động thái như tăng cường tranh chấp quần đảo Senkaku/Điếu Ngư với Nhật Bản và thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ) trên biển Hoa Đông, cưỡng đoạt bãi cạn Scarborough từ Philippines, đơn phương hạ đặt một giàn khoan dầu trị giá 1 tỷ USD tại vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, xây dựng những căn cứ quân sự lớn trên những nơi vốn là đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa và thường xuyên quấy nhiễu các tàu hải quân Mỹ hoạt động trên biển Đông.

Truyền thống chiến lược lớn của Trung Quốc là hướng vào lục địa. Ngoại trừ một vài lần dưới thời nhà Nguyên và nhà Minh, nói chung đế chế Trung Hoa vẫn chấp nhận để các thế lực khác chiếm ưu thế trên những vùng biển ngoài khơi Trung Quốc. Sự cùng tồn tại của bá quyền Trung Quốc trên đất liền và vai trò thống trị của ngoại bang trên biển là kết quả của 3 điều kiện chủ yếu, và cả ba đều không còn tồn tại trong thời đại ngày nay.

Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc dễ bị tấn công nhất ở phía Bắc và phía Tây, nơi họ phải đối mặt với những đội quân của người du mục Trung Á là những đội quân cơ động nhất và giỏi đánh thọc sâu nhất của thời bấy giờ. Những đội quân cưỡi ngựa, bắn cung này có thể lao tới, xuyên qua và chinh phục toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Những hiểm họa từ những đội quân du mục này lớn hơn hẳn những nguy hiểm từ dân đi biển ở phía Đông và phía Nam, những người cùng lắm chỉ có thể cướp phá các thành phố hay làng mạc dọc theo bờ biển Trung Quốc.

Nhưng kể từ thế kỷ 19, điểm yếu về quân sự của Trung Quốc đã chuyển sang vùng bờ biển. Những đội quân cưỡi ngựa, bắn cung của ngày nay là các tàu sân bay, tàu khu trục, và tàu ngầm được trang bị máy bay siêu âm, máy bay tàng hình, máy bay không người lái và tên lửa hành trình. Trong mắt các nhà hoạch định chiến lược của Trung Quốc ngày nay, việc kiểm soát biển Hoàng Hải, biển Hoa Đông và biển Đông đã trở nên tối quan trọng đối với nền quốc phòng và an ninh của Trung Quốc.

Những vùng biển này cũng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế đối với Trung Quốc. Trước thời kỳ công nghiệp hóa, Trung Quốc là một nền kinh tế hoàn toàn tự cung tự cấp và không phải dựa vào ngoại thương để phát triển. Nhưng tất cả đã là quá khứ. Sự trỗi dậy của Trung Quốc trong thời gian gần đây chủ yếu là nhờ hội nhập kinh tế với thế giới bên ngoài. Từ khi phát động “cải cách và mở cửa” vào năm 1979, tỉ lệ phụ thuộc vào ngoại thương của Trung Quốc, tính theo tỉ lệ ngoại thương trong tổng sản phẩm quốc nội, đã tăng từ 10% lên tới hơn 70%. Bên cạnh sự phụ thuộc này, kể từ năm 1998, Trung Quốc đã là một nước nhập siêu về năng lượng. Ngân hàng Thế giới báo cáo rằng năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đã chiếm
tới 11% tổng năng lượng nước này sử dụng trong năm 2011. Những số liệu thống kê này cho thấy nền kinh tế Trung Quốc cơ bản sẽ sụp đổ nếu bị cắt đứt các liên kết thương mại với thế giới bên ngoài. Điều khiến cho biển còn quan trọng hơn nữa đối với Trung Quốc là việc phần lớn ngoại thương và năng lượng nhập khẩu của Trung Quốc đều phải vận chuyển qua biển Hoa Đông, biển Đông và eo biển Malacca.

Không chỉ có một mình Trung Quốc phải phụ thuộc vào các tuyến đường giao lưu trên các vùng biển này. Thực ra, các biển Đông Á này là huyết mạch của cả châu Á. Hơn một nửa thương mại hàng hóa của khu vực, khoảng một nửa ngoại thương của Trung Quốc, Ấn Độ và Australia, khoảng 80% lượng dầu và khí đốt nhập khẩu của Trung Quốc, 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản, và 2/3 nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc phải đi qua các vùng biển này. Tầmquan trọng về kinh tế và quân sự của các vùng biển Đông Á đảm bảo rằng không một quốc gia nào ở châu Á ngày nay có thể đạt được uy thế tuyệt đối trong khu vực trước khi trở thành kẻ mạnh nhất về hải quân trên vùng biển Tây Thái Bình Dương.

Có 3 lý do để Trung Quốc trong quá khứ vẫn để cho các nước khác thống lĩnh các vùng biển ngoài khơi của họ. Đôi lúc là do Trung Quốc còn quá yếu không thể thách thức được các cường quốc biển. Nhưng nói chung, những vùng biển này không hề có ý nghĩa quan trọng với Trung Quốc cả về quân sự lẫn kinh tế. Hơn nữa, các thế lực thống trị vùng biển đều chủ động tạo lập quan hệ chư hầu và triều cống với Trung Quốc.

Không một điều kiện nào trong số này là hiện thực của ngày hôm nay và ngày mai. Theo dự đoán, Trung Quốc sẽ vượt Mỹ để trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào cuối thập kỷ này. Trong khi đó, ngân sách quân sự của Trung Quốc còn tăng trưởng nhanh hơn cả nền kinh tế. Các biển bao quanh Trung Quốc đã trở nên thiết yếu cho sự phát triển và phòng vệ của nước này. Và Hoa Kỳ, cường quốc thống trị trên biển châu Á, sẽ không dễ gì chấp nhận đứng dưới trong một trật tự thế giới do Trung Quốc đứng đầu.

Nhờ có toàn cầu hóa và những công nghệ vũ khí mới, biển cả và đất liền nay đã cùng nằm trong một địa thế chiến lược đơn nhất tại châu Á. Uy thế hải quân đã trở thành điều kiện tiên quyết của sự thống lĩnh khu vực. Về phần Trung Quốc, sự gia tăng phát đạt của nước này sẽ phụ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận với biển hơn là việc sở hữu thị trường trên đất liền. Nhận thức rõ được những điều này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc, bao gồm cả cựu Chủ tịch Hồ Cẩm Đào và Chủ tịch đương nhiệm Tập Cận Bình, đã quyết định rằng Trung Quốc cần trở thành “cường quốc biển ở cấp độ toàn cầu”.

600 năm trước, Trung Quốc đã phái một hạm đội khổng lồ dưới sự chỉ huy của viên thái giám người Hồi là Trịnh Hòa đi vào biển Đông và Ấn Độ Dương để áp đặtkiểm soát lên luồng thương mại Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và mở rộng hệ thống chư hầu cho đế chế. Dù rất thành công, các cuộc viễn chinh này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian chưa đến 3 thập kỷ và đã được chứng tỏ là không hề nằm trong quy luật của lịch sử Trung Quốc. Cuối cùng thì Trung Quốc vẫn là một đế chế nông nghiệp, và nhiệm vụ chính của các chuyến đi của Trịnh Hòa chỉ là để phô trương trước những người ngoại bang trong vùng lòng chảo Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.

Ngày nay, Trung Quốc quay ra hướng biển do sự cần thiết khách quan hơn là vì ý đồ chủ quan muốn phô trương thế lực. Do vậy, sự thay đổi này sâu rễ bền gốc hơn rất nhiều so với các chuyến du hành từ 6 thế kỷ trước. So với những chuyến đi của Trịnh Hòa, sự chuyển hướng nhìn sang phía biển của Trung Quốc hiện giờ sẽ hứa hẹn có nhiều bạo lực hơn và cũng có nhiều ý nghĩa lịch sử hơn. Sự gia tăng quyền lực của Trung Quốc bản thân nó không nhất thiết sẽ gây nên mối đe dọa cho sự thống trị của Mỹ trên các vùng biển châu Á cũng như vai trò của Mỹ trong khu vực. Nhưng việc gã khổng lồ châu Á này xoay trục ra biển có thể sẽ đặt dấu chấm hết cho uy lực hải quân tuyệt đối của Mỹ trên vùng biển Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương mà hệ
quả là làm suy yếu trật tự toàn cầu do Mỹ đứng đầu.

Tiến sĩ Alexander L. Vuving là Phó Giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh Châu Á – Thái Bình Dương tại Honolulu, Hoa Kỳ. Quan điểm trong bài viết này là của riêng ông và không thể hiện quan điểm của nơi ông làm việc.

nguồn: http://nghiencuuquocte.net/

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Một chính quyền bình thường đối với Biển Đông

Vũ Đại Việt
16.07.2014
Mặc dù giàn khoan HD981 của Trung Cộng (TC) đã phải rút đi trước thời hạn dự trù một tháng để tránh bão, nhưng sự căng thẳng mang tính đối đầu giữa VN và TC trong suốt 75 ngày qua, cũng như nhiều biến cố tương tự trên Biển Đông sẽ diễn ra trong những năm tháng trước mặt, khiến người ta không khỏi đặt ra những chuẩn mực hành xử mà bất cứ một chính quyền bình thường nào cũng dự kiến để đối phó với những sự việc như vậy; đặc biệt là trước một đối thủ mà manh tâm xâm lấn của họ không còn che đậy gì nữa thì chiến tranh cũng là điều không thế loại trừ. Do đó, dự kiến xẩy ra xung đột quân sự hoặc không cũng đều phải được đặt ra.


Xét về tương quan lực lượng giữa VN và TC thì nước ta thất thế về nhiều mặt:



1- Quân sự: Rõ ràng nhất về số lượng khí tài cũng như trình độ kỹ thuật. Hầu hết vũ khí của VN lẫn TC đều mua của Nga, TC mua nhiều hơn, thế hệ vũ khí mới hơn, cho nên nếu xẩy ra một cuộc chiến tranh quy ước và trong ngắn hạn thì VN có nhiều phần thua. Tuy nhiên, càng về hướng nam thì TC sẽ càng bị mất đi những ưu thế vừa kể. Đặc biệt là Biển Đông lại hoàn toàn nằm trong sự khống chế của không quân VN xuất phát từ những căn cứ ven biển miền Trung. điều mà không quân Trung Cộng không thể với tới khi họ chưa có nổi một hàng không mẫu hạm khả dụng. Tuy có thể thắng trong một cuộc chiến giới hạn và chớp nhoáng nhưng không có nghĩa là TC có thể đè bẹp quân đội VN một cách chớp nhoáng với ít tổn thất. Quân đội VN có nhiều kinh nghiệm đánh du kích chiến, kinh nghiệm này sẽ càng được phát huy khi chiến trường là đất nhà hay biển nhà. Như vậy chiến thắng đầu tiên của TC sẽ dần dần trở thành khúc xương khó nuốt, làm chúng tiêu hao xương máu và tài lực vô tận và nhiên hậu về lâu về dài thì chưa chắc “mèo nào cắn mỉu nào”.



Khi đặt ra tình huống chiến tranh thì cũng phải xét đến việc liệu TC có dám gây chiến hay không khi mà mầm nội loạn ở nước Tàu, không chỉ ở những vùng lãnh thổ “biên trấn” như Tân Cương, Tây Tạng mà ngay cả ở trong nội địa, luôn luôn là điều bận lòng giới lãnh đạo nước này. Trong bài nói chuyện với cán bộ tháng 3 năm ngoái ông Tập Cận Bình đã không che dấu điều này, mà cách thức để tránh của ông là thỉnh thoảng “quậy nồi canh để khỏi bị sôi trào” tránh nguy cơ dẫn đến nước Trung Hoa bị vỡ vụn ra nhiều mảnh. Ngược lại thì phía VN có dám đối đầu với một cuộc chiến hay không, vì có “dám” thì mới nghĩ đến cách thức đánh để thắng. Xét về mặt thực tế thì cả hai phía đều “sợ” chiến tranh. Họ sợ chẳng phải vì cả hai đều “yêu” hoà bình, mà vì nếu xẩy ra chiến tranh thì cả hai chế độ cộng sản sẽ đều dễ dàng bị xụp đổ hơn vì những xung lực đã tích tụ từ lâu, khi có cơ hội sẽ bùng nổ để giật sập những chế độ không được lòng dân trên hai nước này.


2- Kinh tế: Nước ta hiện nay lệ thuộc TC nhiều về kinh tế. TC có thể xiết, gây áp lực phong toả kinh tế ta; tuy TC có thể bị thiệt hại nhiều hơn ta nếu giao tranh về kinh tế vì trong giao thương Việt-Hoa, TC đang được lợi hơn ta rất nhiều, nhưng giữa anh giàu và anh nghèo, anh giàu vẫn thoải mái dù mất 1 ngàn, anh nghèo thì dù mất chỉ có 1 trăm vẫn có thể xập tiệm.Tuy thế, cái khó khan về kinh tế của ta sẽ không đến nỗi tuyệt vọng vì hiện nay Tàu không thể hoàn toàn phong toả kinh tế ta, vì nước ta đang có nhiều cơ hội mở ra hội nhập vào kinh tế toàn cầu..

3- Ngoại giao: Mạnh nhờ gạo, bạo nhờ tiền. Ở tư thế siêu cường số 2 trên thế giới, và có tư thế phủ quyết trong LHQ, TC có lợi thế ngoại giao hơn, có thể ảnh hưởng đến các nước khác, khiến tiếng nói của Bắc Kinh có trọng lượng hơn tiếng nói Hà Nội trên chính trường quốc tế. Tuy thế, từ trước đến nay TC luôn luôn ở vào thế cô độc, không có đồng minh. Thái độ hung hăng của TC đồng thời cũng là mối đe doạ cho Tây Phương và các nước lân cận với Tàu, nhất là qua thái độ hành xử du côn của TC trên Biển Đông, một thuỷ lộ vô cùng quan trọng của thế giới, càng khiến TC cô độc hơn. Nếu biết vận dụng sự lo ngại vừa kể của thế giới đối với TC trên đấu trường ngoại giao, VN có thể san bằng khoảng cách bất lợi ngoại giao nói trên. Tuy nhiên, trên thực tế thì CSVN cũng cô đơn không kém gì TC. Cái ý thức hệ VN đang ôm giữ tự nó đã khiến các nước dân chủ không bao giờ đứng chung với VN trên một chiến tuyến.


Với tương quan lực lượng kể trên, khi TC xâm phạm chủ quyền lãnh hải VN một cách trắng trợn, và làm tổn hại nền ngư nghiệp của ta (bắt giết ngư dân ta, cấm đoán ngư dân ta đánh cá, thu hẹp ngư trường của ta), thì một chính phủ bình thường thực sự lo cho nước cho dân phải làm gì?

** Ráng kềm chế để tránh xung đột quân sự là điều nên làm. Nhưng điều này không có nghĩa là phải tỏ vẻ yếu hèn nhược để đối phương coi khinh được đằng chân tiến lên đằng đầu. Và càng không có nghĩa là xua ngư dân ra bám biển, cảnh sát biển ra vờn lách tàu chiến địch, phong cho ngư dân làm cột mốc sống trên biển (1), để rồi nếu hy sinh thì được phong làm liệt sĩ (2), trong khi đó thì lực lượng chính để bảo vệ lãnh hải là hải quân thì lại chỉ bám bờ. Trong vụ tranh chấp vùng đảo Scarborough, tuy hải quân Phillipines thua xa hải quân TC, tàu chiến Phillipines vẫn hiên ngang kéo ra dàn trận đối đầu với hải quân Tà , hai bên gờm nhau cả tháng trời với sự tự chế không nổ súng, rồi cùng lấy lý do mùa bão để rút quân. Mặc dù ngay sau đó TC đem tàu chiến trở lại và phong toả vùng đảo này, Philipines không làm gì được và không mang quân trở lại, mà dùng đòn pháp lý ngoại giao, ta thấy ít nhất nhà nước Phi đã không làm ô nhục quân đội mình và duy trì được tinh thần chiến đấu của quân dân mình.


** Một nhà nước bình thường luôn lấy dân làm gốc. Lúc phải đối diện với hiểm hoạ ngoại xâm thì nhà nước dựa vào dân để cùng dân đối phó. Không có chính quyền nào lại nói với dân là hãy để một mình nhà nước lo và giấu kín không chia sẻ với dân nhà nước lo như thế nào. Ngay cả dưới thời phong kiến khi mà dân vẫn còn coi vua quan như là bậc cha mẹ tuyệt đối, các vua nhà Trần vẫn phải tìm lấy sự đồng thuận của dân qua Hội Nghị Diên Hồng với câu hỏi “nên hoà hay nên chiến”.


** Khi thực sự muốn bảo vệ chủ quyền trước sự lấn áp của tên hàng xóm côn đồ, nếu mình yếu về cơ bắp quân sự, thì mình tìm đủ mọi cách khác để đối phó, trong đó cách la làng cho mọi người khác xúm vào quan sát và bênh vực mình là cách mà người yếu hay làm và thường làm chùn tay tên du đãng. Không có nhà nước bình thường nào chỉ la làng nửa vời rồi khi có vài nước khác bắt đầu lên tiếng bênh vực, thì lại gián tiếp chặn họ lại với lời trấn an không sao chỉ là hục hặc trong gia đình, chứ nói chung quan hệ giữa chúng tôi vẫn tốt đẹp. Chả trách mà tên du đãng càng ngày càng coi khinh công khai, đưa VN từ vị trí đàn em xuống hàng “con cái hoang đàng”. Thế giới có thể thương cảm một quốc gia yếu, nhưng khinh bỉ và không thể giúp đỡ một chính quyền hèn.


CSVN dùng lý cớ là mình phải đóng vai kẻ hiếu hoà, luôn mong muốn duy trì hoà bình nhưng sẵn sàng cho tình huống xấu nhất. Đây là câu nói chung chung của mọi nhà nước bình thường, nhưng hành động của nhà nước CSVN lại không phù hợp với lời nói. CƯ AN TƯ NGUY là một phương sách muôn đời của bất cứ một quốc gia nào. Một quốc gia sống trong hòa bình thì phải lo chuẫn bị sẵn sàng cho tình huống xảy ra chiến tranh. Tiền nhân VN đã bao lần xử dụng phương sách này mới bảo vệ được sự vẹn toàn của đất nước. Trong tình thế khẩn trương, giặc đã vào nhà và bức hại ngư dân ta thì không thể ngồi yên được nữa. Chuẩn bị chiến tranh không có nghĩa là chờ mua thêm vài tàu ngầm ki lô, hoặc nói suông là vẫn âm thầm “chuẩn bị cho tình huống xấu nhất.” Ta không đem quân đi đột kích ai để mà phải bí mật chuẩn bị chiến tranh. Chuẩn bị chiến tranh để tự vệ và duy trì hoà bình là phải khua chiêng gióng trống sao cho đối phương phải chần chừ suy nghĩ lại, cân nhắc giá phải trả nếu muốn động binh. Sự kiện TC đã tự chế không khai hoả trong vụ gờm súng với Phillipnes ở đảo Scarborough cũng như việc TC đã thông báo trước giàn khoan HD981 sẽ chỉ ở biển Đông vài tháng cho thấy trong thâm tâm TC chưa dám trắng trợn động binh và nhiều phần chỉ muốn thăm dò "mềm nắn, rắn buông". Năm 2007, khi TC dự trù tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa, các cuộc biểu tình phản đối dữ dội cuối năm đó của thanh niên, sinh viên VN đã khiến TC phải ngưng lại và chối bỏ rằng họ không có kế hoạch này.

Một chính phủ bình thường phải cho tên bá quyền xâm lược thấy toàn dân toàn quân mình đang chuẩn bị sẵn sàng đương đầu với những ngày tháng khó khăn trước mặt về kinh tế và quân sự, sẵn sàng tinh thần cho một cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược. Một nhà nước bình thường trong hoàn cảnh này phải cho dân thấy bằng hành động cụ thể rằng mình đang làm hết những gì có thể làm được để bảo vệ chủ quyền đất nước để dân có thể tâm phục và tin tưởng.


CSVN đã không làm như vậy. Họ bắt dân nhắm mắt tin tưởng vào họ, tuyên truyền đề cao lòng yêu nước trong giới trẻ, nhưng lại chứng tỏ một thái độ khúm núm khiếp nhược trước Bắc Kinh cùng những hành động làm soi mòn tinh thần tự chủ bất khuất của quân dân Việt, như ngăn chặn cấm đoán những búc xúc tự phát chống TC của người dân, cấm quốc hội ra nghị quyết về Biển Đông, bắt hải quân bám bờ trong tủi nhục khoanh tay nhìn ngư dân mình và cảnh sát biển bị hải quân Tàu đàn áp ngay trong vùng biển của mình. Thỉnh thoảng nói cứng nhưng ngay sau đó lại run, lại vuốt ve khấu tấu TC, im lặng cam tâm làm phận con cái đối với TC, chấp nhận tư thế ngoại giao cả nước ngang bằng cấp dưới của tỉnh Quảng Đông (3).


Phải đợi đến gần hết 3 tháng khi giàn khoan sắp sửa rút theo lịch trình của TC, bộ ngoại giao CSVN mới làm ra vẻ tương đối mạnh dạn chính thức công bố lập trường bác bỏ yêu sách chủ quyền của TC đối với Hoàng Sa với những lập luận không có gì mới để biện minh cho sự chậm trễ chờ đợi để cho TC chủ động ra tay trước tranh thủ về mặt ngoại giao vấn đề Biển Đông với Liên Hiệp Quốc. Lối hành xử này cho thấy chế độ Hà Nội không thực tâm bảo vệ đất nước và những lời nói cứng của họ chỉ là nói suông với mục đích chính là xoa dịu sự bực tức của người dân mà thôi và rồi khi giàn khoan rút đi, họ sẽ tự nhận công thắng lợi, khoe rằng cách xử trí của họ là đúng đắn, dù trên thực chất TC đã đạt được hoàn toàn mục đích đóng dấu chủ quyền của họ trên Biển Đông, khẳng định uy quyền của mình trên đứa con hoang đàng khiến nó phải chịu nhục, và khoá chặt hải phận VN trong vùng lưỡi bò của TC.

Thực ra, TC không thể tìm ra một tay sai chư hầu nào tốt hơn CSVN mà chả cần chiến tranh nên có nhiều phần sau khi nhắc nhở xác quyết lại quan hệ cha con với Hà Nội, TC sẽ để cho CSVN lại một chút thể diện để khỏi bị dân phẫn uất vùng lên lật đổ. Cụ thể như việc TC tạm rút giàn khoan để Bắc Kinh và Hà Nội đều có thể tuyên bố “hai bên cùng thắng”.

Nguồn dẫn:

(1) phát biểu của Trương Tấn Sang: http://www.baomoi.com/Source/Bao-Phu-Nu-Online/91.epi
(2) Đề nghị của chủ tịch Hội Nghề Cá: http://dantri.com.vn/blog/khong-quy-goi ... c-manh-bao...
(3) Học thêm kẻ thù và rước thêm kẻ thù!: Xã L

Thông Tin Đức Quốc http://www.ttdq.de/node/1576

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Báo chí quốc tế nói về vụ dời giàn khoan


Image
Trung Quốc nói việc di chuyển giàn khoan là quyết định 'mang tính thương mại'

Tin về việc Trung Quốc di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng biển tranh chấp với Việt Nam đã đăng tải rộng rãi trên truyền thông quốc tế và thu hút nhiều ý kiến bình luận từ giới quan sát.


Tạp chí The Diplomat ngày 17/7 đăng bài của cây bút Shannon Tiezzi trong đó cho rằng nguyên nhân chính của quyết định này là do Bắc Kinh nhận thấy "không có nhiều lợi ích trong việc giữ giàn khoan ở vị trí hiện tại".

"Từ một góc nhìn chiến lược, giàn khoan đã đạt được mục đích của mình," theo tác giả.

"Trung Quốc đã chứng minh rằng nước này có khả năng đưa giàn khoan vào hoạt động gần quần đảo Hoàng Sa dưới sự yểm trợ của lực lượng hải quân để bảo vệ giàn khoan trước các tàu Việt Nam."

"Bắc Kinh cũng đã chứng minh rằng mình có khả năng kháng cự lại sự chỉ trích từ bên ngoài, đồng thời phớt lờ và phản công khi Việt Nam, Hoa Kỳ và các nước trong khu vực cáo buộc Trung Quốc gây hấn".

'Đặt tiền lệ mới'
"Chính quyền Bắc Kinh sẽ coi như là họ đã thành công trong việc đặt một tiền lệ mới, trong đó nước này có thể áp đặt cách diễn giải của mình về những ranh giới trong khu vực mà không gặp phải bất lợi đáng kể nào"

Tạp chí The Diplomat

Bài viết cho rằng việc Bắc Kinh tuyên bố đã tìm thấy dầu khí trong khu vực sẽ tạo điều kiện cho họ đưa giàn khoan trở lại vào bất cứ lúc nào.

Tuy nhiên, việc dịch chuyển giàn khoan, theo tác giả, cũng là cơ hội để Bắc Kinh cải thiện quan hệ với Hà Nội và "bắt đầu thảo luận về việc hợp tác trên những lĩnh vực khác".

Một bài khác của tác giả Clint Richards, cũng trên The Diplomat, thì cho rằng "mặc dù Trung Quốc đã tạm rút lui vào lúc này, nhiều khả năng nước này đang có một cuộc chơi dài hạn".

Trung Quốc đã "chứng minh rằng nước này có thể hoàn thành mục tiêu của mình, bất chấp sự phản đối từ khu vực và những cuộc đụng độ xảy ra gần như mỗi ngày", bài viết có đoạn.

Tác giả cho rằng chính quyền Bắc Kinh sẽ coi như là họ đã thành công trong việc "đặt một tiền lệ mới, trong đó nước này có thể áp đặt cách diễn giải của mình về những ranh giới trong khu vực mà không gặp phải bất lợi đáng kể nào".

Cũng theo ông Richards, "lãnh đạo Trung Quốc giờ đây cảm thấy họ có thể lặp lại những vấn đề này vào bất cứ thời gian và địa điểm nào họ muốn trong tương lai, và cán cân an ninh khu vực sẽ không bị mất thăng bằng quá nghiêm trọng hoặc chuyển hẳn sang hướng bất lợi cho họ".

'Mối tình sóng gió'

Quốc hội Việt Nam đã không ra nghị quyết riêng về Biển Đông trong kỳ họp kết thúc hồi cuối tháng 6

The Economist trong khi đó so sánh mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc như một "mối tình sóng gió".

Tạp chí này dẫn lời của tiến sỹ Jonathan London, một nhà nghiên cứu về Việt Nam, cho rằng quyết định di chuyển giàn khoan của Trung Quốc có thể là do muốn "làm giảm đi phần nào sự khó xử của Hà Nội" trong cách ứng xử với Bắc Kinh.

"Hai quốc gia cộng sản này có một lịch sử phức tạp, hình thành từ thù hằn, nghi ngờ và cả những sự hợp tác miễn cưỡng," bài viết có đoạn.

"Cả hai không thể nào không tranh cãi và rồi lại làm lành".

"Trung Quốc là một đồng minh ý thức hệ, một đối tác thương mại quan trọng, và là một cường quốc quân sự đang trỗi dậy".

"Ngay cả bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có một bộ phận đông đảo thân Trung Quốc" và "đề cao mối quan hệ với Bắc Kinh hơn việc thắt chặt quan hệ với Hoa Kỳ".

Tuy nhiên, bài viết cũng cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước áp lực ngày càng lớn trong việc bảo vệ chủ quyền và xem xét lại sự lệ thuộc Trung Quốc về kinh tế.

"Họ nghĩ rằng nếu thất bại trong việc đáp ứng những yêu cầu này, tính chính danh của Đảng sẽ bị làm cho sứt mẻ", theo tác giả.

"Dù sao đi nữa, đó cũng là một đảng được hình thành từ công cuộc chống ngoại xâm".

Dân mạng Trung Quốc giận dữ

"Ngay cả bên trong Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có một bộ phận đông đảo thân Trung Quốc "

Tạp chí The Economist

Quyết định di chuyển giàn khoan của Bắc Kinh đã khiến cư dân mạng Trung Quốc phản ứng giận dữ và cho rằng điều này là do áp lực từ Hoa Kỳ, tờ Washington Post trong bài ngày 16/7 cho biết.

Một người được Washington Post dẫn lời nói quyết định này là "đáng xấu hổ", trong khi một người khác nói Bộ Ngoại giao Trung Quốc yếu ớt như loài 'sứa biển'.

"Hay là chuyển văn phòng của Obama sang Trung Quốc?", một người khác đặt câu hỏi.

"Có khi như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc chấp nhận đề nghị của ông ta".

Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc khẳng định rằng quyết định di chuyển giàn khoan hoàn toàn là "mang tính thương mại" chứ không phải do áp lực từ bên ngoài.

Tân Hoa Xã hôm 16/7 dẫn thông cáo từ Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung Quốc (CNPC) cho biết nguyên nhân di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 là do mùa bão sắp bắt đầu.

Quyết định này được Bắc Kinh đưa ra chỉ chưa đầy một tuần sau khi Ngoại trưởng Mỹ John Kerry đến Bắc Kinh dự Đối thoại Chiến lược và Kinh tế (S&ED), nơi mà căng thẳng trên Biển Đông được cho là đã nằm cao trong nghị trình.

Tuy nhiên, trong bài viết trên The Diplotmat, tác giả Shannon Tiezzi cho rằng "sau hàng tháng trời bị chỉ trích, bao gồm cả những bài phát biểu nóng bỏng ở Đối thoại Shangri-La, Bắc Kinh vẫn không có chút dao động nào trong sự tính toán của mình, vì vậy khó có khả năng S&ED đã trở thành nơi quay đầu của họ".

User avatar
VuPhong
Posts: 2923
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Trung cộng rút giàn khoan: Việt Nam trúng mánh?

Phạm Trần


Image

Biếm họa Trường Lâm
- Bão Thần Sấm (Rammasun) ập vào Biển Đông ngày 15/07 (2014) với sức gió từ 135 đến 150 cây số một giờ hoặc mạnh hơn theo thời gian đã buộc Trung Cộng phải rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng tranh chấp với Việt Nam ở Biển Đông, nhưng không bảo đảm Trung Cộng sẽ không trở lại với nhiều gìan khoan khác khi bão đi qua.


Tân Hoa xã (Xinhua) của Trung Cộng loan báo lúc rạng sáng ngày 15/7 (giờ địa phương) rằng: “Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc cho biết, hoạt động tác nghiệp khoan thăm dò Dự án phía namđảoTrung Kiến (Việt Nam gọi là Tri Tôn) ngày 15/7 đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ theo kếhoạch, đồng thời phát hiện hiển thị dầu khí. Theo quy trình thăm dò và khai thác dầu khí biển sâu, bước tiếp theo sẽ triển khai đánh giá tổng hợp tầng dầu khí đối với tư liệu địa chất và dữ liệu phântích thu được trong hoạt động tác nghiệp khoan thăm dò lần này, đồng thời nghiên cứu xây dựngphương án công tác giai đoạn tới trên cơ sở này.”


Bản tin viết thêm: “Ngày 2/5 năm nay, Tập đoàn Dầu khí Trung Quốc khởi động tác nghiệp khoan thăm dò hai giếng thuộc Dự án phía nam đảo Trung Kiến, ngày 27/5 hoàn thành tác nghiệp khoan thăm dò giếng số 1 phía nam đảo Trung Kiến, ngày 28/5 bắt đầu thực hiện tác nghiệp khoan thămdò giếng số 2 và hoàn thành vào ngày 15/7.”

Qua ngày 16/7 (2014), người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Cộng Hồng Lỗi cho biết: “Giàn khoan Hải Dương 981 theo kế hoạch chuyển về dự án Lăng Thuỷ ở đảo Hải Nam tiếp tục tácnghiệp, chuyển giàn khoan là sắp xếp kế hoạch tác nghiệp trên biển của doanh nghiệp hữu quan, không liên quan với bất cứ nhân tố bên ngoài nào.”


Hồng Lỗi nói như thế để phủ nhận những bàn tán trong dư luận cho rằng cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Nhà nước Trung Cộng Tập Cận Bình và Hội nghị 2 ngày tại Bắc Kinh về Chiến lược và quan hệ Kinh tế giữa hai nước Mỹ-Trung đã ảnh hưởng đến quyết định rút gìankhoan của Bắc Kinh.


Tân Hoa Xã nhấn mạnh: “Ông Hồng Lỗi cho biết, điều cần nhấn mạnh là, tác nghiệp kể trên hoàntoàn là công việc trong phạm vi chủ quyền Trung Quốc. Bước tới doanh nghiệp hữu quan sẽnghiên cứu ấn định phương án làm việc cụ thể giai đoạn tới trên cơ sở nghiêm chỉnh phân tích vàđánh giá tư liệu địa chất đã giành được trong tác nghiệp lần này.”


Thêm một lần nữa, Đài Phát thanh Quốc tế Trung Hoa (CRI,China Radio International) còn tái khẳng định chủ quyền của Trung Cộng ở Biển Đông: “Trả lời phỏng vấn phóng viên về hoàn thànhtác nghiệp Dự án phía nam đảo Trung Kiến, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗicho biết, quần đảo Tây Sa là lãnh thổ vốn có của Trung Quốc, doanh nghiệp Trung Quốc tácnghiệp tại vùng biển gần Tây Sa (Hòang Sa) không hề có tranh chấp hoàn toàn là công việc trongphạm vi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền quản lý của Trung Quốc. Trung Quốc kiên quyếtphản đối Việt Nam quấy nhiễu một cách vô lý hoạt động tác nghiệp của doanh nghiệp Trung Quốc,đồng thời đã áp dụng biện pháp cần thiết đảm bảo an toàn cho hoạt động tác nghiệp.”


Thái độ của Hồng Lỗi không có gì mới mà chỉ lập lại lập trường đã bị Việt Nam bác bỏ nhiều lần đối với chủ quyền mà V iệt Nam nói “không chứng minh được” của Trung Cộng ở quần đảo Hòang Sa.

Tuy vậy, nhà nước Cộng sản Việt Nam đã đón nhận tin rút giàn khoan của Trung Cộng với thái độ“có tính toán” vừa để làm yên lòng dân trong nước, nhưng đồng thời cũng “muốn tỏ thiện chí hòa bình, hữu hảo” không tránh được với láng giếng Trung Cộng.

Theo tin chính thức, tại phiên họp của Chính phủ sáng 16/07 (2014), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã: “Khẳng định Việt Nam luôn kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng của Tổ quốc bằng sức mạnh tổng hợp và các biện pháp phù hợp với luật pháp quốc tế”, đồng thời “yêu cầu Trung Quốc không tái diễn hành vi hạ đặt trái phép giàn khoan cũng như các hành vi vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trên vùng biển của Việt Nam.”

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cũng nói thêm: “Nhằm tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định ở Biển Đông, Việt Nam yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan Hải Dương-981 quay trở lại hoặc đưa bất cứ giàn khoan nào khác vào hoạt động ở khu vực lô dầu khí 143 của Việt Nam hoặc bất kỳ khu vực nào khác thuộc vùng biển của Việt Nam được quy định bởi Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa Việt Nam.”

Ông Dũng còn được Bản tin của Chính phủ trích dẫn đã nói với Trung Cộng rằng: “Việt Nam luôn đặc biệt coi trọng quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp với Trung Quốc trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi và cùng phát triển. Với tinh thần đó, Việt Nam sẵn sàng cùng Trung Quốc và các bên liên quan đàm phán hòa bình, giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông theo luật pháp quốc tế.”

Và người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình cũng nói thêm: “Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.”

Sự thể cả Thủ tướng lẫn Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao cùng lên tiếng song song về vấn đề tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông chứng tỏ phía nước nhỏ Việt Nam muốn nói chuyện giải quyết tranh chấp lãnh thổ với anh hàng xóm khổng lồ Trung Cộng để ngăn chận Bắc Kinh không gây khó khăn thêm cho Việt Nam bằng cách tiếp tục đặt các giàn khoan tìm kiếm dầu trên vùng biển mà Việt Nam nhận là của mình.

Tuy nhiên, qua lời nói của Phát ngôn viên Trung Cộng Hồng Lỗi trong hai ngày 15 và 16/07 (2014) thì không có dấu hiệu gì cho thấy đề nghị của Việt Nam có thể được Trung Cộng cứu xét.

Cần cảnh giác cao độ

Vì vậy mà một số Tướng lãnh của Việt Nam đã mau chóng cảnh giác phải đề phòng chiến thuật “lùi một tiến hai, ba bước” của Trung Cộng.

Chuẩn đô đốc, Thiếu tướng Lê Kế Lâm – nguyên Giám đốc Học viện Hải quân Việt Nam nói: “Đây không phải là cuộc đấu tranh cuối cùng. Bởi thế chúng ta phải hết sức cảnh giác và theo dõi sát sao, đặc biệt đối với chiến sỹ và ngư dân đang ngày đêm bám biển.”

“Lý giải cho điều này, Thiếu tướng Lê Kế Lâm dẫn chứng năm 2012, Trung Quốc cũng nhân cơn bãoGutchol để rút tàu khỏi bãi cạn Scarborough của Philippines và sau đó quay lại, mở rộng phạm vi chiếm cứ.” (PetroTimes, 16/07/2014)

Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh quân khu IV, nguyên Đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX, X biểu: “Trung Quốc xưa nay rất mưu mô. Đừng thấy họ di chuyển giàn khoan mà vội vui mừng, đừng ảo tưởng rằng Trung Quốc thôi thực hiện mưu đồ chiếm biển Đông”.

Ông nói: “Đây chỉ là việc làm nhằm xoa dịu dư luận trước sự đấu tranh của Việt Nam và dư luận thế giới phản đối việc xâm phạm vùng biển của nước ta…việc di chuyển giàn khoan Hải Dương 981 về Hải Nam hay đi đâu nữa thì ý đồ xuyên suốt của Trung Quốc là làm chủ, bá quyền ở khu vực biển Hoàng Sa rồi Trường Sa và eo biển Malacca, thực hiện trọn vẹn mưu đồ của cái gọi là đường 9 đoạn, nay là 10 đoạn.” (Theo báo Một Thế Giới, 16/07/2014)

Trong khi đó, Thiếu tướng, PGS.TS Lê Văn Cương – nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược Bộ Công an nói với phóng viên VTC News rằng: “Giàn khoan Hải Dương 981 có thể chịu được bão mạnh cấp 14, cấp 15 và động đất mạnh tới 8 độ richter. Bởi vậy, việc Trung Quốc rút giàn khoan này hoàn toàn không phải là để tránh cơn bão Rammasun. Trung Quốc cũng không rút giàn khoan do tác động bởi Nghị quyết 412 của Thượng viện Mỹ.” (đòi Trung Cộng rút giàn khoan)

Trả lời câu hỏi: “Nghĩa là việc đưa giàn khoan ra khỏi khu vực hạ đặt trái phép đã nằm trong lộ trình rồi, thưa ông?

Tướng Lê Văn Cương đáp: “Đúng thế. Không phải vì sức ép của Việt Nam và thế giới mà Trung Quốc rút giàn khoan về nước. Việc Trung Quốc rút giàn khoan chỉ là họ thay đổi chiến thuật, thay đổi một phương thức hành động khác để đạt được mục đích của họ.

Trung Quốc chưa bao giờ từ bỏ ý định độc chiếm biển Đông. Mọi hành động, bước trước, bước sau đều được họ tính toán và lên kế hoạch từ trước.

Sau giai đoạn này, Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động còn nguy hiểm hơn để chiếm vùng biển nước ta. Cụ thể, Trung Quốc sẽ quay trở lại vùng biển này, nhưng có thể không phải với giàn khoan Hải Dương 981 mà với các giàn khoan nhỏ khác và hàng trăm tàu đánh cá.

Trung Quốc rút giàn khoan này ra khỏi vùng biển nước ta thực chất chỉ là việc kết thúc bước chạy rốt đa (chạy thử), kết thúc một khúc nhạc dạo đầu. Sau khi rút giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc mới thực sự thực hiện ý đồ chiếm vùng biển nước ta.”

- Có liên quan gì đến hoạt động xây dựng trên một số đảo ở quần đảo Trường Sa của ta mà họ đã dùng vũ lực chiếm đóng?

Cũng trong cuộc phỏng vấn của TVC News, Tướng Cương còn tiết lộ: “Hiện Trung Quốc sắp hoàn thiện việc xây dựng đảo Gạc Ma và đã lên kế hoạch xây dựng thêm đảo Chữ Thập.

Theo kế hoạch của Trung Quốc, họ sẽ thực hiện việc bơm cát và xây dựng đảo Chữ Thập trong vòng 2 năm sắp tới. Sau khi hoàn thành, Trung Quốc sẽ đưa tới đây vài chục thanh niên nam nữ như một xóm chài, có nhà trẻ, có trạm y tế, có sân bay bến cảng.”

Hỏi:- Rồi tiếp đó họ sẽ làm gì nữa, thưa Thiếu tướng?

Đáp: “Căn cứ quân sự của Mỹ ở Ấn Độ Dương có cả tàu sân bay, tàu ngầm, tàu chiến. Một hạm đội của Mỹ luôn thường trực tại đây. Theo kế hoạch của Trung Quốc thì họ sẽ xây dựng đảo Chữ Thập lớn gấp 4 lần căn cứ quân sự của Mỹ ở Ấn Độ Dương.

Sau khi hoàn thành đảo Chữ Thập, cùng với đảo Gạc Ma, Trung Quốc sẽ thiết lập vùng nhận dạng phòng không. Nếu điều này xảy ra, vùng biển Đông sẽ bị Trung Quốc kiểm soát hoàn toàn.

Việt Nam và các nước trong khu vực đang đứng trước một cuộc đấu tranh nhiều thử thách, nguy hiểm hơn với ý đồ thôn tính biển Đông của Trung Quốc.

Cho nên, có thể khẳng định, việc Trung Quốc đang dịch chuyển giàn khoan Hải Dương 981 về vùng biển của họ không phải là dấu hiệu đáng mừng. Một cuộc đấu tranh thử thách hơn, nguy hiểm hơn đang đợi chúng ta ở phía trước. Quan hệ Việt – Trung sẽ còn phức tạp hơn trong thời gian tới.”

Ngoài ra Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Vũ Văn Tám cũng đã phản ứng về việc Trung Cộng rút giàn khoan 981: “Tôi nghĩ đây là kết quả của quá trình đấu tranh của ngư dân, của toàn dân tộc Việt Nam cùng với tác động của dư luận và bạn bè yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Đây là điều đáng mừng, tuy nhiên chúng ta vẫn phải cảnh giác và tiếp tục đối phó với các hành động mới của Trung Quốc, vì chúng ta biết âm mưu của Trung Quốc là độc chiếm biển Đông. Chúng ta phải kiên quyết thực hiện mọi biện pháp để đảm bảo chủ quyền biển đảo của Tổ quốc” (báo Dân Trí, 16/07/2014)

Nhận hão – Ăn ảo

Tuy vậy đó đây trong hàng ngũ các viên chức CSVN, vẫn có những tiếng nói lạc quan tếu, vội vàng và chủ quan coi chuyện rút giàn khoan của Trung Cộng là một thắng lợi đáng mừng nên đã đoán ẩu để nhận vơ.

Chẳng hạn như Thiếu tướng Lê Mã Lương cho rằng: “Việc Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương 981 ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam trước dự kiến cho thấy sự sai lầm về chiến lược của họ. Điều thế giới dễ nhận ra nhất đó là sự thất bại của Trung Quốc với mưu đồ trở thành Đế quốc biển.” (Báo Petro Times (Năng Lượng Mới), 15/07/2014)

Ông Lương, nguyên Giám đốc Bảo tàng lịch sử quân sự Việt Nam trả lời Petro Times trước khi có tin giàn khoan Hải Dương 981 di chuyển nên đã nói: “Nếu Trung Quốc rút giàn khoan trước thời gian mà họ đã ngang ngược tuyên bố là 15/8 thì đó không phải là vì cơn bão. Bởi lẽ giàn khoan này đã được thiết kế để chịu đựng “siêu bão”. Cho nên cơn bão chỉ là cái cớ để họ nói với thiên hạ.

Đây là sự thành công về cuộc chiến về pháp lý, về ngoại giao của Nhà nước và Nhân dân Việt Nam.”

Nhận định của Tướng Lê Mã Lương hoàn toàn ngược với khẳng định của Thiếu tướng, PGS.TS Lê Văn Cương đã dẫn chứng ở trên nói rằng: “Không phải vì sức ép của Việt Nam và thế giới mà Trung Quốc rút giàn khoan về nước.”

Tiếp theo là quan điểm của ông Hà Lê, Phó Cục trưởng Cục Kiểm ngư, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT)

Ông Hà Lê nói với nhiều báo trong nước ngày 16/07 (2014): “Thời gian gần đây, phía Trung Quốc khá bị động. Họ vừa phải đối phó với những phương án đấu tranh của ta trên thực địa khu vực đặt trái phép giàn khoan, vừa lo chống lại với sự phản đối trong dư luận thế giới. Sự bị động của Trung Quốc thể hiện ở chỗ, họ treo băng rôn tiếng Việt kêu gọi hòa bình, hữu nghị; họ thay đổi phương thức cản phá lực lượng chấp pháp của Việt Nam.”

Băng rôn mà ông Hà Lê nói đến xảy ra vào ngày 10/07 (2014) được treo bên hông tầu 2506 của Trung Cộng có dòng chữ: TQ - VN hữu nghị chung sống hòa bình với nhau.

Nhưng cũng chính chiếc tầu này đã săn đuổi gay gắt các tầu Cảnh sát biển của Việt Nam nên nói là “bị động” thì có chủ quan không?

Ông Hà Lê còn đánh giá: “Trung Quốc chẳng qua chỉ đang mượn cớ để rút giàn khoan khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Cơn bão Rammansun (cơn bão lớn đang đổ bộ vàoPhilippines) như vô tình trở thành cơ hội để Trung Quốc rút giàn khoan về.”

Trung cộng được gì?


Dù có lạc quan hay bi quan thì Việt Nam cũng đã bị Trung Cộng kiềm chế không cho lợi dụng vụ gìankhoan để tiến lên trước mặt Bắc Kinh trong cuộc chiến tranh chấp ở Biển Đông.

Vậy “chiến lược biển” tiếp theo của Trung Cộng sau vụ giàn khoan Hải Dương 981 là gì? Thời gian sẽ chứng minh câu nói “bằng mọi cách phải bảo vệ chủ quyền biển là quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc” của lãnh tụ Tập Cận Bình, nhưng rõ ràng trong vụ rút giàn khoan 981 Trung Cộng đã chủ động “xì hơi bóng căng” để hóa giải những chỉ trích làm căng thẳng tình trạng lưu thông hàng hải trên Biển Đông.

Thứ hai, quan trọng hơn, là Bắc Kinh đã “phá vỡ được kế họach đe kiện Trung Cộng” ra tòa án Quốc tế của Việt Nam, đồng thời ngăn chận toan tính liên minh giữa Việt Nam với các cường quốc, tiêu biểu là Mỹ và Nhật, để chống lại Trung Cộng.

Như vậy, cuối cùng Việt Nam lại phải quay về vị trí của một nước nhỏ và tiếp tục cô đơn trong cuộc tranh chấp trường kỳ về chủ quyền lãnh thổ và tài nguyên ở Biển Đông với Trung Cộng.

Cũng nhân vụ giàn khoan hải Dương 981 rút lui thì ở Việt Nam đã có hiện tượng “ăn mừng tự sướng” của “một bộ phận truyền thông”, theo lời cảnh giác của mạng báo “Nguyễn Tấn Dũng”.

Tuy chưa bao giờ được coi là “tiếng nói chính thức của Thủ tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng” nhưng Báo điện tử này vẫn thường xuyên thông tin về các hoạt động của ông Dũng và quyết định của Chính phủ. Ông Dũng cũng chưa bao giờ cho lệnh triệt phá báo mạng này.

Trong tiết mục “Chủ quyền Biển Đông”, báo này viết vào ngày 16/07 (2014): “Rút giàn khoan không phải vì sợ VN, cũng không phải vì sự lên tiếng của Mỹ mà là theo kế hoạch được tính toán bài bản, lúc này TQ phải rút và lý do thời tiết chỉ là cái cớ, mượn thời cơ – điều này có đáng để một số người dân VN ăn mừng?

Ăn mừng sự kiện rút giàn khoan mà nguyên nhân rút không phải vì sợ VN, mà việc rút giàn khoan của Trung Quốc là có sự tính toán kỹ càng cho lợi ích của Trung Quốc, đồng thời không có cam kết nào đảm bảo rằng TQ sẽ không quay lại chiếm Biển Đông của VN, thì việc ăn mừng lúc này không khác nào thể hiện sự khờ dại, tự tưởng thưởng của một bộ phận truyền thông VN!”

Bài báo hỏi: “Nếu như ngày mai, ngày mốt TQ lại quay lại vùng biển của chúng ta, chúng ta sẽ làm thế nào đuổi TQ ra khỏi lãnh thổ của mình đây? Liệu trước khi ăn mừng, có ai đặt ra câu hỏi này hay không?

Ngôi nhà xây trên cát thì chắc chắn chỉ cần một cơn gió, trận mưa rào đi qua thì công trình cát sẽ trôi sạch. Điều đó cho thấy, nếu như nền tảng không bền vững, nhìn nhận vấn đề không sâu, không tường tận thì chẳng có việc gì được giải quyết triệt để.

Tương tự như vậy, việc ăn mừng giàn khoan rút vì bão thì thật là chưa hiểu thấu bản chất vấn đề!”

Báo mạng “Nguyễn Tấn Dũng” viết tiếp: “TQ tự rút về vì nhiều lý do chiến lược, không chỉ để tránh cơn bão sắp đi qua mà TQ đang có trong tay tài liệu, số liệu về khu vực có thể khai thác dầu khí, đặc biệt là động thái này diễn ra sau cuộc đối thoại Mỹ -Trung, hẳn những thứ đó là nguyên nhân TQ rút giàn khoan và là điều có lợi cho TQ lúc này, vậy mà một số người dân VN đi ăn mừng? Ăn mừng theo kiểu cầu nguyện bão lớn xuất hiện đã hiển linh thì có thể giải quyết được vấn đề nan giải hiện nay hay không?

Cần giải quyết vấn đề từ cái gốc chứ không phải từ cái bóng của nó và cốt yếu là phải làm thế nào để bảo vệ vững chắc lãnh thổ của VN và buộc TQ từ bỏ vĩnh viễn tham vọng bành trướng, gom Biển Đông thành ao nhà mới là quan trọng.

Việc làm trong lúc này thiết nghĩ không phải là ăn mừng trên sức mạnh tưởng tượng mà hãy dồn sức tìm xem bằng cách nào không để giàn khoan TQ tiến vào vùng đặc quyền kinh tế, vùng biển của chúng ta nữa!”

Nhưng ai đã ăn mừng và có một “bộ phận Lãnh đạo” nào đã “tát nước theo mưa” để “ăn mừng” không mà mạng báo này đã cảnh giác: “Chúng ta phải suy nghĩ đến các biện pháp bảo vệ vững chắc đất nước mình, bằng tài năng thật sự, bằng những biện pháp cứng rắn chứ không phải theo kiểu “cầu may”, dựa vào thời tiết như giàn khoan vừa rút?!

Như vậy phải chăng chủ trương đối phó với Trung Cộng ở Biển Đông của Đảng và Nhà nước Việt Nam từ xưa đến nay, nhất là trong thời gian 75 ngày có mặt của giàn khoan 981, hãy còn “mềm xèo”, “nói nhiều làm ít” và chỉ biết “cầu âu” cho nên may mà phen này đã “trúng mánh” nhờ có vụ Trung Cộng rút giàn khoan tránh bão?

(07/2014)

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

CHUYỆN VỀ NHỮNG CÁI LỖ

Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất
Cô gái điếm có cái lỗ trôn. Ông thầy đồ có cái lỗ miệng. Cả hai đều dùng cái lỗ của mình để buôn bán nuôi thân, đồng thời làm trách nhiệm công dân đối với đất nước lúc này là chống cộng. Cô gái bán trôn. Bán trôn xong rồi, cô cầm tấm bảng carton có viết chữ đi rao hàng: “bán trôn, không bán nước”. Một mình cô trình diễn ngoài đường phố kẻ đi người lại tấp nập để tranh thương với nghề bán nước (lại cũng bán) của VGCS. Ông thầy bán nước bọt. Ông không làm “tiếp thị” ngoài đường phố như cô gái, mà giao dịch toàn với các đại gia, dân làm ăn lớn tại các hội nghị, hội thảo quốc gia trong các phòng ốc sang trọng. Ông thầu được món hàng “Việt Nam Học” của VGCS, đem vào bán cho học trò trong các đại học Mỹ. Có người bảo ông là cộng sản? Không, ông cũng chống cộng. Ông tuyên bố ông lo lắng cho cộng đồng bị ngôn ngữ và văn hóa cộng sản xâm nhập. Có nghĩa là, ông quốc gia có hạng chẳng thua ai. Ông chứng minh: “Tôi giúp các hội sinh viên Việt Nam hằng năm tổ chức buổi tưởng niệm biến cố đau thương 30 tháng 4, tổ chức “Đêm Văn Hoá”, hát quốc ca VNCH trong lễ ra trường của sinh viên v.v.”

Mấy chuyện này chẳng phải bần bút phịa ra để tán nhảm, mà là thực tại xẩy ra trong xã hội ta ngày nay, đăng trên internet, mọi người đều thấy cả. Cô gái bán trôn, xin lỗi, bần bút không biết tên. Ông thầy bán chữ quí danh là Quyên-Di. Đứng trên lập trường dân tộc, trong lúc đất nước nghiêng ngả như hiện nay, bạn đọc thử suy nghĩ, cân nhắc, đánh giá, và so sánh cách thức chống cộng bằng cái trôn của cô gái điếm với chống cộng bằng cái miệng của GS Quyên Di, xem cái nào chống cộng có chính nghĩa hơn, cái nào đáng coi trọng hơn? Bần bút chỉ nêu hiện tượng. Kết luận xin tùy ở bạn đọc.

Hai mặt của một vấn đề

Về cô gái bán trôn, cô chẳng ngại giấu diếm mình làm nghề bán trôn, một thân một mình biểu tình bất chấp cường quyền, ra đường công khai lên án bọn VGCS bán nước. Đó là đặc điểm chống cộng của cô gái bán trôn. Ngoài ra chẳng có gì nhiều nữa để nói về cô ngoài cái chuyện chắc chắn là cô vì nghèo đói nên mới phải đem cái ngàn vàng đi rao bán. “Nghề ngỗng ” của cô tuy không được xã hội chấp nhận, nhưng thiết tưởng cô còn hơn hẳn những con đàn bà của những thằng lớn có chức, có quyền, có tiền, có địa vị, “ăn no ấm cật rậm rật tối ngày” không biết làm gì, chạy đôn chạy đáo tìm đĩ đực tặng free cái trôn lại còn phải bù tiền cho đĩ nữa để thỏa mãn cơn rượng đực. Hơn cả lũ cán bộ ra vào luồn cúi, nịnh bợ để ăn cắp, lừa đảo, giựt dọc. Và chắc chắn hơn hẳn cả lũ Bộ Chính chị chính em đem bán mồ mả ông cha, đất đai của tổ tiên cho Tầu khựa để vinh thân phì gia. Cái đáng nói khác nữa là trong lúc quốc gia hữu sự, có biết bao nhiêu sĩ phu, trí thức, đảng viên lão thành trốn tránh trách nhiệm thì một người làm điếm như cô lại ý thức được trách nhiệm của mình, mà là ý thức rất đúng đắn: chỉ bán tạm cái lỗ cắm dùi trên thân thể của mình chứ không bán nước. Và còn cái đáng - rất đáng nói - sau cùng là, cô rao bán trôn công khai ngoài đường, ngoài chợ, giữa thanh thiên bạch nhật chứ không bán lén bán lút như cung cách bọn chó má Bộ Chính Trị đảng VGCS bán giấu bán đút đất nước cho Tầu khựa. Bọn to đầu khốn kiếp nhìn cô gái bán trôn mà không biết hổ thẹn. Bị bà nhà văn Dương Thu Hương ỉa lên đầu mà cũng phải nín thinh. Hèn ơi là hèn. Đã hèn mà còn vô liêm sỉ nữa. Những người có chút liêm sỉ bị chửi bới như thế hẳn phải tự vận từ khuya rồi.

Thấy cô gái chống cộng đơn độc như thế, có người thương cảm mà chẳng ai dám đồng tình, ca ngợi sự can đảm và sáng suốt của cô. Lý do chỉ vì cô là một cô gái bán trôn.


Trong khi cả nước đứng lên chống VGCS bán nước sôi nổi, mà như trình bầy, cô gái làm nghề bán trôn là một điển hình, thì thầy giáo Quyên Di lại đi theo một đường lối khác mà ông cũng cho là chống cộng. Một bản tin trên internet cho biết :

Nhà văn, nhà giáo Quyên Di đang hợp tác với chế độ cộng sản Việt Nam trong các đề án của Khoa Việt Nam Học & Tiếng Việt của đại học Khoa Học và Nhân Văn thuộc viện đại học Hà Nội. Hà Nội cùng với các phần tử thiên tả tại Hoa Kỳ mở các chương trình dạy "Việt Nam Học và Tiếng Việt" cho các sinh viên Việt Nam tại các trường đại học ở Hoa Kỳ. Một trong những người tiếp tay đắc lực là nhà văn Quyên Di.

Và sau đây nữa là trích website của trường ĐH Hà Nội (http://vsl.edu.vn/gs-quyen-di-thuyet-trinh-tai-khoa/59:

Trong chuyến về Hà Nội dự Hội nghị Quốc tế Việt Nam học lần thứ tư, Giáo sư Quyên Di Chúc Bùi (Đại học California Los Angeles và Đại học California State, Long Beach) đã nhận lời thuyết trình tại Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt vào sáng 29/11/2012. Chủ đề của buổi thuyết trình là “Định hướng đào tạo Việt Nam học tại Hoa Kì”. Đây là buổi sinh hoạt khoa học lần thứ hai của Khoa trong năm học 2012-2013. Nhiều cán bộ giáo viên của Khoa, cộng tác viên, và một số giáo viên đã nghỉ hưu và sinh viên quốc tế đã tham dự buổi thuyết trình … Các chương trình trao đổi văn hóa tại University of Washington Seatle, San Jose State University, California Los Angeles, UCLA đang mở các chương trình này. Các giáo sư người Việt là những người tiếp tay. Tại Seattle đã có giáo sư đến từ Hà Nội. Chương trình giảng dạy do Hà Nội cung cấp….

Bị tố cáo hợp tác với chế độ Hànội, nhưng GS Quyên Di phủ nhận. Ông biện lý: “Tôi biết: trong công cuộc bảo vệ lý tưởng quốc gia, bảo vệ cộng đồng khỏi sự xâm nhập của ý thức hệ cộng sản; cũng như trong sứ mệnh giữ gìn sự trong sáng, thanh lịch và chính xác của tiếng Việt, sự đóng góp của tôi rất nhỏ nhoi. Tuy nhiên, tôi làm những việc này với tất cả tâm huyết và sự trân trọng.”

Theo GS Quyên Di, thì vì lo lắng cho cộng đồng bị ngôn ngữ, văn hóa cộng sản xâm nhập, nên ông phải trực diện với CS để có cơ hội và tư thế. Việc này ông biện bạch bằng cách nêu ra các sắc tộc khác cũng đều làm như thế cả. Ông chứng minh rằng năm 2012, đi dự “Hội nghị Quốc tế Việt Nam học” tổ chức ở Hà Nội, ông không đi một mình mà đi cùng với ban giáo sư khoa Ngôn ngữ và Văn Hoá Nam Á của đại học UCLA, trong đó có các giáo sư dạy tiếng Ấn, tiếng Phi, tiếng Indonesia, tiếng Thái. Và ông hãnh diện khoe: “Lần đó, tôi có dịp may trình bày về sự bảo vệ, phát triển ngôn ngữ - văn hoá Việt Nam tại Hoa Kỳ, trong nền giáo dục dòng chính cũng như trong các cộng đồng địa phương. Với những chứng liệu cụ thể, tôi chứng tỏ cho người nghe thấy sức mạnh và quyết tâm của cộng đồng chúng ta trong sứ mệnh này, để họ thấy rằng chuyện họ muốn xâm nhập cộng đồng chúng ta qua con đường ngôn ngữ và văn hoá là bất khả thi.


Cứ cho là GS Quyên Di không “hợp tác” mà chỉ “tham gia” vào việc soạn thảo môn “VN Học” của VGCS và đem vào dậy trong các đại học Mỹ, nhưng ông cũng đã thừa nhận những việc làm của ông sau đây:

- Giúp VGCS tuyển giáo sư từ trong nước qua Mỹ giảng dậy, vì theo ông, “Phải nói là cho đến nay, cộng đồng chúng ta không có nhiều nhân sự đủ tiêu chuẩn để tham gia những cuộc đọ sức này”.

- Soạn thảo chương trình giảng dậy

- Về nước thuyết trình để trao đổi kinh nghiệm.


Mục đích của GS Quyên Di - như ông nói - là để bảo vệ lý tưởng quốc gia, bảo vệ cộng đồng khỏi sự xâm nhập của ý thức hệ CS, giữ gìn sự trong sáng, thanh lịch, và chính xác của tiếng Việt. Không cần phải lý sự dài dòng, cứ tìm vào nội dung của chương trình giảng dậy, và xem kết quả của việc học tập thì thấy được GS Quyên Di nói thiệt hay phóng đại, thành công hay thất bại.


1. Việc bảo vệ lý tưởng QG và cộng đồng - Thực tế cho thấy, VGCS càng ló mòi lưu manh, gian ác, càng lòi cái đuôi bán nước ra bao nhiêu thì lý tưởng QG càng sáng tỏ hơn bấy nhiêu. Khỏi cần ai phải bảo vệ hết. Điều này rõ như ban ngày. Còn việc người ta có theo đuổi lý tưởng QG hay không thì lại là chuyện khác. Việc GS Quyên Di nói rằng ông bảo vệ cộng đồng khỏi sự xâm nhập của CS thì chính ông đã tự mâu thuẫn và huênh hoang quá rồi. Ông tham gia vào công tác tuyển chọn và đưa bọn giáo sư trong nước sang dậy cho con em người tỵ nạn tại các đại học Mỹ thì chuyện này nên giải thích ra sao? Đó có phải là đem CS xâm nhập cộng đồng không?


2. Chương trình giảng dậy - Nguyên cái tên “Việt Nam Học” thôi đã thấy là dao to búa lớn quá rồi, không khỏi có tính cách lòe bịp. Là VN Hoc thì phải nói đến nghiên cứu đủ hết mọi lãnh vực về dân tộc, đất nước, và con người VN, gồm văn minh, văn chương, văn học, phong tục tập quán, lịch sử, nguồn gốc dân tộc vân vân. Nhưng theo GS Quyên Di thì, trong môn VN Học, ông thầy dậy ngôn ngữ và tiếng Việt cho sinh viên ngoại quốc là chính. Trong học trình (syllabus), như GS Quyên Di phổ biến, có đề cập đến nhiều lãnh vực học tập, nhưng thực tế, theo chúng tôi nghĩ, chỉ là ông thầy dậy tiếng Việt cho sinh viên bằng cách giới thiệu những khía cạnh của đời sống VN. Một tuần lễ, môn VN Học có hai ngày lên lớp, thứ hai và thứ Tư. Mỗi ngày lên lớp 1 giờ 15’ (3:30 - 4:45 pm). Như vậy một tuần sinh viên chỉ gặp ông thầy 2 lần trong 2giờ 30 phút, mà học trình lại quá ôm đồm. Xin nêu một thí dụ:


Week 2: (tuần lễ thứ 2 của niên học)


* Vietnamese Philosophy (triết lý Việt Nam)

- Agriculture philosophy (Triết Lý Nông Nghiệp)

- Yin and Yang philosophy (Triết Lý Âm Dương)

- Three ranks: Heaven-Earth-Man philosophy (Triết Lý Tam Tài:Thiên-Ðịa- Nhân)

- Five elements (i.e. Metal, Wood, Water, Fire and Earth) philosophy (Triết Lý

Ngũ Hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)

- The Vietnamese Bronze Drum Culture (Văn Minh Trống Ðồng)

* The Traditional Vietnamese Belief Systems (truyền thống tín ngưỡng

của người VN)

* Perception of Self and Nature (nhận thức về con người và về thiên nhiên)

* Religions, beliefs, and rituals (tôn giáo, tín ngưỡng, và các lễ nghi)

* Holidays and celebrations (Các ngày lễ và những lễ hội)

* Traditional Vietnamese Cultural Characteristics (các đặc tính văn hóa

truyền thống của người VN)

- the Most High worshiping (đạo thờ Trời)

- heroes and ancestors worshiping (thờ cúng tổ tiên và các anh hùng dân tộc)

- spirit of gratitude (lòng biết ơn)

* Assigning INDEPENDENT PROJECT (đề án cá nhân của sinh viên)


Xin hỏi, có 2 giờ 30 phút đồng hồ mà bằng đấy môn học bao la như biển cả, rậm rạp như một khu rừng, ông thầy dậy được cái gì? Và học trò học được cái gì?


3. Kết quả học tập - Chúng tôi không đưa ra những bằng chứng khảo sát. Trong sự hiểu biết thô thiển và giới hạn của mình, chúng tôi chỉ nêu ra một vài bằng chứng quan sát để nói lên rằng những nỗ lực của GS Quyên Di - có thể ngay tình nhưng chủ quan và nông cạn - đã và đang gặp thất bại. Nghĩa là, ông đã không giữ được sự trong sáng, thanh lịch, và chính xác của tiếng Việt như ông nói, mà trái lại, còn làm cho ngôn ngữ VN dần dần biến thái một cách lố bịch.


Đọc trên báo chí và trên internet hiện nay tại hải ngoại, những người yêu mến tiếng Việt không khỏi bàng hoàng khi thấy người tỵ nạn viết cho người tỵ nạn đọc những câu văn ngớ ngẩn, những từ ngữ thô kệch và vô nghĩa. Nói chung văn phong rất Việt cộng, thí dụ như: “các chiến sĩ công an đang tác nghiệp …”, hoặc: “chính quyền Saigon ra lệnh …”. Văn phong miền Nam phải là: “bọn công an đang làm phận sự …”, hay: “Chính Phủ VNCH ra lệnh …”. Khẳng định rằng chỉ có bọn văn nô trong nước mới viết như thế. Người miền Nam và dân tỵ nạn tuyệt đối không. Tình trạng viết lách này tại hải ngoại chắc chắn xuất phát từ bọn cán bộ VGCS đang làm việc tại đây, hoặc con em tỵ nạn xuất thân từ các lớp Việt ngữ do bọn cán bộ văn hóa sang dậy trong các đại học Mỹ. Trách nhiệm này thuộc về ai? GD Quyên Di có nhìn thấy tình trạng này không, và có nên gánh lấy một phần trách nhiệm, vì chính ông đã đem bọn VGCS vào dậy Việt ngữ và văn minh, văn hoá VN … trong đại học Mỹ.


Một nhà giáo chống cộng trật chìa như thế nhưng lại được dư luận đồng cảm và bênh vực: “Tôi nghĩ là có được một địa vị như ông (GS Quyên Di) thì cần gì phải đính chính với những người chưa có tầm nhìn chiến lược và quy mô…… hơi đâu để tâm mà cố làm được gì có ích và qua lý trí của mình. Quan nhất thời dân vạn đợi chúng ta nên tỉnh thức”.

Đâu là tầm nhìn chiến lược và quy mô của GS Quyên Di, xin chỉ ra?


Sự thật mất lòng


Những việc làm của GS Quyên Di về Hànội thuyết trình, tham gia soạn thảo chương trình giảng dậy về môn VN Học với VGCS, đem nó vào đại học Hoa Kỳ, tuyển chọn giáo sư từ trong nước ra giảng dậy về môn này là đã rõ ràng. Ông không phủ nhận, mà chỉ biện bạch và chống chế. So với cô gái bán trôn, ông tỏ ra vừa thiếu can đảm, vừa kém trí tuệ. Ông không nhận thức được VGCS là một lũ bán nước. Là một giáo sư đại học, ông thừa biết rằng bán nước là một trọng tội đối với đất nước, hợp tác với bọn bán nước là tòng phạm với chúng. Ông cũng không dám công khai tố cáo tội ác lại còn cộng tác với lũ tội phạm, cho dù ông cộng tác trong lãnh vực văn hóa. Về lãnh vực này, GS Quyên Di không thế nào không biết cái NQ 36 của VGCS. Chúng chi ra hàng tỉ dollars để thực hiện nghi quyết này. Hai lãnh vực NQ 36 xâm nhập cụ thể và thành công nhất là văn hóa và văn nghệ. Ngày trước ca sĩ hải ngoại không dám về nước để hát xướng. Nay hầu như ca sĩ hải ngoại không đứa nào không về hát hò để kiếm tiền. Ngày trước ca sĩ trong nước ra hải ngoại hát bị biểu tình chống đối. Bây giờ chúng ra hải ngoại hát thoải mái. vấn đề biểu tình hầu như không còn nữa. Đó là sự thành công không thể phủ nhận được của NQ36, mặc dầu nói ra thì đau lòng, nhưng đó là sự thực.

Về văn hóa cũng thế, lãnh vực xâm nhập này của NQ36 tuy không ồn ào, nhưng không phải là không có kết quả. Nhiều lớp dậy Việt Ngữ cho con em người tỵ nạn đang sử dụng tài liệu giảng dậy của VGCS. Nhiều đại học dậy môn “Việt Nam Học” như GS Quyên Di xác nhận. Chương trình và nội dung của môn học này sản xuất từ trong nước, do giáo sư trong nước ra giảng dậy. Tiếp vào sự xâm nhập văn hóa nàylà chuyện không ít nhà thơ, nhà văn hải ngoại đem sách về in và phổ biến trong nước. Ngược lại, sách của bọn văn nô trong nước được bọn trí thức ngựa hải ngoại in, ca tụng, và quảng cáo không thiếu gì… Đó cũng phải là một thành công đáng kể của NQ36.

Cần đặt ra vấn đề như thế này là, nếu GS Quyên Di [và một số khoa bảng khác nữa] không hợp tác với VGCS đem môn VN Học vào các đại học Mỹ để dậy cho con em chúng ta, không hợp tác soạn thảo chương trình giảng dậy, trái lại, còn ngăn cản các đại học Mỹ mướn thầy dậy tiếng Việt từ trong nước, vận động giới đại học chặn đứng sự xâm nhập của cái môn học tào lao này, chận đứng các thứ văn hóa phẩm tuyên truyền của VGCS v.v., thì liệu cái NQ 36 nó có thể thành công được không? Rất tiếc là GS Quyên Di đã hành động ngược lại với đường lối hợp lý mà đáng lẽ ông nên làm để ngăn chận NQ36. Đó là cần phải vận động để ngăn chặn sự xâm nhập của NQ 36, thì trái lại, ông đã cộng tác với VGCS để thi hành cái NQ đó. Rất đáng nghi ngờ về sự khôn ngoan, sáng suốt của nhiều giới trí thức ngày nay. Sáng suốt nhưng lại u mê, thiển cận. Sự khôn ngoan lại chính là tinh thần nô lệ từ ngàn xưa, nó bắt rễ sâu xa trong xã hội, mà người ta gọi là tinh thần “trọng sĩ”. Giới “SĨ” của ta rất tự hào về điều này. Tinh thần yêu nước của cô gái bán trôn không được coi trọng cũng vì cô không mang chữ “Sĩ” hay chữ “Sư” trên mình. Xã hội VN còn mang nặng thiên kiến rõ rệt: kẻ bị coi là hạ cấp thì dù có làm hay mấy cũng vẫn bị cho là chẳng ra gì. Người có học làm sai cũng vẫn được coi trọng.

Chẳng dám “mèo khen mèo dài đuôi” - bởi vì bần bút cũng là người Việt Nam - nhưng nói về đạo đức, lễ giáo thì người Việt Nam mình phải nói là có thừa. Do đó mà có bao giờ người ta thấy người việt mình khen việc làm của giới gái điếm bao giờ đâu, và cũng chẳng bao giờ thấy ai dám chê bai công việc của một nhà mô phạm? Cô Tư Hồng chở gạo đi cứu đói còn bị dè bỉu. Chuyện Kiều tuyệt tác đến thế mà vẫn cứ bị chê là dâm thư không đáng đọc. Chỉ vì cái lý do cô Tư Hồng và nàng Kiều là những người làm nghề bán trôn.

Còn về học thuật thì như Khổng Phu Tử chẳng hạn, một ông Ba Tầu nhưng được dân ta tôn thờ như thánh. Thờ Khổng đã vậy, lại còn thờ cả Quan Công, Trưong Phi mới là dị hợm! Cái gì “Tử viết” cũng đều là khuôn vàng thước ngọc cả. Chẳng mấy người thấy rằng cái chế độ Tầu cộng đến hồi sắp sụp đổ thì bọn đầu sỏ Trung Nam Hải bèn phải vực Khổng Tử dậy để chống đỡ cho cái chế độ mục rữa của chúng. Xưa kia Tầu cộng vùi dập ông thánh Khổng bao nhiều thì ngày nay chúng lại tôn thờ ổng bấy nhiêu. Để làm gì? Thưa là để muợn cái đạo lý của ông “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung” để giữ vững ngai vàng cho chúng. Quân (vua) là đảng. Thần là dân bị trị. Dân phải trung với đảng, bất trung với đảng thì đương nhiên chết là phải. Đó là đạo đức thánh hiền, thứ đạo đức trọng sĩ, kỵ nông, sợ cường quyền.


Học viện Khổng Tử ở Hànội nghe đâu được xây bề thế lắm. Mà Khổng Phu Tử là ai? Ông ta là một quan lại nước Lỗ. Làm quan chán rồi về dậy học, viết sách. Trong sách Luận Ngừ, Khổng Tử thú nhận, ông chẳng có tư tưởng gì, chỉ là sưu tầm, cóp nhặt, và sao chép lại của thiên hạ. Phải thừa nhận ông có công sưu tầm. Những cái hay, cái đẹp của dân phương Nam, Khổng Tử lượm về recycle thành kinh, thành sách, dậy lại cho Lạc Việt. Kẻ sĩ Lạc Việt lại cứ tưởng đấy là “thánh kinh” người Tầu đem giáo hóa mình, và cúc cung xưng tụng ngài Khổng là “Vạn thế Sư Biểu”, chỉ vì ngài Ba Tầu này là “SƯ”, một ông thầy đồ tiêu biểu.

Trên đất nước ta ngày trước, một anh Ba Tầu mua ve chai, đồng nát về bán lại cho nhà máy recycle thành những thứ đồ gia dụng. Những thứ đồ gia dụng này đem bán lại cho người mình xài. Đó mới là chặng một recycle của mấy anh Ba. Chặng thứ hai, chẳng mấy chốc anh Ba ve chai trở nên giầu có, anh mở chành, thu mua lúa thóc của nhà nông, xay thành gạo bán lại cho nông dân. Người dân Việt sống nhờ gạo của Ba Tầu nhưng kỳ thực là gạo của nông dân VN, chứ chẳng phải anh Tầu nào làm ra cả. Khổng Khâu ngày xưa cũng vậy thôi, chỉ có điều cụ Khổng nhà ta, thay vì thu mua ve chai, đồng nát và lúa thóc, ông thu nhặt văn hóa, văn minh của Việt Tộc, tinh chế và san định thành kinh, thành sách dậy lại cho người mình. Hóa ra đạo đức, văn minh, văn hóa là đạo đức, văn minh, và văn hóa Lạc Việt nhưng do Tầu Khổng Khâu recycle. Điều tai hại là nhiều người Việt ngày nay cứ cho người VN mình không có văn minh, văn hóa. Nằng nặc cho rằng văn minh văn hóa VN đều là của Tầu. Từ nô lệ Tầu về văn hóa, ngày nay tiến đến nô lệ về chủ quyền của đất nước chỉ là một bước nhỏ.


Lời kết

Người bình dân ta có câu tục ngữ ý nghĩa rất hàm xúc: “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông, nhì sĩ”. Đói meo, cái thành kiến “nhất sĩ, nhì nông” bị vỡ mộng. Bấy giờ người ta mới mở mắt ra thừa nhận “nhất nông, nhì sĩ”. Lúc này đây, nước nhà sắp mất hẳn bào tay Tầu khựa rồi, không biết người mình có sẵn sàng xoay hướng tư duy, thay đổi câu tục ngữ thành “nhất sư nhì đĩ, gặp cơn quốc sỉ, nhất đĩ nhì sư” để chống xâm lược và diệt Việt gian không?


San Jose 21-7-2014
Duyên-Lãng Hà Tiến Nhất

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

HD-981 đã dời đi nhưng hiểm họa xâm lăng vẫn còn đó!

Bài viết của Lê Nguyên Bình (ĐVDVN)

Giàn khoan HD-981 đã dời đi nhưng trong thực tế chưa có sự bảo đảm nào là chủ quyền lãnh hải Việt Nam đã được trả lại toàn vẹn. Cơn bão Rammasun sẽ qua, và những áp lực ngoại giao của thế giới đối với Trung Cộng sẽ từ từ lắng dịu, nhưng tham vọng bành trướng của nhà cầm quyền Bắc Kinh đối với biển Đông Việt Nam vẫn còn nguyên trạng. Vấn đề của Việt Nam là làm sao để có thể đối phó được mọi hình thức xâm lấn khác nhau trong thời gian tới, kể cả khi các giàn khoan mới sẽ được đưa trở lại Biển Đông.

Giàn khoan của Trung Cộng tạm thời rời khỏi vùng biển Việt Nam không do kết quả của sự "đấu tranh bằng con đường ngoại giao" của nhà nước Việt Nam, mà là từ các áp lực quốc tế xuất phát bởi quyền lợi liên đới trong khu vực biển Đông.

Bên cạnh đó là nhu cầu cân bằng ảnh hưởng và quyền lực của các quốc gia đang đóng vai trò quan trọng trong một chiến lược chung nhằm ngăn chận làn sóng bành trướng nguy hiểm của Trung Cộng ở vùng Đông Nam Á. Cùng lúc, giàn khoan HD-981 đã làm xong nhiệm vụ trắc nghiệm phản ứng của mọi phía liên hệ. Trớ trêu thay điều mà Bắc kinh thấy khá rõ ràng là nhân dân Việt Nam quyết liệt chống đối, chính phủ nhiều nước đồng thanh cảnh cáo họ nhưng nhà nước Việt Nam thì lại rất lúng túng, mâu thuẫn trong những lời tuyên bố cũng như hành động ứng xử. Việt Nam sẽ tiếp tục kiện Trung Cộng đã vi phạm chủ quyền lãnh hải để khẳng định quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, và đòi Bắc kinh phải bồi thường các thiệt hại tài sản mà họ đã gây ra cho nhà nước và ngư dân, hay chỉ được tạm thoát nạn là hài lòng?

Sự ôn hòa, kiên nhẫn của một nhà nước trước tình hình căng thẳng, nguy hiểm là điều cần thiết song ôn hòa không có nghĩa là thiếu dứt khoát với kẻ xâm lăng hung hãn, và càng không thể vì mục đích tránh xung đột với nước đang gây hấn mà đàn áp những công dân yêu nước. Đảng đương quyền quên rằng thiếu sự ủng hộ của đông đảo quần chúng thì bất cứ nhà nước nào cũng không có đủ sức mạnh để khiến cho Bắc kinh phải kiêng dè.

Thật vậy, trở ngại của nước ta không phải là không vận động được một sự hậu thuẫn hiệu quả và lâu dài từ cộng đồng các quốc gia tự do, hay không thành hình được một đường lối bảo toàn chủ quyền một cách hiệu quả. Vấn đề là vì Việt Nam đang ở dưới chế độ độc đảng. Từ đó, sách lược đối phó với vấn đề biển Đông của nhà nước Việt Nam chỉ là đường lối riêng của đảng CSVN, với ưu tiên lớn nhất được dành cho mục đích bảo vệ vận mệnh chính trị của đảng này. Thái độ và hành động đấu tranh bảo toàn chủ quyền đất nước của nhân dân đã bị chính nhà nước Việt Nam ngăn trở. Và vì vậy, trở ngại của vấn đề biển Đông không phải chỉ là làm sao đối phó với Trung Cộng, mà còn là làm sao hóa giải được cản trở lớn nhất từ phía đảng cầm quyền hiện thời.

Sự kiện Trung Cộng tạm rút giàn khoan tạo được sự nhẹ nhỏm nhất thời cho chế độ đương quyền nhưng nỗi lo của nhân dân về hiểm họa Bắc phương xâm lấn vẫn còn nguyên vẹn. Với tình hình này, Bắc Kinh chắc chắn sẽ tìm cơ hội khác để tiếp tục hành động "hợp thức hóa" chủ quyền trên biển Đông. Chiến lược lấn chiếm bằng cách dùng vũ lực đặt thành "sự kiện đã rồi" như họ đã từng làm ở Hoàng sa (1974) và Trường Sa (1988) rất có thể sẽ tiếp tục xảy ra. Thực tế cho thấy dù bị thế giới lên án, chịu nhiều áp lực song Trung Cộng vẫn còn ở thế thượng phong trong thế trận ở biển Đông. Nói cách khác, Bắc kinh vẫn ở thế chủ động trong việc gây biến động và điều hướng tình hình, và nhà cầm quyền CSVN vẫn tiếp tục chống chỏi bằng các hình thức bị động. Cho nên, sự kiện "HD-981" sẽ có thể tái diễn bất cứ lúc nào dưới những tên gọi mới. Cục diện biển Đông sẽ trở lại tình trạng sôi sục đầy đe dọa. Nếu vậy, Việt Nam đã chuẩn bị được gì với chiều hướng nguy hiểm đó?

Trước các nhận thức nêu trên, có phải chăng đây là lúc mà mọi hình thức vận động đấu tranh cần phải tập trung áp lực để buộc đảng CSVN phải trả lại quyền lãnh đạo và bảo vệ đất nước cho toàn dân? Có phải chăng tình trạng độc quyền yêu nước và đàn áp những người chống xâm lăng cần phải được chấm dứt càng sớm càng tốt?

Trong bối cảnh phải đối phó với nạn ngoại xâm, nước ta cần một sự đoàn kết dân tộc, xây dựng một sức mạnh có thể buộc Bắc kinh phải kiêng nễ. Tuy nhiên, sự đoàn kết quốc dân trong thời đại này không thể là củng cố một chế độ độc tài toàn trị. Việt Nam cần chuyển thể để trở thành một cơ chế dân chủ đa đảng pháp quyền. Từ đó, chính phủ dân chủ sẽ có điều kiện huy động được sức mạnh của toàn dân, bao gồm các thành phần xã hội và chính trị.

Hiểm họa ngoại xâm đã đánh thức được lòng yêu nước của nhiều người và kinh nghiệm thực tế cho thấy là tình trạng độc tài toàn trị đang là trở ngại lớn nhất cho cuộc đấu tranh bảo toàn tổ quốc. Trong chiều hướng đó, giải thể cơ chế độc tài để cứu nước đang là một yêu cầu trọng đại.

Biển Đông chưa thực sự yên bình và làn sóng xâm lăng của Bắc phương vẫn còn. Muốn công cuộc chống xâm lăng được thật sự được thành công, mọi người Việt Nam phải tiếp tục đấu tranh để khẳng định lập trường của dân tộc đối với Trung Cộng, và đối với cả nhà cầm quyền CSVN.

Chúng ta phải xót xa để nhận rằng, với thân phận một nước nhỏ, Việt Nam sẽ rất khó giành lại được những phần biển đảo đã bị cưỡng chiếm. Không những thế, với hoàn cảnh chính trị hiện nay, ngay cả việc bảo toàn được phần lãnh hải còn lại cũng không phải là điều dễ dàng. Nhưng dù vậy, những khó khăn to lớn đó chỉ là thử thách dành cho các thế hệ Việt Nam hôm nay.

Chủ quyền đất nước sẽ có thể được bảo toàn khi Việt Nam đã thật sự có một chính thể dân chủ, vì với một chính phủ đa đảng, Bắc kinh sẽ không thể mua chuộc hay uy hiếp được. Hơn nữa, khi đã có dân chủ, mọi tầng lớp nhân dân đều có quyền và được khích lệ thể hiện lòng yêu nước.

Dân chủ là chìa khóa tốt nhất để giải quyết những vấn nạn của đất nước chúng ta. Và ý chí đoàn kết của toàn dân sẽ là sức mạnh truyền thống trong cuộc tranh đấu chống xâm lăng như Ông Cha ta đã có trong ngàn năm qua.

Lê Nguyên Bình
Thành viên Đảng Vì Dân Việt Nam

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »

Nếu Đảng vì tổ quốc thì mọi việc đã khác !

ĐẶNG XƯƠNG HÙNG: TẠI SAO TÔI TỴ NẠN CHÍNH TRỊ?

Trung Quốc âm mưu thôn tính biển Đông khóa chặt Việt Nam trong vòng lệ thuộc, Đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng giữa ngã ba lịch sử, thân Trung Quốc để giữ đảng và vai trò độc quyền cai trị hay chấp nhận cải tổ chính trị, dân chủ hóa đất nước tìm chỗ dựa bảo vệ chủ quyền.

Liên minh và không liên minh

Sự kiện Nhà nước Việt Nam khẳng định không liên minh với ai để chống nước thứ ba, được các nhà phản biện gọi là sự không tưởng trong tư duy chiến lược, hoặc biểu lộ sự nhu nhược chủ hòa với kẻ xâm lăng bá quyền Trung Quốc.

Ông Lê Phú Khải, nhà báo kỳ cựu từng ở trong guồng máy thông tin tuyên truyền của nhà nước Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

“ Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được, chưa nhìn thấy rõ kẻ thù thâm độc như thế nào, vẫn còn lấn cấn không thoát Trung ra được, không dứt khoát nên mới đưa ra chiến lược như thế.”

Theo ông Nguyễn Trung, một cựu Đại sứ của chế độ Hà Nội, Việt Nam trong thể chế hiện nay, nếu có nài xin cũng chẳng có nước nào muốn liên minh. Trong bài viết được phổ biến trên các trang mạng xã hội, ông Nguyễn Trung cho rằng: “… Nếu dân tộc ta, nước ta còn chưa đủ bản lĩnh sống vì chính ta, thì ai dám liên minh với ta? Xin hãy tự hỏi mình: Bản thân chúng ta có dám kết thân với kẻ ba, bốn mặt, hư, ăn bám và èo uột không.”


Một nước bé như nước mình, nước Việt Nam mà không liên minh với một nước thứ ba không có một chỗ dựa thì làm sao mà có thể đương đầu với Trung Quốc mạnh hơn mình. Rõ ràng là không tưởng và điều này chứng tỏ nhà nước Việt Nam cũng chưa thoát Trung được

nhà báo Lê Phú Khải


Cùng về vấn đề liên quan, TS Phạm Chí Dũng thành viên sáng lập Hội Nhà Báo Độc Lập từ TP.HCM phân tích:

“ Trừ phi người Việt Nam biến thành người Philippines và tự đứng bằng đôi chân của mình và sau đó thì mới nhờ tới người Hoa Kỳ. Khi người Hoa Kỳ thấy người Philippines tự đứng bằng đôi chân của họ, tự dám bắt tàu cá Trung Quốc xâm phạm lãnh hải thì lúc đó Manila mới có được Hiệp định tương trợ quốc phòng đối với Mỹ. Còn Việt Nam bản lĩnh quá kém, cả thế giới coi thường không muốn có bất kỳ mối tương trợ quân sự nào về mặt thực chất, cho dù Việt Nam đã có hàng chục đối tác chiến lược toàn diện mà trong đó đối tác chiến lược toàn diện lớn nhất, có ý nghĩa nhất chính là Trung Quốc và Trung Quốc đang trở mặt với Việt Nam.”

Trong bài viết góp ý với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới được phổ biến trên mạng, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cảnh báo những kịch bản đen tối nhất có khả năng xảy đến cho Việt Nam. Ông Nguyễn Trung kêu gọi Đảng đấu tranh, cắt đứt cái thòng lọng ý thức hệ và sự nô lệ của quyền lực, cũng như sự cám dỗ của của mọi lợi ích tội lỗi, trả lại quyền làm chủ đất nước cho nhân dân. Từ đó Việt Nam cùng các nước trong khu vực tranh đấu thắng lợi trước bá quyền Trung Quốc, tránh được chiến tranh. Vẫn theo ông Nguyễn Trung, nếu chọn lựa con đường này, chế độ toàn trị cùng với mọi quyền lực và đặc quyền của nó sẽ không còn nữa, Đảng CSVN phải trở thành một đảng khác, hoặc sẽ không tồn tại nữa.

Không còn cách nào khác

Trò chuyện với chúng tôi, nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam phải lựa chọn không có cách nào khác.”


Nếu mà bảo vệ toàn trị thì không thể đi với dân chủ được. Dân chủ là minh bạch là công khai là đa nguyên. Khi mà toàn Đảng hô lên tổ quốc trên hết thì nó khác, còn nếu bây giờ lại chế độ trên hết thì nó khác. Nếu bây giờ bảo hộ chế độ thì Đảng rất là cô đơn không có nhân dân cũng không có đồng minh

nhà báo Lê Phú Khải


Đáp câu hỏi của chúng tôi là, có khả năng nào cho thấy Đảng Cộng sản Việt Nam vào kỳ Đại hội Đảng lần thứ XII sắp tới sẽ chọn lựa tổ quốc thay vì độc quyền cai trị. Nhà báo Lê Phú Khải nhận định:

“ Đây là câu hỏi khó vì nó là chính trị, nó biến động, đa dạng và nó bất ngờ, không ai có thể đoán được. Nhưng tôi nghĩ và theo những gì tôi cảm nhận được thì Đảng Cộng sản không thay đổi đâu, bây giờ số phận của đất nước tùy thuộc vào nhân dân thôi.”

Vận mệnh đất nước đang ở trong tay nhân dân như cách nhìn thế sự của nhà báo lão thành Lê Phú Khải. Nhưng nhân dân đâu có quyền lực cũng chẳng có lãnh tụ để đấu tranh. Tuy vậy ông Lê Phú Khải nói là ông vẫn tin vào xu thế thay đổi của thời đại. Ông nói:

“ Tôi nghĩ là thời đại này là thời đại thông tin, xã hội dân sự nó sẽ hình thành và nó sẽ phát triển, nhưng tất nhiên sẽ chậm. Dân trí như thế này thì nó chậm nó lâu, còn nếu đảng cầm quyền đứng ra cải tổ thì nó mau. Nhất định xu thế của thời đại là xu thế dân chủ rồi. Ngay cả Trung Quốc cũng không mạnh và chế độ toàn trị cũng không mạnh, sớm muộn cũng phải thay đổi không thể như thế này mà tồn tại được.”

Khi cảnh báo với Đại hội Đảng khóa XII sắp tới, cựu Đại sứ Nguyễn Trung cũng đề cập tới khả năng Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường chủ hòa theo kiểu đầu hàng, không kiện ra quốc tế, chấp nhận đàm phán song phương cho vấn đề Biển Đông, gác tranh chấp cùng khai thác, để tạm thời tránh được chiến tranh bảo vệ quyền lực và tài sản của riêng họ. Ông Nguyễn Trung gọi cách chủ hòa như thế là phương án chấp nhận chết dần từng nấc về thể xác, nhưng chết ngay và chết hẳn về nhân cách một quốc gia, một dân tộc. Nhân dân Việt Nam sẽ phản kháng quyết liệt và dù Đảng có dùng nội chiến để đàn áp nhân dân đi nữa, thì theo vị cựu Đại sứ, trước sau và cuối cùng vẫn sẽ là cái chết nhục nhã của quyền lực.

Về phần nhà báo Lê Phú Khải, ông nói người dân Việt Nam sẽ không chấp nhận đầu hàng Trung Quốc dưới bất cứ hình thức nào. Cho nên sẽ là thảm họa khi nhân dân không còn chấp nhận chính phủ của mình.

User avatar
saulong
Posts: 114
Joined: Thu Aug 06, 2009 6:02 pm

Post by saulong »

Gian dối từ trên xuống dưới

Ngô Nhân Dụng


Một bức hình được truyền đi trên mạng trong tuần qua cho thấy cảnh một đống tiền lẻ, đồng đô la Canada, để lộn xộn trên mặt một hộp cao bằng kim loại, tại cửa ra vào trạm xe điện ngầm (metro). Người chuyển bức hình đi giải thích rằng máy bán vé tự động bị hư nên hành khách đã để tiền lên mặt vuông cái máy, thay vì “nhẩy rào” qua mà đi. Nhiều người lên tiếng khen ngợi dân Canada lương thiện; so sánh với tiếng tốt của dân Nhật Bản vẫn được truyền tụng từ lâu. Có người, ở một nước Châu Âu, viết rằng, “Nếu ở nước tôi thì mấy đồng tiền đó đã biến mất sau mấy giây đồng hồ!”

Không ai kiểm chứng bức hình trên là thật hay một trò đùa nghịch. Nói như vậy không phải vì nghi ngờ tính lương thiện của dân Canada. Tôi đã sống ở Montréal, Canada hơn 20 năm dài (hơn thời gian từng sống ở Sài Gòn hay Hà Nội) nên đã gặp rất nhiều người thành thật, lương thiện, rất đáng kính trọng. Nhưng trong một thành phố lớn (cho nên lập đường metro) mấy triệu người, chắc một phần tư dân chúng là di dân mới một đời, ta không biết ai là “người Canada” thật sự. Di dân mới tới có khi vẫn “nhẩy rào” để được đi metro miễn phí! Tôi đã chứng kiến, ở một xứ được coi là lương hảo nhất thế giới, là Thụy Ðiển, cảnh người đi xe lửa bị lấy trộm, người thì bị móc túi. Bạn tôi ở Phần Lan kể trước đây 20 năm dân xứ này bỏ xe đạp trước cửa nhà, không cần khóa, mà không bao giờ mất. Nhưng mươi năm nay, sau khi các chế độ cộng sản sụp đổ ở Âu Châu thì người Phần Lan cũng bị mất trộm; vì rất nhiều di dân mới đổ vào. Du lịch ở các nước khác như Anh, Pháp, Ý, người ta cũng được khuyến cáo phải coi chừng kẻ cắp.

Dân Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada vẫn thường đứng đầu trong bảng xếp hạng các nước có “cuộc sống hạnh phúc” trên thế giới. Những người hạnh phúc thường cũng sống thật thà, lương thiện; có thể tin như vậy. Nhưng dân các nước nghèo không nhất thiết phải sống kém lương thiện. Một thế kỷ trước đây, Huân tước Baden Powell, người sáng lập phong trào Hướng Ðạo thế giới, đã viết những lời nồng nhiệt ca ngợi đời sống hiền hòa, lương hảo của dân Miến Ðiện. Mà lúc đó Miến Ðiện còn nghèo hơn Việt Nam bây giờ!

Khi nào thì một nước sinh ra đầy trộm cắp? Khi có nhiều người dân nghèo và xã hội bất công, thì nạn trộm cắp sẽ phát sinh. Khi một nước có cả hai yếu tố, nghèo và bất công, thì do “thượng bất chính, hạ tất loạn” nên mới có “bần cùng sinh đạo tặc.” Giữa Nghèo và Bất Công thì nạn Bất Công là thủ phạm chính gây ra cảnh “trộm cắp như rươi;” nếu chỉ nghèo không thôi người ta vẫn muốn sống lương thiện. Khi mọi người đều tôn trọng luật pháp, ai làm giầu được đều do công sức của chính họ, thì cả xã hội vẫn có thể sống trong đạo lý. Giấy rách giữ lấy lề. Ðói cho sạch, rách cho thơm. Người Việt Nam vẫn dạy con cháu như thế, từ lúc cả nước cùng nghèo.

Quý vị độc giả có thể mới đọc bản tin về một cô gái lấy cắp của đại sứ một nước Trung Á, trong một siêu thị ở Hà Nội. Người Việt Nam xưa nay vốn thật thà, hay là vốn tính bất lương? Cũng vậy, hãng Hàng Không Việt Nam mới lập “sổ đen,” kê tên những người Trung Quốc đã từng lấy trộm trên máy bay. Nếu Hàng Không Việt Nam gửi cả danh sách này cho các công ty hàng không khác trong vùng thì có bêu riếu cả dân tộc Trung Hoa hay không? Cũng không khác gì các cửa hàng bên Nhật viết bảng cảnh cáo “không được lấy trộm,” viết bằng tiếng Việt, cho khách hàng dễ hiểu!

Tôi không tin rằng dân hai nước Việt Nam và Trung Quốc đều có tính trộm cắp. Thói ăn cắp, ăn trộm phát triển trong các nước này, vì hoàn cảnh sống trong cảnh vừa nghèo lại vừa bất công. Suốt từ thế kỷ 19, 20 dân Việt Nam đã sống trong chế độ thuộc địa bóc lột và bất công. Nước Trung Hoa sống dưới chế độ ngoại thuộc Mãn Thanh từ thế kỷ 17, rồi bị các cường quốc Tây phương lấn ép. Rồi cả hai dân tộc, Trung Hoa và Việt Nam đều sống dưới chế độ cộng sản hơn nửa thế kỷ vừa qua. Chế độ cộng sản tàn phá luân lý, đạo đức của hai dân tộc mạnh hơn các chế độ ngoại thuộc, thực dân. Vua quan nhà Mãn Thanh và thực dân Pháp gây ra cảnh bất công, nhưng họ không tìm cách xóa bỏ các nền nếp đạo lý của dân bản xứ. Trái lại, các chế độ cộng sản đều lật đổ, xóa sạch các quy tắc luân lý cổ truyền, đề ra mục tiêu “xây dựng những con người mới,” mà không biết phải xây dựng như thế nào.

Khi Hồ Chí Minh viết về việc xây dựng một nền đạo đức mới, thì các đảng viên cộng sản được dạy rằng đạo đức cách mạng quan trọng nhất là “luôn luôn tuân phục đảng.” Ðiều này ông ta cũng chỉ họ được từ Mao Trạch Ðông và Lưu Thiếu Kỳ. Hậu quả là người ta không cần theo một quy tắc luân lý nào khác, nếu chỉ hành động theo lệnh “Ðảng.” Mà Ðảng chính là các lãnh tụ; không còn ai khác nữa.

Các chế độ độc tài chuyên chế đều kèm theo một guồng máy tuyên truyền dối trá. Khi người dân một nước phải nghe nói dối ngày này sang ngày khác, phải lấy giả làm thật, đen nói ra trắng, nếu không biết dối trá, không biết cúi đầu sợ sệt thì không sống được, khi đó xã hội sẽ phải suy đồi, không còn chút luân thường đạo lý nào nữa. Các đảng Cộng sản Trung Hoa và Việt Nam đã phá hủy nền đạo lý cổ truyền của hai dân tộc. Hơn nữa, họ xóa bỏ tập quán sống theo pháp luật, vì đặt chính trị lên trên luật pháp. Do đó, tới khi họ mở cửa cho kinh tế thị trường xuất hiện, thì những tệ hại lớn nhất của thời “tư bản hoang dã” bộc phát rất nhanh.

Từ khi các đảng cộng sản quay chiều theo kinh tế tư bản, nói chung dân Việt Nam và Trung Hoa không thể coi là nghèo được nữa. Nhưng vì chế độ vẫn độc tài chuyên chế, cho nên xã hội càng bất công hơn các nước tư bản vào thế kỷ 19. Tiền của được tích lũy vào tay các lãnh tụ, các đảng viên, cho đàn em và phe cánh. Khi những người nghèo khổ sống bên cạnh những kẻ làm giầu vừa bất hợp pháp vừa không bất lương, thì người ta không còn tin ở đạo lý nữa, dễ làm bậy. Khi lòng tham nổi lên, kẻ trộm cắp và tự biện hộ với lương tâm mình rằng chung quanh họ bao nhiêu đứa nó trộm cắp nhiều gấp hàng ngàn lần mình, nếu mình có tội cũng là tội nhỏ!

Những người Trung Hoa đi máy bay chắc không thể coi là nghèo. Cô gái ăn cắp trong siêu thị chắc cũng có công việc làm đủ sống. Tại sao họ lại ăn cắp? Vì họ đã chứng kiến cảnh những kẻ khác đã trộm cắp hàng triệu, hàng tỷ đô la, giầu gấp trăm, gấp ngàn họ, vẫn sống nhởn nhơ!

Ðạo lý suy đồi không phải chỉ là một vấn đề xã hội, văn hóa. Khi nhìn về lâu về dài, thì cảnh cả luật pháp lẫn đạo lý suy đồi sẽ khiến cho kinh tế một nước không thể tiến lên được. Nền kinh tế tư bản dựa trên luật pháp, mà nhờ luật lệ nghiêm minh nên mọi người bị bắt buộc phải sống lương thiện hơn. Tại các quốc gia bình thường, dù là ở những nước nổi tiếng lương thiện như Phần Lan, Thụy Ðiển, Canada, vẫn có kẻ trộm. Nhưng khi làm ăn, làm ăn lớn, thì người ta có thể tin nhau, vì có luật pháp. Nếu luật pháp không đủ rộng để ràng buộc tất cả, thì còn có đạo lý. Kinh tế thị trường phát triển nhờ các nền tảng đó.

Những người Trung Hoa ăn cắp trên máy bay không làm hại cho kinh tế Trung Quốc bằng quan chức điều khiển các doanh nghiệp nhà nước, hoặc tư doanh. Bởi vì khi họ gian dối, người ta sẽ sợ không còn muốn làm ăn với nước Trung Hoa nữa.

Công ty hàng ăn McDonald hôm qua vừa quyết định ngưng không mua thịt từ một xí nghiệp Trung Quốc nữa. Các công ty Burger King và Yum Brands, chủ nhân các cửa hàng KFC cũng làm theo. Công ty Trung Quốc là Phúc Hỷ, ở Thượng Hải đã cung cấp thịt cũ, quá hạn cho các cửa hàng ăn này. Từ nay, McDonald sẽ mua thịt từ Thái Lan.

Tháng trước, mấy ngân hàng ngoại quốc, trong đó có Citigroup và Standard Chartered đã lâm nạn vì một vụ gian trá khác của mấy xí nghiệp Trung Quốc. Một công ty Trung Quốc vay, Ðức Thành Khoáng Nghiệp vay tiền của nhiều ngân hàng và đem một số kim loại làm thế chấp. Nhưng người ta khám phá ra là số kim loại này, chứa trong nhà kho tại hai cảng Thanh Ðảo và Bồng Lai, đã được đem thế chấp cho nhiêu món nợ khác nhau!

Những vụ gian dối của các công ty Phúc Hỷ và Ðức Thành sẽ làm hại cả các công ty Trung Quốc khác, điều này hiển nhiên. Từ chuyện ăn cắp trên máy bay đến chuyện đánh lừa trong thương trường quốc tế, tất cả đều là hậu quả của một chế độ gian dối, tham nhũng, bất công. Không thoát khỏi chế độ đó thì tương lai sẽ mù mịt!

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

Sự Sụp Đổ Của Chủ Nghĩa Cộng Sản Tại Việt Nam

TS. Nguyễn Hưng Quốc
Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

Nguyễn Hưng Quốc

User avatar
nangchieu
Posts: 2094
Joined: Sun Apr 19, 2009 6:38 pm

Post by nangchieu »

Chủ nhiệm luật sư đoàn Sài Gòn bị khai trừ đảng

SÀI GÒN (NV).- Nguyễn Đăng Trừng, chủ nhiệm Đoàn luật sư thành phố Sài Gòn, vừa bị khai trừ khỏi đảng CSVN
vì bị cáo buộc 'vô kỷ luật' với những dấu hiệu có vẻ là một chuyện đấu đá nội bộ.

Image
Ông Nguyễn Đăng Trừng, chủ nhiệm luật sư đoàn Sài Gòn, vừa bị khai trừ khỏi đảng CSVN. (Hình: Lao Động)


“Chiều 31/7, Ban Tuyên giáo Thành ủy TP HCM đã họp báo công bố quyết định của Ban Thường vụ Thành ủy thi hành kỷ luật với hình thức khai trừ Đảng đối với ông Nguyễn Đăng Trừng, Bí thư Đảng đoàn, Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP do một số khuyết điểm, vi phạm trong quá trình công tác.” Bản tin Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) loan báo và các tờ báo chính thống ở Việt Nam đều nhất loạt loan tin này.

TTXVN kể tội ông Nguyễn Đăng Trừng rằng “Theo thông báo kết luận của Ban Thường vụ Thành ủy, từ năm 2012, ông Nguyễn Đăng Trừng trong lãnh đạo, điều hành hoạt động của Đảng đoàn đã có khuyết điểm, vi phạm: xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng đoàn đối với hoạt động của Đoàn Luật sư Thành phố; không tổ chức cho Đảng đoàn thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng đoàn theo quy chế làm việc đã ban hành; phân công, bổ nhiệm, đề bạt một số cán bộ tại Đoàn Luật sư Thành phố vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác cán bộ của Đảng, vi phạm quy chế làm việc của Đảng đoàn”.

Bản tin TTXVN cáo buộc ông Trừng “đã chỉ đạo chuẩn bị nhân sự Đại hội Đoàn Luật sư TP HCM nhiệm kỳ VI (2013-2018) không đúng quy trình, thiếu công khai, minh bạch; không tổ chức cho Đảng đoàn Đoàn Luật sư TP thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo quy định của Đảng...”

Hồi tháng 1/2014 vừa qua, ông Nguyễn Đăng Trừng “đã kiểm điểm, nhận các khuyết điểm, vi phạm và xin tự phê bình, rút kinh nghiệm trước tập thể Đảng đoàn Đoàn Luật sư TP...” nhưng “không những không khắc phục các khuyết điểm, vi phạm mà còn tiếp tục có những vi phạm ngày càng nghiêm trọng hơn.”

Bản tin vừa kể đổ tội cho ông Trừng là “không thực hiện nghị quyết, quyết định, kết luận của tập thể Đảng đoàn, của Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP; lợi dụng chức vụ Chủ nhiệm Đoàn Luật sư, không thông qua Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP, tự ý ký 4 văn bản để phản bác ý kiến chỉ đạo của UBND TP, của Liên đoàn Luật sư Việt Nam.” Bản tin còn cáo buộc ông Trừng “đã nói không đúng sự thật về ý kiến chỉ đạo công tác chuẩn bị Đại hội đại biểu Đoàn Luật sư TP nhiệm kỳ VI (2013-2018) đối với một số cán bộ lãnh đạo trong Ban Thường vụ Thành ủy và Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam”.

* Đấu đá nội bộ

Trên trang mạng của Đoàn luật sư thành phố Sài Gòn mà ông là chủ tịch, ông Trừng phổ biến các văn bản phản bác các văn bản “chỉ đạo” từ ông Lê Thúc Anh, chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, và các văn bản “chỉ đạo” của Ủy ban Nhân dân thành phố, liên quan đến việc tổ chức bầu cử ban chấp hành mới cho Đoàn luật sư Sài Gòn nhiệm kỳ 2013-2018 cũng như đòi những người cầm đầu tổ chức đó, đặc biệt là chủ nhiệm “không quá 70 tuổi” và “chỉ được bầu là chủ nhiệm nhiều nhất 2 nhiệm kỳ liên tiếp”.

Nếu cả hai điều ràng buộc này được thi hành thì đồng nghĩa với việc gạt ông Nguyễn Đăng Trừng ra ngoài. Nguyễn ĐăngTrừng, sinh năm 1942, vừa quá tuổi đó lại đã ngồi lỳ trên ghế chủ nhiệm Đoàn Luật sư Sài Gòn suối từ năm 1995 đến nay, tức đã 19 năm rồi.

Một điều khác không được nhiều người để ý là ông Nguyễn Đăng Trừng, trước 1975 từng là sinh viên Đại học Luật khoa Sài Gòn, từng với các sinh viên thân Cộng hay cán bộ Cộng sản nằm vùng khác nằm lấy Tổng hội Sinh Viên Sài Gòn để biểu tình chống chính phủ, chống chiến tranh. Nguyễn Đăng Trừng là chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn nhiệm kỳ 1967-1968 nhưng khi cộng sản vi phạm thỏa thuận lệnh ngưng bắn ăn tết, tổng tấn công tết Mậu Thân thì ông Trừng rút ra bưng.

Sau 1975, Nguyễn Đăng Trừng trở thành đại úy an ninh, giống như Huỳnh Bá Thành, thẩm vấn, bắt giam rất nhiều văn nghệ sĩ, nhà báo thời VNCH. Bị đẩy ra khỏi ngành công an vì phạm lỗi thì chuyển sang ngành tòa án rồi trở thành “Bào chữa viên nhân dân” ở thời kỳ không có luật sư được huấn luyện bài bản và cũng không công nhận nghề luật sư.

Tới khi chế độ Hà Nội “đổi mới” muốn hội nhập với thế giới thì nghề luật sư mới được tái lập, đại học luật được thành lập, và ông “bào chữa viên nhân dân” Nguyễn Đăng Trừng được “biên chế” thành “luật sư” dù không có bằng cử nhân luật. Chủ nhiệm Đoàn luật sư Sài Gòn đầu tiên là ông Triệu Quốc Mạnh và người kế nhiệm ông Mạnh là Nguyễn Đăng Trừng suốt từ năm 1995 đến nay.

Trong văn thư phản bác lại đòi hỏi của ông Lê Thúc Anh, chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam, cũng như các cấp chỉ huy đảng ở Sài Gòn, ông Trừng lập luận rằng tổ chức luật sư ở Việt Nam là “kết hợp sự quản lý của nhà nước với chế độ tự quản của đoàn luật sư”. Sự tự quản được ông hiểu là tổ chức và hoạt động độc lập không bị nhà nước cũng như đảng đoàn chi phối, ra lệnh.

Bởi vậy, ông đả kích cái công văn đòi giới hạn tuổi và giới hạn nhiệm kỳ của chủ nhiệm đoàn luật sư của ông Lê Thúc Anh, Chủ tịch liên đoàn luật sư CSVN, là “Không phù hợp với Luật Luật Sư, điều lệ Liên đoàn luật sư Việt Nam, điều lệ đoàn luật sư thành phố Sài Gòn”. Ông Trừng gọi ý kiến của ông Lê Thúc Anh là “không có cơ sở pháp lý và thực tế”.

Ông Trừng đả kích ông Lê Thúc Anh là “tiếp tay cho sự áp đặt không dân chủ và sự can thiệp trái pháp luật” mà như vậy “càng không xứng đáng là chủ tịch Liên đoàn luật sư Việt Nam”. Một số phiên họp do Ban Nội Chính thành ủy Sài Gòn tổ chức về vấn đề tổ chức bầu bán đoàn luật sư địa phương với những thay đổi theo ý “ở trên” đã bị ông Trừng phản bác, tẩy chay và trình bày trong các văn bản phổ biến trên mạng.

Khi ông Lê Thúc Anh được “cơ cấu” từ Tòa án nhân dân tối cao sang ngành luật sư để chuẩn bị nắm liên đoàn luật sư, ông nộp đơn xin gia nhận Đoàn luật sư Sài Gòn, năm 2006, thì bị ông Nguyễn Đăng Trừng gạt ra ngoài.

Cái thẻ đảng là cái bùa hộ mạng cho những ai dựa vào cái tổ chức này để tiến thân, câu cơm và tham nhũng, khi bị khai trừ thì đồng nghĩa với những quyền lợi và cơ hội trong đảng không còn. Việc ông Nguyễn Đăng Trừng bị hất ra khỏi đảng không đi xa hơn là chuyện cái ghế mà ông muốn giữ. (TN)

Post Reply