QUÁN BIÊN THUỲ

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

Người Con Trai
Bác sĩ Nguyễn Vũ Thanh Sơn, chạy vội lên cầu thang, nhảy từng ba bậc một để lên lầu 4. Không dùng thang máy vì phải đợi quá lâu, bác sĩ Sơn vừa chạy vừa nói vào điện thoại cầm tay, ra lệnh cho y tá chích thuốc giải cơn động kinh ngay cho người bệnh nhân nằm trong phòng 412. Chàng mở cửa phòng bước vào, cô y tá người Phi Luật Tân, nhỏ nhắn dễ thương như phần lớn những y tá gốc người Phi làm việc tại bệnh viện của đại học y khoa Irvine này, cười trấn an chàng:

- Êm rồi! Lúc nãy ông ta làm dữ quá!
Chàng gật đầu tiến đến gần giường người bệnh, lấy hồ sơ đọc. Ông Lê Hoàng Sử, 62 tuổi, ung thư chính gốc tại gan, đã chạy lan sang phổi và não bộ, bắt đầu lên những cơn động kinh thưòng xuyên và nhập viện được 3 ngày nay. Chàng thuộc nhóm bác sĩ chuyên môn về ung thư của đại học UCI,hôm nay là ngày trực của chàng, phải trông coi hơn chục người bệnh của khu ung thư nằm tại lầu 4 này. Sơn nhìn người bệnh. Mắt ông ta nhắm lại, tay chân duỗi ra, đang ở trạng thái của người bị kinh giật vừa chấm dứt. Người bệnh trông đầy quen thuộc, như thể chàng đã gặp nhiều lần nhưng không nhớ đích xác. Sơn cố ngẫm nghĩ. Tại sao ông ta trông quen quá vậy? Chàng gặp ở đâu? Lúc nào? Sơn lắc đầu. Không thể nhớ được. Chàng hỏi người y tá về những kết quả thử nghiệm máu mới nhất. Cô y tá ra khỏi phòng để dùng máy in ra kết quả gửi lên từ phòng thí nghiệm. Trước khi ra cô ta quay đầu lại hỏi:
- Bác sĩ cần gì khác nữa không?
Sơn lắc đầu. Chàng nhìn lại người bệnh. Bỗng dưng ông ta mở mắt ra, nhìn dáo dác một lúc rồi dán mắt vào Sơn. Tiếng rú từ người bệnh làm chàng giật nảy người, cô y tá vừa bước ra ngoài chạy vội trở lại đến giường bệnh. Ông Sử nhỏm phắt người lên, hai tay chắp lại, vái chàng lia lịa như tế sao:
- Ông Thày! Ông Thày! Em, Sử đây ông thày ơi! Ông Thày đừng bắt em tội nghiệp!
Cô y tá tiến lại, định đè ngưòi bệnh xuống và chích thêm một liều thuốc giải động kinh nữa. Nhưng Sơn ngăn lại. Chàng biết người bệnh lên cơn mê sảng, ảo giác tưởng chàng là ai khác. Chàng nắm lấy tay người bệnh, nói tiếng Việt:
- Không sao đâu bác! Tôi là bác sĩ Sơn. Bác thấy trong người ra sao?
Ông Sử tiếp tục lắp bắp:
- Ông Thày ơi! Em không dám trái lời ông thày đâu. Em vẫn theo dõi con ông thày mà!


Sơn nhìn lại người bệnh. Câu nói của ông Sử như khêu gợi trí nhớ Sơn, làm chàng đột nhiên nhận ra người đàn ông trước mặt. Chàng đã gặp người này nhiều lần, từ gần hai mươi năm nay. Ông ta đã có mặt trong tất cả những ngày trọng đại của chàng. Ngày chàng học xong trung học, trong buổi ra trường, Sơn là thủ khoa valedictorian, chàng đứng trên bục để đọc diễn văn, người đàn ông này đã ngồi ngay hàng ghế đầu, nhìn chàng chăm chăm. Sơn thấy lạ, nhưng đoán ông ta là phụ huynh của bạn học cùng lớp. Ngày chàng học xong đại học, sau 4 năm tiền y khoa, khi mặc mũ áo chụp hình với gia đình, chàng thấy ông ta lẩn quẩn đứng bên, nhìn chàng chăm chú. Nhưng cũng chỉ nghĩ là người nhà của các bạn khác đang chụp hình bên cạnh. Ngày chàng được nhận vào đại học y khoa University of California ở Irvine này, gia đình Sơn ăn mừng ở tiệm ăn, chàng cũng thấy ông ta ngồi bàn bên cạnh. Buổi lễ mặc áo trắng của năm thứ nhất, white coat ceremony, chàng cũng thấy người này ngồi hàng ghế đầu.

Ngày Sơn ra trường với mảnh bằng bác sĩ, cũng có mặt ông ta. Bây giờ Sơn đã quả quyết. Người bệnh nhân đang lên cơn mê sảng trước mặt chàng, đã theo dõi chàng từ gần hai mươi năm nay. Nhưng tại sao? Và chàng còn nhớ lại nhiều điều khác. Sơn được nhiều học bổng của các tổ chức người Việt ở Quận Cam này, phòng thương mại, hội bảo vệ văn hóa, hội các thương gia... Chàng thấy tên Lê Hoàng Sử khá quen, hình như ông ta đã là chủ tịch của nhiều hội của người Việt tại Quận Cam này nhiều năm qua. Có thể nào những học bổng dành cho chàng đó là do chính ông Lê Hoàng Sử này? Rồi nhiều lần chàng đã ngạc nhiên khi thấy tiền học phí đã được ai trả hết, có hỏi văn phòng tài chánh của trường cũng không biết, chỉ thấy là account của chàng về học phí đã được chuyển tiền bằng điện tử để thanh toán, không biết ai là người gửi.

Người bệnh chợt im lặng, nằm xuống lại. Một lúc sau, ông ta mở mắt ra. Lần này cặp mắt đã tinh anh, nhận biết khung cảnh chung quanh, như một người đã tỉnh táo sau cơn mê sảng. Ông ta nhìn thấy Sơn và cất tiếng:
- Chào bác sĩ Sơn! Tôi mừng thấy ông làm việc ngày hôm nay. Tôi có nhiều điều cần nói với bác sĩ. Ông Sử đã lấy lại phong thái của một người giàu có, được mọi người kính nể. Sơn bây giờ nhớ lại đã nghe nhiều người nói. Ông Lê Hoàng Sử là một trong những người Việt thành công và giàu nhất tại Quận Cam này, chủ nhân ông của một khu shopping lớn trên đường Bolsa, cũng như có nhiều khu apartments cho thuê ở Garden Grove. Ông Sử thở dài:
- Tôi biết tôi không còn sống được bao lâu nữa. Bác sĩ biết rõ hơn tôi. Tôi đã yêu cầu để đổi ngày trực của bác sĩ sang hôm nay. Vì tôi không biết có còn đến được ngày mai nữa hay không!
Sơn nhìn lại hồ sơ bệnh lý. Hình CAT scan cho thấy ông Sử đã có ung thư chạy đầy trong phổi, trong xương. Trên não bộ đã có 4 chấm lớn trong thùy thái dương, không lạ gì ông ta bị động kinh và mê sảng nhiều. Nhưng bây giờ chàng thấy ông Sử tỉnh táo và sáng suốt như một người bình thường,​ không chút bệnh tật. Ông Sử tiếp tục:
- Bác sĩ ngồi xuống đi! Điều tôi cần nói với bác sĩ tôi phải kể hết và sẽ gây ra nhiều bất ngờ. Tôi muốn bác sĩ bình tĩnh!
Sơn mỉm cười. Chàng có nhiều người bệnh lạ thường, nhưng không ai như ông này. Vừa dứt cơn động kinh, mê sảng, lại khuyên chàng phải bình tĩnh. Sơn kéo ghế ngồi. Ông Sử bắt đầu:
- Cha của bác sĩ là bác sĩ Phan Kim Trấn, tử trận tại bệnh viện tiểu khu Phước Long ở Việt Nam ngày 6 tháng 1 năm 1975. Tôi là y tá của bác sỉ Trấn.
Sơn lặng người. Chàng không tin ở tai mình. Ông Sử nói bằng một giọng trịnh trọng, thành khẩn. Như một người tin mình đang ở trong giây phút thiêng liêng nhất, để trút lộ một bí ẩn đã đeo đuổi hàng mấy chục năm qua, đã chờ đợi hơn nửa đời người để được giải thoát khỏi một gánh nặng, canh cánh​ bên mình. Ông Sử im lặng. Sơn cũng không nói. Nhưng trong đầu óc chàng hàng trăm ngàn ý nghĩ​ khác nhau vùn vụt hiện đến. Những thắc mắc, nghi ngờ từ khi còn thơ ấu, những câu hỏi phải dấu kín không dám hở môi để hỏi ai. Tại sao chàng cao lớn như vậy, trong khi mấy em đều thấp nhỏ. Khuôn mặt chàng cũng khác hẳn hai người em trai. Dáng điệu cũng như tính tình của chàng cách biệt quá nhiều với những người em khác. Không ai nói ra nhưng Sơn biết. Chàng xin ra ngoài ở riêng rất sớm và gia đình chàng vẫn vui vẻ, hòa thuận. Nhưng những câu hỏi vẫn nằm đó, chưa bao giờ được trả lời. Cho đến ngày hôm nay. Ông Sử nhìn chàng, như để thăm dò phản ứng. Rồi ông nói tiếp:
- Tôi xin phép để gọi bác sĩ là cháu. Vì lúc nào tôi cũng nghĩ tôi là em của bác sĩ Trấn, đã từ hơn 35 năm nay! Bác sĩ Phan Kim Trấn ra trường về làm việc tại bệnh viện tiểu khu của tỉnh Phước Long đầu năm 1974, lúc đó chú đã là y tá làm việc tại bệnh viện này được hơn một năm. Chú được bác sĩ Trấn nhận làm y tá thân cận. Tiếng Việt hồi đó hay gọi là đệ tử, hay còn gọi là "tà lọt", những chữ này​ chắc cháu không nghe đến, tuy chú biết cháu giỏi tiếng Việt. Cháu chỉ cần biết là bác sĩ Trấn rất thương chú, cũng như chú kính trọng và sẵn sàng xả thân để làm mọi chuyện cho bác sĩ Trấn, không quản ngại bất cứ điều gì. Chú không biết cháu có tìm hiểu nhiều về Việt Nam hay không, tuy chú vẫn theo dõi cháu và biết hết những sở thích cũng như những học hỏicủa cháu. Nhưng cuộc chiến ở Việt Nam đầu năm 1975 khốc liệt vô cùng và tỉnh Phước Long, nơi ba cháu và chú làm việc đã chịu tai họa nặng nề nhất trong các trận đánh của miền Nam lúc đó. Ngày cháu sinh ra đời, mẹ cháu đánh điện tín lên báo tin sinh cháu, ba cháu mừng vô cùng. Nhưng ba cháu không thể về thăm được. Vì tỉnh Phước Long lúc đó đã bị bao vây bốn phía, con đường duy nhất để về là bằng máy bay, ngoài ra là kẹt hết. Hôm đó cũng là ngày người bạn thân của ba cháu, là phi công chở đồ tiếp tế cho tiểu khu bay chuyến bay chót đến Phước Long. Người bạn ba cháu khuyên ba cháu về cùng với ông ta nhưng ba cháu không chịu. Ba cháu bắt chú đi cùng với người bạn và ba cháu ra phố để làm chuyện này.
Ông Sử im lặng một lúc. Rồi tháo vòng dây đeo cổ bằng vàng, có xỏ một miếng ngọc xanh biếc hình chiếc lá, chạm trổ cực kỳ tinh vi. Ông Sử ngắm nghía một lúc và thở dài:
- Ba cháu lúc nào cũng đeo hai miếng ngọc bích này, nói là bùa hộ mệnh. Hai miếng ngọc này giống hệt nhau, ba cháu bắt chú đi theo ra tiệm kim hoàn và mua một dây đeo cổ khác để làm thành hai vòng dây đeo, mỗi vòng dây xỏ một miếng ngọc bích này. Ba cháu giữ một vòng, còn vòng kia đưa cho chú. Ba cháu nói:
- Sử! Mày về đưa chiếc vòng này cho vợ tao, để khi nào con tao lớn cho nó đeo. Tao đã nói chỉ huy trưởng ký giấy phép cho mày về Sài Gòn, giấy phép đây. Mày đi theo anh Kha bay về Sài Gòn để lo cho vợ con tao. Chú khóc như mưa. Vì chú biết rằng ở lại Phước Long là chết. Ba cháu vì nghĩa vụ, không chịu về. Nhưng đã lấy giấy phép cho chú để về cùng với đại úy Kha, bay chuyến chót về Sài Gòn. Để lo cho mẹ cháu và cháu. Vì ba cháu đã linh cảm biết mình không qua được trận đánh này!
Ông Sử ngậm ngùi, mắt nhắm lại. Như hồi tưởng lại những hình ảnh cũ, đã hơn 35 năm, nhưng lúc nào cũng hiển hiện như ngày hôm qua. Ông nhìn Sơn, ngập ngừng:
- Chắc cháu đang tự hỏi tại sao đến bây giờ chú mới nói chuyện này. Và sao chú giữ vòng dây đeo cổ này từ đó đến nay?
Ông cúi đầu xuống, như kẻ ăn trộm bị bắt quả tang. Nhục nhã, tự khinh mình.
- Chú đeo miếng ngọc bích này vào cổ. Và chú không muốn rời nó ra nữa! Ngay đêm hôm sau khi chú về tới Sài Gòn, Phước Long thất thủ và chú nghe tin ba cháu chết trong đêm đó. Chú nhiều lần đến nhà cháu để giữ lời với ba cháu, nhưng nửa đường chú đều quay về. Vì chú tự nhiên có ý nghĩ, miếng ngọc bích này đã cứu mạng chú, nó mang lại cho chú sự may mắn quá lớn. Rời nó ra là chú sẽ chết. Và chú đã phản bội lời hứa với cha cháu. Chú đã giữ miếng ngọc này, đến ngày hôm nay. Chú là kẻ cắp, chú là một kẻ khốn nạn! Nhưng miếng ngọc này đã cho chú những may mắn lạ thường. Từ khi sang Hoa Kỳ đến nay, tuy chú ít học nhưng làm cái gì cũng thành công. Chú tạo được tài sản rất lớn ở đây, tất cả là nhờ chú đeo miếng ngọc ba cháu đưa cho chú, để trao lại cho cháu!Chú lúc nào cũng bị cắn rứt về sự phản bội ba cháu. Và chú đã kiếm ra tông tích gia đình cháu từ hơn hai mươi năm nay, để theo dõi cháu, đỡ đần cho cháu. Cháu bây giờ đã thành công, làm bác sĩ như ba cháu, chú cũng đỡ ân hận phần nào. Nhưng bây giờ chú không còn sống được bao lâu nữa, vật xưa phải hoàn lại cố chủ, miếng ngọc này là của cháu, chú xin trả lại cho cháu.
Ông Sử trao chiếc vòng dây đeo cổ xỏ miếng ngọc bích hình chiếc lá cho Sơn. Và ông rút trong túi áo ra một miếng giấy nhỏ. Ông nói:
- Chú không biết đây là điềm gì! Nhưng tuần trước, lúc chú còn đi lại được, chú ra ngoài Phước Lộc Thọ và tình cờ chú gặp lại đại úy Kha. Ông nói muốn tìm tin tức cháu. Chú không nói gì nhưng có ghi số điện thoại của ông để liên lạc sau. Cháu gọi cho ông ta!
Ông Sử như đã quá mệt, thở dốc một hồi rồi nhắm mắt lại. Sơn nhìn ông ta, cảm xúc tràn đầy trong lòng. Chàng không biết nói gì, hỏi gì hơn. Tất cả đến quá đột ngột, chàng cần thời gian để lãnh hội và tìm hiểu. Sơn đeo chiếc vòng dây vào cổ. Miếng ngọc bích mát rượi trên ngực chàng, bỗng dưng đem lại cho chàng một cảm giác lạ lùng chưa bao giờ thấy. Như một sự an bình, như một sự trở về. Nhưng đồng thời vẫn có một thôi thúc nào đó, đòi hỏi sự tìm kiếm. Như nửa phần vẫn thao thức để tìm nửa phần còn lại. Sơn không hiểu nữa. Và chàng cố gạt mọi ý nghĩ để trở lại với công việc, với những người bệnh nhân đang chờ chàng để được săn sóc, để được hồi phục. Chàng phải quên chuyện riêng bây giờ để thi hành nghĩa vụ của chàng trước đã. Như bác sĩ Phan Kim Trấn 35 năm về trước. Sơn vẫn chưa thể nghĩ đến hình ảnh của người bác sĩ này như cha mình được. Chàng cần thêm thời gian.
* *
*
Sơn bước vào khu Phước Lộc Thọ. Chàng thấy ngay ông Kha ngồi uống bia một mình bên chiếc bàn nhỏ. Qua điện thoại, ông ta đã dặn chàng:
- Tôi sẽ đội một chiếc mũ nâu, quấn khăn cổ màu nâu, ngồi ở quán ăn nhỏ đầu tiên cạnh đường đi, đối diện với tiệm sách. Đúng một tiếng đồng hồ nữa, tôi sẽ đợi cháu ở đó nhé!
Ông Kha đã sửng sốt bên kia đầu dây khi Sơn gọi, nói chàng muốn biết thêm về bác sĩ Phan Kim Trấn. Chàng không nói gì nhiều hơn. Nhưng chừng như ông Kha đã linh cảm được, và muốn gặp chàng ngay tại khu Phước Lộc Thọ này. Ông Kha đứng lên khi thấy Sơn bước vào. Phản ứng của ông y hệt như ông Sử, khi gọi chàng là ông Thày trong cơn mê sảng. Ông Kha sững sờ, ôm chầm lấy chàng, nghẹn ngào:
- Trấn! Đúng là mày đây rồi Trấn ơi!
Vòng tay ông ôm siết làm Sơn gần ngộp thở. Chàng khẽ nới tay ông ra và giơ tay ra bắt tay ông Kha:
- Cháu là Nguyễn Vũ Thanh Sơn. Bác Kha phải không ạ!
Ông Kha như đã tỉnh trí. Ông ngắm nghía Sơn một lúc rồi nói:
- Cháu giống bố cháu như hệt! Không khác một điểm nào cả! Bác không cần phải hỏi gì nữa, ai nhìn thấy cháu cũng biết cháu là con của bác sĩ Phan Kim Trấn rồi!
Ông kéo ghế cho Sơn ngồi:
- Cháu ngồ xuống đây đi. Đúng là lòng trời run rủi! Bác về đây ở vùng này đã ba năm, lúc nào cũng ìm tin tức gia đình cháu. Ai ngờ đâu cháu ở ngay đây. Lại là bác sĩ nữa. Như bố cháu ngày xưa. Ông Trời có mắt thật!
Ông gọi món ăn. Bảo chàng còn bao nhiêu chuyện để nói, phải ăn chút ít để nghe ông kể!
- Bác là bạn thân của ba cháu từ khi còn nhỏ, ở cùng chung xóm. Gia đình ba cháu ngày xưa nghèo lắm. Ông nội cháu từ Bắc di cư vào Nam, làm ăn rất khó khăn, rất chật vật. Bà nội cháu mất sớm, chỉ còn mình ông nội cháu nuôi ba cháu ăn học. Cháu không thể tưởng tượng công lao cực khổ của ông nội cháu lúc đó. Ông cháu đạp xích lô ban ngày, đến chiều về lại còn phải đạp xe ba bánh để đem bán những gạch vụn cho những ai xây cất nhà cửa, tiếng Việt gọi là xà bần, chữ này chắc cháu chưa nghe bao giờ, nhưng không sao. Cháu nói và hiểu tiếng Việt như thế này đã là giỏi lắm rồi.Ba cháu học rất giỏi, nhà nghèo và cực khổ như vậy nhưng vẫn cố gắng để thi đậu vào trường Y Khoa ở Sài Gòn. Bác cùng học lúc nhỏ chung với ba cháu, không hiểu ba cháu lấy thời giờ ở đâu để học. Vì ba cháu sau khi tan trường về vẫn phụ với ông nội cháu để đạp xe ba bánh, thu nhặt từng miếng gạch vụn để đem bán. Nhà cháu có cái ao rau muống nhỏ, cuối tuần ông nội và ba cháu phải cắt rau, bó từng bó rồi mang ra chợ bán để kiếm tiền. Nhà nghèo như vậy, cực khổ đủ đường như vậy, mà ba cháu vẫn cố gắng để học thành tài, để ra bác sĩ là chuyện phi thường. Bác không thể tưởng tượng nổi là ý chí con người mạnh đến chừng đó. Ông nội cháu hãnh diện biết bao khi con mình ra được bác sĩ, đó là niềm an ủi duy nhất của ông nội cháu. Vì lúc dó ông nội cháu sức khỏe đã suy kém lắm rồi. Bao nhiêu năm lao lực, làm sao còn giữ được mạnh khỏe như trước nữa. Vì thế mà khi ba cháu chết...
Ông Kha không nói nữa. Những cảm xúc làm ông nghẹn lời. Một lúc sau ông mới nói tiếp:
- Bác lại nhảy đoạn rồi. Cháu nói đã nghe anh Sử kể về ngày cuối ở Phước Long rồi phải không? Để bác nói thêm vài chi tiết nữa. Khi ba cháu, bác và y tá Sử của ba cháu ra phố, đúng như anh Sử đã kể cho cháu, bác khuyên ba cháu bỏ nhiệm sở để về Sài Gòn. Vì bác là phi công bay tiếp tế chuyến chót lên tỉnh, bác có vào họp các sĩ quan lúc đó, mới biết rõ là tình hình nguy ngập đến cực độ. Việt Cộng đã bao vây toàn thể tỉnh lỵ, cả hai sư đoàn sửa soạn để tấn công trong nay mai. Trong khi đó bên phía mình, thiếu đạn, thiếu xăng. Phi cơ có sẵn nhưng không đủ xăng để bay oanh tạc. Đạn trọng pháo đã hết sạch, không thể bắn lại được. Binh lính bỏ đơn vị vì súng đạn không đủ để bắn. Bác biết rõ nên nói với ba cháu. Đây là cơ hội chót để thoát thân. Nhưng ba cháu trả lời là cả bệnh viện bây giờ chỉ còn hai bác sĩ, làm việc không xuể. Ngoài thương binh về mỗi lúc mỗi nhiều, còn mấy sản phụ đẻ khó các cô mụ đỡ không nổi, cần có ba cháu đỡ đẻ bằng forceps, sắp sinh trong đêm nay. Nếu ba cháu bỏ về sẽ có nhiều người chết vì không được săn sóc. Nghe bác nói ông nội cháu bây giờ bệnh hoạn lắm, ba cháu gửi bác trụ sinh và mấy chai nước biển để đem về cho ông cụ. Cháu thấy ba cháu khổ sở không? Biết cháu sinh ra đời mà không về được. Biết cha mình ốm đau, mà không thể về để săn sóc. Vì nghĩa vụ phải ở lại, vì nghĩ đến các thương binh, các bệnh nhân không được chữa trị. Ba cháu ở lại dù biết là đầy hiểm nguy, cái chết đến như không. Cũng như một người bạn bác sĩ khác đồng khóa của ba cháu, đang ở Sài Gòn nhưng hạn đi phép hết đã trở lại Phước Long trong ngày hôm đó để làm việc lại, dù biết là đi vào chốn của tử thần. Ba cháu chết trong đêm Việt Cộng pháo kích tấn công, nhưng không ai biết được mồ chôn của ba cháu nơi đâu. Bác nghe nói lại là sau đó, Việt Cộng cho chôn tập thể, khó tìm ra dấu tích. Ông nội cháu nghe tin Phước Long mất và con mình chết, đã gần như điên cuồng. Ông nội cháu nhất định không tin là ba cháu đã mất, nói là chưa có xác, vẫn còn hy vọng sống. Bác thương ông nội cháu và ba cháu lắm vì ở cùng xóm bao nhiêu năm, nhưng bác cũng không biết làm gì hơn. Tôi nghiệp ông nội cháu. Cả đời hy sinh lo cho con ăn học, nghèo khổ đến như vậy, nuôi con ra được bác sĩ, rồi chỉ mấy tháng sau, con đã tử trận vì cuộc chiến. Ông nội cháu không đầy một năm cũng qua đời vì quá đau khổ trước cái chết của ba cháu. Ngày hôm nay bác gặp được cháu là một điềm kỳ lạ. Hôm trước khi thấy anh y tá Sử của ba cháu, bác nhận ra được vì anh ta đeo chiếc vòng dây đeo cổ với miếng ngọc bích này. Cháu bây giờ đeo nó là anh ta đã ăn năn​ trao lại cho cháu. Bác nghĩ mọi sự đều có cơ duyên cả. Việc anh Sử sắp chết trao lại miếng ngọc này cho cháu, việc bác đang đi tìm cháu, rồi gặp được anh Sử và sau cùng gặp được cháu. Vì chỉ cách đây hơn một tuần, bác được tin lớp học y khoa chung với ba cháu đang tìm cách để tìm ra hài cốt của ba cháu ở Phước Long và xây mộ phần cho ba cháu để tưởng niệm và vinh danh người bạn đồng môn duy nhất đã tử trận trong cuộc chiến ở Việt Nam. Phải có sự xui khiến gì để lớp học y khoa ra trường năm 1973 với ba cháu có ý định tìm hài cốt của ba cháu và xây mộ phần. Phải có sự trùng hợp nào kỳ diệu để một người bác sĩ trong nhóm đó quen với bác và hỏi thăm về tin tức gia đình của cháu và sau cùng bác tìm được cháu.
* *
*
Sơn tiến về phía căn nhà lợp mái tôn. Chàng được cho biết nơi đây đang chứa những bộ xương khai quật từ tuần trước, trong đó có thể có bộ xương của ba chàng. Sơn đã bay về Việt Nam sau khi gặp ông Kha và về đến Sài Gòn ngày hôm trước. Chàng liên lạc với nhóm bác sĩ đồng môn với ba chàng và được cho biết mồ chôn tập thể tại Phước Long sau trận đánh 35 năm về trước đã được tìm ra. Nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đã tổ chức và cử người về cùng với mấy bác sĩ đồng môn còn ở lại Việt Nam, ra tận Phước Long để tìm manh mối về mồ chôn. Một người lính cũ trước kia đào mồ chôn tập thể cho những người chết tại bệnh viện tiểu khu đã dẫn họ đến địa điểm này. Sau khi được giấy phép khai quật, 12 bộ xương đã được đưa đến căn nhà lợp mái tôn này để được khảo nghiệm và xác định, chờ đợi thân nhân đến nhận. Nếu không có thân nhân, những bộ xương còn lại sẽ được chôn cất riêng rẽ và làm mộ bia cho từng người, duới danh nghĩa chiến sĩ vô danh. Các phí tổn đều do nhóm bác sĩ ra trường năm 1973 đảm nhận. Sơn mở cửa bước vào. Các bác sĩ đồng môn với ba chàng đang đứng nhìn từng bộ xương một. Làm sao biết được bộ nào là bác sĩ Phan Kim Trấn của 35 năm về trước? Một bác sĩ vui mừng nói với chàng:
- Cháu Sơn đến rồi! Chúng ta có thể thử DNA cho từng bộ xương. Bộ nào có DNA phù hợp với cháu Sơn là của Trấn thôi. Nhưng có điều phải thử cả 12 bộ. Sơn bắt tay từng người bác sĩ và cảm ơn họ. Những người bạn đồng môn của ba chàng đã khổ công để tìm cho ra hài cốt của ba chàng, tìm được tung tích của chàng, để xác định chắc chắn đâu là bộ xương của ngườ bạn đồng môn thân thiết đã mấy chục năm về trước. Để cho trọn tình trọn nghĩa của những người bạn cùng học chung dưới mái trường năm xựa. Sơn đi qua từng chiếc bàn, mỗi bàn chứa một bộ xương. Chàng dừng lại tại mỗi bàn. Nhưng sự gì đã thôi thúc để chàng sau cùng tiến đến bàn cuối cùng, chứa bộ xương của một người lúc sinh tiền phải là cao lớn. Chàng cúi xuống nhìn rất lâu. Và những cảm xúc chợt ùa đến. Chàng nghĩ đến người cha không bao giờ biết mặt, người cha đã không được nhìn thấy con mình, dù chỉ một lần. Chàng nghĩ đến người ông chàng không bao giờ biết đến, điên cuồng vì cái chết của con.


Chàng nghĩ đến hai thế hệ trước chàng, đau khổ và thê thảm suốt cả cuộc đời. Đã hy sinh tất cả. Và​ không được lại điều gì. Chỉ bây giờ 35 năm sau mới thấy được thế hệ thứ ba là chàng, đang đứng trước mặt đây. Có phải bộ xương này là của ba chàng? Và Sơn đứng đó, những giọt lệ lan trên má, lúc đầu chậm nhưng càng lúc càng chảy đầm đìa, tuôn tràn, như không thể ngưng lại được. Những giọt nước mắt nóng rơi xuống từng giọt, từng giọt trên bộ xương. Những giọt nước mắt đó, như được hướng dẫn, rơi vào một điểm gồ lên trên xương chẩm của lồng ngực. Và bùn đất tích tụ bao nhiêu năm trên điểm gồ này tan dần để lộ ra một màu xanh kỳ lạ. Ánh nắng lọt từ khe mái tôn chiếu thẳng vào điểm gồ làm màu xanh càng lúc càng bừng lên. Bùn đất bây giờ đã tan hết để lộ rõ ràng miếng ngọc bích màu xanh, nằm ngay trên xương lồng ngực. Sơn vội vàng kéo vòng dây đeo cổ của chàng ra ngoài áo. Ánh nắng chiếu vào miếng ngọc bích trên bộ xương như nhảy múa và phản chiếu lại vào miếng ngọc trên ngực chàng. Sơn đứng sững người. Màu xanh của hai viên ngọc như quyện lấy chàng, như ve vuốt chàng, mềm dịu, âu yếm, chập chờn trên gò má chàng, trên sống mũi, trên miệng, trên môi chàng. Như muốn nhận biết đây là người con trai yêu quý, người con chưa bao giờ biết mặt, sau hơn 35 năm đã đến đây, để nhận biết người cha của mình, để biết đâu đã là nguồn sống của mình. Và sau cùng đã đến để giải thoát cho oan hồn của người cha, từ bao lâu nay chỉ chờ đợi giây phút này. Khi những giọt lệ của người con trai dấu yêu đã xóa bỏ những hờn oán, những phẫn nộ không nguôi, những uất ức triền miên và những thành trì trói buộc, để được siêu thăng về nơi chốn của vô cùng và của mãi mãi.


Nguyễn Đình Phùng

User avatar
VuPhong
Posts: 2923
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Sao Hôm, Sao Mai...

Vương Mộng Long (K20)
Giữa Tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng Tây Nam. Trong hai ngày 14 & 15 Tháng Tư 1974, Tiểu Ðoàn 82 BÐQ/ QLVNCH bị hai trung đoàn 48/SÐ320 & 64/ SÐ320/ CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến thuật biển người.

Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 Tháng Tư 1974, Cộng quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711. Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu Ðoàn 82/BÐQ vẫn không bỏ chạy khỏi vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương, họ đã đâu lưng cùng nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ trợ của một tiểu đoàn Bộ Binh, Tiểu Ðoàn 82/BÐQ trừ (-) đã trở lại trận địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của Biệt Ðộng Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng Sản bám trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50 quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Ðồi Thịt Bằm.”

Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như một cơn giông mùa Hè. Rồi, tình hình lắng dịu, địch và ta lại ghìm quân, chờ dịp ra tay khi phát giác sơ hở của kẻ thù. Ở Plei-Me, thời gian ấy, đơn vị tôi chịu trách nhiệm một vùng cố định. Tôi có cảm tưởng như mình là một tiểu tướng cầm quân thời Tam Quốc. Tôi đã phải nặn óc, vận dụng hết khả năng, kinh nghiệm, sở trường của mình để đương đầu với một đơn vị địch mạnh gấp năm sáu lần đơn vị mình.

Tôi biết rõ Sư Ðoàn 320 CSBV từ xuất xứ, tổ chức trận liệt, tới thói quen, sở trường, sở đoản. Ðịch thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư Ðoàn 320/Ðiện Biên, cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và không kém can trường, liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẩu điện đàm của địch lọt vào đài kiểm thính của ta, trong đó, Chính ủy Sư Ðoàn 320/Ðiện Biên, đã cảnh giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp với thằng Hai Nâu.” Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TÐ82/BÐQ là “Thằng Hai Nâu.”

Một ngày, giữa Tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục soát vùng Nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, “Thằng Hai Nâu đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó...” điện văn này của Bộ Tư Lệnh SÐ320/CSBV ra lệnh cho Trung Ðoàn 48/SÐ320. Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng bắc Chư Gô rạp xuống như những luống cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé (Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ đông bắc xuống tây nam, sát chân núi Chư Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của tôi.

Tôi ra lệnh cho Ðại Úy Quách Cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2 (106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối. Quân dã ngoại của tôi ém trong núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm. Về tới cổng Nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Ðại Úy Bình, thì từ biên giới Miên, địch đã nã khoảng hai trăm trái đại bác vào trại.

Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ-Lớn bị tử thương. Rồi tình hình lại yên...

Cuối Tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng Sản chiều chiều cưỡi ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng Bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới hoạt động của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh trừ (-) và Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân. Trung Tá Nguyễn Thanh Danh (k19 VB), Trung Ðoàn Phó Trung Ðoàn 42 Bộ Binh, đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ thằng Việt Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng Bắc. Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp mặt Trung Tá Danh. Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung Tá Danh đi vắng, nhưng may mắn, tôi đã gặp Ðại Tá Nguyễn Hữu Thông (k16 VB), Trung Ðoàn Trưởng Trung Ðoàn 42/SÐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu Ðoàn tôi nằm dưới quyền giám sát hành quân của Niên Trưởng Thông.

Niên Trưởng Thông hỏi:

- Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?

Ðứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên Trưởng Thông nghe tin tức địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị,

- Niên Trưởng nới thêm cho tôi một click về Bắc, để tôi dễ bề xoay trở.

Ðại Tá Thông đồng ư ngay:

- Okay, Làm đi! Chắc tên vi-xi này tới số nên mới gặp chú...

***

Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách Cơ Bình (TÐ phó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Ðại Úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn, vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung Sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ Sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Ðại Ðội 1/82.

Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Ðại Ðội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Ðại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây số hướng Tây Bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không biết thày trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới việc tôi xuất trại.

Tôi chọn “vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngă ba Tỉnh lộ 6C làng Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau thành hình chữ “W.” Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn đạn chéo của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm Vương đã gọi.

Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự.

Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự.

Ngày thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu...

Binh Nhứt Y Huynh nói nhỏ vào tai tôi:

- Thiếu tá! Có tiếng xe!

- Tao có nghe gì đâu?

Tôi quay sang hỏi chú Chi:

- Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?

Trung Sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu,

- Dạ không. Em không nghe gì cả!...

Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu:

- Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Ðó! Ðó! Nghe rõ chưa?

- Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm...

Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng Tây, phía làng Gà (PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây. Chim rừng hoảng hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Ðoàn cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn, như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.

Tôi ghé tai chú Chi và chú Ba ra lệnh:

- Chuẩn bị đánh tank! Ðánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!

Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ đất cao bốn, năm thước. Bảy Biệt Ðộng Quân, bố trí trên bìa đường, dòm xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi ngù ngờ dưới kia (!). Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ...

Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!.. Ì...Ì...Ì...Ỉm!...” đoàn xe rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi móc xích bám vào guồng quay. Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây ra tiếng “két! két!”

Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường, chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau lưng. Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội. Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhơm. Thoáng chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc.

Chú Ba lầm bầm:

- Ðồ phá thối!

Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường tắt, chúng tôi rút về tiền đồn Bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ bị hư không thể chạy về Pleiku. Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Ðám dân khai thác gỗ này gồm một phụ nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi, nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai chiếc xe be, một chiếc bị Việt Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên xin vào tá túc. Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú qua đêm trong câu lạc bộ tiểu đoàn.

-Tôi là người quen của Trung Tá Danh...

Bà chủ xe be khoe với tôi.

- Tại sao xe của bà bị Việt Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng Sản à?

- Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia Drang. Vi phạm lệnh cấm là họ bắn. Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.

- À ra thế!

Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung Tá Danh, báo cho anh biết tin tức người quen của anh đang tá túc trong trại Plei Me, sáng mai đoàn xe của họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.

***

Ngày kế tiếp...

Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt Miên.

“Oách! Oách! Oách!... Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!...” đàn chim khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng tây, tiếng chim rộ từng chập. Chúng tôi nín thở.

“K'rọc!... K'rọc!...” - “Hừm!...Hừm!..”

Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá!

Con cóc Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng.

Tiếng “K'rọc! ...K'rọc! ...” - “Hừm!... Hừm!...” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân giẫm trên lá khô. Một bóng người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của tử địa.

“K'rọc!... K'rọc ...” -“Hừm!... Hừm!...” Trong nắng xế tà, một đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên đường xe be. Tay phải anh ta giữ chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc, anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!...Hừm!..” Còn tiếng “K'rọc!... K'rọc!...” đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo nhịp bước. Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng.

Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O... o... o...” sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò, không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nổi ngứa dày vò, không dám găi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.

Chợt rừng chiều xào xạc...

“Oách! Oách! Oách!...Quàng! Quàng! Quạc! ...Ụt! Ụt! Ụt!...” Hướng Tây, đàn chim khách lại rời cành, vụt bay lên không. Lần này tiếng chim rộn ră, dồn dập hơn lần trước. Rồi chúng tôi thót tim, khi nghe tiếng vó ngựa nện trên đường, “Lộp cộp!... Lộp cộp!... Lộp cộp!...”

Tôi hít một hơi dài cho không khí vào đầy lồng phổi. Tay tôi cầm chắc con cóc Claymore. Tôi liếc mắt ra dấu cho chú Ba. Ba gật đầu, tay chú cũng đang nắm chắc một con cóc Claymore.

“Lộp cộp!... Lộp cộp!... Lộp cộp!...” một con ngựa đen, cao to, chắc nó thuộc dòng giống ngựa thồ, lững thững tới gần bụi lau có đánh mốc bên đường. Trên lưng ngựa là một người to lớn, y phục đen, có dây súng lục đeo chéo qua vai.

Tôi nghiến răng, bấm cò con cóc.

“K'rạch!”

Con cóc đã kích hỏa, nhưng quả mòn không nổ!

Con ngựa như nghe được tiếng động lạ, nó đứng dừng lại, hai vó trước dở hổng, quơ quơ lên trời.

“Hí!... Hí!... Hí!...í!...í!...í!...” Con ngựa cất vó, ngửa cổ hí.

Một cái bóng đen bay vòng qua đầu con ngựa, rơi trong bụi lau bên kia đường.

“Oành!” quả Claymore của Hạ Sĩ Ba nổ! Ào ào một cơn lốc bụi đỏ bốc lên, kéo theo cành lá găy. Tiếp đó, “Rẹt! Rẹt! Rẹt!...” bảy khẩu M16 bắn chéo nhau, đạn đan sát mặt đất.

Con chiến mã quằn quại trên mặt đường xe be, miệng phì phì sùi bọt.

Tôi và Trung Sĩ Chi tiến ra chặn nút hai đầu đường. Hạ Sĩ Ba và bốn tay súng băng nhanh qua đường, kiểm soát kết quả. Mình ngựa bị ghim đầy vết Claymore và vết M16. Nhưng trong vòng bán kính một trăm mét, chúng tôi không tìm ra dấu tích của chủ nó. Ðại Ðội 3/82 của Thiếu Úy Phạm Ðại Việt đang hoạt động vùng Tây Bắc Plei-Me được điều động hỏa tốc tiến về hướng bắc, ngăn chặn con đường về làng Gà.

Suốt ngày hôm sau, chúng tôi lục soát từng tấc đất quanh vùng tử địa. Nơi con suối hướng bắc con đường, chúng tôi tìm được dấu giày lưu lại của con mồi. Con mồi đã thoát thân thẳng về hướng Bắc.

Tôi kiểm lại quả Claymore của tôi thì phát giác ra rằng, sức điện đã làm đứt một trong hai sợi dây chì gắn vào đầu ngòi nổ, khiến dòng điện bị ngắt, trái mìn câm.

Chú Chi càm ràm:

- Chắc thằng “cội” này có bùa!...

***

Ít lâu sau...

Trung Ðoàn 42/SÐ22 Bộ Binh chuyển vùng hoạt động về Bình Ðịnh, căn cứ 711 được bàn giao cho Liên Ðoàn 24 BÐQ trách nhiệm. Lúc này vùng hành quân của TÐ 82 BÐQ được thu hẹp lại về hướng Nam hai cây số. Làng Xổm nằm trong vùng trách nhiệm của TÐ81/BÐQ. Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân đã đặt bản doanh Bộ chỉ huy Tiểu Ðoàn 81 BÐQ của ông ngay dưới chân ngọn núi lửa nơi ngã ba làng Xổm.

Trưa 27 Tháng Bảy 1974, chiến dịch tấn công xóa sổ đồn Plei-Me mở màn. Với sự yểm trợ trực tiếp của một tiểu đoàn pháo, Trung Ðoàn 64/SÐ320 CSBV hướng bắc, Trung Ðoàn 48/SÐ320 CSBV hướng Nam, đồng loạt mở một cuộc bôn tập tập kích hai tiểu đoàn Biệt Ðộng Quân đang hành quân mở đường dọc Tỉnh lộ 6C. Sau hòa đàm Paris, chiến thuật bôn tập tập kích đã được các đơn vị Cộng Sản thuộc Mặt Trận B3 áp dụng một cách bài bản và hiệu quả. Chiến thuật này là một sự phối hợp nhịp nhàng giữa pháo kích và di chuyển tập kích. Bộ Binh địch khẩn cấp di chuyển băng rừng tiến tới mục tiêu, trong khi pháo địch tác xạ tối đa trên vị trí quân ta. Khi pháo địch vừa ngừng thì bộ binh địch đã ở kế bên ta rồi. Ta chưa kịp chấn chỉnh đội hình thì địch đã xung phong. Vì vậy, ngay đợt xung phong đầu, Việt Cộng đã chặt đầu Thiếu Tá Nguyễn Ngọc Lân, vị tiểu đoàn trưởng của TÐ81/BÐQ bên chân núi lửa. Cùng ngày, chúng đã bắt làm tù binh ông tiểu đoàn phó TÐ81/ BÐQ là Thiếu Tá Trần Văn Ngọc (k18 VB).

Trong khi đó, tại mặt trận phía Nam, Trung Ðoàn 48/SÐ320 của địch không tiến được bước nào. Suốt ngày 27 Tháng Bảy 1974, ba đợt tập kích của địch đều bị chặn đánh từ xa bởi những toán viễn thám. Pháo địch dứt, nhưng tiền quân địch chưa tới mục tiêu. Khi lực lượng tập kích địch tới được mục tiêu thì khả năng tác chiến đã giảm đi nhiều. Mục tiêu của địch là con đường, nhưng trên mặt đường và hai bên đường trống trơn, địch xung phong vào chốn không người. Trước đó, pháo địch nổ dày đặc trên mặt Tỉnh lộ 6C chỉ cày xới đất đá vô tri, vì quân mở đường của TÐ82/BÐQ không trải dài trên trục lộ như thói quen của các đơn vị khác khi hành quân khai lộ, mà đóng chốt chặn các trục xâm nhập bằng cấp đại đội với hố cá nhân và giao thông hào. Cách bố quân dă ngoại đặc biệt lạ lùng này của TÐ82/BÐQ đã khiến Trung Ðoàn 48/SÐ320 CSBV không thi thố được sở trường bôn tập của nó. Lần đầu tiên trên chiến trường Tây Nguyên, chiến thuật bôn tập, tập kích của Mặt Trận B3 thất bại.

Những ngày sau đó, tiền đồn Plei Me bị cô lập, và địch lại tiếp tục cái màn xa luân chiến. Hết Trung Ðoàn 48/SÐ320 đến Trung Ðoàn 64/SÐ320, rồi tới Trung Ðoàn 26 Ðịa Phương/Mặt Trận B3 thay nhau phơi thây trên các lớp rào kẽm gai phòng thủ Plei Me. Hai mươi đợt biển người, biển lửa, mưa pháo, mưa truyền đơn của Sư đoàn Ðiện Biên vẫn không hạ nổi lá cờ vàng ba sọc đỏ phần phật tung bay trên ngọn cột gỗ giữa sân tiền đồn biên phòng này. Trận đánh đã kéo dài ba mươi tư ngày đêm. Sáng mùng 2 tháng Chín 1974 chiến dịch vây hăm Plei Me chấm dứt. Thêm một lần đụng độ, “Thằng Hai Nâu” đã chứng tỏ cho địch biết rằng, ở Tây Nguyên, Tiểu Ðoàn 82/Biệt Ðộng Quân là một địch thủ vô cùng lợi hại, một địch thủ chúng không thể đánh bại. Trung Ðoàn 48/SÐ320 là đơn vị địch bị thiệt hại nặng nề nhứt trong đợt cao điểm này. Trung đoàn này phải rút về biên giới để bổ sung và tái huấn luyện.

Tới đầu năm 1975, Trung đoàn 48/Sư đoàn 320 được giao nhiệm vụ chủ công trong chiến dịch tấn công Ban Mê Thuột. Lúc đó Tiểu Ðoàn 82/BÐQ đã chuyển vùng về bảo vệ tỉnh Quảng Ðức. Vì thế “Thằng Hai Nâu” và những đơn vị trực thuộc SÐ320/Ðiện Biên CSBV không còn dịp nào chạm mặt nhau nữa...

***

Sài Gòn, ngày 7 tháng 5, 1975.

Hai chiếc xe con của Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam ngừng lại nơi đầu hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2, Sài Gòn. Một người cao lớn, bận quân phục lực lượng vũ trang Cộng Sản Bắc Việt bước xuống từ chiếc xe thứ nhứt. Ông ta trạc tuổi trên bốn mươi, đeo kính râm, cặp da, súng ngắn. Ve áo ông ta lấp lánh quân hàm thượng tá của quân đội Nhân Dân Việt Nam, với ba sao, hai gạch vàng, trên nền nỉ đỏ. Xe thứ nhì có máy truyền tin với bốn bộ đội trang bị AK. Người sĩ quan Bắc Việt cùng hai hộ tống viên đi vào ngõ TK9, tìm địa chỉ.

Tới căn lầu đúc gần cuối hẻm, họ dừng lại. Người sĩ quan CSBV cất tiếng hỏi:

- Phải nhà này có Vương Mộng Long không?

Lúc đó tôi đang ngồi đọc báo nơi phòng khách. Tôi ở nhà một mình. Mẹ tôi đi vắng. Bà cụ lên Ban Mê Thuột để tìm kiếm vợ con tôi.

- Phải! Các ông cần gì?

- Tôi muốn gặp Vương Mộng Long.

Thấy có người trang bị súng ống đến tận nhà gọi đích danh mình, tôi liên tưởng ngay tới một vụ bắt bớ. Tuy hơi chột dạ, nhưng tôi vẫn từ tốn trả lời:

- Tôi đây!

- À! Anh Long đây hử? Anh Long có mạnh khỏe không?

- Cám ơn ông, tôi vẫn khỏe.

Ông thượng tá quân đội Bắc Việt quan sát tôi vài giây rồi nói:

- Vất vả hai ngày nay tôi mới tìm được địa chỉ của anh. Tôi có chuyện muốn nói với anh, anh có vui lòng tiếp tôi hay không?

- Vâng, mời ông vào nhà.

Ðể hai cận vệ đứng gác bên cửa ngăn đám trẻ con hàng xóm tò mò bu quanh, người sĩ quan CSBV bước vào nhà tôi. Ông ta không hề đảo mắt quan sát căn phòng khách. Ít người có thái độ thế này khi vào nhà người lạ. Ông gỡ cặp kính đen, bỏ mũ xuống mặt bàn, chìa tay ra cho tôi bắt. Bàn tay to lớn, sần sùi, rắn chắc, nhưng rất ấm. Rồi ngồi ngay xuống ghế, với giọng oang oang, tiếng Bắc, pha chút âm sắc lơ lớ Thượng Du Bắc Việt, ông ta mở lời,

- Anh Long có nhận ra tôi không?

- Xin lỗi! Ông là ai? Tôi không nhớ đã gặp ông lúc nào.

- Tôi là người bị anh giết hụt ở Tây Nguyên cách đây một năm.

- À...

- Tháng Sáu năm ngoái, anh đã phục kích tôi ở làng Xổm. Con ngựa của tôi bị bắn chết, nhưng tôi thoát. Tôi muốn gặp anh, xem mặt anh, nói chuyện với anh vài phút. Thế nào, có được không?

- Ư...ư... ông cứ tự nhiên...

Ðôi mắt ông khách sáng quắc, giọng nói của ông oang oang, cung cách của ông thật là chất phác thực thà. Lần lượt, ông thượng tá hỏi qua quê quán của tôi nơi nào ngoài Bắc? Năm nào gia đình tôi vào Nam? Gia cảnh tôi thế nào? Vợ con tôi ra sao? Tôi tình nguyện đi lính Ngụy hay đã bị bắt lính, động viên? Bao nhiêu lần thương tật? Bao nhiêu lần được tặng thưởng huân chương?

Qua thái độ và giọng nói của ông ta, tôi thấy người địch thủ cũ của mình không có ý tầm thù. Vì thế, lòng tôi cũng cảm thấy bớt lo ngại.

Người sĩ quan Bắc Việt ôn lại chuyện xảy ra trong những ngày tháng khói lửa mịt mù ở Ðiện Biên Phủ, ở Quảng Trị, ở Tây Nguyên.

Ông khách thao thao:

- Tớ là con quan Lang xứ Cao Bằng. Mười bẩy tuổi tớ vào bộ đội đánh Tây. Tớ phục vụ Sư Ðoàn 320 từ ngày thành lập, cho tới tận bây giờ. Ðánh Ðiện Biên tớ làm đại đội trưởng. Tới thời đi B, xâm nhập miền Nam, tớ làm trung đoàn trưởng. Mười năm đánh Tây, hai mươi năm chống Mỹ, vào sinh, ra tử. Giờ này mới thấy hòa bình...

Ông khách kể tự truyện, theo đó, trước 1945, ông học trường Tây ở Hà Nội. Ông sắp thi “Diplôme” thì Cách Mạng Tháng Tám xảy ra, ông đi theo kháng chiến, giữ chân liên lạc viên, rồi thành bộ đội. Ông kể chuyện đánh thắng Ðiện Biên, thời Tây, chuyện giải phóng Tân Cảnh, thời Ngụy, chuyện hai lần suýt bị máy bay B 52 làm cỏ ở Pơ-Lây Cần (Ben Het), chuyện Sư Ðoàn 320/Ðiện Biên CSBV rời địa bàn Kontum, chia đôi, một nửa về chiến trường Bình Ðịnh, một nửa xuôi Jarai. Rồi khách rầu rầu vắn tắt nhắc trận thư hùng Tháng Tư 1974 bên bờ Suối Mé (căn cứ 711). Trận này, sau khi dùng hơi ngạt để tấn công tôi, suýt tí nữa ông ta đã bắt sống được tôi, nhưng cuối cùng, ông ta đã thua tôi (TÐ82/BÐQ).

Khi kể tới trận vây đồn Plei Me 34 ngày đêm (Tháng Bảy-Tám năm 1974) ông ta la lớn:

- Ðúng là kỳ phùng địch thủ! Tớ không ngờ trên đời lại có thằng lì như cậu! Hết xung phong tới pháo, hết pháo tới truyền đơn, hết truyền đơn lại pháo. Vậy mà cậu vẫn không chịu đầu hàng! Cuối cùng tụi tớ phải bỏ cuộc! Gớm thật!

Sau câu, “Gớm thật!” ông ta vỗ đùi đánh “độp!” một cái, rồi nhìn tôi, tán dương:

- Lì thật! Tớ khen cậu đó!

Tiếp theo, khách thao thao về chiến tích của trung đoàn chủ công giải phóng Buôn Ma Thuột Tháng Ba 1975 và màn bôn tập Quân Ðoàn 2 Ngụy trên đường rút chạy. Với chiến công này, ông trung tá trung đoàn trưởng CSBV đã được thăng cấp thượng tá. Khách nói nhiều hơn chủ nhà. Khách nói say mê, miên man, trong lúc chủ nhà chỉ ậm ừ. Ông ta là kẻ chiến thắng, có thế để nói. Tôi là người thua trận, mở miệng mắc quai. Trên môi khách là nụ cười tự hào. Trên môi tôi, nụ cười như mếu.

Trong dịp gặp mặt ngày hôm ấy, ít nhất, đã ba lần, ông ta thắc mắc:

- Ðộng cơ nào khiến cậu chiến đấu một cách ngoan cường, lì lợm như thế?

Tôi chỉ trả lời thật gọn:

- Vì chữ hiếu!

Nghe vậy, ông ta có vẻ không thỏa mãn với câu trả lời của tôi, nhưng ông ta cũng không gặng hỏi thêm.

Cuộc thăm viếng chấm dứt, tôi tiễn người khách không hẹn gặp ra về.

Nơi bực cửa, khách nhìn vào mặt tôi, dịu giọng như thông cảm:

- Tôi còn ở Sài Gòn ít lâu nữa. Tôi được đề cử vào đây dự lễ nhận huân chương do Bác Tôn trao tặng. Trước lúc chia tay, tôi muốn nói với anh rằng, chúng ta đã đánh nhau hai lần trên Tây Nguyên, hai lần bất phân thắng bại. Cuối cùng, anh là người thua trận. Dù rằng anh là lính Ngụy, tôi vẫn coi trọng anh, vì anh là một ngôi sao sáng hiếm hoi. Tôi với anh như Sao Hôm với Sao Mai, anh sáng thì tôi tối, anh tối thì tôi sáng. Hôm nay tôi đến thăm anh, an ủi đôi lời. Thương cho anh, một vì sao rụng.

- Cám ơn ông.

Vào lúc người sĩ quan Cộng Sản cất bước, tôi cố với theo:

- Ở suối Mé ông giết hụt tôi. Ở làng Xổm tôi giết hụt ông.Thế là hòa. Còn trận Plei-Me ba mươi tư ngày đêm, thì ông thua tôi rành rành. Về cái vụ Ban Mê Thuột, tôi công nhận, ông đã chiến thắng. Nhưng người đánh nhau với ông ở Ban Mê Thuột không phải là tôi.

- Anh nói đúng. Trong trận Buôn Ma Thuột không có “Thằng Hai Nâu.” Và trong số những người bị tôi bắt, không có anh...

Khi thốt ra những lời cuối cùng này, mặt ông ta hơi sầm lại, ngượng ngùng.

Vài phút sau, hai chiếc xe con của Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam và người khách không mời rời con hẻm.

***

Ðầu năm 1988, tôi được tha từ trại cải tạo Z30D Hàm Tân, Thuận Hải.

Tháng Mười Một năm 1988, tôi nộp đơn xin xuất cảnh sang Hoa Kỳ tỵ nạn.

Từ Tháng Giêng 1990, những người bạn nộp đơn xin xuất cảnh cùng thời với tôi như Phan Trần Bảo (Cảnh Sát), Ðỗ Dũng (KQ), Lư Ngọc Châu (BÐQ) vân vân, đều đã lên danh sách, chờ ngày phỏng vấn. Riêng hồ sơ của tôi và hai anh bạn Nguyễn Thanh Danh (k19VB) và Lê Văn Ðể (BÐQ) vẫn bặt vô âm tín.

Tháng Tám năm 1990, tôi tới Sở Công An Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh để hỏi hồ sơ của mình thì được biết, cô Huyền, người nữ công an phụ trách hồ sơ của tôi đang nghỉ phép đẻ. Sau khi đẻ, cô ta lại chuẩn bị theo học một lớp Anh Văn kéo dài nửa năm. Một anh bạn gốc Không Quân đã giúp tôi rút hồ sơ ra để chuyển lên Sở Ngoại Vụ. Anh Danh và anh Ðể cũng vừa lấy được hồ sơ ra, họ rủ tôi đi Hà Nội làm thủ tục xuất cảnh để được cứu xét nhanh hơn. Người ta nói rằng, nếu đem hồ sơ ra Hà Nội nộp cho Phòng Xuất Cảnh Bộ Ngoại Giao, sẽ lướt qua ít nhứt vài ba danh sách.

Hà Nội, với tôi, cũng có chút kỷ niệm riêng tư thuở ấu thơ. Tôi vẫn mong một dịp nào đó trong đời, về lại chốn này, tìm dư hương ngày cũ. Tôi đạp xe một vòng quanh Sài Gòn, gặp người quen, xin viện trợ. Trung Tá Bùi Văn Huấn, cựu liên đoàn trưởng Liên Ðoàn 22/Biệt Ðộng Quân giúp tôi 100 nghìn đồng. Bạn tôi, (TQLC) Mai Văn Tấn (k21VB) cho tôi 100 nghìn đồng. Và anh Vũ Văn Ích, một người anh con dì con già của tôi cũng giúp tôi 100 nghìn đồng nữa. Thế là tôi có đủ lộ phí lên đường về Hà Nội.

Hà Nội, một ngày tháng 8 năm 1990...

Tôi xuống ga Hàng Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, giơ tay ngoắc:

- Tìm nhà trọ phải không?

- Phải...

- Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa...

Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.

- Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn...

Tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn.

- Bên kia đường... theo tôi...

Tôi theo chân người chủ nhà vào khu cư ngụ của công chức về hưu, đối diện với khách sạn quốc doanh. Khu cư xá này có khoảng trên dưới chục căn phòng. Ông chủ nhà trọ dẫn tôi vào căn phòng bên trái cư xá:

- Nhà tôi đây...

Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ:

- Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú, chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi...

Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm, rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình chữ “U.” Ba người nằm trong một căn phòng hẹp, một người phát ngôn, hai người kia đều nghe rõ...

- Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về?

Ông chủ nhà gợi chuyện.

- Hải Dương.

- Hải Dương xe chạy cả đêm, sao không về?

- Tôi có việc phải ở Hà Nội vài ngày...

- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì?

- Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam...

- Có thường ghé Sài Gòn không?

- Chuyến nào mà chẳng ghé...

- Ba, bốn năm nay anh không ghé Sài Gòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?

- Vâng, đông lắm, vui lắm... vậy chứ bác đã ở Sài Gòn hở? Bác làm gì trong đó?

- Tớ dạy học. Tớ dạy Ðại Học Khoa Học...

- Ủa! Vậy ra bác là giáo sư...

- Tớ dạy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về hưu...

- Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?

- Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau... chúng nó thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm ăn...

- Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?

- Bằng cấp con khỉ mốc! Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ Học Yếu Lược (thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Ðảng, vốn liếng của tớ chỉ có mớ lý thuyết Cộng Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng miền Nam xong, Ðảng ủy yêu cầu tớ dạy lý thuyết Ðảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Ðảng, tiếng nói của một thằng i tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng... học sinh nghe theo răm rắp...

- Rồi sau đó...

- Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên Xô, Tiệp Khắc trở về. Chúng nó thay chân những tên i tờ như tớ... tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ qua đêm, kiếm cơm...

- Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?

- Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!

Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi:

- Tìm cái gì đấy hở?...

- Phố Hàng Bài...

- Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!

Ông chủ nhà nằm ngửa, mắt lim dim nhìn trần nhà, miệng cười khì khì:

- Chú em đi buôn đường Sài Gòn, Hà Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ Tướng...

Tôi đành nhỏ giọng, thú thật:

- Tôi là sĩ quan của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà Nội để nộp đơn đi Mỹ...

- Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần túy Hải Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải Dương. Trước chú, đã có đôi người của chế độ Sài Gòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Ðời chú như thế là may mắn lắm rồi...

Ông giáo sư đại học về hưu thở dài,

- Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai...

Ðêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh Hà Nội, Tô Lan Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông.” Giọng cô ca sĩ nhân dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại, cài then. Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô Lan Phương bị chặn lại ngoài hiên.

Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, “Anh ở đầu sông, em cuối sông...” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt, nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.

***

Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố phường Hà Nội. Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ Hội An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng... leng keng...” làm cho thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về hướng hồ Hoàn Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả, cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi ...

- Chè đỗ đen đi chú em...

- Cho tôi một bát.

Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên:

- Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?

Tôi giựt mình, “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?”

Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang:

- Bát to đấy nhá! Ðể lấy sức cuốc một ngày.

- Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Ðiện Biên, Tây Nguyên lấy sức đánh... xích lô.

Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái mông đồ sộ của ông. Ðưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than thở:

- Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ...

- Ðại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá...

- Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu... Mẹ kiếp! Hồi xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó duỗi mình ra, nó ăn cả, đồ chó má!

Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích,

- Ông đại tá một đời theo Ðảng. Anh hùng Ðiện Biên, Tây Nguyên đấy! Ðáng nhẽ ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp quá!

Người phu xe già thở dài:

- Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như... một vì sao rụng.

Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi... Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi,

- Xích lô! Xích lô!

Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh:

- Mai tôi giả tiền nhớ! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên...

- Ðược mà! Khách quen, mai giả cũng được mà...

Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước (Tháng Năm 1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn Cảnh Chân, Quận 2 thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sài Gòn thất thủ. Tôi cố ôn chuyện cũ trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá. Ông thượng tá Ðiện Biên, anh hùng Quân Ðội Nhân Dân Việt Nam có đôi vai ngang, người phu xe già... cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng tá con quan Lang xứ Cao Bằng.

Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ. Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở, “Bây giờ, thân tớ ví như... một vì sao rụng.”

***

Ðêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng Long, tôi đứng bên này đường, trong ánh điện mờ. Bên kia đường là ga Hàng Cỏ. Nơi này, bố tôi đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải Dương, ngày tôi tròn bốn tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương thời hay hát, “Ai yêu Bác Hồ chí Minh hơn chúng em...”

Bố bịt mồm tôi lại:

- Con ơi! Ðừng hát bài này, bài hát không hay... Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!

Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Ðứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố vẫy tay. Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát không hay” đã giết bố tôi...

Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Ðêm nay, trước ga Hàng Cỏ, đứng bên cái cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước mắt:

- Bố ơi! Bố ơi!... Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi!...

Năm giờ sáng hôm sau tôi phải vào ga để lên tàu về lại Sài Gòn. Ông chủ nhà dậy sớm khui gói chè móc câu Thái Nguyên pha tiễn khách. Tôi bắt tay, nói lời cám ơn người chủ nhà trọ, rồi bước ra đường.

Sáng mùa Thu Hà Nội, buồn hắt hiu. Heo may nhè nhẹ. Ðiện đường lập lòe. Quán hàng còn đóng cửa. Vài chiếc xích lô vội vàng đưa khách vào ga. Còi tàu rúc từng hồi. Loa phóng thanh trên cột đèn và trên cổng ga còn im tiếng, vì chưa tới giờ phát đi những “bài hát không hay.”

Ðứng trên sân ga Hàng Cỏ, lòng tôi man mác bâng khuâng. Vừng dương đang lên. Sao Mai mờ dần. Chân trời hừng đông mầu tím nhạt. Có đôi vì sao đang rơi trong không trung mờ ảo mênh mông...

User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

Image

Lời Thề bên dòng sông Mỹ Chánh
Kiều Mỹ Duyên

Khoảng lúc 12 giờ trưa ngày 30 tháng 3 năm 1972, những đơn vị tiền phương của Cộng quân tràn qua sông Bến Hải, vượt vùng phi quân sự, tấn công quy mô vào miền Nam, mục tiêu đầu tiên là tỉnh Quảng Trị. Lực lượng gồm hai sư đoàn chính quy là Sư Đoàn 304, Sư Đoàn 308 và 4 trung đoàn bộ binh biệt lập, hai trung đoàn chiến xa, gồm hơn 400 chiếc, là Trung Đoàn 203 và Trung Đoàn 204; hai trung đoàn pháo binh, Trung Đoàn 38 Pháo và Trung Đoàn 84 Tên Lửa cùng với nhiều đơn vị yểm trợ khác.


Ngay giây phút đầu, các căn cứ hỏa lực của Sư Đoàn 3 Bộ Binh và của các đơn vị tăng phái Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến ở Camp Caroll, Mai Lộc, Sarge, Núi Bà Hổ, căn cứ Alpha 2 và Alpha 4, Charlie 1 và Charlie 2 cũng như thị trấn Đông Hà và thành phố Quảng Trị đều bị những trận pháo phủ đầu rất khốc liệt. Sư Đoàn 308 của Cộng quân sau khi vượt qua sông Bến Hải, tiến thẳng vào các căn cứ hỏa lực Fuller, Alpha 2, Charlie 1 và Charlie 2, rồi vượt qua sông Cam Lộ để tiến về Đông Hà, Ái Tử, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 Bộ Binh do Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai chỉ huy. Sư Đoàn 304 của Cộng quân sau khi qua sông Bến Hải, đánh bọc từ hướng Tây vào các căn cứ hỏa lực Sarge, Núi Bà Hổ, Mai Lộc, Thung Lũng Ba Lòng để tiến về thành phố Quảng Trị.


Những loạt pháo kích đầu tiên của Cộng quân vào thành phố Quảng Trị khiến cho dân ở đây bàng hoàng khiếp sợ. Không phải như những đợt pháo kích lẻ tẻ dăm ba chục trái mà trước đây vẫn thường như cơm bữa. Lần này thì không ai còn đủ bình tĩnh để đếm là bao nhiêu trái đạn và hỏa tiễn đã trút lên thành phố thân yêu của mình. Họ linh cảm được sự chết chóc và tang thương đang kề cận.


Những ngày đầu của tháng 4, nếu đứng ở trạm kiểm soát An Hoà, cửa vào mặt Bắc của thành phố Huế, người ta thấy đã có những gia đình từ Quảng Trị di chuyển về Huế, và mức độ này ngày càng tăng lên. Kể từ giữa tháng 4 trở về sau, những chuyến xe đò từ Quảng Trị vào, trên xe đều có một số gia đình di tản. Thỉnh thoảng mới thấy một gia đình di tản bằng xe nhà, họ thuộc vào những gia đình khá giả. Những người di tản sớm, mang theo được nhiều của cải cùng những đồ dùng cho gia đình giống như dọn nhà chứ không phải là chạy giặc.


Vào những ngày cuối tháng 4, trận chiến đã đến hồi đẫm máu. Cộng quân pháo đạn 130 ly vào các căn cứ Ái Tử, Đông Hà và thành phố Quảng Trị như mưa trút nước. Những người di tản trong lúc này ngay cả sinh mạng cũng khó giữ toàn vẹn, chứ đừng nói đến của cải. Địch quân đã nỗ lực cắt Quốc Lộ I để cô lập Quảng Trị. Bởi vậy, càng thấy Quảng Trị sắp bị cô lập, người dân Quảng Trị bằng mọi giá cố gắng chạy thoát về Huế. Họ bỏ nhà cửa, ruộng vườn, của cải, chỉ mong chạy thoát thân được là phước đức.


Buổi sáng, sau khi gửi bài về toà soạn, tôi đến thăm đồng bào từ Quảng Trị chạy về Huế. Họ mới về đây đêm qua và hiện đang tạm trú ở trường trung học quận Hương Trà và ở các trường tiểu học quận Phú Vang. Ông già, bà già và trẻ con ngồi bẹp giữa sân trường, trên các bãi cỏ vì quá mệt mỏi.


Tiếng loa phóng thanh vang lên không ngừng, những lời kêu gọi, những thông cáo, nhắn tin... Trường trung học Hương Trà bỗng chốc đã biến thành trại tị nạn Cộng Sản, tiếp nhận những người mới thoát về được đêm hôm qua và một số mới đến sáng nay. Trên một khoảng sân gần cổng trường, các sơ và sư cô đang phát quà không ngừng tay. Quà này do cơ quan Caritas mang đến, mỗi phần là một gói áo quần nhỏ. Các sơ cho biết, đây là áo quần cho trẻ em. Các sơ đại diện cho Caritas, các sư cô đại diện cho Hội Phật Giáo Thừa Thiên, tặng mỗi người $50. Kế bên là Chi Y Tế quận Hương Trà cũng đang phát thuốc cho đồng bào. Không thấy bóng dáng của Hội Hồng Thập Tự Việt Nam đâu cả, mặc dầu hội này có trụ sở tại Huế.


Một người đàn bà tóc tai rũ rượi, nét mặt hốc hác vì quá mệt mỏi, bế một đứa bé đang khóc ngất, đến trước mặt tôi xin tiền mua sữa:


- Cô ơi, cha của cháu chết trận rồi. Mẹ thì mới chết vì đạn Việt Cộng pháo kích trên đường chạy vào đây. Bây giờ tôi phải lãnh nuôi nó...


Tôi dúi nhanh những tờ giấy bạc vào tay người đàn bà để cho chị khỏi kể lể nữa. Hoàn cảnh của chị ngay trong giây phút này, không cần phải kể lể để được một sự giúp đỡ nhỏ nhặt như vậy, mà cũng như những đồng bào đang có mặt ở đây, họ phải được sự thông cảm và chia xẻ của những người đang sống an lành.

Cuộc chiến tại các căn cứ hỏa lực bảo vệ cho Quảng Trị vẫn diễn ra rất tàn khốc. Một trong các căn cứ hỏa lực đó như căn cứ Pedro, nằm về phía Tây của thành phố Quảng Trị và bên bờ Bắc của sông Thạch Hãn, được trấn giữ bởi khoảng 200 Thủy Quân Lục Chiến, đã chiến đấu anh dũng đến độ những quân nhân Mỹ ở đây đã chứng kiến và mệnh danh cho trận đánh tại căn cứ này là “Vietnamese Alamo”.


Đại Úy Ripley kể lại trong hồi ký của ông, những điều mà chính ông đã nhìn thấy, đã làm cho ông thật sự cảm phục và ông cho rằng chưa chắc cả một đời binh nghiệp của một quân nhân nào có dịp chứng kiến được sự dũng cảm của một người lính chiến như vậy:


“Anh ta chính là người lính Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam mà tôi đã gặp hai ngày trước. Lúc đó anh lính trẻ này đã bị thương 7 lần trong vòng 4 ngày. Vết thương nặng nhất là vết thương sau lưng, phía gần trên cổ. Vậy mà bây giờ anh đã trở lại đây, tại chiến tuyến này, súng trong tay và đang chiến đấu bên các đồng đội của anh”.


Trận chiến không phải một hai ngày là dứt. Trận chiến kéo dài. Địch tấn công như vũ bão. Ta chống trả bằng mọi giá, một chống bốn, có nơi địch gấp mười. Những người lính của Sư Đoàn 3 Bộ Binh, Biệt Động Quân và Thủy Quân Lục Chiến chiến đấu trong các hố cá nhân, ăn, ngủ ngay trong giao thông hào. Những chiếc ponchos căng trên đầu che mưa, che nắng. Họ sống giữa bom đạn, cát bụi và bùn lầy. Họ sống trong những giây phút chờ đợi, căng thẳng và lòng quyết chiến.


Những trường học của thành phố Huế và các quận ven biên đã thành những trại tị nạn tạm thời. Chỉ trong một thời gian ngắn, các trung tâm này đã đầy nghẹt đồng bào từ vùng bom đạn chạy về. Sự cứu trợ của chính quyền và các cơ quan từ thiện không thể nào đáp ứng nổi với tình hình. Người lớn và trẻ con ăn gạo sấy không cần nước, cứ xé bịch ni lông xong là đổ gạo ra lòng bàn tay, cho vào miệng nhai một cách ngon lành vì họ đã quá đói sau bao nhiêu ngày gian khổ, thoát chết biết bao nhiêu lần mới đem được cái mạng về đây.


Tôi thật xúc động khi nhìn một em bé chừng ba tuổi vừa chìa tay nhận hộp sữa là đưa lên miệng nút, mà không biết rằng hộp sữa chưa khui. Cái cử chỉ vô thức đó biểu lộ sự đói khát đã lâu của đứa bé.


Những người mới đến, đàn bà thì ống quần xắn cao lên quá đầu gối, trên vai mỗi người một gánh nhỏ gồm áo quần và những thứ cần thiết. Có người gánh theo được mấy lít gạo. Có người chẳng có gì trong gánh, chỉ mỗi đầu là một đứa con nhỏ. Những đứa bé ngồi gọn lỏn trong thúng, nước mắt nước mũi chảy dài, lem luốc cát bụi, hai tay giăng ra vịn chặt vào vành thúng để khỏi văng ra ngoài mỗi khi người mẹ di chuyển, hoặc qua những đoạn đường mà người mẹ phải vừa gánh vừa chạy cho kịp với đoàn người tị nạn, hoặc là những đoạn đường gặp Việt Cộng, chúng châu súng lại pháo ngay trên đầu. Có đứa bé chẳng cần biết trời trăng gì, hoặc có thể là đã lả người vì mệt và đói khát, nằm khoanh tròn trong thúng mà ngủ.


Tôi ngạc nhiên khi thấy một số các người lớn tuổi đều mặc áo quần màu trắng. Hỏi mới biết là họ đã kinh nghiệm mấy lần chạy giặc trong đời rồi, nên cẩn thận, mặc như vậy máy bay của ta khỏi oanh tạc lầm.


Khi những người dân Quảng Trị đầu tiên chạy vào Huế, thì người dân Huế bắt đầu theo dõi tình hình chiến sự từng giây, từng phút. Và những người lo xa đã sớm bỏ Huế chạy vào Đà Nẵng. Rồi Huế bị pháo kích. Thoạt đầu, Cộng quân pháo vào đồn Mang Cá, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh và sân bay Thành Nội. Sau đó pháo bừa cả vào phố xá và nhà của dân. Cánh cửa mặt Nam của thành phố Huế tức là ngõ vào Đà Nẵng, như bỗng nhiên mở toang ra. Từng đoàn xe của người đi lánh bom đạn nối đuôi nhau trên Quốc Lộ I, hướng vào Đà Nẵng. Và đã có nhiều người không chết vì bom đạn, nhưng chết vì xe lật nhào xuống đèo Hải Vân. Người ta kể rằng, có ngày chiếc xe đầu đoàn mới vào thành phố Đà Nẵng, thì chiếc cuối còn ở tận Lăng Cô, và mãi tới ngày sau mới vào Đà Nẵng được, vì phải qua những trạm kiểm soát để thanh lọc đặc công Việt Cộng trà trộn với dân. Chừng nửa tháng sau, khi thấy Huế vẫn bình yên, những người đi tị nạn lại kéo nhau trở về để làm ăn sinh hoạt như trước. Có gia đình khi trở về, đã bị trộm dọn sạch sẽ, không còn một đôi đũa để ăn cơm.


Trong lúc đó, cũng trên Quốc Lộ I, đoạn đường từ Quảng Trị vào Huế vẫn còn hàng ngàn, hàng ngàn người, di chuyển thành một đoàn dài cả mấy cây số, toàn là ông già, bà già, đàn bà và trẻ con, họ đang cố gắng bỏ xa vùng trận chiến. Nhưng đã hàng trăm, hàng ngàn người bỏ xác lại bên đường hoặc vẫn cố lết đi với những vết thương không được băng bó vì đạn pháo kích của Cộng quân bắn như mưa vào đám người đang cố chạy vào phương Nam. Họ chỉ thấy được tình người khi đi qua chỗ những đơn vị của Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân. Những người lính Thủy Quân Lục Chiến trút hết tiền bạc, lương thực và cả nước uống cho những nhóm nào đi ngang qua gần họ. Những người chiến sĩ này không cầm lòng được trước cảnh đau thương đó. Họ muốn trao hết những gì sở hữu mà họ đang mang trên người cho đồng bào khốn khổ của mình, trước khi trao mạng sống của họ cho Tổ Quốc trên chiến địa.


Đó là ngày thứ 35, kể từ ngày 30 tháng 3, ngày đầu tiên tràn qua sông Bến Hải, Cộng quân đã chiếm được thành phố Quảng Trị bởi một lực lượng gấp ba lần lực lượng trấn đóng của quân đội miền Nam. Thoạt đầu, Cộng quân tung vào 2 sư đoàn chính quy: Sư Đoàn 304 và Sư Đoàn 308 với sự yểm trợ của 2 trung đoàn pháo binh nặng và hai trung đoàn chiến xa để thực hiện giai đoạn một là đánh bật các căn cứ hỏa lực đang làm thành một hàng rào dọc vùng phi quân sự. Vào khoảng gần cuối tháng 4, Sư Đoàn 320 của Cộng quân mới đến thay thế cho hai sư đoàn kia nghỉ mệt, và đánh chiếm Cam Lộ, La Vang, Hải Lăng, hoàn tất giai đoạn 2. Cuối tháng 4, Sư Đoàn 325 của Cộng quân tiến vào, bắt đầu giai đoạn 3, đánh chiếm Quảng Trị.


Trong lúc đó, quân ta chỉ có Sư Đoàn 3 Bộ Binh với các đơn vị yểm trợ gồm có Thiết Giáp, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Địa Phương Quân, tổng cộng khoảng hai sư đoàn. Hai chống với năm và phải chiến đấu liên tục cả tháng trời, chứ không được thay chân theo chiến thuật “lấy khoẻ đánh mệt” như địch quân. Vậy mà những chiến sĩ trấn đóng tại ải địa đầu đã anh dũng giao chiến, cầm cự suốt cả tháng dưới những trận mưa pháo tưởng chừng như không cất đầu lên được.


Đại Tá Gerald H. Turley, Cố Vấn Trưởng của Sư Đoàn 3 Bộ Binh đã viết lại trong cuốn The Easter Offensive những giây phút cảm khái của Thiếu Tá Bob Sheridan, một cố vấn quân sự của Thủy Quân Lục Chiến, những giây phút mà ông nhớ mãi bên bờ sông Mỹ Chánh:


Buổi trưa ngày 2 tháng 5, Đại Tá Phạm Văn Chung, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến và những sĩ quan tham mưu của ông dừng lại bên bờ phía Nam sông Mỹ Chánh. Đại Tá Chung đứng yên lặng buồn bã nhìn đoàn người tị nạn đang chen nhau vượt qua cầu Mỹ Chánh, đổ vào thành phố Huế. Cây cầu nhỏ chỉ dài chừng vài chục thước. Qua khỏi cây cầu đó là đã vào vùng an toàn. Chừng một giờ sau, khi đoàn người đã qua sông và xuôi về phương Nam, Thiếu Tá Bob Sheridan quay lại hỏi Đại Tá Chung:

- Đại Tá, mọi người đã đi hết rồi. Bây giờ chúng ta làm gì đây? Có lui vào trong đó không?


Đại Tá Chung quay lại nhìn người sĩ quan Hoa Kỳ và nói với một giọng cương quyết:
- Không, không. Chúng ta không lui nữa. Chúng ta là những chiến sĩ, chúng ta ở lại đây, bên bờ sông này để chận địch. Sẽ không có một tên Việt Cộng nào có thể vượt qua sông Mỹ Chánh mà còn mạng sống trở về.


Lời nói sắt đá của Đại Tá Chung y như một lời thề. Cộng quân bằng mọi nỗ lực cũng không vượt qua được phòng tuyến trấn giữ bởi Lữ Đoàn 258, Lữ Đoàn 369 Thủy Quân Lục Chiến. Và đúng như lời của người quân nhân hơn nửa đời trải qua bao trận mạc, những ngày sau đó khi các đơn vị Dù và Thủy Quân Lục Chiến mở những đợt phản công, máu quân thù đã đổ xuống bên bờ sông Mỹ Chánh.


Quảng Trị mất, cả miền Trung bàng hoàng, rúng động. Ngày 3 tháng 5 năm 1972, Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm đương kim Tư Lệnh Quân Đoàn I/Quân Khu I được lịnh bàn giao chức vụ lại cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đương kim tư Lệnh Quân Đoàn 4/Quân Khu 4 để vào Sài Gòn giữ một chức vụ không quan trọng.



Tướng Ngô Quang Trưởng thăm hỏi binh sĩ trước khi phản công tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị 07/72


Tin Trung Tướng Ngô Quang Trưởng về chỉ huy Vùng I như một luồng sinh khí thổi vào miền Trung. Quân và dân đều một lòng tin tưởng. Họ tin cậy vị tướng này không phải chỉ bằng vào những bài báo trong và ngoài nước đã từng ca ngợi và đánh giá ông như một danh tướng, hoặc qua những lời truyền tụng trong quân đội miền Nam, mà chính người dân và những người lính trú đóng tại Miền Hoả Tuyến này đã chính mắt nhìn thấy những khả năng và đức độ của ông, khi ông còn là Tư Lệnh của Sư Đoàn I Bộ Binh, đánh bại Cộng quân trong vụ Tết Mậu Thân để chiếm lại Kinh Đô Huế.


Người ta cho rằng Tướng Ngô Quang Trưởng trở lại Huế hôm nay, cũng như Tướng De Lattre De Tassigny của Pháp đến Hà Nội năm 1950 để cứu nguy Hà Nội khi tình hình của thành phố này đang bị Việt Minh đe dọa trầm trọng.
Vừa đặt chân đến Đà Nẵng, nơi trú đóng của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, việc đầu tiên của Tướng Trưởng không phải là chuyện phản công đánh địch ngay, mà là vấn đề được ông coi như hàng đầu, đó là củng cố tinh thần binh sĩ. Tướng Trưởng làm việc gần như 24/24 giờ mỗi ngày. Không có đơn vị nào mà ông không đến thăm. Cho đến một trạm kiểm soát ở Lăng Cô, dưới chân đèo Hải Vân, chỉ có hai nhân viên Quân Cảnh và một nhân viên Cảnh Sát, mà Tướng Trưởng cũng đáp trực thăng xuống bên đường và bước vào hỏi han công việc. Những chuyện đó được loan truyền rất nhanh trong các đơn vị, ngoài dân chúng và tạo thành niềm tin. Cả thành phố Huế kinh hoàng chờ chạy giặc, bỗng như quên mất địch quân đang tập trung lực lượng để chuẩn bị đánh thốc vào phòng tuyến Mỹ Chánh. Quân nhân thuộc mọi binh chủng quân phục tươm tất, tóc hớt ngắn như thời bình. Đơn vị trưởng thì luôn luôn có mặt tại đơn vị, vì không biết ông Tướng bất thần ghé thăm vào bất cứ lúc nào. Và tinh thần quân dân cán chính lên cao, bừng bừng một ý chí đẩy lui địch quân, lấy lại những vùng đất đã mất.


Ngày 13 tháng 5 năm 1972, một lực lượng gồm có Tiểu Đoàn 3 và Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến được trực thăng vận đã bất thần đổ xuống ngay trên đầu địch quân tại quận Hải Lăng, một quận về phía Nam của thành phố Quảng Trị. Đây là cuộc phản công đầu tiên của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa từ bên này phòng tuyến sông Mỹ Chánh. Cuộc phản công bất ngờ và sấm sét đó đã tiêu diệt gần trọn đơn vị của Cộng quân đang chiếm đóng quận này. Một số đồng bào còn kẹt trong quận Hải Lăng, nay được giải thoát đã vội vã tìm đường chạy ra khỏi vùng lửa đạn.


Rồi những đợt tấn công khác do các đơn vị Dù và Thủy Quân Lục Chiến từ sau phòng tuyến Mỹ Chánh tung ra. Một kế hoạch phản công toàn diện đã được Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Chiến Trường soạn thảo. Và ngày 28 tháng 6 năm 1972, cuộc Hành Quân Lam Sơn 72 bắt đầu. Lực lượng Thủy Quân Lục Chiến có nhiệm vụ càn quét địch quân dọc Quốc Lộ I ra tận ven biển, “đóng nút” Cửa Việt không cho địch tiếp tế vào Quảng Trị bằng đường biển. Lực lượng Dù càn quét theo Quốc Lộ I vào tận chân núi của rặng Trường Sơn, ngăn chận viện quân của địch từ Lào kéo qua. Và cuối cùng mục tiêu của hai lực lượng là thành phố Quảng Trị. Những chiến sĩ Dù và Thủy Quân Lục Chiến khi vượt qua dòng sông Mỹ Chánh, mặc dù không ai nói với ai, nhưng trong lòng tựa hồ như đã có một lời thề, thề phải dựng lại lá cờ vàng ba sọc đỏ trên Cổ Thành Quảng Trị với bất cứ giá nào!






Trận chiến lần này khốc liệt đến mức những phóng viên chiến trường, kể cả các phóng viên ngoại quốc đều được lệnh phải ở xa các đơn vị đang giao tranh. Nhanh chân nhất là Barney Seibert, phóng viên chiến trường của UPI, đã bám theo các đơn vị Dù, nhưng khi còn cách Quảng Trị 6 cây số nữa thì các sĩ quan chỉ huy đã bắt ông phải dừng chân, và đó là lệnh chung cho tất cả phóng viên báo chí và truyền hình. Bởi vậy, những ngày đầu cuộc phản công của quân ta, những tin tức chi tiết về chiến trường, giới truyền thông trong và ngoài nước không thu nhận được bao nhiêu.


Các phóng viên chiến trường mỗi người tự mình tìm lấy phương cách riêng để đến sát nơi giao tranh hơn. Anh Nguyễn Tú, phóng viên của báo Chính Luận, quá giang xe jeep của Bác Sĩ Bùi Thế Cầu, Y Sĩ Trưởng của Tiểu Đoàn 5 Dù và Trung Tá Lê Thành Điểm từ Mỹ Chánh đến La Vang. Khi đến cầu Trường Phước, nơi bị pháo kích nhiều nhất, cách La Vang chừng 500 thước, xe jeep bị trúng một quả đại bác 130 ly của Cộng quân. Xe nổ tung, tài xế chết ngay, những người trên xe đều bị thương nặng.


Đồng bào về đây đa số ở xã Lãm Thúy thuộc quận Hải Lăng. Họ họp nhau từng toán, đi bộ suốt đêm, sáng hôm sau mới tìm đến chỗ của Thủy Quân Lục Chiến đang hành quân. Những chiến sĩ Cọp Biển này dang tay đón đồng bào vừa thoát khỏi vùng địch đóng. Tôi hỏi một ông cụ tóc đã bạc phơ, trên khuôn mặt nhăn nheo còn đầy những nét đau đớn xúc động bởi những cảnh tang thương bỗng đâu xảy đến trong những ngày vừa qua, cụ đứng ngơ ngác một mình giữa đám đông:

- Thưa cụ, sao mãi đến bây giờ cụ mới về đây?


- Việt Cộng không cho dân đi. Bỏ đi thì chúng pháo ngay trên đầu, bởi vậy nhiều người chết lắm, cô ơi! Sợ pháo, sợ chết, nhưng không muốn sống trong vùng của chúng, nên nhiều lúc dẫm lên xác chết mà chạy.


- Gia đình, con cháu của cụ có ở đây không?


- Thằng con trai lớn của tôi đi lính, không biết bây giờ đang đánh trận ở đâu. Con dâu và hai cháu bị lạc mất giữa đường, không biết còn sống hay chết.


Và cách chỗ tôi đứng chừng 10 mét, hai người lính Thủy Quân Lục Chiến đang thuyết phục một người đàn bà đưa đứa con nhỏ đã chết từ đêm hôm qua vì trúng mảnh đạn pháo cho họ chôn cất. Người đàn bà ngồi bẹp dưới gốc cây, hai tay ôm chặt xác đứa con trong lòng, hai mắt thất thần nhìn thẳng vào khoảng không, như chẳng nghe ai đang nói gì với mình.


Mấy hôm nay, những đoàn quân Dù và Thủy Quân Lục Chiến đang trên đường tiến về thành phố Quảng Trị. Những người dân ở Huế có bà con còn kẹt lại trong vùng địch đóng theo dõi tin tức chiến sự hằng ngày với hy vọng sớm liên lạc với bà con của mình. Huế và Đà Nẵng đang bị pháo kích dữ dội. Ngày 2 tháng 7, mới sáng hừng đông, Cộng quân đã pháo 20 trái đạn đủ loại vào Huế, ngay đường Tăng Bạt Hổ, là một khu toàn dân cư. Ngày hôm sau lại chịu thêm một trận pháo kích liên tục trong 25 phút làm cho 50 người dân thiệt mạng, hàng chục người bị thương. Ngày 14, Đại Nội lại bị 43 trái hỏa tiễn 122 ly vào buổi sáng. Buổi trưa bị một đợt pháo khác trên đường Lê Văn Duyệt và buổi chiều, trường Nông Lâm Súc bị đạn sơn pháo 130 ly.


Một số dân lại bỏ Huế chạy vào Đà Nẵng. Trong lúc đó, đồng bào ở trong các vùng bị địch chiếm phía Bắc sông Mỹ Chánh, thấy quân ta tiến ra đánh lui Cộng quân, đã từng đoàn chạy vào Huế. Lại một lần nữa, họ làm bia cho Cộng quân nhả đạn. Sự tàn nhẫn và vô nhân đạo của người lính Cộng Sản đã được Thiếu Tá Bob Sheridan, cố vấn quân sự của Thủy Quân Lục Chiến viết lại trong tờ trình của ông:



“Đoàn người chạy loạn dài hàng cây số, gồm phần lớn là người già, trẻ em và đàn bà đang tìm cách tránh xa vùng giao tranh để xuôi về hướng Nam, thành phố Huế. Vào khoảng buổi trưa, pháo binh của quân Bắc Việt đã tập trung đủ hỏa lực và bắt đầu pháo như mưa vào đoàn người đang di chuyển. Hàng trăm, hàng trăm người chết và bị thương. Nhưng quân Bắc Việt không thể nào ngăn chặn được, đoàn người vẫn tiếp tục tiến vào phương Nam”.
Và Thiếu Tá Sheridan ghi nhận những cảm nghĩ riêng của ông, là nếu trước đây, ông có một chút nào đánh giá người lính Bắc Việt, thì nay sự đánh giá đó đã mất hết.


Áp lực của Cộng quân đang đè nặng trên thung lũng Ashau, phía Tây của thành phố Huế. Điều lo sợ là trong khi đại quân của ta kéo ra Quảng Trị, thì Cộng quân có thể mưu đồ đánh úp thành phố Huế. Nhưng Tướng Phạm Văn Phú, Tư Lệnh Sư Đoàn I Bộ Binh tuyên bố với các phóng viên tại mặt trận là Sư Đoàn I đã bẻ gãy toàn bộ kế hoạch đánh chiếm thành phố Huế từ mặt Tây Nam, vùng thung lũng Ashau.


Tướng Phú cho biết, Cộng quân đã tung vào mặt trận Tây Nam Huế hai sư đoàn bộ binh nòng cốt với một trung đoàn pháo nặng yểm trợ, đó là Sư Đoàn 324B và Sư Đoàn “Quân Khu Trị Thiên”. Riêng Sư Đoàn 324B được tăng cường thêm Trung Đoàn 812 là đơn vị mới, chưa hề tham chiến kể từ ngày Cộng quân tràn qua Bến Hải. Theo Tướng Phú, hai sư đoàn này dự mưu đánh Huế bằng một mũi nhọn chọc thủng phía Tây Nam thành phố. Kế hoạch tấn công Huế đã được Hà Nội toan tính từ trước tháng 7. Tuy nhiên, theo Tướng Phú thì Sư Đoàn I đã bẻ gãy toàn bộ kế hoạch này. Cộng quân chỉ còn thực hiện được các cuộc quấy phá bên ngoài vòng đai và pháo kích vào Huế cũng như các vị trí phòng thủ của quân ta mỗi ngày từ 500 đến 1000 quả đạn và hỏa tiễn mà thôi.
Phòng tuyến Tây Nam Huế dài khoảng 30 cây số. Các chiến sĩ của Sư Đoàn I Bộ Binh trong thời gian này đã tái chiếm lại tất cả các vị trí chiến lược chung quanh Huế. Ngày 15 và 16 tháng 5, quân ta chiếm lại hai căn cứ Bastogne và Checkmate.


Buổi chiều trời đột nhiên đổ xuống một cơn mưa hè. Chúng tôi được tin một số đồng bào từ Quảng Trị mới chạy vào, hiện đang tạm trú tại trường học của quận Hương Điền mà chưa được một cơ quan công hoặc thiện nguyện nào đến giúp đỡ cả. Tôi cùng với người bạn mượn được chiếc xe cũ. Xe không đèn, lái đi trong đêm mưa. Những con đường của thành phố Huế cũng thiếu ánh đèn, may nhờ xe nổ lớn nên người đi đường nghe mà tránh ra.



Đầu tiên chúng tôi đến gõ cửa trụ sở Hồng Thập Tự, nhưng văn phòng đóng cửa, tắt đèn, có lẽ những người làm ở đây đã bỏ vào Đà Nẵng rồi chăng? Lái xe qua gõ cửa Hội Thương Phế Binh, gặp Thiếu Tá Mai đương là Chủ Tịch của Hội. Thiếu Tá Mai sốt sắng gọi điện thoại hỏi nhiều nơi, nhưng chẳng ai chịu bán sữa và thuốc tây vào lúc này, vì lúc đó cũng đã hơn 10 giờ tối Chủ Nhật. Chúng tôi đành trở về.


Sáng hôm sau, mới 6 giờ 30 sáng, chúng tôi vào chùa tìm anh Nguyễn Kinh Châu, đại diện báo Sóng Thần ở Huế. Anh Châu xin vợ 20 ngàn, tôi bỏ thêm 30 ngàn tiền túi cũng mua được một ít sữa hộp. Đến lều báo chí, tôi đã thấy xe của ông Trần Sum, Giám Đốc Đài Truyền Hình Huế. Ông Sum tiễn anh Nguyễn Thanh Liêm, đang làm cho đài này, và chúng tôi ra tận máy bay. Ông Sum cũng chính tay vác dùm một thùng sữa đưa lên sàn máy bay rồi mới trở về.


Trời mưa từ đêm hôm qua, nay vẫn còn mưa và gió lớn. Trực thăng bay thật thấp khi qua phá Tam Giang. Bên dưới nước sông dậy sóng, và trên bờ, những cồn cát trắng xoá chạy dài trông thật đẹp. Máy bay đáp xuống một bãi cỏ hoang gần nơi đồng bào đang tạm trú. Chúng tôi trao sữa tận tay cho những người già, trẻ con và những người bệnh. Các anh Thủy Quân Lục Chiến thì phát lương khô. Chúng tôi muốn ở lại lâu hơn để hỏi han và nghe kể lể những hoàn cảnh đau thương của những người vừa thoát khỏi vùng địch đóng, nhưng đành từ giã vì phải quá giang với trực thăng đón Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến về họp ở Bộ Tư Lệnh.


Người ta còn nhớ, ngày 1 tháng 5 vừa qua, khi tất cả lực lượng phòng thủ Quảng Trị rút lui cùng với đồng bào trên Quốc Lộ I về Huế, địch quân đã truy kích, bám theo sát để đánh thẳng vào Huế. Trong tình huống nguy hiểm đó, Tiểu Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 9 Thủy Quân Lục Chiến đã chờ cho quân ta và đồng bào vượt qua, rồi “đóng cổng” Mỹ Chánh bằng tất cả nỗ lực, quần thảo với Cộng quân suốt một ngày hôm đó, đập tan cái khí thế thừa thắng xông lên của địch và chặn địch ngay bên kia bờ sông Mỹ Chánh.


Khách sạn Hương Giang là khách sạn thanh lịch nhất của thành phố Huế, nằm sát bên bờ sông Hương. Kể từ lúc tình hình chiến sự của Vùng I trở nên sôi động, thì khách sạn này là nơi họp mặt hầu hết những phóng viên của các báo Việt Nam và ngoại quốc. Buổi sáng, tôi ngồi uống cà phê tại khách sạn Hương Giang với một số anh em các báo khác. Sau khi trao đổi những tin tức chiến sự mới mẻ nhất, chúng tôi chia tay nhau lên đường theo chân các đơn vị đang hành quân ngoài Quảng Trị. Tôi đi theo Tiểu Đoàn 6 Dù đang tiến quân qua sông Thạch Hãn. Anh Nguyễn Thanh Liêm đi theo một cánh quân của Thủy Quân Lục Chiến.


Khi tôi đến, Tiểu Đoàn 6 Dù đang giao tranh với địch bên bờ sông Thạch Hãn. Tiếng súng nổ dòn khắp nơi. Pháo của địch dội lên đầu như mưa. Đạn 130 ly và hỏa tiễn nổ lùng bùng cả hai tai. Khói súng như một màn sương mỏng ban mai quyện trên mặt nước của dòng sông Thạch Hãn.


Tôi len lỏi theo các giao thông hào để quan sát chiến trường. Vừa dứt một đợt pháo, tôi ló đầu nhìn lên, phía bên kia giao thông hào, anh Trần Khiêm, nhiếp ảnh viên của CBS cũng vừa nhảy lên khỏi hố, quay lại bấm liền cho tôi một tấm hình. Anh Khiêm hiện nay là chủ nhân của Khiêm Photo tại Little Saigon. Cũng lúc đó, một loạt đạn pháo khác đang rít gió bay đến. Anh Khiêm vừa nhảy xuống hố vừa la:



- Kiều Mỹ Duyên, pháo đó, đừng nhô đầu lên nữa.


Hết pháo, tôi lại nhô đầu lên quan sát. Những chiến sĩ Dù đang tiến về phía quân địch. Tiến rất khó và chậm vì hỏa lực của địch quá mạnh. Tiếng la hét, những lệnh lạc qua máy truyền tin, cùng với tiếng súng nổ không dứt từ hai bên bờ vang vọng suốt một quãng sông dài. Bên bờ phía Nam là quân ta, những chiến sĩ Dù. Bên bờ phía Bắc là quân địch đang bám chặt. Trên trời, máy bay L19 bay lượn và khu trục A37 đang gầm thét, thả từng loạt bom xuống, nhiều lúc thật mạo hiểm, vì giữa ta và địch, một khoảng cách chẳng có bao nhiêu.


Tôi chưa thấy một chiến sĩ Dù nào lui khỏi vị trí của mình. Người trước ngã, người sau tiến lên. Tất cả những thương binh đều được tải thương bằng mọi cách, không bỏ ai ở lại, đó vẫn là một niềm hãnh diện của binh chủng này từ trước đến nay. Nói đến binh chủng Dù, tôi chợt nhớ đến phóng viên chiến trường Gerald Hebert, ông là người Canada gốc Pháp đã từng có mặt tại nhiều cuộc chiến khắp nơi trên thế giới và ông thường nói:


- Tôi thích nhất và cảm phục nhất là binh chủng Nhảy Dù của Việt Nam Cộng Hoà, họ chiến đấu như sư tử.


Khi trận chiến sắp kết thúc thì trời đã hoàng hôn. Tôi đứng bên bờ sông Thạch Hãn nhìn bao quát khung cảnh của bãi chiến trường. Chiến cụ và xác người vương vãi khắp nơi. Dòng sông Thạch Hãn vẫn lặng lờ, không biết có phải máu đã đổ xuống hay là những tia nắng quái của lúc hoàng hôn chiếu hắt lên khiến cho mặt nước có màu đỏ thẫm. Những chiến sĩ Dù còn truy kích địch.
Buổi tối trở về Huế, tôi được tin anh Nguyễn Thanh Liêm cùng với hai phóng viên ngoại quốc đã chết khi theo chân một cánh quân của Thủy Quân Lục Chiến đụng trận ở quận Phong Điền. Mới cùng ngồi uống cà phê hồi sáng ở Hương Giang. Mới chia tay và chúc lành cho nhau trước khi đi. Buổi tối trở về đã thiếu ba người. Ba người đã bỏ gia đình, bỏ bạn bè, bỏ nghề và cả cái nghiệp của mình, vĩnh viễn ra đi...


Ngày hôm sau tôi lại được tin có thêm 3 phóng viên chiến trường vừa gục ngã trên mặt trận Hải Lăng. Tin điện của các phóng viên bạn gửi về toà soạn: Lúc 15 giờ chiều qua, một phóng viên chiến trường Việt Nam và 2 phóng viên của hệ thống truyền hình ABC Hoa Kỳ đã tử thương vì một loạt đạn AK47 của quân Bắc Việt tại khu vực ranh giới quận Hải Lăng và quận Phong Điền. Phóng viên Việt Nam là anh Trần Văn Nghĩa của Đài Truyền Hình Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà và hai phóng viên ngoại quốc khi đứng quan sát chiến trường tại ranh giới hai quận này cách Quốc Lộ I chỉ có 800 thước, thì bị một lính Bắc Việt núp gần đó bắn một loạt AK khiến anh Nghĩa gục xuống bên hố cá nhân của tên lính Bắc Việt vừa bắn anh chỉ cách có 2 thước.


Hai phóng viên ngoại quốc cũng chết vì loạt đạn AK của Cộng quân. Phóng viên Trần Văn Nghĩa năm nay 37 tuổi, 1 vợ 8 con và mang cấp bậc Trung Sĩ I phục vụ cho đài Truyền Hình Quân Đội từ mấy năm nay. Hai phóng viên hãng ABC tử thương là Sam Kai Faye và Tonykhool. Phóng viên Sam Kai Faye, có quốc tịch Tân Gia Ba, bị trúng đạn khi anh tiến đến để cứu phóng viên Trần Văn Nghĩa.


Chúng tôi đến bệnh xá của Thủy Quân Lục Chiến để thăm anh Liêm. Anh Liêm nằm đó, trong bọc nylon màu trắng. Người lính làm ở chung sự vụ kéo tấm nylon trên đầu anh xuống. Khuôn mặt anh thật thản nhiên. Tóc anh còn ướt và dính cát. Trung Tá Khẩn, Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị nói với chúng tôi:


- Theo lời của một người lính Thủy Quân Lục Chiến kể lại, anh Liêm đang quay cảnh Thủy Quân Lục Chiến vượt sông tiến về phía Bắc. Anh không mặc áo giáp, không đội nón sắt. Một viên đạn ghim vào ngực và anh gục xuống.
Trên đường về mọi người đều im lặng. Anh Nguyễn Thanh Liêm người quận Quế Sơn, Quảng Nam. Anh Liêm nằm xuống gây xúc động trong lòng những người đã quen biết anh hoặc cùng chung những công việc với anh. Điện thoại gọi đến đài truyền hình để chia buồn suốt ngày. Người nhiệt tình nhất là Chuẩn Tướng Bùi Thế Lân, Tư Lệnh Thủy Quân Lục Chiến.



Xác anh Liêm được mang về an táng tại Đà Nẵng. Chị Liêm ngồi bên quan tài của anh nghẹn ngào nói với tôi:


- Anh vẫn muốn khi đứa con út của chúng tôi được 15 tuổi thì anh vào chùa xuất gia. Tôi đồng ý với ước nguyện của anh. Nhưng năm nay cháu nó mới có mười hai tuổi thì anh đã bỏ mẹ con tôi mà đi rồi.


Tôi ngỏ ý xin chị một tấm hình của anh để in trên báo. Chị Liêm lắc đầu:


- Mẹ con tôi chạy giặc từ Quảng Trị vào, đâu có mang được cái gì.


Tôi nhớ lại một vài lần đi chung trong toán với anh Liêm đến giúp đồng bào tại các trung tâm tị nạn. Trên đường đi, anh ngồi yên lặng. Hình như từ lúc gặp tôi cho đến khi lên máy bay, anh chưa nói với tôi một lời nào, ngoại trừ cái gật đầu chào khi mới gặp. Dáng người anh cao gầy, có vẻ khắc khổ. Về sau tôi mới biết anh ăn chay trường đã hơn mười năm nay.


Hai hôm sau, ngày 22 tháng 7 năm 1972, phóng viên Gerald Hebert bị một quả đạn pháo của Cộng quân và chết tại Hải Lăng. Còn nhớ ba tháng trước đây, khi trận chiến Bình Long mới khởi đầu, ông đã theo Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân nhảy vào thành phố An Lộc. Buổi trưa ngày 13 tháng 4, ông đang đứng giữa đường để chụp hình xe tăng Cộng quân tiến vào thành phố thì bị trúng đạn vào vai. Ông phải trở về Sài Gòn dưỡng thương và tháng 6, khi vết thương đã bớt, ông lại tìm cách trở vào An Lộc lần nữa. Lần này, trước mắt ông, An Lộc đã là những đống gạch vụn, những người ông gặp lần trước đa số đã chết và cả một thành phố, chỉ sau một thời gian ngắn, đã thành địa ngục ở trần gian.

Ông ăn nói từ tốn và tính tình rất khiêm nhượng, có vẻ là một giáo sư triết hơn là một phóng viên chiến trường. Ông thường nói với những người quen biết:

- Tôi không sợ nguy hiểm khi làm phóng sự chiến trường, chỉ mong những bài viết và những hình ảnh của tôi thu thập được phổ biến đến những người ngoài nước Việt Nam, cho họ thấy sự phi lý và bi thảm của cuộc chiến này. Mấy ai thấy được những sợi dây xích 6 ly đã xích chân người lính Cộng Sản vào những vũ khí nặng hoặc xe tăng của họ? Cuộc chiến tranh nào cũng có sự tàn phá. Nhưng sự tàn phá như ở thành phố An Lộc này là giữa những người cùng dân tộc, khác với sự tàn phá ở thành phố Hiroshima.

Kiều Mỹ Duyên

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »


Thân phận người lính gãy súng

Vĩnh Khanh

(Viết cho những người đã âm thầm ngã xuống.)
Ðoàn xe Motolova chở đám tù cải tạo bắt đầu đi vào khu rừng tre rậm rạp thì chạy chậm lại. Con đường đất lồi lõm đầy những ổ gà. Chốc chốc những người ngồi sau và đồ vật bị xóc nhảy tung lên khi xe vấp phải một ổ gà lớn... Hùng vén tấm bạt che hai bên thân xe nhìn ra bên ngoài. Ánh đèn của cả đoàn xe quét ngang dọc tạo thành những vệt sáng nhấp nháy phía trước đủ để anh thấy khá rõ. Ðoàn xe đi được một khoảng nữa thì ngừng lại nhưng máy xe vẫn để nổ. Ðám tù cải tạo được cho phép xuống xe từng hai người một thay phiên nhau đi tiểu. Nhờ đèn xe Hùng có thể thấy rõ hai bên đường san sát những bụi tre gai, phía trên cao những tàn tre đan vào nhau dày đặc thành hình một cái vòm lớn, đoàn xe đi lầm lũi trong cái vòm này có vẻ như đi vào một khu âm u, tử địa không lối ra. Âm thanh của những nhánh tre đu đưa trên cao theo gió tạo ra một nhạc điệu buồn như tâm trạng lo lắng, hoang mang của những người tù trên đường đến nơi lưu đày mới chưa biết là đâu?

Buổi chiều hôm nay, từ Ðồng Pan tất cả tù cải tạo ở trại nhốn nháo lên hết với những lệnh lạc hò hét từ các cán bộ quản giáo hối thúc mang hết đồ đạc ra ngoài sân tập họp khẩn cấp. Những tên sĩ quan bộ đội lạ mặt cầm sổ sách lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người điểm danh. Kinh nghiệm của lần chuyển trại trước từ Trảng Lớn, đám tù đứng trong hàng sầm xì: “Chuyển trại rồi. Chuyển đi chỗ khác nữa rồi.”

Hùng quay qua nói nhỏ với mấy người bạn thân:

“Tụi mình nhớ đứng sát bên nhau nghe chưa? Nếu có lập thành tổ, thì cũng ráng chen chung vô một tổ. Lạng quạng là tụi nó tách rời ra mỗi thằng đi một nơi đó.”

Sau một hồi điểm danh tới điểm danh lui, tất cả đám tù tập họp trên sân bị chia ra làm hai nhóm. Nhóm của Hùng khoảng gần 200 người bị lùa lên những chiếc xe Motolova phủ vải bạt hai bên hông và sau đó di chuyển ngay. Còn nhóm kia cũng khoảng gần 200 không biết sẽ bị đưa đi đâu? Một điều an ủi là nhóm bạn bè thân của Hùng là Cương, Tân, Cường, Khỏe, Hoàng và Thu không bị tách rời và cùng đi chung trong một nhóm. Nhìn gương mặt lo âu, căng thẳng của những người bạn đồng cảnh ngộ, Hùng thở dài. Không cần nhìn vào gương, anh cũng đoán biết bộ mặt của mình lúc này ra sao rồi!

Từ sau ngày miền Nam bị bức tử một cách tức tưởi. Những sĩ quan cấp úy chế độ cũ đã bị chính quyền CS lừa dối với chính sách gọi là “khoan hồng nhân đạo” và việc tập trung đi “học tập 10 ngày.” Thế rồi như những sĩ quan khác, Hùng và các bạn đã trình diện với hy vọng sau 10 ngày sẽ được trở về đoàn tụ với gia đình, làm lại cuộc sống mới. Nhưng hỡi ơi! Kể từ ngày đó tất cả đã bị giam giữ triền miên. Ở Trảng Lớn khoảng một năm rưỡi, sau đó bị chuyển trại đưa lên Ðồng Pan lao động cũng hết 7, 8 tháng nữa, và bây giờ lại sắp bị đưa đến một nơi nào khác chưa biết được!

Xe ra tới địa phận Tây Ninh, trong khi đoàn xe chậm lại ở ngã ba rẽ ra đường quốc lộ thì thật là bất ngờ, bánh kẹo thuốc lá... được dân chúng từ hai bên đường quăng lên xe cho đám tù như mưa. Mặc cho mấy tên bộ đội vệ binh hò hét xua đuổi, những người dân mua gánh bán bưng, những bà mẹ, những đứa em... vẫn chạy theo đoàn xe ném lên đó những món quà tình nghĩa như tỏ chút lòng của người dân còn có thể làm được, đưa tiễn những đứa con của đất nước đang trên đường ra nơi đày ải. Ðám tù cải tạo thật xúc động với những món quà bất ngờ đầy tình người này. Như vậy cũng đủ an ủi cho người lính đã một thời đổ xương máu ra bảo vệ đất nước, bảo vệ đồng bào.

Hùng nhìn xuống đường qua kẽ hở của tấm bạt che bên hông xe. Dân chúng hai bên đường vẫn còn chạy theo cố gắng quăng cho hết mấy món bánh trái cuối cùng còn trong thúng rổ... Một vài người đàn bà kéo vạt áo chậm nước mắt, tay còn vẫy vẫy khi đoàn xe đã chạy khuất từ xa. Hùng xúc động lẩm bẩm: “Cám ơn mẹ, cám ơn chị. Cám ơn các em... chúng tôi không làm tròn trách nhiệm bảo vệ các người được, thật là có lỗi với các người.”

Bên ngoài trời bắt đầu sụp tối. Những người tù ngồi chen chúc chật ních phía sau lòng xe, hoang mang nhìn qua những kẽ hở, cố định phương hướng xem mình đang bị đưa về đâu, nhưng cuối cùng cũng chỉ có thể đoán già đoán non xe đang chạy về hướng Bình Dương mà thôi. Ðoàn xe tiếp tục lầm lũi đi trong đêm tối, tránh né sự tò mò chú ý của dân chúng. Sau một lúc hoang mang nhốn nháo, sự yên tĩnh trở lại trong lòng xe. Ðám tù mệt mỏi, thích nghi dần với vị thế chật hẹp, bắt đầu ngủ gà ngủ gật theo nhịp lắc lư và tiếng máy xe nổ đều đều, mặc cho số phận đưa đẩy tới đâu thì tới.

***

Sau một lúc dừng lại nghỉ ngơi trong khu rừng tre, đoàn xe lại tiếp tục chạy. Trời bắt đầu mờ mờ sáng thì đến ngã ba đường 10. Từ đây rẽ vào không bao lâu thì tới một nơi gọi là Trại 3148. Trại còn rất thô sơ chưa được xây cất gì nhiều, chung quanh chỉ lèo tèo vài ba căn nhà dùng làm bộ chỉ huy doanh trại với mái lợp bằng vỏ tre lồ ô. Ðám tù bị hò hét hối thúc xuống xe tập họp. Mấy tên vệ binh cầm súng đứng chung quanh giữ trật tự với khí thế đằng đằng, trong khi mấy tay cán bộ quản giáo lăng xăng đi tới đi lui đếm đầu người phân ra từng tổ. Hùng đứng trong hàng, ngao ngán nhìn khung cảnh chung quanh:

“Tao thấy chỗ này coi bộ hắc ám hơn ở hai trại trước rồi, tụi bây thấy sao?”

Không ai trả lời câu hỏi của Hùng, nhưng cả bọn ai nấy đều có cảm giác như vậy. Khung cảnh hoang vắng thô sơ nơi đây hứa hẹn với đám tù cải tạo mới tới sẽ đổ nhiều công sức, mồ hôi trong những ngày sắp tới! Sau khi sắp xếp xong Hùng và các bạn Tân, Thu, Khỏe, Cương, Hoàng, Cường lần này bị phân tán ra ở những tổ khác nhau. Cũng may mấy anh em cũng chỉ ở rải rác trong một cùng một khu vực gần đó thôi.

Trại 3148 này là tên của một tiểu đoàn bộ đội trú đóng ở đây. Nhưng mọi người đều quen gọi là trại Bù Gia Phúc lấy theo địa danh ở nơi này. Dọc theo con đường 10, cứ cách khoảng 2, 3 cây số lại có một trại tương tự như: Trại 3146, trại 3149, trại 3150,... Trại Bù Gia Mập nơi có sóc Bom Bo nổi tiếng của dân tộc thiểu số, cũng ở cách đó không xa. Những trại này nằm trong khu vực của hai huyện Bù Ðăng, Bù Ðốp thuộc tỉnh Phước Long. Mỗi trại ở đây đều có cấp số tiểu đoàn. Trước đây chỉ chuyên về mặt quân sự trấn giữ biên phòng, nhưng nay kiêm thêm nhiệm vụ quản lý các sĩ quan chế độ cũ từ cấp đại úy trở xuống. Cho tới thời điểm này, bộ đội thuộc Ủy Ban Quân Quản vẫn còn cai quản đám sĩ quan tù cải tạo. Mới đầu họ còn có vẻ dễ chịu, nhưng vì tình hình ngày càng lộn xộn, con số tù cải tạo trốn ngày một nhiều, nên sự quản lý của bộ đội đối với các sĩ quan tù cải tạo bị siết lại gắt gao hơn trước nhiều. Mỗi lần đi ra ngoài làm việc lúc nào cũng có hai vệ binh súng ống kè kè canh chừng hoặc khi đi đốn cây, gánh tranh, chặt tre cũng có vệ binh đi theo hướng dẫn. Tuy nhiên, cứ hễ sơ sểnh ra là lai rai cũng có người trốn hoài.

Quả đúng như đám tù mới tới dự đoán, những ngày tháng đầu ở trại Bù Gia Phúc họ đã chịu sự quản lý rất nghiêm ngặt. Hễ làm không xong công việc được giao trong ngày là bị kiểm điểm, hoặc bị nhiều hình thức kỷ luật khác ngay. Chỗ ở chưa có gì cả nên việc xây dựng nhà ở, doanh trại được đặt ra gấp rút vì mùa mưa sắp đến. Ngay sau ngày đến trại, đám tù cải tạo phải làm việc cật lực từ sáng sớm đến tối mịt để khai phá, xây cất thêm doanh trại, khu nhà ở, bếp núc,... mấy đám cán bộ quản giáo suốt ngày cứ hò hét đốc thúc: “Nếu không cố gắng cất nhà kịp, mùa mưa đến các anh sẽ phải ngủ ngoài mưa.”

Ðiều này thấy rõ không phải là điều hù dọa suông. Bởi vì từ khi mới tới trại đến nay, đám tù cải tạo đã phải ngủ võng rồi! Chưa làm xong nhà thì phải chịu tiếp tục ngủ võng ngoài gió mưa là cái chắc. Do đó không cần đợi cán bộ quản giáo hò hét đốc thúc, với tình hình này mấy người tù cải tạo cũng phải tự mình làm gấp rút để có chỗ che nắng mưa. Từ từ chung quanh trại Bù Gia Phúc nơi Hùng ở, rừng tre và cây cối dần dần được phát quang hết để khai thác đất trống cất nhà ở, doanh trại,... và trồng trọt hoa màu. Cứ thế dưới bàn tay của đám tù khốn khổ, rừng càng lúc càng bị lấn thụt lùi sâu về phía sau.

Trại Bù Gia Phúc này là một trong nhiều doanh trại san sát nhau giữa những vùng rừng núi bạt ngàn của hai tỉnh Bình Long, Phước Long. Rừng núi ở đây đa số là những khu rừng tre lồ ồ khổng lồ xen kẽ với rừng già trùng trùng điệp điệp kéo dài cho tới giáp ranh biên giới Campuchia. Trước đây những khu rừng này là mật khu của Việt Cộng. Thỉnh thoảng đi lao động, Hùng và các bạn vẫn còn thấy dấu vết của những hố bom B52 để lại. Tuy nhiên bom đạn trước đây hình như đã không làm suy suyển gì được những cánh rừng già bát ngát ở đây. Phải đợi đến khi tù cải tạo chuyển về thì rừng mới chịu lép vế, nhượng bộ và bị đẩy lùi vào một phần! Số lượng khai thác gỗ, tre và cỏ tranh mang về xây cất doanh trại, nhà ở cho tất cả các trại ngày một nhiều.

Vì thế cây cối đúng kích thước, những trảng tranh lớn và những đám tre đúng tiêu chuẩn... ở những nơi gần bị đám tù cải tạo của tất cả các trại từ từ khai thác hết. Càng lúc Hùng và các bạn phải đi thật xa mới có thể tìm được tre, cỏ tranh hoặc cây đúng kích thước tiêu chuẩn được giao. Ði từ sáng sớm, nhưng mang được những thân cây lớn, những bó tranh khổng lồ hoặc những cành tre dài ngoằn về tới doanh trại thì trời đã bắt đầu sụp tối rồi! Ðã vậy Nguyễn Văn Thu, người bạn tù cùng khóa Thủ Ðức trước đây với Hùng, là một người nhỏ con yếu đuối, không vác nổi những cây lớn được giao phó. Hai đứa lại ở cùng tổ thường được phân công đi lao động chung, Hùng không giúp cho anh ta thì ai giúp bây giờ. Cứ mỗi lần nhận công việc đốn cây, Hùng luôn luôn vác ở phần gốc, để cho bạn mình vác khúc ngọn nhẹ hơn. Suốt thời gian ở đây, Hùng lúc nào cũng giành làm phần nặng nhọc hơn để bạn vẫn hoàn thành công tác mà không bị rắc rối với đám cán bộ quản giáo. Mãi tới bây giờ Nguyễn Văn Thu vẫn nhớ ơn và nhắc hoài về người bạn Diệp Phi Hùng tốt bụng này.

Công việc phân phối trong ngày nặng nề, cực nhọc hơn ở hai trại trước, tuy nhiên khẩu phần ăn được phân phối không thấm đâu vào đâu. Chưa bao giờ người tù “cải tạo” hiểu ý nghĩa chữ “đói” một cách sâu sắc và thấm thía như khoảng thời gian ở những trại tù cải tạo như thế! Anh em nào có gia đình thăm nuôi, tiếp tế hàng tháng còn đỡ. Những ai kém may mắn không có ai thăm viếng, tuy được bạn bè san sẻ giúp đỡ, nhưng chắc chắn cũng không bao giờ đủ no được.

Người tù cải tạo bị cấm hoặc hạn chế tối đa những liên lạc với người dân bên ngoài và cả những người bạn tù ở khác trại. Nhiều lần đám tù cải tạo của Hùng ra ngoài lao động gần khu dân chúng cũng chỉ được phép ghé mua vội ít bánh trái, đồ dùng lặt vặt ở những quán ven đường rồi đi ngay chứ không nói được gì nhiều. Hoặc đôi khi đi vào rừng đốn cây, gặp những anh em đồng cảnh ngộ ở các trại khác lao động gần đó, canh lúc vệ binh lơ đễnh hai bên lén trao đổi vội vàng với nhau những câu thăm hỏi tin tức những người mình quen biết xem có ở cùng trại bên kia hay không? Rồi thôi! Ai nấy đều phải quay lại tiếp tục công việc nặng nhọc của mình để còn lo về kịp trong ngày...

Sự tiếp xúc với cuộc sống bên ngoài của người tù cải tạo một cách chính thức hầu như chỉ qua những chuyến thăm nuôi hàng tháng mà thôi. Những cái siết tay, nụ cười méo mó, vòng tay trẻ thơ của đứa con thiếu cha... nụ hôn vội vàng trên môi người vợ hiền hay ánh mắt thương cảm của người yêu... cùng món quà chứa đầy tình thương của mẹ già... một vài tin buồn, năm ba tin vui trao đổi nhau... tất cả gói ghém hết trong những lần thăm nuôi gặp mặt đó. Ðối với người tù cải tạo, đây là khoảnh khắc hạnh phúc nhất trong cuộc đời của họ vào lúc bấy giờ. Ðôi khi có một số tin tức do người thân bên ngoài mang vào đã trở thành những đề tài để anh em bàn tán sôi nổi, hoặc những suy đoán, bàn luận thời cuộc căn cứ vào những tin đồn mơ hồ không biết xuất phát từ đâu, tuy nhiên nhờ đó ít nhiều cũng đã giúp hun đúc niềm tin của đám tù cải tạo và làm tinh thần mọi người phấn chấn hơn lên.

Cứ thế người tù cải tạo vẫn lầm lũi sống, lầm lũi chịu đựng với một hy vọng mong manh không lấy gì làm chắc lắm... Và cứ thế ngày tháng âm thầm trôi... Người tù cải tạo mệt mỏi, hy vọng lụi tàn dần theo những lần nhìn cây rừng thay lá!

***

Với điều kiện thiếu thốn đủ mọi thứ từ dinh dưỡng đến thuốc men. Bệnh tật không thể nào tránh khỏi. Nhất là bệnh sốt rét rừng, căn bệnh đáng sợ nhất ở vùng rừng núi Phước Long này! Những ai bị vướng vào căn bệnh này, thì cầm như chết chắc. Vừa đến trại không bao lâu, đã có một vài người bị dính ngay sốt rét và chết ngay trong trại. Khiến cho những người còn lại không khỏi rúng động. Một đôi lần, Hùng cũng bị bệnh nhưng chỉ là cảm mạo nên lướt qua được hết. Tuy nhiên nghĩ tới đến cơn bệnh sốt rét rừng hiểm nghèo này, anh cũng nơm nớp lo sợ không biết ngày mai rồi sẽ ra sao?Chứng bệnh Hùng lo sợ cuối cùng đã may mắn không xảy ra cho anh, nhưng lại rơi ngay vào một trong những người bạn thân trong nhóm của anh. Ðó là Cương. Thiếu Úy Mai Xuân Cương. Tiểu Ðoàn16 TQLC. Xuất thân khóa 4/71 SVSQTB Thủ Ðức. Người chiến sĩ đã trải qua biết bao trận đánh lớn nhỏ kể cả lần nhận nhiệm vụ tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị. Xông pha biết bao trận đánh dữ dội như vậy mà anh cũng không hề hấn gì. Nay trong lúc buông tay súng, cam phận làm tên tù cải tạo, số phần lại không tha cho anh!

Giữa núi rừng Phước Long, chứng sốt rét rừng đã quật ngã người sĩ quan kiêu hùng ngày nào dễ dàng! Sau hơn một tuần nằm liệt ở trại với tiêu chuẩn được phát để chống lại cơn bệnh nguy hiểm này là 1 viên ký ninh mỗi ngày không thấm thía vào đâu cả! Bệnh tình càng lúc càng trầm trọng hơn! Mai Xuân Cương tuy thấp người nhưng rất to con, thế mà chỉ qua một tuần lễ, người anh gần như chỉ còn phân nửa so với lúc trước, cộng thêm làn da vàng vọt và một thể chất bạc nhược không tả được. Anh em trong trại quyên góp nhau lại những viên thuốc ký ninh hiếm hoi của gia đình gởi vào để mong cứu sống anh, nhưng cũng không được nhiều.

Nguyễn Minh Hoàng đã đưa cho bạn hết tất cả mấy viên thuốc chống sốt rét để dành phòng ngừa cho riêng mình, hy vọng cứu được mạng sống bạn, nhưng cũng chỉ giúp Mai Văn Cương cầm cự chống đỡ thêm được mấy ngày!
Bệnh tình của Mai Xuân Cương suy nhược đến nỗi anh không còn đứng vững nữa. Hễ đứng lên bước mấy bước là té xuống liền. Cuối cùng ban quản giáo trại chấp thuận cho anh lên bệnh xá điều trị. Tiếng là nằm bệnh xá cho có vẻ, nhưng thực ra thuốc men cũng chẳng có gì nhiều nên anh cũng không hồi phục được. Thấy tình thế không xong, trưởng trại mới cho phép Mai Xuân Cương viết thơ nhắn gấp về gia đình mang thuốc lên cấp cứu.

Mấy ngày anh nằm trên bệnh xá, Hùng có tìm cách lén lên thăm được 2 lần. Nhìn thân hình của bạn, Hùng không khỏi mủi lòng. Thân thể tráng kiện của Mai Xuân Cương ngày nào giờ đây chỉ là một xác thân gầy yếu, mệt mỏi nằm một chỗ chờ chết với chút hy vọng mong manh là thuốc từ nhà sẽ gởi đến kịp. Không còn biết phải nói gì để an ủi bạn trong lúc này. Hùng chỉ còn biết nắm chặt tay bạn như muốn truyền hết sức mạnh của mình vào thân thể gầy gò để mong bạn có đủ nghị lực vượt qua cơn bệnh quái ác này. Những lúc tỉnh táo nhìn thấy Hùng gần bên, Mai Xuân Cương cứ luôn miệng nhắn nhủ: “Tao muốn về nhà. Ðừng để tao ở đây. Tao muốn về với gia đình. Mày nhắn giùm gia đình tao mang tao về nghe?” Nghe bạn trong cơn hấp hối lập đi lập lại nhiều lần như vậy, Hùng chỉ biết ứa nước mắt gật đầu, hứa cho bạn yên lòng.

Thời gian Mai Xuân Cương nằm bệnh xá, mưa lớn liên tục suốt ngày. Nước lũ từ rừng đổ về ngập lênh láng. Lần chót Hùng tìm cách lên bệnh xá thăm anh cũng là ngày nước lụt bắt đầu dâng lên khắp các con đường từ thị trấn đi vào. Từ trong trại nhìn ra ngoài bìa rừng xa xa đã có thể thấy nước ngập loang loáng trên mặt những trảng tranh rộng lớn. Tù nhân không thể đi công tác xa bên ngoài như thường lệ, đa số chỉ làm những việc lặt vặt trong trại. Nhân cơ hội này, Hùng lén lên bệnh xá thăm Mai Xuân Cương. Lần này nhìn bạn, Hùng biết là đã quá trễ rồi! Trước mặt Hùng giờ chỉ là một thân xác còn thoi thóp với chút hơi thở yếu ớt. Sự chết đã hiện ra trên gương mặt vàng vọt, méo mó và hai con mắt của người tù khốn khổ đã lạc hết thần khí!! Mai Xuân Cương nằm đó chờ cái chết đến với mình từ từ. Trong một khoảng im lặng thật lâu, Hùng đứng nhìn bạn với cái cảm giác đau đớn và bất lực vì không biết làm gì giúp được bạn trong lúc này.

Mai Xuân Cương trở mình, giương cặp mắt lạc thần lên nhìn Hùng một hồi mới nhận ra được bạn. Giọng của anh yếu ớt đến độ Hùng phải nghiêng đầu, cúi sát tai vào miệng bạn mới có thể nghe được tiếng thì thào đứt quãng. Bệnh sốt rét rừng này quả đáng sợ thật. Trong vòng một thời gian ngắn, chứng bệnh quái ác này đã làm thay đổi bề ngoài của con người đến độ nếu không gặp người bệnh trong vòng một tuần lễ chắc khó lòng nhận ra được! Ngay cả những cử động của người bệnh cũng rất khó khăn. Với tất cả sinh lực còn sót trong thân thể bạc nhược của mình, Mai Xuân Cương cố gắng thều thào:

“Tao... không xong rồi... Hùng ơi!... Mày cho tao... gởi lời thăm... mấy anh em. Ráng giữ gìn... sức khỏe. Ðừng giống... như tao...”

Mai Xuân Cương giật giật tay Hùng nói thêm:

“Mày nhớ... nhắn gia đình... mang tao về... Bao lâu cũng được... nhưng ráng... mang tao về nghe.”

Hùng chỉ biết nhìn bạn gật đầu, ứa nước mắt. Người nhà của Mai Xuân Cương cũng đã nhận được tin nhắn, cấp tốc mang thuốc lên. Nhưng đúng là trời trêu lòng người. Những nẻo đường từ Phước Long đi vào trại đều bị lụt lội khắp cả. Khi từ Saigon lên, mẹ và em của Mai Xuân Cương không cách gì vào trại được đành phải tìm nơi tá túc qua đêm ở bên ngoài thị trấn, qua hôm sau chờ nước rút bớt mới mướn người đưa đi. Ðến nơi hai mẹ con cũng chỉ được phép gởi thuốc vào chứ không cho gặp mặt người thân, mặc cho mẹ và em của Cương khóc lóc van xin mấy cũng không được. Sau một hồi năn nỉ khóc lóc không kết quả, hai mẹ con tuyệt vọng đành gởi ít quà và thuốc vào cho Mai Xuân Cương rồi lủi thủi ra về. Nhưng hỡi ơi! Người Mẹ và người em tội nghiệp đó có biết đâu anh đã qua đời ngày hôm trước rồi!

Mai Xuân Cương mất ngay đêm sau khi Hùng lên thăm anh lần cuối. Nghe người ở bệnh xá kể lại, nửa đêm khát nước anh ráng đứng dậy đi lấy nước uống thì bị vấp té không gượng dậy nổi nữa và nằm đó chết luôn. Anh ra đi chắc còn tức tưởi lắm. Trong khi mẹ và em đang ở bên ngoài thị trấn đêm hôm đó, nôn nóng chờ nước rút để kịp mang thuốc vào cứu, thì anh đã không thể chờ được nữa! Anh ra đi mà mẹ và em cuối cùng vào được đến nơi cũng không thể nhìn thấy mặt anh lần cuối! Thân xác anh nằm đó trong khi hai người thân ở ngay ngoài cổng trại vẫn tưởng anh còn sống và cả hai vẫn nuôi hy vọng thuốc mang lên kịp sẽ cứu được mạng anh!

Một buổi sáng khoảng giữa năm 1978, một ngày như mọi ngày ở trại tập trung cải tạo. Khi những bạn tù khác nhận dụng cụ và công việc được giao, chuẩn bị phân tán khắp nơi đi ra ngoài lao động, thì có một số người giơ tay tình nguyện nhận một công tác bất thường: Mai táng người chết! Những người tình nguyện được chia làm hai toán:

Toán thứ nhất trong đó có Ðại Úy Hải Quân Phạm Thanh Tân và một số người nữa, được giao cho công việc đào huyệt.

Toán thứ hai lo việc tẩn liệm và khiêng người chết gồm 6 người: Th/Úy Diệp Phi Hùng (TQLC), Th/Úy Trần Văn Khỏe (TQLC), Th/Úy Nguyễn Minh Hoàng (Nhảy Dù), Th/Úy Ngô Văn Cường (Nhảy Dù), Th/Úy Hoàng Lập Thành (TQLC) và một Tr/Úy Hải Quân tên Hoàng (Khóa 20 HQ, không nhớ họ)

Những thớ đất trên ngọn đồi nơi Mai Xuân Cương sẽ yên nghỉ còn ẩm nước và khá mềm nhờ vào mấy trận mưa lớn vừa qua, đã giúp cho toán đào huyệt mộ hoàn thành nhiệm vụ không khó khăn lắm. Buổi sáng sớm rừng núi Phước Long vẫn còn sót lại cảm giác lành lạnh của hơi sương đêm rồi. Gió mang đến những tiếng lao xao đều đều từ cánh rừng xa xa nghe như một điệu nhạc trầm buồn tiễn đưa người tù vắn số. Ðám bạn chống xẻng nhìn huyệt mộ có vẻ an ủi lắm. Không nói ra nhưng chắc ai nấy đều nghĩ thầm:
“Ít ra đây là những gì tụi tao còn có thể làm được cho mày lần cuối đó Mai Xuân Cương ơi!”

Xác Mai Xuân Cương được bó trong một cái áo mưa quân đội cũ, bên trong liệm chung với mấy món vật dụng cá nhân ít ỏi của anh. Hùng và đám bạn còn cẩn thận viết tên Mai Xuân Cương trên một mảnh giấy, bỏ vào cái lọ thủy tinh đậy nút thật kỹ liệm chung với xác anh ta, để sau này dù có bị mối đục khoét hết đồ vật, vẫn còn có thể nhận dạng được. Trước khi đặt anh nằm vào trong bọc áo mưa, Hùng không quên đeo sợi dây có cây thánh giá vào cổ bạn. Ðây là món quà mẹ anh gởi vào theo thuốc chống sốt rét vừa rồi. Ðó cũng là điều an ủi cho Mai Xuân Cương, còn mang được món quà của người mẹ thân yêu theo bên mình trước khi đi vào lòng đất.

Xác anh được khiêng từ bệnh xá ra, đặt xuống lòng huyệt mộ một cách nhẹ nhàng bởi những người bạn tù thân thiết. Trước khi lấp đất, không ai bảo ai tất cả đám tù hiện diện cùng đứng cúi đầu trang nghiêm thầm cầu nguyện trước cặp mắt của tên bộ đội vệ binh và cán bộ quản giáo đứng nhìn lom lom gần đó. Cặp mắt của họ hôm nay hình như cũng biểu lộ chút dễ chịu hơn mọi ngày. Dầu gì thì người cũng đã nằm xuống rồi! Ðâu ai nỡ khó khăn với người chết làm chi.

Hùng nhìn quanh, gần nơi huyệt mộ của bạn mình đã có từ hồi nào 11 ngôi mộ của những người tù cải tạo khác không may nằm xuống trước đó. Tất cả các ngôi mộ đều không có một tấm bia nào khắc ghi tên tuổi, ngày tháng để lại sau này cả! Trong khi xúc đất phủ lên xác bạn, Hùng không ngớt suy nghĩ. Không biết phải làm sao để có thể ghi dấu lại ngôi mộ của bạn sau này? Làm cách nào để nhiều năm sau còn hy vọng kiếm lại được?

Trước đó Hùng có nghe mấy tay quản giáo nói chuyện với nhau, trong tương lai người ta sẽ khai phá những khu rừng chung quanh ngọn đồi này để trồng cao su. Với sự thay đổi như vậy, việc nhận dạng lại dấu vết nhiều năm sau này sẽ càng khó khăn hơn. Ðám bạn tù bàn với nhau tìm một cành cây dài với hình thù đặc biệt dễ nhớ và cố gắng chôn cây đó càng sâu càng tốt trước ngôi mộ. Tất cả đồng ý lấy cây cổ thụ thật lớn nổi bật ở bìa rừng làm chuẩn và từ đó nhắm hướng đếm bước đến nơi chôn vùi bạn. Ðám bạn còn cẩn thận đếm bước hai ba lần để chắc chắn có được con số chính xác nhất định. Sau đó họ cố gắng ghi nhớ địa thế ngọn đồi cùng vị trí của các ngôi mộ khác để phân biệt với nơi bạn nằm.

Ðâu đó xong xuôi trước khi từ giã trở về trại, tất cả đứng bùi ngùi van vái thầm: “Mai Xuân Cương ơi! Số mày không may ra đi sớm, tụi tao cũng chỉ biết cầu xin vong hồn mày hãy yên nghỉ. Như vậy cũng yên ổn phần mày rồi. Còn số phần tụi tao chưa biết mai đây sẽ ra sao? Nếu mày có linh thiêng hãy về phù hộ cho tụi tao chống chọi được tất cả các khó khăn, bệnh tật. Phù hộ cho tụi tao luôn khỏe mạnh và sớm được thả về với gia đình. Tụi tao hứa sẽ báo tin và chỉ dẫn chỗ nằm của mày để gia đình mang mày về. Thôi mày hãy an nghỉ, tụi tao đi đây!”

Hôm đó trời đã ngừng không mưa nữa, nhưng mây vẫn còn u ám lắm. Cả bầu trời hình như chỉ có mỗi một màu xám, nên mặc dù chưa trưa khung cảnh chung quanh trông có vẻ như đã xế chiều lâu lắm rồi vậy! Xuống tới dưới chân đồi Hùng ngoái nhìn lên chỗ bạn nằm. Cành cây lớn cả bọn cắm trước mộ bạn làm dấu, nhìn từ xa hình dáng nó trông giống y như một cây súng gãy cắm ngược xuống đất. Hùng thở dài. Phải rồi! Trông nó thật là giống một cây súng đã gãy, đang đứng chơ vơ một mình giữa nền trời u ám.

***

Cái chết của Mai Xuân Cương đã để lại trong lòng những người bạn tù nhiều thương cảm và suy nghĩ về số phận mong manh của kiếp tù đày. Không lâu sau đó, một số tù cải tạo tìm cách trốn trại. Trong số mấy người ít ỏi thoát được từ trại 3148 Bù Gia Phúc có Th/Úy Trần Văn Khỏe, người bạn thân cùng đơn vị với Mai Xuân Cương và Diệp Phi Hùng. Tin trốn trại loan ra dấy lên làn sóng xôn xao trong đám tù còn lại, đồng thời càng làm cho ban quản giáo siết chặt kỷ luật gắt gao hơn. Nhưng có khó khăn gì nữa thì cũng thế thôi. Người tù cải tạo không phải hàng ngày vẫn đối diện với khó khăn từ sáng sớm đến tối mịt đó sao? Chỉ tiêu lao động đưa ra nhiều hơn ư? Ðàng nào thì người tù cải tạo cũng quen với sự chịu đựng rồi. Ráng thêm chút nữa, rồi cũng xong thôi.Tuy thế tận trong đáy lòng, Hùng cảm thấy nỗi buồn chất chứa thêm lên. Trong một thời gian ngắn, hai người bạn thân thiết nhất đã xa rời: Một ra đi vĩnh viễn, một chưa biết số phận thế nào sau khi trốn trại. Những ray rứt dằn vặt, lòng buồn nhớ thương bạn, nỗi cảm khái cho chính thân phận của mình và gia đình bên ngoài... khiến Hùng suy tư nhiều và trở chứng mất ngủ hồi nào không hay. Nhiều khi đốn cây, róc vỏ xong chờ vác về. Hùng và các bạn ngồi nghỉ mệt. Nhìn thân cây đã bị đốn ngã nằm trên mặt đất chờ khiêng về, Hùng không khỏi cảm khái nhớ tới một bài thơ được người tù nào đó làm ra và được một người khác phổ nhạc. Tác giả nhìn thân cây bị đốn ngã, ví von với thân phận của mình và làm ra bài thơ sau đây mà các người tù cải tạo lúc bấy giờ gần như ai cũng thuộc lòng:

Thân Phận
Rừng hoang... xào xạc...
Một thân cây đốn ngã.
Như đời mình.
Buông thả tương lai.
Này đây là tóc là tai.
Cành khô nằm đó.
Ai mang anh về?
Thân anh khốn nỗi ê chề
Tháng năm vẫn đợi.
Lời thề còn chăng?
Lòng anh khốn nỗi giá băng
Anh ray rứt mãi vết hằn khổ đau.
Thôi em. Vơi bớt ưu sầu.
Bước đi bước nữa, tan mau nửa đời.
Rừng hoang chôn chặt một thời.
Tương lai đâu có lời nào cho em.
Mắt sâu hun hút đêm trường,
Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn
Rừng hoang kết lá úa tàn
Thân cây đốn ngã.
Anh thương phận mình.
(Không rõ tên tác giả)

Lời thơ bình dị mà cảm động quá. Ðã nói lên được tâm trạng chung của tất cả anh em tù cải tạo. Mặc dù Hùng chưa có gia đình, nhưng anh cũng có người yêu nên hiểu rõ những suy tư khắc khoải của những bạn tù khác có vợ con, gia đình ở nhà. Người tù cải tạo giờ đây có khác gì một thân cây đã bị đốn ngã. Nhưng cây bị đốn ngã còn có người đưa về, còn người tù cải tạo nếu chẳng may nằm xuống giữa rừng già này, thì ai sẽ đưa anh về? Vợ và người yêu ở nhà, có còn bền chặt lời thề ngày xưa hay chăng? Thôi thì em ơi. Hãy vơi đi bớt ưu sầu. Cứ bước đi bước nữa đi em. Bước đi bước nữa cho nửa đời còn lại của em tan mau. Em không cần phải chờ đợi anh đâu... Sao mà thấm thía và chua xót quá! Lần đâu tiên Hùng và các bạn được nghe một bạn tù ôm đàn hát bài này. Ai cũng ứa nước mắt. Ðúng rồi! Thận phận của người tù cải tạo bây giờ đâu còn gì để hứa hẹn mai sau cho người mình yêu thương nữa!!... Từ đó nhiều lần trong đêm khuya, nơi trại tù im vắng giữa núi rừng Phước Long, mỗi khi buồn không ngủ được, anh thường nhớ tới bài hát này và hay khe khẽ hát một mình: “...Mắt sâu hun hút đêm trường. Anh ca khúc hát nhớ thương vô vàn. Rừng hoang kết lá úa tàn. Thân cây đốn ngã. Anh thương phận mình!”

Giọng hát nghe đã buồn!

Lời nhạc nghe sao còn não lòng hơn!

***

Ở trại 3148 Bù Gia Phúc đến cuối năm 1978 thì tất cả lại bị chuyển trại một lần nữa. Lần này nhóm bạn thân của Hùng bị phân tán ra, đi đến những trại tù cải tạo khác nhau. Hai năm sau, khoảng cuối năm 1980, Diệp Phi Hùng, Nguyễn Minh Hoàng, Phạm Thanh Tân, Nguyễn Văn Thu và Ngô Văn Cường lần lượt được thả về hết. Sau những ngày vui mừng đoàn tụ với gia đình. Nhớ đến lời hứa với Mai Xuân Cương trước đây. Hùng rủ Cường đến nhà Mai Xuân Cương thăm viếng, đồng thời kể chi tiết về cái chết và lời trối trăn trước giờ lâm chung của anh. Gia đình Mai Xuân Cương đã biết tin về cái chết của con mình lâu rồi, nhưng những chi tiết thì chưa biết được rõ ràng. Nay nghe Hùng kể lại, cả nhà anh khóc như mưa. Ba của Mai Xuân Cương nói qua dòng nước mắt:

“Các cháu đã là bạn của thằng Cương thì cũng như con cháu của bác thôi. Nay em nó không may vắn số mà xác thân còn lưu lạc giữa núi rừng như vậy, quả thật bác đau lòng quá. Bác xin các cháu vì tình bạn ngày xưa với nó mà chỉ dẫn cho bác chỗ để bác đưa cháu nó về với gia đình, ngày nào nó chưa về được thì bác không thể ăn ngon ngủ yên được. Bác muốn tận tay mình mang hài cốt của con về. Bác chỉ cần các cháu hướng dẫn cho bác đến chỗ của nó nằm là bác đã mang ơn lắm rồi. Ðêm nằm bác cứ thấy nó mà chảy nước mắt hoài.” Ông nói xong lại khóc nức nở...

Hùng và Cường nhìn thấy cảnh đó cũng cảm động vô cùng. Cả hai hứa sẽ hướng dẫn Ba của bạn đi tìm mộ và mang hài cốt anh về. Thời điểm đó tính từ ngày chôn cất Mai Xuân Cương thì mới chỉ khoảng gần 2 năm mà thôi. Nhiều người bà con của Cương bàn với gia đình anh là thời gian 2 năm còn quá sớm, phải đợi đến khoảng ít nhất từ 3 đến 5 năm sau, xác thịt tiêu hủy hết thì hốt cốt mới tốt hơn. Nghe ai cũng nói như vậy nên gia đình Mai Xuân Cương đồng ý nán lại đúng 5 năm mới thực hiện chuyện đó.

Nhưng xưa nay người tính là một chuyện, còn trời tính lại là một chuyện khác! Trong khoảng thời gian chờ đợi đó Ba Mẹ của Mai Xuân Cương phần vì nhớ thương con, phần vì lớn tuổi nên đau yếu hoài. Ðến khi đúng 5 năm kể từ ngày anh chết thì cơn bệnh của Ba anh bị trở nặng không đi được, cuối cùng đành phải hoãn việc này lại.

Bẵng đi mấy năm sau, bệnh tình của người cha cũng cứ như vậy hoài, không thuyên giảm chút nào. Khổ nỗi ông cứ nằng nặc yêu cầu ráng đợi ông hết bệnh sẽ đích thân đi lo cho con mình mới thỏa lòng! Trong khi đó Hùng và các bạn bè thân thuộc lo chuyện trốn đi vượt biên nhiều lần vẫn không thành, ngoài ra còn lo chuyện sinh kế gia đình nên đầu óc đâu còn để ý gì tới những chuyện khác nữa. Mãi đến khi bệnh tình Ba của Mai Xuân Cương trở nặng, ông biết là không xong, hết hy vọng tự tay mang con về như tâm nguyện được nên cho người mời Hùng và Cường đến. Ông nắm tay hai người vừa khóc vừa nói:

“Tâm nguyện của các chưa hoàn thành được, chắc là các chết không nhắm mắt được hai cháu ơi.”

Nói xong ông lại ngậm ngùi khóc. Hùng và Cường nhìn ông rất thương cảm nhưng không biết phải nói làm sao. Cuối cùng ông nói với hai người bạn của con mình:

“Bác biết là yêu cầu này hơi quá đáng, nhưng ngoài hai cháu ra, bác bây giờ không biết phải cầu xin ai nữa cả.”

“Thưa bác. Xin bác đừng nói vậy. Bác có điều gì yêu cầu, nếu trong khả năng làm được, hai cháu sẽ cố gắng làm cho bác.”

“Xin hai cháu hãy thương cho thằng Cương của bác mà thay bác mang nó về với gia đình giùm bác. Bác tâm nguyện sẽ tự tay lo cho nó, nhưng với tình hình sức khỏe như thế này, chắc là bác không qua khỏi để làm chuyện đó rồi. Thôi thì xin hai cháu hãy cố gắng giúp cho em Cương lần nữa, coi như hai cháu làm phước cho gia đình bác vậy. Bác thật không dám quên ơn sâu này.”

Hai người bạn không cầm được nước mắt, cả hai nắm tay người cha tội nghiệp và hứa với ông:

“Bác cứ yên tâm. Hai đứa cháu sẽ ráng làm hết sức để đưa anh ấy về với gia đình. Cháu chỉ sợ sau nhiều năm, nhiều chuyện thay đổi, không biết tụi cháu có tìm được đúng chỗ anh ấy nằm xuống hay không, nhưng hai cháu sẽ cố gắng.”

Ba của Mai Xuân Cương qua đời sau đó không lâu. Khi đưa đám của ông, nhìn người mẹ bệnh tật và những đứa em còn lại của bạn. Hùng và Cường bảo nhau nhất quyết thực hiện lời hứa mang hài cốt Mai Xuân Cương về nằm kề bên ba anh ấy cho bằng được.

Cuối năm 1990, mười hai năm sau khi Mai Xuân Cương mất. Sau khi sắp xếp mọi việc đâu đó xong xuôi, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường cùng một em rể và một em ruột của Cương chở nhau trên hai chiếc Honda đi ngay lên Phước Long. Mục đích chuyến đi lần này chỉ là dò đường tìm lại ngọn đồi năm xưa và cố gắng tìm vị trí ngôi mộ bạn trước. Nếu tìm được thì chuyện hốt cốt không thành vấn đề nữa. Ðiều lo sợ nhất của hai người là trải qua bao năm tháng, vật đổi sao dời chỉ sợ ngôi mộ thất lạc không thể tìm thấy được nữa thì đúng là phụ đi tâm huyết của nhiều người. Riêng Hùng, nếu không làm tròn được ước nguyện của bạn và người cha trước khi chết thì anh thật sự đau lòng lắm.

Ðến Phước Long, thì trời đã chiều lắm rồi. Trời lại mưa quá lớn. Những con đường đất dẫn vào rừng đều ngập nước hết cả. Lượng mưa ở vùng rừng núi Phước Long này hình như quá nhiều, lúc nào cũng có thể mưa được. Ðã vậy nạn khai thác rừng lấy gỗ một cách bừa bãi, vô tổ chức mấy năm sau này đã khiến cây rừng không còn giữ được nước. Lũ từ các nơi đổ về mỗi khi có cơn mưa lớn gây lụt lội khắp nơi. Bốn người không còn cách nào khác hơn là vào nhà dân ở thị trấn tìm chỗ trọ qua đêm, đợi hôm sau hỏi thăm đường vào trại cũ.

Tất cả bây giờ đã đổi thay hoàn toàn. Những cánh rừng ngày xưa thụt sâu ở hai bên đường và những trảng tranh lớn còn nhớ trong ký ức của Hùng, bây giờ không còn nữa. Thay vào đó là những cánh rừng cao su bát ngát. Hùng và Cường không còn nhận ra đâu là đâu. Hỏi thăm dân chúng về những trại tù cải tạo Bù Gia Phúc, Bù Gia Mập, Trại 3148, trại 3146... thì nhiều người không biết. Cuối cùng hai người đến bến xe đò hỏi thăm những tài xế và lơ xe, hy vọng ngày xưa những thân nhân đi thăm nuôi tù đã sử dụng phương tiện xe đò, như thế chắc phải có người biết chỉ dẫn giùm. Quả nhiên lần này gặp được mấy tài xế và lơ xe kỳ cựu ở đó biết đường đi vào những trại cải tạo cũ.

Sau khi ghi nhớ cẩn thận những lời chỉ dẫn, hai chiếc Honda lại lên đường theo những con đường đất lầy lội do trận mưa lớn hôm qua còn để lại, cộng với những ổ gà lởm chởm càng làm cho khó đi thêm. Mấy khu rừng Hùng nhớ mang máng trước đây nay đã bị khai phá thụt sâu vào bên trong nhường chỗ cho hàng dãy đồn điền cao su chạy dài đến mút mắt. Thỉnh thoảng gặp một vài chiếc xe bò, Hùng dừng lại hỏi thăm. Sau nhiều lần lạc lên lạc xuống và hỏi thăm đường như thế... cuối cùng bốn người cũng đến được ngã ba đường 10 và nơi quẹo vào trại 3148, Bù Gia Phúc cũ.

Ðứng trước doanh trại, Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường nhìn nhau cảm khái vô cùng. Không ngờ có ngày hai người lại trở về chốn này. Giờ đây doanh trại này không còn là nơi chứa tù cải tạo nữa, mà đã trở thành một doanh trại thuần túy do bộ đội biên phòng trú đóng.

Hỏi thăm dân chúng ở những ngôi nhà bên phía ngoài xem có ai biết ngọn đồi nơi chôn những người tù cải tạo bị chết ngày xưa thì không ai biết cả. Tuy nhiên có người chỉ giùm đường cho bốn người của Hùng đi vào rừng tìm một người đàn ông đang cất nhà chòi làm rẫy trong đó, người này chắc chắn biết tin tức bọn Hùng muốn tìm.

Lần theo sự chỉ dẫn, bốn người lại lên xe Honda men theo con đường mòn dân chúng thường đi làm rẫy, cuối cùng cũng tìm gặp được người muốn gặp. Ðó là một người đàn ông trạc độ 55-60 tuổi, là bộ đội từ Bắc vào, trước đây đã từng là cán bộ quản giáo trong trại Bù Gia Phúc. Sau nhiều năm phục vụ, ông này lên đến cấp bậc đại úy và đã giải ngũ mấy năm gần đây. Ông ta lập gia đình với một người địa phương và lập nghiệp luôn ở nơi này, ngày ngày cùng gia đình làm rẫy sinh sống. Khi biết được ý định của bốn người. Ông cựu đại úy bộ đội này sốt sắng nhận lời chỉ đường giúp đến nơi chôn cất tù cải tạo trước đây.

Thật không còn gì mừng rỡ hơn đối với bọn Hùng lúc này. Lúc đó ngay trong rẫy, không có hàng quán Hùng định trở ra ngoài khu dân cư mua nhang đèn, nhưng ông cựu đại úy bộ đội này kiếm được một bó nhang cho bọn Hùng luôn. Trong khi đi đường, ông ta cho biết thỉnh thoảng khi làm rẫy gần ngọn đồi, ông có ra thăm và thắp nhang trên những phần mộ vô chủ đó. Ông nói rằng người đã nằm xuống rồi thì không còn hận thù gì nữa. Cả bốn người của Hùng đều rất cảm động với lời nói chân tình xuất phát từ một sĩ quan bộ đội mà ngày xưa có lúc đã là kẻ đối nghịch với họ. Phải rồi! Người đã nằm xuống rồi, hãy để họ yên nghỉ. Không nên nói hận thù với người đã chết nữa!

Khi lên đến ngọn đồi ngày xưa nơi hai người đã tự tay chôn cất bạn, Hùng và Cường ngơ ngác không thể nào nhận ra đây là đâu! Tất cả đã hoàn toàn thay đổi và khác hẳn với những gì còn sót trong ký ức của hai người. Kể cả những cánh rừng xa xa trước đây bây giờ cũng trồng toàn cao su! Không có dấu tích gì về những ngôi mộ ngày xưa. Mười hai năm qua rồi còn gì nữa!! Cũng may nhờ có người đàn ông dẫn đến ngay chỗ trước đây chôn những người chết trong trại. Tuy mặt đất trông có vẻ như bằng phẳng, nhưng khi đến nơi nhìn kỹ cây cỏ mọc ở bên trên những ngôi mộ, thì thấy nơi đó vẫn hơi nhô cao lên một chút nếu so với các nơi bằng phẳng khác. Ðiều này mang lại cho Hùng và Cường một tia hy vọng.

Nhưng trước đây khi chôn bạn, chung quanh có 11 ngôi mộ thì bây giờ đã có thêm nhiều người nằm xuống ở đây nữa rồi! Việc tìm đúng ngôi mộ của bạn không phải là một chuyện dễ. Hùng đứng quan sát kỹ chung quanh cố nhận dạng một điểm quen thuộc nào đó có thể gợi nhớ cho mình. Ðầu óc của anh thật là mơ hồ, không một điểm nào có thể làm cho anh nhớ lại được hết! Cành cây có hình thù giống cây súng gãy mà trước đây cả đám cố gắng chôn sâu trước mộ bạn đã biến mất không để lại một dấu tích nào! Còn cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng dùng làm chuẩn, nay cũng bị đốn đâu mất tiêu! Hỏi ý kiến của Cường thì cũng thế, anh ta cũng không nhớ được điều gì rõ ràng cả!

Hai người hỏi thăm ông cựu đại úy bộ đội về sự thay đổi khi người ta khai phá rừng để trồng cao su, thì được biết con đường đất ven khu rừng ngày trước cũng vẫn còn đó và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay không thay đổi. Hùng hỏi ông ta về cây cổ thụ ngày xưa ở ven rừng thì ông cựu đại úy bộ đội này nhớ ra ngay. Lúc đó cả vùng chỉ có cây cổ thụ đó là lớn nhất nên hầu như ai ở khu này cũng đều biết nó cả. Ông ta chỉ hướng nơi có cây cổ thụ trước đây. Hùng mừng quá cùng với Cường đi ngay về phía bìa rừng cao su tìm kiếm dấu vết; thì quả nhiên dù cây cổ thụ đó đã bị đốn đi, nhưng vì gốc của nó quá lớn, người ta không thể nào bứng đi hết gốc rễ của nó được. Trên mặt đất vẫn còn nhô lên dấu tích một vài phần rễ khổng lồ còn sót lại như một xác nhận cho sự hiện diện của cây cổ thụ trước đây.

Cả bọn mừng quá, thầm cám ơn Phật Trời và cầu nguyện vong hồn của Mai Xuân Cương và Ba anh hộ độ cho bốn người tìm được đúng nơi anh nằm. Sau đó từ điểm chuẩn vừa tìm được, hai người nhắm ngược về hướng những ngôi mộ đếm đều bước. Cả hai muốn chắc ăn nên đếm từng bước như vậy 2, 3 lần và đều đến cùng một nơi. Cả bọn xúm lại lấy một cành cây dài đóng xuống thật sâu dò thử, thì sau khi qua khỏi lớp đất cứng, cành cây sụp xuống dễ dàng có vẻ như trúng ngay vào một lỗ hổng. Mọi người biết nơi đây đúng là một ngôi mộ rồi. Tuy nhiên có đúng là mộ của bạn hay không thì chỉ còn biết cầu nguyện thôi. Sau đó để y nguyên cành cây dài cắm trong mộ làm dấu. Bốn người cám ơn và từ giã người cựu bộ đội tốt bụng đi về để lo bước kế tiếp làm thủ tục xin giấy phép hốt cốt Mai Xuân Cương.

Mấy ngày sau, khi có được giấy tờ hợp lệ đầy đủ. Bọn Hùng trở lại chỗ cũ trình giấy tờ xin phép hốt cốt thân nhân với trưởng trại của đơn vị bộ đội đang trú đóng. Họ hỏi bọn Hùng về những di vật khi tẩn liệm Mai Xuân Cương, làm sao có thể nhận dạng chắc chắn đó là hài cốt của anh ta sau khi quật mồ lên... Hùng khai rõ những gì mình còn nhớ được khi tẩn liệm cho bạn với trưởng trại. Sau đó họ chấp thuận cho phép mấy người của Hùng được quật mồ. Một số bộ đội được cử đi theo giám sát.Hùng hồi hộp van vái không ngừng khi mộ huyệt được đào lên: “Mai Xuân Cương ơi Mai Xuân Cương! Hôm nay tụi tao lên mang mày về với gia đình đây. Mày có linh thiêng thì giúp tụi tao đào đúng chỗ. Mày sắp được về nằm gần Ba mày rồi. Ráng linh thiêng hướng dẫn cho tụi tao đào đúng chỗ nghe.” Hùng cứ lẩm bẩm khấn vái như vậy liên tục. Ðến khi những nhát xẻng đầu tiên xúc hết đất lòi ra một khoảng nylon lớn mầu olive sậm của chiếc áo mưa quân đội, thì Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường thấy hy vọng lắm. Cái áo mưa còn y nguyên. Sau khi khiêng lên trên, mở áo mưa ra thì không còn nghi ngờ gì nữa. Bộ đồ bà ba đen khi tẩn liệm cho Cương tuy mục nát vài chỗ nhưng hình thù vẫn còn.

Cây thánh giá của Mẹ Cương mà Hùng đeo vào cho bạn khi tẩn liệm cũng kiếm ra được, cộng thêm lúc còn sống Cương có một vết thẹo khá lớn trên trán, bây giờ xương sọ của anh vẫn còn một vết mờ nhạt ngay vị trí vết sẹo đó. Ngoài ra cái lọ thủy tinh chứa mảnh giấy để tên anh còn đó đã xác nhận rõ ràng.

***

Hài cốt của Mai Xuân Cương sau mười hai năm, cuối cùng được đưa về nhà đúng như ước muốn của anh trước giờ lâm chung. Sau đó được hỏa thiêu và mang vào nằm cạnh Ba anh trong ngôi nhà thờ họ Ðạo của gia đình. Sự ra đi tức tưởi của anh là một điều đau đớn cho riêng anh và gia đình cũng như bạn bè thân thuộc. Tuy thế vẫn có cái kết cuộc may mắn là anh có được những người bạn tốt như Diệp Phi Hùng, Trần Văn Khỏe, Nguyễn Minh Hoàng, Ngô Văn Cường, Phạm Thanh Tân, Hoàng Lập Thành... đã lo lắng cho anh vào những giây phút cuối. Ðặc biệt là Diệp Phi Hùng và Ngô Văn Cường đã hết lòng hoàn thành ước muốn của anh. Cũng như may mắn có được một gia đình thương yêu, quyết tâm mang anh về cho dù sau bao năm tháng. Vấn đề sức khỏe của Ba anh có làm trì hoãn chuyện này, nhưng quyết tâm đó vẫn được nung đúc và cuối cùng vẫn thực hiện được. Anh lại còn có cái may mắn xui khiến các bạn anh gặp được một cựu đại úy bộ đội tốt bụng, biết chỗ hướng dẫn đến đúng nơi anh nằm, từ đó mới có thể đưa anh về nhà được.

Nhưng khắp chiều dài đất nước, chúng ta còn biết bao Mai Xuân Cương khác đã âm thầm ngã xuống. Thân xác còn chôn vùi đâu đó nơi rừng sâu núi thẳm mãi cho đến giờ này vẫn không được biết và không ai đoái hoài tới. Ðất nước thân yêu của chúng ta đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nhưng phải nói chưa có giai đoạn lịch sử nào lại bi thương bằng giai đoạn vừa qua! Thân phận của hàng trăm ngàn người tù cải tạo và gia đình của họ sau cuộc chiến sao mà đau đớn quá!! Công lý nào, quyền lực nào mai sau sẽ có thể đòi lại công bằng cho họ được đây?

Tôi đã xúc động vô cùng khi nghe người bạn cùng khóa và cũng là người trong cuộc, anh Diệp Phi Hùng, kể lại câu chuyện thương tâm trên. Cái thân phận của người lính gãy súng như Mai Xuân Cương và biết bao sĩ quan VNCH khác trong những trại tù cải tạo rải rác khắp mọi miền đất nước sao mà bi thảm quá! Bài viết này được viết qua cảm xúc đó để kính dâng lên các anh, những người đã bỏ mình âm thầm trong những trại tù cải tạo xa xôi, như chút tâm tình riêng của một cựu quân nhân VNCH tưởng nhớ đến những chiến hữu của mình đã âm thầm ngã xuống tức tưởi ở một nơi nào đó. Các anh đã ngã xuống không phải trong một trận đánh kiêu hùng, mà ngã xuống chỉ vì ốm đau, bệnh tật... kết quả của sự đày ải và lòng hận thù hèn mọn.Với ý nghĩ đó, cá nhân tôi xin được vinh danh và chào kính các anh.

(Phố Ðá Tròn, giữa tháng 11 năm 2006)

Những nhân chứng có tên trong câu chuyện trên đây:

1. Cựu Th/úy Diệp Phi Hùng, TÐ16/TQLC hiện đang định cư tại Austin, Texas.
2. Cựu Th/Úy Nguyễn Minh Hoàng, TÐ3 Nhảy Dù hiện định cư tại Virginia
3. Cựu Th/Úy Ngô Văn Cường, TÐ8 Nhảy Dù hiện định cư tại Philadelphia
4. Cựu Ðại Úy Phạm Thanh Tân, Hải Quân hiện định cự tại Houston, Texas
5. Cựu Th/Úy Trần Văn Khỏe TÐ16/TQLC, hiện định cư tại San Jose, California
6. Cựu Th/Úy Hoàng Lập Thành, TÐ6/TQLC hiện định cự tại San Diego, California
7. Cựu Th/Úy Nguyễn Văn Thu, Ðịa Phương Quân/PCK hiện định cư tại Houston, Texas.8. Cựu Tr/Úy Hoàng (không nhớ họ), Khóa 20 Hải Quân, hiện định cư tại San Jose, CA (?)
... Và người nằm xuống nơi núi rừng Phước Long, Trại 3148, Bù Gia Phúc: Cựu Th/Úy Mai Xuân Cương, TÐ16/TQLC.

User avatar
saohom
Posts: 2240
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

Mùa Tạ Ơn

Chính Biên
Mùa Tạ Ơn, những cựu chiến binh VNCH xin tạ ơn những gì.

Trước hết, là một người tị nạn CS Việt Nam, người lính gẫy súng xin được tạ ơn những đất nước đã đón nhận mình trên đường tị nạn như Hoa Kỳ, Canada, Úc Châu và nhiều nước tại Âu Châu. Sự tạ ơn này cụ thể là đến những người dân ở những nước đó. Nhớ lại những ngày đầu tiên được đặt chân trên phần đất tự do, chúng ta đã nhận được biết bao nhiêu ân huệ, giúp đỡ đến độ có một số người đã lợi dụng sự giúp đỡ đó để mưu lợi ích cá nhân.

Thứ đến là những anh em đồng đội đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua từng làm nên những chiến tích oai hùng khiến chúng ta khỏi phải cúi mặt khi nhận chịu sự thua cuộc. Cụ thể là năm vị tướng lãnh và hàng chục hàng trăm chiến binh VNCH vô danh đã tuẫn tiết để bảo toàn danh dự người lính VNCH như người lính Cảnh Sát Quốc Gia tự vẫn trước nhà Quốc Hội và những chiến binh nhẩy dù tại Ngã Tư Bẩy Hiền, ngã tư Hàng Xanh...

Thứ đến nữa là những người tù bất khuất trong các trại tù cải tạo của CS sau 30 tháng 4, 1975. Họ đã làm rạng danh người lính VNCH trong khi ngã ngựa như cựu Ðề Ðốc Hồ Văn Kỳ Thoại viết trong cuốn hồi ký “Can trường trong chiến bại.” Họ đã cho chúng ta niềm kiêu hãnh khi đi tị nạn ở nhiều nơi trên thế giới.

Và thứ đến nữa là những người lính già đã gần đất xa trời vẫn còn đội mưa đạp gió dấn thân trong các cuộc đấu tranh chống CS để bị mang tiếng là quá khích đối với nhiều người. Chính những người lính già đấu tranh này đã là những yếu tố để ngọn cờ Vàng chính nghĩa của người Việt tị nạn CS đang tung bay trên khắp thế giới. Chính họ đã tạo nên một VN tự do, nhân bản trước mắt nhân loại khi nhân loại bừng tỉnh nhận ra cái họa Cộng Sản đối với con người.

Và sau chót là tạ ơn đến những người đàn bà Việt Nam, những người vợ lính. Sự hy sinh của họ trong cuộc chiến VN và thời hậu chiến tranh so ra cũng không kém giới tu mi nam tử. Chính họ là những người gìn giữ được nếp sống truyền thống VN cho con em suốt trong thời gian chiến tranh và nhất là sau ngày chiến tranh chấm dứt, họ đã thay chồng chống đỡ cho gia đình trước cơn giông bão đổi đời.

Mỗi năm chúng ta đều có một Mùa Tạ Ơn để suy ngẫm đến cuộc sống của mình. Chúng ta đã làm gì từ ngày ra khỏi ngục tù của Cộng Sản. Bao nhiêu năm tháng trong ngục tù ấy chúng ta đã mơ những “mộng lớn, mộng con” nào khi thoát khỏi ngục tù nay đã làm được bao nhiêu.

Những câu trả lời nhân trong Mùa Tạ Ơn này xin để mỗi người chúng ta nhận định để sự tạ ơn không chỉ là theo truyền thống của đất nước và người dân Hoa Kỳ.

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »


THANKSGIVING: TẠ ƠN CHIẾN SĨ CỘNG HÒA.

Chu Tất Tiến.

Con Người được tác tạo với hai phần tuy khác biệt nhưng lại hòa nhập với nhau làm một: Thể Xác và Tinh Thần. Tùy theo giáo dục gia đình và học đường và tùy theo nhận thức mà Con Người sinh hoạt theo từng đẳng cấp: Hướng Hạ, Nhân Bản, Hướng Thượng và Cao Thượng. Tầng lớp Hướng Hạ sống miễn cưỡng, buông thả và không biết chăm sóc bản thân mình, để mặc cho thể xác và tinh thần bệnh hoạn, mặc cho những kết quả của sự buông thả của mình lôi kéo mình đi vào một tương lai vô định. Lớp Nhân Bản sống đúng theo những nhu cầu căn bản của Nhân Loại, sống bình dị, và biết lo lắng cho thân thể và tinh thần mình tráng kiện. Giá trị cao hơn một cấp là lớp Hướng Thượng, tầng cấp này là những nhà giáo dục, những nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nghệ sĩ chân chính, kiến trúc sư…luôn tìm cách vươn lên một tầm cao hơn thế đứng hiện tại, đặt tâm hồn và trí thức mình hướng về việc làm cho Nhân Loại thăng hoa cũng như thích chia xẻ những điều Hay, Đẹp cho người khác. Phần thưởng mà họ mong muốn là những nụ cười hạnh phúc của thiên hạ. Vượt qua những đẳng cấp ấy là lớp người Cao Thượng, sẵn sàng hy sinh mình cho niềm vui và hạnh phúc của người khác, tuy biết rằng một khi hy sinh Thể Xác thì Tinh Thần cũng tan biến, sự hiện diện của cá nhân mình trên mặt đất này sẽ không còn nữa. Lớp người Cao Thượng này không hề nghĩ đến đau đớn của Thể Xác một khi chấp nhận hy sinh. Họ cũng không cần Quá Khứ, Hiện Tại, và Tương Lai của chính mình, vì nếu đã hy sinh Thể Xác, thì mọi liên hệ của Quá Khứ, Hiện Tại và Tương Lai đều biến mất trong chớp mắt. Sự hy sinh như thế là tận cùng của sự thất thoát và lỗ lã.

Vậy, họ là ai? Với khoa học, họ là những người miệt mài với các công thức y khoa hay các thí nghiệm vật lý, hóa học, chấp nhận hy sinh mọi nhu cầu cá nhân cho nhân loại được khỏe mạnh, tiện nghi và thăng tiến xã hội. Với tôn giáo, họ là những người Tử Vì Đạo, vì lòng tin của mình cho một thế giới tốt đẹp hơn. Với Việt Nam, họ là những Quân Nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã đấu tranh cho sự trường tồn của Dân Tộc, cho ý thức Dân Chủ và cho Nhân Quyền được tôn trọng.

Những người lính Cộng Hòa, một khi đã chấp nhận ra chiến trường thì coi cái chết bản thân nhẹ tựa lông hồng, coi thương tật vĩnh viễn là sự may mắn cho gia đình, trong khi đó lại coi sự tồn vong của đất nước như một trách nhiệm đương nhiên, không cần giải thích. Những người lính ấy cười ngạo nghễ trước Thần Chết, khinh bỉ mũi súng của quân thù, xung phong vào chỗ đạn lửa như vào chốn nghỉ ngơi. Họ chẳng hề nhớ tiếc đến nụ cười hay ánh mắt của người đẹp đằng sau, quên tất cả những lời ước hẹn “anh sẽ trở về với em”, mà chỉ biết đến nhiệm vụ phải hoàn thành, phải đưa dân ra khỏi vòng binh khói, phải cứu bạn ra khỏi chỗ pháo dập, và phải diệt bọn tà ma quỷ quái đang đặt mìn, đắp mô trên tỉnh lộ, đang chĩa pháo vào khu dân cư, hay đang chuẩn bị hành hình những viên chức xã ấp là những người phục vụ dân chúng. Trong số những người lính anh dũng ấy, có biết bao nhiêu khuôn mặt non trẻ, chưa hề biết một nụ hôn ngọt ngào như thế nào, chưa hề biết cảm xúc ra sao khi được một bàn tay ngà chạm nhẹ đến cổ áo, quấn cho anh chiếc khăn quàng của em gái hậu phương…Và cũng có biết bao người lặng lẽ chia tay với người vợ trẻ và mấy đứa con thơ, cố bịt tai để khỏi nghe tiếng khóc tiễn đưa, cố nhắm mắt để khỏi nhìn thấy những giọt lệ tuôn trào ướt áo, và cũng lặng lẽ băng mình vào sương khói mờ mịt mà chẳng dám quay lại, nói lời “hẹn tái ngộ”, vì biết có “tái”, có “ngộ” không sau trận chiến đẫm máu này…

Họ, những Thiên Thần Mũ Đỏ, Mũ Xanh, Mũ Nâu, những Anh Hùng Tiếp Vận, Kỵ Binh, Hải Quân, Không Quân, Công Binh, Pháo Binh, Địa Phương Quân, Truyền Tin, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, những Anh Thư Nữ Quân Nhân, các Anh Hùng Biệt Kích, Lôi Hổ, Biệt Hải, Giang Đoàn, Lực Lượng Đặc Biệt, Quân Nhu, Quân Cụ… đã chấp nhận trở về trong “hòm gỗ cài hoa” hay “trên đôi nạng gỗ”, hoặc trong tấm “poncho” lạnh lẽo, dưới những cơn mưa phũ phàng và trong tiếng gầm của đạn pháo tiễn đưa.

Họ, những chàng trai hay những thiếu nữ mắt sáng quắc như ánh sao, hồn rực lửa yêu từng tấc đất quê hương, đã là những Thiên Thần Hộ Mệnh cho miền Nam sống an lành trong biết mấy thập niên, và những tưởng sẽ tiếp tục giang cánh tay bảo vệ mạng sống người dân mãi mãi, nhưng không ngờ, bị bạn bè phản bội, bán đứng cho giặc, nên đành bẻ gẫy kiếm gươm, chôn vùi vũ khí và chôn cả quãng đời chiến đấu dang dở trong ngục tù Cộng Sản.

Thế đó, mà giờ đây, có bao người còn nhớ đến lời CÁM ƠN NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG HÒA? Trong lễ Thanksgiving của thiên hạ, có bao người biết ngả mũ, cúi đầu trước anh linh lẫm liệt của hơn bao chiến sĩ đã hy sinh Thể Xác và Tinh Thần cho quê hương, cho lịch sử và cho ba triệu người vượt biển an toàn? Có bao người đang giầu sang, hạnh phúc biết bắt tay và nói lời CÁM ƠN người lính Cộng Hòa đang vất vả ngược xuôi trong xứ lạ?

Vậy, trong không khí mừng lễ Tạ Ơn của thiên hạ, xin những ai đọc bài này, hãy quay sang bên cạnh về phía những người chiến sĩ cũ và một lần nói lên lời CÁM ƠN NGƯỜI CHIẾN SĨ CỘNG HÒA. Cám ơn anh, cám ơn chị, cám ơn em, cám ơn chiến hữu, cám ơn các Niên Trưởng, cám ơn tất cả những ai đã tham gia vào cuộc chiến bảo vệ Tự Do ấy. Nếu không có Tâm Hồn Cao Thượng của các anh, các chị, các em.. đã xả thân hy sinh, thì cả thế hệ chúng ta, đã không thể như hiện tại…

Tạ Ơn Người.

Chu Tất Tiến

langbat
Posts: 256
Joined: Sat Sep 22, 2012 3:50 am

Post by langbat »

TÔI GỌI HỌ - NGƯỜI LÍNH VNCH - LÀ ANH HÙNG

Đặng Chí Hùng


- Trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc (theo cách gọi của tác giả Huy Đức) đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” như tôi từng chứng minh trong 2 bài “Những sự thật cần phải biết – phần 1” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng…

Cứ mỗi độ xuân về, những ngày tháng 3 cho đến cuối tháng 4, đã gần 40 năm qua chúng ta thường được nghe những luận điệu lặp lại của những người cộng sản chuyên nghề ngậm máu phun người và làm thí ít mà báo cáo láo thì nhiều về cái gọi là “Chiến thắng lẫy lừng” thì tôi lại phải xuống bút.

Có lẽ tôi không cần phải nói lại về bản thân tôi vì tôi chẳng có cái gốc “Ngụy” để mà đi “chống phá” cách mạng. Nhưng tôi thấy cần phải luận anh hùng với đôi dòng để bạn đọc thấy trong cuộc chiến mà Bên thắng cuộc đã được đặt vào thế “tất nhiên phải thắng” thì không thể đem thành bại ra mà luận anh hùng…

Tại sao tôi nói như vậy? Vì trong cuộc chiến phi nghĩa mà cộng sản gây ra khiến nhân dân điêu linh (Xin xem thêm “Những sự thật không thể chối bỏ – phần 13”) thì kẻ thắng đã được đặt vào thế “được thắng”, còn người “thua” thì thực tế họ không thua mà họ đang thắng trong lòng chúng tôi, những người dù sinh sau đẻ muộn.

Một chế độ nào cũng có những khuyết điểm, Việt Nam Cộng Hòa không là ngoại lệ, nhưng ở chế độ đó con người đúng nghĩa là con người, ở đó con người không phải con vật, con thú cho nhà cầm quyền muốn làm gì thì làm như chế độ tôi đang phải sống. Điều này tôi đã chứng minh ở “Những sự thật cần phải biết – phần 2”. Nói như vậy để chúng ta thấy rằng tôi không có ý ca ngợi VNCH một cách vô lý. Trong con mắt của tôi, đó là một chế độ đáng sống hơn vạn lần so với cộng sản ngày nay. Và nếu được cho lựa chọn thì tôi sẽ quay ngược thời gian về làm người lính VNCH – vì với tôi họ là “Anh Hùng”!

Đã cuối tháng 3 gãy súng (theo lời tác giả Cao Xuân Huy) của gần 40 năm sau cuộc chiến mà ở đó những người anh hùng đã gục xuống vì chính nghĩa. Họ đã gãy súng nhưng họ thực sự là anh hùng. Hãy bình tĩnh nhìn lại họ để xem những gì tôi gọi họ – những người lính VNCH là anh hùng có gì sai không?

Thứ nhất, trong khuôn khổ bài 1,2 “Những sự thật cần phải biết” tôi đã chứng minh rằng: VNCH không phải là “ngụy” và những người lính VNCH phải gục ngã vì họ bị ép phải thua và không còn khả năng để chiến đấu. Họ không thể dùng tay không đánh nhau với đoàn quân đông đảo có vũ khí, đạn dược áp đảo đang tiến theo thế cờ chính trị. Như vậy họ không phải là những người bại trận. Trên thực tế họ bị ép phải “thua”.

Thứ hai, với khẩu hiệu “tổ quốc – danh dự – trách nhiệm” thì quân lực VNCH đã chiến đấu cho tự do miền nam hơn 20 năm trời. Họ không phải là những kẻ đi gây chiến, xâm lược nước khác, khủng bố như cộng sản (Xin xem thêm “những sự thật cần phải biết – phần 3,4”). Vậy cớ sao họ vì an ninh, vì quốc gia mà chiến đấu không thể gọi họ là anh hùng?

Thứ ba, nhìn lại cuộc chiến VNCH và VNDCCH thì ai cũng thấy gương của những ông tướng dám tuẫn tiết theo thành như trường hợp của tướng Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng… Vậy ai còn có thể nói quân lực có những người anh hùng đó không anh hùng? Dám chết cho lý tưởng của mình, dám chết vì thấy rằng mình dù bị ép thua nhưng cũng có trách nhiệm trong nỗi đau đó có thể gọi là anh hùng không? Có! Rất xứng đáng gọi họ là những anh hùng.

Thứ tư, khi so sánh với quân đội nhân dân VN hiện nay tôi càng thấy sự khác biệt của những người anh anh hùng và những kẻ “tự phong anh hùng”. Nếu quân lực VNCH có Ngụy Văn Thà và đồng đội sẵn sàng hi sinh vì biển đảo tổ quốc thì quân đội nhân dân cộng sản không dám “ho” một tiếng với Trung cộng bắn ngư dân và còn “tri ân” giặc như một đứa con nít đang xu nịnh đám giang hồ mất nết. Vậy ai là anh hùng các bạn cũng đã biết rồi chứ?

Thứ năm, sau khi cuộc chiến kết thúc, hàng triệu người lính VNCH còn kẹt lại ở VN chịu thương tật, không ai giúp đỡ, không có lương hưu nhưng họ vẫn sống thẳng thắn và điềm đạm. Trong khi đó quân đội cộng sản tự cho mình là anh hùng thì lại vì cái sổ hưu mà đang cố bám lấy cái đảng khủng bố, độc tài và chịu làm thân nô lệ cho Tàu. Vậy ai là anh hùng? Xin giành sự suy ngẫm này cho chính các vị tướng già quân đội cộng sản.

Còn rất nhiều bằng chứng nhưng tôi xin chỉ nêu 5 điều chính cho thấy những người mà tôi gọi là anh hùng – những người lính VNCH là hoàn toàn có cơ sở. Cuộc chiến mà họ phải thua dù họ có chính nghĩa không có ý nghĩa. Điều ý nghĩa đọng lại cho mãi sau này đó là họ đã từng là những người anh hùng, họ xứng đáng được tôn vinh và quan trọng hơn họ đang thắng trong cuộc chiến trong lòng con dân Việt Nam!

Xin ngả mũ tri ân những người lính VNCH – Những người anh hùng – Những người đã đặt nền móng cho ý chí không chịu khuất phục cộng sản khát máu!

Đặng Chí Hùng

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »


Nhớ về An-Lộc !!!


Nguyễn Sơn
Cho đến nay, đã hơn ba tháng tôi sống nơi đây mà vẫn chưa quen được với giờ giấc và thời-tiết. Đã đành đang Đông nên mặt trời thường “đi ngủ sớm”. Nhưng trong người tôi vẫn thường bị xây xẩm hoặc bị ảo-giác về giờ-giấc. Có khi đang trưa mà tôi cứ ngỡ là nửa đêm. Nên thường nhìn đồng-hồ là vậy.

Bây giờ đã hơn 1 giờ. Tôi biết chắc điều này vì ngoài trời mờ ảo với ánh đèn nhiều màu của thành-phố. Tuyết đang rơi thì phải. Hơn một tiếng đồng-hồ trước đây tôi đã thức giấc trong tiếng chuông điện-thoại. Người đã gọi, tôi không quen hay đúng hơn là tôi không nhớ. Anh đã nhắc nhiều đến Biệt Cách Dù trong đó có cả chị. Sau đó tôi đã không ngủ được. Tâm trí cứ vẫn-vơ nghĩ đến chuyện cũ An-Lộc năm xưa, đưa tôi vào ảo-giác chiêm-bao, trong mê tỉnh thực mộng…Tôi đã quên tôi trong hiện-hữu lạnh lẽo giá băng, trong thực tại tha-hương kiếm sống… tôi nhớ thật nhiều đến một mùa hè rực-rỡ, trong lửa đỏ Bình-Long, đến chị.


*****

Ngày 16/4/72 tôi đứng trong cơn chiều gió-lộng, trên một đỉnh đồi phía Đông không xa đồi Gió để nhìn vào An-Lộc. Nhìn con đường ngoằn-ngoèo, quanh co dẫn vào nơi khói lửa đó, lòng tôi bỗng dưng nôn-nao vô cớ, như lần hẹn hò với người tình đầu đời của tuổi học trò. Đêm tôi thao-thức với âm-thanh đạn nổ hai lần từ trời cao vọng xuống lẫn trong tiếng động-cơ con tàu C130 văng-vẳng khi gần, khi xa đã khiến tôi không sao nhắm mắt được với điệu ru buồn bã này. Sáng hôm sau, đơn-vị tôi vào An-Lộc- con đường ngoằn-ngoèo bỏ lại sau lưng.

Chúng tôi đã đi qua những buôn làng xám ngắt trong tro tàn vắng lạnh. Chúng tôi đã đi qua những vườn tiêu xanh tươi trong nắng vàng ban mai và trên con đường rợp bóng mát cao-su. Chúng tôi đã vào An-Lộc để mai này nối tiếp đi lên phía Bắc – lên đỉnh đồi Đồng Long…

Đoạn đường không xa để đi qua thị-xã nhỏ bé này, để đến đồi Đồng-Long cùng với thời-gian không dài trong thế-kỷ 20. nhưng chúng tôi đã đi không tới trong một sớm một chiều, một ngày một đêm. Bởi thời-gian không tính bằng phút, bằng giây mà nó đã định bằng âm-vang đạn nổ, bằng hàng vạn lượt pháo bắn vào thành-phố này. Con đuờng chúng tôi đi tới, không đo bằng gang tấc mà bằng từng giọt mồ hôi và nước mắt của người lính và gia-đình. Con đường bằng máu trơn trợt trong điêu tàn khi lên khi xuống như bể khổ trầm-luân… Đồi Đồng-Long như ảo-giác ốc-đảo trong sa-mạc, khi trước mắt khi xa xăm, lúc chờn-vờn lung-linh trong bão lửa, lúc biến mất trong sương mù nhuộm khói…An-Lộc chìm ngập trong tiếng nổ và lửa cháy suốt 60 ngày như đêm bạo chúa Neron đốt thành-trì, đốt cư-dân để tìm hứng thơ…

Chúng tôi đã đi qua được trận bão lửa này, trong tình bạn đồng-đội và hy-sinh để đến được đồi Đồng-Long và Hớn-Quản, ngoại-biên cực Bắc của thành-phố. Ngày 12/6/72 đồi Đồng-Long ngạo-nghễ nhìn quân Bắc-Việt tan-tác tháo chạy dưới chân…chấm dứt tham vọng của “cáo miền Bắc” đội lốt “chồn miền Nam” nối liền Lộc-Ninh, An-Lộc làm thủ-phủ xâm lấn miền Nam.

Đêm nay trong cảnh rét mướt của xứ người, lòng tôi bỗng nhớ lại chuyện máu lửa xa-xưa. Chuyện mà mấy ai còn nghĩ, còn nhớ đến trong cuộc sống vội vã bon chen này. Vả lại để làm gì, khi nó là một kỷ-niệm không thuộc về mình. “Ai dư nước mắt khóc người đời xưa”phải không chị? Ngay chính tôi cũng vậy. Dù là người mới đến nơi đây, chân chưa cạn vết nứt-nẻ bùn đen, mặt chưa phai màu nắng cháy quê-hương và lòng còn nặng biết bao điều nắng mưa ở Việt-Nam, cũng đã phải theo chân bạn-bè đi trước, kề vai vào gánh vác cuộs sống, chạy đôn chạy đáo rao đổi mồ-hôi lấy bạc cắc, không đủ thời-gian để viết lá thư tình với năm ba chữ yêu-thương…Vậy mà đêm nay, quên cả đêm dài cần-thiết để lấy sức cho ngày mai còng lưng kéo cuộc sống, lại ngồi chong đèn, bút giấy nói chuyện đời xưa với chị. Hẳn là chị phải ngạc-nhiên? Ở đây tôi không nghĩ về chị như thế nào? Nhưng tôi đã nghĩ nhiều đến bạn bè của tôi đã sống và chết như thế nào mà đã gây cho chị một xúc-cảm đặc-biệt để viết thành hai câu thơ:

“An-Lộc địa, sử ghi chiến-tíchBiệt-Cách Dù vị Quốc vong thân”

Tôi cũng không nghĩ đây là bản “phong-thần” mà mặc-nhiên chị đã dành cho chúng tôi- những người lính BCD. Điều mà tôi đã cảm-nhận được ở đây – ở chị – chị đã nhìn thấy chúng tôi đã chết từ “chiến-tích” để được sống lại trong “sử ghi” và cũng vì “Vị-Quốc” nên chúng tôi đã không còn chọn lựa nào khác hơn là “hy -sinh” phải thế không?…Tôi rất cảm-kích về điều của chị và có lẽ những anh-linh của bạn bè tôi cũng vậy.

Đó là chuyện “An-Lộc địa” và cô Pha ngày nào. Còn chuyện của tôi ngày xưa ở chiến-trường An-Lộc với chị ngày nay ở Cali – Đông có nắng vàng ấm-áp, hè có gió mát lá bay. Nơi chị đang an vui với gia-đình và bạn bè. Tôi cũng đã được lắm bạn bè nghĩ nhớ đến tôi cũng như tôi thường nghĩ nhớ đến họ. Những người đang sống và đã chết. Những người bạn thân-thiết cơm gạo sấy, nước trên ngàn của một thời chinh-chiến loạn-ly…Một Dung,Khánh, Mỹ, Thể…Một Huyên, Cường, Châu, Chính, Khoẻ…Tên của họ như vòng hạt chuỗi thẻ bài mà tôi đã từng mang nó trong năm tháng đời lính để ngày nay trở thành những mắt xích ràng buộc tôi với họ trong nỗi nhớ của tâm-hồn và vĩnh-viễn trong mai kia, dẫu tôi có sống dư thừa trăm năm, thế-sự có trầm-luân biến đổi đến đâu nữa – hình ảnh họ vẫn nguyên lành trong tôi với những đặc-điểm ở họ tôi đã mến thương.

Ghi chú của Minh Hiếu:
-Tòa nhà lớn 3 tầng là Trường tàu Quốc Quang
- Căn nhà 2 tầng phía bên kia đường là nhà của đại uý Hiệp hội đồng tỉnh Bình Long, có hai chiến xa T54 và PT76 do Đại Đội 4 Tiểu Đoàn 52 Biệt Đông Quân bắn hạ, đây là ngã tư Quốc Lộ 13 và Đại lộ Trần Hưng Đạo còn dược gọi bằng một cái tên rất thơ mộng là Đại Lộ Hoàng Hôn

Những người lính chúng tôi đã không tiếc thân mình, thì với chiến-trường nào cũng vậy, chỉ có máu đổ chứ không có lệ rơi.Nước mắt không còn rửa được hận thù và lệ rơi không ngăn được mưa pháo đạn bay nên đã xem chuyện “tử -biệt sinh ly” như chuyện tương-lai trước mắt. Kẻ trước người sau rồi cũng đến phiên như một phiên gác đêm của người lính trong đời sống súng đạn mà thôi. Tôi đã từng sống bên những xác bạn bè còn nóng máu chảy, và nhìn thấy khuôn mặt còn tươi tỉnh, bình-thản tắt thở. Tôi bình-thản đợi chờ đến phiên mình, có lúc đã quên cả tiếng thở dài để chào người nằm xuống…

Nhưng chị có biết không? Tưởng như vậy là hết, là quên, quên người, quên tên, quên cả kỷ-niệm và phiên mình chờ mãi vẫn không thấy đến. Không được chết vinh nên tôi đã phải sống nhục trong suốt 20 năm qua mà vẫn chưa yên…Để đêm nay lại đến với tôi, cuộc sống hiện-hữu, những hình ảnh của người chết trong vọng-tưởng hư-vô. Dẫu giờ đây cơm gạo sấy không còn, chiến-trận không còn sau 75. Bạn bè vẫn còn chập-chờn trong trí tôi. Bãt chợt đâu đó ở ngoại-cảnh, cũng có thể đưa tôi trở về dĩ-vãng để được gặp lại họ trong đời chiến-binh. Dẫu là mơ màng mộng tưởng nhưng đó cũng là nơi trú ẩn bình-yên duy nhất của tâm-hồn tôi giữa cuộc sống phàm-tục gian-truân này.

Những tháng ngày lưu đày, hay bên đường xuôi Bắc ngược Nam, lúc nhai củ sắn, khi gặm củ khoai. Cuộc sống nối tiếp qua những trại tập-trung đày ải của người anh em bắt làm thân trâu ngựa, kéo cây đẵn gỗ trên ngàn, lặn sông, lặn suối vớt đá đắp đường. Để rồi khi đông qua rét mướt đẫm mồ hôi, hè đến trong nắng lửa, ngất xỉu bên luống cày cạn khô lao-lực. Họ đã lấy hung tàn để cạo rửa lý-trí, vắt cạn sức lực con người bằng miếng ăn họng súng. Đưa con người trở về với bản-năng sinh-tồn của một sinh-vật, và trong cuộc sống yếu đuối tận cùng này, bạn bè như hiển-linh đến với tôi trong dáng điệu nụ cười. Khi bên bờ suối hoặc đình non cao, lúc chờn-vờn trong mây trong gió như khuyến-khích an-ủi vỗ-về; hãy ráng lên sống với giả-trá vinh-quang và khổ nhục để tồn tại, hãy nghĩ đến vài trăm hạt bắp cuối ngày, thuốc cầm hơi để kéo dài kiếp sống lưu-đày mà bạo-lực đã ban cho. Tôi đã sống qua những ngày tơi-tả trong manh áo hai màu thay da bọc xương. Tôi đã thấy từng toán người không vải che thân, da nhăn-nheo thiếu máu lùa xuống ao nhúng nước như những đàn dị-vật hai chân. Tôi đã thấy tôi trong đoàn người cùng khổ đó. Chúng tôi đã mất tất cả danh xưng làm ngưòi để thấp kém hơn cả những loài thú-vật nuôi trong nhà. Nhưng trong tôi luôn luôn vẫn còn niềm tự-hào của đơn-vị, của bạn bè để làm vốn liếng cho cuộc sống tinh-thần và mỉm cười với hai chữ “sa cơ” và “thời -thế”.

“Thập tam niên” lưu đày không là bao so với thế kỷ, với lịch sử loài người. Nhưng cũng là một sự mất mát đáng kể cho một đời người dù là trăm năm phải không chị? Tuy-nhiên đây không phải là một lời than – một sự tiếc nuối cho cá-nhân tôi hay cho bạn bè cùng thời. Giá gì 13 năm không ra chi đó mà nhắc nhở! Nếu có chăng chúng ta hãy nghĩ giùm đến hàng bao thế-hệ con trẻ của chúng ta đã bị trì trệ trí tuệ, mụ mẫm trong kiêu-căng phi-nghĩa, phi-nhân – Quên Cha ông, Tổ-tiên, Giống nòi trong hai tiếng “anh ,tôi”. Để chỉ biết có loài khỉ vượn ăn trái, ăn cây làm nên sự-nghiệp bác đảng. Con tôi không hiểu chữ “Hiếu” chữ “Ân”chữ “Tôn”, chữ “Kính”, không học Ngũ thường của Khổng Tử dạy làm người, mà lại thuộc lòng năm điều bác dạy như vẹt nói tiếng người. Tôi nhìn trong gia-đình với những xót-xa đổi thay và thấy ngoài xã-hội với những đổi mới kỳ-quặc. Tôi đơn-côi và bơ-vơ trong cuộc sống nửa khóc nửa cười này.

Giờ đây trong đêm khuya khoắt, bên đèn chiếc bóng. Bạn bè lại đến trong giọng nói điệu cười, cho tôi được một lần vui trong ngày, để sau đó tôi lại trở về với lặng câm của cơn buồn cuộc sống, của dĩ-vãng một thời làm lính và một thời đi tù.

Tôi đã không nghĩ đến bà con thân-nhân hay người yêu thưở nhỏ, hoặc cuộc sống mai đây sẽ khá hơn trong kiếp sống ly-hương này. Tôi sẽ có “job” mong ước khiêm-nhường của kẻ mới tới – để được chút tiền sống cho nình và cho người… Điều mà tôi nghĩ ở đây là những bạn bè của tôi không còn trên cõi đời này, những người đã chết không đám tang, không thay áo mới giữa chiến-trường. Họ đã trả lại cho đời sống cả tuổi thanh-xuân lẫn gian-truân một thời. Họ đã thảnh-thơi ra đi không bận với những gì còn lại và tiếp-diễn trên thế-gian này, dù là đầu đạn màu đồng hay những mảnh gang thép đã ghìm sâu vào thân thể, hay chiếc thẻ bài trắng bạc buông thòng trên cổ khi họ tắt thở – họ bình yên trong hai tiếng “trận -vong” thế là hết – một đời làm người!.

Nợ nước, nợ đời họ đã trả. Nhưng tình nhà ra sao hở chị? Những mảnh khăn tang ngày đó không đủ phủ-kín nỗi sầu-bi, tiếng nấc nghẹn-ngào của vợ con. Những tha-thiết nhung nhớ ngày đó của người tình, người yêu – bây giờ chắc cũng đã quên…Nhưng sao hôm nay lòng tôi bỗng dưng lại bồi-hồi xúc-động nhớ đến họ…

Hơn 20 năm qua cứ mỗi lần nghe ai đó nhắc đến An-Lộc tôi lại một lần nhớ đến bạn bè – nhớ đến chị. Tôi nhớ đến những người đã chết nơi này và nhớ đến chị đã sống nơi đó. Tôi nhớ đến những người đã tạo nên chiến-tích cho đơn-vị bằng cái chết của mình và nhớ đến hai câu thơ của chị đã làm cho họ sống lại trong lòng mọi người. Và tôi nhớ đến ngày chị bị thương như một sự an-bài để “Ta quen nhau hề Lý-Bạch lưu linh…” vì “an bài” nên chị đã may mắn thoát khỏi quả pháo đến đón chị vào số phận “hồng -nhan bạc mệnh” hay nửa đời người làm “bại tướng cụt chân”. Đáng ra vết thương này phải là của chúng tôi – những người trực-diện đối đầu phía trước – để cho mọi người – cho chị tay không cầm súng được an-lành. Nhưng chị biết đó, những viên đạn đồng đâu có hồn để biết đau thương, những viên đạn đầu đen mang gang thép ngoại-nhập nào có biết nhân-tình. Dù cho một em bé tuổi chưa thôi vú mẹ, nuôi chưa tròn tiếng gọi mẹ cha, hay ông cụ bà lão tật nguyền chống gậy khấp khểnh trên đường ve”Qui-Tiên”. Ở chiến-trường này đạn pháo của địch đã không nhân-nhượng khoan-dung cho bất cứ một thứ gì. Từ một bàn thiêng trước ngõ cho đến một con chó lạc chủ lang-thang bên đường. Tãt cả phải huỷ-diệt. Đó là điều mong muốn của địch. Họ đã dùng pháo để băm vằm thành-phố, băm vằm chúng tôi – những người lính đã quyết tử với họ…để giữ cho An-Lộc được tồn tại trên phần đãt tự-do miền Nam.

Bầu trời An-Lộc xưa nay vẫn đẹp trong nắng hồng trời xanh, đều đặn hai mùa nắng đẹp, mưa vui, cho cây lá thêm tươi và vì là một tỉnh lẻ địa-đầu nên một sư-đoàn cùng hàng ngàn chiến-xa. đại-bác từ phương Bắc xuôi Nam tràn vào tàn phá chiếm giữ. Bàu trời bỗng dưng rực đỏ mầu hồng cùng với khói đen. Tai ương đến – khu Kito nhuộm máu giáo-dân trong buổi cầu kinh – Chúa vẫn buồn dang tay chuộc tội thế-nhân, mà người vẫn đa mê trong tội ác. Chùa xụp đổ, chẳng còn kinh mõ, Phật từ-bi rơi nước mắt khóc điêu-linh, cuộc thế trầm-luân.

Đoàn quân CS vượt sông Gianh, Bến-Hải, xuyên Trường Sơn qua biên-giới. Ngày đêm ì-ạch khuân vác chiến-cụ ngoại-bang vào Nam. Người anh em chỉ nhằm mục-đích “giải-phóng” san bằng tự-do thanh-bình của người dân Nam để cùng nghèo đói gông cùm miền Bắc, trong giáo-điều bạo-tàn nô-dịch dân-tộc. Chắc chị cũng đã nghĩ như tôi, chắc chị đã không đau vì vết thương trên da thịt mà đã ray rứt về nỗi tủi hờn của một kẻ yếu đuối nữ-nhi, tay không cầm súng, không quen phong-trần cùng với gió sương. Chắc chị đã tiếc mình là nhi-nữ, không là Triệu-Ẩu, Trưng-Vưong, để phải lắm phen quay quắc trong hãi-hùng. Từ toà Hành-Chánh hay ga xe lửa, khu Kito hay trường học – chị lang-thang không nhà trốn giặc, trốn đạn khắp thành-phố bị bao vây nhiều ngày này và chị đã đến đây. Chị đã thấy gì hơn những nơi khác? Củng đổ nát điêu-tàn, cũng pháo rơi đạn nổ vung vãi khắp phố xá nhà cửa của dân lành. Địch nhằm mục-đích gây khủng-hoảng tinh-thần chúng tôi để chờ thời-cơ tiến đánh, nên đã ngày đêm không tiếc đạn bắn phá chúng tôi. Nhưng chị cũng thấy đó, chúng tôi vẫn thảnh-thơi vui cười – chờ địch đến như chờ cuộc chơi. Và với không khí lạc-quan đó đã khiến cho chị cảm thấy dễ chịu bình-yên hơn, tin tưởng hơn – dù một chút tin-tưởng đến muộn nhưng đã giúp chị thoát khỏi sự ám ảnh nào đó của âu lo…khi nghĩ đến cảnh phải ngồi co-ro ở một xó-xỉnh nào đó mà quyền làm người của chị lệ-thuộc vào họng súng AK, liệu chị có còn dám ngước mắt nhìn thẳng mặt họ mà vui cười như nhìn chúng tôi hay không? Hay chỉ biết cúi mặt chờ đợi – Những đầu ngón chân đen đúa đường xa của bọn chúng, chị sẽ nhìn thấy ở đó, một phần nào số phận của mình sẽ được định-đoạt. Chị sẽ bị mang ra bắn bỏ hay chôn sống. Có thể họ sẽ tha cho chị tội chết nhưng sẽ bắt chị phải đền tội sống. Tội làm người ở đãt nước tự-do, tội làm một cô giáo tỉnh lẻ hay viên-chức phụ-động ngày hai buổi đi về không biết hoan-hô, đả đảo…Chị sẽ được giáo-dục lao-động là vinh-quang làm theo sức trâu bò quên ngày, quên đêm là tiên tiến, là mũi nhọn công đầu…Chân chị sẽ chẳng còn guốc hồng dép trắng – chẳng còn nuột-nà gót sen và đôi tay của chị trau chuốt một thời sẽ nhăn-nheo héo úa bởi bùn đen đãt đỏ, bởi gai đâm vết cắt…tâm-hồn chị sẽ chai lì trong ê-chề buồn thảm để đến lúc chẳng còn biết mình là ai. Năm qua tháng lại chị sẽ trở thành một tên nô-lệ chuyên-nghiệp của chiến-trường xuôi Bắc ngược Nam, quên cha quên mẹ, quên cả người tình…Ngày ngày vác sắn,tải đạn, khiêng thương binh, chôn xác quân thù. Đêm về ngồi xếp bằng vỗ tay ca hát như lũ con nít vừa mới lên năm. Cuộc đời rồi cũng tàn-tạ rơi-rụng như chiếc lá úa trên rừng…Gương Mậu-Thân ngày nào ở Huế, chắc chẳng mấy ai quên…

Sống nơi này với chúng tôi chị đã cảm thấy dễ chịu bởi chúng tôi đã không vướng bận với cái sống, cái chết, nên chị cũng đã bỏ lo đi để bình-thản. Rồi một đêm mùa hè trăng soi, chị đã quên cuộc sống dẫy đầy chết chóc, đau thương, chị yên tâm quên pháo, nằm dưới hiên để ngắm chị Hằng lững-lờ cùng trời mây. Chị có nhớ Lý-Bạch đã chết vì trăng không? Tôi không hiểu Tô-đông-Pha đã chết như thế nào? Nhưng tôi đã biết rõ chị Pha đã thoát chết trong một đêm mưa pháo của trận chiến An-Lộc. Và chị đã không chết ngay tại chỗ nhưng với vết thương đó liệu chị có nghĩ đến “Mỹ nhân nhân tự cổ như danh tướng. Bất hứa dương gian…” không?

Đấy, chị đã sống gần chúng tôi bao ngày trận chiến hung hiểm. Chị cũng đã từng thấy chúng tôi ngã gục trên chiến-hào, hay bao phen thay phiên mang thương tích để giữ đất và giữ nước. Chị cũng đã nhìn thấy những nấm mồ chôn vội vã bên cạnh chúng tôi. Với một nấm mồ có gì để đáng nói! Nhưng với chúng tôi đó là những nấm mồ mà chúng tôi đã đắp lên cho bạn bè bằng tất cả tình huynh-đệ thân thương…Chị đã thấy, trong những đêm mưa tầm-tã lẫn lộn với pháo rơi, chúng tôi đã phải mò-mẫm từng tấc đãt trong bóng đêm để bới những cái hố nhỏ chôn mình tránh pháo rồi mới đào những huyệt lớn để chôn xác bạn sau. Chúng tôi đã xem thường cái chết trong lúc chiến-đấu một mất, một còn với địch bao nhiêu, quý xác bạn bè khi nằm xuống bấy nhiêu. Đôi khi thật vô-lý – khi một người chết lại phải mất thêm một vài người sống chỉ vì một cái xác không hồn. Nhưng tình-cảm riêng của chúng tôi, nó có lý lẽ riêng của nó…và chúng tôi đã tồn tại được trong gian-nguy khắp chiến-trường dạo đó, một phần cũng nhờ vào tinh-thần đồng-đội “sống chết có nhau”.

Có lẽ ở đây chị cũng đã nhìn thấy được ở chúng tôi điều mà chúng tôi đã không thấy. Đó là thân-phận thật nhỏ nhen của một người lính khi sống cũng như lúc chết và sự hy-sinh hào-hùng lớn lao của họ mà thế-nhân ít kẻ thực-sự nhìn thấy. Lẽ dĩ nhiên đôi khi chúng tôi cũng được ca tụng, ngợi khen, có lúc cũng đã phải thẹn-thùng bởi vì nó đã vượt quá điều chúng tôi nghĩ, chúng tôi làm. Và, chị là một – một chứng-nhân cho sự sống chết và hy-sinh bên nhau của chúng tôi. Nếu chúng tôi là những tên giác-đấu khô cằn sắt đá, chỉ biết đi tới trong bước chân Robot người máy, hoặc quay lưng lại chạy trước, quên sau, không cần biết bạn bè chiến-hữu thì chúng tôi cũng đã tự huỷ-diệt từ lâu. Và bây giờ cũng chẳng còn gì để nói với nhau, với chị. trong cái nhìn của chị về chúng tôi, cũng như đã cảm-nhận được những gì mà chúng tôi đã có. Cái đau hành xác của vết thương thiếu thuốc. Cái chết lơ-lững trước mắt trong lằn đạn địch bắn tới. Cái”lạnh cẳng” khi đôi chân vướng vít giữa những lằn đạn bắn ngang dọc, và nhất là tiếng nổ của viên đạn pháo rơi kề cận, là một điều thật hiếm hoi để cho chị phải nhớ mãi. Bởi những trường-hợp như thế này ít khi còn dịp để cho mình nhớ lại cảm-giác lúc đầu. Vì mình sẽ không còn nữa, và linh-hồn không biết có mang theo để nhớ lại ở đâu đó không? Chị cũng đã từng chung niềm vui với chúng tôi trong những khi chiến-thắng và cũng đã cùng buồn trong những lúc chiến-bại. Chị là chiếc bóng kề cận, là chứng nhân, là chiến-hữu của chúng tôi. Dù không súng đạn ba-lô, không mang cấp bậc số quân, không ai tuyên dương chị nhưng chính chị đã tuyên-dương chúng tôi, đã khiến cho mọi người nhìn thấy chúng tôi trên khắp chiến-trường giông bão chống giặc Bắc-phương ngày đó qua “An-Lộc địa”của chị và mãi cho đến bây giờ hoặc mai sau.

Hơn 20 năm qua, chị nghĩ chúng tôi, những người lính đã sống và chết trong trận mạc còn gì. Tôi không nghĩ sự hy-sinh của chúng tôi hay Việt-Nam còn gì? Còn chăng đó một sự mất mát không tìm lại được cùng với những nỗi cay đắng nhọc nhằn mà người sống đã phải gánh chịu cùng với vết tích của người chết cũng chẳng còn. Ngay cả những ngôi mộ vốn dĩ đã mang tiếng là “mồ viễn-xứ”dù quanh năm nhang tàn khói lạnh cỏ mọc mồ xanh, nó vẫn là một ngôi mộ. Tên tuổi, ngày tháng sanh, tử vẫn in vết trên bia dẫu đã rêu phong cát phủ. Vết tích khiêm-nhường của một người lính chừng đó còn lại trên cõi trần đời. Thế mà tàn cuộc chiến mồ hoang cũng chẳng còn. Sự thù hận Nguyễn-Ánh – Tây-Sơn mấy trăm năm lịch-sử được lật ngược để đào mồ, cuốc mả trả thù. Dù là mồ mả của một người lính súng dài không quan tước, quyền hành. Tôi chợt nhớ tới tưởng người lính màu đen bên đường xa-lộ Biên-Hoà, mà xưa kia ai qua lại cũng phải ngó, phải nhìn với thoáng suy-tư trầm-mặc, cũng như đã có biết bao điều hư thực được người ta đồn đãi chung quanh tượng người lính này. Chuyện đêm đêm người lính rời bỏ bục ngồi lang thang đi dạo dọc theo xa-lộ, vào nhà dân xin nước, chờ khách qua đường để xin lửa hút thuốc,v.v..những câu chuyện mà thường nhật của một người lính đang sống thường làm vô thưởng vô phạt mà đôi khi còn được coi là dễ mến, dễ thương. Tôi không hề nghe kể chuyện tượng lính đó đã gây ra những điều huyền-bí, kinh-dị, sợ hãi cho một ai. Nay cũng được tròng dây kéo đổ, gãy cổ bể đầu lăn lóc dưới đãt – thật khó coi – nhưng cũng thật bất-nhẫn. Cũng như di-vật của em tôi – một phi-công – tấm thẻ bài, bộ đồ bay không nghĩa gì cả – cũng được gọi là “giặc lái” mang ra xiềng xích trưng bày, phỉ nhổ…Tôi không hiểu nổi – vật của người chết có hồn hay hồn của người sống vô-tri…Tôi đã lang-thang qua những nghĩa-trang Bắc-Việt, Mạc-đỉnh-Chi để nhớ lại một thưở nào kỷ-niệm học trò đi tìm im vắng. Giờ đây trong nỗi buồn vô-vọng của kẻ mất cuộc sống, tôi trở lại chỗ này chỉ thấy toàn hố trũng hoang-tàn đổ nát. Tàn tích của một sự bới móc không khoan nhượng. Tôi cảm thấy thấm-thía cho một sự đổi đời. Nước mất nhà tan mồ mả chẳng còn!

Một mai nếu có dịp trở về An-Lộc, tôi nghĩ chị sẽ thấy lòng trĩu buồn bởi những đổi thay mất mát không ngờ…Chị sẽ như tôi lạc lõng lang-thang trong tiềm-thức, trong vọng tưởng để tìm lại những tàn-tích dĩ-vãng trên mãnh đãt này năm xưa. Rồi một sớm mai sương mù giăng kín không-gian hay một chiều nắng nhạt nào đó, trên đường về quanh co nẻo vắng hay trong gió lạnh sương mai. Biết đâu chợt trong mơ tưởng chị sẽ gặp lại những gì mà chị đã lãng quên trong cuộc sống hôm nay và chị sẽ thấy thời-gian không phải là mồ chôn dĩ-vãng. Vì vậy mà tôi đã sống với những kỷ-niệm đang sống trong tôi. Ngày đó, tôi đã biết chị nhưng không biết tên. Qua câu chuyện của bạn bè nói về một thiếu-nữ bị pháo gãy chân. Chuyện đó có gì lạ đối với chiến-trường này. Nhưng một chút ngạc-nhiên cũng đã đến với tôi là từ ngày chúng tôi đến đây – trên phòng-tuyến này – bạn bè chúng tôi cũng đã chết nhiều nhưng chưa nghe nói một người dân nào trốn giặc bên chúng tôi bị nạn cả. Sao lại có chuyện này. Tôi chưa kịp hỏi mà chỉ lơ-đãng hình-dung về chị, về hình ảnh một thiếu-nữ gẫy chân. Lòng tôi trơ cứng như hồn đá sỏi, chẳng một chút xúc-cảm nào mang nghĩa xót thương. Bởi ở đây tôi đã quen lắm chuyện đau thương mà bình thường chắc cũng không khỏi mũi lòng cũng như quen mùi xác rữa của địch rải-rác trước phòng-tuyến mà bình thường chắc cũng thấy hôi tanh.

Viên đạn pháo nổ tung mái ngói trên chỗ tôi ngồi đưa tôi trở về thực tại rời khỏi thoáng chốc vu-vơ. Tâm-trí tôi lại trở về với máu lửa của những trận đánh kế tiếp. Tôi đã quên đi chuyện này như chuyện chiêm-bao ngủ gật. Bởi ở đây có biết bao chuyện lạ đời để mãi mãi không nhạt nhoà trong tâm-tưởng.

Ngày đầu tiên tôi vào đây. Trong căn nhà bên kia lò bánh mì, tôi đã gặp một em chưa đầy tuổi thôi nôi, nằm giữa một chiếc giường chăn xô gối lệch. Em đang an giấc trong lời ru của ruồi nhặng, mắt môi đầy ắp những sinh-vật mới sinh. Tôi sững sờ không phân-biệt được em là trai hay gái. Lòng tôi rưng rưng lẫn buồn nôn. Tôi quay ra như trốn chạy một điều gì, rồi mãnh-lực nào đó đã giữ tôi lại, cúi xuống kéo tấm chăn phủ kín người em. Đàn nhặng vù lên như một sự phản-đối gớm-ghiếc. Vĩnh-biệt em. Một thời ngắn ngủi làm người trong chiến-tranh ly loạn cũng như chuyện một đêm, người thiếu-phụ bật tiếng rên la từ một góc phố cùng với trận đánh bên ngoài. Người y-sĩ đã bỏ việc cứu thương, cứu lính để tìm người thiếu-phụ, làm việc cứu dân. Dưới ánh sáng leo-lét của ngọn đèn dầu không đủ sáng hết căn hầm bé nhỏ, người thiếu phụ đang chuyển bụng. Một việc bất ngờ đối với người y-sĩ vưà mới về đơn-vị này. Xưa nay trên chiến-trường chỉ có tử chứ nào có sinh, nhưng đây cũng là một chuyện lạ bất ngờ. Người y-sĩ chỉ quen cứu chữa những vết thương vì bom đạn, bây giờ trước vết thương này – vết thương sinh-tồn của giống-nòi, đã khiến cho người y-sĩ phải bỡ-ngỡ và người y-sĩ đã làm hết sức mình để cứu mẹ con người thiếu-phụ thoát khỏi cơn nguy-nan của một lần “vượt biển” đời giửa cảnh phong-ba bão lửa này. Đối với người thầy thuốc thì việc tận-lực cứu dân hay cứu lính không quan-trọng mà cứu người là thiên-chức của họ. Nên đã không phân-biệt vết thương của bạn, thù hay dân, lính. Rồi em bé cũng ra đời để mang tên của người thầy thuốc – Ân-nhân cứu tử của mẹ con em. Tôi không hiểu em bé có cất tiếng khóc để chào đời, chào cuộc chiến, hay đã im lặng như cảm-nhận thảm-hoạ chiến-tranh để cùng mẹ cha nhẹ gánh chạy giặc.

Tôi cũng đã đi qua trận đánh phía Tây trong đêm tối hãi-hùng – lẫn lộn trong điêu-tàn sụp đổ xác người, thú – những viên đạn B41 xanh biếc, lập-loè cắt rách màn đêm như điềm báo tử-thần quanh đây cùng với những âm-thanh đạn pháo, xé rách không gian hứa hẹn bao điều thảm họa phía sau. Cảnh huyên-náo của chiến-trường trong đêm tối, đã thôi-thúc chúng tôi đi tới trong thách-thức số-phận cùng với gian-nguy, để lùa địch ra khỏi vòng đai của thành-phố và sáng hôm sau chúng tôi đã đổi được chỗ của kẻ chiếm đất để giữ lại đất.

Chiều ngày 18/04 chúng tôi đã đến từ ngoại-biên Đông-Nam của thành-phố. Nhìn vào trận-địa trước mặt, như một canh bài đã được bày sẵn trên chiếu bạc mà tẩy đôi bên là xương máu, súng đạn. Địch dửng dưng đứng nhìn chúng tôi như một người chủ mất dạy ra tiếp khách. Tôi nghĩ họ đã đánh giá chúng tôi như những con cừu non hiền-lành đang dấn thân đến gần miệng sói lang. Địch quân đông, pháo nhiều lại trong thế thủ. Chúng tôi quân ít, vũ-khí nhẹ, trận-địa không quen, lại thêm đường xa mới tới. Địch đang trên thế thắng – chúng tôi trong tình-trạng thể chất mỏi mệt. Sự tương-quan chênh-lệch giữa đôi bên đã khiến cho địch xem thường chúng tôi. Và không cho phép chúng tôi được quyền chủ-quan, dù bất cứ một chủ-quan khiêm-nhường nào đi nữa – Thế yếu – chúng tôi phải đổi thắng bại bằng dũng-cảm và hy-sinh nên đã không cho phép chúng tôi quên “Tiên hạ thủ vi cường”. Địch không ngờ chúng tôi đã đánh sau vài tiếng đông hồ khi màn đêm vừa buông xuống. Họ cũng không ngờ chúng tôi chúng tôi lại là những người linh tinh-nhuệ trong bóng đêm. Một chiến-thuật đã làm cho đơn-vị chúng tôi vang danh trên khắp chiến-trường – là khắc-tinh của bám trụ, của kiềng, chốt mà một thời địch đã tự hào là một chiến-thuật ưu việt của họ. Chúng tôi đi đến đâu, kiềng chốt bám trụ của họ tan tành đến đó. Mậu-Thân 68 ở mặt trận Cây Thị Gia-Định là một. Người ta đã biết chúng tôi qua chiến-thuật này cùng những lời ví von biến hai chữ Biệt Cách thành “Bird cat”một loại chim mà phương Tây đã lấy làm biểu tượng cho điều đáng kính và mang ơn – Cú mèo – Quả thật tôi cũng không ưa. Người Á Đông vẫn cho rằng nó là biểu hiện cho điều hung hiểm. Khi có chim cú đến nhà là điềm báo tang tóc, bại vong. Đêm nay chúng tôi đã đến – hẳn là địch đã không tin. Một trận đánh mà địch đã không lường trước đuợc sự thảm bại lại thuộc về mình. Để từ đó, đổi lại ưu thế tinh-thần thuộc về chúng tôi trong các trận đánh sau này. Điều cấm kỵ trong lúc giao chiến mà nễ sợ địch, chính đó là sai lầm của chúng.

Bóng đêm tan dần, mặt trời lên. Quang cảnh trận địa thật thê-lương ảm đạm. Ruồi nhặng thức giấc vo ve reo mừng máu bầm, máu tươi thịt mới, cũ la liệt khắp nơi. Ba đêm không ngủ – đôi mi trĩu nặng ngàn cân. Tôi cố nhướng lên cùng với ý nghĩ âu lo sợ địch phản công. Nhưng vô ích tôi đã gục xuống ở góc một hiên nhà…Tôi tỉnh dậy giữa những tiếng pháo xa, gần quanh chúng tôi. Địch bắt đầu pháo vào trận địa. Chỉ có đạn rơi và pháo nổ, nơi đây chẳng còn một ai – ngoại trừ chúng tôi và ruồi nhặng.

Trưa mùa hè nắng hạ, mùi thịt da sình thối quyện đặc không gian, đã khiến chúng tôi thở tưởng như oxy cũng nhuôm máu. Và thật bất ngờ, tôi đã gặp hai vợ chồng cụ già nơi này – ở một xó bếp. Ông cụ ngồi dựa lưng trước cửa một cái hầm nổi bằng bao cát và thùng phi chứa đãt. Người vợ đang ngồi nhen lửa trong bếp gần đó. Chắc họ cũng vừa mới chui ra khỏi hầm, chắc họ cũng thức suốt đêm qua? Tôi đến gần chào họ – vẫn im lặng. Tôi chào lần nữa, ông cụ vẫn bất động nhìn thẳng ra trước mặt. Tôi chưa kịp thắc mắc thì tiếng bà cụ vang ra mà chẳng cần quay lại “Ổng mù và điếc đó” Tôi cứ tưởng là bà cụ đang nói chuyện với ông Táo. Tôi cúi nhìn vào đôi mắt ông cụ. Đôi mắt của người “ngủ ngày”. Thái độ và giọng nói của bà cụ, tôi hiểu họ không muốn nhìn thấy gì trước mắt, không muốn nghe gì bên tai. Dù chúng tôi là bạn hay thù. Dù là tiếng đạn hay tiếng bom. Họ đã tự thoát ra khỏi trần đời, thế sự, nên con người hay sự vật chung quanh không còn lệ thuộc thế-giới của họ, tôi quay ra với những ý nghĩ không vui.

Hai tháng sau có dịp tôi đã trở lại nơi này. Chẳng còn một thứ gì nguyên lành, ngay cả mùi hôi thúi ngày nào cũng chẳng còn. Căn nhà bếp, nơi tôi đã gặp hai vợ chồng ông cụ cũng chẳng thấy. Nhưng căn hầm vẫn còn đó với trăm thứ, cột kèo gạch ngói phủ lấp lên trên. Hình ảnh hai ông bà cụ cứ chờn vởn trước mắt đã khiến tôi chui vào hầm. Ánh sáng không đủ cho tôi thấy rõ lòng hầm nhưng rõ ràng hai bộ xương một nằm, một ngồi dựa vách đã khiến cho tôi sững sờ và rờn-rợn khắp người. Tôi cố nhìn họ một lần nữa cũng chỉ thấy hai bộ xương mà chẳng thấy gì trong tâm trí mình. Tôi chui ra với những ý-nghĩ rã rời cùng với mùi hôi hăng-hắc khó chịu của xác người chết khô.

Trời chợt đổ cơn mưa, cơn mưa nhẹ của chiều tháng sáu đã làm cho lòng tôi càng thêm quay quắc trong nỗi buồn..

Tôi trở về chân đồi Đồng Long. Nơi đây trận đánh cuối cùng của chúng tôi vào ngày 12 tháng 6. Địch đông gấp 5 lần. Trận đánh kéo dài từ sáng sớm cho đến chiều, không ăn không nghỉ. Xác một Mỹ, một Cứ… nằm dài trước mặt tôi dăm ba thước mà mới đêm qua còn nằm bên nhau xầm xì to nhỏ, chuyện không đầu không đuôi của lính, chuyện buồn vui của gia đình, của người thân, chuyện ngày qua và mai sau…Thế mà bây giờ thì nằm đó, giữa những họng súng địch canh giữ, ai sẽ đưa các anh về..? Không bỏ chiến tuyến không bỏ xác bạn đó là điều khẳng định của chúng tôi. Địch cũng hiểu rõ điều này nên đã không bỏ công canh chừng.Trời chiều nghiêng bóng, lòng tôi như lửa đót, cổ khô đắng bởi mùi thuốc súng và khói bụi. Tôi nằm ngửa canh chừng những quả đạn 81 bay lên từ chợ Mới vẽ thành những đường cung mường tượng trong không gian, khi viên đạn bay qua để xem may rủi giữa ta và địch. Khoảng cách an toàn giửa điểm nổ và quân bạn đã không dành cho chúng tôi trong trận đánh này, và cứ mỗi lần nhìn thấy viên đạn bay lên không bình thường, tôi lại phập phồng không đoán được nó sẽ rơi vào chỗ nào? Rồi nhắm mắt lại để tưởng tượng nó sẽ rơi ngay vào đầu mình…Chúng tôi đã chấp nhận đạn rơi cách chúng tôi đôi ba thước ở thời điểm nổ chậm nên có thể chôn vùi chúng tôi trong cát bụi, nhưng buộc địch phải bỏ những chiếc áo giáp chữ A, chữ Z sát cạnh chúng tôi năm ba thước để chúng không còn có cơ hội kiên trì bám dính chúng tôi nữa. Rồi một thể lao thẳng qua phòng tuyến địch bắn phá, coi đạn địch bắn ngang dọc như rơm rác, như giấy hoa. Mắt tôi mờ đi vì những hình ảnh dũng cảm của bạn bè – Một Thiện ngày nào trong trận đánh tái chiếm khu cảnh-sát. Bàn tay phải bị bắn đứt, Thiện vẫn tỉnh táo giơ lên để máu bớt chẩy, tay trái kẹp súng bắn trả như vừa cầm đuốc vừa bắn giữa cảnh mịt mù khói bụi. Một Y Muih Mlor tay ướt đẫm máu tươi đứng trên nắp hầm địch, mặt vẫn tỉnh bơ như thể chẳng có gì xẩy ra trên thân thể mình, và mới sáng nay Vosary bị địch bắn bay hàm dưới vẫn đứng chỉ tay về phía hầm địch để báo cho bạn bè. Người đen, máu đỏ đầy miệng, đã khiến cho mấy thằng Việt cộng con không khiếp đảm cũng phải rùng mình. Những hình ảnh đó đã thể hiện một phần nào cái dũng của BCD mà chỉ có trong nguy nan mới thấy được. Tôi hãnh diện đã có những người bạn như thế đó đã làm rạng danh cho đơn vị một thời. Địch cũng đã đoán được “cơn nước lũ” chúng tôi sắp tràn qua và thể như một điềm báo trước để địch phải tháo chạy.

Bóng chiều tắt dần – trong im lặng không tiếng súng. Chiến trường như bãi chợ chiều, ngổn ngang súng đạn cùng xác chết. Chúng tôi đã không ồn ào hò reo chiến-thắng. Chúng tôi không nhìn thấy những chiến tích trước mặt mà đã im lặng nghĩ nhiều đến những bạn bè đã hy-sinh, đã nằm xuống trong trận đánh để đời này. Cơn gió lành lạnh thổi qua mang theo những tia nắng cuối cùng trong ngày chìm dần vào màn đêm giữa sự im lặng ngẩn ngơ của chúng tôi. Một ngày đã qua với bao nhiêu máu và mồ hôi đã đổ xuống – với địch ngày nào đã rầm rộ đi vào, bây giờ đã phải tan tác tháo chạy tìm sống trong số phận rủi may. Chẳng bù lại ngày 14/4 đã tràn vào thành-phố như chỗ không người. Ngạo-nghễ, kiêu-căng trên những chiến xa, giữa sự trốn chạy hãi hùng của người dân. Nhưng giờ đây vết tích còn đó. Hàng trăm chiến xa nối đuôi nhau bị bắn hạ khắp nẻo đường phố. Họ đã mất đi sự tự kiêu, tự mãn lúc ban đầu. Giờ đây chỉ còn mong lấy thịt đè người, lấy hoả lực đàn áp tấn-công. Bốn sư-đoàn 5,7,9 và Bình-Long khoá đầu chận đuôi tận lực vây hãm. nhưng An-Lộc đã không mất đi trong cơn hấp hối thì địch còn mong làm đuợc gì trong sự hồi sinh dũng mãnh của quân trú phòng. Bọn giặc Cộng lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan rồi tự tan rã trong sự phản công quyết định của đơn vị tham chiến. An-Lộc đã trở thành một biểu tượng cho sự dũng cảm và hào hùng của quân đội miền Nam.

Tôi đứng trên lưng đồi phía Bắc để nhìn ngược về phía Nam, về chợ Mới. Dãy phố quen thuộc trong 60 ngày qua xa trông như vẫn nguyên lành duy nhất, còn lại chung quanh là hoang tàn đổ nát. Một chút tự hào đã thoáng đến với tôi. Tôi chợt nghĩ đến những thành quách xa xưa – dãy phố chơ-vơ nhỏ bé nằm giữa hai góc đường đó như một ốc đảo trong sa mạc khói lửa đã qua. Những vết đạn lớn nhỏ loang lỗ khắp cùng bởi bao lần bị bắn phá, bị tấn công, nó đã trở thành một thứ anh hùng hảo-hán thân mang đầy thương tích mà vẫn khí phách ngang tàng đứng vững giữa trận địa. Nó không còn là một dẫy phố thương mại bình thường của thương nhân, mà nó đã trở thành một thứ thành quách sắt thép của 81 – chỗ dựa cho đại pháo Navaron và nó còn là một chứng tích mà tự nó đã nói lên biết bao chiến tích hào hùng của Liên-Đoàn 81/ Biệt Cách Nhẩy Dù chúng tôi.

Tôi trở về để gặp hai em bé trên dưới mười tuổi đã sống hai mươi ngày dưới hố sâu, trong hầm tối ở chân đồi Đồng-Long. Ngày ngày không cơm gạo, không nước uống, giữa vùng đãt địch đóng quân. Em kể đêm đêm đã lén bò ra ăn cỏ, uống nước hố bom. Nhìn hai em nửa người nửa vật, nữa trẻ, nửa già – nhìn hai em như tượng đồng đen thời cổ, như tranh vẽ trừu tượng thời nay. Hai em nhìn chúng tôi trong hố mắt lạc lõng xa lạ. Chúng tôi nhìn hai em với nỗi buồn xót xa…

Lần cuối cùng tôi gặp chị, nhưng nay vẫn khó quên. Thật ra thì tôi chẳng nhớ gì về chị cả, nhưng tôi đã khó quên vì cảnh gặp chị. Ngày đó tôi đi giữ bãi tải thương ở Xa-Cam, và được lệnh phải để ý đến chị. Tôi đã không vui với điều này bởi chị không là gì cả. Không bạn, thù, chiến hữu. Tôi muốn dành chỗ của chị cho một thương binh. Dù là một ý nghĩ hẹp hòi, nhưng đó là sự thật ở lòng tôi lúc bấy giờ. Tôi lơ đãng nhìn chị để xem người thiếu nữ bị thương đêm nào mà tôi đã từng nghe bạn bè nói đến. Chị mặc quân phục của đơn vị chúng tôi nằm dài trên một cái ghế xếp thay băng ca. Tôi thoáng thấy sắc diện chị lợt lạt trong nắng vàng lẫn bóng lá xanh của cao su. Vì không ưa nên tôi cũng không nhìn nhiều để biết chị đẹp hay xấu mà tôi chỉ nghĩ đến chị nằm đó đang nghĩ gì? Chị có hiểu không, khi trực thăng tới sẽ “chở” theo đạn pháo của địch tới. Chị hớ hênh chân co chân duỗi nằm đó!

Chung quanh không bờ đất che chở, không gốc cây ẩn nấp. Liệu chị có thoát khỏi một lần nữa bị thương hay làm “danh tướng” không? Và thần thánh nào sẽ che chở cho chị qua cơn mưa pháo này? Tôi đã hồ đồ nghĩ về chị trong cái nằm của một người lính ngoài trận địa. Giá mà biết được ý nghĩ của tôi ngày đó – nếu không giận chắc chị cũng kém vui, phải thế không? Có thể chị đang âu lo về những điều tôi đang nghĩ, cũng có thể chị đang bận nghĩ đến một viễn ảnh vui hơn – đuợc đưa lên tàu đáp xuống ở Lai-Khê. Chị sẽ thoát nạn – về Sài-Gòn vào bệnh viện, chị sẽ bình phục lại như xưa – Rồi chị sẽ mặc áo mới màu thiên-thanh cùng bạn bè lang thang dạo phố Bonnard, qua Pasteur ăn fá lấu, uống nước mía Viễn-Đông, về xem TV chiếu chuyện chiến-sự…Đời lại tiếp nối nỗi vui tươi trong tiếng cười rộn rã…Chị sẽ quên đi những tháng ngày dài bầm dập ở địa ngục An-Lộc, như quên một giấc mộng hãi hùng trong đời. Hay có nhớ, những muỗng cháo cơm nặng ân-tình của anh Kiên. Hay có nhớ một thời lộng lẫy đón đưa của chị ở An-Lộc trước chiến-tranh? “An-Lộc địa” của chị rồi cũng sẽ qua đi trong xa cách ngàn trùng, mà bất cứ ai dù lính hay dân cũng đều muốn thoát chạy, rời bỏ…Chúng tôi cũng vậy- cũng chỉ mong cho tất cả mọi người dân nơi đây được bình yên rời khỏi nơi đây. Bởi ở lại cũng chỉ chuốc lấy thêm phần thương đau mất mát trong bom đạn vô tình may rủi mà thôi.

Tôi đứng dựa lưng gốc cao su chờ đợi tàu đến cùng vẫn vơ với những ý nghĩ không đầu không đuôi về chị, về tha-nhân, mà quên mình cũng chỉ là một con người – như mọi người, đang sống trên cõi đời này -lòng cũng đầy những vướng mắc bận bịu bởi những tham sân si, hỉ nộ ái ố…cùng với bản năng sinh tồn của một sinh vật nên hẳn chị đã không tin khi tôi nói; chúng tôi đã không bận tâm đến hai chữ sống chết khi đối diện với họng súng của địch. Nhưng nếu không xem thường cái chết để chờ “sung rụng” chờ “bất chiến tự nhiên thành” chúng tôi khó mà có chiến tích để chị viết thành thơ…Tôi mơ màng trong thực và mộng để rồi chợt tỉnh trong âm vang tiếng động cơ con tàu cùng với âm thanh bắt đầu của pháo đých bắn đi. Tôi nhìn về phía chị, về phía bạn bè của chúng tôi với ý nghĩ chợt đến: trận mưa này liệu có “rước” ai không? Rồi quên đi chị nằm đó trong cảnh hỗn loạn của bãi đáp – vừa chặn bạn, vừa phòng thủ.. tôi không nghĩ gì hơn là phản ứng với những điều chớp nhoáng đến với tôi trong đầu. Tiếng trực thăng lớn dần từ trời cao – cây rừng xôn xao gãy đổ trong tiếng đạn nổ. Đoàn tàu rãi dài trên khúc quanh con đường, hai bên ngổn ngang đầy dẫy xác người và chiến cụ…phút chốc rồi lại nối đuôi lên cao… chẳng còn ồn ào trên bãi đáp, chẳng còn lo lắng ở lòng tôi. Tôi nhìn theo đoan tàu xa dần vào chân mây…

Rồi ngày tháng qua đi chị cũng xa vắng trong tâm tưởng chúng tôi. Chúng tôi không còn dịp nghĩ nhớ đến chị ở những chiến-trường nối tiếp. Dẫu chị mới đó đã từng sống chết bên chúng tôi, dẫu chị mới đó đã từng giúp chúng tôi đôi lời ghi dấu tích đơn vị trên đài chiến-sĩ trận vong. Ai qua An-Lộc, khi về chắc cũng không quên những lời này, mà chị đã để lại cho chúng tôi sau trận chiến. Người đời sẽ nhắc đến chị hay chúng tôi cũng chỉ là một – nếu người ta để chút thừa hơi thở mà nói đến hai câu thơ này – người lính BCD và thiếu nữ tên Fa – một bóng kiều diễm – mà một thời chị đã tự mãn với hai tiếng “dáng tiên”, một thời có lắm kẻ quên ăn mất ngủ vì chị, có đúng không?

Sau đó, ngày về của chúng tôi từ An-Lộc – rượu uống chưa kịp say đã phải ra đi. Hết Quảng-Trị, Cổ Thành, Thạch-Hãn đến Cao-Nguyên “gió núi mây ngàn”, khi miền Tây Bà Đen, Suối Đá, lúc miền Đông rừng Lá, Phước-Long, chúng tôi đi không nghỉ- mặc cho tháng năm vợ đợi, con chờ, mẹ ngóng cha trông…mặc cho người tình cô đơn dạo phố mùa đông. Chị thấy đó, trước mặt chúng tôi là sông, là núi, là địch là thù, sau lưng là nợ là tình. Chúng tôi quay cuồng trong cuộc sống chiến-chinh với tháng ngày qua mau. Chúng tôi nào biết mùa Hè nắng lửa ve kêu, mùa Thu ru lá ngủ trên cành, Đông tàn rồi lại sang Xuân. Nếu có chăng khi lên đỉnh Birgmama ngồi ngắm B52 thả bom chặn địch, lúc xuống Charlie nghe âm vang quân bạn hò reo giết giặc, hay qua Chu-Dao ngậm ngùi nhớ núi nhuộm màu khăn tang. Rồi ra Quảng-Trị, vào Cổ-Thành…ngày ngày đội pháo thay mưa, đêm đêm chiêm bao vua Chiêm về đòi Ô-Lý…Đời sống của người lính BCD là vậy đó, chị thấy không?

Chắc chị còn nhớ “cư an tư nguy” mà!Nên chúng tôi đã không bận tâm cho tương lai trên đường chinh chiến mà chỉ mơ một mai được sống trong cảnh thanh-bình của đất nước.

Chiến trường rồi cũng qua đi trong giông bão. Ngày tàn cuộc chiến, chúng tôi vẫn chưa được sống với ước mơ. Chúng tôi lại phải ra đi để vào cuộc chiến mới. Cuộc chiến của khổ nhục và lưu đày. Sau bao năm sống trong từng ngày; đói trong hơi thở, ăn trong giấc mơ và nhục chung tên cùng “tội phạm” đó.

Ngày được thả về tôi lại phải vác cuốc đi đào mả con, mả anh để trả đất cho người ta cất nhà, cất chợ…Bây giờ trên đường lang thang, kiếp sống nương nhờ…dù không lo đói, mặc, nhưng lòng tôi vẫn thấy lạnh khi Xuân tàn. Con đường không chọn lựa mà phải đi – cuộc sống không mơ ước mà phải sống, nên tôi vẫn thấy nhớ Nước lạ lùng! Chị biết không: “Quê tôi là bao nhớ nhung se buồn…”. Xưa kia tôi vẫn thấy dửng dưng với câu hát này, mà nay, có đôi khi tôi đã sợ không dám nghe. Tôi đã giận tôi, giận sự yếu mềm ở lòng mình. Nhất là trong những khi lang thang lạc lỏng trên đường vắng – tiếng vọng chân đi mà cứ ngỡ bước chân người thân, hay trong những đêm giá buốt như đêm nay đã có biết bao điều đến với tôi – để rồi dù có muốn chối bỏ đi những gì không hợp lý, không thực tế trong thực tại tôi vẫn không ngăn được tiếng thở dài.

Ở đây như một thiên-đàng cho bao kẻ nghèo đói của các dân tộc sống trong chiến tranh và áp-bức. Tôi là một – đến từ chế độ cộng sản, đến từ nghèo đói miếng ăn và nhân-quyền, tự do, mà cho rằng không thoả-mãn hạnh phúc, không vui…thì thật không thực tế chút nào phải không chị?

Ở Việt-Nam rồi cũng chẳng còn gì. Nhưng với những hình ảnh thật tầm thường – có lúc ta như muốn chối bỏ, lãng quên khi nhìn vào cuộc sống văn-minh tiến-bộ của nước người…có lúc ta thực sự đau lòng cho sự nghèo nàn sơ xác của một dân-tộc – của một đãt nước – của Việt-Nam mình. Có nghĩa gì “chiếc cầu tre chênh-vênh nhỏ bé” hay “căn nhà tranh mặc gió lung lay…”Nhưng nó đã không có trên đất nước nầy. Trong đời sống văn-minh tiến-bộ của người ta, mà nó lại tồn tại vĩnh-viễn ở trong tôi. Nên nó đã khiến cho tôi dễ bị cảm-xúc hơn là đi qua Golden Gate hay vào Sear Tower là những kỳ-quan của thế-kỷ. Tôi đã đến những nơi nầy để chiêm-ngưỡng – nhưng cũng chính là để vọng tưởng nhớ nhung, tôi cũng đã nhìn tượng Nữ Thần Tự Do, để thấy mình cũng tự do thế thôi. Không hiểu một mai sẽ có gì thay đổi trong tôi? Còn với hiện tại tôi đã nghĩ: Giá Việt-Nam không còn chế-độ cộng-sản – không còn những tên Việt-Cộng ngu dốt và ác độc – không còn bất-công và áp bức – Có lẽ tôi sẽ trở về dù chỉ để làm một ông câu nghèo nàn, sáng cơm chưa no đã lo chạy gạo tối. Hay cùng lắm làm một con chim cú già hèn mọn để được đậu cành tre trên quê-hương mình.

NGUYỄN SƠN

User avatar
VuPhong
Posts: 2923
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Image


Vĩnh Biệt NGUYỄN SƠN
(Tạp Chí Xây Dựng – Năm Thứ 32 - Số 800 – Phát hành ngày 13-12-2014 - Houston – Texas)

Nói đến tên Nguyễn Sơn thì bất ai đã từng phục vụ ở Trung Tâm Hành Quân Delta (LLĐB), Liên Đoàn 81 BCD, BiệtĐoàn 222 CSDC cũng đều biết đến Anh, từ cấp Chỉ Huy Trưởng cho đến anh binh nhì vừa về đơn vị. Tính tình thâm trầm hiền hòa đôn hậu với mọi người mọi cấp, không le lói, không nỗ sảng mặc dù chiến công của Anh đã vang dội với những huy chương cao quý nhất của QLVNCH.

Buổi chiều ngày mùng 5 Tết Mậu Thân. Một buổi chiều nắng đẹp, vẫn với những ngọn gió hiền hòa từ biển khơi, vẫn với bãi biển cát trắng chạy dài bên đường Duy Tân mang nhiều kỹ niệm, nhưng sao có vẽ đìu hiu vì những cơn bạo loạn của cộng quân tấn công vào thành phố Nha Trang giữa đêm giao thừa. Tôi đang ngồi với vài sĩ quan ĐĐ3/81/BCD ở quán số Một cạnh bờ biển, một vài trứng hột vịt lộn, một đĩa mực nướng, và không thể thiếu món ốc bưu luộc chấm nước mắm gừng thì Nguyễn Sơn bước vào với hai người khác. Mũ xanh gặp mũ xanh bắt buộc dơ tay vẫy vẫy vài ba cái rồi bàn ai nấy ngồi. Tôi hỏi Trung Úy Nguyễn Đăng Lâu:

- Niên Trưởng ai vậy?

- Trung Úy Nguyễn Sơn, Liên Toán Trưởng Trung Tâm HLHQ Delta!

Anh Lâu xoay người qua phía bên kia bàn

- Ê Sơn...qua ngồi với tụi này cho vui.

Thế là cả bọn nhập cuộc. Delta - 81 như anh em ruột, tuy một mẹ khác cha nhưng lúc nào cũng kề cận bên nhau khi xâm nhập. Mẹ là binh chủng LLĐB. Cha là khác nhau đơn vị. Các C, các B, các A, Mike Force, 81, Delta đều mang một huy hiệu giống nhau. Delta ở đâu thì 81 ở đó, bất kể không gian và thời gian. Các C,B,A trong tình trạng cần tăng viện thì Delta-81 có mặt trong vòng 24 tiếng đồng hồ cũng bất kể không và thời gian. Cho nên mặc dù chưa biết nhau nhưng cùng một lò ngồichung bàn thì chỉ năm ba phút sau pháo vang trời đất. Sơn tốt nghiệp tháng 8 năm 1965 Khóa 19 VKTĐ với cấp bậc Chuẩn Úy. Như vậy cuối năm 1967 Anh đã mang lon Trung Úy chứng tỏ công trạng anh cũng lẫy lừng. Tôi vừa mới ra trường chỉ được vài tuần lễ nên gặp đàn anh, tôi thường hay hỏi han vài ba câu cốt chỉ để làm quen, nhưng Anh vẫn cứ cười cười với điếu thuốc Ruby Queen trên tay. Chợt Anh đứng dậy bước vào trong vài phút rồi trở lại bàn. Năm phút sau bồi bàn mang ra 10 chai bia con Cọp và hai đĩa bò Lúc lắc nóng hổi. Khi mặt trời xuống dần chân trời góc biển Anh lại chợt đứng dậy bước vào trong rồi lại trở lại bàn. Trung Úy Lâu bảo tôi vào thanh toán tiền nong, vì anh em 81 đã gom góp trước và giao cho tôi rồi, đến khi vào quầy tính tiền thì cô cashier nói Trung Úy Sơn đã trả hết rồi.

- Trung Úy Sơn! Tụi tui đến trước, Trung Úy đến sau mà! Làm vậy kỳ quá!

- Đồng ý! Các anh đến trước, tụi tui đến sau...nhưng mà...tụi tui là Delta nên ai móc súng (bóp tiền) trước thì sống, móc súng chậm hay móc súng sau là...là gì tui cũng không biết nữa!

Rồi anh cười khì !

Tôi “kết” với Nguyễn Sơn từ đó.

Rong ruổi trên những bước đường chinh chiến, tôi gặp Sơn rất thường. Làng Cùa, Huyện Hương Hóa, Mỏ Than Nông Sơn,Đức Dục, Đồng Xoài, Đồn Điền Hớn Quản. Có một lần ở Cùa, Sơn gọi tôi sang lều (bạt dã chiến) uống cà phê.Nhưng không phải cà phê mà là chai “Ông Già Chống gậy” với “cờ tây”. Mặt của anh đang ngụy trang với màu mực lá cây rừng và mặc bộ đồ Việt Cộng mang dép râu, tôi biết ngay anh sắp xâm nhập chiều nay, tôi hỏi:

- Bộ rủ tôi làm vài cống để khỏi lạnh cẳng hả?

- Coi ai lạnh cẳng trước. Tôi vào thung lủng Ashau-Alưới. Nhận lệnh sáng nay, nếu vào tới nơi phát hiện chúng nó là các ông nhào vô liền đó. Các ông (81) vô thì tụi tui (Delta) dìa!

Rồi anh cười khì khì, cái điệu cười bất hủ của anh, anh nốc một cốc Johnnie Walker, gắp một miếng dồi chó bỏ vào chén của tôi :

- Vô đi cha nội cho ấm cẳng.

Năm giờ chiều ngày hôm đó, toán của anh âm thầm lặng lẽ lên trực thăng của Phi Đoàn 281 không số của Mỹ vào vùng.Thung lũng AshauAlưới nằm phía cực tây bắc tỉnh Quảng Trị, nơi tiếp vận hậu cần của quân CS Bắc Việt. Nhiệm vụ của Delta là thám sát mục tiêu, nhiệm vụ của 81BCD là khai thác mục tiêu. Anh nói đúng, khi anh rời khỏi trực thăng thì toán của anh đã nằm giữa lòng địch. Sau này anh kể cho tôi nghe: “Mẹ, giữa đoàn hùng binh (VC) có anh đang vùi đầu trong bụi rậm...”. Tám giờ sáng ngày hôm sau, ba ĐĐ 81BCD (ĐĐ3, ĐĐ1, ĐĐ5) nhào vô thì anh đi dìa. Sau cuộc hành quân này, anh có ghé thăm tôi và Nguyễn Hiền ở Bệnh Viện Duy Tân Đà Nẵng, anh móc trong túi áo saut chai Remy Martell nhét dưới chân tôi, rồi lại cũng cười khì khì:

-Cẳng có lạnh thì ướp cái này sẽ ấm ngay !

Tháng tư 75 vất súng, lột lon Thiếu Tá, mà nước mắt cứ chảy dài, anh trở về với vợ con lòng nặng trĩu không phải vì mất lon thiếu tá mà vì mất màu áo hoa rừng đã ôm thân thể của anh trên một quảng đường dài binh nghiệp. Gia đình cha mẹ anh em của anh mang nặng một mối thù Cộng sản vì đã mang đến bao nhiêu nỗi bất hạnh cho gia đình anh. Anh căm thù CS một, nhưng anh căm thù Việt Gian tới mười, anh đã viết một bài viết tựa đề “CHÓ MÁ”, phân tích sự khác biệt giữa con Chó và con Má để ám chỉ những con Má đang sống lẩn quất bên cạnh anh. Sau ngày tự cởi bỏ quân phục và vào tù, tôi không còn có dịp gặp lại anh nữa. Người Bắc kẻ Nam, người lên non kẻ xuống biển, phận ai nấy giữ, thân ai nấy lo, gần hai mươi năm ly biệt tôi gặp lại anh ở trên phần đất này.

- Út Bạch Lan hả? Tôi đã tới Dallas, có lẽ tôi sẽ tới nhà anh khoảng sáu bảy giờ chiều nay.

Anh đơn thân độc mã với cái xe “HO” từ Michigan về Houston tìm một sinh lộ cuối đời. Vật đổi sao dời sau khi anh được rời khỏi những rừng tre rừng nứa, những luống khoai mì khoai lang gần 13 năm tù tội, nay anh phải “rời khỏi” mái ấm gia đình một lần nữa và ngâm nga “đời tôi cô đơn nên tôi chẳng yêu ai, đời tôi cô đơn nên tôi yêu mấy bạn già”. Anh gọi tôi khi anh gần tới Humble (phía Bắc TP Houston vài chục mile)

- Anh Sơn, anh ghé nhà anh Sáng trước, anh Sáng đang đợi anh, tôi sẽ có mặt ở đó khoảng 30 phút.

Trung Tá Lai Văn Sáng, nguyên là Chỉ Huy Trưởng Biệt Đoàn 222 CSDC, anh Sơn về đơn vị này chỉ năm ba tháng với chức vụ Sĩ Quan Hành Quân Huấn Luyện, cùng là gốc eo eo đi bi (LLĐB) nên xem nhau như ruột thịt. Anh Sáng giữ Sơn lại tạm trú vài ngày rồi tính sau. Gọi điện thoại cho “Cò Quế”, nguyên là CHT Cảnh Sát quận Tân Bình GiaĐịnh

- Help...Help...Help!

Thế là một tuần lễ sau Sơn có việc làm và chỗ ăn chỗ ở ổn định, lương tháng hơn ngàn, bao ăn bao ở không phải chi phí gì cả, nhưng khổ nỗi cái job khiến anh nỗi nóng bất thường. Làm Cashier cho một Grocery. Cứ rình mò thằng nào vào chôm chỉa ba cái bánh kẹo lặt vặt là anh túm cổ ngay. Cái máu và tai mắt mũi họng của các toán Delta mà. Nghề của chàng, nhưng không đúng chỗ, vì nhiều lần sẽ gây thù hận, nhất là bọn mỹ đen, thì có ngày sẽ xảy ra những chuyện không hay. Ông Bà chủ khuyên anh :

- Thôi kệ nó, ba cái lặt vặt đó, anh cứ giả bộ làm ngơ, cái mạng của anh quan trọng hơn.

Sơn nhất quyết không chịu, khẳng định giữ vững lập trường và thái độ, tuyệt đối không nhân nhượng với bọn trộm ngày cướp đêm này, rồi cuối cùng anh xin thôi việc, anh tâm sự :

- Ông Bà chủ (Vợ Chồng Cò Quế) rất tốt với tôi, tôi có thể làm việc cho ông bà đến chết để đáp lại ân tình này, nhưng mà cứ hể mỗi lần thấy thằng Mỹ đen vào cửa hàng ngông nghênh lận lưng bỏ túi rồi vênh váo bước ra cửa là tôi cứ nghĩ tới mấy thằng Việt Cộng nửa đêm xông vào nhà bố mẹ của tôi hôi của và bắt đóng thuế nữa.Tôi phải xin nghỉ việc vì chẳng đặng đừng, nếu còn tiếp tục chắc có ngày tôi bắn vỡ sọ một vài thằng rồi đi tù. Coi vậy mà đi tù ở Mỹ sướng hơn!

Vài tháng sau, phóng viên chiến trường Phục Viên giới thiệu anh làm một việc khác:Nhà Quàn !!! Nếu mổ và tắm rửa hoá trang xác chết thì $15 US một giờ, còn cắm hoa quét dọn nhà xác thì $10 US một giờ. Anh chọn việc thứ hai. Nhưng cũng chỉ được vài tháng anh lại xin thôi việc, anh tâm sự:

- Mẹ! Hồi xưa vừa chạy vừa cõng xác chết anh em đồng đội, rồi chui vào bụi rậm ôm xác chết ngủ qua đêm, sao người chết rồi mà vẫn còn sưởi ấm cho thân mình. Bây giờ làm cái nghề này sao tôi thấy nó tởm lợm làm sao. Đi ra, đi vào thấy mấy gương mặt đen thủi đen thui, bị bắn chết vì cướp giật, hiếp dâm, uống rượu say lái xe đụng người ta chết, rồi chết luôn, đôi khi mấy ông già bà cả chết già, tôi còn liếc mắt nhìn, rồi kiếm chuyện ra phòng sau cắm hoa vòng hoa phúng điếu.

Có người giới thiệu anh làm một job khác: Lái xe Thiết giáp !!! Giờ làm việc anh lái chiếc xe Van bọc thép (Armor Vehicle) nhận tiền rồi đi đổi tiền, công việc nhàn nhả thư thả, nhưng đôi khi phải nhanh trí để giải quyết những trường hợp thay đổi khẩn cấp. Phần vì tiếng Mỹ chưa nhuần nhuyễn, lại đàm thoại trên vô tuyến (radio), mắt lại kém nên cứ lạc đường hoài, không theo đúng lời chỉ dẫn của supervise hay manager nên anh lại xin thôi việc, anh tâm sự:

- Nhà tôi nghèo lắm. Thuở nhỏ mấy anh em đi học chỉ có một củ khoai lang hay một củ sắn dằn bụng buổi sáng, mãi tới chiều mới có được vài chén cơm với cá mắm Lăng Cô. Khi đi lính, có được đồng lương hằng tháng không cần đếm, chỉ cần tính nhẩm thôi cũng biết ăn xài được mấy ngày. Bây giờ làm công việc này, cứ lên xe là thấy giấy 100 dollar chất đống, tiền của người ta không phải tiền của mình, mất một trăm đồng là bị trừ một trăm đồng. Một tuần chỉ được vài ba trăm đô, bị sọt (short) một cái, là húp cháo, lại nữa ngựa già làm sao phi đường xa như mấy người trẻ, lên xe xuống xe phải vịn vào cửa xe hay thành xe, lọm khọm kiếm nắp bình xăng không nhớ nằm bên trái hay bên phải, lờ quờ chậm chạp kiểu đó có ngày thằng Mỹ đen lụi một dao vào sau lưng rồi lái xe Van chạy mất với mấy trăm ngàn trên đó thì có nước tự vận.

Cái job cuối cùng của cuộc đời anh khi anh vừa 61 tuổi. Bờ lâm binh (plumbing) !!! Rotation job. Có khi làm từ 10 giờ tối cho đến 6 giờ sáng, có khi từ 2 giờ chiều đến 10 giờ đêm, công việc mà anh thường đùa là “thụt cầu tiêu”, nhưng anh rất happy với công việc này vì nó thuộc City nên benefit đầy đủ, anh tâm sự :

- 13 năm tù, ngày ngày đi hốt và gánh phân tù rồi đổ nước quậy lên cho loảng ra, múc từng gào đi tưới cải xanh, cải bắp, quần áo tay chân mặt mũi lúc nào cũng dính cứt. Bây giờ đi làm lại việc này, nhưng nhiều điều khác nhau. Không bao giờ thấy cứt, cũng không thấy hôi hám, tất cả đều dùng máy móc, bơm thông thụt rửa chỉ bật điện rồi châm thuốc hút chờ, cuối tuần cầm cái check, cảm thấy cái job của mình nó thơm chi lạ.

Nhiều khi ngồi với anh cả buổi, nghe anh tâm sự đời anh không khỏi ngậm ngùi. Thú thật, cho đến khi anh ra đi, tôi không biết anh theo đạo gì, không bao giờ anh nói đến chuyện đi lễ nhà thờ hay chùa chiền, cũng không bao giờ nhắc tới tôn giáo, nhưng trong những câu chuyện thường nhật anh gói ghém triết lý nhân sinh một cách khéo léo tài tình. Có lần chị Sơn hỏi tôi:

- Anh Út có hiểu ảnh nói gì không, hay anh Út đọc bài của anh Sơn anh có biết ảnh nói cái gì không, còn tôi thì mù tịt.

Sơn cười cười :

- Tôi viết và tôi nói, đôi khi tôi cũng không biết tôi nói và tôi viết cái gì huống hồ chi người khác, bà sao hay lộnxộn.!

Nhưng tôi hiểu. Tánh tình anh điềm đạm, dè dặt cẩn trọng trong mọi việc suy tính, cách xử thế với tha nhân rất ôn hòa và lịch sự, nhưng cả cuộc đời anh từ thuở nhỏ cho đến khi nằm xuống quả là một cuộc đời bất hạnh mang nhiều nỗi khổ tâm. Chính vì những bất hạnh đó đã làm cho anh trở thành một người trầm lặng. Không màng danh lợi, không bon chenhơn kém với bất cứ ai, nhưng khi nói hay viết một điều gì đều mang máng một cái gì đó trong tâm thức sâu thẩm của anh. Ngôn ẩn ngữ, ngữ ẩn ngôn, ngôn ngữ ẩn ý, người nghe người đọc thoáng qua không hiểu anh muốn ngụ ý gì! Có lần anh hỏi tôi :

- Tôi đố anh biết tại sao khi con người ta chết thì hai cái chân chết trước rồi mới dần dần lên tới cái đầu ?

- Tôi không biết !

- Này nhé, khi con người sinh ra là cái đầu ra trước, chỉ trừ phi bị đẻ ngược, còn hai cái chân ra sau cùng. Ra trước chết sau, ra sau chết trước. Cũng giống như toán trưởng Delta lúc nào cũng nhảy trước nhưng chết sau, khi triệt xuất về sau nhưng chết trước.

-Tôi không hiểu xin anh nói cho rõ.

- Này nhé! Khi trực thăng vào tới điểm xâm nhập (LZ) thì toán trưởng phải hoặc là tuột giây cáp, tuột thang giây, hay nhảy từ độ cao năm bảy thước trước rồi mới tới toán viên. Chỉ trong vòng 30 giây theo tiếng đếm cả toán phải xuống hết mặt đất. Nếu trong vòng 30 giây này mà Việt Cộng trở tay kiệp thì có phải thằng tuột giây sau cùng bị bắn khi còn tòn teng trên không hay không? Còn khi triệt xuất (PZ) thì luôn luôn toán trưởng phải đu giây cuối cùng khi cả toán đã ngồi trên trực thăng, cũng trong vòng ba chục tiếng đếm nếu mà Việt Cộng đuổi theo kịp thì có phải toán trưởng lãnh đủ hay không? Đi trước chết sau, về sau chết trước là thế đó.

Rồi anh giảng giải cho tôi nghe về Tứ Đại, Ngũ Uẩn, Lục Căn, con người từ đâu đến, chết sẽ đi về đâu. Tôi ngồi hằng giờ nghe anh nói và có cảm tưởng như ngồi trước mặt một vị thiền sư. Anh vói tay mồi một điếu thuốc, không biết điếu thứ mấy tự nãy giờ, rồi tiếp :

- Anh biết không hồi nhỏ cha tôi dạy rằng, khi người ta chết thì thân xác lạnh ngắt nhưng còn một điểm vẫn còn nóng (Trong Tứ Đại) Nếu điểm nóng này hội tụ trên đỉnh đầu thì người chết sẽ thoát vòng luân hồi sinh tử siêu thoát về nơi thánh cảnh. Nếu ở mắt thì sẽ siêu thoát về cõi trời. Ở ngực thì đáo sinh kiếp người. Ở bụng thì vào loài ngạ quỷ. Nếu ở đầu gối thì là, thì là súc sanh. Cho nên mấy thằng súc sanh, thường đi bằng hai đầu gối là như vậy đó.

11:00 giờ sáng ngày 6-12-2014. Bầu trời Houston âm u ảm đạm, mưa không nặng hạt nhưng buồn tê tái, lòng người buồn lòng trời cũng buồn theo, người nhỏ giọt lệ trời cũng nhỏ lệ theo.

Cất bước quay về thăm chốn xưa
Buồn ơi biết ngỏ hết sao vừa
Khi hay bạn đã lìa trần thế
Bỏ lại lòng tôi những giọt mưa

Bồi hồi mượn bút hạ vần đan
Mặn đắng bờ mi chợt lệ tràn
Gởi gió về Anh lời vĩnh biệt
Cầu xin giấc ngủ mãi bình an


Tôi đưa anh về cõi vĩnh hằng, nơi thánh cảnh anh sống yên bình vĩnh cửu. Anh đã theo mây về trời, đã theo gió đến miền Cực lạc, trút bỏ mọi ưu phiền khổ lụy chẳng một chút tơ vương. Khi nắp quan tài khép lại, tôi sờ vầng trán cao rộng của anh, để nhỏ giọt lệ cuối cùng tiễn đưa anh, bàn tay tôi bỗng thấy nóng ấm lạ thường.

Như vậy theo lời anh giảng, thì anh đã thoát vòng luân hồi sinh tử siêu thoát về nơi không còn vướng bận trần ai tục lụy và không còn nhìn thấy những con chó, con má mà lúc sinh tiền anh thường hay khinh bỉ và phỉ nhổ ./.

Houston 2:00 AM Ngày 7 Tháng 12 Năm 2014
Mũ Đỏ Út Bạch Lan

User avatar
saulong
Posts: 114
Joined: Thu Aug 06, 2009 6:02 pm

Post by saulong »

Trần Hoài Thư – người lính & nỗi buồn chiến tranh- nhân đọc lại “Truyện từ Bách khoa”

Đỗ Xuân Tê
Chẳng phải bây giờ tôi mới đọc truyện của Trần Hoài Thư qua mấy tác phẩm anh góp nhặt và in lại từ Văn và Bách khoa. Mà do nhu cầu công tác tôi được kể là ‘chuyên viên đọc’ khi phụ trách về điểm báo và chủ biên tin tức chiến sự cho một cơ quan tư tưởng đầu não của quân đội vào thời cao điểm của cuộc chiến, thì một nhà văn trẻ đầy triển vọng kiêm phóng viên chiến trường chịu lặn lội vùng đồng bằng sông Cửu có bút danh Trần Hoài Thư không thể ra ngoài ‘tầm ngắm’ của chúng tôi.

Tình cờ khi viết bài cảm nghĩ về Những tháng năm cuồng nộ của Khuất Đẩu (đăng trên Da Màu), tôi ước mong tác phẩm được xuất bản ở hải ngoại để quần chúng cùng thưởng thức, thì không ngờ trong một lời bình của độc giả, nhà văn Trần Hoài Thư cho biết Thư Quán Bản Thảo đã làm việc này. Tôi mau mắn gửi mua và được anh tặng thêm cho hai cuốn trong đó có Truyện từ Bách Khoa anh vừa xuất bản (2011). Tôi cứ băn khoăn vì được tặng chứ không mất tiền, dù anh nói chưa quen nhưng có đọc một số bài của tôi.

Đọc xong cứ để đó, thỉnh thoảng tôi lại xem. Định viết cảm nghĩ nhưng thấy nhiều cây bút uy tín trong đó có cả bạn anh đã viết nhiều về anh và khi nhìn lại khối lượng đồ sồ về những tác phẩm anh viết và xuất bản sau thời Bách Khoa cùng công việc anh miệt mài cho sinh hoạt văn học nghệ thuật tại hải ngoại mấy thập niên gần đây mới thấy công trình này đã ‘phủ bóng’ lên những tác phẩm đầu tay của người viết văn kiêm người lính trận năm xưa.

Suy nghĩ như vậy có vẻ lô-gích, nhưng hình như không phải cách nhìn của Trần Hoài Thư, thực sự anh vẫn trân trọng những tác phẩm đầu đời, được viết bằng tâm tư giằng xé và trải nghiệm sinh tử của người lính trẻ, được chắt lọc và hình thành từ những chất liệu sống pha đầy máu, mồ hôi và nứơc mắt của nhiều số phận trong một thời đất nước điêu linh, được lưu lại bằng những trang giấy học trò nhòe nhoẹt nhàu nát ghi vội trên đường hành quân mà nhiều khi bản thảo chưa đến tay chủ biên thì người viết đã được tản thương về một trạm quân y hay một nhà quàn dã chiến một nơi heo hút (trích ý viết trong Lời mở của sách).

Những vốn quí này không thể mua mà có, không thể có rồi dễ quên, không thể quên rồi chối bỏ, mà đã trở thành tư liệu vật thể trong văn học khi những người lính vừa chiến đấu vừa cầm bút để thuật lại những gì họ thấy, họ cảm nhận như những nhân chứng sống để rồi viết lại, chia sẻ với người cùng thời và các thế hệ sau.

Dù cho lịch sử có sang trang, quân đội có tan hàng, lòng người có ly tán, nhưng mãi mãi các tác phẩm văn học trong thời chiến vẫn là những đóng góp và ảnh hưởng nhất định cho ‘hai mươi năm văn học miền Nam 1954-1975’ vốn bị nhà cầm quyền trong nước tìm mọi cách cấm đoán và triệt tiêu từ sau biến cố 30-4 nhưng may mắn thay những người sống sót sau cuộc chiến ở hải ngoại mới đây đã tập hợp, nhìn lại và đánh giá đúng mức qua một cuộc hội thảo văn học vừa qui mô vừa tầm vóc do hai tờ nhật báo lớn của quận Cam và hai diễn đàn văn học mạng uy tín phối hợp tổ chức.

Cũng phải kể những tờ như Bách Khoa, như tờ Văn của một thời Sài gòn vang bóng đã có công tạo sân chơi cho các cây viết triển vọng và các chủ biên giàu lương tâm nghề nghiệp (như Lê Ngộ Châu) đã khích lệ văn nghệ sĩ hãy sống và viết như họ đang sống. Nhiều bài viết nhiều câu chuyện đã thực, sống động đến nỗi lưỡi hái kiểm duyệt của cơ quan thông tin miền Nam phải cắt xén để khỏi dao động tinh thần chiến đấu của binh sĩ.

Môt số truyện ngắn của THT cũng nằm trong trường hợp này, tôi hiểu và không lấy làm lạ ngay trong truyện ngắn đầu tay của anh đăng trên BK ‘đã bị kiểm duyệt bỏ trắng nhiều đoạn’ ngoài ý muốn của tác giả và chủ biên tòa soạn. Nhưng sự thật vẫn là sự thật, các nhà văn nhà báo họ có một giác quan thứ sáu rất bén nhạy, họ biết chỗ nào sẽ bị cắt và họ vẫn né tránh được lưỡi hái làm hại chữ nghĩa để rồi cuối cùng những gì họ muốn gởi gấm vẫn đến tay bạn đọc.

Quay lại chủ điểm của bài viết, mấy tháng gần đây người ta hay viết và nhắc nhiều đến Trần Hoài Thư, một cây bút được nhiều cảm tình của những người lính cựu, một nhà văn được vị nể của những bạn văn và độc giả yêu văn chương. Tôi phục chị Hải Hà đã mở miệng được anh để có một cuộc trò chuyện khá thú vị. Qua đó tôi mới hiểu về anh nhiều hơn, mới biết một con người vốn chiến đấu can trường chưa đầy ba tháng thương tích hai lần trong đơn vị thám kích của một sư đoàn bộ binh đóng dọc phía đông Trường Sơn lại là người sĩ quan tự đào ngũ để vào quân lao tỏ thái độ phản kháng những phi lý của cuộc chiến tranh mà trước đó dù bị đẩy đưa vào chỗ chết anh vẫn chiến đấu hết mình trong tác phong và trách nhiệm của người lính.

Cũng may là tôi chưa viết về anh vào thời điểm khi đọc xong cuốn sách, chứ chỉ dựa vào văn phong, vào nội dung của từng cốt chuyện, vào nhân vật không gian và thời điểm, vào những gì tác giả muốn gởi gấm, qua cách nhìn bình thường của người điểm sách thì quả là hời hợt khi chưa nắm bắt được tâm tư tác giả, quá trình bản thân, hoàn cảnh sống, môi trường được đào luyện, động cơ sáng tác, những quan hệ bạn bè, những mối tình lớn nhỏ, những vùng đất đi qua, những dấn thân, hy sinh, những thử thách, thành công và thất bại của cuộc đời, nói chung là những chi tiết mà bạn bè bạn văn của anh tình cờ hé lộ qua chân dung đích thực của một nhà văn. Chẳng vậy mà khi muốn phê bình hoặc quảng bá cho một cuốn sách mới ra mắt người ta có thói quen tìm và trò chuyện với tác giả, nhưng chẳng phải dễ khi tiếp cận được những tác giả vừa có tài vừa quá khiêm tốn.

Tôi chưa có dịp gặp anh, nhưng cứ nhìn hình ảnh từ thời áo lính thư sinh qua tấm bìa của sách so với hình hài mai một qua những ký họa lúc về chiều, rồi liên hệ với thực tế cuộc đời, Trần Hoài Thư quả là một con người ‘thép’. Có ai trong chúng ta từ thơ ấu đến tuổi lập thân do tình cờ của số phận đã trải qua trại mồ côi, rồi nhà trường, quân trường, chiến trường, quân lao trước chiến tranh, rồi trại tù cộng sản, nhà tù lớn, trại tỵ nạn trên Biển Đông sau chiến tranh, rồi làm lại từ đầu nơi xứ người cũng bắt đầu từ nhà trường trở thành kỹ sư thảo chương, miệt mài lao động suốt 25 năm cho một công ty hàng đầu của Mỹ. Vừa lao động trí óc vừa lao động chân tay, vừa sáng tác vừa in ấn, vừa biên tập vừa phát hành, bảy mươi vẫn chưa nghỉ, vẫn chẳng hưu và lo cho bản thân, dù thân xác đã ghim đạn của VC và những chứng bệnh kinh niên không hẹn mà gặp lúc tuổi về già.

Tôi cũng có thời mặc áo lính và trải qua 12 năm trong trại tù cộng sản nhưng vẫn ‘chóng mặt’ khi đọc những trải nghiệm của anh, một người lẽ ra phải được thư nhàn thanh thản như cái tên Trần Quí Sách cha mẹ đặt cho rồi Trần Hoài Thư do tự chọn vì yêu và trăn trở với chữ nghĩa.

Tôi đoán là anh cũng muốn yên thân khi chọn cho mình nghiệp nhà giáo (giáo sư toán của một trường trung học đất Tam kỳ, quê của các bạn văn Trần Yên Hòa, Nguyễn Lương Vỵ). Nhưng họ đưa anh vào lính, mà lẽ ra độ mắt cận thị của anh theo luật thì được miễn hoặc hoãn. Anh bị thương hai lần không chết, anh đã sống và tồn tại theo cách riêng của anh.

Đọc những bút ký chiến trường của anh trong Bách Khoa bỗng dưng tôi thấy thương hại anh khi cứ phải mầy mò tìm kính lau kính vì chiếc poncho không đủ kín để che những giọt mưa của của một thời tiết sáng nắng chiều mưa đêm về lội ruộng khi anh đi theo những cánh quân của các đơn vị vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Có lúc người cầm máy cho anh khi chỉ huy chết trên tay anh, toán quân tản lạc vì bị phục kích, anh vẫn mang vết thương rỉ máu băng rừng về được nơi tải thương và các câu chuyện nằm trong quân y viện trở thành những trải nghiệm sống mà ít nhà văn viết được khi chính tác giả là thương binh và đối mặt với những cái phi lý khi các đồng đội của anh phải mất đi một phần thân thể, phế tật hay chuyển xuống nhà xác trước dòng nước mắt tiếc thương của những người vợ trẻ và ánh mắt thơ ngây vô tội của các trẻ thơ. Nỗi buồn chiến tranh làm anh trăn trở từ đây.

Càng thấy những bất công phi lý của chiến tranh anh quay sang tỏ thái độ phản kháng, dù tiêu cực và hệ lụy cho bản thân. Anh muốn làm Hà Thúc Nhân, người bác sĩ quân y chống tham nhũng cùng vào quân lao với anh. Nhân chết, Thư sống. Còn may cho anh lẽ ra từ quân lao phải ra đơn vị tác chiến dưới dạng ‘lao công chiến trường’ nhưng nhờ sự duyệt lại hồ sơ của con ngựa chứng và biết khiếu viết lách của anh, cơ quan tôi đã ‘bốc’ anh về Vùng 4 chiến thuật để làm…‘phóng viên chiến trường’ hết lội suối giờ lội sình để tường thuật và gởi các bản tin sốt dẻo cho các cơ quan báo chí quân đội cấp quân đoàn và trung ương.

Có điều thú vị khi đọc mấy chuyện của anh từ cuốn sách này, ta thấy lẽ ra trong tư cách phóng viên và nhu cầu công tác anh phải tường thuật các cuộc hành quân theo tiến trình (xin phép dùng tiếng Anh) Who, What (and) Where, nhưng vì là nhà văn anh lại đặt nặng theo cảm tính và luôn đào sâu khía cạnh How (and) Why. Anh ghét các con số báo cáo tổn thất địch ta, số vũ khí tịch thu vô tri vô giác, những buổi thuyết trình hành quân buồn tẻ mà lại hay ‘chạy đầu, đi đầu để săn nhặt những hình ảnh sống động’ và quan sát những tình huống bên lề, từ trên trực thăng nhìn xuống, có khi là em bé đang thả diều trong cảnh yên bình của một đồng cỏ xanh chỉ ít giờ sau chỉ còn con diều và cuộn chỉ,

Ngày hôm nay, tôi lại bay qua cánh đồng cỏ cũ. Trời vào hè, nắng vàng rực rỡ, chói lòa cả những áng mây xa. Con tàu như quen thuộc hạ xuống 100 bộ. Tôi không còn thấy em bé thả diều nữa. Chỉ còn cánh đồng cỏ màu vàng sậm mênh mông bát ngát. Tôi nghe một nỗi buồn đến đắng cay đầu lưỡi. Một nỗi buồn tê tái như khi nhớ lại chiếc cặp với trái soài non, những chiếc nắp ken, và con diều, cuộn chỉ vấy máu trên sân trường…(trích bút ký chiến trường Cánh Diều trên đồng cỏ tháng 3/74).

Còn rất nhiều chuyện hay và cảm động, có dịp bạn đọc xin tìm sách của anh để đọc lại như một hoài niệm, để cùng suy nghĩ về trải nghiệm của một nhà văn kiêm phóng viên, do tình cờ của lịch sử và đưa đẩy của số phận trở thành cây viết tài tử trong chiến tranh rồi thành cây bút chuyên nghiệp tài hoa sau chiến tranh.

Tiện đây người viết cũng xin tỏ lòng khâm phục người lính Trần Hoài Thư, chúc anh chân cứng đá mềm lo cho văn học, quên đi nỗi buồn chiến tranh một thời trăn trở. Cũng không quên gởi lời thăm hỏi đến chị Yến hiền thê của anh, một cái bóng phụ nữ nếu không có chị chắc khó đoán cuộc đời ‘con ngựa chứng’ sẽ trôi về đâu. (THT tuổi Ngọ)

Đỗ Xuân Tê

Cali, tháng 12-2014

Post Reply