Quán Vắng không Người ...3
Moderator: khieulong
Hung hãn và hèn nhát
Xã hội Việt Nam đang rất sôi động. Một sức sống như đang bừng bừng trẻ trung với bề ngoài của nó. Hào nhoáng. Chộn rộn. Mỗi ngày, khi trên báo chí hay truyền hình ra một đề bài lá cải, khắp nơi nhộn nhịp tham gia bàn tán như các cô cậu học sinh mùa thi được thử thách tâm sinh lý. Ở các ngã tư đường, các quán nhậu, các diễn đàn facebook... đâu đâu người ta cũng bàn tán về đề thời sự mới nhất. Một ông già hom hem ngấu nghiến hôn cô gái trẻ được báo chí ghi lại, lập tức trở thành quốc sự. Nền dân chủ lý sự tầm ruồng phất cao ngọn cờ ngời sáng với 2 phe: một bên thì đập ngực đem tất cả vốn liếng đạo đức để chỉ trích, một bên thì chống nạnh, viện dẫn mọi tư duy cấp tiến để nói rằng đó là chuyện bình thường, thậm chí đáng yêu.
Quốc sự về nụ hôn của một cụ già trỗi máu xuân tình dĩ nhiên không quên bàn về nước dãi của cụ còn để lại trên gò má căng phính lông tơ của cô gái trẻ. Quốc sự về hình ảnh đó cũng có đủ mọi lời bảo vệ bằng cách đưa ảnh một vị lãnh tụ khác cũng hay hôn phụ nữ, đàn ông và trẻ con như một truyền thống đáng noi theo. Dĩ nhiên, khi đã tranh luận, mỗi phe càng nói càng hăng. Ngôn ngữ mỗi lúc một mạnh bạo, thậm chí rất hung hãn.
Sự hung hãn của một dân chủ xã hội đầy sôi động đó cũng được mô tả bằng bản tin hơn 5000 người Việt đánh nhau đến nhập viện trong một mùa xuân cầu mong yên lành. Sự hung hãn được chỉ định bằng việc giết heo trong lễ hội theo lối yêu trảm (chém ngang lưng) du nhập từ đời nhà Tần phương Bắc sang Việt Nam. Sự hung hãn được xác nhận như phần cần thiết của lễ hội mua thần bán thánh, từ miệng của một quan chức cấp cao, phó chủ tịch Uỷ ban Nhân Dân Sóc Sơn “Lễ hội không tổ chức phát lộc cho người dân nên ai muốn có phải cướp. Xô xát là bình thường”. Loại câu nói đủ biết hạng người nào, tri thức kiểu gì đang đứng trên đầu dân chúng.
Một khi chuyện hôn hít của một ông già, chuyện đánh nhau vỡ đầu giành lộc, chuyện hung hãn đánh nhau giữa đường rồi cùng nhập viện... nay đã trở thành quốc sự hạng một, chiếm lĩnh mọi sự quan tâm của quốc dân, thì đó cũng là một chỉ dấu của con đường đến mạt vận.
Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong những chuyện tự do ngôn luận dân chủ tầm ruồng, bỏ quên hay tránh né về những điều nguy ngập khác, rằng Trung Cộng đã dựng xong sân bay, pháo đài... trên biển, có thể đánh chiếm Sài Gòn trong 24 giờ. Thế nhưng tướng quân đội Việt Nam thì tâm tư tha thiết kêu gọi dân chúng không nên ghét bỏ kẻ đang lăm lăm cướp - giết tổ quốc mình.
Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong cách dùng mọi học thuật để chứng minh đối phương đồi bại hay tiến bộ trong những điều chỉ đáng liếc qua và lãng quên, nhưng giỏi cười qua loa với chuyện các dự án bauxite thua lỗ trầm trọng mà vẫn phải tiếp tục, ngày đêm giao nộp sang biên giới, giỏi giả lơ khi giá xăng được tuyên hô sẽ lên giá không cần lý do, khi dầu thế giới chỉ có giá 50 USD/ thùng - mức giá thấp nhất từ trước đến nay.
Người Việt hôm nay dường như đủ hung hãn chém con heo ra nhiều mảnh, reo hò và tắm máu như thời các bộ lạc dã man, nhưng hèn nhát câm miệng không dám bàn về tài sản các quan chức tham nhũng đang đục ruỗng tổ quốc mình. Người ta im lặng hèn nhát khi nghe những kẻ như Trần Văn Truyền chỉ bị kỷ luật giơ cao đánh khẽ, còn những người tố cáo cái ác như ông Cao Kim Hoa, báo Người Cao Tuổi, đang lao đao giữa trùng vây vô lại.
Cái cần phải hung hãn, thì người ta đang chọn cách hèn nhát. Cái cần phải hèn đi thì người ta ồ ạt xông lên: hung hãn giành giật thức ăn buffet, hung hãn trói đánh kẻ trộm chó, hung hãn phán xét, nguyền rủa chung quanh như bản thân mình là hiện thân của ngọn cờ đầu nhân nghĩa.
Hung hãn và hèn nhát, hai mặt đối lập của số đông trong một quốc gia, cho thấy sự sục sôi của chủ nghĩa duy lợi đang lây lan như một loại virus trọng bệnh, mà tỷ lệ nghịch với làn sóng đó, là sức sống còn cho một quốc gia.
NS Tuấn Khanh
Xã hội Việt Nam đang rất sôi động. Một sức sống như đang bừng bừng trẻ trung với bề ngoài của nó. Hào nhoáng. Chộn rộn. Mỗi ngày, khi trên báo chí hay truyền hình ra một đề bài lá cải, khắp nơi nhộn nhịp tham gia bàn tán như các cô cậu học sinh mùa thi được thử thách tâm sinh lý. Ở các ngã tư đường, các quán nhậu, các diễn đàn facebook... đâu đâu người ta cũng bàn tán về đề thời sự mới nhất. Một ông già hom hem ngấu nghiến hôn cô gái trẻ được báo chí ghi lại, lập tức trở thành quốc sự. Nền dân chủ lý sự tầm ruồng phất cao ngọn cờ ngời sáng với 2 phe: một bên thì đập ngực đem tất cả vốn liếng đạo đức để chỉ trích, một bên thì chống nạnh, viện dẫn mọi tư duy cấp tiến để nói rằng đó là chuyện bình thường, thậm chí đáng yêu.
Quốc sự về nụ hôn của một cụ già trỗi máu xuân tình dĩ nhiên không quên bàn về nước dãi của cụ còn để lại trên gò má căng phính lông tơ của cô gái trẻ. Quốc sự về hình ảnh đó cũng có đủ mọi lời bảo vệ bằng cách đưa ảnh một vị lãnh tụ khác cũng hay hôn phụ nữ, đàn ông và trẻ con như một truyền thống đáng noi theo. Dĩ nhiên, khi đã tranh luận, mỗi phe càng nói càng hăng. Ngôn ngữ mỗi lúc một mạnh bạo, thậm chí rất hung hãn.
Sự hung hãn của một dân chủ xã hội đầy sôi động đó cũng được mô tả bằng bản tin hơn 5000 người Việt đánh nhau đến nhập viện trong một mùa xuân cầu mong yên lành. Sự hung hãn được chỉ định bằng việc giết heo trong lễ hội theo lối yêu trảm (chém ngang lưng) du nhập từ đời nhà Tần phương Bắc sang Việt Nam. Sự hung hãn được xác nhận như phần cần thiết của lễ hội mua thần bán thánh, từ miệng của một quan chức cấp cao, phó chủ tịch Uỷ ban Nhân Dân Sóc Sơn “Lễ hội không tổ chức phát lộc cho người dân nên ai muốn có phải cướp. Xô xát là bình thường”. Loại câu nói đủ biết hạng người nào, tri thức kiểu gì đang đứng trên đầu dân chúng.
Một khi chuyện hôn hít của một ông già, chuyện đánh nhau vỡ đầu giành lộc, chuyện hung hãn đánh nhau giữa đường rồi cùng nhập viện... nay đã trở thành quốc sự hạng một, chiếm lĩnh mọi sự quan tâm của quốc dân, thì đó cũng là một chỉ dấu của con đường đến mạt vận.
Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong những chuyện tự do ngôn luận dân chủ tầm ruồng, bỏ quên hay tránh né về những điều nguy ngập khác, rằng Trung Cộng đã dựng xong sân bay, pháo đài... trên biển, có thể đánh chiếm Sài Gòn trong 24 giờ. Thế nhưng tướng quân đội Việt Nam thì tâm tư tha thiết kêu gọi dân chúng không nên ghét bỏ kẻ đang lăm lăm cướp - giết tổ quốc mình.
Người Việt hôm nay dường như rất hung hãn trong cách dùng mọi học thuật để chứng minh đối phương đồi bại hay tiến bộ trong những điều chỉ đáng liếc qua và lãng quên, nhưng giỏi cười qua loa với chuyện các dự án bauxite thua lỗ trầm trọng mà vẫn phải tiếp tục, ngày đêm giao nộp sang biên giới, giỏi giả lơ khi giá xăng được tuyên hô sẽ lên giá không cần lý do, khi dầu thế giới chỉ có giá 50 USD/ thùng - mức giá thấp nhất từ trước đến nay.
Người Việt hôm nay dường như đủ hung hãn chém con heo ra nhiều mảnh, reo hò và tắm máu như thời các bộ lạc dã man, nhưng hèn nhát câm miệng không dám bàn về tài sản các quan chức tham nhũng đang đục ruỗng tổ quốc mình. Người ta im lặng hèn nhát khi nghe những kẻ như Trần Văn Truyền chỉ bị kỷ luật giơ cao đánh khẽ, còn những người tố cáo cái ác như ông Cao Kim Hoa, báo Người Cao Tuổi, đang lao đao giữa trùng vây vô lại.
Cái cần phải hung hãn, thì người ta đang chọn cách hèn nhát. Cái cần phải hèn đi thì người ta ồ ạt xông lên: hung hãn giành giật thức ăn buffet, hung hãn trói đánh kẻ trộm chó, hung hãn phán xét, nguyền rủa chung quanh như bản thân mình là hiện thân của ngọn cờ đầu nhân nghĩa.
Hung hãn và hèn nhát, hai mặt đối lập của số đông trong một quốc gia, cho thấy sự sục sôi của chủ nghĩa duy lợi đang lây lan như một loại virus trọng bệnh, mà tỷ lệ nghịch với làn sóng đó, là sức sống còn cho một quốc gia.
NS Tuấn Khanh

'Mất văn hóa dễ dẫn tới mất nước'
Đào Tiến Thi
Tác giả từ Hà Nội, Việt Nam
3 tháng 3 2015
Vào những dịp cuối năm và đầu năm, tôi thường có những việc phải về quê, nhân đó mà chứng kiến hoặc nghe kể biết bao cảnh “xuống” (theo cách nói của Tản Đà) ở xã hội làng quê truyền thống.
Ngoài những sự tranh giành, chém giết mà báo chí thường nêu, tôi thấy hiện tượng này mới thực sự đáng lo ngại: ăn nhậu và vui tràn cung mây đến phát sợ. Có thể kể một số biểu hiện sau :
Đám ma, đám cưới, khao thọ, giỗ chạp mỗi ngày một to, thủ tục mỗi ngày một rườm rà và thêm những biến tướng mới.
Ví dụ đám ma kéo dài thêm thời gian quàn thi thể người chết để làm được nhiều các trò cúng tế; đám cưới thì cưới hai lần cho những người sinh vào các năm Đinh, Nhâm, Quý, để tránh phải đi 'hai lần đò'.
Ngày càng có thêm các cuộc gặp gỡ để ăn nhậu: hội đồng niên, hội đồng ngũ, hội những gia đình ba con, năm con…Có gia đình riêng mùa cưới hỏi giỗ chạp năm nay đã phải bán đi bảy tạ thóc để chi cho việc đi ăn cỗ.
Lượng rượu, bia uống mỗi ngày một nhiều. Kiểu uống nhâm nhi của các cụ xưa gần như không còn nữa.
Thay vào đó là kiểu 'nốc' rượu: nốc chúc nhau tại mâm rồi lại mỗi người lần lượt cầm cái chén đi chúc các mâm, đều uống theo cách 'nốc' một phát, một chén rồi bắt tay – cái tay dính lem nhem thức ăn. Chúc một vòng, rồi lại vòng nữa, vòng nữa…
Số người bệnh ung thư và bệnh tâm thần mỗi ngày một nhiều. Cũng có một số người cảm thấy nguyên nhân từ rượu nhưng điều đó cũng chẳng ảnh hưởng gì đến các cuộc vui tràn cung mây.
Trong mâm rượu người ta gần như không nói chuyện chính trị - xã hội như ngày trước, mà chỉ nói những chuyện lên chức lên 'lon', chuyện về các 'con xe', 'con di động'... Rồi thì thơ phú tuôn ra rào rào trong các cuộc gặp gỡ này.
Những hiện tượng trên diễn ra một cách tự phát. Một số người cũng thấy chướng vì vừa tốn kém tiền của và thời giờ lại vừa lố bịch.
Nhưng chẳng ai dại mà chống lại dòng nước lũ này. Có người chê trách nhà khác là xa hoa, rởm đời, nhưng đến lượt nhà mình lại làm như vậy, có khi còn hơn.
Những điều kể trên, trước mắt, nó làm người dân hoang tưởng rằng cuộc sống đang 'nở hoa', đang ngày càng thịnh vượng, từ đó quên đi các chuyện bức xúc, vô lý, khổ đau có thật.
Và nhất là nó làm người ta bận rộn, đam mê việc làng đến quên đi việc nước. Dân quê vốn thiết thực.
Mất gốc và bại hoại
Tập Cận Bình có lần nói rằng Pháp Luân Công tranh hết quần chúng của Đảng là vì thế
Đầu óc họ còn lúc nào mà để ý chuyện biển đảo của đất nước đang ngày càng bị đe doạ nữa. Còn về lâu dài, nó làm cho con người Việt Nam dần dần mất gốc và bại hoại cả thể xác lẫn tinh thần.
Đến thời điểm nào đó, nhà cầm quyền Bắc Kinh có thể thò tay mà nhúp nước Việt Nam dễ dàng.
Điều lạ là những việc như thế ngày trước (thời bao cấp, thời nguyên vẹn tính chất XHCN) chính quyền, đoàn thể can thiệp rất sát sao.
Chính quyền thậm chí còn cấm ăn uống trong các đám cưới. Đám nào cố tình, có khi dân quân đến tịch thu cả rượu thịt đã bày ra mâm.
Nhưng ngày nay, chính quyền, trong khi vẫn rất hà khắc trước những hành động đấu tranh của nhân dân, thì các hiện tượng xuống cấp văn hoá trên lại được buông, được làm ngơ, được coi là 'bình thường'.
Quan niệm sai? Sự vô trách nhiệm? Hay còn có gì đó thuộc bề sâu của vấn đề còn ẩn khuất ?
Xin kể thêm mấy câu chuyện để chúng ta cùng suy nghĩ.
Mới đây trong một cuộc liên hoan, tôi ngồi cùng một vị cựu quan chức, người ta hỏi sao ông ngoài bảy mươi mà trông lại tráng kiện hơn trước, thì ông ấy nói rằng, do ông tập Pháp Luân Công.
Khi ngà ngà say, ông ấy bảo:
"Các vị biết vì sao Trung Quốc nó cấm Pháp Luân Công không? Là vì Pháp Luân Công làm cho con người khoẻ mạnh, cường tráng, tinh thần minh mẫn. Người ta sẽ rủ nhau theo hết Pháp Luân Công (mà không theo Đảng nữa). Tập Cận Bình có lần nói rằng Pháp Luân Công tranh hết quần chúng của Đảng là vì thế."
Tôi được nghe mấy năm vừa qua, có rất nhiều phóng viên các báo đi Trường Sa. Mục đích chuyến đi tất nhiên là tìm hiểu, thăm hỏi, động viên chiến sĩ giữ gìn biển đảo. Tuy nhiên, cảm giác của nhiều phóng viên khi về lại là sự thất vọng.
Thất vọng vì cảnh thiếu thốn và cả tinh thần thiếu tin tưởng của các chiến sĩ quân đội ta. Và dư âm để lại cho nhiều phóng viên sau chuyến đi là: ta không thể đấu với Trung Cộng được!
Nguyên khí quốc gia bị hao mòn và có thể dẫn tới chỗ mất nước
Mới đây TP Hà Nội chủ trương cho bắn pháo hoa thường xuyên trên cầu Nhật Tân chứ không chỉ bắn vào những ngày lễ trọng đại của đất nước.
Khi dư luận phản đối thì một vị quan chức – ông Phan Đăng Long, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội giải thích:
"Biết đâu, những người nghèo họ cũng khao khát được xem bắn pháo hoa, những lúc thưởng thức bắn pháo hoa giúp họ quên đi cái nghèo, cái khó, những cái vất vả luôn đeo bám cuộc sống của họ bấy lâu nay."
Cả sự vui vẻ nhố nhăng lẫn sự chán nản, thất vọng đều làm tiêu mòn nguyên khí quốc gia.
Những người cầm quyền ấu trĩ, dốt nát hay thờ ơ vô trách nhiệm, hay thậm chí chủ tâm cứ để mọi sự tự phát phát triển để dân chúng dần dần mất gốc và bại hoại cả thể xác lẫn tinh thần cho dễ cai quản, lèo lái? Tôi chưa kết luận là cái nào. Nhưng dù thế nào thì hậu quả của nó cũng là có hại vô cùng.
Và cái nguy hại mang vẻ rất riêng của nó là: một quá trình mất nước từ từ khiến đa số không quan tâm.
Các triều đại phong kiến xưa cũng như các nước đế quốc trong thời kỳ tìm đất thực dân, nhìn chung, họ khuất phục các dân tộc khác bằng vũ lực, sau đó mới nô dịch bằng văn hoá, tinh thần; tuy nhiên lịch sử cũng cho thấy nó có thể diễn ra bằng một số con đường khác.
Nhà thơ Inrasara (Việt Nam nhìn từ huyền thoại ít được biết đến, Tạp chí Nghiên cứu và phát triển số 3 – 4/2015) cho rằng quá trình mở cõi của người Việt về phía Nam được tiến hành bằng cả hai phương thức: bằng gươm và bằng mỹ nhân.
Ngoài Huyền Trân công chúa, về sau còn có các công chúa khác như Ngọc Khoa, Ngọc Vạn tiếp bước 'mượn màu son phấn đền nợ Ô, Ly', góp phần hoàn tất quá trình Nam tiến của người Việt.
Nhưng rõ ràng người Việt chỉ thực hiện được điều này bởi có những ông vua Chăm ham sắc (và coi thường nhân dân) đến độ đánh đổi cả lãnh thổ quốc gia.
Sự đồi bại về văn hoá và tinh thần của người Việt Nam hôm nay, thiết nghĩ là đã vô hình tạo điều kiện để nhà cầm quyền Bắc Kinh thôn tính bằng sức mạnh mềm.
Để phân tích tìm ra nguyên nhân và hậu quả các hiện tượng trên cần có sự khảo sát, nghiên cứu kĩ hơn. Tuy nhiên, một điều có quy luật là: Nước mất nhưng văn hoá, tinh thần còn thì vẫn có điều kiện để khôi phục độc lập.
Nhưng mất văn hoá, mất tinh thần dân tộc là mất gốc, dù hiện tại chưa mất nước nhưng lại tiềm ẩn nguy cơ mất nước rất cao.
Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả Đào Tiến Thi từ Hà Nội và đã được đăng trên trang Diễn Đàn Forum ra ở Paris, Pháp. BBC đăng lại với sự đồng ý của Diễn đàn Forum.
NGUYỄN PHÚ TRỌNG ĐẠI DIỆN CHO AI ?
ĐỂ XÓA BỎ MỐI THÙ TRUYỀN KIẾP “ VIỆT-TRUNG “
VÀ XIN LÀM NÔ LỆ TÀU ?
MƯỜNG GIANG
Từ trước tới nay, đảng CSVN vẫn luôn là một gánh nặng “ bòn rút túi tiền “ của bất cứ một nước nào có liên quan tới. Chính cái chủ trương “ bị gậy “ trên của ngụy quyền Hà Nội, đã đẩy đất nước và dân tộc VN vào thảm trạng nô lệ đế quốc Tàu đỏ, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10-2011 và được hợp thức hóa gần như công khai trên cơ quan truyền thông của đảng khi Nguyễn Phú Trọng qua chầu Hồ Cầm Đào, với lá cờ Trung Cộng “ 6 sao : 1 lớn + 5 sao nhỏ “.
Điều nghịch lý của VN là hiện nay gần như hầu hết nhân loại, từ những cường quốc kinh tế (Hoa Kỳ, Liên Âu, Nhật..) tới các nước đang phát triển và các nước nghèo tại Phi Châu. Tất cả đều có chung khuynh hướng “ khai trừ và tẩy chay “ tên đầu sõ của tội ác thế kỷ là Trung Cộng, ra khỏi đất nước mình, để tránh hiểm họa chết chóc và bị diệt vọng không sớm thì muộn, vì hành động tàn độc, gian ác, lưu manh và côn đồ có một không hai trên thế giới từ trước tới nay. Hoa Kỳ là một đại cường quốc, đại siêu cường, đại phú gia..nhưng đã rước giặc Tàu vào nhà mình mới mấy chục năm, nay cũng sắp tán gia bại sãn và nguy cơ bị diệt chũng “ vì người dân Mỹ tiếp tục bị trúng độc “ do sử dụng đồ đạc, máy móc các thức ăn hằng ngày “ made in China “ bày bán công khai khắp Hoa Kỳ.
Trong lúc hầu hết các nước “ đồng chí “ của Tàu đỏ, gần như Lào, Bắc Hàn, Miến Điện, Pakistan..hay xa hơn tận Châu Phi như Lybia, Zambia, Nam Sudan..là các quốc gia trước đó đã bị lãnh tụ “ bán trọn goí “ cho Tàu, thì nay Họ đã trở mặt mời Trung Cộng ra khỏi nước, vì sớm nhận diện được cái bộ mặt tham ác, lừa bịp và đế quốc thực dân của quỹ đỏ, thì CSVN vẫn đi bằng đầu gối, hằng hằng lớp lớp, bò sang Tàu chầu quỳ các cấp lãnh đạo Trung Cộng để xin được “ Tình hữu nghị đời đời Việt-Trung, làm tài sản quý báu chung của hai đảng, hai nước, nhân dân hai nước. Nó phải được cũng cố và lưu truyền mãi mãi cho các thế hệ mai sau “. Bản tuyên bố “ riêng này “ của Nguyễn Phú Trọng với Hồ Cẩm Đào, không biết có đại diện cho đảng CSVN hay không nhưng chắc chắn nó không bao giờ, vĩnh viễn và miên trường sẽ không đại diện cho bất cứ một người VN nào trong và ngoài nước. CSVN và Nguyễn Phú Trong không tin, cứ cho phép người dân VN được biểu tình chống giặc Tàu xâm lăng VN, chống bè lũ nguỵ quyền Hà Nội công khai bán nước và làm nhục quốc thể..Chắc chắn chỉ trong vài giờ, toàn quốc sẽ có hằng triệu người đứng lên chống Tàu lẫn cái chính quyền VC “ Hèn với giặc Tàu, ác với dân Việt và vô nhân đạo bỏ mặc cho ngư dân Việt ngoài biển Đông, mặc cho hải tặc Tàu đỏ sinh sát hằng ngày “.
Tôi chỉ là một trong muôn ngàn người lính già của QLVNCH may mắn còn sống sót sau cuộc chiến và cuộc đổi đời. Và còn là một con người VN đứng trước thãm trạng đất nước đã bị giặc Tàu đô hộ, nên buồn rầu bức xúc vì sự bất lực của tuyệt đại tầng lớp đồng bào VN thấp cổ bé họng hôm nay “ thấy nước mất về tay giặc Tàu mà mình không được quyền đánh đuổi giặc Tàu ra khỏi nước. Thấy bè lũ cầm quyền VC hèn hạ tham ô bán nước cho giặc mà vẫn phải cúi đầu trước bạo lực, khủng bố..”
Chúng tôi là những người lính Miền Nam bị rã ngũ ngày 30-4-1975 nên dù muốn hay không, cũng phải chấp nhận số phận của kẽ thua cuộc. Nhưng vô lý biết bao khi chính miệng của một tên Tổng bí thư đảng CSVN là Nguyễn Phú Trọng lại “ kiên quyết “ với Hồ Cẩm Đào rằng là Tình Hữu Nghị Việt-Trung đời đời là tài sản chung để lưu truyền hậu thế. Trong khi đó suốt vùng biên giới Việt Hoa qua mấy ngàn năm lập quốc tới ngày nay, đã có triệu triệu hồn linh của tử sĩ VN bao đời nằm xuống, để chống lại giặc Tàu xâm lăng Đại Việt.
Nguyễn Phú Trọng hay đảng CSVN có vô liêm sĩ đến mức nào chăng nữa cũng không thể bán đứng đồng đội của mình là những “ Bộ Đội đã hy sinh máu xương trong cuộc chiến chống Tàu đỏ xâm lăng VN từ 1979-1988 tại các tỉnh biên giới và quần đảo Trường Sa “ . Không có bộ đội “ sinh bắc tử nam “ từ 1960-1975 thì làm sao đảng cướp được toàn cõi VN ngày nay, để TBT Nguyễn Phú Trong bò sang Tàu, quỳ gối trước Hồ Cẩm Đào để kiên quyết “ Làm Nô Lệ “ Hán tộc ?
Là một quốc gia bé nhỏ có chung biên giới dài với Trung Cộng, nên từ ngày lập quốc tới nay trãi qua bao đời dân tộc ta đã không ngững nghĩ ngăn chống giặc xâm lăng phương Bắc. Ngoại trừ những tên mãi quốc cầu vinh rước voi Tàu về dầy mã tổ Việt ít õi như Trần Thiễm Bình, Lê Chiêu Thống..Tất cả các triều đại còn lại đều đứng dậy chống Tàu. Cái luận điệu của CSVN từ 1988 tới nay qua Nguyễn Phú Trọng, chỉ là hình thức che dấu tội bán nước cho giặc. Nhưng không sao, vì qua các trang sử Việt từ trước tới nay cho thấy “ tất cả những tên mãi quốc cầu vinh “ đều bị toàn dân hạ bệ và tiêu diệt như Cù Thị, Triệu Ai Vương (Nhà Triệu), Kiều Công Tiện (Nhà Ngô), Trần Thiễm Bình (Trần), Lê Chiêu Thống (Hậu Lê)..CSVN ngày nay đã mất tất cả kể luôn tài sản quý báu nhất là “ lòng dân , ý trời “ để chạy theo giặc Tàu, rước giặc Hán vào dầy xéo quê hương từ Bắc vào Nam, dâng hiến cho giặc tất cả những tài nguyên, lãnh thổ từ trong đất liền ra đến biển Đông. Hành động tán tận lương tâm trên, thì trước sau gì cũng bị toàn dân cả nước đứng lên lật đổ, dù họ đã biết trước CSVN sẽ theo lệnh Trung Cộng tàn sát mọi người chống đối như tại Thiên An Môn (Bắc Kinh 1976, 1989), Miến Điện (1988, 2007) và mới nhất tại Yemen, Syria..
Các thế hệ VN bao đời đã đọc và học Việt Sử nên mới biết được sự hy sinh vô bờ bến của tiền nhân, đã phơi xác đổ máu để ngăn chống đế quốc Hán bao đời luôn muốn thôn tính và đồng hóa dân tộc Việt. Từ khi cướp được quyền cai trị VN, CSVN đã đảo trắng thay đen bày vẽ huyền thoại để làm sai lạc ý nghĩ thiêng liêng môn Việt Sử, khiến cho các thế hệ VN ngày nay chỉ biết yêu nước là yêu nước XHCN. Nhưng ngoài sử viết, người Việt còn sử miệng. Đó mới chính là nguồn sử Việt chính thống bao đời của dân tộc.
Ai có thể quên được kẻ thù không đội trời chung là giặc Tàu, họa chăng chỉ có Nguyễn Phú Trọng và đảng CSVN mới kiên quyết đời đời tình hữu nghị Việt-Trung. Theo sử liệu, Đại Việt chính thức bị Bắc Thuộc lần thứ Nhất vào năm 111 trước Tây Lịch, khi Mã Viện sang đánh Triệu Dương Vương (Nhà Triệu). Từ đó nhà Hán đối Nam Việt (quốc hiệu VN thời đó) thành Giao Chỉ Bộ, nội thuộc nước Tàu. Năm 40 Tây Lịch, Bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị vì “ nợ nước thù nhà “ đã cầm đầu nghĩa binh, đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng non sông thoát khỏi ách đô hộ Tàu, sau hơn 150 nô lệ.
Sau ba năm độc lập dưới thời Trưng Nữ Vương (40-43), Đại Việt lại đắm chìm trong ách nô lệ của giặc Tàu hơn 900 năm nữa, mới được Ngô Vương Quyền giải phóng hoàn toàn vào năm 939, sau hơn 1000 bị giặc Tàu đô hộ làm nhục cướp đất. Trong khoảng thời gian trên, dù bị khủng bố kềm kẹp áp bức và đe dọa đến sinh mạng nhưng người Việt vẫn luôn nổi lên chống Tàu, qua các lãnh tụ cầm đầu Triệu Trinh Nương, Mai Hắc Đế, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Khúc Thừa Dụ..
Ngô Quyền là người đã cởi ách nô lệ Hán tộc cho Đại Việt khi ông chém Hoàng Tháo trên sông Bạch Đằng và đánh đuổi giặc Nam Hán chạy về Tàu từ năm 939, mở đầu cho thời độc lập, tự chủ cho Đại Việt qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cho tới ngày nay (2011) thì bị cá nhân Nguyễn Phú Trọng, nhân danh tổng bí thư đảng CSVN, sáp nhập và nội thuộc nước Tàu qua biểu tượng lá cờ Trung Cộng mới xuất hiện trên đài VTV của đảng khi Nguyễn Phú Trọng sang chầu thiên Triều vào tháng 10-2011. (cờ đỏ có sáu ngôi sao : một lớn chỉ nước Tàu, năm ngôi sao nhỏ chỉ năm dân tộc Hán, Mãn, Mông, Tạng, Hồi và Người cốt khỉ (Nguyễn Phú Trọng + đảng CSVN).
Những ai hiện nay còn tự nhận mình là người VN, hãnh diện được làm người VN dù đang sống trong nước hay ngoài nước, xin đừng bao giờ quên được những sự nhục nhã do Nguyễn Phú Trọng và bè nhóm đảng CSVN đã mang tới cho đất nước và dân tộc Việt. Có như vậy chúng ta mới không uổng là hậu duệ của Cháu Lạc Con Hồng, là con cháu của Triệu Quang Phục (111 TrTL), Hai Bà Trưng (40-43), Triệu Trinh Nương (248), Ngô Quyền (939), Lê Hoàn (981), Lý Thường Kiệt (1077), Hưng Đạo Đại Vương (1288), Lê Lợi (1407-1418), Quang Trung (1789)..
Lịch sử lại tái diễn vào tháng 1 năm 1974, giặc Tàu lợi dụng tình trạng nguy ngập của Miền Nam lúc đó với “ thù trong giặc ngoài “ , nên xâm lăng và cưởng đoạt quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của VN lúc đó do QLVNCH trấn giữ. Người lính miền Nam đã làm hết sức mình kể cả hy sinh mạng sống để bảo vệ lãnh thổ của ông cha nhưng vì giặc quá mạnh và đông nên phải đành mất đảo vào ngày 20-1-1974. Đây là một biến cố đau thương và hận nhục nhất của dân tộc Việt. Nó mới chính là một kiên quyết đời đời nhắc nhớ cho các thế hệ VN, hôm nay, ngày mai và mãi mãi, đừng bao giờ quên “ Giặc Tàu là kẻ thù muôn đời và mãn kiếp của dân tộc Việt “.
Trong bài viết “ Đúng Ba Trăm Năm Trước “ đăng trong tập san Sử Địa xuất bản tại Sài Gòn năm 1974, sử gia Hoàng Xuân Hãn có viết “ Một gương sáng lịch sử là mỗi khi thế nước suy hèn vì chia rẽ và nội loạn, thì lân bang mới lẫn cõi chiếm đất như Hồ chịu mất đất Cổ Lâu (Lạng Sơn -1945), Mạc dâng La Phù (Quảng Ninh-1540), Trịnh mất nhiều động ở biên giới tây bắc..”.
CSVN ngày nay đã làm mất lòng dân, trái ý trời, tàn bạo vô lương và trên hết đã đánh mất liêm sĩ nên con đường duy nhất để chúng kéo dài thời gian bóp cổ xiết họng đồng bào cả nước, là vơ vét những gì còn lại của dất nước, để dâng hiến cho Tàu đỏ làm chỗ dựa. Nên việc Nguyễn Phú Trọng đi Tàu, Trương Tấn Sang tới Ấn hay Nguyễn tấn Dũng ở lại đón thủ tướng Đức. Tất cả kết cuộc cũng chỉ là “ bán nước “ cho ngoại bang mà thôi.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 3-2015
MƯỜNG GIANG
ĐỂ XÓA BỎ MỐI THÙ TRUYỀN KIẾP “ VIỆT-TRUNG “
VÀ XIN LÀM NÔ LỆ TÀU ?
MƯỜNG GIANG
Từ trước tới nay, đảng CSVN vẫn luôn là một gánh nặng “ bòn rút túi tiền “ của bất cứ một nước nào có liên quan tới. Chính cái chủ trương “ bị gậy “ trên của ngụy quyền Hà Nội, đã đẩy đất nước và dân tộc VN vào thảm trạng nô lệ đế quốc Tàu đỏ, bắt đầu từ ngày 1 tháng 10-2011 và được hợp thức hóa gần như công khai trên cơ quan truyền thông của đảng khi Nguyễn Phú Trọng qua chầu Hồ Cầm Đào, với lá cờ Trung Cộng “ 6 sao : 1 lớn + 5 sao nhỏ “.
Điều nghịch lý của VN là hiện nay gần như hầu hết nhân loại, từ những cường quốc kinh tế (Hoa Kỳ, Liên Âu, Nhật..) tới các nước đang phát triển và các nước nghèo tại Phi Châu. Tất cả đều có chung khuynh hướng “ khai trừ và tẩy chay “ tên đầu sõ của tội ác thế kỷ là Trung Cộng, ra khỏi đất nước mình, để tránh hiểm họa chết chóc và bị diệt vọng không sớm thì muộn, vì hành động tàn độc, gian ác, lưu manh và côn đồ có một không hai trên thế giới từ trước tới nay. Hoa Kỳ là một đại cường quốc, đại siêu cường, đại phú gia..nhưng đã rước giặc Tàu vào nhà mình mới mấy chục năm, nay cũng sắp tán gia bại sãn và nguy cơ bị diệt chũng “ vì người dân Mỹ tiếp tục bị trúng độc “ do sử dụng đồ đạc, máy móc các thức ăn hằng ngày “ made in China “ bày bán công khai khắp Hoa Kỳ.
Trong lúc hầu hết các nước “ đồng chí “ của Tàu đỏ, gần như Lào, Bắc Hàn, Miến Điện, Pakistan..hay xa hơn tận Châu Phi như Lybia, Zambia, Nam Sudan..là các quốc gia trước đó đã bị lãnh tụ “ bán trọn goí “ cho Tàu, thì nay Họ đã trở mặt mời Trung Cộng ra khỏi nước, vì sớm nhận diện được cái bộ mặt tham ác, lừa bịp và đế quốc thực dân của quỹ đỏ, thì CSVN vẫn đi bằng đầu gối, hằng hằng lớp lớp, bò sang Tàu chầu quỳ các cấp lãnh đạo Trung Cộng để xin được “ Tình hữu nghị đời đời Việt-Trung, làm tài sản quý báu chung của hai đảng, hai nước, nhân dân hai nước. Nó phải được cũng cố và lưu truyền mãi mãi cho các thế hệ mai sau “. Bản tuyên bố “ riêng này “ của Nguyễn Phú Trọng với Hồ Cẩm Đào, không biết có đại diện cho đảng CSVN hay không nhưng chắc chắn nó không bao giờ, vĩnh viễn và miên trường sẽ không đại diện cho bất cứ một người VN nào trong và ngoài nước. CSVN và Nguyễn Phú Trong không tin, cứ cho phép người dân VN được biểu tình chống giặc Tàu xâm lăng VN, chống bè lũ nguỵ quyền Hà Nội công khai bán nước và làm nhục quốc thể..Chắc chắn chỉ trong vài giờ, toàn quốc sẽ có hằng triệu người đứng lên chống Tàu lẫn cái chính quyền VC “ Hèn với giặc Tàu, ác với dân Việt và vô nhân đạo bỏ mặc cho ngư dân Việt ngoài biển Đông, mặc cho hải tặc Tàu đỏ sinh sát hằng ngày “.
Tôi chỉ là một trong muôn ngàn người lính già của QLVNCH may mắn còn sống sót sau cuộc chiến và cuộc đổi đời. Và còn là một con người VN đứng trước thãm trạng đất nước đã bị giặc Tàu đô hộ, nên buồn rầu bức xúc vì sự bất lực của tuyệt đại tầng lớp đồng bào VN thấp cổ bé họng hôm nay “ thấy nước mất về tay giặc Tàu mà mình không được quyền đánh đuổi giặc Tàu ra khỏi nước. Thấy bè lũ cầm quyền VC hèn hạ tham ô bán nước cho giặc mà vẫn phải cúi đầu trước bạo lực, khủng bố..”
Chúng tôi là những người lính Miền Nam bị rã ngũ ngày 30-4-1975 nên dù muốn hay không, cũng phải chấp nhận số phận của kẽ thua cuộc. Nhưng vô lý biết bao khi chính miệng của một tên Tổng bí thư đảng CSVN là Nguyễn Phú Trọng lại “ kiên quyết “ với Hồ Cẩm Đào rằng là Tình Hữu Nghị Việt-Trung đời đời là tài sản chung để lưu truyền hậu thế. Trong khi đó suốt vùng biên giới Việt Hoa qua mấy ngàn năm lập quốc tới ngày nay, đã có triệu triệu hồn linh của tử sĩ VN bao đời nằm xuống, để chống lại giặc Tàu xâm lăng Đại Việt.
Nguyễn Phú Trọng hay đảng CSVN có vô liêm sĩ đến mức nào chăng nữa cũng không thể bán đứng đồng đội của mình là những “ Bộ Đội đã hy sinh máu xương trong cuộc chiến chống Tàu đỏ xâm lăng VN từ 1979-1988 tại các tỉnh biên giới và quần đảo Trường Sa “ . Không có bộ đội “ sinh bắc tử nam “ từ 1960-1975 thì làm sao đảng cướp được toàn cõi VN ngày nay, để TBT Nguyễn Phú Trong bò sang Tàu, quỳ gối trước Hồ Cẩm Đào để kiên quyết “ Làm Nô Lệ “ Hán tộc ?
Là một quốc gia bé nhỏ có chung biên giới dài với Trung Cộng, nên từ ngày lập quốc tới nay trãi qua bao đời dân tộc ta đã không ngững nghĩ ngăn chống giặc xâm lăng phương Bắc. Ngoại trừ những tên mãi quốc cầu vinh rước voi Tàu về dầy mã tổ Việt ít õi như Trần Thiễm Bình, Lê Chiêu Thống..Tất cả các triều đại còn lại đều đứng dậy chống Tàu. Cái luận điệu của CSVN từ 1988 tới nay qua Nguyễn Phú Trọng, chỉ là hình thức che dấu tội bán nước cho giặc. Nhưng không sao, vì qua các trang sử Việt từ trước tới nay cho thấy “ tất cả những tên mãi quốc cầu vinh “ đều bị toàn dân hạ bệ và tiêu diệt như Cù Thị, Triệu Ai Vương (Nhà Triệu), Kiều Công Tiện (Nhà Ngô), Trần Thiễm Bình (Trần), Lê Chiêu Thống (Hậu Lê)..CSVN ngày nay đã mất tất cả kể luôn tài sản quý báu nhất là “ lòng dân , ý trời “ để chạy theo giặc Tàu, rước giặc Hán vào dầy xéo quê hương từ Bắc vào Nam, dâng hiến cho giặc tất cả những tài nguyên, lãnh thổ từ trong đất liền ra đến biển Đông. Hành động tán tận lương tâm trên, thì trước sau gì cũng bị toàn dân cả nước đứng lên lật đổ, dù họ đã biết trước CSVN sẽ theo lệnh Trung Cộng tàn sát mọi người chống đối như tại Thiên An Môn (Bắc Kinh 1976, 1989), Miến Điện (1988, 2007) và mới nhất tại Yemen, Syria..
Các thế hệ VN bao đời đã đọc và học Việt Sử nên mới biết được sự hy sinh vô bờ bến của tiền nhân, đã phơi xác đổ máu để ngăn chống đế quốc Hán bao đời luôn muốn thôn tính và đồng hóa dân tộc Việt. Từ khi cướp được quyền cai trị VN, CSVN đã đảo trắng thay đen bày vẽ huyền thoại để làm sai lạc ý nghĩ thiêng liêng môn Việt Sử, khiến cho các thế hệ VN ngày nay chỉ biết yêu nước là yêu nước XHCN. Nhưng ngoài sử viết, người Việt còn sử miệng. Đó mới chính là nguồn sử Việt chính thống bao đời của dân tộc.
Ai có thể quên được kẻ thù không đội trời chung là giặc Tàu, họa chăng chỉ có Nguyễn Phú Trọng và đảng CSVN mới kiên quyết đời đời tình hữu nghị Việt-Trung. Theo sử liệu, Đại Việt chính thức bị Bắc Thuộc lần thứ Nhất vào năm 111 trước Tây Lịch, khi Mã Viện sang đánh Triệu Dương Vương (Nhà Triệu). Từ đó nhà Hán đối Nam Việt (quốc hiệu VN thời đó) thành Giao Chỉ Bộ, nội thuộc nước Tàu. Năm 40 Tây Lịch, Bà Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị vì “ nợ nước thù nhà “ đã cầm đầu nghĩa binh, đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng non sông thoát khỏi ách đô hộ Tàu, sau hơn 150 nô lệ.
Sau ba năm độc lập dưới thời Trưng Nữ Vương (40-43), Đại Việt lại đắm chìm trong ách nô lệ của giặc Tàu hơn 900 năm nữa, mới được Ngô Vương Quyền giải phóng hoàn toàn vào năm 939, sau hơn 1000 bị giặc Tàu đô hộ làm nhục cướp đất. Trong khoảng thời gian trên, dù bị khủng bố kềm kẹp áp bức và đe dọa đến sinh mạng nhưng người Việt vẫn luôn nổi lên chống Tàu, qua các lãnh tụ cầm đầu Triệu Trinh Nương, Mai Hắc Đế, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Khúc Thừa Dụ..
Ngô Quyền là người đã cởi ách nô lệ Hán tộc cho Đại Việt khi ông chém Hoàng Tháo trên sông Bạch Đằng và đánh đuổi giặc Nam Hán chạy về Tàu từ năm 939, mở đầu cho thời độc lập, tự chủ cho Đại Việt qua các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Hậu Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn cho tới ngày nay (2011) thì bị cá nhân Nguyễn Phú Trọng, nhân danh tổng bí thư đảng CSVN, sáp nhập và nội thuộc nước Tàu qua biểu tượng lá cờ Trung Cộng mới xuất hiện trên đài VTV của đảng khi Nguyễn Phú Trọng sang chầu thiên Triều vào tháng 10-2011. (cờ đỏ có sáu ngôi sao : một lớn chỉ nước Tàu, năm ngôi sao nhỏ chỉ năm dân tộc Hán, Mãn, Mông, Tạng, Hồi và Người cốt khỉ (Nguyễn Phú Trọng + đảng CSVN).
Những ai hiện nay còn tự nhận mình là người VN, hãnh diện được làm người VN dù đang sống trong nước hay ngoài nước, xin đừng bao giờ quên được những sự nhục nhã do Nguyễn Phú Trọng và bè nhóm đảng CSVN đã mang tới cho đất nước và dân tộc Việt. Có như vậy chúng ta mới không uổng là hậu duệ của Cháu Lạc Con Hồng, là con cháu của Triệu Quang Phục (111 TrTL), Hai Bà Trưng (40-43), Triệu Trinh Nương (248), Ngô Quyền (939), Lê Hoàn (981), Lý Thường Kiệt (1077), Hưng Đạo Đại Vương (1288), Lê Lợi (1407-1418), Quang Trung (1789)..
Lịch sử lại tái diễn vào tháng 1 năm 1974, giặc Tàu lợi dụng tình trạng nguy ngập của Miền Nam lúc đó với “ thù trong giặc ngoài “ , nên xâm lăng và cưởng đoạt quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của VN lúc đó do QLVNCH trấn giữ. Người lính miền Nam đã làm hết sức mình kể cả hy sinh mạng sống để bảo vệ lãnh thổ của ông cha nhưng vì giặc quá mạnh và đông nên phải đành mất đảo vào ngày 20-1-1974. Đây là một biến cố đau thương và hận nhục nhất của dân tộc Việt. Nó mới chính là một kiên quyết đời đời nhắc nhớ cho các thế hệ VN, hôm nay, ngày mai và mãi mãi, đừng bao giờ quên “ Giặc Tàu là kẻ thù muôn đời và mãn kiếp của dân tộc Việt “.
Trong bài viết “ Đúng Ba Trăm Năm Trước “ đăng trong tập san Sử Địa xuất bản tại Sài Gòn năm 1974, sử gia Hoàng Xuân Hãn có viết “ Một gương sáng lịch sử là mỗi khi thế nước suy hèn vì chia rẽ và nội loạn, thì lân bang mới lẫn cõi chiếm đất như Hồ chịu mất đất Cổ Lâu (Lạng Sơn -1945), Mạc dâng La Phù (Quảng Ninh-1540), Trịnh mất nhiều động ở biên giới tây bắc..”.
CSVN ngày nay đã làm mất lòng dân, trái ý trời, tàn bạo vô lương và trên hết đã đánh mất liêm sĩ nên con đường duy nhất để chúng kéo dài thời gian bóp cổ xiết họng đồng bào cả nước, là vơ vét những gì còn lại của dất nước, để dâng hiến cho Tàu đỏ làm chỗ dựa. Nên việc Nguyễn Phú Trọng đi Tàu, Trương Tấn Sang tới Ấn hay Nguyễn tấn Dũng ở lại đón thủ tướng Đức. Tất cả kết cuộc cũng chỉ là “ bán nước “ cho ngoại bang mà thôi.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng 3-2015
MƯỜNG GIANG
Netanyahu, Obama một chọi một
Ngô Nhân Dụng Thủ Tướng Binyamin Netanyahu là một nhà chính trị tài, có một không hai. Ông đang lo tranh cử, hy vọng được tiếp tục cầm quyền ở nước Israel! Ông đang lo thất cử, vì phe đối lập cũng mạnh ngang ngửa. Số người ủng hộ và số người chống ông xấp xỉ bằng nhau; nhưng nhiều người đang trung lập có thể sẽ cho ông về nhà nghỉ ngơi, chỉ vì ông đã làm thủ tướng lâu quá rồi, dân cũng muốn thay đổi.
Trong cảnh bấp bênh đó, Netanyahu (quen gọi là Bibi) đã tìm ra một diễn đàn vận động tranh cử uy tín nhất thế giới, là một phiên họp cả hai viện Quốc Hội Mỹ. Ông tới đó đọc diễn văn, được các đại biểu Mỹ đứng dậy vỗ tay năm, sáu chục lần. Nước Israel, dân số hơn 8 triệu người, phải mở máy ra coi. Hình ảnh chiếu trên ti vi sẽ khiến các người ủng hộ ông vững tin hơn, và những người lừng chừng sẽ được thuyết phục rằng Bibi xứng đáng đại diện cho dân Israel đi chinh phục Quốc Hội Mỹ! Ngày 17 Tháng Ba sắp tới chúng ta mới biết sau cùng nước cờ của ông Netanyahu có giúp đảng ông chiếm đa số trong Quốc Hội Israel sắp đến hay không. Nhưng trong bàn cờ chính trị ông đúng là một cao thủ.
Ông Netanyahu được tặng cơ hội bằng vàng đó vì biết lợi dụng hai yếu tố trong đời sống chính trị Mỹ, một nước đồng minh vẫn đứng bảo đảm cho quốc gia Israel tồn tại từ năm 1948 đến nay. Một là những mâu thuẫn vẫn thường xuyên diễn ra giữa hành pháp và lập pháp, nhất là khi mỗi ngành do một trong hai đảng nắm quyền kiểm soát. Hai là tài vận động và ảnh hưởng của những tổ chức người Mỹ gốc Do Thái khiến, làm cho không một chính trị gia Mỹ nào dám tỏ ý chống chính phủ Israel, nếu còn muốn đắc cử trong kỳ bỏ phiếu sắp tới.
Chủ Tịch Hạ Viện Mỹ John Boehner đã tặng cơ hội bằng vàng cho ông Netanyahu đứng trước hai viện Quốc Hội Mỹ công kích lập trường của tổng thống Mỹ vì chính ông Boehner cũng không đồng ý với ông Barack Obama! Cuộc thương thuyết giữa chính phủ Mỹ và chính phủ Iran gây kiến bất đồng, hai ông Boehner và Netanyahu đứng cùng một phía. Hai người đã táo bạo đánh chung nước cờ này, vì họ dàn xếp với nhau, cả Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao Mỹ đều không được thông báo. Ông Obama giận, không tới nghe Bibi nói, ông Kerry cũng tránh mặt. Phó Tổng Thống Biden, đáng lẽ phải ngồi chủ tọa phiên họp hai viện Quốc Hội cùng với ông Boehner, cũng cáo bận không tới. Hơn 40 nghị sĩ và dân biểu đảng Dân Chủ tẩy chay không đi họp. Chưa bao giờ chính trường Mỹ diễn ra chuyện kỳ lạ như vậy.
Binyamin Netanyahu chỉ trích chính quyền Obama đang thương thuyết với Iran về chương trình nguyên tử năng của nước này. Israel tố giác Iran đang chuẩn bị chế bom nguyên tử. Iran tuyên bố các lò nguyên tử của họ chỉ nhắm sản xuất điện, hoàn toàn có mục đích hòa bình. Mỹ và các nước Tây phương đã cấm vận Iran trong hàng chục năm qua vì họ không chịu cho cơ quan Liên Hiệp Quốc kiểm soát. Chính quyền Obama đang đòi Iran phải chịu bị kiểm soát, trong thời hạn mười năm. Cuộc thương thuyết đang tiến hành, giữa Iran với năm cường quốc nguyên tử là Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc. Chính phủ Mỹ hứa đến ngày 24 Tháng Ba sẽ phải đạt một thỏa hiệp. Ông Netanyahu nói rằng một thỏa hiệp như vậy chỉ cho Iran cơ hội chế bom nguyên tử, dù trễ đến mười năm.
Ông Netanyahu đã tấn công cuộc thương thuyết của chính phủ Obama, vì ông muốn Mỹ phải bắt buộc xứ Iran phải cam kết ba điều: Thứ nhất, ngưng xâm nhập các nước vùng Trung Ðông (trong đó ngoài Israel chỉ toàn là các nước Á Rập). Thứ hai, ngưng ủng hộ các tổ chức khủng bố ở các nước khác (ông nhắm vào các nhóm người Á Rập tại Palestine và Lebanon chống Israel). Thứ ba, không ai được nói muốn tiêu diệt nước Israel nữa. Tóm lại, bắt Iran đầu hàng trên ba điều kiện, cả ba không liên can gì đến bom nguyên tử. Còn các nước khác trong số năm cường quốc nguyên tử, họ nghĩ ra sao, ông Netanyahu không quan tâm, miễn là Mỹ theo đường lối ngoại giao do ông đề nghị.
Dân Israel không hoàn toàn ủng hộ hành động của ông Netanyahu. Một ông thủ tướng Israel tới Quốc Hội Mỹ lên lớp ông tổng thống Mỹ, bị ông ấy tẩy chay không thèm gặp, ông Netanyahu đã bước qua một lằn ranh trong mối bang giao giữa hai nước khi muốn chính phủ Mỹ phải hành động ngoại giao đúng cách được chính phủ Iarael chấp thuận. Về phía dân Mỹ, nhiều người, trong đó có 40 nghị sĩ, dân biểu đảng Dân Chủ, bất mãn khi thấy ông thủ tướng một quốc gia mỗi năm vẫn được Mỹ viện trợ hơn bốn tỷ Mỹ kim lại dùng diễn đàn Quốc Hội Mỹ để gây ảnh hưởng trên đường lối ngoại giao của vị tổng thống đương tại chức. Mà mục tiêu cốt yếu của ông thủ tướng “bạn” chỉ là kiếm thêm một số phiếu trong kỳ bầu cử sắp tới!
Ông Netanyahu tạo ra tình trạng đối đầu “một mất một còn” với ông Obama, bên này thắng thì bên kia thua. Ông từng “bắt bí” ông Obama hơn một lần. Năm ngoái, chính phủ Mỹ đã cáo ông Netanyahu cố tình tiết lộ nhiều trao đổi bí mật giữa hai chính phủ về diễn tiến cuộc đàm phán với Iran. Ông cho mấy nhà báo Israel biết Mỹ đang đòi Iran những gì, và tính sẽ đòi tới mức nào. Mục đích là gây ảnh hưởng trên dư luận tại Mỹ, nhất là khối vận động hành lang của người Do Thái ở Mỹ, để họ làm áp lực trên chính quyền Obama phải cứng rắn hơn. Bây giờ là một vụ bắt bí mới. Hai thời điểm sẽ quyết định giữa Obama và Netanyahu ai thắng ai thua. Ngày 17 Tháng Ba, đảng của ông Netanyahu có thể thắng, ông sẽ tiếp tục làm thủ tướng. Ông có thể thuyết phục Quốc Hội Mỹ, do đảng Cộng Hòa kiểm soát đa số, soạn một dự luật bắt chính quyền Obama phải dùng đường lối cứng rắn của Israel trong khi thương thuyết với Iran. Dưới ảnh hưởng của người Do Thái tại Mỹ, các đại biểu Dân Chủ trong Quốc Hội khó phản đối không bỏ phiếu cho dự luật đó.
Thời điểm thứ nhì là ngày 24 Tháng Ba. Cuộc thương thuyết giữa năm cường quốc nguyên tử với Iran có đạt tới một thỏa hiệp nào hay không, chưa biết được. Nếu cuộc thương thuyết tan vỡ, Iran sẽ tiếp tục chính sách cũ về năng lượng nguyên tử. Các nước Tây phương sẽ tiếp tục và gia tăng cuộc cấm vận, còn Nga và Trung Cộng sẽ không cấm vận Iran. Nhưng trong bốn chục năm qua, kể từ thời Tổng Thống Reagan, Iran đã bị cấm vận, mà họ vẫn tiến hành việc tinh luyện năng lượng nguyên tử, ngày một mạnh hơn. Nước Nga của ông Putin đang cần đồng minh, sẽ thân thiết với Iran và hỗ trợ Iran nhiều hơn. Hiện nay Iran đang hợp tác với Mỹ và các nước Tây phương trong chiến dịch tiễu trừ lực lượng Hồi Giáo quá khích ISIS ở Iraq và Syria. Nếu thỏa hiệp không thành, việc hợp tác đó sẽ chấm dứt, và chính phủ Mỹ sẽ phải đối đầu với một vùng Trung Ðông rắc rối, phức tạp hơn.
Trong hoàn cảnh như vậy, một thỏa hiệp với Iran, dù chỉ ràng buộc nước này là điều tốt nhất hy vọng đạt được để ngăn không cho Iran chế tạo bom nguyên tử trong thời gian mười năm tới. Mười năm có thể đủ để giải quyết một số vấn đề trước mắt, như những cuộc nổi dậy do nhóm ISIS khích động. Sau đó, tình hình nước Iran có thể thay đổi, dân Iran và những nhà lãnh đạo mới sẽ thấy sống trong tình trạng không bị cấm vận sướng hơn, kinh tế phát triển cao hơn, và cuộc thương thuyết lần sau sẽ có thể đạt tới các kết quả tốt hơn.
Nếu ngày 24 Tháng Ba tới một thỏa hiệp với Iran thành hình, thì câu chuyện vẫn chưa chấm dứt. Các thanh tra quốc tế sẽ tới Iran làm việc, nhưng họ sẽ được tự do hành động tới mức nào để chính quyền Iran không coi là chủ quyền của họ bị xúc phạm? Không ai đoán được thiện chí của các lãnh tụ tôn giáo ở Iran cao hay thấp. Sẽ có những lời tố cáo Iran vi phạm thỏa hiệp. Các nước Tây phương có thể sẽ cấm vận trở lại, và tất cả trở lại như tình trạng hiện nay!
Ông Netanyahu nghĩ rằng giới lãnh đạo Iran sẽ không bao giờ thay đổi. Cho nên ông chỉ thấy một con đường duy nhất, là bắt Iran phải đầu hàng. Ðiều mọi người lo lắng là một chính quyền Israel, dù có ông Netanyahu hay không, có lúc quyết định “hành động một mình.” Họ có thể đem máy bay tấn công các lò luyện nguyên tử của Iran, như họ từng làm ở Iraq khi ông Hussein còn tại chức. Israel có thể đặt cả thế giới và nước Mỹ trước một “sự đã rồi,” miễn là họ được yên tâm với địa vị quốc gia duy nhất trong vùng Trung Ðông có bom nguyên tử. Phản ứng của Iran và khối Hồi Giáo ra sao, không phải chỉ có Israel phải đối phó mà nước Mỹ chắc chắn sẽ tốn tiền bạc và quân đội để đóng vai cảnh sát giữ trật tự trong vùng.
Nhưng Iran không phải là quốc gia duy nhất trong vùng có khả năng chế bom nguyên tử. Các nước Saudi Arabia, Egypt và Thổ Nhĩ Kỳ đều có thể nuôi tham vọng chế bom nguyên tử, để ít nhất được ngồi ngang hàng với Pakistan, Ấn Ðộ! Nếu Israel tấn công Iran thì có tìm cách ngăn cản các nước này hay không?
Cuộc đấu giữa hai ông Obama và Netanyahu sẽ còn tiếp tục, nếu ông Netanyahu đắc cử lại trong mười ngày nữa. Trong hai năm còn lại của nhiệm kỳ tổng thống, ông Obama đang muốn đạt được một thỏa ước ngoại giao quan trọng, để lại một di sản có ảnh hưởng lâu dài. Hầu hết các vị tổng thống Mỹ đều dành hai năm cuối của nhiệm kỳ bốn năm vào việc ngoại giao, vi không còn nhu cầu vận động tranh cử trong nội bộ nước Mỹ nữa. Nếu thất bại trong vụ Iran này, chắc ông Obama sẽ quay sang khu vực khác để cho bốn năm cuối cuộc đời tổng thống của ông không hoàn toàn vô tích sự. Nếu ông chọn Châu Âu làm lãnh vực hoạt động thì tương lai sẽ rất ngoạn mục. Chính phủ Mỹ đã bắt đầu đánh tiếng tố cáo Nga xâm lăng Ukraine, và chuẩn bị gửi vũ khí qua giúp quân Ukraine. Mỹ đã gửi xe tăng và quân đội qua tập trận với quân các nước vùng Baltic, mà “đối phương” chỉ có thể là quân Nga đang hầm hè ngoài biên giới. Nếu ông Obama dùng hai năm chót lo củng cố sức mạnh của khối NATO thì chắc lịch sử sau này sẽ quên vụ ông Netanyahu thọc gậy bánh xe năm 2015.
Ngô Nhân Dụng Thủ Tướng Binyamin Netanyahu là một nhà chính trị tài, có một không hai. Ông đang lo tranh cử, hy vọng được tiếp tục cầm quyền ở nước Israel! Ông đang lo thất cử, vì phe đối lập cũng mạnh ngang ngửa. Số người ủng hộ và số người chống ông xấp xỉ bằng nhau; nhưng nhiều người đang trung lập có thể sẽ cho ông về nhà nghỉ ngơi, chỉ vì ông đã làm thủ tướng lâu quá rồi, dân cũng muốn thay đổi.
Trong cảnh bấp bênh đó, Netanyahu (quen gọi là Bibi) đã tìm ra một diễn đàn vận động tranh cử uy tín nhất thế giới, là một phiên họp cả hai viện Quốc Hội Mỹ. Ông tới đó đọc diễn văn, được các đại biểu Mỹ đứng dậy vỗ tay năm, sáu chục lần. Nước Israel, dân số hơn 8 triệu người, phải mở máy ra coi. Hình ảnh chiếu trên ti vi sẽ khiến các người ủng hộ ông vững tin hơn, và những người lừng chừng sẽ được thuyết phục rằng Bibi xứng đáng đại diện cho dân Israel đi chinh phục Quốc Hội Mỹ! Ngày 17 Tháng Ba sắp tới chúng ta mới biết sau cùng nước cờ của ông Netanyahu có giúp đảng ông chiếm đa số trong Quốc Hội Israel sắp đến hay không. Nhưng trong bàn cờ chính trị ông đúng là một cao thủ.
Ông Netanyahu được tặng cơ hội bằng vàng đó vì biết lợi dụng hai yếu tố trong đời sống chính trị Mỹ, một nước đồng minh vẫn đứng bảo đảm cho quốc gia Israel tồn tại từ năm 1948 đến nay. Một là những mâu thuẫn vẫn thường xuyên diễn ra giữa hành pháp và lập pháp, nhất là khi mỗi ngành do một trong hai đảng nắm quyền kiểm soát. Hai là tài vận động và ảnh hưởng của những tổ chức người Mỹ gốc Do Thái khiến, làm cho không một chính trị gia Mỹ nào dám tỏ ý chống chính phủ Israel, nếu còn muốn đắc cử trong kỳ bỏ phiếu sắp tới.
Chủ Tịch Hạ Viện Mỹ John Boehner đã tặng cơ hội bằng vàng cho ông Netanyahu đứng trước hai viện Quốc Hội Mỹ công kích lập trường của tổng thống Mỹ vì chính ông Boehner cũng không đồng ý với ông Barack Obama! Cuộc thương thuyết giữa chính phủ Mỹ và chính phủ Iran gây kiến bất đồng, hai ông Boehner và Netanyahu đứng cùng một phía. Hai người đã táo bạo đánh chung nước cờ này, vì họ dàn xếp với nhau, cả Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao Mỹ đều không được thông báo. Ông Obama giận, không tới nghe Bibi nói, ông Kerry cũng tránh mặt. Phó Tổng Thống Biden, đáng lẽ phải ngồi chủ tọa phiên họp hai viện Quốc Hội cùng với ông Boehner, cũng cáo bận không tới. Hơn 40 nghị sĩ và dân biểu đảng Dân Chủ tẩy chay không đi họp. Chưa bao giờ chính trường Mỹ diễn ra chuyện kỳ lạ như vậy.
Binyamin Netanyahu chỉ trích chính quyền Obama đang thương thuyết với Iran về chương trình nguyên tử năng của nước này. Israel tố giác Iran đang chuẩn bị chế bom nguyên tử. Iran tuyên bố các lò nguyên tử của họ chỉ nhắm sản xuất điện, hoàn toàn có mục đích hòa bình. Mỹ và các nước Tây phương đã cấm vận Iran trong hàng chục năm qua vì họ không chịu cho cơ quan Liên Hiệp Quốc kiểm soát. Chính quyền Obama đang đòi Iran phải chịu bị kiểm soát, trong thời hạn mười năm. Cuộc thương thuyết đang tiến hành, giữa Iran với năm cường quốc nguyên tử là Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Quốc. Chính phủ Mỹ hứa đến ngày 24 Tháng Ba sẽ phải đạt một thỏa hiệp. Ông Netanyahu nói rằng một thỏa hiệp như vậy chỉ cho Iran cơ hội chế bom nguyên tử, dù trễ đến mười năm.
Ông Netanyahu đã tấn công cuộc thương thuyết của chính phủ Obama, vì ông muốn Mỹ phải bắt buộc xứ Iran phải cam kết ba điều: Thứ nhất, ngưng xâm nhập các nước vùng Trung Ðông (trong đó ngoài Israel chỉ toàn là các nước Á Rập). Thứ hai, ngưng ủng hộ các tổ chức khủng bố ở các nước khác (ông nhắm vào các nhóm người Á Rập tại Palestine và Lebanon chống Israel). Thứ ba, không ai được nói muốn tiêu diệt nước Israel nữa. Tóm lại, bắt Iran đầu hàng trên ba điều kiện, cả ba không liên can gì đến bom nguyên tử. Còn các nước khác trong số năm cường quốc nguyên tử, họ nghĩ ra sao, ông Netanyahu không quan tâm, miễn là Mỹ theo đường lối ngoại giao do ông đề nghị.
Dân Israel không hoàn toàn ủng hộ hành động của ông Netanyahu. Một ông thủ tướng Israel tới Quốc Hội Mỹ lên lớp ông tổng thống Mỹ, bị ông ấy tẩy chay không thèm gặp, ông Netanyahu đã bước qua một lằn ranh trong mối bang giao giữa hai nước khi muốn chính phủ Mỹ phải hành động ngoại giao đúng cách được chính phủ Iarael chấp thuận. Về phía dân Mỹ, nhiều người, trong đó có 40 nghị sĩ, dân biểu đảng Dân Chủ, bất mãn khi thấy ông thủ tướng một quốc gia mỗi năm vẫn được Mỹ viện trợ hơn bốn tỷ Mỹ kim lại dùng diễn đàn Quốc Hội Mỹ để gây ảnh hưởng trên đường lối ngoại giao của vị tổng thống đương tại chức. Mà mục tiêu cốt yếu của ông thủ tướng “bạn” chỉ là kiếm thêm một số phiếu trong kỳ bầu cử sắp tới!
Ông Netanyahu tạo ra tình trạng đối đầu “một mất một còn” với ông Obama, bên này thắng thì bên kia thua. Ông từng “bắt bí” ông Obama hơn một lần. Năm ngoái, chính phủ Mỹ đã cáo ông Netanyahu cố tình tiết lộ nhiều trao đổi bí mật giữa hai chính phủ về diễn tiến cuộc đàm phán với Iran. Ông cho mấy nhà báo Israel biết Mỹ đang đòi Iran những gì, và tính sẽ đòi tới mức nào. Mục đích là gây ảnh hưởng trên dư luận tại Mỹ, nhất là khối vận động hành lang của người Do Thái ở Mỹ, để họ làm áp lực trên chính quyền Obama phải cứng rắn hơn. Bây giờ là một vụ bắt bí mới. Hai thời điểm sẽ quyết định giữa Obama và Netanyahu ai thắng ai thua. Ngày 17 Tháng Ba, đảng của ông Netanyahu có thể thắng, ông sẽ tiếp tục làm thủ tướng. Ông có thể thuyết phục Quốc Hội Mỹ, do đảng Cộng Hòa kiểm soát đa số, soạn một dự luật bắt chính quyền Obama phải dùng đường lối cứng rắn của Israel trong khi thương thuyết với Iran. Dưới ảnh hưởng của người Do Thái tại Mỹ, các đại biểu Dân Chủ trong Quốc Hội khó phản đối không bỏ phiếu cho dự luật đó.
Thời điểm thứ nhì là ngày 24 Tháng Ba. Cuộc thương thuyết giữa năm cường quốc nguyên tử với Iran có đạt tới một thỏa hiệp nào hay không, chưa biết được. Nếu cuộc thương thuyết tan vỡ, Iran sẽ tiếp tục chính sách cũ về năng lượng nguyên tử. Các nước Tây phương sẽ tiếp tục và gia tăng cuộc cấm vận, còn Nga và Trung Cộng sẽ không cấm vận Iran. Nhưng trong bốn chục năm qua, kể từ thời Tổng Thống Reagan, Iran đã bị cấm vận, mà họ vẫn tiến hành việc tinh luyện năng lượng nguyên tử, ngày một mạnh hơn. Nước Nga của ông Putin đang cần đồng minh, sẽ thân thiết với Iran và hỗ trợ Iran nhiều hơn. Hiện nay Iran đang hợp tác với Mỹ và các nước Tây phương trong chiến dịch tiễu trừ lực lượng Hồi Giáo quá khích ISIS ở Iraq và Syria. Nếu thỏa hiệp không thành, việc hợp tác đó sẽ chấm dứt, và chính phủ Mỹ sẽ phải đối đầu với một vùng Trung Ðông rắc rối, phức tạp hơn.
Trong hoàn cảnh như vậy, một thỏa hiệp với Iran, dù chỉ ràng buộc nước này là điều tốt nhất hy vọng đạt được để ngăn không cho Iran chế tạo bom nguyên tử trong thời gian mười năm tới. Mười năm có thể đủ để giải quyết một số vấn đề trước mắt, như những cuộc nổi dậy do nhóm ISIS khích động. Sau đó, tình hình nước Iran có thể thay đổi, dân Iran và những nhà lãnh đạo mới sẽ thấy sống trong tình trạng không bị cấm vận sướng hơn, kinh tế phát triển cao hơn, và cuộc thương thuyết lần sau sẽ có thể đạt tới các kết quả tốt hơn.
Nếu ngày 24 Tháng Ba tới một thỏa hiệp với Iran thành hình, thì câu chuyện vẫn chưa chấm dứt. Các thanh tra quốc tế sẽ tới Iran làm việc, nhưng họ sẽ được tự do hành động tới mức nào để chính quyền Iran không coi là chủ quyền của họ bị xúc phạm? Không ai đoán được thiện chí của các lãnh tụ tôn giáo ở Iran cao hay thấp. Sẽ có những lời tố cáo Iran vi phạm thỏa hiệp. Các nước Tây phương có thể sẽ cấm vận trở lại, và tất cả trở lại như tình trạng hiện nay!
Ông Netanyahu nghĩ rằng giới lãnh đạo Iran sẽ không bao giờ thay đổi. Cho nên ông chỉ thấy một con đường duy nhất, là bắt Iran phải đầu hàng. Ðiều mọi người lo lắng là một chính quyền Israel, dù có ông Netanyahu hay không, có lúc quyết định “hành động một mình.” Họ có thể đem máy bay tấn công các lò luyện nguyên tử của Iran, như họ từng làm ở Iraq khi ông Hussein còn tại chức. Israel có thể đặt cả thế giới và nước Mỹ trước một “sự đã rồi,” miễn là họ được yên tâm với địa vị quốc gia duy nhất trong vùng Trung Ðông có bom nguyên tử. Phản ứng của Iran và khối Hồi Giáo ra sao, không phải chỉ có Israel phải đối phó mà nước Mỹ chắc chắn sẽ tốn tiền bạc và quân đội để đóng vai cảnh sát giữ trật tự trong vùng.
Nhưng Iran không phải là quốc gia duy nhất trong vùng có khả năng chế bom nguyên tử. Các nước Saudi Arabia, Egypt và Thổ Nhĩ Kỳ đều có thể nuôi tham vọng chế bom nguyên tử, để ít nhất được ngồi ngang hàng với Pakistan, Ấn Ðộ! Nếu Israel tấn công Iran thì có tìm cách ngăn cản các nước này hay không?
Cuộc đấu giữa hai ông Obama và Netanyahu sẽ còn tiếp tục, nếu ông Netanyahu đắc cử lại trong mười ngày nữa. Trong hai năm còn lại của nhiệm kỳ tổng thống, ông Obama đang muốn đạt được một thỏa ước ngoại giao quan trọng, để lại một di sản có ảnh hưởng lâu dài. Hầu hết các vị tổng thống Mỹ đều dành hai năm cuối của nhiệm kỳ bốn năm vào việc ngoại giao, vi không còn nhu cầu vận động tranh cử trong nội bộ nước Mỹ nữa. Nếu thất bại trong vụ Iran này, chắc ông Obama sẽ quay sang khu vực khác để cho bốn năm cuối cuộc đời tổng thống của ông không hoàn toàn vô tích sự. Nếu ông chọn Châu Âu làm lãnh vực hoạt động thì tương lai sẽ rất ngoạn mục. Chính phủ Mỹ đã bắt đầu đánh tiếng tố cáo Nga xâm lăng Ukraine, và chuẩn bị gửi vũ khí qua giúp quân Ukraine. Mỹ đã gửi xe tăng và quân đội qua tập trận với quân các nước vùng Baltic, mà “đối phương” chỉ có thể là quân Nga đang hầm hè ngoài biên giới. Nếu ông Obama dùng hai năm chót lo củng cố sức mạnh của khối NATO thì chắc lịch sử sau này sẽ quên vụ ông Netanyahu thọc gậy bánh xe năm 2015.
Việt Nam: độc tài chuyên chế hay độc tài toàn trị?
Nguyễn Hưng Quốc
06-03-2015 Ai cũng biết Việt Nam sống dưới một chế độ độc tài. Nhưng vấn đề là: bản chất của chế độ độc tài ấy là gì?
Lý do để đặt câu hỏi ấy là vì độc tài có nhiều loại và nhiều mức độ khác nhau. Chiến lược và chiến thuật để chống lại các loại và các mức độ độc tài ấy cũng khác nhau. Do đó, việc nhận diện bản chất độc tài của chế độ Cộng sản tại Việt Nam hiện nay trở thành vô cùng cần thiết.
Nói một cách tóm tắt, độc tài là việc nắm giữ toàn bộ quyền quyết định cũng như thực hành quyền lực vào tay một người hoặc một nhóm người. Người hoặc một nhóm người ấy có thể là một ông vua được kế nhiệm dựa trên quan hệ huyết thống (độc tài quân chủ), có thể là một viên tướng lên nắm quyền bằng bạo lực (độc tài quân phiệt), một lãnh tụ thoán đoạt quyền lực bằng các cuộc cách mạng (độc tài cá nhân). Cũng có thể đó là một nhóm người nhân danh thần quyền (oligarchy – như ở Iran lâu nay) hoặc một đảng chính trị nào đó (độc tài đảng trị).
Dựa trên mức độ, giới nghiên cứu chia độc tài thành hai cấp chính: độc tài chuyên chế (authoritarianism) và độc tài toàn trị (totalitarianism).
Dưới chế độ chuyên chế, người cầm quyền nắm toàn bộ quyền lực trong các lãnh vực lớn từ hành pháp đến lập pháp và tư pháp, từ chính trị đến quân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội; dưới chế độ toàn trị, ngoài các lãnh vực trên, nhà cầm quyền còn quản lý cả tâm hồn và trí tuệ của dân chúng. Trong quan hệ giữa cá nhân và nhà nước, dưới chế độ chuyên chế, cá nhân có một phạm vi tương đối độc lập; dưới chế độ toàn trị, ngay cả trong đời sống riêng, họ cũng không được tự do, hay nói theo Lê Đạt, thời Nhân Văn Giai Phẩm, chính quyền “đem bục công an đặt giữa trái tim người / bắt tình cảm ngược xuôi / theo luật lệ đi đường nhà nước”. Về biện pháp, chế độ chuyên chế sử dụng bạo lực và sau đó, tuyên truyền; chế độ toàn trị sử dụng cả hai, bạo lực và tuyên truyền cùng lúc và với mức độ ngang nhau. Chế độ chuyên chế gắn liền với bộ máy hành chính; chế độ toàn trị, ngoài bộ máy hành chính, còn gắn liền với một kiểu ý thức hệ nào đó. Chế độ chuyên chế đòi hỏi dân chúng phải vâng lời; chế độ toàn trị đòi hỏi dân chúng vừa vâng lời vừa tin tưởng. Chế độ chuyên chế mua chuộc sự trung thành bằng quyền lợi; chế độ toàn trị bằng những lời hứa hẹn đến một tương lai không tưởng nào đó. Dưới các chế độ chuyên chế, có thể có đối lập và phản biện; dưới các chế độ toàn trị thì tuyệt đối không. Để duy trì quyền lực, các chế độ chuyên chế sử dụng bộ máy đàn áp và ngăn cấm mọi hình thức tham gia của quần chúng; các chế độ toàn trị, một mặt, sử dụng các biện pháp đàn áp, mặt khác, cho phép dân chúng tham gia vào các sinh hoạt chính trị nhưng với điều kiện: việc tham gia ấy nằm trong khuôn khổ, sự định hướng và kiểm soát của nhà cầm quyền.
Trong lịch sử, toàn bộ các chế độ độc tài đều là chuyên chế; chỉ có ba chế độ độc tài được ghi nhận là toàn trị: chủ nghĩa phát xít tại Ý, chủ nghĩa Nazi tại Đức và chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu trước đây cũng như ở một số quốc gia khác, trong đó, có Trung Quốc và Việt Nam hiện nay.
Trên nguyên tắc, chế độ toàn trị cộng sản (communist totalitarianism) có mấy đặc điểm chính: Một, về ý thức hệ, chỉ thừa nhận một ý thức hệ duy nhất là chủ nghĩa Mác với một số kết hợp, chẳng hạn, ở Liên Xô là chủ nghĩa Stalin, ở Trung Quốc là chủ nghĩa Mao, và ở Việt Nam, gần đây, “tư tưởng” Hồ Chí Minh. Hai, về cơ cấu quyền lực, chỉ có một đảng duy nhất, đó là đảng cộng sản, được lãnh đạo bởi một nhóm nhỏ được gọi là Bộ chính trị, hoặc rộng hơn một chút, Ban chấp hành trung ương. Ba, có cả một bộ máy công an, an ninh và mật vụ khổng hồ để kiểm soát và trấn áp những người bất phục tùng. Bốn, nắm chặt các sinh hoạt kinh tế trong nước. Và năm, nắm toàn bộ các phương tiện truyền thông đại chúng, cộng với hệ thống kiểm duyệt chặt chẽ để không những ngăn chận mọi tiếng nói phản biện hoặc khác biệt mà còn nhồi sọ dân chúng để mọi người đều suy nghĩ giống nhau theo định hướng của nhà cầm quyền.
Đó là trên nguyên tắc, còn trên thực tế, sau khi các chế độ cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, chế độ cộng sản tại Trung Quốc và Việt Nam có còn là một chế độ toàn trị hay không? Nhiều học giả đáp: Còn. Với họ, chế độ độc tài ở Trung Quốc hiện nay vẫn là một chế độ toàn trị, ở đó, sự khắc nghiệt trong bộ máy cai trị tuy giảm một chút so với thời Mao Trạch Đông nhưng tự bản chất, đó vẫn là một chế độ toàn trị chứ không phải là chuyên chế. Còn ở Việt Nam thì sao?
Theo tôi, chế độ cộng sản tại Việt Nam hiện nay đang trong quá trình biến thái từ toàn trị sang chuyên chế. Họ vẫn chủ trương độc đảng, vẫn sử dụng bộ máy công an khổng lồ để đàn áp dân chúng, vẫn khăng khăng từ chối việc tư nhân hoá truyền thông, vẫn đề cao chủ nghĩa cộng sản và “tư tưởng” Hồ Chí Minh, vẫn cố gắng dập tắt mọi tiếng nói phản kháng và phản biện trong nước. Tuy nhiên, trong rất nhiều lãnh vực, guồng máy cai trị của họ, dường như đang rã ra. Về kinh tế, họ buộc phải chấp nhận kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản. Về truyền thông, họ vẫn không kiểm soát được hết các mạng lưới xã hội trên internet. Họ nắm trong tay tất cả các nhà xuất bản cũng như các tờ báo trong nước, nhưng họ vẫn không kiểm soát nổi các hiện tượng luồn lách để một số tác phẩm đi ngược lại quan điểm và chủ trương của họ vẫn được ra mắt.
Nhưng quan trọng nhất là về phương diện ý thức hệ. Yếu tố then chốt để phân biệt độc tài chuyên chế và độc tài toàn trị nằm ở ý thức hệ. Cả ba chế độ độc tài toàn trị trên thế giới vào thế kỷ 20 vừa qua (phát xít, Nazism và cộng sản) đều được đặt trên một nền tảng ý thức hệ riêng. Ở Việt Nam, trong các diễn văn chính thức, người ta vẫn lải nhải nhắc đến chủ nghĩa Mác và “tư tưởng” Hồ Chí Minh, nhưng trong suốt mấy chục năm vừa qua, kể từ phong trào đổi mới và đặc biệt, sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa bị tan rã ở Liên Xô và Đông Âu, người ta vẫn không thể cụ thể hoá cái gọi là “tư tưởng” Hồ Chí Minh cũng như không chứng minh được một cách thuyết phục cái gọi là chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản có chút giá trị khoa học cần được thực hiện hay ứng dụng.
Không có ý thức hệ, sự tồn tại của chế độ cộng sản Việt Nam chỉ còn nằm trên hai yếu tố: mua chuộc và đàn áp. Họ là những bạo chúa không có niềm tin. Họ chỉ có thể quản lý dân chúng trên phương diện kinh tế và xã hội và hoàn toàn bỏ ngỏ trên mặt trận tư tưởng.
Ông Nemtsov là mối đe dọa đối với Putin dù sống hay chết?

Ông Boris Nemtsov nói chuyện với các ủng hộ viên trong một cuộc biểu tình phản đối ở Moscow, 6/5/2013 Carl Schreck, RFE/RL
Việc nhà lãnh đạo đối lập Nga Boris Nemtsov bị bắn chết trên đường phố trong thủ đô Moscow có nghĩa là một nhân vật chỉ trích Tổng thống Vladimir gay gắt nhất đã bị loại ra khỏi sân khấu chính trị nước Nga. Tuy nhiên vẫn còn chờ xem liệu, dù sống hay chết, ông Nemtsov có vẫn là mối đe dọa đối với quyền cai trị của ông Putin hay không.
Hôm Chủ nhật, chính quyền thủ đô Nga đã chấp thuận cho mở cuộc tuần hành với số người tham gia lên đến 50.000 người trong trung tâm Moscow. Cuộc tuần hành, để thay cho cuộc biểu tình phản đối đã được hoạch định từ trước, dự kiến đông hơn nhiều, sẽ cung cấp một diễn đàn lớn cho các nhà phê bình Điện Kremlin, những người đang nghi ngờ có bàn tay chính phủ trong cái chết của ông Nemtsov.

Dân chúng tuần hành tưởng niệm ông Boris Nemtsov, 1/3/15
Ngay cả các giới chức chính phủ Putin dường như cũng cảm thấy mối nguy hiểm mà cái chết dũng khí của vị cựu phó thủ tướng thứ nhất có thể đặt ra, gợi lên một cách không minh bạch việc một chiếc xe chạy qua bắn chết ông vào tối Thứ sáu có thể là hành động cố ý “khiêu khích” trước vụ biểu tình được hoạch định vào cuối tuần.
Là một chính trị gia năng động, đầy phong cách và nói tiếng Anh hầu như hoàn mỹ, ông Nemtsov 55 tuổi, là người đề xướng các biện pháp cải cách kinh tế tự do mạnh mẽ và đã nổi bật trên sân khấu quốc gia trong thập niên 90, trong cương vị tỉnh trưởng Nizhny Novgorod rất được lòng dân.
Sự nghiệp chính trị đầy hứa hẹn
Một thời được truyền thông mệnh danh là “chàng trai vàng”, (một người thành công và được ngưỡng mộ), trên chính trường Nga, ông Nemtsov sau đó được tổng thống lúc bấy giờ là ông Boris Yeltsin đề cử làm phó thủ tướng thứ nhất, một việc mà nhiều người diễn giải như hành động của nhà lãnh đạo Nga chuẩn bị người kế nhiệm ông trong Điện Kremlin.
Nhưng ông Yeltsin đã bàn giao quyền cho ông Putin, khi ông Putin đắc cử tổng thống năm 2010. Ông Nemtsov trở thành một người lớn tiếng phê phán tân lãnh đạo Nga, trong lúc Điện Kremlin bóp nghẹt tiếng nói của các tổ chức truyền thông quan trọng và phát động một chiến dịch nhắm vào những nhà tài phiệt nhiều ảnh hưởng chính trị trong thời ông Yeltsin không chịu tuân theo đường lối của chính phủ.
Ông Nemtsov trở thành đại biểu của Viện Duma, hạ viện Nga, trong nhiệm kỳ đầu của ông Putin. Ông mất ghế trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2003, cuộc bầu cử mà Đảng Nước Nga Thống nhất một đảng ủng hộ Điện Kremlin thắng lớn.
Trong những năm tiếp theo sau, ông lãnh đạo một loạt các phong trào và các đảng đối lập chủ trương cấp tiến, cùng lúc viết các bài báo tố giác chính phủ của ông Putin tham nhũng lớn.

Ông Nemtsov bị bắn bốn phát từ một chiếc xe màu trắng chạy ngang qua khi ông đang đi bộ trên một cây cầu bắc qua sông Moscow
ngay bên cạnh Điện Kremlin.
Năm 2013, ông Nemtsov phổ biến một bản báo cáo nói rằng các viên chức và doanh nhân đã đánh cắp đến 30 tỷ đôla trong ngân quỹ dành để tài trợ Olympics Mùa đông 2014 tổ chức ở quê nhà của ông thành phố Sochi, khu nghỉ mát nằm ven Hắc hải. Ông Nemtsov nói với đài RFE/RL vào lúc đó:
“Rõ ràng các bạn bè thân hữu của Putin đang điều hành công tác chuẩn bị cho Thế vận hội Olympic. Cũng hiển nhiên là người ta sẽ không sẵn sàng đưa bạn bè mình vào tù. Tuy nhiên chúng ta không thể nhìn tất cả những việc này một cách thụ động, vì quy mô (của các hoạt động) của họ sẽ ngày càng lớn. Mức độ biển thủ mà họ thực hiện không chỉ là một trò chơi của trẻ con mà là một mối đe dọa thực sự cho an ninh quốc gia của Nga.”
Tiếng tăm lên nhanh
Ông Boris Yefimovich Nemtsov sinh ngày 9 tháng 10 năm 1959 ở Sochi. Ông học khoa vật lý, và tốt nghiệp tiến sĩ năm 1985 tại một đại học ở thành phố Gorky trên bờ sông Volga, hiện nay được gọi là thành phố Nizhny Novgorod, cách thủ đô Moscow 250 dặm về hướng đông.
Ở Gorky, hoạt động chính trị đầu tiên của ông Nemtsov là vận động chống việc xây dụng một nhà máy điện hạt nhân trong vùng. Năm 2013 trong cuộc phỏng vấn với đài phát thanh Ekho Moskvy của Nga, ông cho biết mẹ ông, một bác sĩ nhi khoa, là nguồn động viên cho ông trong hoạt động về an toàn điện hạt nhân. Ông cho biết:
“Mẹ tôi bắt đầu thu thập chữ ký, và tôi lo sợ họ sẽ bỏ tù, bắt mẹ tôi. Vì vậy tất nhiên tôi đứng cạnh bà để bảo đảm không ai đụng đến bà.”
Năm 1990, vào lúc 30 tuổi, ông Nemtsov thắng được một ghế trong đoàn Xô viết Tối cao Cộng hòa Nga, và sau đó tiến vào Xô viết Tối cao Liên Xô
Khi một nhóm chủ trương cứng rắn trong Đảng Cộng sản và cơ quan tình báo Xô viết KGB thực hiện mưu toan đảo chính nhà lãnh đạo Xô viết Mikhail Gorbachev tháng 8 năm 1991, ông Nemtsov ngồi với ông Yeltsin tại tòa nhà quốc hội và đứng cạnh chiếc xe tăng, nơi ông Yeltsin đọc bài diễn văn nổi tiếng trước những người xuống đường phản đối. Ông nói trong cuộc phỏng vấn với đài RFE/RL hồi năm 2011:
“Tôi hiểu vào thời gian đó có những ngày rất quan trọng đối với nước tôi. Và thực sự nó là ngày cáo chung của chế độ cộng sản. Chúng tôi hiểu rất rõ. Những chúng tôi không đã không thực tế.”
Thúc đẩy cải cách kinh tế

Hàng chục ngàn người xuống đường tuần hành tưởng nhớ ông Nemtsov tại Moscow, ngày 1/3/2015.
Nhiều tháng sau cuộc đảo chính thất bại, ông Nemtsov được ông Yeltsin đề cử vào chức tỉnh trưởng Nizhny Novgorod và sau đó tái đắc cử. Trong thời gian làm tỉnh trưởng, ông Nemtsov hợp tác với các chính trị gia khác để đưa ra những biện pháp cải cách thị trường và tư hữu hóa nhằm phục hồi nền kinh tế của khu vực công nghiệp.
Năm 1994, ông Yeltsin đã từng gợi ý rằng một ngày nào đó ông Nemtsov có thể sẽ điều hành đất nước. Ông Yeltsin nói về ông Nemtsov trong một chuyến đi đến Nizhny Novgorod vào năm đó, “Ông ấy quá chín chắn đến nổi quý vị đã có thể đưa ông lên làm tổng thống.”
Tiếng tăm của ông Nemtsov tiếp tục lên cao và vào năm 1997 ông Yeltsin để cử ông vào chức vụ phó thủ tướng thứ nhất. Năm đó ông 37 tuổi.
Lúc ấy ông nói đùa rằng việc bổ nhiệm ông “như đặt ông trước một đội hành quyết,” mặc dù ông đã chứng tỏ xu hướng không lui bước trước một cuộc tranh đấu.
Trong một cuộc tranh luận được truyền hình cách đây 2 năm, ông Vladimir Zhirinovsky một nhân vật chủ trương dân túy hất ly nước cam vào mặt ông Nemtsov và ông hất trả ly nước trái cây vào ông ta.
Tuy nhiên, thời gian của ông Nemtsov trong chính phủ liên bang ngắn ngủi, vào lúc Nga tiến đến tình trạng vỡ nợ tháng 8 năm 1998. Ông bị giáng chức phó thủ tướng vào tháng 4 năm đó, và đệ đơn từ chức mấy ngày sau vụ vỡ nợ, và ông Yeltsin đã chấp thuận đơn từ chức.
Thực tế nghiêm trọng hơn nhiều
Ông Nemtsov tiếp tục đồng sáng lập chính đảng Liên minh Cánh hữu (SPS) năm 1999, cùng với các cựu thành viên trong đội ngủ của ông Yeltsin. Đảng này gắn chặt với biện pháp tư hữu hóa và cải cách trong thập niên 90 mà nhiều người Nga chỉ trích gay gắt sau khi trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế trong thập niên.
Năm đó, ông ra ứng cử với tư cách thành viên đảng SPS và được bầu làm đại biểu Viện Duma, giữ vai trò phó chủ tịch hạ viện. Tuy nhiên 4 năm sau, đảng này thất bại không thắng được ghế nào trong cuộc bầu cử viện Duma, dưới sự chi phối của Đảng Thống nhất Nước Nga, dẫn đến việc ông Nemtsov bắt tay vào hoạt động chính trị đối lập không theo hệ thống.
Ông Nemtsov là một trong những người chỉ trích ông Putin gay gắt nhất ở Nga.
Ông Nemtsov trở thành một nhà lãnh đạo các cuộc biểu tình phản đối của đối lập chống ông Putin và chính phủ của ông và bị cảnh sát chống bạo động bắt hết lần này đến lần khác trong các cuộc biểu tình trong thập niên qua.
Các nhóm và truyền thông ủng hộ Điện Kremlin phỉ báng ông cho rằng như một con rối của các chính phủ phương Tây, tìm cách đưa nước Nga trở lại tình trạng hỗn loạn xã hội và kinh tế như những năm trong thập niên 90.
Năm 2009, ông Nemtsov ra ứng cử thị trưởng thành phố Sochi, nhưng thất bại nặng trước ứng cử viên của Điện Kremlin trong cuộc bầu cử mà các nhà hoạt động đối lập nói rằng bị hoen ố bởi gian lận và thao túng đầy dẫy.
Có một lúc trong cuộc vận động, một kẻ tấn công đã ném ammonia vào mặt ông Nemtsov. Sau đó, ông nói ông tin là vụ tấn công do những nhà hoạt động ủng hộ Điện Kremlin thực hiện vì những chỉ trích của ông về Olympic Mùa Đông ở Sochi.
Đánh giá ông Putin thay đổi
Sau khi ông Yeltsin bổ nhiệm cựu viên chức KGB vào chức vụ thủ tướng năm 1999, ông Nemtsov thoạt đầu đề nghị tuyên dương ông Putin, gọi ông ra một nhân vật rất được chấp nhận đối với những người cấp tiến Nga và là một người thông minh, nhiều kinh nghiệm, có khả năng
Nhưng năm 2013 ông Nemtsov nói với đài Ekho Moskvy rằng ông chưa bao giờ ủng hộ Putin, và nói rằng mẹ ông nói với ông “đừng bao giờ tin” một người KGB.

Ông Nemtsov từng nói rằng ông chưa bao giờ ủng hộ Putin, và nói rằng mẹ ông nói với ông 'đừng bao giờ tin một người KGB'.
Ông nói trong 4 năm đầu nhiệm kỳ của ông Putin – trong đó có vụ bắt trùm dầu mỏ Mikhail Khodorkovsky và đáp ứng của chính quyền trong vụ tấn công khủng bố vào trường học số 1 của Beslan năm 2004 – khiến ông trở thành người vĩnh viễn chống tổng thống Nga.
Nói chuyện với đài phát thanh RFE/RL năm 2011, ông Nemtsov nói, ông Yeltsin và đội ngũ của cựu tổng thống “ngây thơ” tin rằng sự cáo chung của chế độ cộng sản có nghĩa là sẽ “có đời sống tốt đẹp trong vài tháng.” Ông nói:
“Chúng tôi tin rằng chúng tôi chỉ loại trừ chủ nghĩa cộng sản và chúng ta sẽ được may mắn. Nhưng không may là thực tế nghiêm trọng hơn nhiều và phức tạp hơn nhiều so với những gì chúng tôi tin vào lúc đó.”
Nguồn: Reuters, AFP, BBC, Ekho Moskvy, The Moscow Times, The Wall Street Journal and Polit.ru

Ông Boris Nemtsov nói chuyện với các ủng hộ viên trong một cuộc biểu tình phản đối ở Moscow, 6/5/2013 Carl Schreck, RFE/RL
Việc nhà lãnh đạo đối lập Nga Boris Nemtsov bị bắn chết trên đường phố trong thủ đô Moscow có nghĩa là một nhân vật chỉ trích Tổng thống Vladimir gay gắt nhất đã bị loại ra khỏi sân khấu chính trị nước Nga. Tuy nhiên vẫn còn chờ xem liệu, dù sống hay chết, ông Nemtsov có vẫn là mối đe dọa đối với quyền cai trị của ông Putin hay không.
Hôm Chủ nhật, chính quyền thủ đô Nga đã chấp thuận cho mở cuộc tuần hành với số người tham gia lên đến 50.000 người trong trung tâm Moscow. Cuộc tuần hành, để thay cho cuộc biểu tình phản đối đã được hoạch định từ trước, dự kiến đông hơn nhiều, sẽ cung cấp một diễn đàn lớn cho các nhà phê bình Điện Kremlin, những người đang nghi ngờ có bàn tay chính phủ trong cái chết của ông Nemtsov.

Dân chúng tuần hành tưởng niệm ông Boris Nemtsov, 1/3/15
Ngay cả các giới chức chính phủ Putin dường như cũng cảm thấy mối nguy hiểm mà cái chết dũng khí của vị cựu phó thủ tướng thứ nhất có thể đặt ra, gợi lên một cách không minh bạch việc một chiếc xe chạy qua bắn chết ông vào tối Thứ sáu có thể là hành động cố ý “khiêu khích” trước vụ biểu tình được hoạch định vào cuối tuần.
Là một chính trị gia năng động, đầy phong cách và nói tiếng Anh hầu như hoàn mỹ, ông Nemtsov 55 tuổi, là người đề xướng các biện pháp cải cách kinh tế tự do mạnh mẽ và đã nổi bật trên sân khấu quốc gia trong thập niên 90, trong cương vị tỉnh trưởng Nizhny Novgorod rất được lòng dân.
Sự nghiệp chính trị đầy hứa hẹn
Một thời được truyền thông mệnh danh là “chàng trai vàng”, (một người thành công và được ngưỡng mộ), trên chính trường Nga, ông Nemtsov sau đó được tổng thống lúc bấy giờ là ông Boris Yeltsin đề cử làm phó thủ tướng thứ nhất, một việc mà nhiều người diễn giải như hành động của nhà lãnh đạo Nga chuẩn bị người kế nhiệm ông trong Điện Kremlin.
Nhưng ông Yeltsin đã bàn giao quyền cho ông Putin, khi ông Putin đắc cử tổng thống năm 2010. Ông Nemtsov trở thành một người lớn tiếng phê phán tân lãnh đạo Nga, trong lúc Điện Kremlin bóp nghẹt tiếng nói của các tổ chức truyền thông quan trọng và phát động một chiến dịch nhắm vào những nhà tài phiệt nhiều ảnh hưởng chính trị trong thời ông Yeltsin không chịu tuân theo đường lối của chính phủ.
Ông Nemtsov trở thành đại biểu của Viện Duma, hạ viện Nga, trong nhiệm kỳ đầu của ông Putin. Ông mất ghế trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2003, cuộc bầu cử mà Đảng Nước Nga Thống nhất một đảng ủng hộ Điện Kremlin thắng lớn.
Trong những năm tiếp theo sau, ông lãnh đạo một loạt các phong trào và các đảng đối lập chủ trương cấp tiến, cùng lúc viết các bài báo tố giác chính phủ của ông Putin tham nhũng lớn.

Ông Nemtsov bị bắn bốn phát từ một chiếc xe màu trắng chạy ngang qua khi ông đang đi bộ trên một cây cầu bắc qua sông Moscow
ngay bên cạnh Điện Kremlin.
Năm 2013, ông Nemtsov phổ biến một bản báo cáo nói rằng các viên chức và doanh nhân đã đánh cắp đến 30 tỷ đôla trong ngân quỹ dành để tài trợ Olympics Mùa đông 2014 tổ chức ở quê nhà của ông thành phố Sochi, khu nghỉ mát nằm ven Hắc hải. Ông Nemtsov nói với đài RFE/RL vào lúc đó:
“Rõ ràng các bạn bè thân hữu của Putin đang điều hành công tác chuẩn bị cho Thế vận hội Olympic. Cũng hiển nhiên là người ta sẽ không sẵn sàng đưa bạn bè mình vào tù. Tuy nhiên chúng ta không thể nhìn tất cả những việc này một cách thụ động, vì quy mô (của các hoạt động) của họ sẽ ngày càng lớn. Mức độ biển thủ mà họ thực hiện không chỉ là một trò chơi của trẻ con mà là một mối đe dọa thực sự cho an ninh quốc gia của Nga.”
Tiếng tăm lên nhanh
Ông Boris Yefimovich Nemtsov sinh ngày 9 tháng 10 năm 1959 ở Sochi. Ông học khoa vật lý, và tốt nghiệp tiến sĩ năm 1985 tại một đại học ở thành phố Gorky trên bờ sông Volga, hiện nay được gọi là thành phố Nizhny Novgorod, cách thủ đô Moscow 250 dặm về hướng đông.
Ở Gorky, hoạt động chính trị đầu tiên của ông Nemtsov là vận động chống việc xây dụng một nhà máy điện hạt nhân trong vùng. Năm 2013 trong cuộc phỏng vấn với đài phát thanh Ekho Moskvy của Nga, ông cho biết mẹ ông, một bác sĩ nhi khoa, là nguồn động viên cho ông trong hoạt động về an toàn điện hạt nhân. Ông cho biết:
“Mẹ tôi bắt đầu thu thập chữ ký, và tôi lo sợ họ sẽ bỏ tù, bắt mẹ tôi. Vì vậy tất nhiên tôi đứng cạnh bà để bảo đảm không ai đụng đến bà.”
Năm 1990, vào lúc 30 tuổi, ông Nemtsov thắng được một ghế trong đoàn Xô viết Tối cao Cộng hòa Nga, và sau đó tiến vào Xô viết Tối cao Liên Xô
Khi một nhóm chủ trương cứng rắn trong Đảng Cộng sản và cơ quan tình báo Xô viết KGB thực hiện mưu toan đảo chính nhà lãnh đạo Xô viết Mikhail Gorbachev tháng 8 năm 1991, ông Nemtsov ngồi với ông Yeltsin tại tòa nhà quốc hội và đứng cạnh chiếc xe tăng, nơi ông Yeltsin đọc bài diễn văn nổi tiếng trước những người xuống đường phản đối. Ông nói trong cuộc phỏng vấn với đài RFE/RL hồi năm 2011:
“Tôi hiểu vào thời gian đó có những ngày rất quan trọng đối với nước tôi. Và thực sự nó là ngày cáo chung của chế độ cộng sản. Chúng tôi hiểu rất rõ. Những chúng tôi không đã không thực tế.”
Thúc đẩy cải cách kinh tế

Hàng chục ngàn người xuống đường tuần hành tưởng nhớ ông Nemtsov tại Moscow, ngày 1/3/2015.
Nhiều tháng sau cuộc đảo chính thất bại, ông Nemtsov được ông Yeltsin đề cử vào chức tỉnh trưởng Nizhny Novgorod và sau đó tái đắc cử. Trong thời gian làm tỉnh trưởng, ông Nemtsov hợp tác với các chính trị gia khác để đưa ra những biện pháp cải cách thị trường và tư hữu hóa nhằm phục hồi nền kinh tế của khu vực công nghiệp.
Năm 1994, ông Yeltsin đã từng gợi ý rằng một ngày nào đó ông Nemtsov có thể sẽ điều hành đất nước. Ông Yeltsin nói về ông Nemtsov trong một chuyến đi đến Nizhny Novgorod vào năm đó, “Ông ấy quá chín chắn đến nổi quý vị đã có thể đưa ông lên làm tổng thống.”
Tiếng tăm của ông Nemtsov tiếp tục lên cao và vào năm 1997 ông Yeltsin để cử ông vào chức vụ phó thủ tướng thứ nhất. Năm đó ông 37 tuổi.
Lúc ấy ông nói đùa rằng việc bổ nhiệm ông “như đặt ông trước một đội hành quyết,” mặc dù ông đã chứng tỏ xu hướng không lui bước trước một cuộc tranh đấu.
Trong một cuộc tranh luận được truyền hình cách đây 2 năm, ông Vladimir Zhirinovsky một nhân vật chủ trương dân túy hất ly nước cam vào mặt ông Nemtsov và ông hất trả ly nước trái cây vào ông ta.
Tuy nhiên, thời gian của ông Nemtsov trong chính phủ liên bang ngắn ngủi, vào lúc Nga tiến đến tình trạng vỡ nợ tháng 8 năm 1998. Ông bị giáng chức phó thủ tướng vào tháng 4 năm đó, và đệ đơn từ chức mấy ngày sau vụ vỡ nợ, và ông Yeltsin đã chấp thuận đơn từ chức.
Thực tế nghiêm trọng hơn nhiều
Ông Nemtsov tiếp tục đồng sáng lập chính đảng Liên minh Cánh hữu (SPS) năm 1999, cùng với các cựu thành viên trong đội ngủ của ông Yeltsin. Đảng này gắn chặt với biện pháp tư hữu hóa và cải cách trong thập niên 90 mà nhiều người Nga chỉ trích gay gắt sau khi trải qua các cuộc khủng hoảng kinh tế trong thập niên.
Năm đó, ông ra ứng cử với tư cách thành viên đảng SPS và được bầu làm đại biểu Viện Duma, giữ vai trò phó chủ tịch hạ viện. Tuy nhiên 4 năm sau, đảng này thất bại không thắng được ghế nào trong cuộc bầu cử viện Duma, dưới sự chi phối của Đảng Thống nhất Nước Nga, dẫn đến việc ông Nemtsov bắt tay vào hoạt động chính trị đối lập không theo hệ thống.

Ông Nemtsov là một trong những người chỉ trích ông Putin gay gắt nhất ở Nga.
Ông Nemtsov trở thành một nhà lãnh đạo các cuộc biểu tình phản đối của đối lập chống ông Putin và chính phủ của ông và bị cảnh sát chống bạo động bắt hết lần này đến lần khác trong các cuộc biểu tình trong thập niên qua.
Các nhóm và truyền thông ủng hộ Điện Kremlin phỉ báng ông cho rằng như một con rối của các chính phủ phương Tây, tìm cách đưa nước Nga trở lại tình trạng hỗn loạn xã hội và kinh tế như những năm trong thập niên 90.
Năm 2009, ông Nemtsov ra ứng cử thị trưởng thành phố Sochi, nhưng thất bại nặng trước ứng cử viên của Điện Kremlin trong cuộc bầu cử mà các nhà hoạt động đối lập nói rằng bị hoen ố bởi gian lận và thao túng đầy dẫy.
Có một lúc trong cuộc vận động, một kẻ tấn công đã ném ammonia vào mặt ông Nemtsov. Sau đó, ông nói ông tin là vụ tấn công do những nhà hoạt động ủng hộ Điện Kremlin thực hiện vì những chỉ trích của ông về Olympic Mùa Đông ở Sochi.
Đánh giá ông Putin thay đổi
Sau khi ông Yeltsin bổ nhiệm cựu viên chức KGB vào chức vụ thủ tướng năm 1999, ông Nemtsov thoạt đầu đề nghị tuyên dương ông Putin, gọi ông ra một nhân vật rất được chấp nhận đối với những người cấp tiến Nga và là một người thông minh, nhiều kinh nghiệm, có khả năng
Nhưng năm 2013 ông Nemtsov nói với đài Ekho Moskvy rằng ông chưa bao giờ ủng hộ Putin, và nói rằng mẹ ông nói với ông “đừng bao giờ tin” một người KGB.

Ông Nemtsov từng nói rằng ông chưa bao giờ ủng hộ Putin, và nói rằng mẹ ông nói với ông 'đừng bao giờ tin một người KGB'.
Ông nói trong 4 năm đầu nhiệm kỳ của ông Putin – trong đó có vụ bắt trùm dầu mỏ Mikhail Khodorkovsky và đáp ứng của chính quyền trong vụ tấn công khủng bố vào trường học số 1 của Beslan năm 2004 – khiến ông trở thành người vĩnh viễn chống tổng thống Nga.
Nói chuyện với đài phát thanh RFE/RL năm 2011, ông Nemtsov nói, ông Yeltsin và đội ngũ của cựu tổng thống “ngây thơ” tin rằng sự cáo chung của chế độ cộng sản có nghĩa là sẽ “có đời sống tốt đẹp trong vài tháng.” Ông nói:
“Chúng tôi tin rằng chúng tôi chỉ loại trừ chủ nghĩa cộng sản và chúng ta sẽ được may mắn. Nhưng không may là thực tế nghiêm trọng hơn nhiều và phức tạp hơn nhiều so với những gì chúng tôi tin vào lúc đó.”
Nguồn: Reuters, AFP, BBC, Ekho Moskvy, The Moscow Times, The Wall Street Journal and Polit.ru
'Hổ Vương' Trung Hoa sắp sa lưới?
Bùi Tín

Nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân. Ngày 28/2/2015 báo Nhân dân Giải phóng quân của quân đội Trung Quốc đưa tin 14 viên tướng của Trung Quốc đã bị bắt giữ, tước quân hàm, chờ ngày xét xử vì đã bị tố cáo, điều tra về tội phạm pháp, phạm kỷ luật nghiêm trọng, tham nhũng và sống sa đọa.
Trong các viên tướng trên có Thiếu tướng Quách Thanh Lương, con trai của Thượng tướng Quách Bá Hùng, từng là Phó Bí thư Quân ủy Trung Ương, là cận thần của nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân. Trước đó vào tháng 1/2015, Tướng Quách Bá Hùng đã bị quản thúc, giam lỏng để chờ ngày xét xử. Hãng Reuters (25/2) nhận xét Tướng Từ Tài Hậu và Tướng Quách Bá Hùng là 2 viên tướng cao cấp nhất, đều là Phó Bí thư quân ủy khi ông Giang Trạch Dân là Tổng Bí thư kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, cũng là 2 người được xem là thân tín nhất của ông Giang.
Ngày 3/3/2015, báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết ông Tăng Khánh Hồng, nguyên Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, vốn là cánh tay phải của ông Giang Trạch Dân, đã bị Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc giam lỏng vì bị tố cáo về nhiều tội: ăn hối lộ, tham nhũng, hối mại quyền thế. Mạng Đại Kỷ Nguyên cho biết Tăng Khánh Hồng từng thực hiện đắc lực chủ trương đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân, đặc biệt là trong tội ác mổ tử thi các tù nhân Pháp Luân Công để bán các bộ phận cơ thể của họ.
Ngày 4/3/ 2915 cũng báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết sau khi con trai cả của ông Giang Trạch Dân là Giang Miên Hằng bị mất chức Phó Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc kiêm Chủ tịch Phân viện Thượng Hải, nay cháu ruột ông là Nghê Phát Hoa, Phó Chủ tịch tỉnh An Huy, đã bị truy tố về tội tham nhũng nghiêm trọng. Vợ ông Nghê Phát Hoa họ Bành là con gái của Giang Trạch Tuệ, em gái ruột của ông Giang Trạch Dân. Báo China News ngày 2/3/2015 còn cho biết Tòa án nhân dân thành phố Đông Dinh tỉnh Sơn Đông đã công bố tội trạng của Nghê Phát Hoa nhận hối lộ đến 13 triệu Nhân dân tệ (bằng 2 triệu US$), tài sản ông này đã bị tịch thu sung vào công quỹ.
Các báo tự do ở Hồng Kông nói trên nhận định rằng cuộc săn con hổ lớn nhất - Hổ Vương - tức nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân đã gần kề, chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong 2 năm qua, hàng vạn cán bộ đảng viên đã bị sa lưới, khai trừ khỏi đảng CS trong chiến dịch “săn hổ diệt ruồi, bắt sói trốn chạy, thu hồi tài sản bất minh”, trong đó có hơn 20 tướng lãnh từ thiếu tướng đến thượng tướng, hơn 50 cán bộ lãnh đạo cấp cao từ thứ trưỏng, bí thư tỉnh ủy trở lên đến ủy viên thường vụ Bộ Chính trị và phó bí thư Quân ủy Trung ương.
Ông Giang Trạch Dân được coi là lãnh tụ tối cao xếp hàng thứ 3 của đảng CS Trung Quốc, chỉ sau Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Vụ trọng án chính trị tham nhũng “Giang Trạch Dân và đồng bọn”, nếu được mở ra và xét xử, sẽ là vụ án cực kỳ chấn động.
Vụ bao vây, săn Hổ Vương của ông Tập Cận Bình trong chiến dịch chống tham nhũng, từ lớn nhất đến nhỏ nhất, từ hổ đến ruồi, còn bao gồm cả việc săn lùng bọn tham nhũng chạy ra nước ngoài và thu hồi mọi tài sản bất minh cho công quỹ, cho đến nay là thuận buồm xuôi gió, do được xã hội TQ hoan nghênh, tuy về thực chất là sự kình địch của các phe nhóm trong đảng CS. Riêng việc chống tham nhũng dù mạnh mẽ đến đâu cũng không thể cứu đảng CS khỏi thảm cảnh khủng hoảng, do đây là khủng hoảng toàn diện của cả một hệ thống chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, đạo đức, mà nguyên nhân cơ bản là bản chất độc đoán, phản dân chủ, phi nhân quyền, phản các dân tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, đi ngược lại những giá trị dân chủ - nhân văn của thời đại văn minh.
Một số bạn Trung Quốc đối lập dân chủ tôi vừa gặp ở Pháp cho biết ông Tập Cận Bình có tham vọng vượt lên thành lãnh đạo vĩ đại, còn cao hơn cả Mao và Đặng khi hoàn thành “giấc mộng Trung Hoa”, thực hiện thống nhất Đài Loan vào một nước Trung Quốc phồn vinh, nhưng đó chỉ là không tưởng vì Trung Quốc hiện có quá nhiều căn bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc chữa. Thêm nữa ông Tập Cận Bình đang có động cơ cá nhân, rất cay cú khi khám phá ra âm mưu đảo chính cung đình do chính Giang Trạch Dân cùng Chu Vĩnh Khang và đồng lõa dự định thực hiện hồi 2011 - 2012 nhằm đưa nhóm Bạc Hy Lai, Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm… lên thay Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, gạt Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường ra. Nay Tập thực hiện một đòn thù, “giáng trả bọn phản nghịch”.
Trông người lại nghĩ đến ta. Lãnh đạo đảng CS Việt Nam từng hứa sẽ học những kinh nghiệm tốt, tích cực của đảng CS Trung Quốc, Riêng về chống tham nhũng thì đảng CS Việt Nam dơ cao đánh khẽ, đánh như phủi bụi, vì sợ “vỡ bình”, sợ nát đảng, nhút nhát không kém gì chống bành trướng. Ủy ban chống tham nhũng bị tê liệt khi ông Nguyễn Bá Thanh không vào được Bộ Chính trị, rồi bị bệnh chết sớm, chết theo là 6 vụ án lớn bị chôn vùi luôn.Tướng Phạm Quý Ngọ cũng bị buộc phải chết để ỉm việc Đại tướng Trần Đại Quang ăn tiền của Dương Chí Dũng lên đến nửa triệu đôla.
Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc là cơ quan chủ yếu chống tham nhũng, do tổng bí thư trực tiếp nắm, có bộ máy điều hành đầy quyền lực, đi đến đâu có uy lực đến đó, điều tra có bài bản, truy lùng thư từ, hoá đơn, đối thoại trên máy cầm tay, hỏi cung kỹ từ thư ký, lái xe, hàng xóm, người tình, bè bạn, gia đình của can phạm, tiến hành bởi một bộ máy chuyên nghiệp trung thành được huấn luyện kỹ. Còn trong đảng CS Việt Nam thì ban tương đương là Ủy ban Kiểm tra Trung ương có trách nhiệm như vậy, nhưng lại là ban vô tích sự nhất, không có uy quyền gì, hoàn toàn vô trách nhiệm, đến người cầm đầu lẽ ra phải năng động có quyền uy thì lại là ông Hà Văn Dụ, ủy viên Bộ Chính trị, ươn hèn đến thảm hại, hầu như không ai biết đến, không hề có một lời phát biểu nào về trách nhiệm của mình trong việc duy trì kỷ luật đảng, có 5 tay phó ban cũng hầu như bất động nốt.
Hãy chờ xem trong Dự thảo Báo cáo chính trị, họ sẽ ăn nói ra sao về chống tham nhũng trong 5, 10 năm qua, khi mà có người lãnh đạo cho rằng đầu tư 10 tỷ mà thất thoát 1 tỷ là chuyện bình thường, không có gì phải lo! Chính do đó mà Luật phòng chống tham nhũng không đe nẹt được ai, tuy có điều khoản ai tham nhũng lên đến 1 tỷ đồng (bằng 50.000 đôla) là có thể bị tử hình,. Nếu luật được tôn trọng nghiêm ngặt, nếu như quả thật ông Trần Đại Quang ăn đến nửa triệu đôla từ Dương Chí Dũng thì ông Quang phải có đến 10 cái đầu mới đền hết tội.
Ta hãy chờ xem pha vây hãm Hổ Vương ở Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào, sau khi người hùng họ Tập đã lần lượt bóc các vỏ cứng bên ngoài, phá tan các hàng rào giây kẽm gai bao bọc hang hùm, ở giữa thủ đô Bắc Kinh.
Bùi Tín

Nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân. Ngày 28/2/2015 báo Nhân dân Giải phóng quân của quân đội Trung Quốc đưa tin 14 viên tướng của Trung Quốc đã bị bắt giữ, tước quân hàm, chờ ngày xét xử vì đã bị tố cáo, điều tra về tội phạm pháp, phạm kỷ luật nghiêm trọng, tham nhũng và sống sa đọa.
Trong các viên tướng trên có Thiếu tướng Quách Thanh Lương, con trai của Thượng tướng Quách Bá Hùng, từng là Phó Bí thư Quân ủy Trung Ương, là cận thần của nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân. Trước đó vào tháng 1/2015, Tướng Quách Bá Hùng đã bị quản thúc, giam lỏng để chờ ngày xét xử. Hãng Reuters (25/2) nhận xét Tướng Từ Tài Hậu và Tướng Quách Bá Hùng là 2 viên tướng cao cấp nhất, đều là Phó Bí thư quân ủy khi ông Giang Trạch Dân là Tổng Bí thư kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, cũng là 2 người được xem là thân tín nhất của ông Giang.
Ngày 3/3/2015, báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết ông Tăng Khánh Hồng, nguyên Ủy viên thường vụ Bộ Chính trị, vốn là cánh tay phải của ông Giang Trạch Dân, đã bị Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc giam lỏng vì bị tố cáo về nhiều tội: ăn hối lộ, tham nhũng, hối mại quyền thế. Mạng Đại Kỷ Nguyên cho biết Tăng Khánh Hồng từng thực hiện đắc lực chủ trương đàn áp Pháp Luân Công của Giang Trạch Dân, đặc biệt là trong tội ác mổ tử thi các tù nhân Pháp Luân Công để bán các bộ phận cơ thể của họ.
Ngày 4/3/ 2915 cũng báo Tranh Minh (Hồng Kông) cho biết sau khi con trai cả của ông Giang Trạch Dân là Giang Miên Hằng bị mất chức Phó Chủ tịch Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc kiêm Chủ tịch Phân viện Thượng Hải, nay cháu ruột ông là Nghê Phát Hoa, Phó Chủ tịch tỉnh An Huy, đã bị truy tố về tội tham nhũng nghiêm trọng. Vợ ông Nghê Phát Hoa họ Bành là con gái của Giang Trạch Tuệ, em gái ruột của ông Giang Trạch Dân. Báo China News ngày 2/3/2015 còn cho biết Tòa án nhân dân thành phố Đông Dinh tỉnh Sơn Đông đã công bố tội trạng của Nghê Phát Hoa nhận hối lộ đến 13 triệu Nhân dân tệ (bằng 2 triệu US$), tài sản ông này đã bị tịch thu sung vào công quỹ.
Các báo tự do ở Hồng Kông nói trên nhận định rằng cuộc săn con hổ lớn nhất - Hổ Vương - tức nguyên Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân đã gần kề, chỉ còn là vấn đề thời gian. Trong 2 năm qua, hàng vạn cán bộ đảng viên đã bị sa lưới, khai trừ khỏi đảng CS trong chiến dịch “săn hổ diệt ruồi, bắt sói trốn chạy, thu hồi tài sản bất minh”, trong đó có hơn 20 tướng lãnh từ thiếu tướng đến thượng tướng, hơn 50 cán bộ lãnh đạo cấp cao từ thứ trưỏng, bí thư tỉnh ủy trở lên đến ủy viên thường vụ Bộ Chính trị và phó bí thư Quân ủy Trung ương.
Ông Giang Trạch Dân được coi là lãnh tụ tối cao xếp hàng thứ 3 của đảng CS Trung Quốc, chỉ sau Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Vụ trọng án chính trị tham nhũng “Giang Trạch Dân và đồng bọn”, nếu được mở ra và xét xử, sẽ là vụ án cực kỳ chấn động.
Vụ bao vây, săn Hổ Vương của ông Tập Cận Bình trong chiến dịch chống tham nhũng, từ lớn nhất đến nhỏ nhất, từ hổ đến ruồi, còn bao gồm cả việc săn lùng bọn tham nhũng chạy ra nước ngoài và thu hồi mọi tài sản bất minh cho công quỹ, cho đến nay là thuận buồm xuôi gió, do được xã hội TQ hoan nghênh, tuy về thực chất là sự kình địch của các phe nhóm trong đảng CS. Riêng việc chống tham nhũng dù mạnh mẽ đến đâu cũng không thể cứu đảng CS khỏi thảm cảnh khủng hoảng, do đây là khủng hoảng toàn diện của cả một hệ thống chính trị, kinh tế, tài chính, văn hóa, đạo đức, mà nguyên nhân cơ bản là bản chất độc đoán, phản dân chủ, phi nhân quyền, phản các dân tộc Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng, đi ngược lại những giá trị dân chủ - nhân văn của thời đại văn minh.
Một số bạn Trung Quốc đối lập dân chủ tôi vừa gặp ở Pháp cho biết ông Tập Cận Bình có tham vọng vượt lên thành lãnh đạo vĩ đại, còn cao hơn cả Mao và Đặng khi hoàn thành “giấc mộng Trung Hoa”, thực hiện thống nhất Đài Loan vào một nước Trung Quốc phồn vinh, nhưng đó chỉ là không tưởng vì Trung Quốc hiện có quá nhiều căn bệnh hiểm nghèo chưa có thuốc chữa. Thêm nữa ông Tập Cận Bình đang có động cơ cá nhân, rất cay cú khi khám phá ra âm mưu đảo chính cung đình do chính Giang Trạch Dân cùng Chu Vĩnh Khang và đồng lõa dự định thực hiện hồi 2011 - 2012 nhằm đưa nhóm Bạc Hy Lai, Tăng Khánh Hồng, Giả Khánh Lâm… lên thay Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, gạt Tập Cận Bình và Lý Khắc Cường ra. Nay Tập thực hiện một đòn thù, “giáng trả bọn phản nghịch”.
Trông người lại nghĩ đến ta. Lãnh đạo đảng CS Việt Nam từng hứa sẽ học những kinh nghiệm tốt, tích cực của đảng CS Trung Quốc, Riêng về chống tham nhũng thì đảng CS Việt Nam dơ cao đánh khẽ, đánh như phủi bụi, vì sợ “vỡ bình”, sợ nát đảng, nhút nhát không kém gì chống bành trướng. Ủy ban chống tham nhũng bị tê liệt khi ông Nguyễn Bá Thanh không vào được Bộ Chính trị, rồi bị bệnh chết sớm, chết theo là 6 vụ án lớn bị chôn vùi luôn.Tướng Phạm Quý Ngọ cũng bị buộc phải chết để ỉm việc Đại tướng Trần Đại Quang ăn tiền của Dương Chí Dũng lên đến nửa triệu đôla.
Ủy ban Thanh tra và Kỷ luật của đảng CS Trung Quốc là cơ quan chủ yếu chống tham nhũng, do tổng bí thư trực tiếp nắm, có bộ máy điều hành đầy quyền lực, đi đến đâu có uy lực đến đó, điều tra có bài bản, truy lùng thư từ, hoá đơn, đối thoại trên máy cầm tay, hỏi cung kỹ từ thư ký, lái xe, hàng xóm, người tình, bè bạn, gia đình của can phạm, tiến hành bởi một bộ máy chuyên nghiệp trung thành được huấn luyện kỹ. Còn trong đảng CS Việt Nam thì ban tương đương là Ủy ban Kiểm tra Trung ương có trách nhiệm như vậy, nhưng lại là ban vô tích sự nhất, không có uy quyền gì, hoàn toàn vô trách nhiệm, đến người cầm đầu lẽ ra phải năng động có quyền uy thì lại là ông Hà Văn Dụ, ủy viên Bộ Chính trị, ươn hèn đến thảm hại, hầu như không ai biết đến, không hề có một lời phát biểu nào về trách nhiệm của mình trong việc duy trì kỷ luật đảng, có 5 tay phó ban cũng hầu như bất động nốt.
Hãy chờ xem trong Dự thảo Báo cáo chính trị, họ sẽ ăn nói ra sao về chống tham nhũng trong 5, 10 năm qua, khi mà có người lãnh đạo cho rằng đầu tư 10 tỷ mà thất thoát 1 tỷ là chuyện bình thường, không có gì phải lo! Chính do đó mà Luật phòng chống tham nhũng không đe nẹt được ai, tuy có điều khoản ai tham nhũng lên đến 1 tỷ đồng (bằng 50.000 đôla) là có thể bị tử hình,. Nếu luật được tôn trọng nghiêm ngặt, nếu như quả thật ông Trần Đại Quang ăn đến nửa triệu đôla từ Dương Chí Dũng thì ông Quang phải có đến 10 cái đầu mới đền hết tội.
Ta hãy chờ xem pha vây hãm Hổ Vương ở Trung Quốc sẽ diễn ra như thế nào, sau khi người hùng họ Tập đã lần lượt bóc các vỏ cứng bên ngoài, phá tan các hàng rào giây kẽm gai bao bọc hang hùm, ở giữa thủ đô Bắc Kinh.
VÀI LỜI CÔNG BẰNG CHO THƯỢNG NGHỊ SĨ NGÔ THANH HẢI.
Chu Tất Tiến.
Thời gian gần đây, vụ Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đề nghị dự luật S-219 tại Thượng Viện Canada làm dấy lên một làn sóng dư luận chống đối giữa hai phe bênh và chống. Phải nói một sự thật là phe chống đông hơn phe bênh, phe chống có rất nhiều lý lẽ khích động, và gồm nhiều thành phần: Một vài người có bằng cấp, một số lớn người tỵ nạn Cộng Sản có mất mát đau thương trong ngày 30-4, một vài tổ chức chống Cộng cực đoan, đồng thời cũng có những kẻ theo đóm ăn tàn, chỉ biết chửi tục và vài tên hề-diễn đàn như Ngô Kỷ và một số tên nằm vùng, tay sai Cộng Sản. Ngược lại, phe bênh thì vắng người hơn, cho dù lý lẽ cứng rắn hơn, nhưng hình như không thuyết phục được phe chống nhiều cảm tính hơn, và thường dựa vào quá khứ đau thương của dân tộc mà kết án Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải. Một số người bênh có đưa ra quá khứ chiến đấu trước 1975 và những tranh đấu cho việc Dân Chủ Hóa Việt Nam trong chính trường của Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải để làm bằng chứng, tuy nhiên, tiếng nói này thường bị khuất lấp bởi những xúc động của người dân tỵ nạn Cộng Sản, khi nhớ lại những đau thương mà bọn “hèn với giặc, ác với dân” này đã gây ra cho dân tộc.
Trong phạm vi một bài viết nhỏ, không với mục đích bênh cá nhân Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, mà chỉ muốn lấy lại sự công bằng cho một sự việc, một cá nhân đã tạo nên sự việc đó, người viết sẽ không nhắc lại thành tích quá khứ của nhân vật này, mà chỉ nhìn đến sự việc dưới cặp mắt khách quan, khoa học mà thôi. Lý do: thành tích quá khứ không chứng minh được sự việc hiện tại. Đã có bao người từng là lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa chống lại Cộng Sản kịch liệt, nay đã đầu hàng giặc, làm nhục danh dự Việt Nam. Đã có biết bao nhiêu người theo diện cựu tù cải tạo sang Mỹ giờ về làm “tà lọt” cho nhà nước Cộng Sản như con trai một cựu tù cải tạo nay đã làm rể tên bán nước buôn dân Nguyễn tấn Dũng và rất nhiều gia đình cả bố con từng tù cải tạo khác đang làm công nhân viên chức cho nhà cầm quyền này. Ngay trong cộng đồng hải ngoại, rất nhiều người từng la lối chống cộng to tiếng nhất nay cũng âm thầm làm chó săn cho giặc.
1) Tiến trình của dự luật S-219: Theo báo chí Canada, Nghị sĩ Ngô Thanh Hải đưa ra dự luật S-219 là để tưởng nhớ hai triệu người đã bỏ nước ra đi, 250 ngàn người bỏ mình trên biển cả, cám ơn Canada đã nhận 300 ngàn, cám ơn chính phủ và nhân dân Canada đã mở rộng vòng tay đón tiếp người tị nạn Việt Nam, đồng thời để công nhận giải thưởng Nelson mà Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã trao cho quốc gia Canada về thành tích đóng góp rất nhiều trong vấn đề tị nạn. Thoạt đầu, ông đề nghị dự luật S219 đặt tên cho ngày 30-4 là Black April Day (Tháng Tư Đen). Nhưng sau đó, Thủ tướng Canada đề nghị đổi lại là Journey To Freedom Day với mục đích để cho dân Canada hiểu rõ hơn ý nghĩa dự luật.
2) Nội dung dự luật: Phần mở đầu dự luật ghi rõ là để “bày tỏ sự trân trọng về một ngày quốc lễ để tưởng niệm đến việc di cư của các người dân tỵ nạn Việt Nam và sự chọn lựa sinh sống và được sống tại Canada của họ sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ và chấm dứt chiến tranh Việt Nam”.
Điều 2 của dự luật ghi: “Khắp đất nước Canada và hàng năm và mỗi năm, ngày 30 tháng Tư (30/4) sẽ được biết đến như là ‘Ngày Hành trình đến Tự do’." "Ngày này để “mọi người nhớ đến và tưởng niệm những mạng người đã bị mất và những kinh nghiệm đau đớn mà những người tỵ nạn phải trải qua trong cuộc di cư của người dân Việt và sự được chấp nhận cho người Việt được sinh sống tại Canada và được chính phủ Canada chấp thuận, và cũng là để nhớ đến sự đóng góp của người dân Canada - và người Việt mà số dân này hiện nay có vào khoảng 300.000 người trong xã hội Canada.”
Như thế, không có khoản nào mang ý nghĩa là “xóa bỏ ngày Quốc Hận”, hay xóa bỏ ý nghĩa của ngày mà Việt Nam Cộng Hòa thất thủ trước sự cưỡng chiếm của Cộng Sản quốc tế. Ngược lại, Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đã tạo thêm danh dự cho Việt Nam khi thuyết phục được một Nghị Viện nước ngoài chấp nhận một ngày lễ của riêng dân Việt trên xứ sở của một nước ngoại quốc thành một ngày lễ quốc tế!
3) Ý Nghĩa của nhóm danh từ: Ngày Quốc Hận! Nhóm chữ “Ngày Quốc Hận” thật ra là do người miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa đặt ra mà thôi. Đúng ra, phải viết dài và đủ như sau: “Ngày Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa uất hận trước việc mất nước.” Tại sao lại dài giòng thế? Vì nếu viết “ngày Việt Nam uất hận..” thì không đúng với sự kiện cụ thể, vì gần 40 triệu người miền Bắc, cũng là người Việt Nam, lại vui mừng trước ngày 30-4, vì đối với họ là ngày Giải Phóng! Cho nên phải nói rõ ràng là chỉ có miền Nam mới uất hận mà thôi. (Chữ Hận ở đây phải hiểu là Uất Hận, chứ không phải Thù Hận, hay Hận Ghét, vì nếu theo ý nghĩa của hai tĩnh từ sau, thì hóa ra mình là người chỉ biết thù hận mà thôi sao?) Nhưng trên phương diện văn chương, chữ nghĩa, chúng ta phải bỏ hết cái dài giòng đi mà dùng ngắn gọn: Ngày Quốc Hận. Mà sử dụng chữ này ở đâu? Dĩ nhiên, như đã nói trên, chỉ sử dụng trong phạm vi người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa, chỉ sử dụng trong các cuộc hội họp, biểu tình của cộng đồng Việt Hải ngoại, cũng như chỉ sử dụng trong lãnh vực truyền thông, báo chí của cộng đồng hải ngoại mà thôi, không áp dụng cho miền Bắc! Nếu đã không thể sử dụng cho miền Bắc Việt Nam, thì lại càng không thể ép người ngoại quốc phải sử dụng chữ đó được. Không thể bắt người Mỹ, người Canada, người Úc phải đồng ý với mình là phải tôn trọng chữ “Quốc Hận” trong phạm vi của nước họ! Họ có “hận” cái gì đâu, có mất nước đâu mà bắt họ phải để tang ngày 30-4?
Nên nhớ : dự luật S-219 nếu được thông qua bởi Hạ Viện Canada, thì sẽ áp dụng chính thức trên toàn quốc Canada, cho người Canada, không phải cho người tị nạn Việt trên đất Canada! Nếu chỉ cho người Việt trên đất Canada thì cần gì phải đến Thượng Viện, Hạ Viện Canada thảo luận, biểu quyết và thông qua bằng Luật chính thức của Canada! Đến ngày 30-4, cộng đồng Việt cứ việc tổ chức mít tinh, chẳng cần ai chấp thuận, cứ treo biểu ngữ to thật to: TƯỞNG NIỆM NGÀY QUỐC HẬN 30-4! Ai nói gì đâu? Ai dám xóa bỏ chữ này đâu? Ai dám đến giật cái biểu ngữ này xuống? Ngay cả Thủ Tướng Canada cũng chẳng dám làm việc này, huống hồ một ông Thượng Nghị Sĩ Việt!
Tóm lại, nhóm chữ NGÀY QUỐC HẬN không hề bao giờ có trong tự điển Canada, cho nên dự luật S-219 không thể xóa bỏ được, vì không có, lấy chi mà xóa bỏ! Người ta nói: “xóa bàn cờ” đi làm lại, chỉ khi nào trên bàn cờ đã có quân, đã có chiến đấu, một bên thắng, một bên đã thua, chứ không ai nói “xóa bàn cờ” khi chẳng có quân nào trên cái miếng gỗ chỉ có mấy cái gạch chéo được! Nói “Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải âm mưu xóa bỏ ngày Quốc Hận” là nói theo kiểu Việt Cộng, chụp mũ này vào cái đầu kia, treo đầu dê mà bán thịt chó, lập lờ đánh lận con đen, lừa gạt dư luận.
Kết luận: Thực tế, Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, với tình yêu nước Việt Nam Cộng Hòa, ông đã từng đề nghị ngày 30-4 là ngày Tháng Tư Đen, nhưng không được chấp thuận, vì với Canada, chẳng có tháng nào là tháng Đen cả. Chính Thủ Tướng Canada là người bạn thân thiết với cộng đồng Việt di tản, rất mến dân Việt tị nạn, mới chấp thuận cho Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đưa dự luận ấy ra Quốc Hội Canada để thảo luận, và lại còn góp ý sửa danh xưng cho thích hợp với dân Canada, chứ còn với danh từ Quốc Hận, thì mãi mãi ngày 30-4 vẫn chỉ lặng lẽ đến với dân Việt tị nạn mà thôi. (Ngay chính người Việt gốc Cộng cư ngụ ở Canada cũng phản ứng kịch liệt với đề nghị này.)
Điều đáng buồn là trong vụ việc này, đại đa số những người không đồng tình với danh xưng này đều chưa hiểu rõ những diễn tiến của sự việc, mà chỉ vì cảm tình quá nặng với đất nước, cảm xúc quá mạnh với sự kiện phải bỏ nước ra đi ngày 30-4 năm ấy, đã hòa với một nhóm hề-diễn đàn, và tay sai nằm vùng, mà tấn công Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải rất nặng lời. Nào là “thằng Hải, thằng Hủi, thằng Việt Cộng họ Ngô, thằng bán đứng dân tộc, thằng Nghị Sĩ…” mà quên mất cái vốn văn hóa văn minh của người miền Nam trước 1975. Khi ấy, chỉ có Việt Cộng mới gọi “thằng Thiệu, thằng Kỳ”, còn báo chí, truyền thông miền Nam vẫn lịch sự viết “Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp…” (*) Nếu chúng ta, chỉ vì cảm xúc mà gọi một nhân vật làm rạng danh Việt Nam như thế, chúng ta đã dẫm phải vết dép Bình Trị Thiên của Việt Cộng là những kẻ vô văn hóa, vô học, vô tổ quốc, vô tín ngưỡng. Ít nhất, khi tranh luận mà bất đồng ý kiến với ai, cũng nên tôn trọng người đối lập, không nên à uôm mà chửi tán loạn, biến diễn đàn thành cái chợ cá, chứ không phải diễn đàn đối thoại nữa. Hơn nữa, “lời nói đọi máu”, một khi đã chửi người ta nặng lời rồi sau thấy mình sai, thì làm sao mà sửa chữa? Nếu không nói là vì phản ứng quá mạnh của người mình, mà Hạ Viện Canada bác bỏ dự luật tốt đẹp này đi, có phải tội ác đó thì mình phải gánh không? Mà gánh mãi đến bao giờ mới rửa được tội ác chống lại dân tộc Việt Nam như thế?
Chu Tất Tiến
(*) Chỉ trừ những tên trở cờ chuyên phá hoại cộng đồng, như Nguyễn Phương Hùng, Ngô Kỷ, Nguyễn Ngọc Lập, và nhóm Việt Weekly thì không thể gọi bằng những danh xưng thông thường được. Chúng nó chỉ có một tên duy nhất: Những kẻ khốn nạn.
Chu Tất Tiến.
Thời gian gần đây, vụ Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đề nghị dự luật S-219 tại Thượng Viện Canada làm dấy lên một làn sóng dư luận chống đối giữa hai phe bênh và chống. Phải nói một sự thật là phe chống đông hơn phe bênh, phe chống có rất nhiều lý lẽ khích động, và gồm nhiều thành phần: Một vài người có bằng cấp, một số lớn người tỵ nạn Cộng Sản có mất mát đau thương trong ngày 30-4, một vài tổ chức chống Cộng cực đoan, đồng thời cũng có những kẻ theo đóm ăn tàn, chỉ biết chửi tục và vài tên hề-diễn đàn như Ngô Kỷ và một số tên nằm vùng, tay sai Cộng Sản. Ngược lại, phe bênh thì vắng người hơn, cho dù lý lẽ cứng rắn hơn, nhưng hình như không thuyết phục được phe chống nhiều cảm tính hơn, và thường dựa vào quá khứ đau thương của dân tộc mà kết án Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải. Một số người bênh có đưa ra quá khứ chiến đấu trước 1975 và những tranh đấu cho việc Dân Chủ Hóa Việt Nam trong chính trường của Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải để làm bằng chứng, tuy nhiên, tiếng nói này thường bị khuất lấp bởi những xúc động của người dân tỵ nạn Cộng Sản, khi nhớ lại những đau thương mà bọn “hèn với giặc, ác với dân” này đã gây ra cho dân tộc.
Trong phạm vi một bài viết nhỏ, không với mục đích bênh cá nhân Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, mà chỉ muốn lấy lại sự công bằng cho một sự việc, một cá nhân đã tạo nên sự việc đó, người viết sẽ không nhắc lại thành tích quá khứ của nhân vật này, mà chỉ nhìn đến sự việc dưới cặp mắt khách quan, khoa học mà thôi. Lý do: thành tích quá khứ không chứng minh được sự việc hiện tại. Đã có bao người từng là lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa chống lại Cộng Sản kịch liệt, nay đã đầu hàng giặc, làm nhục danh dự Việt Nam. Đã có biết bao nhiêu người theo diện cựu tù cải tạo sang Mỹ giờ về làm “tà lọt” cho nhà nước Cộng Sản như con trai một cựu tù cải tạo nay đã làm rể tên bán nước buôn dân Nguyễn tấn Dũng và rất nhiều gia đình cả bố con từng tù cải tạo khác đang làm công nhân viên chức cho nhà cầm quyền này. Ngay trong cộng đồng hải ngoại, rất nhiều người từng la lối chống cộng to tiếng nhất nay cũng âm thầm làm chó săn cho giặc.
1) Tiến trình của dự luật S-219: Theo báo chí Canada, Nghị sĩ Ngô Thanh Hải đưa ra dự luật S-219 là để tưởng nhớ hai triệu người đã bỏ nước ra đi, 250 ngàn người bỏ mình trên biển cả, cám ơn Canada đã nhận 300 ngàn, cám ơn chính phủ và nhân dân Canada đã mở rộng vòng tay đón tiếp người tị nạn Việt Nam, đồng thời để công nhận giải thưởng Nelson mà Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đã trao cho quốc gia Canada về thành tích đóng góp rất nhiều trong vấn đề tị nạn. Thoạt đầu, ông đề nghị dự luật S219 đặt tên cho ngày 30-4 là Black April Day (Tháng Tư Đen). Nhưng sau đó, Thủ tướng Canada đề nghị đổi lại là Journey To Freedom Day với mục đích để cho dân Canada hiểu rõ hơn ý nghĩa dự luật.
2) Nội dung dự luật: Phần mở đầu dự luật ghi rõ là để “bày tỏ sự trân trọng về một ngày quốc lễ để tưởng niệm đến việc di cư của các người dân tỵ nạn Việt Nam và sự chọn lựa sinh sống và được sống tại Canada của họ sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ và chấm dứt chiến tranh Việt Nam”.
Điều 2 của dự luật ghi: “Khắp đất nước Canada và hàng năm và mỗi năm, ngày 30 tháng Tư (30/4) sẽ được biết đến như là ‘Ngày Hành trình đến Tự do’." "Ngày này để “mọi người nhớ đến và tưởng niệm những mạng người đã bị mất và những kinh nghiệm đau đớn mà những người tỵ nạn phải trải qua trong cuộc di cư của người dân Việt và sự được chấp nhận cho người Việt được sinh sống tại Canada và được chính phủ Canada chấp thuận, và cũng là để nhớ đến sự đóng góp của người dân Canada - và người Việt mà số dân này hiện nay có vào khoảng 300.000 người trong xã hội Canada.”
Như thế, không có khoản nào mang ý nghĩa là “xóa bỏ ngày Quốc Hận”, hay xóa bỏ ý nghĩa của ngày mà Việt Nam Cộng Hòa thất thủ trước sự cưỡng chiếm của Cộng Sản quốc tế. Ngược lại, Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đã tạo thêm danh dự cho Việt Nam khi thuyết phục được một Nghị Viện nước ngoài chấp nhận một ngày lễ của riêng dân Việt trên xứ sở của một nước ngoại quốc thành một ngày lễ quốc tế!
3) Ý Nghĩa của nhóm danh từ: Ngày Quốc Hận! Nhóm chữ “Ngày Quốc Hận” thật ra là do người miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa đặt ra mà thôi. Đúng ra, phải viết dài và đủ như sau: “Ngày Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa uất hận trước việc mất nước.” Tại sao lại dài giòng thế? Vì nếu viết “ngày Việt Nam uất hận..” thì không đúng với sự kiện cụ thể, vì gần 40 triệu người miền Bắc, cũng là người Việt Nam, lại vui mừng trước ngày 30-4, vì đối với họ là ngày Giải Phóng! Cho nên phải nói rõ ràng là chỉ có miền Nam mới uất hận mà thôi. (Chữ Hận ở đây phải hiểu là Uất Hận, chứ không phải Thù Hận, hay Hận Ghét, vì nếu theo ý nghĩa của hai tĩnh từ sau, thì hóa ra mình là người chỉ biết thù hận mà thôi sao?) Nhưng trên phương diện văn chương, chữ nghĩa, chúng ta phải bỏ hết cái dài giòng đi mà dùng ngắn gọn: Ngày Quốc Hận. Mà sử dụng chữ này ở đâu? Dĩ nhiên, như đã nói trên, chỉ sử dụng trong phạm vi người thuộc chế độ Việt Nam Cộng Hòa, chỉ sử dụng trong các cuộc hội họp, biểu tình của cộng đồng Việt Hải ngoại, cũng như chỉ sử dụng trong lãnh vực truyền thông, báo chí của cộng đồng hải ngoại mà thôi, không áp dụng cho miền Bắc! Nếu đã không thể sử dụng cho miền Bắc Việt Nam, thì lại càng không thể ép người ngoại quốc phải sử dụng chữ đó được. Không thể bắt người Mỹ, người Canada, người Úc phải đồng ý với mình là phải tôn trọng chữ “Quốc Hận” trong phạm vi của nước họ! Họ có “hận” cái gì đâu, có mất nước đâu mà bắt họ phải để tang ngày 30-4?
Nên nhớ : dự luật S-219 nếu được thông qua bởi Hạ Viện Canada, thì sẽ áp dụng chính thức trên toàn quốc Canada, cho người Canada, không phải cho người tị nạn Việt trên đất Canada! Nếu chỉ cho người Việt trên đất Canada thì cần gì phải đến Thượng Viện, Hạ Viện Canada thảo luận, biểu quyết và thông qua bằng Luật chính thức của Canada! Đến ngày 30-4, cộng đồng Việt cứ việc tổ chức mít tinh, chẳng cần ai chấp thuận, cứ treo biểu ngữ to thật to: TƯỞNG NIỆM NGÀY QUỐC HẬN 30-4! Ai nói gì đâu? Ai dám xóa bỏ chữ này đâu? Ai dám đến giật cái biểu ngữ này xuống? Ngay cả Thủ Tướng Canada cũng chẳng dám làm việc này, huống hồ một ông Thượng Nghị Sĩ Việt!
Tóm lại, nhóm chữ NGÀY QUỐC HẬN không hề bao giờ có trong tự điển Canada, cho nên dự luật S-219 không thể xóa bỏ được, vì không có, lấy chi mà xóa bỏ! Người ta nói: “xóa bàn cờ” đi làm lại, chỉ khi nào trên bàn cờ đã có quân, đã có chiến đấu, một bên thắng, một bên đã thua, chứ không ai nói “xóa bàn cờ” khi chẳng có quân nào trên cái miếng gỗ chỉ có mấy cái gạch chéo được! Nói “Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải âm mưu xóa bỏ ngày Quốc Hận” là nói theo kiểu Việt Cộng, chụp mũ này vào cái đầu kia, treo đầu dê mà bán thịt chó, lập lờ đánh lận con đen, lừa gạt dư luận.
Kết luận: Thực tế, Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải, với tình yêu nước Việt Nam Cộng Hòa, ông đã từng đề nghị ngày 30-4 là ngày Tháng Tư Đen, nhưng không được chấp thuận, vì với Canada, chẳng có tháng nào là tháng Đen cả. Chính Thủ Tướng Canada là người bạn thân thiết với cộng đồng Việt di tản, rất mến dân Việt tị nạn, mới chấp thuận cho Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đưa dự luận ấy ra Quốc Hội Canada để thảo luận, và lại còn góp ý sửa danh xưng cho thích hợp với dân Canada, chứ còn với danh từ Quốc Hận, thì mãi mãi ngày 30-4 vẫn chỉ lặng lẽ đến với dân Việt tị nạn mà thôi. (Ngay chính người Việt gốc Cộng cư ngụ ở Canada cũng phản ứng kịch liệt với đề nghị này.)
Điều đáng buồn là trong vụ việc này, đại đa số những người không đồng tình với danh xưng này đều chưa hiểu rõ những diễn tiến của sự việc, mà chỉ vì cảm tình quá nặng với đất nước, cảm xúc quá mạnh với sự kiện phải bỏ nước ra đi ngày 30-4 năm ấy, đã hòa với một nhóm hề-diễn đàn, và tay sai nằm vùng, mà tấn công Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải rất nặng lời. Nào là “thằng Hải, thằng Hủi, thằng Việt Cộng họ Ngô, thằng bán đứng dân tộc, thằng Nghị Sĩ…” mà quên mất cái vốn văn hóa văn minh của người miền Nam trước 1975. Khi ấy, chỉ có Việt Cộng mới gọi “thằng Thiệu, thằng Kỳ”, còn báo chí, truyền thông miền Nam vẫn lịch sự viết “Hồ chí Minh, Võ Nguyên Giáp…” (*) Nếu chúng ta, chỉ vì cảm xúc mà gọi một nhân vật làm rạng danh Việt Nam như thế, chúng ta đã dẫm phải vết dép Bình Trị Thiên của Việt Cộng là những kẻ vô văn hóa, vô học, vô tổ quốc, vô tín ngưỡng. Ít nhất, khi tranh luận mà bất đồng ý kiến với ai, cũng nên tôn trọng người đối lập, không nên à uôm mà chửi tán loạn, biến diễn đàn thành cái chợ cá, chứ không phải diễn đàn đối thoại nữa. Hơn nữa, “lời nói đọi máu”, một khi đã chửi người ta nặng lời rồi sau thấy mình sai, thì làm sao mà sửa chữa? Nếu không nói là vì phản ứng quá mạnh của người mình, mà Hạ Viện Canada bác bỏ dự luật tốt đẹp này đi, có phải tội ác đó thì mình phải gánh không? Mà gánh mãi đến bao giờ mới rửa được tội ác chống lại dân tộc Việt Nam như thế?
Chu Tất Tiến
(*) Chỉ trừ những tên trở cờ chuyên phá hoại cộng đồng, như Nguyễn Phương Hùng, Ngô Kỷ, Nguyễn Ngọc Lập, và nhóm Việt Weekly thì không thể gọi bằng những danh xưng thông thường được. Chúng nó chỉ có một tên duy nhất: Những kẻ khốn nạn.
Tập Cận Bình diệt tham nhũng để xây dựng cái gì?
Wednesday, March 11, 2015 1:51:17 PM
Mục đích chống tham nhũng
Hùng Tâm/Người Việt Tin thời sự Trung Quốc thường tập trung vào hai loại vấn đề: kinh tế sa sút và chiến dịch chống tham nhũng gia tăng. Nhiều nhà quan sát cho rằng hai loại vấn đề ấy liên hệ với nhau. Sau một giai đoạn tăng trưởng, chiến lược kinh tế Trung Quốc đã hết công hiệu và phải cải cách. Nhưng việc cải cách lại gặp sự cản trở của các thế lực kinh tế chính trị đã làm giàu nhờ chiến lược đó qua mạng lưới tham nhũng. Vì thế, muốn cải cách kinh tế thì Chủ Tịch Tập Cận Bình phải phá vỡ sự cưỡng chống chính trị này.
Tổng hợp lại các dữ kiện của hơn một năm qua, Hồ Sơ Người Việt tìm hiểu thêm về chuyện đó...
Tiến trình chuyển quyền
Sau khi lên lãnh đạo từ cuối năm 2012 khi đại hội đảng khóa 18 kết thúc, Tổng Bí Thư Tập Cận Bình mới cầm quyền từ đầu năm 2013 với hai chức vụ khác là chủ tịch nhà nước và chủ tịch Trung Ương Quân Ủy Hội. Là chủ tịch nhà nước, người lãnh đạo đảng là Tập Cận Bình cầm đầu bộ máy cai trị của nhà nước. Là chủ tịch Quân Ủy Hội, ông cầm đầu bộ máy quân đội ở cả hai góc. Quân Ủy Hội của đảng bảo đảm sự lãnh đạo của đảng trên quân đội. Có cùng một danh xưng và thành phần nhân sự 12 người, Quân Ủy Hội của nhà nước bảo đảm quyền lực của nhà nước trên mọi cấp tướng lãnh.
Nói vắn tắt, ta có thể thấy ra ba cơ chế là đảng, nhà nước và quân đội.
Lãnh đạo thật là người cầm đầu cả ba cơ chế này. Năm 2002, sau Ðại Hội 16, nguyên Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nhà Nước Giang Trạch Dân vẫn giữ lại quyền lực trong Quân Ủy Hội gần hai năm rồi mới trao cho tổng bí thư kiêm chủ tịch nhà nước là Hồ Cẩm Ðào. Song song, ông còn cài lại các thành phần nhân sự của mình, thuộc “Cánh Thượng Hải” trong Bộ Chính Trị và cơ quan tối cao của Bộ Chính Trị là Thường Vụ Bộ Chính Trị có chín ủy viên. Họ tiếp tục ảnh hưởng đến chánh sách và cả nhân sự của hệ thống lãnh đạo Hồ Cẩm Ðào.
Thuộc thế hệ lãnh đạo thứ tư, sau Mao Trạch Ðông, Ðặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, Tổng Bí Thư Hồ Cẩm Ðào sớm trao lại toàn bộ quyền lực trong bộ máy nhà nước và quân đội cho Tập Cận Bình ngay từ đầu năm 2013.
Mấy chi tiết xa xưa kể trên thật ra có tầm quan trọng cho hiện tại vì giúp ta hiểu được hai yếu tố cơ chế và nhân sự trong chiến dịch diệt trừ tham nhũng của Tập Cận Bình.
Tại sao phải cải cách kinh tế?
Yếu tố quan trọng thứ ba là đường hướng cải cách kinh tế.
Từ khi lên nắm quyền, Hồ Cẩm Ðào và các đảng viên thuộc cấp bậc lãnh đạo trong Bộ Chính Trị đều thấy ra nhược điểm của chiến lược phát triển và trong hệ thống kinh tế. Cả Hồ Cẩm Ðào và nhân vật đứng hạng ba trong Bộ Chính Trị là Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đều nhiều lần nói đến bốn nhược điểm, là không cân đối, không phối hợp, không công bằng nên không bền vững.
Không cân đối vì dị biệt quá lớn giữa các tỉnh duyên hải với các tỉnh trong nội địa, giữa thành thị với nông thôn, công nghiệp với nông nghiệp. Không phối hợp vì chỉ thị trung ương bị các đảng bộ địa phương cản trở nên kinh tế phát triển lệch lạc. Không công bằng vì khác biệt giàu nghèo cứ mở rộng là quần chúng bất mãn. Và không bền vững vì thiếu phẩm chất và tích lũy các vấn đề đã liệt kê ở trên, chưa kể ô nhiễm gia tăng, năng suất sút giảm, v.v...
Thế hệ thứ tư muốn cải sửa mà không thành công.
Lý do bất thành là chiến lược theo đuổi từ thời Giang Trạch Dân, năm 1989 trở về sau, có đem lại mức tăng trưởng cao cho nên đa số tin là cứ nên tiếp tục. Lý do kia là việc cải sửa có nghĩa là chánh sách cũ có sai lầm, tức là mặc nhiên xúc phạm vị trí của các nhân vật được họ Giang cài lại. Lý do thứ ba, quan trọng nhất, là sự hình thành của các nhóm quyền lực đã làm giàu và củng cố thế lực chính trị từ mấy chục năm qua. Các nhóm lợi ích này không muốn thay đổi. Sự hình thành của các thế lực ấy có thể gọi là nạn cấu kết quyền lợi giữa các tay chân thân tộc của đảng viên cao cấp. Hay nói cho đơn giản là nạn tham nhũng.
Thế hệ thứ năm là Tập Cận Bình và Tổng Lý Quốc Vụ Viện (hạng thứ hai trong Bộ Chính Trị) là Thủ Tướng Lý Khắc Cường, phải giải quyết các vấn đề trên. Do Hồ Cẩm Ðào cất nhắc, Lý Khắc Cường phải giải quyết hồ sơ kinh tế. Do chính Giang Trạch Dân đề cử và tích cực vận động từ lâu, Tập Cận Bình lên giải quyết hồ sơ chính trị.
Chiến dịch đả hổ bắt ruồi
Sau khi lên lãnh đạo đảng và qua hai hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương vào cuối năm 2012 và đầu năm 2013, Tập Cận Bình bắt đầu mở chiến dịch diệt trừ tham nhũng từ giữa năm 2013 trở đi. Ông nói trước là cho điều tra và kỷ luật mọi cấp bộ đảng viên cán bộ, gọi đó là đả hổ bắt ruồi, lớn nhỏ hay cao thấp gì cũng sẽ sa lưới.
Mười tám tháng sau, hơn 200 ngàn đảng viên cán bộ đã bị điều tra, tống giam và tuyên án. Từ bên ngoài, không ai nắm vững con số bị thanh lọc mà chỉ có thể đoán là trên 20 vạn.
Cũng thế, về địa bàn công tác thì người ta có thể đếm rằng đa số nghi can hay thủ phạm thuộc về các tỉnh Quảng Ðông, Tứ Xuyên, và bộ máy nhà nước tại trung ương. Về thành phần bị kỷ luật, đông như ruồi (nên khó đếm) là cán bộ tại các quận huyện, rồi đảng viên ở địa phương, và đảng viên cao cấp trong các tập đoàn kinh tế nhà nước, đến giới quản lý công ty quốc doanh. Ðáng chú ý nhất, dù ít mà giữ vị trí rất cao, là các đảng viên trong bộ máy đảng và nhà nước, từ các địa phương về tới trung ương.
Nhiều tướng lãnh trong quân đội cũng không thoát, ít ra là gần hai chục người. Cao cấp nhất là các nhân vật thân tín do Giang Trạch Dân cất nhắc là hai thượng tướng (ba sao) Từ Tài Hậu và Quách Bá Xương, từng là phó chủ tịch Quân Ủy Hội cho tới Ðại Hội 18. Hôm 14 Tháng Giêng vừa qua, đến lượt Phó Ðề Ðốc (ngang hàng Thiếu tướng) Quách Chính Cương, con trai của Quách Bá Xương.
Cao cấp nhất trong hệ thống đảng vì từng là ủy viên Thường Vụ Bộ Chính Trị và trưởng ban Chính Pháp Trung Ương cho tới Ðại Hội 18 có Chu Vĩnh Khang. Bị điều tra và kỷ luật về những tội danh liên quan đến các vị trí quá khứ, kể cả từ khi làm bí thư tỉnh Tứ Xuyên và chủ tịch tập đoàn năng lượng số một là CNPC. Nhân vật đầy quyền lực khác là Tăng Khánh Hồng cũng sa lưới, sau khi được Giang Trạch Dân cài lại trong hệ thống chính trị thời Hồ Cẩm Ðào. Ðáng chú ý không kém là viên bí thư rất có ảnh hưởng của Hồ Cẩm Ðào là Lệnh Kế Hoạch cũng bị điều tra.
Vài nét trên cho thấy Tập Cận Bình tung mẻ lưới rất rộng và bắt các con hổ dữ nhất trên hệ thống quyền lực quân và dân sự của trung ương, kể cả các nhân vật thân tín của hai vị tiền nhiệm là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Ðào.
Mục đích của Tập Cận Bình là gì?
Tham nhũng vô biên
Các nhà xã hội học đều thấy tham nhũng hiện hữu trong mọi xã hội và nằm ở vị trí bản lề giữa kinh tế và chính trị, giữa thị trường và quyền lực, là nạn trục lợi bất chính nhờ thế lực chính trị. Một ngân hàng vi phạm luật lệ về nghiệp vụ thì có thể bị kỷ luật và trừng phạt về cả tội hộ (bồi thường và phạt vạ) lẫn tội hình (thủ phạm vào tù). Nếu nhờ thế lực chính trị mà làm bậy và vẫn thoát tội thì đấy mới là tham nhũng. Vì đặc tính ấy, tham nhũng hoành hành mạnh nhất trong các xã hội bị nạn độc tài về chính trị.
Theo tinh thần đó, tham nhũng tại Trung Quốc là quy luật tất yếu và khó giải trừ.
Do ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, tham nhũng tại Trung Quốc còn là thuộc tính của tinh thần “một người làm quan cả họ được nhờ.” Hoặc, bất hiếu là không ra làm quan để đem bổng lộc về cho cha mẹ: sách Lễ Ký dạy rằng tội bất hiếu thứ ba là “Bất Vi Lộc Sĩ.”
Trong khung cảnh văn hóa chính trị đó, Tập Cận Bình phải bắt hết đảng viên cán bộ tại chức hay hồi hưu thì mới giải trừ được tham nhũng. Trong số này, có cả Giang Trạch Dân, được tờ Forbes ước lượng là có tài sản trị giá một tỷ bảy, tính bằng đô la. Hay Ôn Gia Bảo, được tờ Bloomberg phanh phui là có thân tộc nắm giữ nhiều cơ sở bạc tỷ.
Hoặc ông phải làm một cuộc cách mạng văn hóa mất cả trăm năm thì mới cải tạo được dân Tầu. Hay, đơn giản mà bất khả, là giải trừ hệ thống độc tài để xây dựng dân chủ. Ông không thể làm điều ấy trong khi nạn tham nhũng vô biên đang đe dọa cả chế độ.
Tuần qua, có hai chi tiết khiến ta hiểu rõ hơn nội tình.
Thứ nhất tờ South China Morning Post (Nam Hoa Tảo Báo) xuất bản tại Hồng Kông trích trang mạng của Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản (Trung Hoa Thanh Niên Cương - youth.cn) về lời phát biểu của một thiếu tướng hồi hưu là Lưu Kiện, cháu ngoại của Thống Chế Chu Ðức, loại đệ nhất công thần thời cách mạng của Mao. Họ Lưu kết án Thượng Tướng Quách Bá Hùng về tội tham nhũng của con trai là Thiếu Tướng Quách Chính Cương vừa sa lưới.
Hiển nhiên là vì lý do chính trị, lời kết án mới được hệ thống truyền thông của đảng quảng bá rộng rãi nên mới lọt ra ngoài. Nhờ vậy, ta chú ý đến một đặc tính mới của chiến dịch diệt trừ tham nhũng do Tập Cận Bình tiến hành: vượt cả không gian lẫn thời gian và tiến vào lãnh vực giáo dục gia đình. Không biết dạy con thì cũng có tội.
Chi tiết thứ hai, có tin là Tập Cận Bình vừa thay thế bộ máy bảo vệ lãnh đạo. Nôm na là các cận vệ của đảng viên cấp lãnh đạo, kể cả của bản thân. Sau chuyện thanh lọc nhân sự trong bộ máy tình báo được Hồ Sơ Người Việt trình bày tuần trước, (“Hệ Thống Tình Báo Trung Quốc Và Nhật Bản - Nhu cầu quốc an của Nhật và đảng an của Tầu”), quyết định của Tập Cận Bình cho thấy tình hình khá bất thường của Trung Quốc trong chiến dịch diệt trừ tham nhũng của họ Tập.
Kết luận ở đây là gì?
Không thanh lọc được mọi đảng viên về tham nhũng, Tập Cận Bình mở chiến dịch thanh trừng.
“Thanh lọc” là làm cho bộ máy đảng, nhà nước và quân đội tương đối trở thành trong sạch hơn.
“Thanh trừng” là loại bỏ các đối thủ không cùng chính kiến ở trong đảng, như trường hợp thô bạo của Mao Trạch Ðông, hay khéo léo hơn theo kiểu Ðặng Tiểu Bình.
Tập Cận Bình thanh trừng để gom quyền lực về trung ương và bản thân. Và có thể đang lo sợ phản ứng... Chuyện cần theo dõi.
Wednesday, March 11, 2015 1:51:17 PM
Mục đích chống tham nhũng
Hùng Tâm/Người Việt Tin thời sự Trung Quốc thường tập trung vào hai loại vấn đề: kinh tế sa sút và chiến dịch chống tham nhũng gia tăng. Nhiều nhà quan sát cho rằng hai loại vấn đề ấy liên hệ với nhau. Sau một giai đoạn tăng trưởng, chiến lược kinh tế Trung Quốc đã hết công hiệu và phải cải cách. Nhưng việc cải cách lại gặp sự cản trở của các thế lực kinh tế chính trị đã làm giàu nhờ chiến lược đó qua mạng lưới tham nhũng. Vì thế, muốn cải cách kinh tế thì Chủ Tịch Tập Cận Bình phải phá vỡ sự cưỡng chống chính trị này.
Tổng hợp lại các dữ kiện của hơn một năm qua, Hồ Sơ Người Việt tìm hiểu thêm về chuyện đó...
Tiến trình chuyển quyền
Sau khi lên lãnh đạo từ cuối năm 2012 khi đại hội đảng khóa 18 kết thúc, Tổng Bí Thư Tập Cận Bình mới cầm quyền từ đầu năm 2013 với hai chức vụ khác là chủ tịch nhà nước và chủ tịch Trung Ương Quân Ủy Hội. Là chủ tịch nhà nước, người lãnh đạo đảng là Tập Cận Bình cầm đầu bộ máy cai trị của nhà nước. Là chủ tịch Quân Ủy Hội, ông cầm đầu bộ máy quân đội ở cả hai góc. Quân Ủy Hội của đảng bảo đảm sự lãnh đạo của đảng trên quân đội. Có cùng một danh xưng và thành phần nhân sự 12 người, Quân Ủy Hội của nhà nước bảo đảm quyền lực của nhà nước trên mọi cấp tướng lãnh.
Nói vắn tắt, ta có thể thấy ra ba cơ chế là đảng, nhà nước và quân đội.
Lãnh đạo thật là người cầm đầu cả ba cơ chế này. Năm 2002, sau Ðại Hội 16, nguyên Tổng Bí Thư và Chủ Tịch Nhà Nước Giang Trạch Dân vẫn giữ lại quyền lực trong Quân Ủy Hội gần hai năm rồi mới trao cho tổng bí thư kiêm chủ tịch nhà nước là Hồ Cẩm Ðào. Song song, ông còn cài lại các thành phần nhân sự của mình, thuộc “Cánh Thượng Hải” trong Bộ Chính Trị và cơ quan tối cao của Bộ Chính Trị là Thường Vụ Bộ Chính Trị có chín ủy viên. Họ tiếp tục ảnh hưởng đến chánh sách và cả nhân sự của hệ thống lãnh đạo Hồ Cẩm Ðào.
Thuộc thế hệ lãnh đạo thứ tư, sau Mao Trạch Ðông, Ðặng Tiểu Bình và Giang Trạch Dân, Tổng Bí Thư Hồ Cẩm Ðào sớm trao lại toàn bộ quyền lực trong bộ máy nhà nước và quân đội cho Tập Cận Bình ngay từ đầu năm 2013.
Mấy chi tiết xa xưa kể trên thật ra có tầm quan trọng cho hiện tại vì giúp ta hiểu được hai yếu tố cơ chế và nhân sự trong chiến dịch diệt trừ tham nhũng của Tập Cận Bình.
Tại sao phải cải cách kinh tế?
Yếu tố quan trọng thứ ba là đường hướng cải cách kinh tế.
Từ khi lên nắm quyền, Hồ Cẩm Ðào và các đảng viên thuộc cấp bậc lãnh đạo trong Bộ Chính Trị đều thấy ra nhược điểm của chiến lược phát triển và trong hệ thống kinh tế. Cả Hồ Cẩm Ðào và nhân vật đứng hạng ba trong Bộ Chính Trị là Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đều nhiều lần nói đến bốn nhược điểm, là không cân đối, không phối hợp, không công bằng nên không bền vững.
Không cân đối vì dị biệt quá lớn giữa các tỉnh duyên hải với các tỉnh trong nội địa, giữa thành thị với nông thôn, công nghiệp với nông nghiệp. Không phối hợp vì chỉ thị trung ương bị các đảng bộ địa phương cản trở nên kinh tế phát triển lệch lạc. Không công bằng vì khác biệt giàu nghèo cứ mở rộng là quần chúng bất mãn. Và không bền vững vì thiếu phẩm chất và tích lũy các vấn đề đã liệt kê ở trên, chưa kể ô nhiễm gia tăng, năng suất sút giảm, v.v...
Thế hệ thứ tư muốn cải sửa mà không thành công.
Lý do bất thành là chiến lược theo đuổi từ thời Giang Trạch Dân, năm 1989 trở về sau, có đem lại mức tăng trưởng cao cho nên đa số tin là cứ nên tiếp tục. Lý do kia là việc cải sửa có nghĩa là chánh sách cũ có sai lầm, tức là mặc nhiên xúc phạm vị trí của các nhân vật được họ Giang cài lại. Lý do thứ ba, quan trọng nhất, là sự hình thành của các nhóm quyền lực đã làm giàu và củng cố thế lực chính trị từ mấy chục năm qua. Các nhóm lợi ích này không muốn thay đổi. Sự hình thành của các thế lực ấy có thể gọi là nạn cấu kết quyền lợi giữa các tay chân thân tộc của đảng viên cao cấp. Hay nói cho đơn giản là nạn tham nhũng.
Thế hệ thứ năm là Tập Cận Bình và Tổng Lý Quốc Vụ Viện (hạng thứ hai trong Bộ Chính Trị) là Thủ Tướng Lý Khắc Cường, phải giải quyết các vấn đề trên. Do Hồ Cẩm Ðào cất nhắc, Lý Khắc Cường phải giải quyết hồ sơ kinh tế. Do chính Giang Trạch Dân đề cử và tích cực vận động từ lâu, Tập Cận Bình lên giải quyết hồ sơ chính trị.
Chiến dịch đả hổ bắt ruồi
Sau khi lên lãnh đạo đảng và qua hai hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương vào cuối năm 2012 và đầu năm 2013, Tập Cận Bình bắt đầu mở chiến dịch diệt trừ tham nhũng từ giữa năm 2013 trở đi. Ông nói trước là cho điều tra và kỷ luật mọi cấp bộ đảng viên cán bộ, gọi đó là đả hổ bắt ruồi, lớn nhỏ hay cao thấp gì cũng sẽ sa lưới.
Mười tám tháng sau, hơn 200 ngàn đảng viên cán bộ đã bị điều tra, tống giam và tuyên án. Từ bên ngoài, không ai nắm vững con số bị thanh lọc mà chỉ có thể đoán là trên 20 vạn.
Cũng thế, về địa bàn công tác thì người ta có thể đếm rằng đa số nghi can hay thủ phạm thuộc về các tỉnh Quảng Ðông, Tứ Xuyên, và bộ máy nhà nước tại trung ương. Về thành phần bị kỷ luật, đông như ruồi (nên khó đếm) là cán bộ tại các quận huyện, rồi đảng viên ở địa phương, và đảng viên cao cấp trong các tập đoàn kinh tế nhà nước, đến giới quản lý công ty quốc doanh. Ðáng chú ý nhất, dù ít mà giữ vị trí rất cao, là các đảng viên trong bộ máy đảng và nhà nước, từ các địa phương về tới trung ương.
Nhiều tướng lãnh trong quân đội cũng không thoát, ít ra là gần hai chục người. Cao cấp nhất là các nhân vật thân tín do Giang Trạch Dân cất nhắc là hai thượng tướng (ba sao) Từ Tài Hậu và Quách Bá Xương, từng là phó chủ tịch Quân Ủy Hội cho tới Ðại Hội 18. Hôm 14 Tháng Giêng vừa qua, đến lượt Phó Ðề Ðốc (ngang hàng Thiếu tướng) Quách Chính Cương, con trai của Quách Bá Xương.
Cao cấp nhất trong hệ thống đảng vì từng là ủy viên Thường Vụ Bộ Chính Trị và trưởng ban Chính Pháp Trung Ương cho tới Ðại Hội 18 có Chu Vĩnh Khang. Bị điều tra và kỷ luật về những tội danh liên quan đến các vị trí quá khứ, kể cả từ khi làm bí thư tỉnh Tứ Xuyên và chủ tịch tập đoàn năng lượng số một là CNPC. Nhân vật đầy quyền lực khác là Tăng Khánh Hồng cũng sa lưới, sau khi được Giang Trạch Dân cài lại trong hệ thống chính trị thời Hồ Cẩm Ðào. Ðáng chú ý không kém là viên bí thư rất có ảnh hưởng của Hồ Cẩm Ðào là Lệnh Kế Hoạch cũng bị điều tra.
Vài nét trên cho thấy Tập Cận Bình tung mẻ lưới rất rộng và bắt các con hổ dữ nhất trên hệ thống quyền lực quân và dân sự của trung ương, kể cả các nhân vật thân tín của hai vị tiền nhiệm là Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Ðào.
Mục đích của Tập Cận Bình là gì?
Tham nhũng vô biên
Các nhà xã hội học đều thấy tham nhũng hiện hữu trong mọi xã hội và nằm ở vị trí bản lề giữa kinh tế và chính trị, giữa thị trường và quyền lực, là nạn trục lợi bất chính nhờ thế lực chính trị. Một ngân hàng vi phạm luật lệ về nghiệp vụ thì có thể bị kỷ luật và trừng phạt về cả tội hộ (bồi thường và phạt vạ) lẫn tội hình (thủ phạm vào tù). Nếu nhờ thế lực chính trị mà làm bậy và vẫn thoát tội thì đấy mới là tham nhũng. Vì đặc tính ấy, tham nhũng hoành hành mạnh nhất trong các xã hội bị nạn độc tài về chính trị.
Theo tinh thần đó, tham nhũng tại Trung Quốc là quy luật tất yếu và khó giải trừ.
Do ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, tham nhũng tại Trung Quốc còn là thuộc tính của tinh thần “một người làm quan cả họ được nhờ.” Hoặc, bất hiếu là không ra làm quan để đem bổng lộc về cho cha mẹ: sách Lễ Ký dạy rằng tội bất hiếu thứ ba là “Bất Vi Lộc Sĩ.”
Trong khung cảnh văn hóa chính trị đó, Tập Cận Bình phải bắt hết đảng viên cán bộ tại chức hay hồi hưu thì mới giải trừ được tham nhũng. Trong số này, có cả Giang Trạch Dân, được tờ Forbes ước lượng là có tài sản trị giá một tỷ bảy, tính bằng đô la. Hay Ôn Gia Bảo, được tờ Bloomberg phanh phui là có thân tộc nắm giữ nhiều cơ sở bạc tỷ.
Hoặc ông phải làm một cuộc cách mạng văn hóa mất cả trăm năm thì mới cải tạo được dân Tầu. Hay, đơn giản mà bất khả, là giải trừ hệ thống độc tài để xây dựng dân chủ. Ông không thể làm điều ấy trong khi nạn tham nhũng vô biên đang đe dọa cả chế độ.
Tuần qua, có hai chi tiết khiến ta hiểu rõ hơn nội tình.
Thứ nhất tờ South China Morning Post (Nam Hoa Tảo Báo) xuất bản tại Hồng Kông trích trang mạng của Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản (Trung Hoa Thanh Niên Cương - youth.cn) về lời phát biểu của một thiếu tướng hồi hưu là Lưu Kiện, cháu ngoại của Thống Chế Chu Ðức, loại đệ nhất công thần thời cách mạng của Mao. Họ Lưu kết án Thượng Tướng Quách Bá Hùng về tội tham nhũng của con trai là Thiếu Tướng Quách Chính Cương vừa sa lưới.
Hiển nhiên là vì lý do chính trị, lời kết án mới được hệ thống truyền thông của đảng quảng bá rộng rãi nên mới lọt ra ngoài. Nhờ vậy, ta chú ý đến một đặc tính mới của chiến dịch diệt trừ tham nhũng do Tập Cận Bình tiến hành: vượt cả không gian lẫn thời gian và tiến vào lãnh vực giáo dục gia đình. Không biết dạy con thì cũng có tội.
Chi tiết thứ hai, có tin là Tập Cận Bình vừa thay thế bộ máy bảo vệ lãnh đạo. Nôm na là các cận vệ của đảng viên cấp lãnh đạo, kể cả của bản thân. Sau chuyện thanh lọc nhân sự trong bộ máy tình báo được Hồ Sơ Người Việt trình bày tuần trước, (“Hệ Thống Tình Báo Trung Quốc Và Nhật Bản - Nhu cầu quốc an của Nhật và đảng an của Tầu”), quyết định của Tập Cận Bình cho thấy tình hình khá bất thường của Trung Quốc trong chiến dịch diệt trừ tham nhũng của họ Tập.
Kết luận ở đây là gì?
Không thanh lọc được mọi đảng viên về tham nhũng, Tập Cận Bình mở chiến dịch thanh trừng.
“Thanh lọc” là làm cho bộ máy đảng, nhà nước và quân đội tương đối trở thành trong sạch hơn.
“Thanh trừng” là loại bỏ các đối thủ không cùng chính kiến ở trong đảng, như trường hợp thô bạo của Mao Trạch Ðông, hay khéo léo hơn theo kiểu Ðặng Tiểu Bình.
Tập Cận Bình thanh trừng để gom quyền lực về trung ương và bản thân. Và có thể đang lo sợ phản ứng... Chuyện cần theo dõi.
-
- Posts: 859
- Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm
Xã hội dân sự và dân chủ
Nguyễn Hưng Quốc
Trong chuyến đi Mỹ vào cuối năm ngoái, trong một buổi nói chuyện gẫu với hai người bạn cùng hoạt động tích cực trong việc khuếch tán xã hội dân sự tại Việt Nam, tôi nghe một bạn than phiền: Từ khi hình thức sinh hoạt xã hội dân sự được cổ vũ, những người tích cực nhất trong phong trào tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam chỉ thích tiếp xúc và chụp ảnh với các tổ chức quốc tế nhưng lại lơ là với việc xuống đường biểu tình đòi tự do cũng như phản đối các hành động gây hấn của Trung Quốc.
Nhìn ở biểu hiện bên ngoài, lời than phiền ấy có vẻ như không sai. Quả thực từ hơn một năm nay, sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc vào thăm dò dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam, trong cả nước, từ Sài Gòn đến Hà Nội, không có một cuộc biểu tình nào đáng kể cả. Ngược lại, các hoạt động thiên về xã hội dân sự vẫn tiếp tục phát triển qua các tổ chức giúp đỡ những người dân bị oan ức hoặc xây dựng những căn nhà tình nghĩa cho thân nhân những người bị hy sinh trong hai trận chiến tại Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988).
Tôi không phủ nhận hai sự kiện trên, nhưng tôi không nghĩ hai sự kiện ấy có quan hệ nhân quả với nhau, nghĩa là, nói cách khác, tôi không tin sự lắng dịu của các cuộc xuống đường biểu tình là hậu quả của việc phát triển của các hoạt động xã hội dân sự. Nó có thể có những lý do khác, chẳng hạn, không có sự kiện nào gây khích động quần chúng như vụ giàn khoan Hải Dương 981 hoặc, sau các cuộc biểu tình dẫn đến bạo loạn tại Bình Dương và một số nơi khác, chính quyền có cớ để đàn áp mạnh tay hơn và điều đó khiến cho nhiều người ngần ngại. Cũng có thể, sau nhiều cuộc biểu tình, chính quyền tìm ra những biện pháp hữu hiệu hơn, ví dụ, cô lập những người có khả năng lãnh đạo để ngăn chận hoặc vô hiệu hóa các cuộc xuống đường. Vân vân. Còn có thể có những lý do khác nữa.
Nhưng ngay cả khi lý do giảm nhiệt của các cuộc tranh đấu là vì những người có thiện chí nhất chuyển hướng sang những hình thức liên quan đến xã hội dân sự nhẹ nhàng và ít thử thách hơn thì tôi nghĩ, nó cũng không phải là lý do để chúng ta chấm dứt hoặc giảm thiểu sự cổ vũ cho các hoạt động xã hội dân sự. Lý do chính là, về lâu dài, theo tôi, các hoạt động xã hội dân sự bao giờ cũng có ích, cực kỳ có ích, cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu đều khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa xã hội dân sự và tiến trình dân chủ hoá. Việc khẳng định ấy không phải chỉ có tính thuần tuý lý thuyết mà còn dựa trên kinh nghiệm lịch sử. Trước, khi phân tích nền dân chủ tại Mỹ, Alexis de Tocqueville, đã nhận ra nền tảng của chế độ dân chủ tại nước này chính là các sinh hoạt xã hội dân sự phổ biến ở khắp nơi. Sau, hầu hết các học giả đều cho những nơi có sinh hoạt xã hội dân sự đa dạng và phong phú, ở đó, dân chủ được bén rễ sâu và vững mạnh, không thể đảo ngược được. Nhiều người cho rằng một trong những lý do chính khiến chế độ cộng sản tại châu Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 chính là nhờ các sinh hoạt xã hội dân sự: ở đâu xã hội dân sự phát triển sâu rộng, ở đó, chủ nghĩa cộng sản sụp đổ trước (như Ba Lan và Hungary); và ở đâu có truyền thống xã hội dân sự mạnh, ở đó dân chủ càng vững vàng. Ngược lại, ở phần lớn các quốc gia tách ra từ Liên Bang Xô Viết, vì không có truyền thống xã hội dân sự, nền dân chủ trở thành bấp bênh và có nguy cơ quay lại với độc tài.
Có thể tóm tắt mối quan hệ giữa xã hội dân sự và dân chủ vào mấy điểm chính:
Thứ nhất, các hoạt động xã hội dân sự là môi trường tốt nhất để giáo dục ý thức công dân, giải trừ nạn dửng dưng và vô cảm trong xã hội, làm cho mọi người biết tôn trọng những sự khác biệt về sắc tộc, ý thức hệ, tín ngưỡng và văn hoá.
Thứ hai, đó là cách tốt nhất để tập hợp những công dân khắc khoải trước thực trạng đất nước. Những người có lòng với tiền đồ dân tộc sẽ gặp gỡ nhau, trao đổi ý tưởng với nhau và cùng nhau hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau để xây dựng một xã hội dân chủ lành mạnh sau này.
Thứ ba, qua các hoạt động xã hội dân sự, người ta tập luyện được một số kỹ năng cần thiết cho một xã hội dân chủ, trong đó, quan trọng nhất là hai khả năng đối thoại và hợp tác để giải quyết các khác biệt hoặc mâu thuẫn.
Thứ tư, trong quá trình hoạt động vì những lý tưởng chung như vậy dần dần sẽ xuất hiện những người có khả năng lãnh đạo sau này sẽ đi đầu trong các cuộc tranh đấu vì dân chủ.
Một khi xã hội dân sự được hình thành và phát triển sâu rộng, nó sẽ tác động mạnh mẽ đến tiến trình dân chủ hoá. Theo Gordon White, trong bài “Civil Society, Democratization and Development: Clearing the Analytical Ground”, in trong cuốn Civil Society in Democratization (2004), có mấy tác động chính:
Thứ nhất, sự lớn mạnh của xã hội dân sự có thể làm thay đổi cán cân quyền lực giữa nhà nước và xã hội với thái độ thiên vị hẳn về phía xã hội; từ đó, góp phần hình thành nên một sự đối lập cân bằng (balanced opposition) vốn được xem là điều kiện của dân chủ. Dưới những chế độ toàn trị, kỳ vọng này thấp hơn: nó dần dần nâng cao hiệu năng của các lực lượng xã hội đã được tổ chức nhằm làm suy yếu tham vọng khống chế toàn bộ đời sống xã hội của nhà nước.
Thứ hai, khi xã hội dân sự đủ mạnh, nó có thể củng cố các tiêu chuẩn đạo đức công cộng và nâng cao tính khả kiểm (accountability) của cả các chính trị gia lẫn bộ máy công quyền.
Thứ ba, xã hội dân sự có thể đóng vai trò quan trọng trong việc làm trung gian giữa xã hội và nhà nước, giữa các công dân và hệ thống chính trị. Trong trường hợp lạc quan, nó có thể chuyển tải các yêu sách của dân chúng hoặc một bộ phận dân chúng đến giới cầm quyền, từ đó, làm thay đổi một số chính sách của họ.
Thứ tư, nó có thể đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi các luật lệ trong trò chơi chính trị theo định hướng dân chủ.
Nói một cách tóm tắt, theo tôi, để tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam, một trong những điều chúng ta nên làm nhất là cổ vũ cho các hoạt động xã hội dân sự. Xã hội dân sự càng sâu rộng, tiến trình dân chủ hoá càng nhanh chóng và vững chắc.
Nguyễn Hưng Quốc
Trong chuyến đi Mỹ vào cuối năm ngoái, trong một buổi nói chuyện gẫu với hai người bạn cùng hoạt động tích cực trong việc khuếch tán xã hội dân sự tại Việt Nam, tôi nghe một bạn than phiền: Từ khi hình thức sinh hoạt xã hội dân sự được cổ vũ, những người tích cực nhất trong phong trào tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam chỉ thích tiếp xúc và chụp ảnh với các tổ chức quốc tế nhưng lại lơ là với việc xuống đường biểu tình đòi tự do cũng như phản đối các hành động gây hấn của Trung Quốc.
Nhìn ở biểu hiện bên ngoài, lời than phiền ấy có vẻ như không sai. Quả thực từ hơn một năm nay, sau sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc vào thăm dò dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam, trong cả nước, từ Sài Gòn đến Hà Nội, không có một cuộc biểu tình nào đáng kể cả. Ngược lại, các hoạt động thiên về xã hội dân sự vẫn tiếp tục phát triển qua các tổ chức giúp đỡ những người dân bị oan ức hoặc xây dựng những căn nhà tình nghĩa cho thân nhân những người bị hy sinh trong hai trận chiến tại Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988).

Nhưng ngay cả khi lý do giảm nhiệt của các cuộc tranh đấu là vì những người có thiện chí nhất chuyển hướng sang những hình thức liên quan đến xã hội dân sự nhẹ nhàng và ít thử thách hơn thì tôi nghĩ, nó cũng không phải là lý do để chúng ta chấm dứt hoặc giảm thiểu sự cổ vũ cho các hoạt động xã hội dân sự. Lý do chính là, về lâu dài, theo tôi, các hoạt động xã hội dân sự bao giờ cũng có ích, cực kỳ có ích, cho tiến trình dân chủ hóa đất nước.
Hầu như tất cả các nhà nghiên cứu đều khẳng định mối quan hệ chặt chẽ giữa xã hội dân sự và tiến trình dân chủ hoá. Việc khẳng định ấy không phải chỉ có tính thuần tuý lý thuyết mà còn dựa trên kinh nghiệm lịch sử. Trước, khi phân tích nền dân chủ tại Mỹ, Alexis de Tocqueville, đã nhận ra nền tảng của chế độ dân chủ tại nước này chính là các sinh hoạt xã hội dân sự phổ biến ở khắp nơi. Sau, hầu hết các học giả đều cho những nơi có sinh hoạt xã hội dân sự đa dạng và phong phú, ở đó, dân chủ được bén rễ sâu và vững mạnh, không thể đảo ngược được. Nhiều người cho rằng một trong những lý do chính khiến chế độ cộng sản tại châu Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980 và đầu thập niên 1990 chính là nhờ các sinh hoạt xã hội dân sự: ở đâu xã hội dân sự phát triển sâu rộng, ở đó, chủ nghĩa cộng sản sụp đổ trước (như Ba Lan và Hungary); và ở đâu có truyền thống xã hội dân sự mạnh, ở đó dân chủ càng vững vàng. Ngược lại, ở phần lớn các quốc gia tách ra từ Liên Bang Xô Viết, vì không có truyền thống xã hội dân sự, nền dân chủ trở thành bấp bênh và có nguy cơ quay lại với độc tài.
Có thể tóm tắt mối quan hệ giữa xã hội dân sự và dân chủ vào mấy điểm chính:
Thứ nhất, các hoạt động xã hội dân sự là môi trường tốt nhất để giáo dục ý thức công dân, giải trừ nạn dửng dưng và vô cảm trong xã hội, làm cho mọi người biết tôn trọng những sự khác biệt về sắc tộc, ý thức hệ, tín ngưỡng và văn hoá.
Thứ hai, đó là cách tốt nhất để tập hợp những công dân khắc khoải trước thực trạng đất nước. Những người có lòng với tiền đồ dân tộc sẽ gặp gỡ nhau, trao đổi ý tưởng với nhau và cùng nhau hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau để xây dựng một xã hội dân chủ lành mạnh sau này.
Thứ ba, qua các hoạt động xã hội dân sự, người ta tập luyện được một số kỹ năng cần thiết cho một xã hội dân chủ, trong đó, quan trọng nhất là hai khả năng đối thoại và hợp tác để giải quyết các khác biệt hoặc mâu thuẫn.
Thứ tư, trong quá trình hoạt động vì những lý tưởng chung như vậy dần dần sẽ xuất hiện những người có khả năng lãnh đạo sau này sẽ đi đầu trong các cuộc tranh đấu vì dân chủ.
Một khi xã hội dân sự được hình thành và phát triển sâu rộng, nó sẽ tác động mạnh mẽ đến tiến trình dân chủ hoá. Theo Gordon White, trong bài “Civil Society, Democratization and Development: Clearing the Analytical Ground”, in trong cuốn Civil Society in Democratization (2004), có mấy tác động chính:
Thứ nhất, sự lớn mạnh của xã hội dân sự có thể làm thay đổi cán cân quyền lực giữa nhà nước và xã hội với thái độ thiên vị hẳn về phía xã hội; từ đó, góp phần hình thành nên một sự đối lập cân bằng (balanced opposition) vốn được xem là điều kiện của dân chủ. Dưới những chế độ toàn trị, kỳ vọng này thấp hơn: nó dần dần nâng cao hiệu năng của các lực lượng xã hội đã được tổ chức nhằm làm suy yếu tham vọng khống chế toàn bộ đời sống xã hội của nhà nước.
Thứ hai, khi xã hội dân sự đủ mạnh, nó có thể củng cố các tiêu chuẩn đạo đức công cộng và nâng cao tính khả kiểm (accountability) của cả các chính trị gia lẫn bộ máy công quyền.
Thứ ba, xã hội dân sự có thể đóng vai trò quan trọng trong việc làm trung gian giữa xã hội và nhà nước, giữa các công dân và hệ thống chính trị. Trong trường hợp lạc quan, nó có thể chuyển tải các yêu sách của dân chúng hoặc một bộ phận dân chúng đến giới cầm quyền, từ đó, làm thay đổi một số chính sách của họ.
Thứ tư, nó có thể đóng vai trò tích cực trong việc thay đổi các luật lệ trong trò chơi chính trị theo định hướng dân chủ.
Nói một cách tóm tắt, theo tôi, để tranh đấu cho dân chủ tại Việt Nam, một trong những điều chúng ta nên làm nhất là cổ vũ cho các hoạt động xã hội dân sự. Xã hội dân sự càng sâu rộng, tiến trình dân chủ hoá càng nhanh chóng và vững chắc.