Quán Vắng không Người ...3

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Mây mù Tháng Tư

Tác giả: Phan Thanh Tân
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Như một thông lệ vào những ngày gần cuối Tháng Tư trong năm, ông Hòa thường lấy ra tập nhật ký viết về biến cố Tháng Tư 1975 ra đọc.
Tập nhật ký này không phải của ông. Ông không viết một chữ nào, cũng không ghi chú một lời nào trong tập nhật ký với khổ giấy 8x10,
mà những trang giấy trắng đã phai màu theo thời gian.

Image
Trại tiếp cư Camp Pendleton, Tháng Tư, 1975. (Hình: Tác giả cung cấp)



Ông Hòa nhớ lại cách đây gần 25 năm, lúc dọn vào căn apartment ở thành phố Westminster, ông đã nhặt được tập nhật ký này trong đống rác ở phía sau nhà.

Thời gian lướt qua với biết bao công việc lo toan cho cuộc sống mới, ông Hòa gần như quên tập nhật ký vẫn còn nằm trong tủ sách. Ðể từ đó ông trở thành chủ nhân bất đắc dĩ tập nhật ký, kể lại những sự kiện liên quan đến biến cố trọng đại của người Việt tỵ nạn trên khắp năm châu.

Nhân vật ghi chép tập nhật ký này là chàng sinh viên năm thứ ba ở đại học Luật Khoa Sài Gòn và đối tượng của chàng là một cô sinh viên năm dự bị, tên Mỹ Linh, ở đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Ðọc nhiều lần tập nhật ký ông Hòa gần như thuộc lòng truyện tình hai người, trai Luật khoa, gái Văn khoa và do đó sau này ông chỉ đọc những đoạn có liên hệ đến biến cố Tháng Tư 1975 mà thôi.

Cũng giống như những năm trước, năm nay sau đúng 40 năm ngày Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, ông Hòa lôi ra tập nhật ký, đọc chậm rãi như muốn nuốt từng lời, từng chữ, thả hồn về quá khứ xa xưa, để ghi nhớ và tưởng niệm đến các anh hùng nghĩa sĩ đã anh dũng bỏ mình vì dân vì nước.

***

Ngày Thứ Tư, 2 tháng 4 năm 1975: Khoảng gần 10 giờ sáng tôi có mặt trong lớp học hai giờ Dân Luật với Giáo Sư Vũ Quốc Thông. Tin Cộng quân đã chiếm Nha Trang được lan truyền nhanh trong lớp. Vừa nghe xong tôi bay ra khỏi lớp, chạy nhanh qua đại học Văn Khoa tìm Mỹ Linh. Bước nhanh lên lầu ba, tôi ngó quanh khắp giảng đường, không thấy bóng dáng Mỹ Linh ngồi trong đó. Trông thấy tôi đứng dáo dác nhìn quanh tìm Mỹ Linh, cô bạn của Mỹ Linh bước ra cho biết Mỹ Linh không đến lớp vào sáng nay. Tôi nói cám ơn cô ta và vội vàng phóng xe nhanh đến nhà dì của Mỹ Linh, nơi hai chị em nàng đang ở trọ nằm trên đường Ðinh Tiên Hoàng. Khuôn mặt Mỹ Linh đỏ hoe, bước ra mở cổng. Trông nàng thảm não và buồn đau vì mất tin tức mẹ cha, tôi cảm thấy thương yêu nàng quá đỗi và tự nhủ sẽ không lìa xa nàng trong bất kỳ tình huống tồi tệ nào xảy ra.

Ngày Thứ Tư, 9 tháng 4 năm 1975: Tất cả nhật báo đều loan tin Sư Ðoàn 18 đóng ở tỉnh Long Khánh, đã oanh liệt đẩy lui sự tấn công của Quân Ðoàn 4 Bắc Việt muốn thôn tính thị xã Xuân Lộc.

Sau giờ học buổi chiều ở Luật khoa, tôi ngồi đấu láo với đám bạn ở quán cà phê Thu Hương. Trước chiến thắng của sư đoàn 18 do Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo chỉ huy, tôi nhận thấy đám bạn tôi đều lạc quan và tin tưởng miền Nam không thể rơi vào tay Cộng quân. Chỉ riêng tôi lo lắng và bi quan trước tình hình nguy kịch của đất nước và nêu thắc mắc tại sao chính phủ không đóng cửa tất cả các trường trung và đại học và ban lệnh Tổng Ðộng Viên trên toàn quốc?

Ngày Thứ Hai, 14 tháng 4 năm 1975: Mỹ Linh tan lớp học lúc 10 giờ và theo tôi vào ngồi uống nước trong câu lạc bộ trường Văn Khoa. Tại đây tôi nói với nàng do bởi tình hình chiến tranh căng thẳng, trường đại học Văn Khoa vừa ra thông cáo kỳ thi cuối năm được tổ chức sớm hơn thông lệ và sẽ tổ chức vào đầu Tháng Sáu.

Nói xong tôi bảo nàng đưa thẻ sinh viên để tôi ghi danh dự thi cuối khóa giùm nàng, bởi tôi có người bạn là thành viên trong ban đại diện của niên khóa này và đang phụ giúp việc ghi danh.

Ðưa tấm thẻ sinh viên cho tôi, nàng rầu rĩ kể tôi nghe vừa được thư của người anh ruột đang làm việc ở thành phố Washington DC, nói rằng ở bên Mỹ đang chuẩn bị giăng lều, căng trại đón người thua trận, bởi miền Nam sắp sửa kết thúc như Campuchia vậy. Do đó anh nàng sẽ gởi giấy tờ để bảo trợ nàng đi qua Mỹ du học.

Tôi ngồi lặng im, tiếp tục lắng nghe nàng cho biết ông giáo sư người Mỹ đã nói riêng với nàng rằng tình hình miền Nam càng ngày càng thê thảm và có thể hạ màn vào cuối Tháng Tư này. Sau đó ông ta trân trọng hỏi nàng chịu đi Mỹ với ông ta hay chăng? Tôi chưa kịp hỏi nàng trả lời ra sao, thì Mỹ Linh còn cho tôi biết thêm người chị của nàng là Mỹ Lan hiện làm việc cho cơ quan DAO ( Defend Association Organization), có thể dẫn nàng đi nếu tình thế đến hồi kết cuộc.

Lòng tôi tê tái và se thắt lại khi nghe nàng nói như thế, nàng có nhiều cơ hội sang Mỹ và tôi sẽ phải xa nàng. Tình tôi đối với nàng càng ngày càng đậm sâu và tự nghĩ sau này không gặp được nàng, cuộc đời chắc vô vị lắm! Nhìn thấy khuôn mặt tôi đượm nét không vui, Mỹ Linh nắm tay tôi, mếu máo nói tiếp, ngày nào chưa biết tin tức của song thân nàng vẫn chưa muốn đi đâu hết.

Nghe nàng nói như vậy tôi cảm thấy an tâm và nhẹ nhõm, bởi vì tôi không muốn xa nàng, mất nàng. Lúc đưa Mỹ Linh về nhà, chiếc xe chạy ngang qua Tòa Ðại Sứ Mỹ, tôi đã thấy có một số người đứng xếp hàng một ở bên ngoài, chờ đợi vào bên trong lập thủ tục chuẩn bị rời nước ra đi. Lòng tôi cảm thấy xốn xang và buồn đau quá!

Chiến tranh còn đang tiếp diễn, Sư Ðoàn 18 ở Xuân Lộc đang anh dũng chống trả Cộng quân, thế mà các nhân viên làm việc cho các cơ quan Mỹ đang lặng lẽ chuồn khỏi nước. Hơn hai tuần sau ở Subic Bay tôi tình cờ gặp ông thầy dạy ở Luật khoa, đã tiết lộ rằng vào ngày 15 tháng 4 Tòa Ðại Sứ Mỹ đã gởi mật điện đến trường, yêu cầu cấp tốc lập danh sách những ai muốn rời Sài Gòn.

Sau này khi định cư ở Mỹ, tôi được nghe một anh bạn là sinh viên Y Khoa Sài Gòn năm cuối cùng, cũng tiết lộ Tòa Ðại Sứ Mỹ đã bốc đi gần hết các sinh viên Y Khoa từ năm thứ năm trở lên qua Mỹ. Ðiều đó cho tôi hiểu rằng ông bạn đồng minh của VNCH đã sẵn có kế sách bỏ rơi miền Nam từ lâu, nên tìm cách bốc đi các nhân viên làm việc chung với họ, cùng các chất xám trong nước.

Ngày Thứ Hai, 21 tháng 4 năm 1975: Sau khi đưa Mỹ Linh về nhà, tôi hấp tấp lái xe nhanh về nhà để đón xem bài nói chuyện của Tổng Thống Thiệu với quốc dân đồng bào. Toàn thân tôi đã nổi gai ốc khi nghe Tổng Thống Thiệu tuyên bố từ chức và giao quyền lãnh đạo quốc gia cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương. Tôi có linh cảm chiến tranh hai miền Nam Bắc sắp kết thúc, với mây đen sắp sửa ập xuống dải đất miền Nam Cộng Hòa. Ðêm đó ngồi trước quyển Hình luật vừa mới mua, tâm trí tôi nhảy múa lung tung trước hiện tình đất nước, không thể nhét một chữ nào vào trong đầu.

Ngày Thứ Ba, 22 tháng 4 năm 1975: Mấy ngày qua tôi không thấy thằng bạn thân xuất hiện trong giảng đường, nên chiều nay sau khi tan học, tôi tạt qua nhà hắn ở cư xá Chi Lăng, tỉnh Gia Ðịnh. Bấm chuông nhiều lần vẫn không thấy ai ra mở cửa, khiến tôi nghi ngờ gia đình hắn đã chuồn ra khỏi nước. Quả đúng như ý nghĩ, sau này hai đứa trùng phùng nhau trên xứ người, hắn cho biết toàn thể gia đình được mục sư Cơ Ðốc Giáo âm thầm dẫn đi di tản từ ngày đó.

Ngày Thứ Năm, 24 tháng 4 năm 1975: Bởi người anh rể tôi là một kiến trúc sư, làm việc cho cơ quan Mỹ, nên khoảng 10 giờ sáng nay gia đình anh chị tôi cùng với năm cháu được xe ở cơ quan đến tận nhà chở vào phi trường Tân Sơn Nhất. Lòng tôi buồn rười rượi cho nỗi chia ly với anh chị và các cháu, biết bao giờ gặp lại nhau! Vì vậy tôi càng thương cảm cho hoàn cảnh của Mỹ Linh nhiều hơn, đã bặt tin tức song thân từ ngày Nha Trang lọt vào tay Cộng quân. Khoảng 4 giờ chiều tôi đến trường Văn Khoa đón Mỹ Linh. Hai đứa chui vào một quán kem quen thuộc nằm trên đường Nguyễn Huệ. Sau khi một ly kem dâu, một ly kem chocolate và một dĩa bánh su-kem được đặt lên bàn, tôi mới kể nàng nghe anh chị hai cùng năm đứa cháu nhỏ của tôi đã vào phi trường Tân Sơn Nhất hồi sáng hôm nay. Nàng nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi tôi sao không đi theo gia đình anh chị? Mỹ Linh thực sự cảm động khi nghe tôi trả lời cho dù có cơ hội di tản, tôi vẫn nhất quyết không đi, chỉ muốn được gần bên nàng mà thôi. Bằng tấm lòng chân thật nàng bày tỏ cũng muốn ở lại đây với tôi và gặp lại mẹ cha. Hai đứa không muốn lìa xa nhau dẫu cho tình thế có rối rắm tới đâu đi nữa.

Ngày Thứ Sáu, 25 tháng 4 năm 1975: Vào khoảng 8 giờ sáng bọn sinh viên năm thứ ba ban Kinh Tế ngồi trong giảng đường chờ thầy Vũ Văn Mẫu đến dạy hai giờ Công Pháp Quốc Tế. Thầy Mẫu không xuất hiện, thay vào đó là thầy Phó Khoa Trưởng Phan Tấn Chức đến cho biết thầy Mẫu bận công vụ không đến dạy vào sáng nay. Vào dịp này trước tình thế hiện tại thầy Chức cho biết ngày thi sẽ được tổ chức sớm hơn và nhấn mạnh ai có thi sẽ được cho đỗ tất cả. Cả lớp học từ từ giải tán, riêng tôi chạy qua Văn Khoa tìm Mỹ Linh. Hai đứa đến rạp Vĩnh Lợi xem phim “Tình Thù Rực Nắng” (Summertime Killer) do nữ tài tử Olivia Hussey thủ diễn, rất sexy trong phim này trái với hình ảnh xinh xắn và dễ thương trong vai nàng Juliet ở phim Romeo & Juliet.

Ðứng trước rạp Vĩnh Lợi tôi không thể tưởng tượng được cảnh tranh giành nhau, chen lấn nhau trước phòng bán vé. Không làm sao tôi quên được quang cảnh bỉ ổi và kinh tởm trước rạp Vĩnh Lợi vào buổi sáng nay. Trời ơi! Ðám đông la hét, chen lấn, chèn ép, xô đẩy nhau chỉ mong đạt được mục đích nhỏ nhoi là mua được tấm vé xi nê. Rồi khi giành mua được tấm vé, khuôn mặt họ đẫm ướt mồ hôi cùng nụ cười rạng rỡ trên môi, trông trơ trẽn và nham nhở vô cùng. Vì những tấm vé hát, đám đông không hề lo lắng và quan tâm đến tình hình chiến cuộc, mà Ban Mê Thuột, Huế, Ðà Nẵng, Nha Trang đã từ từ lọt vào tay Cộng quân. Vì những tấm vé hát, đám đông không mảy may sợ sệt và lo âu một Sài Gòn sẽ mất như thành phố Nam Vang đã lọt vào tay Khmer Ðỏ? Vì những tấm vé hát, đám đông đã nhẫn tâm phản bội và vô ơn đối với những anh chiến sĩ đang ngày đêm trực diện với Cộng quân, để bảo vệ cho họ an lành ở thành thị vui chơi và hưởng thụ. Tủi hổ, chán chường và tức giận, tôi và Mỹ Linh ra về. Buổi tối tôi ngồi xem tin tức, được biết cựu Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm đã rời Việt Nam. Quả thật tình hình đất nước biến chuyển đen tối hơn và niềm âu lo nơi tôi thành phố Sài Gòn rồi sẽ thất thủ như thành phố Nam Vang càng tăng hơn gấp bội.

Ngày Thứ Bảy, 26 tháng 4 năm 1975: Buổi sáng tôi đến trường Văn Khoa lo việc ghi danh thi cử cho Mỹ Linh. Nàng đã cho tôi biết hôm nay hai chị em nàng đi vào các trại tạm cư để dọ hỏi tin tức song thân, nên tôi không cần tìm kiếm nàng trên Văn Khoa. Vào khoảng 2 giờ trưa người bạn thân tên Bổng đến rủ tôi đi uống cà phê. Trong quán cà phê Hân, Bổng hỏi tôi có ý định rời bỏ Sài Gòn không? Tôi đáp nhanh cho Bổng hiểu tôi không có ý định đi đâu hết, bởi tôi không muốn xa Mỹ Linh. Nhà Bổng gần bên Khánh Hội, nên hắn cho biết hắn sẽ tìm cách ra đi nếu nhìn thấy bóng dáng Cộng quân xuất hiện trong thành phố. Nghe như thế, tôi cười và khuyên Bổng dẹp bỏ ý nghĩ rời nước ra đi, bởi “cùng tắc biến, biến tắc thông,” chiến tranh rồi sẽ kết thúc bằng một thỏa ước hòa bình. Nhưng Bổng cãi lại, nói “biến tắc thông, thông rồi tắc tịch” luôn và khuyên tôi nên tìm đường chạy thoát khỏi Sài Gòn, đừng vì con gái mà lụy thân.

Ngày Chủ Nhật, 27 tháng 4 năm 1975: Bởi tình hình chiến sự đang đến hồi khốc liệt, Cộng quân đang tiến dần vào thủ đô Sài Gòn, chính phủ phải ban hành lệnh giới nghiêm vào 7 giờ tối. Vì vậy khoảng gần ba giờ chiều tôi chạy đến tìm gặp nàng. Xa nhau mới chỉ vỏn vẹn một ngày, cả hai tưởng như xa nhau suốt một năm! Tôi gặp cô chị của Mỹ Linh cũng có mặt trong nhà. Mỹ Linh nói ngày hôm qua hai chị em nàng đã đi khắp nơi chứa người lánh nạn để tìm song thân. Tuy không gặp mặt nhưng được tin ba mẹ nàng vô sự và bình an. Mỹ Linh nói thêm rằng song thân nàng nhắn tin bảo hai chị em nàng nếu có cơ hội thì hãy ra đi trước. Nhìn tôi bằng ánh mắt u buồn, Mỹ Linh nghẹn ngào nói hai chị em nàng đã quyết định nghe lời song thân và dự định ra đi. Sau đó chị Mỹ Lan tiếp lời Mỹ Linh cho tôi biết, bởi tình hình biến chuyển ngoài dự liệu, vào sáng mai sẽ có vài vị cao cấp ở cơ quan DAO túc trực ngoài cửa phi trường để rước các nhân viên của DAO vào bên trong phi trường. Nhưng cơ quan DAO chỉ cho phép người phối ngẫu và cha mẹ con cái của nhân viên đi cùng mà thôi. Nước mắt rưng rưng Mỹ Linh nghẹn ngào nói nếu tôi muốn thì sáng ngày mai tôi và chị Mỹ Lan, giả như một cặp vợ chồng, đón xe vào phi trường Tân sơn Nhất, còn nàng ở lại nhà chờ ông giáo sư Mỹ đến rước vào tòa Ðại Sứ Mỹ. Sau đó hai đứa ra ngồi ngoài hành lang tâm sự và bàn tính việc ra đi. Bàn tính chưa xong thì sắp đến giờ giới nghiêm. Tiễn tôi ra tận cửa, hai đứa bịn rịn chẳng muốn lìa xa nhau. Ngoài đường mọi người vội vã chạy về nhà trước giờ giới nghiêm, gây cảnh ồn ào náo động như ngày lễ hội, nhưng bên tôi không nghe gì hết ngoài hơi thở của người yêu mà thôi! Suýt nữa tôi quên trả lại nàng tấm thẻ sinh viên, nên vừa vội vàng móc bóp lấy ra thẻ sinh viên trao nàng, vừa cho nàng biết sự ghi danh thi cử giùm nàng đã xong. Mỹ Linh cười buồn nói rằng tấm thẻ sinh viên này trong nay mai rồi sẽ trở nên vô dụng.

Ngày Thứ Hai, 28 tháng 4 năm 1975: Ðồng hồ trên tường chỉ đúng 9 giờ sáng, chiếc xe taxi chở Mỹ Lan đậu trước nhà tôi. Từ giã những người thân yêu, tôi bước vào trong xe và chiếc xe taxi đưa Mỹ Lan và tôi hướng về phi trường Tân Sơn Nhất. Quang cảnh đường phố sáng nay mang bộ mặt khác thường, bởi con đường nào cũng đông nghịt xe hết. Bóng dáng các cảnh sát gìn giữ trật tự lưu thông lặn mất, khiến lưu thông xe cộ kẹt cứng khắp nơi, một hiện tượng rất lạ thường đối với thành đô. Quả thật sáng nay người dân Sài Gòn đang trực diện với không khí chiến tranh, nỗi lo âu và sợ sệt đang bao trùm khắp thành phố. Xe cộ lưu thông loạn xạ, vô trật tự, tiếng còi xe kêu vang inh ỏi, trộn lẫn với tiếng người kêu la thất thanh, tạo ra bầu không khí hoang mang, sợ hãi tột cùng một sự tắm máu sắp sửa xảy ra do tin đồn loan ra từ cả tuần qua. Chắc vì thế mà mọi người túa ra đường tìm lối ra đi, nên đường phố càng lúc càng đông, mạnh ai hối hả chạy không còn tuân theo luật lệ gì nữa!

Ông tài xế taxi nói tình hình chiến sự kể như vô vọng, Cộng quân tiến gần Biên Hòa rồi. Tin tức Cộng quân đang tiến dần vào ngoại ô thành phố Sài Gòn được lan truyền nhanh chóng, bắt đầu tạo ra bầu không khí hỗn loạn khắp mọi nơi. Chiếc xe taxi nhích từng chút khiến Mỹ Lan ngồi trong xe tỏ vẻ nóng ruột, lo lắng không gặp viên chức DAO, thì làm sao vào bên trong phi trường được. Nhưng rồi đến gần 12 giờ trưa xe taxi mới tới được phi trường, Mỹ Lan thở phào nhẹ nhõm trong khi lòng tôi bồn chồn nhớ đến Mỹ Linh. Chung quanh phi trường được canh phòng bởi nhiều vòng kẽm gai, cùng các Quân Cảnh và vài viên chức người Mỹ đứng canh gác. Lúc ấy tôi mới để ý rất đông người tụ tập bên ngoài phi trường, với ước mong vào bên trong phi trường thì mới có cơ hội đào thoát khỏi thành phố Sài Gòn có nguy cơ bị nhuộm đỏ bởi Cộng quân. Trong thấy bóng dáng Mỹ Lan, một viên chức ở cơ quan DAO đứng tuổi bước đến gần Mỹ Lan, phàn nàn rằng tại sao Mỹ Lan tới đây quá trễ, nếu mà trễ thêm chút nữa hẳn không gặp được ông ta, vì ông ta vừa được lệnh phải quay vào Tòa Ðại Sứ Mỹ. Sau đó ông ta ra lệnh cho lính Quân Cảnh gỡ vòng kẽm gai để tôi và Mỹ Lan bước vào trong phi trường, rồi đính thân ông ta lái xe chở hai đứa đến một căn phòng to rộng, nơi đang có vài ngàn nhân viên Mỹ chờ đợi ra đi. Bước vào trong căn phòng, tôi nhìn thấy mọi người đang nằm, ngồi la liệt, bàn tán tình hình đen tối trước mắt. Vì vậy tôi mới biết trong phi trường vừa có lệnh giới nghiêm 24/24, với lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, mọi cổng gác chung quanh phi trường đều đã đóng kín và được canh phòng nghiêm ngặt bởi lính hỗn hợp Quân Cảnh Việt và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ.

Vừa ngồi xuống một khoảng trống trong căn phòng, toàn thân tôi như bị đông lạnh và tức nghẹn khi được nghe rằng do bởi tình hình đột biến quá nhanh, cơ quan DAO không thể kiểm tra danh sách nhân viên ghi tên ra đi. Do đó bất cứ thân nhân nào đi cùng với nhân viên của DAO, cũng được DAO vớt hết. Còn Mỹ Lan buông tiếng thở dài, than thầm phải mà biết được như thế thì đã kéo Mỹ Linh đi theo luôn vào phi trường. Bỗng nhiên tôi có linh cảm ông giáo sư Mỹ không thể đến bốc nàng đi như đã hứa hẹn và Mỹ Linh sẽ bị kẹt lại. Trong lòng tôi nổi lên sự linh cảm mạnh mẽ hơn khi trời đang nắng gay gắt, bỗng mây đen trên cao đột ngột kéo đến, báo hiệu cơn mưa sắp sửa đổ xuống.

Ngước mắt nhìn trời cao, tôi chỉ thấy toàn đám mây đen, mù mịt che phủ kín mặt trời. Phải chăng hiện tượng mây mù là dấu hiệu đen đúa sắp phủ xuống cuộc đời Mỹ Linh? Mây mù ngự trị trên bầu trời khá lâu, đến buổi chiều trời bắt đầu đổ mưa, tuy không nặng hột nhưng tạo ra hoàn cảnh thê lương hơn, kinh sợ hơn và u ám hơn cho thành phố Sài Gòn. Lòng tôi nóng như lửa đốt, muốn chạy ra gặp Mỹ Linh, nhưng phải đành ngồi bó chân chờ đợi lệnh giới nghiêm được tháo gỡ. Như đọc được ý nghĩ tôi muốn trở ra ngoài, bằng giọng trách móc Mỹ Lan nói rằng trong khi ai ai cũng muốn chạy vào trong đây để được chính phủ Mỹ bốc ra khỏi nước, tránh một cảnh tắm máu có thể xảy ra ngay trong lòng thành phố, thì tôi lại muốn chạy ra ngoài đặng hứng bom rơi đạn nổ. Lời Mỹ Lan nói hoàn toàn không sai! Khoảng 7 giờ tối để “chào mừng” bài diễn văn của Tổng Thống Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Ðại Tướng Dương Văn Minh, Cộng quân bắt đầu pháo kích vào trong phi trường. Lúc này tôi nghe nhiều tiếng la thét, tiếng kêu réo, tiếng than khóc vang lên trong đêm tối và mọi người bò lê bò lết nằm xuống tránh đạn, nhưng rất may đạn đã không rơi vào nơi căn phòng tôi và Mỹ Lan đang trú ẩn. Hình như tôi không thể ngủ được một phút giây nào, mắt mở trao tráo nghĩ đến tình thế đen tối miền Nam rơi vào tay Cộng quân, cùng nhớ ray rứt về Mỹ Linh.

Ngày Thứ Ba, 29 tháng 4 năm 1975: Nơi phi trường Tân Sơn Nhất lệnh “nội bất xuất, ngoại bất nhập” vẫn tiếp tục thi hành một cách triệt để và gắt gao hơn nữa. Bằng cách nào tôi chạy thoát ra ngoài trước lính canh phòng với khí giới trên tay và các vòng kẽm gai? Lòng tôi uất nghẹn và điếng đau ghê gớm đã không thể trở ra phi trường tìm gặp người yêu dấu. Ðến khoảng gần một giờ trưa mọi người chứng kiến quang cảnh đoàn lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ giựt sập cột đèn, cắt đứt dây điện, lượm lặt rác, thu dọn các chướng ngại vật dưới đất. Nhiều tiếng la hét và tiếng khóc than nổi lên, bởi lúc ấy ai cũng đều nghĩ chắc chắn đã bị Mỹ bỏ rơi, nên ùn ùn xách hành lý chạy ra khỏi các dãy nhà trú ẩn. Như bừng sống dậy, tôi vội vã chào từ biệt Mỹ Lan, nhập vào đoàn người ùn ùn chạy ra phi trường. Thấy tôi bỏ chạy, Mỹ Lan cũng chạy theo tôi. Chạy được một khoảng ngắn, đoàn người bỗng nghe loa phát thanh vang lên: “Tất cả hãy dừng lại và ngồi xuống đất có trật tự. Ai bất tuân sẽ bị trừng trị. Trong chốc lát sẽ có hàng trăm chiếc trực thăng đáp xuống, bốc quí vị rời khỏi đây.” Ðến giờ mọi người mới hiểu hành động của lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là chuẩn bị bãi đáp cho chiến dịch Trực Thăng Vận vào giờ chót bốc người đi di tản của tổng thống Mỹ.

Khoảng hơn 3 giờ trưa từng đoàn trực thăng ào ào đáp xuống bãi đất trống, nơi có vài ngàn người đã mỏi mệt chờ đợi mấy ngày qua. Trái với nỗi lo âu nơi tôi có sự hỗn loạn và chen lấn đến chết người như đã xảy ra ở phi trường Ðà Nẵng, mọi người trên tay xách một hành lý nhỏ, trật tự xếp hàng một, từ từ bước vào từng chiếc trực thăng.

Buổi chiều hôm đó mây đen che kín bầu trời, từ một radio cầm tay trong đoàn người, tôi nghe giọng nói của Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, hiện là bộ trưởng Bộ Ngoại Giao, kêu gọi người Mỹ hãy rút khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ. Ðể đáp ứng lời kêu gọi đó, Cộng quân pháo kích như mưa vào phi trường Tân Sơn Nhất, nơi đang có vài ngàn người đang xếp hàng một, tuần tự leo vào từng chiếc trực thăng rời khỏi thành phố Sài Gòn thân yêu. Tiếng đạn pháo kích, tiếng cánh quạt của chiếc trực thăng hòa lẫn với tiếng mưa rơi, tạo ra âm thanh thê lương đứt từng khúc ruột trong lòng người bỏ nước ra đi. Ðôi chân nặng nề bước vào chiếc trực thăng, cõi lòng tôi nát tan cho hoàn cảnh đẩy đưa phải đành xa Mỹ Linh từ đây. Từng hạt mưa rơi đầy trên mặt trên môi tôi. Hay nước mắt đang đẫm ướt trên mặt tôi đây?

Tôi nhớ như in, đúng 7.30 tối chiếc trực thăng, có tôi và Mỹ Lan trong đó, từ từ cất cao lên mặt đất, rồi bay cao lên không trung và bay khuất thành phố Sài Gòn dấu yêu. Lúc này tôi biết rõ nước mắt đang nhạt nhòa trên đôi mi tôi. Khoảng chừng thời gian ngắn từng chiếc trực thăng hạ cánh trên Hạm Ðội Thứ Bảy ở ngoài khơi Vũng Tàu.

Ngày Thứ Tư, 30 tháng 4 năm 1975: Vào 10 giờ sáng tôi cùng với số đông đồng bào trên boong tàu của chiến hạm Okinawa, gục đầu buồn bã nghe Ðại Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng trên đài phát thanh. Mọi người bàng hoàng và kinh ngạc sao Sài Gòn thất thủ nhanh quá! Không ai nói được một lời nào! Một sự im lặng đến rợn người trên boong tàu, cúi đầu rơi lệ đón nhận tin Cộng quân đã chiếm được thành phố dấu yêu Sài Gòn. Sự im lặng đến không thể bày tỏ bằng lời nói của từng khuôn mặt thất thần trên chiến hạm Okinawa, khác nào mọi người đang mặc niệm cho thành phố Sài Gòn đang giẫy chết bởi Cộng quân.

Chiến hạm Okinawa tiếp tục lướt sóng ra đại dương mênh mông, mang chở nỗi cảm xúc kinh hoàng trên từng khuôn mặt của mọi người vừa hay tin thành phố Sài Gòn đã thất thủ. Cho tới hơn hai giờ trưa cùng ngày tất cả người tỵ nạn từ trên chiến hạm được chuyển xuống từng chiếc xuồng nhỏ. Rồi từ chiếc xuồng nhỏ, tôi và Mỹ Lan cùng đoàn người bỏ nước ra đi được chuyển sang một chiếc tàu thương mại to lớn, đậu cách chiến hạm Okinawa không xa mấy. Sau gần hai đêm ba ngày lênh đênh trên biển rộng bao la, con tàu thương mại chứa đầy người tỵ nạn cập bến tại đảo Subic Bay, Phi Luật Tân. Và sau vài đêm tá túc ở đảo Subic Bay, bằng những chuyến bay dân sự những người tỵ nạn được chở đến đảo Guam hay đảo Wake trước khi chính thức nhập cảnh vào đất Mỹ. Riêng tôi và Mỹ Lan được đưa đến đảo Wake, một căn cứ quân sự của Mỹ ở Honolulu. Rồi sau đúng ba tuần lễ tá túc trên đảo Wake, hai đứa được tạm trú trong trại tỵ nạn Camp Pendleton ở tiểu bang California.

***

Uống vài hớp tách trà đã nguội lạnh từ lâu, ông Hòa ngả dài lưng trên ghế sofa, lòng bồi hồi nhớ về các bạn đồng ngũ đã hy sinh trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam. Chính ông đã bị thương tích đầy mình và bị giam cầm gần 8 năm ròng rã trong trại cải tạo, để suốt cuộc đời còn lại phải sống với đôi chân tật nguyền. Lòng ông cũng ngậm ngùi giùm cho các nhân vật trong tập nhật ký, bởi vì biến cố Tháng Tư 1975 đã tạo ra mối tình oan trái “tình em duyên chị” đến dở khóc dở cười, ra ngoài ý muốn cả ba.

Ông Hòa cũng ý thức được rằng biến cố Tháng Tư 1975 đã để lại biết bao chuyện oan khiên khác, mà mỗi khi hồi tưởng lại thời gian đó, lòng người bỏ nước ra đi gặm nhấm nỗi buồn đau khó thể quên được.

User avatar
khieulong
Posts: 6768
Joined: Wed Dec 01, 2004 9:09 pm
Been thanked: 1 time

Post by khieulong »

Image


CHÂN DUNG NGƯỜI LÍNH VNCH
Nguyễn thị Thảo An
Không biết bắt đầu từ thuở nào có một quy luật hình thành là ở một thể chế chính trị, đều thành lập một lực lượng để bảo vệ mình, lực lượng đó được gọi là quân đội. Quân đội sinh ra từ chế độ và nó cũng vẽ nên những chân dung của chế độ. Chế độ tốt sẽ xây dựng nên một quân đội tốt. Quân đội tốt sẽ không dung dưỡng một chế độ xấu. Từ hơn hai nghìn năm về trước, người lính Việt Nam với chiếc áo trấn thủ, mang gươm giáo ngàn xưa để gồng gánh trên vai những nhiệm vu giết thù diệt loạn, bảo quốc an dân, giữ gìn cơ nghiệp của tiền nhân. Trải qua bao thăng trầm của đất nước, hình ảnh của người lính thay đổi qua bao thời thế, nhưng trách nhiệm không hề thay đổi.

Người thanh niên tuổi trẻ Việt Nam từ khi bước vào quân trường, khoác vội bộ đồ trận, lưng mang vác ba lô cho tới khi anh đứng nghiêm với lời tuyên thệ Vị Quốc Vong Thân. Người tuổi trẻ đã trở thành người lính. Anh trưởng thành hơn bóng dáng của quê hương. Người lính với chiếc nón sắt xanh đậm tròn tròn như nửa vầng trăng in rõ bóng trên nền trời xanh lơ. Anh đã bước ra, tay ôm súng và chân mang giày trận, anh giẫm mòn nửa vòng đất nước đi canh giữ cho quê hương.

Bắt đầu từ thập niên Sáu Mươi, khi kẻ thù phương Bắc, với xe tăng súng cối, với những chủ thuyết ngoại lai, với những xích cồng nô lệ, đã toan tính nhuộm đỏ quê hương, thì từ đó, người lính đã hiện diện trong tuyến đầu lửa đạn. Anh mang vác hành trang, chiếc ba lô nặng cồng kềnh để chận bước quân thù, để bảo vệ miền Nam.

Ðất nước hai mươi năm chiến tranh, hai mươi năm dài người lính hầu như không ngủ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn ngày để anh đi từ sáng tinh mơ, chân giẫm ướt ngọn sương mai trên cỏ. Hai mươi năm có tới mấy ngàn đêm, bóng anh mịt mờ trong núi rừng lạnh giá. Hai mươi năm, anh nghe tiếng đại bác vang trời không nghỉ.

Tiếng mưa bom đạn réo bên mình. Tiếng xe tăng nghiền nát đường quê hương. Hai mươi năm, anh đã đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn. Ðã đem hy vọng cuộc đời đặt trên khẩu súng thân quen. Hay đã đem tình yêu và nỗi nhớ đặt trên đầu điếu thuốc. Hai mươi năm chiến tranh có bao ngày anh được ngủ yên trên chiếc giường ngay ngắn. Có bao đêm anh mơ được trọn giấc bình yên. Hay anh đã sống thân quen với đời gian khổ và đánh bạn với gian nguy.

Anh với đầu đội súng và vai mang ba lô, lội qua những vũng sình lầy nước ngang tầm ngực. Anh đã đi qua những địa danh xa lạ: Ashau, Ia Drang, Kontum, Pleime, nơi giơ bàn tay cũng không thấy được bàn tay. Hay anh truy địch ở bờ sông Thạch Hãn lừng lững sương mai, ở phá Tam Giang sóng vỗ kêu gào hay ở Cổ Thành xứ Huế mù sương. Dài dọc xuống Miền Nam với rừng Tràm, rừng Ðước, đến Ðồng Tháp Mười anh đã nghe muỗi vo ve như sáo thổi.

Anh đã đến những nơi mà anh không tưởng, anh đi diệt địch và anh đã ngã xuống địa danh chẳng quen dấu chân anh. Người lính nằm xuống ở Miền Nam xanh tươi ngọn mạ, ở những vùng trầm se rét Miền Trung, hay ở Miền Ðông xác thân thối rửa Từ Ấp Bắc, Ðồng Xoài, Bình Giả... cho tới Tống Lê Chân, An Lộc, Bình Long, người lính đã căng rộng tấm poncho để che kín bầu trời Miền Nam được yên ấm tự do. Nối gót tiền nhân, người lính, mỗi người lính đã đem 3.8 lít máu tươi, tưới cho thắm tươi hoa lá ruộng đồng, đã đem mỗi một 206 lóng xương khổ nạn của mình cắm trăm nẻo đường quê hương muôn ngã, để cho chính nghĩa quốc gia tự do được tồn tại. Ðể cho người dân quốc gia được sống no ấm ở hậu phương.

Những người dân quốc gia, những người dân quốc gia không hề muốn trở thành dân Cộng Sản, những người quốc gia luôn muốn bỏ chạy khi Cộng Sản tới và núp bóng người lính để được sống an nhàn ở chốn hậu phương. Họ hoàn toàn trao trọng trách bảo vệ quốc gia, ngăn thù dẹp loạn như một thứ công việc và trách nhiệm của người làm nghề lính, như thể không liên quan gì tới họ. Và họ tự trấn an lương tâm rằng người lính sẽ không bao giờ buông súng và sẽ mãi mãi bảo vệ họ tới cùng. Vì thế, họ luôn yên tâm sống ở hậu phương, yên tâm kiếm tiền và tranh đua đời sống xa hoa phè phỡn trên máu xương của người lính.

Và ở hậu phương, người lính đồng nghĩa với nghèo, đời lính tức là đời gian khổ, và tương lai người lính đếm được trên từng ngón taỵ Thế nên, người lính về hậu phương, anh ngỡ ngàng và lạc lỏng. Bỗng hình như anh cảm thấy mình như người Thượng về Kinh. Như vậy thì người ta tội nghiệp người lính và yêu người lính để thể hiện tình quân nhân cá nước trong sách vở, báo chí và truyền hình.

Người lính bị bắt cóc vào văn chương tiểu thuyết là những người lính giấy, vào văn chương để tự phản bội chính mình, để thoả mãn cho những kẻ trông con bò để vẽ con nai, và ngồi phòng khách để diễn tả chiến trường đỏ lửa. Người lính trên trang giấy ngang tàng và hung bạo, chửi rủa chính phủ, chống chính quyền và ghét cấp chỉ huy, lính la cà trong quán rượu, uống rượu chẳng thấy say, và càng say càng đập phá. Người lính xuất hiện trên sân khấu thì phong lưu và đỏm dáng hay trắng trẻo no tròn. Anh mặc đồ trận mới toanh còn nguyên nếp gấp, ngọt ngào chót lưỡi đầu môi anh ca bài ca mời gọi ái tình. à người yêu của anh lính là những cô mắt ướt môi hồng, áo quần xa hoa lộng lẫy, thề non hẹn biển yêu lính trọn kiếp trong ti vi. Như vậy thì quá mỉa mai cho cái gọi là anh trai tiền tuyến, em gái hậu phương. Trong khi đó, ở ngoài đời những người vợ lính là những người chống giữ thầm lặng ở xã hội hậu phương.

Ðó là những người đàn bà bình dị với tấm áo vải nội hoá rẻ tiền, với đôi guốc vông kẻo kẹt, đóng vai vừa là người mẹ vừa là người cha nuôi con nhỏ dại, gói ghém đời sống bằng lương người chồng lính chỉ vừa đủ mua nửa tháng gạo ăn. Ðó là những người đàn bà tất tả ngược xuôi, lăn lộn thăm chồng ở các Trung Tâm Huấn Luyện, hay ở những nơi tiền đồn xa xôi với vài ổ bánh mì làm quà gặp mặt. Ðó là những người âm thầm và lặng lẽ, chịu đựng và hy sinh để chồng luôn an tâm chống giữ ngoài trận tuyến với đối phương.

Hạnh phúc của họ mong manh và nhỏ bé, bất chợt như tình cờ. Có thể ở một thỏi son nhỏ bé mà người lính mang về để tặng vợ, có thể là một chiếc nón bài thơ, hay chút tình cờ ở một buổi tối người lính chợt ghé nhà thăm vợ. Hạnh phúc ở trong chén trà thơm uống vội, hay ở lúc nhìn đứa con bé nhỏ chào đời tháng trước.

Người vợ lính cũng là những người hằng đêm thức muộn để lắng tai nghe tiếng đại bác thâu đêm, rồi định hướng với lo âu trằn trọc. Ðó là những người đàn bà mà sau mỗi lần đơn vị chồng đụng trận, đi thăm chồng giấu giếm mảnh khăn sô.

Trong nỗi chịu đựng hy sinh, âm thầm và kỳ vĩ, họ vẫn sống và luôn gắng vượt qua để cho người chồng an tâm cầm súng. Ðể anh, người lính, anh mang sự bất công to lớn, sự bạc đãi phủ phàng, anh vẫn đi và vẫn sống, vẫn chiến đấu oai hùng giữa muôn ngàn thù địch.

Ở chiến trường, anh đối diện với kẻ thù hung ác, ở hậu phương anh bị ghét bỏ khinh khi, trên đầu anh có lãnh đạo tồi, sẵn sàng dẫm xác anh để cầu vinh cho họ, đồng minh anh đợi bán anh để cầu lợi an thân.

Những người dân của anh, những người anh hy sinh để bảo vệ từ chối giúp anh truy lùng kẻ địch, và điềm nhiên để anh lọt vào ổ phục kích của địch quân. Những người dân bán rẻ linh hồn cho quỷ, tiếp tay cho địch thác loạn ở hậu phương, đó là những kẻ chủ trương đòi quyền sống, trong đó không bao gồm quyền sống của anh.

Những kẻ để trái tim rung động tiếc thương cho cái chết của kẻ thù nhưng dửng dưng trước sự ngã xuống của anh. A dua, xu thời là bọn báo chí ngoại quốc thiên tả, lệch lạc ngòi bút, ngây thơ nhận định, mù quáng trong định kiến. ất cả vây quanh anh để tặng cho anh những đòn chí tử. Người lính bi hùng và bi thảm. Anh chống địch mười phương, tận lòng trong đơn độc, anh vẫn hy sinh và chống giữ tới hơi thở cuối cùng.

Ngày Hoà Bình, 28 tháng Giêng năm 1973 hiệp định Paris được ký kết Hoà Bình thật đến trên trang giấy, đến với thế giới tự do. Thế nên, thế giới tự do nâng ly để chúc mừng cho hoà bình của họ và nhận giải Nobel. Nhưng hoà bình đến ở Việt Nam tanh hôi mùi máu, đen ngòm như tấm mộ bia. Và anh, anh là vật thụ nạn trong cái hoà bình bi thảm.

Người lính vẫn tiếp tục ngã xuống, đem xác thân đắp nên thành luỹ để ngăn bước quân thù. Từ Ðông sang Tây, từ Nam chí Bắc, từ ngàn xưa và cho tới ngàn sau, có một quân đội nào mang số phận bi thương và oai hùng như người lính?

Những người lính chịu uống nước rễ cây và đầu không nhấc thẳng, đi luồn dưới Rừng Sát suốt 30 ngày không thấy ánh mặt trời. Những người lính đi hành quân mà không người yểm trợ để hai ngày ăn được bốn muỗng cơm, hay ăn luôn năm trái bắp sống và những lá cải hư mục ruỗng, miệng thèm một cục nước đá lạnh giữa cái nắng cháy da.

Người lính, người ở địa đạo Tống Lê Chân ăn côn trùng để tử thủ giữ ngọn đồi nhỏ bé. Người nằm xuống ở An Lộc, Bình Long. Và thủ đô, vòm trời thân yêu mà anh mơ ước để tang truy điệu cho anh chỉ có ba ngày. Ba ngày cho sinh mạng của năm ngàn người ở lại. Người ta lại tiếp tục vui chơi và quên đi bất hạnh. Bởi bất hạnh nào đó chỉ là bất hạnh của riêng anh.

Người lãnh đạo anh còn mè nheo ăn vạ. Và anh, anh phải đóng trọn vai trò làm vật hy sinh. Trước nguy nan, lãnh đạo anh tìm đường chạy trốn thì anh vẫn còn cầm súng ở tiền phương. Anh đã chống giữ, chịu đựng từng đợt xung phong ở Ban Mê Thuột mỗi ngày 24 giờ, không có ai yểm trợ, tiếp tế từ hậu phương. Nhưng ở đó, anh vẫn phải tử thủ cho con đường tẩu thoát của cấp lãnh đạo anh tuyệt đối được bình yên.

Và đồng minh của anh, người đồng minh đã từng sát cánh, cùng chia sẻ nỗi gian nguy ở Hạ Lào, Khe Sanh dưới trời mưa pháo, nay lại nghiễm nhiên nhìn anh đi những bước cuối cuộc đời. Phải chăng nhân loại đang trút những hơi thở cuối cùng nên lương tâm con người đang yên nghỉ ?

Cho nên, cả thế giới lặng câm để nhìn anh chết. Không chỉ cái chết riêng cho mỗi mình anh, vì bởi dưới đuờng đạn xuyên qua, xác thân anh ngã xuống thì đau thương đã vụt đứng lên. Cái bi thương có nhân dáng lớn lên và tồn tại suốt ngang tầm trí nhớ. Và người lính, anh vẫn kỳ vĩ và chịu đựng như vị thần Atlas mang vác quả địa cầu, người lính đã mang vác và bảo vệ mấy trăm ngàn người dân trên đường triệt thoái.


Trên những con đường từ Cao Nguyên không thiếu những người lính gồng gánh cho những người cô dân chạy loạn. Tay anh dẫn em thơ, tay dắt mẹ già chạy trong cơn mưa pháo. Và anh đã làm dù, làm khiên đỡ đạn, cho nên thân xác anh đã căng cứng mấy đường cây số, hay xác làm cầu ở tỉnh lộ 7B, anh đã chết ở Cao Nguyên lộng gió và đếm những bước cuối đời ở ngưỡng cửa thủ đô.

Bởi lãnh đạo đầu hàng nên anh nghẹn ngào vất đi súng đạn. Với nham nhở mình trần, anh vẫn chưa tin đời đã đổi thay. Có thật không? Hai mươi năm chiến tranh kết thúc? Giã từ những hy sinh và gian khổ của hôm quả có thật không? gày buông rơi vũ khí, anh mơ được về để an phận kẻ thường dân? Và có thật không? Anh được đi, được sống giữa một quê hương rối loạn tràn ngập bóng quân thù?

Anh đã khóc nhiều lần cho quê hương chinh chiến và đã khóc nhiều lần cho những xác bơ vơ. Lính khổ lính cười, dân khổ để người lính khóc. Và có ai, từng có ai trong chúng ta đã khóc thương cho đời lính?

Thương cho người lính với trái tim tan vỡ từ lâu. Bởi trái tim anh đã hơn một lần để lại dưới chân Cổ Thành Quảng Trị, ở một mùa Xuân xứ Huế năm nào, ở Hạ Lào, Tống Lê Chân hay ở trong cái nồi treo lủng lẳng trên ba lô khi anh hô xung phong để tiến vào An Lộc? Người lính thật sự trái tim anh tan vỡ từ lâu.

Lịch sử đã sang trang, và loài người đã bắt đầu đi những bước cuối cùng trên trái đất? Thế nên thời trang nhân loại là thứ phấn hương tàn nhẫn, và môi tô trét thứ son vô tình. Cả thế giới đồng thanh công nhận và gửi điện văn chúc mừng sự thống nhất ở Việt Nam. Và người ta uống chén rượu mừng để truy điệu Việt Nam đi vào cõi chết, chúc mừng Việt Nam có thêm 25 triệu nô lệ mới nhập tên. Hoà bình đã nở hoa trong cộng đồng thế giới, trong đời người Cộng Sản, nhưng hoà bình không thật đến ở Việt Nam.

Người Cộng Sản chân chính có truyền thống là những người không hề biết hoà bình, không sống được trong hoà bình thật sự. Như con giun, con dế sợ ánh sáng mặt trời. Thế nên họ dẫn dắt toàn dân đi xây dựng văn minh thời thượng.

Khởi đầu là việc cày nát nghĩa trang Việt Nam Cộng Hoà và hạ tượng Người Lính Việt Nam Cộng Hoà. Người Lính rơi xuống vỡ tan trong lòng đường phố, nhưng từ đó anh mới thực sự đứng lên, đứng thẳng và oai hùng hơn trước trong trái tim của người dân Việt Miền Nam.

Bởi từ khi những người bộ đội Cộng Sản bước chân vào thành phố, thì người dân Quốc Gia mới thật sự hiểu được giá trị của anh. Và những sự lầm lẫn và hối hận hôm nay hình như luôn theo nhau đi vào lịch sử. Vậy thì, khi ta chết trên con đường chạy loạn, khi ta chết ở bãi Tiên Sa, ta vùi thân nơi vùng kinh tế mới hay ta chìm dưới đáy biển Ðông, không phải vì khẩu súng rơi trên tay người lính, mà ta chết bởi viên đạn ích kỷ, viên đạn lãnh đạm và thờ ơ xuất phát từ trái tim bắn ngược lại chính ta. Bởi sự thật về người Cộng Sản đã đi quá tầm tưởng tượng và sự hy sinh của người lính vượt quá nỗi bi thương.

Hai mươi năm chiến tranh, hơn hai trăm ngàn người lính, hơn năm trăm ngàn thương binh đã để lại hai trăm ngàn sinh mạng và năm trăm ngàn những phần cơ thể để lại trên chiến trường khốc liệt. Ðể cho chúng ta có một bầu trời để thở, có một khoảng không gian đi đứng tự do, để cho tuổi thơ của chúng ta không phải đi lượm ve, lượm giấy, không phải đeo khăn quàng đỏ và ngợi ca những điều dối gạt chính mình.

Ðể cho bàn tay thiếu nữ không chạm bùn nhơ thủy lợi, tuổi thanh xuân không phải vùi chôn ở những gốc mì. Ðể cho bà mẹ già không phải ngồi mơ ước miếng trầu xanh, và những giọt nước mắt thôi không cần tuôn chẩy.

Nhưng lịch sử đã sang trang, những trang hồng tươi màu máu cho người Cộng Sản và cũng là những trang đẫm máu và nhơ bẩn nhất cho cả lịch sử của dân tộc Việt Nam.

Anh, người lính trong thời chiến thành người tù của thời bình. Người lính chịu số phận bi thương của chiến tranh và cũng chịu luôn số phận tàn nhẫn trong thời bình. Anh người lưu vong trong lòng dân tộc, và lưu đày ở chính quê hương anh.

Bởi Cộng Sản Việt Nam đã bắt đầu một cuộc chiến tranh mới và đẩy anh xuống đáy trầm luân. Cũng chính từ chiến trường Tù Ngục này mà Cộng Sản đã chứng minh được Chúng và Anh không là đồng loại. Chúng, là lũ Cộng Sản cuồng tín, và tàn bạo nhất giữa thế giới Cộng Sản và vô nhân. Chúng lập nên một vương quốc mới mang tên là Lừa Dối, và mở ra một kỷ nguyên giết người theo kiểu mới, giết người bằng những mỹ từ đẹp đẻ, bằng lao động vinh quang, bằng thời gian không thể đếm.

Người lính bước vào trận chiến mới, chiến trường có tên là cải tạo, và anh người tù nhân không có án. Ở đây anh không có lãnh đạo, không có đồng đội, không có hậu phương. Kẻ thù vắt cùng, vắt kiệt sức lực anh trong rừng thẳm. ày đọa sỉ nhục anh dưới hố xí tanh hôi, đem thanh xuân và tài hoa của anh vùi chôn ở những vòng khoai vớ vẩn. Ðặt hy vọng của anh máng vào những mốc thời gian.

Người lính đã trở thành vật thụ nạn thời bình. Anh chết đói bên những vòng xanh nở rộ do chính tay anh cày xới vun trồng. Anh chết khát khi bên ngoài mưa rơi tầm tã. Giữa những trùng vây sóng dữ, giữa bóng tối cô đơn Anh vượt qua sự chết để đem về nghĩa sống. Anh đi xiếc qua những ranh giới tử sinh để chứng minh được phẩm giá con người. Ðôi mắt anh cao ngạo và chân đạp chữ đầu hàng.

Từ trong tăm tối hận thù, anh thắp sáng lên ý nghĩa đời người. Anh đã chiến đấu, để từ trong cõi chết anh bước ra mà sống. Ðể anh trở về từ địa ngục trần gian. Bao đồng đội bất hạnh đã ngã xuống trong rừng thẳm, cuối cùng anh đã trở về:

Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi

(Tô Thùy Yên)

Nước mắt anh không rơi trong ngục tù Cộng Sản, nước mắt anh rơi khi anh được trả tự do. Anh bước về, anh đi giữa lòng quê hương. Anh ngỡ ngàng như thức từ cơn mộng. Có thật chăng đất nước Việt Nam, tàn hơn 30 năm chinh chiến và tù đày, để anh có được một đất nước thanh bình điêu tàn hơn thời chiến?

Và tuổi trẻ, những mầm non đất nước hôm nay xa lạ như người không cùng chung dòng giống. Anh đi trên đường phố xưa, đường đã đổi tên. Anh tìm bạn bè cũ, đứa còn đứa mất. Quê hương này không có chỗ cho anh?

Hai mươi năm chiến chinh, mười mấy năm tù đày trên chính quê hương để rồi anh phải tha hương biệt xứ. Người lính, mười bốn năm lính, mười bốn năm tù, tài sẵn có, được trí trá vài đô la, và mái đầu sương điểm để anh bước vào đời lần nữa.

Anh không có quyền bắt đầu, chỉ có quyền tiếp tục trôi theo dòng đời nghiệt ngã. Người lính cũ ngồi bán nước đá bào cho học trò giờ tan học ở chính quê hương. Hay anh, người lính lưu vong ngồi bán thuốc lá lẻ hằng đêm trong những tiệm Seven Eleven trên đường phố Mỹ.

Ba mươi năm vết thương cũ hầu như chưa lần khép kín. Ôi, hai mươi sáu chữ cái bắt đầu từ a, b, c, đ dẫu sắp xếp khéo léo tới đâu vẫn không đủ để viết nên những bi hùng anh đã đạt. Và cần phải thêm vào bao nhiêu chữ nữa mới diễn tả lên sự xót thương anh.

Chúng ta đã quá may mắn, quá vinh dự để trang sử Việt Nam có thêm những anh hùng như người lính Việt Nam Cộng Hoà, những anh hùng vô danh và sống đời thầm lặng, những anh hùng bình thường mà ta chưa có dịp vinh danh.

Nhưng cho tới nay, ta đã làm gì để tri ân người lính Quốc Gia. Chúng ta những người dân Quốc Gia đi chung con thuyền Miền Nam do các anh chèo chống, đưa qua những con sóng dữ Việt Nam. Những người quốc gia đã sang thuyền trong cơn quốc nạn, và đã để mặc anh chìm trong cơn Hồng Thuỷ của Việt Nam.

Chúng ta, những người quốc gia tầm gửi, đã sống nhờ trên máu xương người lính, và chưa lần đóng góp nào cho chính nghĩa quốc gia. Có phải giờ đây, chúng ta tiếc thương người lính bằng đầu môi chót lưỡi, bằng những video, nức nở kêu gào, hay chúng ta khóc cho người lính bằng những trang thơ vớ vẩn? Và có ai, có ai trong chúng ta cảm thấy thẹn khi ta đã đôi lần hãnh diện vì ta nói tiếng Anh trôi chẩy hơn họ, xe ta đẹp, nhà ta to.

Ngày nay, Người Cộng Sản ở quê hương với đôi tay đẫm máu của thuở nào cũng nói lời phản tỉnh. Vậy còn ta, bao nhiêu người Quốc Gia sẽ thức tỉnh để vẽ chân dung kỳ vĩ và nhiệm màu của Người Lính chúng ta. Có ai trong chúng ta sẵn sàng chi tiêu những bữa tiệc đắt tiền trong những nhà hàng danh tiếng, mua những tấm vé vào cửa của đại nhạc hội lừng tên mà ta tiếc bỏ tiền ra để quyên góp, xây lại tượng Người Lính ở thủ đô đã ngã xuống hôm nào.

Ðể một mai, khi quê hương không còn giống Cộng Sản, ta đem anh về trở lại quê hương. Ðể anh được đứng lên chính nơi anh ngã xuống như cùng thời với đất nước lúc hồi sinh.

Bao nhiêu chuyên gia nhóm họp nhan đề "xây dựng lại đất nước trong thời hậu Cộng Sản". Vậy có ai đã đặt kế hoạch tri ân cho người lính? Bởi, một ngày nào mà ta chưa biết tri ân người lính và đặt họ ở một địa vị xứng đáng mà đáng lẽ họ phải ở từ lâu, thì làm sao ta có thể xây dựng được một xã hội đáng gọi là nhân bản.


Hãy vinh danh người lính Việt Nam Cộng Hoà.

Hãy giữ gìn và bảo vệ tinh thần Vị Quốc Vong Thân của họ
như giữ gìn ngọn lửa thiêng trong lòng dân tộc,
thì dân tộc ta mới mong có được những
truyền nhân xứng đáng với thế hệ tương lai.

Nguyễn thị Thảo An

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Giấc mơ 40 năm chưa thành

Tidoo Nguyễn
Gửi cho BBC từ Sài Gòn
14 tháng 4 2015


Image
Nhiều người miền Nam lên tàu chạy trốn vào cuối cuộc chiến năm 1975
40 năm đánh dấu sự kiện quân đội Bắc Việt chiếm lĩnh và cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập, và cũng là 40 năm đánh dấu ngày tôi ra đời trong ngày đầu tiên của chế độ mới.

Nền giáo dục của chế độ mới dạy tôi rằng ngày 30 tháng 4 là ngày “Thống nhất đất nước”, “Ngày giải phóng miền Nam” bằng chiến thắng vẻ vang. Nhưng khi lớn lên tôi nhận thức được rằng mình phải tìm hiểu sự thật về sự kiện ngày 30 tháng 4.

Mãi cho đến đầu thế kỷ 21 tôi mới tiếp cận được với internet và tìm hiểu sự thật lịch sử qua những tài liệu bằng tiếng Anh trên những trang web nước ngoài, qua những đoạn phim tài liệu về những ngày cuối cùng của Sài Gòn được đăng tải trên Youtube. Và gần đây nhất là được xem bộ phim tài liệu đầy đủ mang tên “Last days in Vietnam”.

Vào ngày 3 tháng 4 năm 1975, khi chiến tranh đã đến hồi hỗn loạn, tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố tất cả trẻ em mồ côi Việt Nam ngay lập tức sơ tán bằng máy bay ra khỏi Sài Gòn. Ước tính có 3.000 trẻ em, bao gồm 150 trẻ sống sót trên máy bay C-5 bị rơi, đã được sơ tán ra khỏi miền Nam Việt Nam vào khoảng ngày 3 tháng 4 cho đến 26 tháng 4 năm 1975. Cuộc sơ tán đó là chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam hay còn gọi là Operation Babylift.

Tôi đã tham gia vào những cộng đồng “Operation Babylift” trên Facebook, đọc những câu chuyện của những đứa trẻ ấy, và tìm hiểu những thông tin liên quan đến chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam trên báo mạng. Qua đó tôi đã biết được những đứa trẻ nàyđã và vẫn tiếp tục dằn dặt với những câu hỏi : “Tại sao tôi là con nuôi?”, “Tại sao bố mẹ đẻ bỏ rơi tôi?”, “Tại sao tôi là người Châu Á duy nhất trong khi các thành viên trong gia đình là da trắng?” Cũng không ngoại trừ trường hợp có người trong số đó muốn đánh đổi tất cả để trở thành người da trắng.

Mỉa mai thay, tôi đã từng mơ ước rằng mình là một trong những đứa trẻ của chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam, được đưa ra khỏi đất nước Việt Nam để làm con nuôi cho gia đình ở nước ngoài trong chiến dịch đó. Nếu được như vậy thì cuộc đời của tôi đã không phải chịu đựng nhiều cơn đói khát, đau đớn trong quá khứ và đầy lo âu ở hiện tại.
Image
Những năm đầu đời của tôi cũng là những năm tháng đất nước bị “ngăn sông cấm chợ”.
Thời đấy tôi không mong ước gì hơn ngoài việc được ăn no. Bữa ăn mà tôi mơ ước chỉ cần có cơm và muối ớt. Thế nhưng cơm và muối ớt là những bữa ăn vô cùng hiếm hoi trong gia đình tôi. Hàng ngày, chúng tôi hái những quả mít non, quả chuối xanh, cắt những mụt măng sau nhà hay đi lượm mót từng hạt mít mà người ta bỏ đi để đem về luộc lên ăn. Chúng tôi ăn cả vỏ khoai mì, cây chuối non để sống. Những hôm “nguồn tài nguyên” cạn kiệt, chúng tôi không có gì để ăn đành nhịn đói ngủ qua đêm.

Cái mặc thì cũng không kém phần khó khăn như cái ăn. Quần áo cũ đứa lớn mặc không còn vừa thì đứa nhỏ hơn sử dụng lại. Tôi là con trai mà phải mặc quần áo của chị tôi. Vì vậy tôi thường là tâm điểm bị đem ra làm trò cười khi đến lớp học trong bộ quần áo của con gái. Chúng tôi không nhận được bất cứ sự trợ giúp nào từ chính phủ.

Tôi không còn mơ ước được sống ở nước ngoài mà mong ước đất nước Việt Nam có sự thay đổi lớn để lấy đi những nỗi lo của tôi và trả lại một xã hội có trật tự như miền Nam Việt Nam nói chung và như Sài Gòn nói riêng của những ngày tháng cũ.

Năm 1978, mẹ tôi chết trong nghèo khó vì không có tiền chữa bệnh, bỏ lại 6 đứa con, 3 gái và 3 trai. Tôi là con trai út trong nhà. Chúng tôi sống cùng người cha đẻ. Tuy nhiên, không phải người bố đẻ nào cũng thương con. Ông ta thường xuyên đánh đập và hành hạ tôi mà không cần lý do gì. Cho đến khi tôi 18 tuổi , thoát khỏi ngôi nhà để đến Sài Gòn sống thì mới tránh được những cơn đòn thừa sống thiếu chết của ông. Chính phủ không có bất cứ tổ chức nào để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi.

Đất nước mở cửa đã hơn 25 năm, tôi đã đi làm cho những công ty nước ngoài. Ước mơ được ăn no của tôi đã thành hiện thực và không còn chịu đựng những cơn đau thể xác từ việc ngược đãi của người cha đẻ. Tuy nhiên, đêm đêm những cơn ác mộng vẫn ập về với hình ảnh bị hành hạ, bị đói khát. Và những nỗi lo về cuộc đời vẫn còn đó. Nếu chẳng may tôi thất nghiệp thì sẽ không có trợ cấp của chính phủ. Tôi chỉ có thể nhận được bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần vì tiền bảo hiểm đã bị trừ vào lương hàng tháng. Tuy nhiên, hiện nay bảo hiểm xã hội đang có nguy cơ vỡ quỹ, dẫn đến điều khoản vô lý của Luật bảo hiểm xã hội mới là không trả trợ cấp bảo hiểm một lần!

Ngoài ra, tôi đang đối đầu với những căng thẳng trong môi trường sống đang bị đe dọa, giao thông càng ngày càng hỗn độn, tệ nạn xã hội tràn lan, cướp giật hoành hành v.v.

Mặc dù vậy, tôi không còn mơ ước được sống ở nước ngoài mà mong ước đất nước Việt Nam có sự thay đổi lớn để lấy đi những nỗi lo của tôi và trả lại một xã hội có trật tự như miền Nam Việt Nam nói chung và như Sài Gòn nói riêng của những ngày tháng cũ.

40 năm đã đi qua, 40 năm nhìn lại với những ước mơ của tôi đã thay đổi theo thời gian. Tôi chỉ có một ước mơ hiện tại rất đơn giản mà đáng lẽ ra cuộc sống của một con người phải có. Chẳng lẽ cả đời này tôi không đạt được ước mơ ấy hay sao?

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »

Tháng Tư từ hai góc nhìn

Nguyễn Hưng Quốc


Lại tháng Tư. Lại thấy trên báo chí và các mạng lưới truyền thông xã hội trên internet những bài viết về một trong những biến cố lớn nhất trong lịch sử Việt Nam hiện đại: tháng Tư 1975. Tuy nhiên, năm nay, các bài viết, đặc biệt ở hải ngoại, dường như khác những năm trước. Trước, người ta chỉ tập trung vào sự sụp đổ của chính quyền miền Nam và những hậu quả của nó. Năm nay, bên cạnh cái nhiều người gọi là ngày “đổi đời” ấy, người ta còn tập trung vào một khía cạnh khác: 40 năm người Việt định cư ở nước ngoài.

Thì cả hai đều có quan hệ nhân quả với nhau thôi: Bởi vì chính quyền miền Nam sụp đổ nên mới có hàng triệu người liều mình vượt biên hay vượt biển để ra đi tìm tự do. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến khía cạnh sụp đổ, người ta chỉ thấy những bi kịch; khi chú ý đến khía cạnh định cư ở nước ngoài, người ta thấy những khía cạnh tích cực và lạc quan hơn. Cho nên, cùng một biến cố, tuỳ theo góc nhìn, người ta thấy những mảng màu khác hẳn nhau.

Chỉ nhìn vào khía cạnh “thua trận”, sau việc mất chính quyền là nạn độc tài và tàn bạo với cảnh hàng chục ngàn người bị lùa vào các trại lao động cải tạo, cảnh đánh tư sản mại bản, cảnh xua dân chúng vào các khu kinh tế mới đầy khổ ải, cảnh con cái của những người từng làm việc cho chế độ cũ bị kỳ thị ngay cả trong việc học vấn, và cuối cùng, cảnh hàng triệu người bỏ nước ra đi, trong đó có cả hàng trăm ngàn người bị hải tặc hoặc bị đắm tàu bỏ xác ngoài biển khơi. Ngày ấy, nói theo Võ Văn Kiệt, có triệu người vui và triệu người buồn. Nói thế là hơi nhẹ. Bởi đâu phải chỉ “buồn”. Người ta còn đau khổ, thống khổ vì những mất mát không thể bù đắp được. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều người gọi đó là ngày quốc hận.

Sau ngày “quốc hận” ấy là những ngày tháng tang thương bi thảm. Về phương diện kinh tế, đời sống mọi người càng ngày càng cùng cực, ngay cả lúa gạo cũng không đủ ăn, phải ăn độn khoai, độn sắn và ăn cả bo bo từ năm này sang năm khác. Về phương diện xã hội, với chính sách hộ khẩu và sổ lương thực, mọi người bị mất cả các quyền tự do cư trú và đi lại. Về phương diện tôn giáo, người ta cũng không được quyền tự do thờ phượng: các nhà tu đào tạo tu sĩ bị đóng cửa, việc đi chùa hay đi nhà thờ cũng gặp rất nhiều khó khăn. Về phương diện chính trị, tất cả các quyền căn bản của con người, từ quyền tự do tư tưởng đến tự do ngôn luận, từ quyền tự do đi lại đến tự do hội họp, từ quyền tự do biểu tình đến quyền tự do lập đảng phái… tất cả đều bị bóp nghẹt.

Bên cạnh những sự “đổi đời” như thế, có một khía cạnh khác năm nay mới được chú ý nhiều: cộng đồng đông đúc với khoảng trên bốn triệu người Việt sống ở rải rác trên 100 quốc gia khác nhau kể từ sau năm 1975.

Nhìn từ góc độ di dân học, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có mấy đặc điểm nổi bật:

Thứ nhất, trong khi các làn sóng tị nạn trên thế giới phần nhiều có tính chất khu vực, chủ yếu di cư đến một quốc gia láng giềng nào đó (ví dụ từ Iraq chạy sang Saudi Arabia, Jordan hay Turkey; từ Afghanistan chạy sang Pakistan), làn sóng tị nạn của người Việt, ngược lại, có tính chất toàn cầu: sau khi đến một quốc gia láng giềng, họ được phép tái định cư ở một quốc gia thứ ba, hầu hết là các nước Tây phương, vừa xa xăm vừa xa lạ về văn hoá (trong đó, đông nhất là ở Mỹ với gần 2 triệu; kế tiếp là Pháp với khoảng 300.000; Úc và Canada mỗi nơi trên 200.000 người).

Thứ hai, ở các quốc gia ấy, người Việt thường có xu hướng sống tập trung ở các tiểu bang hoặc các thành phố lớn và đông dân nhất.

Thứ ba, mặc dù cộng đồng người Việt hải ngoại được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, từ di tản đến vượt biên, từ diện HO đến diện bảo lãnh gia đình, trên căn bản, yếu tố chính trị vẫn là nòng cốt: đó là một cộng đồng tị nạn.

Đặc điểm thứ nhất là một trở ngại cho quá trình hội nhập: từ một nước thuộc loại nghèo khó nhất thế giới đến sống ở một quốc gia thuộc loại tiến bộ và giàu có nhất thế giới với một ngôn ngữ và một văn hoá khác biệt, nhiều người cảm thấy ngỡ ngàng và cần thời gian mới có thể ổn định được cuộc sống. Đặc điểm thứ hai làm xuất hiện những khu phố người Việt, ở đó, người Việt sống tập trung bên cạnh nhau với một bản sắc riêng khác với những người bản xứ hay các cộng đồng di dân khác. Đặc điểm thứ ba làm cho xu hướng chính trị thành một trong những yếu tố chủ đạo hình thành bản sắc của cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại: dù sống ở nước ngoài lâu đến mấy, phần lớn người Việt vẫn đau đáu theo dõi những chuyển biến chính trị ở trong nước và vẫn tha thiết muốn góp phần vào việc cải thiện tình hình ở quê nhà.

Khi nhìn lại 40 năm sống ở hải ngoại, hầu hết các cơ quan truyền thông đều nhấn mạnh đến những thành tựu, từ lãnh vực khoa học, giáo dục đến các lãnh vực chính trị, kinh tế và xã hội. Ở đâu cũng có những điểm son rất đáng tự hào.Phần lớn các tờ báo bằng tiếng Việt ở hải ngoại đều dành một số trang để đăng tải các bài viết ca tụng những người thành đạt. Ở đây, tạm gác qua một bên những cá nhân xuất sắc, chúng ta chỉ nhìn cộng đồng người Việt như một tập thể. Với tư cách tập thể, trong quan hệ với Việt Nam, cộng đồng người Việt ở hải ngoại có hai đóng góp nổi bật nhất.

Thứ nhất, về phương diện kinh tế, số tiền người Việt ở nước ngoài gửi về Việt Nam hằng năm là một nguồn doanh thu quan trọng cho Việt Nam. Chỉ tính qua con đường gửi tiền chính thức, số tiền người Việt gửi về cho thân nhân trong nước vào năm 2009 là 6.2 tỉ Mỹ kim; năm 2010 là 8.1 tỉ; năm 2011 là 9 tỉ và năm 2013 là 11 tỉ biến Việt Nam thành một trong 10 quốc gia nhận kiều hối cao nhất trên thế giới.

Thứ hai, về phương diện chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại tồn tại như một lực lượng đối kháng chế độ độc tài trong nước. Cái gọi là “lực lượng” này phần lớn khá tản mác và tự phát, không có lãnh tụ và cũng không có phương hướng hoạt động chung. Tuy nhiên, đóng góp của họ đối với cuộc tranh đấu cho dân chủ ở trong nước không nhỏ. Trong bài “Cộng đồng hải ngoại như một lực lượng đối lập” đăng trên blog này vào đầu năm 2010, tôi viết: “nếu không có những tiếng nói đối lập ồn ào và gay gắt xuất phát từ, hoặc được khuếch tán bởi, cộng đồng hải ngoại, thì những vụ tham nhũng khủng khiếp ở Việt Nam làm sao có thể phơi bày ra trước công luận? thì những kế hoạch khai thác bauxite ở Tây nguyên làm sao có thể thu hút sự chú ý của quần chúng đông đảo đến như vậy? thì những hành động lấn chiếm vùng biển Việt Nam của Trung Quốc và thái độ nhu nhược của chính phủ Việt Nam làm sao có thể làm nhức nhối nhân tâm đến như vậy? thì những vụ vi phạm nhân quyền thô bạo ở Việt Nam làm sao đến tai thế giới bên ngoài được?”

Hai khía cạnh vừa nêu mâu thuẫn với nhau: Một mặt, về chính trị, cộng đồng người Việt ở hải ngoại phản đối gay gắt chính quyền trong nước; mặt khác, về tài chính, qua việc chuyển tiền về cho thân nhân trong nước, họ góp phần làm cho chính quyền Việt Nam giàu có hơn và có nhiều điều kiện để trấn áp dân chúng hơn.

Nghịch lý ấy ai cũng biết nhưng không phải dễ giải quyết.

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

Nguyễn Tấn Dũng phải lùi bước

Ngô Nhân Dụng
Trong cuộc biểu tình tại tỉnh Bình Thuận làm kẹt xe dài gần 50 cây số trên quốc lộ số 1, người dân đã dùng tới “bom xăng” ném vào đám “công an cơ động.”

Ðây chỉ là những chai đựng xăng, đốt lửa, không gây thương tích nếu không ném trúng người; mà chắc những người ném cũng không cố ý ném trúng ai cả. Nhưng hình ảnh lửa bùng cháy loang ra trên mặt đường vào lúc chập tối, giữa tiếng reo hò của hàng ngàn người dân Bình Thuận, sẽ tạo ra những ảnh hưởng lớn trong các cuộc biểu tình phản kháng sau này. Bởi vì dân Việt Nam đang chứng kiến phong trào phản kháng cường quyền đang biến chuyển mỗi ngày một quyết liệt hơn.

Người dân Việt đã hết sợ Ðảng Cộng Sản, hết sợ từ lâu rồi, cho nên dân oan mới dám tổ chức biểu tình phản kháng. Anh Ðoàn Văn Vươn đã bước qua một lằn ranh giới khi một thân một mình dám kháng cự cả tập đoàn cường quyền gian ác, dù anh chỉ có những vũ khí thô sơ nhất. Bây giờ đồng bào xã Vĩnh Tân huyện Tuy Phong, Bình Thuận đã tự biến thành một một ngàn, hai ngàn Ðoàn Văn Vươn.

Một thay đổi quan trọng khác là nguyên nhân gây ra phong trào phản kháng của người dân xã Vĩnh Tân. Ðồng bào không nổi lên vì bị cướp đất như ở Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, Văn Giang tỉnh Hưng Yên, phường Dương Nội quận Hà Ðộng, vân vân. Nỗi phẫn uất của dân Bình Thuận là không khí, không khí ô nhiễm mỗi ngày họ phải hít thở.

Cuộc biểu tình ở xã Vĩnh Tân có thể mở đầu một phong trào mới: Ðòi quyền được sống trong một môi trường lành mạnh, nước và không khí phải sạch sẽ! Ðáng lẽ ra phong trào này phải bắt đầu từ các thành phố, như Sài Gòn, như Hà Nội. Vì đó là nơi người dân phải sống nhiều nhất với bụi và rác, cống rãnh ngập lụt vào mùa mưa, rau xanh và trái cây nhiễm độc, chưa kể tai nạn xe cộ giết người không khác gì bệnh dịch. Nhưng có thể nói bà con xã Vĩnh Tân đã được người Hà Nội kích thích với những cuộc biểu tình chống chặt cây. Người Hà Nội mới chỉ thấy mất một ngàn gốc cây trong mấy ngày mà đã phải hành động. Dân xã Vĩnh Tân không lẽ cứ chịu hít khói độc, hít bụi than, sống giữa những đống chất phế thải của nhà máy phát điện do Trung Quốc thiết kế; đã kêu khóc mấy tháng trời mà không ai thèm đoái hoài! Những cuộc biểu tình ôn hòa của dân Hà Nội đã buộc chính quyền phải thay đổi chính sách. Người dân Vĩnh Tân thấy họ không thể cứ cúi đầu chịu nhục mãi.

Nhưng trong chuỗi dây chuyền các cuộc phản kháng của dân Việt Nam cuộc đình công vào cuối tháng ba tại Sài Gòn có ý nghĩa lớn hơn nữa. Cuộc đình công của 70,000 công nhân hãng Pou Yuen đánh dấu một biến chuyển quan trọng trong phong trào lao động ở nước ta, sẽ ảnh hưởng tới cả những phong trào nhân dân phản kháng thuộc những lãnh vực khác. Trong vụ này, người nắm quyền cao nhất là thủ tướng chính phủ phải chịu thua và lùi bước.

Cuộc đình công lớn nhất, đạt kết quả nhanh nhất ở Việt Nam từ trước đến nay diễn ra tại công ty Pou Yuen (Bửu Nguyên) vốn Ðài Loan. Nhưng điều đáng nói nhất là cuộc đình công này không nhắm những mục tiêu quen thuộc của phong trào công nhân, như lương bổng, điều kiện làm việc. Các công nhân Pou Yuen đứng đậy để đòi hỏi Ðảng Cộng Sản phải sửa một đạo luật mới được Quốc Hội thông qua vào năm ngoái. Và cuối cùng, Nguyễn Tấn Dũng đã chịu thua, hứa sẽ ra lệnh sai Quốc Hội bù nhìn sửa lại luật theo đòi hỏi của công nhân.

Các công nhân làm việc trong các cơ xưởng của người ngoại quốc đều phải đóng thuế bảo hiểm xã hội, giống như người đi là ở các nước Âu Mỹ đóng Social Security. Tiền đóng góp được đưa vào một quỹ để đầu tư sinh lời. Trước đây, khi các công nhân nghỉ việc, họ có quyền rút hết số tiền “để dành” này, không cần phải chờ tới lúc về hưu mới lãnh dần dần - giống như ở Canada hay ở Mỹ. Năm ngoái, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã làm luật mới, không cho phép các công nhân nghỉ việc được rút hết tiền ra, mà phải chờ tới lúc về hưu. Tất cả các công nhân đều thấy họ bị “bóc lột;” nhưng phải chờ tới 70,000 công nhân của Pou Yuen đứng ra phản kháng thì vấn đề mới được công khai nêu ra trước dư luận.

Anh chị em công nhân tại hãng Pou Yuen không đòi hỏi cho quyền lợi của riêng họ, mà cho tất cả các công nhân Việt Nam đang đóng thuế bảo hiểm xã hội.

Tại sao họ không chấp nhận một chế độ bảo hiểm cho giống như giới lao động ở các nước Âu Mỹ?

Thứ nhất, vì tiền mất giá với nạn lạm phát kinh khủng. Rút được tiền ra ngay chắc chắn tốt hơn là gửi cho cái quỹ của nhà nước, chờ năm, mười năm sau mới được rút, dù nó hứa sẽ sinh lợi. Thứ hai, quỹ bảo hiểm xã hội nằm trong tay Ðảng Cộng Sản thì gửi tiền cho nó giữ cũng giống như trao trứng cho ác. Cả cái Ðảng Cộng Sản là một đảng mafia. Ðảng mafia ở các nước khác chỉ khai thác các sòng bài, các lầu hồng hay buôn lậu. Ðảng Cộng Sản Việt Nam khai thác tất cả tài nguyên của đất nước. Trong đó ít người để ý tới tiền tiết kiệm của người dân trong các ngân hàng, tiền đóng vào các quỹ y tế, xã hội, hưu bổng của dân. Những thứ quỹ này là “món bở” lớn nhất, do Nguyễn Tấn Dũng nắm trong tay, toàn quyền sử dụng và chia chác.

Bình thường, người dân Việt Nam không để ý tới những thứ quỹ như vậy, vì không thấy chúng can dự trực tiếp tới đời sống hàng ngày của mình. Nhưng trong tay bọn tham quan thì đó là những kho vàng mà chúng là những kẻ được Ðảng Cộng Sản trao cho hết chìa khóa, ha hồ mở cửa chia chác với nhau. Năm ngoái, trong khi Quốc Hội bù nhìn thảo luận về dự luật bảo hiểm xã hội mới, nhiều đại biểu có lương tâm đã tố cáo ban quản trị quỹ đem tiền đầu tư vào những nơi khả nghi, nhiều rủi ro. Người dân có thể nổi cơn bất bình khi thấy một việc xây cây cầu hay một con đường bị rút ruột. Họ có thể tức giận khi thấy công ty Vinashin làm mất hàng tỷ Mỹ kim trong mấy năm, nợ như chúa Chổm phải lấy công quỹ trả. Mà tiền bạc chạy đi đâu không ai biết! Nhưng rất ít người nhìn thấy một đạo luật thay đổi quỹ bảo hiểm xã hội cũng có thể giúp bọn mafia kiếm hàng tỷ đô la, kiếm đều đều từ năm này sang năm khác! Vai chính trong truyện và phim God Father (Bố Già) đã nói về anh con rể luật sư, “Một tay sát thủ cầm súng không bằng một thằng sách cặp biết dùng luật.”

Nhưng anh chị em công nhân Pou Yuen đã nhìn ra, và đã phản kháng. Bố Già Nguyễn Tấn Dũng chịu thua. Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu đám nghị gật phải họp nhau sửa lại điều 60 trong đạo luật, cho phép người lao động có thể rút tiền ra một lần chứ không phải chờ đến lúc về hưu.

Ðiều đáng chú ý là anh chị em công nhân Pou Yuen không đòi hỏi những quyền lợi trước mắt, nhưng đã nhìn xa. Họ buộc nhà nước Cộng Sản phải thay đổi cả một đạo luật. Từ trước đến nay chưa một cuộc vận động nào ở nước Việt Nam đạt được một mục tiêu như vậy. Ðiều này có ý nghĩa chính trị rất lớn.

Cho nên Luật Sư Lê Thị Công nhân nhận xét, “Ðây là một bước tiến đáng mừng của người công nhân lao động. Họ đã nhận thức cao và thái độ ứng xử rất tích cực. Phải nói rằng họ đã bắt đầu quan tâm hơn đến những vấn đề chính trị. Chính trị là làm luật mà! Các công nhân biết xuống đường ngay khi có những thay đổi từ bên trên; chứ không đợi cho đến khi nó trực tiếp ảnh hưởng đối với cá nhân của từng người.”

Trong vụ đình công vừa qua, chúng ta còn thấy thái độ đồng tình của ban giám đốc và chủ nhân xí nghiệp Pou Yuen. Các công ty đặt hàng với Pou Yuen như Nike và Adidas cũng vậy. Họ đã chấp nhận cho 70,000 công nhân ngưng việc, biểu tình trong khuôn viên xí nghiệp suốt mấy ngày trước khi tràn ra đường. Giới tư bản, giới lao động, và tầng lớp quản lý chuyên nghiệp đều là nạn nhân của một đảng mafia, đều bị chúng nã tiền hối lộ, sách nhiễu, bóc lột như nhau! Ðây là lúc có thể cất lời kêu gọi mọi người cùng đoàn kết chống một kẻ thù chung, là đám cướp ngày!

Ðồng bào xã Vĩnh Tân, Bình Thuận chắc cũng đã theo dõi cuộc tranh đấu của công nhân hãng Pou Yuen. Thành công của anh chị em công nhân Pou Yuen cũng giống như kết quả mà dân Hà Nội đã dạt được khi ngăn cản kế hoạch “ăn cây” của băng đảng tay chân Nguyễn Phú Trọng. Mỗi cuộc phản kháng thành công sẽ kích thích cho mọi người ý thức về các quyền lợi của chính mình đã bị Ðảng Cộng Sản tước đoạt. Rất mừng thấy khí thế của dân Việt Nam đang lên, Ðảng Cộng Sản đang lùi từng bước một.

nguyenthanh
Posts: 859
Joined: Fri Jan 06, 2012 5:40 pm

Post by nguyenthanh »

Ngày mất tự do cũng là Ngày Tìm Tự Do
Ngô Nhân Dụng


Quốc Hội Canada đã thông qua dự luật (Bill S-219) quy định ngày 30 Tháng Tư mỗi năm là ngày “Tìm Tự Do” (Journey to Freedom),
và đạo luật đã được ban hành một tuần trước ngày kỷ niệm 40 năm dân miền Nam bị Cộng Sản cướp mất tự do.


Image
Thượng nghĩ sỹ gốc Việt ông Ngô Thanh Hải (bên phải) là người hỗ trợ việc trình đạo luật ’30/4′.
Năm ngoái, Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đề nghị dự luật này với tên là “Ngày Tháng Tư Ðen” (Black April Day). Khi thảo luận tại Thượng Viện, nhiều nghị sĩ đề nghị đổi tên để mang một ý nghĩa tích cực hơn và dễ được người Canada thuộc các sắc dân khác ủng hộ; do đó đề nghị đổi tên thành luật Hành Trình Tìm Tự Do. Nhiều người Việt không thỏa mãn với tên gọi không phản ảnh nỗi đau buồn và uất hận vì mất tự do. Nhưng đổi tên là một thỏa hiệp khôn ngoan để đạt mục đích muốn cả nước Canada ghi nhận phong trào vượt biển tị nạn của người Việt sau ngày 30 Tháng Tư 1975 là một biểu tượng cho khát vọng tự do của con người. Chưa một sắc dân nào ở Canada được Quốc Hội đối xử đặc biệt như vậy.

Tại các nước khác, do yêu cầu của các công dân người Việt tị nạn, nhiều thành phố hoặc tiểu bang đã biểu quyết về ngày 30 Tháng Tư, hoặc đã ghi nhận giá trị biểu tượng của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Tại các nơi đó nhiều cử tri gốc Việt tham dự trong các cuộc bầu cử. Canada là nước đầu tiên ban hành một đạo luật hiệu lực trên toàn quốc, ghi nhớ ngày 30 Tháng Tư tượng trưng cho khát vọng tự do của loài người, dù các công dân gốc Việt chiếm khoảng 1% dân số. Người Việt ở các nước khác có thể nêu trường hợp Canada như một tiền lệ khi yêu cầu các đại biểu quốc hội noi theo gương Canada.

Cho nên việc ban hành đạo luật Hành Trình Tìm Tự Do là một thắng lợi của người Việt tị nạn khắp thế giới, không riêng ở Canada. Thắng lợi này càng nổi bật lên vì chính quyền Cộng Sản đã phản đối và ngăn cản bằng nhiều cách trước khi dự luật được đem ra thảo luận. Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh đã gửi thư cho Bộ Ngoại Giao Canada yêu cầu Quốc Hội không thảo luận bản dự luật S-219. Nguyễn Tấn Dũng chính thức gửi thư phản đối với Thủ Tướng Stephen Harper, còn đe dọa rằng dự luật này có thể làm phương hại quyền lợi thương mại và đầu tư của Canada ở Việt Nam.

Những lời phản đối này được báo chí loan tải, các công dân Canada biết tin và theo dõi. Vì thế việc hai viện Quốc Hội Canada lần lượt biểu quyết chấp thuận bản dự luật ghi nhận ngày 30 Tháng Tư càng có ý nghĩa mạnh hơn! Một luật sư người Việt tại Canada, ông Vũ Ðức Khanh nhận xét: “Tôi nghĩ Hà Nội đang làm trò hề vì họ không hiểu luật chơi, không biết ở một nước dân chủ như Canada vận động ai.” Ở một nước tự do dân chủ ông thủ tướng không thể ra lệnh cho quốc hội như một nước độc tài đảng trị. Dù Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải thuộc cùng đảng với Thủ Tướng Harper nhưng trong Quốc Hội còn hai đảng lớn khác. Ðối với các vấn đề có tính cách nhân bản và lịch sử vượt trên các quyền lợi phe phái, các đại biểu chỉ bỏ phiếu theo lương tâm. Bộ Trưởng Jason Kenney, phụ trách đa văn hóa nói ông ủng hộ dự luật bởi đó là cách ghi nhớ thành tích của 60 ngàn người Việt “đã dám đánh đổi mạng sống để đi tìm tự do, và đã tìm được tự do tại Canada.”

Nhiều công dân Canada gốc Việt đã điều trần trước Quốc Hội giải thích lý do tại sao nên ghi nhận ngày 30 Tháng Tư như một ngày tưởng niệm hàng năm. Ông Lê Duy Cấn, từng là hội trưởng Liên Hội Người Việt ở Canada nhiều năm và đề xướng lập Tượng Ðài Thuyền Nhân ở thủ đô Ottawa. Ông Cấn giải thích: Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bỏ tù mấy trăm ngàn người và đầy ải những người khác lên các “vùng kinh tế mới” dân miền Nam quyết định phải chạy thoát chế độ cộng sản; một nhà báo Pháp đã nhận xét: Nếu cái cột đèn biết đi nó cũng chạy. Ðặc biệt, các người Việt gốc Hoa bị tống xuất ra biển, sống chết không cần biết. Ông nhắc tới thảm cảnh của các thuyền nhân vào năm 1978, 79 khi các nước Ðông Nam Á không chấp nhận cho họ cập bến. Tình trạng này gây xúc động cho mọi người dân Canada.

Ông Cấn kể lại, lúc đó chủ tịch Công Ðoàn Canada là ông Dennis McDermott đã nói, “Rõ ràng là vấn đề thuyền nhân Việt Nam đã lớn lên thành một cuộc khủng hoảng nhân đạo của cả thế giới. Các phản ứng duy nhất là phải hành động quyết liệt ngay lập tức. Một phong trào phát xuất từ phía người dân đã kêu gọi hành động, riêng tại thủ đô Ottawa đã có 3,000 người biểu tình thỉnh nguyện; trong một tháng có 347 nhóm đứng ra bảo trợ. Thị trưởng Ottawa lập “Dự án 4,000” để tiếp nhận bốn ngàn người tị nạn. Giáo Sư Howard Adelman ở Toronto đã sáng lập “Chiến Dịch Cứu Nạn” (Operation Lifeline). Trước làn sóng nhân đạo đó, Thủ Tướng Joe Clark quyết định nhận 50,000 người tị nạn, sau tăng lên 60,000.

Một phụ nữ Việt Nam ở Quebec, cô Anne Quách Minh-Thu đã điều trần về chuyến vượt biển tìm tự do của gia đình cô, với hai đứa con mới hai, ba tuổi. Cô nói: “Hôm nay tôi được đứng nói ở Quốc Hội này là vì cha mẹ tôi đã trốn thoát và được tị nạn ở Canada, bắt đầu một cuộc đời mới trong hòa bình, tự lực lao động để sống còn. Tôi sinh ra và lớn lên ở Canada vì lòng can trường của cha mẹ tôi và vì lòng hào hiệp của dân Canada, để hôm nay tôi được tham dự vào cuộc sống dân chủ của xứ sở này.”

Sứ quán Việt Cộng cũng tìm được người ủng hộ họ ra điều trần trước Quốc Hội. Mai Thu ở Ottawa đã phê bình rằng nước Canada có bao nhiêu nhóm người tị nạn từ khắp thế giới đến, không nên chọn một ngày riêng cho dân Việt Nam. Ông còn nghi ngờ dự luật này có thể gây chia rẽ vì chỉ có một nửa trong số 220,000 người Việt ở Canada là dân tị nạn, những người khác thì không chống chính quyền hiện nay. Giáo Sư Nguyễn Duy Vinh ở Ottawa đã phản bác, nói rằng 90% những người “không tị nạn” là những thân nhân đã được người tị nạn bảo trợ. Mai Thu cũng biện hộ rằng chính quyền Việt Nam hiện nay không còn là Cộng Sản nữa mà theo kinh tế tư bản với khuynh hướng xã hội; nhưng ông Vinh đã vạch rõ chế độ độc tài tàn bạo hiện nay vẫn còn, mà điều số 4 trong Hiến Pháp vẫn cho đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quyền chuyên chế.

Trong bài điều trần của ông Lê Duy Cấn tại Quốc Hội Canada, ông kết luận rằng việc đưa tay đón nhận người Việt tị nạn là một chương sách sáng chói trong lịch sử Canada. Nó cho thấy tấm lòng từ bi và hào hiệp của dân tộc Canada trước những thảm cảnh của loài người khắp thế giới, trong đó có những người chạy trốn khỏi ách độc tài tàn bạo. Chương sách chói lọi này đáng được vinh danh, ghi vào lịch sử, bằng dự luật S-219.

Nhờ các cuộc điều trần trước Quốc Hội Canada, các đại biểu được nhắc nhở tới thảm cảnh của các thuyền nhân chạy trốn Cộng Sản. Một điều không ai muốn nhắc tới vì nó quá bỉ ổi, là dã tâm của đảng cộng sản Việt Nam lợi dụng cả phong trào chạy trốn chế độ tàn ác của họ để trục lợi. Vào những năm 1978, 79, cả thế giới xúc động trước làn sóng người Việt tị nạn; trong khi đó các lãnh tụ và cán bộ cộng sản đã nhân cơ hội kiếm tiền, bằng cách bán chứng chỉ công nhận là Hoa kiều, và tiền “bán bến.” Một cán bộ cấp tỉnh kiếm nhiều tiền nhất chính là Nguyễn Tấn Dũng. Thái độ tính toán lạnh lùng của Việt Cộng không qua mắt được những quan sát viên ở ngoài, như Lý Quang Diệu.

Tháng Năm năm 1979, một chiếc Anh quốc là Roach Bank cứu nhiều người tị nạn, nhưng tới Ðài Loan thì bị đó từ chối không cho lên bờ. Bà Margaret Thatcher, thủ tướng Anh đã viết thư nhờ ông Lý Quang Diệu ở Singapore can thiệp giúp, để chiếc tàu này không phải qua Hồng Kông, thuộc địa của Anh. Các nước cứ đổ lẫn cho nhau xem nước nào có bổn phận đón nhận người Việt tị nạn, ông Lý Quang Diệu đã viết trong thư trả lời: “Tôi tin rằng những tin tức về vấn đề người tị nạn qua truyền thông và qua phát ngôn viên các chính phủ phương Tây chỉ làm lợi cho chính quyền Việt Nam.” Cho nên, ông đề nghị: “Các nước này... nên tập trung vào việc vạch trần tính bỉ ổi của chính quyền Việt Nam. Phải nói, phải nhắc đi nhắc lại cho nhân dân và các nhà lãnh đạo toàn thế giới biết rằng chính quyền nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chính là những kẻ tích cực thúc đẩy cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng cho các nước Ðông Nam Á.”

Nội dung bức thư này đã được nhà văn Phạm Thị Hoài dịch và công bố trên mạng. Ông Lý Quang Diệu nói với bà Thatcher rằng, “Chúng ta phải đẩy họ vào thế thủ. Các người lãnh đạo Việt Nam không phải là những thằng điên... Họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề động lòng trắc ẩn với chính đồng bào của họ, nhưng làm con tính so sánh chi phí với lời lãi thì rất nhanh. Chỉ có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ mới khiến họ phải suy xét lại đường lối hiện tại. Từ giờ đến lúc đó, họ sẽ còn tung ra hàng ngàn người tị nạn mỗi tuần.”

Những con người “bỉ ổi, lạnh lùng, chỉ tính toán lời lỗ” sau đó quả nhiên đã “bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ.” Cho đến khi đất nước cùng kiệt và chế độ sắp tan rã vì cả khối cộng sản ở Châu Âu sụp đổ, họ mới thay đổi. Giờ này họ vẫn còn ngự trị trên quê hương chúng ta. Vì vậy, mỗi năm đến ngày 30 Tháng Tư người Việt Nam vẫn thấy là một ngày tang tóc. Nhưng từ năm nay, ngày 30 Tháng Tư còn có thể mang thêm một ý nghĩa mới: Ngày quyết tâm xây dựng tự do dân chủ.

Nhờ các dân biểu và nghị sĩ Canada đã lắng nghe lương tâm và lẽ phải, Dự luật S-219 đã chính thức thành đạo luật “Hành Trình Tìm Tự Do,” có giá trị tích cực với 35 triệu dân Canada, và tất cả mọi con người yêu tự do trên thế giới. Chúng ta tưởng niệm ngày 30 Tháng Tư bằng những nỗ lực cùng tất cả mọi người Việt Nam tranh đấu đòi dân chủ, cuộc Hành Trình Tìm Tự Do cho dân tộc sẽ tiến nhanh hơn.

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

Image
Nhìn Lại 40 Năm

Trần Khải

Như thế là tròn 40 năm, kể từ ngày 30-4-1975, khi kết thúc Cuộc Chiến Việt Nam.

Một cách căn bản, đây là Nội Chiến Quốc-Cộng. Một cách tổng thế, đây là cuộc chiến quốc tế, với lãnh thổ Việt Nam trở thành chiến trường -- nghịa là, Việt Nam là điểm nóng của Cuộc Chiến Tranh Lạnh giữa Thế Giới Tự Do, và Thế Giới Cộng Sản.

Nhìn từ lý luận, đây là cuộc chiến ý thức hệ; trong khi nhìn về cảm xúc ẩn kín, đây là cuộc chiến thống nhất đất nước, nhưng phủ màu kích động Chống Mỹ.

Nói một cách tổng quát qua diễn tiến biên niên, theo Tự Điển Bách Khoa Mở, Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh Đông Dương (1945–1979).

Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ và một số đồng minh khác như Úc, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là hình nộm bù nhìn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đều do Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa (cộng sản), đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc.

Cuộc chiến này tuy gọi là "Chiến tranh Việt Nam" do chiến sự diễn ra chủ yếu tại Việt Nam, nhưng đã lan ra toàn cõi Đông Dương, lôi cuốn vào vòng chiến cả hai nước lân cận là Lào và Campuchia ở các mức độ khác nhau. Do đó cuộc chiến còn được gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ 2.

Cuộc chiến này chính thức kết thúc với sự kiện 30 tháng 4, 1975, khi Tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa đầu hàng Cộng quân.

Bao nhiêu người chết?

Theo Wikipedia, Chiến tranh Việt Nam đã gây ra cái chết của từ 2 đến 5 triệu người Việt (tùy từng nguồn khác nhau).

Trong số các nước đồng minh của Việt Nam Cộng hòa, người Mỹ có số thương vong cao nhất với hơn 58.000 người chết và hơn 305.000 người bị thương (trong đó 153.000 bị thương nặng hoặc tàn phế).

Vào khoảng từ 4.400 đến 5.000 binh sĩ Hàn Quốc bị chết; Úc có khoảng 500 chết và hơn 3.000 bị thương; New Zealand 38 chết và 187 bị thương; Thái Lan 351 chết và bị thương; còn Philippines vẫn chưa có con số thống kê cụ thể.

Nhà văn Phạm Đình Trọng bên thắng trận, trong bài viết nhìn lại 40 năm đăng ở mạng Bauxite Việt Nam, nhan đề “Cần gọi đúng tên cuộc chiến này” đã ghi nhận, trích như sau:

“Lần thứ 40 ngày 30 tháng Tư của lịch sử đau thương mất mát, của vui nông nổi mà buồn thăm thẳm lại đến.

Suốt 40 năm qua, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền đã ngốn quá nhiều tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên đất nước vào việc tự huyễn hoặc mình và lừa dối người dân về ngày 30 tháng Tư năm 1975, ngày huy hoàng đại thắng, ngày vẻ vang thống nhất đất nước.

Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người Việt, hệ quả tất yếu của hiệp định Genève cắt đôi đất nước Việt Nam thành hai tiền đồn, hai trận tuyến của hai ý thức hệ quyết liệt đối kháng, tiêu diệt nhau, chia đôi dân tộc Việt Nam thành hai thế lực thù địch không đội trời chung, hai tên lính xung kích của hai lực lượng đối kháng đó. Việc chia cắt độc đoán, phũ phàng, oan nghiệt đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam hoàn toàn do những người cộng sản thực hiện, cộng sản Tàu mưu toan và áp đặt, cộng sản Việt cam tâm cúi đầu chấp nhận.

Rắp tâm làm cuộc nội chiến, lực lượng cộng sản Việt Nam ở miền Nam phải chuyển ra miền Bắc theo qui định của hiệp định Genève nhưng họ đã bí mật ém lại lượng lớn súng đạn và khá đông đội ngũ lãnh đạo cộng sản chỉ biết có đấu tranh giai cấp bạo liệt, sắt máu, không biết đến đạo lí thương yêu đùm bọc giống nòi. Đầu năm 1959, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành nghị quyết 15 xác định rõ việc thâu tóm miền Nam bằng bạo lực cách mạng, tiến hành chiến tranh trong lòng dân tộc, quyết thực hiện nội chiến tương tàn.

Có nghị quyết 15, những người cộng sản ở miền Bắc liền hối hả mở đường đưa súng đạn và lực lương chiến đấu vào miền Nam. Tháng năm, 1959, đường mòn từ miền Bắc xâm nhập miền Nam được mở dọc theo dãy Trường Sơn. Tháng Bảy, 1959, mở tiếp đường mòn trên biển, mở luồng mở bến cho những con tàu không số chở súng, đạn, thuốc nổ từ Đồ Sơn, Hải Phòng vào Vũng Rô, Phú Yên, Trung Bộ, vào Gành Hào, Cà Mau, Nam Bộ.

Có nghị quyết 15, cán bộ cộng sản ở lại miền Nam nằm vùng liền tổ chức, tập hợp lực lượng. Những hầm súng đạn được khui lên. Cuối năm 1959, tiếng súng nội chiến bùng nổ ở Trà Bồng, Quảng Ngãi. Ngày 17.1.1960, tiếng súng nội chiến rộ lên ở huyện Giồng Trôm và huyện Mỏ Cày, Bến Tre. Từ đó tiếng súng nội chiến lan ra khắp miền Nam. Khắp miền Nam, nơi nào cũng có lãnh đạo cộng sản nằm vùng, nơi nào cũng mịt mù lửa khói nội chiến, lênh láng máu người Việt giết người Việt. Từ đó, ngày 17.1.1960 được những người Cộng sản tự hào coi là ngày Đồng khởi vẻ vang của họ. Còn lịch sử Việt Nam phải đau buồn ghi nhận ngày 17.1.1960 là ngày khởi đầu cuộc nội chiến Nam Bắc.

Chiến tranh vũ trang thảm khốc và chiến tranh chính trị lừa dối do những người cộng sản phát động đã đẩy chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam vào cuộc khủng hoảng nặng nề, triền miên không có điểm dừng. Trước nguy cơ sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, một chính quyền được tổ chức theo mô hình dân chủ văn minh, có tam quyền phân lập thực sự, nhờ thế người dân miền Nam bước đầu đã có tự do dân chủ thực sự, một chính quyền đang chiến đấu ngăn chặn sự tràn lan bạo lực cộng sản; trước nguy cơ cả Đông Nam Á bị tràn ngập trong sắt máu bạo lực cộng sản, năm 1965, sáu năm sau nghị quyết 15 của Đảng Cộng sản Việt Nam sử dụng bạo lực thâu tóm miền Nam, gần sáu năm sau tiếng súng nội chiến bùng nổ ở miền Nam, Mĩ mới đưa quân vào miền Nam Việt Nam cứu đồng minh Việt Nam Cộng hòa trước nguy cơ sụp đổ và củng cố một tiền đồn ngăn chặn cơn thác lũ cách mạng bạo lực cộng sản đang ở đỉnh cao trào.

Năm 1965, quân đội Mĩ đổ vào Việt Nam cũng như năm 1944 quân đội Mĩ đổ bộ vào châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai, cũng như năm 1950 quân đội Mĩ đổ bộ lên bán đảo Triều Tiên đều không có mục đích xâm lược, không đánh chiếm lãnh thổ mà chỉ để làm trách nhiệm của một đồng minh và làm trách nhiệm của một nước lớn bảo đảm một thế giới ổn định, công bằng, bảo vệ những giá trị tự do, dân chủ của con người, ngăn chặn thảm họa phát xít thời thế chiến hai và ngăn chặn thảm họa cộng sản đang như bệnh dịch nhấn chìm thế giới vào hận thù đấu tranh giai cấp, vào bạo lực chuyên chính vô sản và nô dịch con người…”(ngưng trích)

Cần ghi nhận: nhà văn Phạm Đình Trọng, 71 tuổi, cũng là một đại tá hồi hưu của bên thắng trận, và bản thân ông đã trả thẻ đảng, tự ý ly khai đảng Cộng sản sau hơn 40 năm tuổi đảng!

__._,_.___

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »


30 Tháng Tư,
cô nghệ sĩ Kim Chi dứt khoát

Ngô Nhân Dụng
Ai đọc bài viết về ngày 30 Tháng Tư của diễn viên Kim Chi mà mắt không đẫm lệ thì chắc không phải là người Việt Nam. Nỗi đau đớn của người “nghệ sĩ ưu tú” này cũng là nỗi đau của tất cả dân tộc, nhất là những người đã bị lừa gạt, đã bị nghe tuyên truyền dối trá.

Kim Chi hồi tưởng lại 40 năm trước, “Ngày 30 Tháng Tư năm 1975, chúng tôi vui thực sự, vui đến phát khóc.” Rồi cô kể tâm trạng ngày nay: “Bây giờ tôi mới thấy đó là niềm vui ngộ nhận. Hóa ra, niềm vui, niềm tin và những hy vọng cứ sáng lên trong tôi suốt thời chiến trường khói lửa ấy là do ‘nghệ thuật tuyên truyền...’’”

Năm 1954, Nguyễn Thị Kim Chi được đưa đi “tập kết” ra Bắc khi mới 11 tuổi, thân phụ cô đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp. Khi lớn lên, cô chỉ được nghe những lời “nghệ thuật tuyên truyền” của đảng Cộng Sản. Năm 21 tuổi cùng chồng là nhà quay phim Hồng Sến vượt Trường Sơn vào chiến trường miền Nam. Năm 1964, đảng Cộng Sản đưa thêm quân từ Bắc vào, tăng cường độ chiến tranh để chiếm miền Nam nhanh chóng hơn. Một hậu quả là thúc đẩy chính phủ Mỹ phải đưa quân vào cứu chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Trong thời gian đó Mỹ vẫn còn lo lắng ngăn cản cuộc bành trướng của Trung Cộng xuống vùng Ðông Nam Á. Kim Chi tham dự cuộc chiến mà không biết mình đang đóng vai người một lính tiên phong, mở đường cho đạo “giải phóng quân” của Mao Chủ Tịch chiếm Hoàng Sa và Trường Sa sau này.

Ðọc những cảm nghĩ của Kim Chi về các đồng đội đã chết trong thời chiến ai cũng phải rớt nước mắt. Bao nhiêu con người đã hy sinh. Mà kết quả cuộc chiến là một đất nước đau buồn. Ông Võ Văn Kiệt đã công nhận ngày 30 Tháng Tư có triệu người vui cũng có triệu người buồn. Nhưng ông Kiệt là một nhà chính trị, suy nghĩ trong thế giới trừu tượng. Kim Chi là một nghệ sĩ, cô sống với những nỗi vui buồn của đồng đội. Cô đau khổ khi đối diện với thực tế sau ngày 30 Tháng Tư 75, dần dần tỉnh giấc mơ. Mọi người nên đọc toàn thể bài cô viết để chia sẻ tâm trạng “Nỗi riêng lớp lớp sóng vùi - Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn.”

Là một nghệ sĩ với tấm lòng đa cảm, cô Kim Chi chỉ kể tâm trạng mình sau 40 năm thay đổi ra sao. Nhưng đọc toàn thể bài viết của cô, chúng ta có thể thấy đằng sau tâm sự đó còn chứa đựng những ý nghĩ dứt khoát. Cô Kim Chi không viết thẳng những ý kiến này, nhưng trong lòng cô đã lên án những sai lầm tác hại cho đất nước của đảng Cộng Sản.

Ðiều dứt khoát thứ nhất là: Cuộc chiến xâm chiếm miền Nam là sai. Vì những hậu quả của cuộc chiến đó Kim Chi đã nhìn thấy rõ. Cô viết: “Với tôi bây giờ 30 Tháng Tư không phải là giải phóng miền Nam. Miền Nam trước đây là mơ ước của Thái Lan, của Singapore. Vậy mà bây giờ Việt Nam ta tụt sau họ hằng thế kỷ.” Kinh nghiệm cá nhân cô là, “Những văn nghệ sĩ trên chiến trường thời ấy, cũng như tôi, ai cũng tin tưởng sau chiến tranh Việt Nam sẽ có một tương lai tươi sáng. Nhưng bây giờ,... tôi lại phải khóc ‘trong nỗi đau thời cuộc,’ trong những nỗi buồn da diết!”

Lớn lên ở miền Bắc nhưng bản chất Kim Chi vẫn là “người Nam Bộ.” Cô thông cảm được ngay với nỗi đau đớn của người miền Nam. Cô đã bất bình khi chứng kiến cảnh “những kẻ chiến thắng đã cư xử với người thua cuộc tàn bạo một cách tiểu nhân.” Mà một hậu quả họ gây ra là “hàng triệu người miền Nam buộc phải trở thành thuyền nhân. Ðã hàng ngàn người chết chìm, làm mồi cho cá mập. Khi nhận ra được sự tồi tệ này tôi thấy vô cùng đau đớn.”

Năm 1975, Nguyễn Ðình Toàn đã từng khóc “Sài Gòn ơi, ta mất người như người đã mất tên.” Năm nay, 2015, Kim Chi viết, “Nhiều lần tôi bay vào Sài Gòn cùng đồng đội về thăm căn cứ cũ ở miền Ðông, miền Tây Nam bộ.” Cô đã trả lại tên cho thành phố Sài Gòn, không dùng cái tên mới do “Bên Thắng Cuộc” đã áp đặt mà không người Sài Gòn nào chấp nhận.

Ðiều dứt khoát thứ hai của cô Kim Chi trong bài viết về 30 Tháng Tư là: “Nô lệ Trung Cộng là sai.” Cũng như tất cả mọi người, Kim Chi nhìn thấy: “Việt Nam ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc một cách thảm hại cả kinh tế lẫn chính trị.” Cô nói thẳng: “Nhà nước lúc nào cũng ra rả 'bạn 16 chữ vàng' và '4 tốt.' Giờ luận điệu đó chỉ lừa được trẻ con chứ sao lừa được nhân dân.”

Cô Kim Chi cũng dư biết rằng óc “tôn thờ Trung Quốc” đã bắt đầu từ thời Hồ Chí Minh. Trả lời một nhà báo Pháp, Hồ Chí Minh giải thích lý do ông không viết sách vì “tất cả những gì cần đã có Mao Trạch Ðông viết cả rồi.” Nghĩa là, chính ông Hồ chỉ cần học tập và thi hành mà thôi. Năm 1947, chỉ năm tháng sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu, Hồ Chí Minh đã gửi thư xin ý kiến đảng Cộng Sản Trung Quốc về đường lối kháng chiến. Ðiều này dễ hiểu vì ông đã từng làm thiếu tá trong Giải Phóng Quân Trung Cộng, làm một chuyên viên điện đài trong Ðệ Bát Lộ Quân. Khi đã làm chủ tịch nước Việt Nam rồi, Hồ Chí Minh cho các văn nô ca ngợi Trung Cộng bằng những câu thơ hèn hạ như: “Bên ni biên giới là nhà - Bên kia biên giới cũng là anh em” (Tố Hữu). Hồ Chí Minh đồng ý cho phổ biến câu thơ Chế Lan Viên: “Bác Mao không ở đâu xa - Bác Hồ ta đó chính là Bác Mao,” chứng tỏ ông chấp nhận đóng vai một “phó bản” của Mao Trạch Ðông, một “Mao con.” Trong cuộc chiến tranh Nam Bắc, Lê Duẩn còn nói: “Ta đánh là đánh cho Trung Quốc, đánh cho Liên Xô.”

Cũng chỉ vì Cộng Sản Việt Nam sợ Trung Cộng, cô Kim Chi nhận xét: “Lãnh đạo Việt Nam sợ Trung Quốc đến nỗi cho đục bỏ cả tên tuổi của các chiến sĩ khắc trên bia đá ở biên giới (những người hy sinh trong cuộc chiến tranh 1979). Tàn nhẫn hơn là mỗi lần anh em chúng tôi tổ chức những cuộc tưởng niệm các chiến sĩ đã hy sinh ở Gạc Ma, ở Hoàng Sa, ở biên giới đều bị đám côn đồ quấy phá, chửi bới tục tĩu.” Nỗi sợ hãi Trung Cộng của giới lãnh đạo đảng đã truyền xuống cả hạ tầng bộ máy cai trị. Nhà văn Dương Thu Hương mới kể rằng “... các sĩ quan của Bộ Nội Vụ cấm vợ con họ ăn các loại quả ngâm thuốc bảo quản xác chết nhung không để lọt tin ra vì 'tránh làm mất lòng nước bạn.'”

Không cần nói ai cũng hiểu, chính quyền Cộng Sản sợ Trung Cộng chỉ là hậu quả, nguyên nhân là Hồ Chí Minh đã theo chủ nghĩa Cộng Sản. Suốt đời ông Hồ lúc nào cũng hãnh diện nhắc tới giờ phút quan trọng nhất đời ông là “giác ngộ chủ nghĩa Mác Lênin.” Năm 1950, đối mặt tay ba, Stalin đã “trao Việt Nam cho Mao Trạch Ðông phụ trách,” ông ông Hồ đã tuân hành. Ông Hồ vẫn răn dạy cán bộ: “Bác cháu chúng ta có thể nhầm chứ đồng chí Stalin không thể nhầm được.” Từ câu nói đó nhìn thấy số phận đau khổ của cả dân tộc.

Cho nên trong bài mới viết cho ngày 30 Tháng Tư, cô Kim Chi cho thấy một điều dứt khoát thứ ba của cô, là nhìn nhận “Chọn lựa đưa nước ta theo chế độ Cộng Sản là sai.” Chính cô đã từng sung sướng tuyên thệ gia nhập đảng Cộng Sản: “Ngày ấy tôi tin mãnh liệt vào sự lãnh đạo tuyệt đối của đảng NHÂN DÂN CÁCH MẠNG (đảng cộng sản đổi tên). Rằng “Giải phóng miền Nam để chấm dứt chiến tranh. Sẽ xây dựng một Việt Nam ẤM NO, TỰ DO, DÂN CHỦ, HẠNH PHÚC và GIÀU MẠNH.”

Ngày nay, cô mỉa mai: “Những điều nói và làm khác biệt, 'làm ngược với nói' như thế, dân Nam Bộ chúng tôi đã đúc rút: 'Nói dzậy mà hổng phải dzậy... Bây giờ mỗi lần 30 Tháng Tư, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng Cộng Sản Việt Nam và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời.’”

Vì vậy, trong bài viết của Kim Chi chứa đựng điều dứt khoát thứ tư là: Phải chấm dứt chế độ Cộng Sản! Lý do thì ai cũng đồng ý với cô: Cộng Sản là một đảng cướp, cướp của cải, ruộng đất và đàn áp dân oan. Cô viết: “Có còn xứ sở nào nhiều dân oan như ở Việt Nam không? Ðoàn Văn Vươn đã khiến dư luận trong và ngoài nước phẫn nộ... Rồi cái chết của Ðặng Ngọc Viết ở Thái Bình càng khiến dư luận xót xa. Rồi tiếp nữa Cấn Thị Thêu ở Dương Nội đang phải ở tù vì bảo vệ đất... Khắp nơi dân oan khiếu kiện bị mất đất, mất nhà. Ðau xót lắm! Căm hận lắm!”

Trong khi đó, cô viết: “Ðảng Cộng Sản và nhà nước Việt Nam vẫn quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường Chủ Nghĩa Xã Hội không tưởng. (Mặc dù Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng nói rằng ‘có thể trăm năm nữa Xã Hội Chủ Nghĩa cũng chưa hoàn thiện.’)” Kim Chi lên án: “Chính vì cái đường lối kỳ quái này mà hiện nay đất nước vẫn đói nghèo lạc hậu.” Cho nên phải chấm dứt chế độ Cộng Sản thì mới có hy vọng, như Kim Chi ước mơ: “Nước Việt Nam sẽ đổi mới theo cùng thời đại trên trái đất này với một thể chế chính trị thực sự hợp lòng dân, không còn ‘độc đảng sinh ra đảng trị độc đoán, chuyên quyền,’... một đất nước thực sự có tự do, dân chủ, nhân quyền.”

Sau khi đọc những lời tâm tình của Kim Chi, chúng ta thấy bốn tư tưởng dứt khoát trong suy nghĩ của cô, dù cô không viết đầy đủ: (1) Ðảng Cộng Sản gây chiến chiếm miền Nam là sai. (2) Tôn thờ, lệ thuộc Trung Cộng là sai. (3) Theo chủ nghĩa Cộng Sản, lập chế độ Cộng Sản là sai. (4) Duy trì chế độ Cộng Sản là sai; cần phải chấm dứt.

Người Việt Nam hiện nay ai cũng đồng ý với Kim Chi; nhưng ít người dám nói dứt khoát như vậy. Năm 2013, cô Kim Chi đã can đảm từ chối không chấp nhận một bằng khen có chữ ký của Nguyễn Tấn Dũng với lý do là, “Tôi không muốn trong nhà tôi có chữ ký của một kẻ đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân. Với tôi, đó là một điều rất tổn thương vì cảm giác của mình bị xúc phạm.” Năm đó, trả lời ký giả Mặc Lâm, đài RFA, cô cho biết bốn chữ “làm khổ nhân dân” là do chồng cô đề nghị thêm vào. Trong cuộc phỏng vấn này cô cũng nhớ lại các đồng đội trong cuộc chiến tranh Trung-Việt năm 1979: “Chị đã từng diễn trong lúc pháo bầy bắn tới, khán giả chết nhưng mà mình không chết. Chị di chuyển với đồng đội thì đồng đội bị bắt, bị giết, bị mổ vú, bị Tàu ăn thịt, nhưng chị vẫn còn sống.”

Kim Chi giữ một niềm tin và tính Thiện của con người: “Quan niệm đầu tiên của chị là: sống phải tử tế. Sống trung thực, không cúi đầu trước bất cứ cái gì... Chị vững tin như thế vì con người có lương tri còn nhiều lắm. Lẽ phải còn nhiều lắm vì vậy những người mong cái gì tốt đẹp cho quê hương cho đất nước vẫn còn rất nhiều.”

Chúng ta cũng đều tin tưởng của Kim Chi: “...tôi có một niềm tin mãnh liệt vào ý chí của toàn dân Việt Nam cả trong và ngoài nước, sẽ không để mặc cho những người lãnh đạo muốn làm gì cũng được. Theo xu thế văn minh tiến bộ của loài người nhất định nhân dân sẽ đòi được NHÂN QUYỀN, DÂN CHỦ. Phải có hai thứ đó thì mới mong THOÁT TRUNG. Chỉ có ‘Thoát Trung’ thì Việt Nam mới cất cánh... Tôi tin rồi sẽ tới lúc mọi người sẽ nhận ra mình phải tự cứu mình. Nhất định ngày đó sẽ tới... Khi đó, tôi ‘lại sẽ vui’ biết bao khi được đoàn tụ cùng tất cả bà con, anh chị em ở hải ngoại trở về cùng xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, văn minh.

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

Image

Nhân ngày 30/4: Những món nợ không sao trả nổi
Bùi Tín

Nhân kỷ niệm 40 năm ngày 30/4, Bộ Chính trị Đảng CSVN chủ trương tổ chức kỷ niệm trọng thể «Ngày toàn thắng», «Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước», với những diễn văn cao ngạo đầy mỹ từ sáo rỗng, cờ quạt màu mè, trống kèn ầm ỹ, duyệt binh lên gân, pháo bông lóe mắt.

Tất cả chỉ để phủ lấp tình trạng bi thảm của một đất nước lạc hậu về mọi mặt: giáo dục trì trệ, y tế bệ rạc, khoa học kỹ thuật chậm tiến, xã hội đầy bất công, đảng cầm quyền đầy sai lầm và tội lỗi trước dân tộc và nhân dân, với cả một lớp cường hào CS ngang nhiên ăn cắp tài sản quốc gia để trở thành tầng lớp địa chủ CS, tư sản mại bản CS vượt rất xa các đại điền chủ - tư bản lớn nhất thời Pháp thuộc.

Tình hình bi thảm của đất nước chứng minh Đảng CSVN không còn có một lý do chính đáng nào để tiếp tục cầm quyền, tiếp tục tàn phá đất nước. Bảy mươi năm trước, nhân lúc đất nước bị bỏ trống - thực dân Pháp bị phát xít Nhật đảo chính, rồi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh - Đảng CSVN đã nổi dậy cướp chính quyền, từ đó giữ chặt quyền lực cai trị cho riêng mình, không qua một lá phiếu tín nhiệm nào của công dân. Chữ «cướp chính quyền» do chính đảng CS dùng không biết bao nhiêu lần trong các văn kiện chính thức đã nói lên tính chất «cướp», không đàng hoàng, không hợp chính nghĩa của họ từ hồi đó.

Nếp cai trị độc đoán của Đảng CSVN là dùng Cương lĩnh chính trị cùng các Nghị quyết của đảng qua các cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị để cai trị đất nước. Hiến pháp chỉ là văn kiện thứ yếu phụ thuộc Cương lĩnh của đảng, Quốc hội chỉ là công cụ dân chủ giả hiệu của đảng với 90 % đại biểu là đảng viên. Đây là một chế độ đảng trị lỗi thời, lạc lõng lẻ loi ở thế kỷ thứ XXI khi thế giới đã bước vào kỷ nguyên Dân chủ từ thế kỷ XVIII.

Nhân dân VN ngày càng hiểu rõ tình trạng thật sự của đất nước, đòi phải thay đổi hẳn hệ thống cai trị hiện tại, nhân dân phải được quyền tự do đầy đủ của công dân, quyền tự do bầu cử, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo, tự do lập hội đã được ghi trong Hiến pháp. Các quyền này đã bị hạn chế, cắt xén, phủ định bởi đảng cầm quyền.

Hiến pháp là luật gốc, không một đạo luật hay quyết định nào được đi ngược lại bất cứ điều khoản nào đã được ghi rõ trong Hiến pháp. Nhiều nước lập ra Viện Bảo hiến, hay Hội đồng Bảo hiến để bảo vệ triệt để Hiến pháp. Một món nợ lớn của Bộ Chính trị với dân ta là đã dùng nội dung hướng dẫn thi hành luật để phủ định nhiều điều Hiến pháp đã cho phép. Như Hiến pháp công nhận quyền biểu tình, vậy mà một Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, lại tự cho mình quyền cấm nhân dân biểu tình bảo vệ cây xanh của thành phố. Đây là một quyết định vi hiến, phải bị coi là vô giá trị. Món nợ dân chủ - nhân quyền của Đảng CSVN với toàn dân ta là món nợ lớn nhất, cấp bách nhất.

1

Nếu nói đến những món nợ của Đảng CSVN với nhân dân Việt Nam trong 70 năm qua thì thật sự không sao kể ra hết được. Nợ thì phải trả. Đó là lẽ công bằng của cuộc sống. Nhân dịp kỷ niệm ngày 30/4 chỉ xin kể thêm những món nợ cơ bản nhất.

Với hàng mấy triệu lượt chiến sỹ QĐND được đảng kêu gọi nhập ngũ để vào Nam chiến đấu, với hứa hẹn của đảng là hy sinh mạng quý của mỗi người là xứng đáng để tổ quốc hoàn toàn độc lập, xã hội sẽ ấm no, hạnh phúc. Với hy vọng ấy hàng triệu thanh niên đã lao vào khói lửa, sẵn sàng sinh Bắc tử Nam, để đến nay xã hội lạc hậu, nhân dân nghèo khổ so với các nước xung quanh đến thế này ư? Để bọn bành trướng lấn lướt láo xược đến thế này ư? Bộ Chính trị làm sao trả được món nợ cực lớn này khi vong linh của hàng triệu liệt sỹ hiện về chất vấn. Họ thường thắp hương trước đài liệt sỹ mà không hề cảm thấy có tội lỗi với hương hồn các liệt sỹ đã bị họ lừa dối.

Với nhân dân miền Nam nước ta, món nợ lớn của Đảng CSVN là ở điểm then chốt như sau. Trong Hiệp định Geneve (tháng 7-1954) và Hiệp định Paris (tháng 1-1973) chính quyền CS Hà Nội đã cùng các bên long trọng cam kết «tôn trọng quyền dân tộc tự quyết» được ghi rõ trong Hiến chương của Liên Hiệp Quốc, cam kết «tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam», bảo đảm «nhân dân mỗi miền có quyền tự do lựa chọn chế độ chính trị không có sự can thiệp của bên ngoài», cam kết «không đe dọa dùng vũ lực và không dùng vũ lực». Hiệp định Paris còn quy định «ngừng bắn tại chỗ», «các bên không nhập thêm vũ khí vào vùng đóng quân của mỗi bên», «thay thế vũ khí hư hỏng có kiểm soát quốc tế, theo tỷ lệ một đổi một». Cam kết trên đây không những là cam kết với nhân dân miền Nam, mà còn với nhân dân cả nước, và là cam kết chung với cả cộng đồng quốc tế. Nhưng họ đã chủ trương vi phạm ngay từ trước khi ký kết.

Đảng CSVN đã phản bội lời cam kết này trước hết và và nghiêm trọng hơn hết là với nhân dân sống ở miền Nam, kể cả hàng triệu nhân dân miền bắc đã di cư vào Nam, bỏ phiếu bằng đôi chân 20 năm trước, rồi tiếp đó lại phải lao ra biển thành «thuyền nhân». Món nợ này đối với đồng bào ta ở miền Nam là rất lớn, vì đây là nạn nhân trực tiếp của cuộc xâm lăng phi pháp, là nạn nhân bi thảm của sự cam kết giả dối tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, rồi cam kết hão về hòa hợp, hòa giải dân tộc, lại còn hứa hươu hứa vượn về thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa giải và Hòa hợp Dân tộc với 3 thành phần ngang nhau ở miền Nam, và cam kết quan hệ 2 miền Bắc - Nam sẽ «không bên nào
cưỡng ép hoặc thôn tính bên nào». Thảm kịch «tù cải tạo» là một món nợ cực lớn nữa đối với đồng bào ở miền Nam nước ta.

Ngay trước mắt, đối với toàn dân là món nợ của Bộ Chính trị về chống tham nhũng quyết liệt, về thảo ra Luật Biểu tình, Luật Trưng cầu Dân ý, Luật về lập Hội, rồi cải cách thể chế chính trị và kinh tế, sửa đổi các điều khoản mơ hồ trong bộ Luật hình sự như đã hứa hẹn với trong nước và thế giới.

Xem ra Bộ Chính trị vẫn đủng đỉnh, bình thản, mặc cho tình thế rất khẩn trương, quan hệ trong đảng rất căng thẳng, nhất là đối với đảng viên trí thức mà khá đông có tâm và có tầm hơn hẳn các ủy viên Bộ Chính trị, mặc cho tâm lý xã hội đang chuyển biến theo hướng tự do dân chủ, với hàng loạt biểu hiện mới: «Tôi không thích đảng CS!», «Tôi muốn biết sự thật», «Chúng ta là Một».

Họ thản nhiên vì với thời gian cầm quyền họ tha hồ đục khoét thêm cho các phe nhóm lợi ích riêng tư. Họ thản nhiên vì ỷ lại vào sự chống lưng của của Thiên triều Bành trướng TQ giàu tiền của, chỗ dựa tinh thần vật chất mà họ mù quáng tin vào sự vững mạnh trường cửu.

Ngày 30 tháng 4 năm nay phải là ngày tính sổ nợ lưu cữu của Đảng CSVN với toàn dân, với nhân dân cả 2 miền Nam - Bắc, đều là nạn nhân của đường lối cai trị toàn trị thâm hiểm đầy bạo lực và sai lầm của đảng.

Vui vẻ gì, tự hào gì, vẻ vang gì cho Đảng CSVN khi tội lỗi chất chồng như thế, những món nợ kinh hoàng đến thế để mà bày vẽ duyệt binh với pháo hoa. Nếu là một tổ chức chính trị lương thiện, Đảng CSVN ắt phải tủi hổ sâu sắc để tạ tội với toàn dân về những tội lỗi nặng nề kéo dài lê thê trong 70 năm qua.

User avatar
saohom
Posts: 2240
Joined: Wed Aug 26, 2009 11:30 pm

Post by saohom »

CS Chết Vì Tham Nhũng

Vi Anh
Tham nhũng là cái chết của độc tài CS. CS chống tham nhũng cũng chết mà không chống cũng chết. Đó là định mệnh của CS, đó là lẽ vô thường, pháp nhân hay thể nhân không ai tránh khỏi. Điều này có thể thấy rõ trong chiến lược đả hổ diệt ruồi do Chủ Tịch Tập cận Bình đang thực hiện ở Trung Quốc.

Một, không chống tham nhũng, Đảng Nhà Nước CS cũng chết. Vì tham nhũng là mầm sanh và mầm tử của CS. Đảng Nhà Nước CS là cha sanh mẹ đẻ của tham nhũng vì chế độ CS là độc tài, đảng trị toàn diện, không một cơ quan nào giám sát, không có tự do báo chí phanh phui, đảng viên cán bộ tự tung tự tác, nhỏ ăn theo nhỏ, lớn ăn theo lớn. Đảng Nhà Nước hủ hoá trở thành tổ chức tội ác có tổ chức như Mafia. Phe này trong đảng chống phe kia, thịt nhau theo kiểu CS ai thắng ai, một mất một còn, chớ không tương nhượng hay thoả hiệp như trong chánh trị tự do.

Hay dân chúng không thể chịu nổi quốc nạn tham nhũng, dân chúng sớm muộn gì cũng phải vùng lên, chế độ độc tài đảng trị bị nổ bùng hay nổ chụp, làm suy tàn, sụp đổ Đảng Nhà Nước CS như ở Liên xô và các nước CS ở Đông Âu chết yểu quá trẻ không tới 75 tuổi trong khi thế giới sử các chế độ tuổi thọ tính bằng thế kỷ.

Hai, chống tham nhũng thì Đảng Nhà Nước CS cũng chết. Hoặc chết vì lợi dụng việc chống tham nhũng để triệt hạ phe phái lẫn nhau. Hay chết vì cán bộ, đảng viên bất động, không ăn được không dại gì làm hay sợ càng làm càng có nhiều khuyết điểm chết uổng mạng.

Hai cái chết vì tham nhũng của CS, trong một chế độ Đảng CS kiểm soát một quốc gia dân tộc đông dân nhứt hoàn cầu, với một kiểu độc tài đảng trị toàn diện, và là một chế độ CS còn sót lại ở Á châu, là Trung Quốc bị CS thống trị gần 60 năm, nên gọi gọn là Trung Cộng.

Trong những chủ tịch TC, muốn hay không muốn, chống hay không chống, cũng phải nói Chủ Tich Tâp cận Bình của TC hiện thời là người chống tham nhũng mạnh nhứt. Chiến lược bài trừ tham nhũng của Ông được “quần chúng nhân dân” quan tâm nhứt so với các chính sách của Đảng, Nhà Nước, Quân Đội mà Ông là người lãnh đạo tối cao và toàn diện.

Dân chúng cũng thích vì không có người dân nào ưa bọn sâu dân mọt nước. Và người dân thích vì nay không phải tốn tiền đút lót cho đảng viên, cán bộ tham nhũng là kẻ cướp ban ngày như hồi đó tới giờ, khi CS cướp được chánh quyền nước Trung Hoa.

Phải nói Tập cận Bình là người dám chơi trội, chơi nổi trên thế giới, không sơ mang tiếng, quyết đào tận gốc, trốc tận rễ, có nhiều hành động ít ai dè như công bố danh sách hàng ngàn cán bộ, đảng viên tham nhũng nhờ các nước và Interpol cảnh sát quốc tế truy lùng bắt dùm cho TQ.

Nhưng bức tranh nào cũng có phía sau của nó. Mặt tối đó là khoảng 11 triệu đảng viên, cán bộ, công nhân viên mất đi một tư lợi rất lớn, do không dám tham ô nhũng lạm của nước và của dân nữa.

Theo thống kê chánh thức của Ban Tổ chức Chánh quyền đặc trách về quản lý cán bộ, đảng viên, công nhân viên, công chức làm việc cho Đảng Nhà Nước, thì có 10 ngàn người bỏ việc chỉ trong ba tuần lễ của tháng Hai năm 2015. Số công chức thôi việc này tạo nhiều khó khăn cho việc điều hành hệ thống tư pháp của TQ.

Bên cạnh còn một số khó khăn, trở ngại có tính quốc gia đại sự cho TQ. Tai hoạ tham nhũng thẩm thấu, mọc rễ chằn chịt trong mọi cán bộ, đảng viên, công chức và công nhân viên của Đảng Nhà nước TC. Một giáo sư luật của Đại Học Renmin phỏng tính, chiến dịch đả hổ diệt ruồi của Chủ Tịch Tập chưa sờ gáy, chưa mở hồ sơ điều tra tham nhũng đối với khoảng hai triệu viên chức của TQ, nhung nếu làm thì những người này sẽ bị tù với án không dưới 45 năm mỗi người.

Chưa làm không có nghĩa là không làm. Chủ Tich Tập từng tuyên bố không ngưng chiến dịch, không tha thứ cho bất cứ ai. Điều đó có ý nghĩa Chủ Tịch Tập sẽ đào tận gốc, trốc tận rễ những bè lũ của đối thủ của Ông đã chống Ông trên đường chinh phục quyền lực của Ông như Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang và những nha trão, tay chân bộ hạ của họ còn nằm trong Đảng Nhà Nước đang cầm quyền.

Quyết tâm của Chủ Tịch Tập cho thấy qua hành động là được ăn cả ngã về không trong ý đồ dùng tham nhũng diệt đối thủ, đã làm cho đối phương của Ông cảm thấy quá nguy hiểm. Một số chọn con đường tự tử. Và một số bí mật đoàn kết lai chống kẻ thù chung là Chủ Tịch Tập.

Một số bỏ việc. Một số trốn ra ngoại quốc cả ngàn người. nhiều nhứt ở Mỹ và Canada,Chủ Tịch Bình đang nhờ Cảnh sát Quốc tế bắt dẫn giải về TQ.

Bên cạnh chiến dịch bài trừ tham nhũng, Chủ Tịch Tập còn nỗ lực chống ô nhiễm môi sinh, đụng chạm đến quyền lợi của cán bộ, đảng viên CS ở địa phương sống nhờ ăn xới ăn bớt quỹ qui hoach lấy đất của dân trả rẻ mạc rồi đem bán hay hùn với ngoại quốc giá cao cả trăm lần hơn.

Càng ngày Chủ Tịch Tập càng thấy cô đơn và lo sợ cho mạng sống của mình. Nhứt là khi thấy Chu Vĩnh Khang, một nhân vật nắm trọn quyền an ninh nội chính cả chục năm, đã có cả một hệ thống tay chân bộ hạ chân rít trong nhiều địa phương, ngành nghề. Khang lại tư thông với tình báo gián điệp ngoại quốc nữa.

Tóm lại tham nhũng là cái chết của chế độ CS độc tài đảng trị toàn diện. CS chống tham nhũng, CS cũng chết. CS không chống tham nhũng, CS cũng chết. Đó là định mạng, là số kiếp của độc tài CS./.(Vi Anh)

Post Reply