Nhạc sư Hải Linh khi còn sống ở New Orleans thường rất ít khi thắt cà vạt. Mỗi lần đi đâu phải buộc cà vạt vào cổ cho hợp chỗ "nhớn" thì ông lấy làm khổ sở lắm. Ông bảo giống như sắp bị "thắt cổ" lãnh án tử hình vậy; không thì nó cũng chẹt bóp cổ mình ăn nuốt làm sao cho ngon được!
Riêng tôi mỗi lần đi ăn tiệc mà ngồi ở chỗ cao thì cũng chẳng mấy thú vị gì. Một trong những lý do dễ hiểu là chỗ vị vọng thường ngay sát sân khấu có nhiều loa phóng thanh, mà ban nhạc bây giờ phải đánh to hết sức xem ra mới đã. Thế là mình cứ việc lo mà đền tội trong suốt hơn một tiếng đồng hồ: màng tai thì giãn bong lùng bùng, các dây thần kinh thì lỏng ra thật đáng ái ngại.
Sau bằng ấy văn minh tiến bộ, sau bằng ấy hệ thống tư duy và giành giật chủ nghĩa, rốt cục con người nhìn lại thấy mình có thể đã không sống hạnh phúc hơn một con cóc hay một con cò, một con chim nhỏ trên cành cây hay một bông hoa dại bên bờ đường. Thật là một điều nghịch lý. Nhà thơ Luân Hoán đã buông tiếng thở dài:
"Đôi khi chống nạng ngắm trời,
thấy con cóc nhảy khơi khơi mà thèm."
BA MƯƠI BA CÁI KHOÁI CỦA KIM THÁNH THÁN
Đang khi nhiều người mong mỏi đời mình sẽ khấm khá khi ngồi được chỗ cao hơn, được lên cấp, tăng lương, mua được bộ đồ mắc tiền, tậu được chiếc xe láng cho le lói với thiên hạ, thì nhà nghệ sĩ Tàu là Kim Thánh Thán đã khám phá ba mươi ba lúc vui thỏa thật giản đơn. Và Lâm Ngữ Đường đã ghi lại trong Một Quan Niệm Về Sống Đẹp (The Importance of Living).
1. Tháng bảy mùa hè, mặt trời ngừng ở giữa trời, không có gió mà cũng không có mây, sân trước sân sau hực lên như lò lửa, không một con chim nào bay lại. Mồ hôi đổ khắp mình, chảy như suối. Cơm dọn sẵn trước mặt mà ăn không được. Bảo trải chiếu để nằm trên đất, nhưng chiếu ướt nhẹp, ruồi bay lại đậu ở cổ ở mũi, đuổi không đi. Đương lúc không biết làm sao thì bỗng mây đen kéo tới, sấm nổ vang như trăm vạn tiếng trống tiếng kèn của đạo quân. Mái nhà nước xối như thác. Mồ hôi ngưng chảy, đất sạch như quét, ruồi bay đi hết, ăn cơm được. Vậy chẳng khoái lắm sao?
2. Trước phòng đọc sách, chặt các cây rủ lá che để trồng một vài cây chuối. Vậy chẳng khoái lắm sao?
3. Sau bữa cơm, không biết làm gì, dạo chợ thấy một món đồ nhỏ muốn mua. Trả giá cũng gần xong, số tiền chỉ còn cách nhau một chút mà người bán không chịu nhường, cố tranh cho được. Tôi lấy trong tay áo ra một vật giá trị cũng xấp xỉ chỗ sai biệt đó, ném xuống quầy cho người bán hàng. Hắn đổi ngay sắc diện, cười vui. Vậy chẳng khoái lắm sao?
4. Lúc rảnh rỗi không biết làm gì, sắp đặt lại đồ vật trong một cái rương cũ, bỗng thấy hằng chục hằng trăm văn khế cũ mới của những người thiếu nợ. Người còn sống, kẻ đã chết, nhưng toàn là vô hy vọng đòi lại được tiền. Không cho ai hay, tôi gom lại, châm lửa đốt hết, ngẩng lên nhìn trời cao không gợn một đám mây. Vậy chẳng khoái lắm sao?
5. Một ngày hè, dậy sớm, thấy người ta cưa tre làm ống nước ở dưới một mái che. Vậy chẳng khoái lắm sao?
6. Mưa dầm suốt tháng, sáng nằm ở giường không muốn dậy, như người say rượu hoặc đau. Bỗng nghe chim ríu rít mừng nắng. Tôi vội đưa tay ra vén màn, đẩy mạnh cửa sổ ngó ra, thấy ánh mặt trời long lanh rực rỡ, và cây trong rừng như mới gội. Vậy chẳng khoái lắm sao?
7. Đêm đông uống rượu, trời chuyển lạnh dữ, đẩy cửa sổ nhìn ra thấy tuyết đã phủ mặt đất tới ba bốn tấc. Vậy chẳng khoái lắm sao?
8. Mở tủ ra, tình cờ tìm được bức thư của một người bạn cũ. Vậy chẳng khoái lắm sao?
9. Một bạn nghèo lại mượn tiền, nhưng còn ngại ngùng và nói bâng quơ những chuyện đâu đâu; đoán được nỗi khổ tâm của bạn, kéo lại chỗ vắng, hỏi cần bao nhiêu, rồi đi gấp vô nhà trong, lấy đủ số ra đưa. Và hỏi bạn có cần về gấp để thu xếp công việc không, nếu không thì ở lại uống vài chén rượu. Vậy chẳng khoái lắm sao?
10. Mở cửa sổ cho con ong bay ra. Vậy chẳng khoái lắm sao?
11. Thấy chiếc diều đứt dây. Vậy chẳng khoái lắm sao?
12. Trả hết nợ. Vậy chẳng khoái lắm sao? v.v.
TIN VUI TỪ CON CÓC NHẢY KHƠI KHƠI
Ấy, đại khái 33 lúc khoái của Kim Thánh Thán nó dễ dàng như vậy đấy. Ông ta có thể ghi ra thêm cả trăm, cả ngàn, cả triệu lúc sảng khoái khác cũng được vậy thôi. Tội nghiệp cho thi sĩ Byron chỉ hưởng được có ba giờ sung sướng trong suốt một đời. Chắc ông ta vào loại bị bệnh bất mãn kinh niên, nếu không thì ít ra ông cũng hưởng được 33 lúc khoái như Kim Thánh Thán chứ. Thấy diều đứt dây cũng thú. Thấy trời mưa cũng thú, trồng thêm một cây cũng thú, dứt được một vài ràng buộc làm mất thong dong cũng thú. Nhiều cái thú lắm. Và Lâm Ngữ Đường góp ý: "Đọc đoạn Kim Thánh Thán trên, có phải rõ ràng thế giới là một bàn tiệc bày ra cho chúng ta hưởng đấy không? Tôi ngờ rằng sở dĩ chúng ta cứ ngoan cố nhắm mắt không chịu nhìn cái thế giới đẹp đẽ đó thôi."
Nhà thơ Luân Hoán đã bày tỏ được một lúc khoái bằng một tình cờ rất hiển nhiên trong Cỏ Hoa Gối Đầu:
đôi khi chống nạng ngắm trời
thấy con cóc nhảy khơi khơi mà thèm.
Nhìn một con cóc nhảy cũng là một cách chiêm nghiệm hay thiền đấy. Mình bỗng cảm nhận được cái thong dong, tự tại, sung sướng với những gì mọi khi vẫn coi là tầm thường thấp kém. Hạnh phúc thật giản đơn đã luôn được trao ban sẵn đó, khi nắm bắt được vẻ kinh ngạc lạ lùng của sự hiện hữu, của chính sự sống lần đầu thấy tim mình đang đập và máu đang chuyển, thấy được nhựa cây đang đẩy chất màu cho những búp mới nhú ra, thấy được tia nắng mới dậy thì nhảy múa trên làn cỏ tươi mát, thấy được mắt của con ruồi được cấu tạo bằng trên ba ngàn lăng kính...
Đây chính là phút đốn ngộ phát hiện ra một dòng sức sống bao la vẫn không ngừng nhảy múa, trong cây, trong lá, trong từng li ti huyết quản, trong sức cựa động đổi mùa. Cuộc đời đã vốn giàu có quá, rộng lượng quá. Thế là tâm mình tự nhiên được rộng mở, lên ngôi được với lượng từ tâm cao cả của đất trời kia.
Con cóc biết lãnh nhận và hưởng được niềm sảng khoái được sinh ra trên mặt đất. Con chim, con cá cũng vậy. Chẳng có con nào phải đi viện thẩm mỹ, phải đi nhà thương tâm trí, phải đi khai an sinh xã hội...Mình cảm thấy thẹn khi thấy con cóc nhảy khơi khơi nhởn nhơ sung sướng mà mình thì mỗi ngày mỗi thêm nhăn nhó phờ phạc và nhỏ nhoi ti tiện hẳn ra. Cũng tại mình thích vênh mặt lên, tách lìa khỏi mạch nhựa miên viễn để tự giam nhốt mình vào cái bị thịt tù túng. Đúng như Tin Vui Chúa Giêsu đã loan báo cho thời điểm này:
"Ai nhấc mình lên sẽ bị hạ xuống; và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên". (Luca 14: 11)
PHÚT TỊNH TÂM
Người thích tìm chỗ cao thì đang phải trả giá rồi, vì chận vít và đánh mất đi niềm hoan lạc tự thân, rất đơn giản, tinh ròng. Lòng người mẹ bao la vì biết chọn chỗ thấp nhất như biển cả. Thấp nên đón nhận và dung hóa được tất cả mưa trời, thác suối, sông ngòi...
Xin cho lòng tôi cũng được đục khoét trở thành ống sáo rỗng không, cho hơi thở tình yêu từ trời phả vào thành giai điệu reo vui bất tận.
Bài hát tôi đã rũ sạch điểm tô lòe loẹt, không còn kiểu cách huênh hoang.
Đồ trang sức sẽ ngăn cách Người với tôi, làm giảm đi thân tình, làm động đạc át cả tiếng thì thầm nhè nhẹ.
Trước mặt Người lòng hợm hĩnh thi nhân nơi tôi chết trong thẹn thùng.
Ôi thi bá đời tôi, tôi xin đến ngồi dưới chân Người!
Chỉ xin biến đời tôi thành bình dị, thẳng ngay, như ống sáo trúc Người phả đầy âm nhạc vào trong.
(Tagore, Lời Dâng #7)
Lm. Trần Cao Tường
(từ tác phẩm Nhịp Múa Sông Thanh, Thời Điểm xuất bản)
Từ những kinh nghiệm xương máu của thực tế cuộc sống mà người Hán đã sáng tạo ra cách viết chữ nhẫn: chữ đao (con dao) ở trên và chữ tâm (con tim) ở dưới. Lưỡi dao ấy ở ngay trên tâm, và nếu như gặp chuyện mà không biết nhẫn nhịn thì tránh sao khỏi đau đớn, có nhẫn nhịn mới chuyển nguy thành yên, bại thành thắng, dữ thành lành…
Trong kinh điển, người biết nhẫn nhục, chính là người mạnh nhất. Còn theo thánh Gandhi: Nhẫn nhục ví như không khí, chẳng biết chống trả, nhưng có khả năng vô hiệu hóa những quả đấm của kẻ bạo tàn!
Vì thế mà người xưa đã tốn rất nhiều giấy mực để viết về nó, đã răn dạy rất nhiều những lợi ích và tác hại xung quanh chữ nhẫn này. Thời hiện đại ngày nay thì sao?
Nhẫn, không phải là sự cam chịu tiêu cực.
Đúng vậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà chữ nhẫn lại có bộ đao phía trên như biểu hiện của những nỗi thống khổ sâu sắc như dao nhọn, chúng có thể khía vào trong tâm trí, trong con tim ta, làm cho ta đau đớn, tủi nhục và khó chịu.
Nhưng, nhẫn, đừng nên hiểu một cách tiêu cực, là phải gồng mình cam chịu ôm nhục, là luồn cúi để đạt được mục đích. Nếu có chuyện không hay, hãy dùng trí tuệ để thấy đúng lẽ thật, buông xả mọi hơn thua với người ta và không cố chấp phiền hận.
Người “chửi” mình, nếu đúng thì nhận, nếu không phải thì xả bỏ. Chứ nếu nhớ hoài suốt đời, thì tự mình chuốc lấy cái khổ cho mình và còn làm cho người khác khổ lây.
Tóm lại, chữ nhẫn ngoài sự chịu đựng điềm tĩnh còn cần phải có sự tha thứ, phải có từ - bi - hỷ - xả. Nhẫn là độ lượng, khoan dung, nhận đúng bản chất mà kiên tâm nhẫn nại... Nhẫn, chính là thể hiện bản lĩnh của con người.
Khổng Tử xưa đã nói: “Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu” (Việc nhỏ mà không nhẫn được, thì việc lớn ắt sẽ hỏng).
Nhiều gia đình thường treo chữ nhẫn trong nhà, như tự răn mình để giữ được hòa khí trong gia đình. Ôi chao, nhịn đi có một sự, đổi lại được những chín điều lành cơ mà.
Vậy nên, anh em có tranh nhau tí đất đai, vợ chồng có nổi cơn tam bành, ta có “hận” sếp, có xích mích gì với hàng xóm, có bị ai “đì” đi nữa, thôi thì nhẫn đi.
Con tim nhức nhối lắm, khi thấy mình phải chịu đựng thua thiệt, phải kém chị kém em, thành ra hậm hực, tức tối nổ con ngươi con mắt chỉ vì những thứ nhỏ nhặt.
Người ta có cái ví đầm hàng hiệu xịn hơn, thế là phải đua đòi chẳng kém cạnh gì, kẻo mang tiếng “quê”! Hoặc người ta xe nọ xe kia, nếu mình không có, thì đau buồn mà bi luỵ trách móc số sao mãi chả giàu để được làm... đại gia.
Mẹ chồng hủ lậu, lắm lời... cẩn thận đấy! Ra đường, nhẫn á, nhịn á, ganh nhau đến từng chỗ đỗ xe trước đèn xanh đèn đỏ, còi bấm cứ là nhức cả óc. Tông xe vào nhau, là gầm gừ như chuẩn bị xuống cắn xé nhau ngay!
Đến cái chuyện quyền lợi hay tiền nong, ai mà động chạm, thì cứ liệu hồn. Tốt nhất là nên việc ai người đấy làm, tiền ai người ấy hưởng, chứ ức chế quá, là xử lý nhau ngay.
Nhẹ thì bằng bom thư, cao hơn nữa, sẽ được chọn làm đối tượng để buôn dưa lê, nặng thì đơn kiện nặc danh, tệ hơn là thuê xã hội đen dằn mặt...
Thuở phong kiến, chồng có là nông dân thì vợ cũng phải hầu như hầu ông chủ; thời này, chồng mà lười biếng, lại mắc tính loăng quăng bồ bịch, cờ bạc thì dè chừng! Vợ mà đỏng đảnh, hay “không biết đẻ”, hay nọ kia, lơ mơ là ông quăng quần áo ra ngoài đường.
Cho nên, kết hôn cũng nhanh, mà chia tay, ly dị cũng quá lẹ. Chẳng có vấn đề gì phải kéo dài những mấy chục năm. Thời này, chữ nhẫn là chữ gì mà đòi hỏi phải mất thời gian đến vậy?
Nhẫn, cũng không phải là nhục một cách hèn nhát
Thời xưa, vua Câu Tiễn nằm gai nếm mật, nuốt mọi tủi nhục chỉ để chờ thời cơ làm nên chuyện lớn. Như vậy, cái chữ nhẫn nhục trở thành động cơ sống, thành quái chiêu của một số người nhằm đạt đến mục tiêu cần thiết của họ.
Ngược lại, chữ nhẫn như trái tim bồ tát của Quan Âm Thị Kính khi bị “vu oan” mọi bề, lay động thân tâm của con người, đó là:
“Chữ rằng nhẫn nhục nhiệm hòa/ Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu...”
Nhẫn ngày nay, nhiều khi đã thành nhẫn nhục một cách hèn nhát. Nhẫn quá, thành ra... nhục. Nó là điều sỉ nhục, làm xấu hổ, tổn thương đến lòng tự ái của mình.
Nhục, bởi vì sợ quyền thế, nhục vì đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được, nhục để mong cầu có người khen, hay được chức trọng, quyền cao, nhẫn nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho mình cao hơn người, không thèm chấp nê, phản đối.
“Tránh voi chẳng xấu mặt nào...”, nhiều khi thấy cái sự bất bình ra đấy, nhưng chẳng liên quan đến ta, thì ta “mackeno”. Cái sự nhịn ấy, xem phần nó cũng mang tính AQ, rằng thôi, nhịn đi một tí, chết ai!
Hiểu sai chữ nhẫn nhất là khi ghép chữ nhẫn với chữ tâm, để trở thành nhẫn tâm, ác độc. Cũng như hiểu chữ nhẫn với thói quen chịu đựng đến mức hèn yếu, bạc nhược hết ngày này, qua tháng khác, và cơ đồ sự nghiệp, thành quả chăíng thấy đâu, chỉ thấy con người ngày càng èo uột đi, thảm hại, nhưng họ vẫn tự ru mình là ta đang... nhẫn một cách chính đáng.
Nhẫn nhục một cách hèn nhát, là mềm yếu, cam chịu vô ích, rồi tự mình chìm trong cái cõi mịt mờ của mình, sẽ thành kẻ chui sâu vào vỏ ốc, và điều này sẽ làm suy thoái xã hội, đạo đức con người, làm cho cái ác, cái tham, cái xấu có mầm mống và nguy cơ phát triển.
Nhẫn nhục như thế, theo thuyết nhà Phật, là nhẫn nhục chấp tướng vì vẫn còn do dục vọng và lòng tham thúc đẩy chứ không phải nhẫn bà la mật.
Nhưng nếu không biết nhẫn, bạn sẽ có một khuôn mặt... xấu xí
Nếu bạn không biết giữ được cho mình một chữ nhẫn, lúc nào đầu óc bạn cũng căng ra, như một chảo lửa, bạn có thể phản ứng ngay tức khắc các vấn đề vừa xảy ra một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ...
Gặp chuyện khó chịu, không may, tức khắc lửa giận nổi lên, nếu nhẹ thì chỉ bộc lộ ra sắc mặt, hành động nóng nảy, nhưng nặng và đáng sợ hơn nữa, đó là để chất chứa trong lòng.
Bạn biết không, những cơn nóng giận ấy khiến cho khuôn mặt con người bỗng chẳng dễ coi chút nào và trở nên rất xấu. Đôi khi, chẳng những chúng ta không giải quyết được việc gì, mà còn tự tạo thêm những hành động nông nổi, gây thêm bực bội đúng như các cụ đã nói: “Tâm oán giận, mạnh hơn lửa dữ”.
Thật vậy, chỉ một phút nổi nóng, không tự kìm chế được mình mà không dằn được cơn tức giận, nghĩa vợ chồng phải phân rẽ, bạn bè trở thành kẻ oán thù, và mâu thuẫn dẫn đến xung đột (đánh đập vợ con đến tàn tật, vợ giết chồng, con giết cha, đốt phá nhà cửa, tự hủy hoại thân thể mình...)
Tôi còn nhớ câu chuyện của một chị, nói rằng, thời mà anh chị chưa ly hôn, chị đi “đánh” ghen anh. Đêm hôm, không thấy anh về, trong một đêm mùa đông giá rét, chị quyết định lôi con nhỏ mới hai tuổi, đặt lên đằng sau xe đạp, đèo con đến nhà nhân tình của chồng, và căm phẫn đập cửa ầm ầm...
Sau này, chị tự nhận ra rằng, chẳng phải vì thương con không có cha, chẳng phải lý do gì, ngoài lòng ích kỷ và hận thù nên chị quyết không ly dị. Cũng chỉ vì chị không nhẫn được, cơn nóng bốc lên đầu và chỉ còn nỗi căm hận.
Cho dù đã bao lần, chị tự dặn mình rằng, đừng để con cái nghe thấy tiếng của hai vợ chồng cãi nhau. Nhưng biết sao được, khi cơn sân hận dâng lên, tiếng chì chiết, cãi vã, lẫn xỏ xiên, thậm chí thượng cẳng chân, hạ cẳng tay ngay trước mắt con cái, vô tình anh chị không biết rằng họ chính là một bằng chứng xấu xí của hôn nhân.
Và nếu trước kia, chị nhất quyết không ký đơn ly dị để “hành hạ”, trả hận với chồng mình, thì sau khi đã hiểu ra: nhẫn không phải là chịu đựng, mà nhẫn còn là xả bỏ những nỗi nhọc nhằn uất hận, những đau buồn tủi nhục, để cuộc sống dễ chịu hơn, chị đã ký đơn ly dị, nhằm giải thoát cho cả gia đình thoát khỏi cảnh “địa ngục trần gian”.
Chữ nhẫn, giống như vàng
Bạn hãy đọc kỹ những câu răn về chữ nhẫn, bạn sẽ thấy, muôn màu cuộc sống bày ra trong sức mạnh của chữ nhẫn. Chữ nhẫn ẩn chứa những phương kế sống của một đời người.
“... Có khi nhẫn để xoay vần/ Thiên thời, địa lợi, nhân tâm hiệp hòa/ Có khi nhẫn để vị tha/ Có khi nhẫn để thêm ta, bớt thù/ Có khi nhẫn: tỉnh giả ngu/ Hơn hơn, thiệt thiệt đường tu khó lường/ Có khi nhẫn để vô thường/Không không, sắc sắc đoạn trường trần ai/ Có khi nhẫn để lắng tai/ Khôn khôn, dại dại nào ai tránh vòng/ Có khi nhẫn để bao dung/ Ta vui người cũng vui cùng có khi/ Có khi nhẫn để tăng uy/ Có khi nhẫn để kiên trì bền gan...”
Việc lấy đức nhẫn làm sức mạnh (dĩ nhẫn vi lực) cho thấy lợi ích cũng như quyền năng biến hóa, nội lực mạnh mẽ của chữ nhẫn.
Trong cuốn “Luận về chữ nhẫn” của Mạnh Chiêu Quân có viết: “Bạn chớ nên cáu gắt, cáu gắt sẽ làm tổn thương hòa khí; Bạn chớ nên tức giận, tức giận sẽ làm hủy hoại nguyên khí; Bạn chớ nên đùa giỡn, đùa giỡn sẽ làm hỏng tài khí; Bạn phải nhẫn nhịn, nhẫn nhịn sẽ được thần khí”...
Cũng như câu tục ngữ của Việt Nam ta: “Chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được, thì càng sống lâu”. Tự tìm được cho mình một chữ nhẫn thích hợp sẽ giúp ích cho cuộc sống của bạn, và nếu biết sử dụng chữ nhẫn sao cho đúng cách, sẽ mang lại cho con người một sức mạnh vô cùng!
Mãn Sinh, người Xương Hóa, thuộc huyện Triết Giang, làm nghề dạy học. Một hôm, xin được công việc mới ở Dư Hàng, bèn quảy gánh hành trang lên đàng cho kíp lời hẹn với người ta. Lúc đến nơi, Sinh tà tà ra phố chợ. Ngẫu nhiên đi ngang qua dưới một nhà lầu ở bên đường. Chợt có vỏ quả vải rơi trúng vào vai, liền ngửng đầu lên thì thấy một cô gái trẻ đẹp ngồi trên đó. Dáng điệu yêu kiều, ánh mắt xa xôi, bèn trố mắt ra mà nhìn chòng chọc. Cô gái bất chợt nhìn xuống, cười cho một phát rồi mau lẹ đi vào, khiến Sinh chết cả tim gan mà giật mình bảo dạ:
- Người đẹp ta gặp đã nhiều, nhưng chưa có em nào mượt mà đến thế. Cái này mà'ÿ như cánh vạc bay, thì chí nam nhi khó vuông tròn đó vậy.
Bèn xiêu vẹo đi về, mà lòng ngổn ngang trăm mối khó lòng yên nghỉ đặng. Thời may gặp Vương Do là người đồng hương, lại hay tìm hiểu chuyện thiên hạ, liền mời vào quán rượu bên vệ đường, những mong mượn chút men để tỏ bày niềm tâm sự. Lúc xoay được vài tua, Do mới nhìn thẳng vào mắt của Sinh. Cẩn trọng nói:
- Cơm trong miệng dễ nhai. Lời trong miệng khó nói. Huynh thần sắc kiểu này. E có điều chi vướng bận tận tâm can, khiến đôi mắt nhuốm lên màu u uất. Có phải vậy chăng?
Mãn Sinh nghe thế liền dõi mắt nhìn trời hiu quạnh, rồi chán nản đáp:
- Thà làm hư hỏng cuộc đời mình, còn hơn là không làm gì cả, bởi xuân thì rồi cũng úa đi, thì giữ cho lắm cũng chẳng nhằm chi hết ráo!
Vương Do bỗng lùng bùng trong dạ, bởi Mãn Sinh trả lời trớt hướt trớt he, bèn xoay chuyển ý nghĩ trong tâm mà thì thào bảo bụng:
- Xưa cũng như nay. Trong lòng mỗi người đều nuôi tự ái. Dù là kẻ nghèo khổ sang giàu, quân tử hay tiểu nhân, cũng cứ như thế mà phang tới tới. Vậy muốn có rượu mà uống dài dài, thì trước là đừng đụng đến tự ái của người ta, sau thấy việc không hay cũng mần thinh hông nói.
Rồi phè cánh nhạn ra mà nhậu. Được đâu một chặp lại thấy bụng không yên, bèn bảo dạ rằng:
- Danh vọng, tiền tài, rượu ngon, gái đẹp, nhà lầu, xe hơi, đều là những thứ dễ làm cho người ta mê hoặc, đến độ sát phạt nhau, mà chẳng kể số chi đến đạo lý và nhân phẩm làm người. Thằng này đang dạy học. Lẽ ra phải ngon lành hết biết - mà hồn vía chạy lên mây - thì chốn tâm can ắt tan tành đó vậy!
Đoạn ngẫm nghĩ một chút, rồi từ từ nói tiếp:
- Người ta gặp chuyện buồn mà mình không giúp là bất nhân. Uống rượu của người ta mà không tìm cách trả là cái phường bất nghĩa. Ta dù lấy chuyện của thiên hạ làm vui, nhưng cũng không thể đánh mất'ÿ lương tri dễ dàng đến như thế.
Bèn đợi lúc Mãn Sinh khà xong một cái, liền nắm vội đôi vai. Lẹ miệng nói rằng:
- Người đang gặp cảnh trớ trêu mà có kẻ để sớt chia niềm tâm sự. Cho dầu chưa có thể giải quyết được việc gì, nhưng trong lòng cũng bớt, nhẹ cái lọ Vậy sao không sớt cho buồn kia vơi bớt?
Mãn Sinh thở hắt ra một cái, rồi nhướng mắt nhìn
Vương Dọ Mệt nhọc nói rằng:
- Hồng nhan đa truân đâu chưa thấy! Chỉ thấy mình'ÿ chết mẹ với hồng nhan, thì vết thương kia bao giờ mới lành đặng?
Vương Dọ Từ lúc biết Mãn Sinh buồn là tại nơi phần duyên phận, liền nhẹ nhỏm cả người. Thơ thới nói:
- Đệ tuy chưa có bằng Tiến sĩ, nhưng cá cặp ghép đôi.
Những tưởng mụ bà cũng khó lòng mát tay hơn thế! Bèn rung đùi ngồi đợi. Mãn Sinh thấy vậy, mới hít lẹ hơi sâu, rồi đem chuyện trúng vỏ vải ra mà kể. Lúc mọi sự đã xong, liền đan hai bàn tay lại. Ấp úng nói:
- Thương người ta, mà tên họ chẳng hề nghe biết. Lỡ mai trời đất gọi về. Liệu còn giỗ chạp đặng hay sao?
Vương Do cười cười đáp:
- Nàng ấy tên là Tiểu Thúy, ở kỹ viện Giả thị. Nổi tiếng là người tài hoa. Trăm người chưa chắc đã có một người vẹn toàn đến như thế. Huynh mà trồng cây si chỗ này, thì trước là hổng đủ tiền chung. Sau chữ ghen tương cũng khó lòng trôi mất. Mãn Sinh khựng người đi một chút, rồi chắc nịch nói rằng:
- Mình thương người ta, mà phải đợi lúc người ta tốt số rồi mới nhảy vào - thì cái thương đó - chỉ là thương cho cái danh giá của mình đó vậy. Mình muốn lập gia đình với người ta, mà phải đợi lúc người ta đủ đầy công dung ngôn hạnh - thì cái muốn đó - chỉ là vun quén cho ích kỷ bản thân. Mình quý trọng người ta, thì cho dẫu người ta có trong bùn vấp ngã, hoạ'ÿc dính mực lem nhem, cũng nhào dzô cứu vớt. Chớ đợi người ta lễ giáo đàng hoàng. Hết mực gia phong, rồi mới trầu rượu mang qua để nói điều ước nguyện - thì cái quý trọng đó - cũng chỉ là quý trọng chính mình. Chớ có cáíÿ mẹ họ gì đâu, mà yêu với iếc?
Đoạn tợp thêm vài hớp nữa, rồi mạnh dạn nói:
- Cái gì nâng lên thì có thể bỏ xuống được, nhưng chuyện tình cảm. Không phải muốn bỏ là bỏ xuống được đâu!
Vương Do nghe vậy mới bụng dạ bất an. Hoảng hốt nhủ rằng:
- Tùy ngộ nhi an, tùy cơ ứng biến. Giúp người ta mà giúp vội giúp vàng, đến độ không lý gì đến chuyện mình giúp có thích hợp với họ hay không, thì cái giúp đó trở thành cái hại. Thiệt là khó tính!
Rồi ngồi thừ ra đó mà suy nghĩ. Mãi một lúc sau mới nhỏ nhẹ nói rằng:
- Chỉ vì một cái vỏ vải đụng vào, mà nên duyên chồng vợ. E có vội lắm chăng? Chi bằng bỏ một ít tiền của, thêm một chút thời gian, để thử xem tâm có đầu, ý có hợp, hẵng nhào dzô chơi láng. Chẳng đặng hơn ử Mãn Sinh gật đầu cho là phải, bèn theo vậy mà làm.
Qua ngày sau, Sinh mang tiền tới, được Tiểu Thúy tiếp đãi ân cần, lại ra mòi quyến luyến. Sinh thấy vậy, lòng càng đậm thêm, liền ứng khẩu tặng nàng một bài thơ, rằng:
Dầu cạn canh khuya chuyện ngỡ ngàng
Xạ lan bên gối ngạt ngào hương
Ngày mai chải chuốt cài trâm phượng
Vân vũ đâu còn mộng Sở Vương?
Tiểu Thúy nghe vậy, liền chau mày nói:
- Thiếp tuy là kẻ nhơ hèn, nhưng tự thâm tâm, vẫn mong gặp được kẻ hùng anh đặng tận tình báo đáp. Nay chàng chưa có vợ, lại tâm ý kiểu này. Biết có thể cùng chàng nên gia thất được chăng?
Sinh nghe lời vàng ngọc thốt ra từ miệng giai nhân. Tưởng là mộng, bèn đưa tay táng lên đầu một cái, thì rõ là đau, bèn trống ngực đập tưng tưng mà nói rằng:
- Cầu tình được tình. Cầu vợ được vợ. Nghe mà mát cả hai tai. Có điều chuộc nàng ra, thì không biết sở hụi bao nhiêu mới là chắc cú?
Tiểu Thúy rầu rầu đáp:
- Thiếp thật không rõ, nhưng cứ dựa vào lòng'ÿ tham của mụ chủ, thì không làm sao cho đủ được. Nhưng bất quá là hai trăm lượng vàng. Thiếp buồn lòng chợt hối tiếc chuyện ngày xưa. Không biết coi trọng tiền của. Được bao nhiêúÿ đuôi đầu bấy nhiêu, thành thử nắm trong tay chẳng có xu teng nào hết cả!
Rồi dựa đầu vào vai Sinh. Tha thiết hỏi rằng:
- Vậy chẳng hay tài sản của chàng có độ bao nhiêu?
Sinh trầm ngâm một chút, rồi buồn bã đáp:
- Chỉ độ bốn mươi mẫu ruộng hương hỏa, và mái nhà tranh mục nát. Chẳng đặng bi nhiêu! Đoạn thở vắn thở dài ra điều khó tính. Lúc ấy, Tiểu Thúy mới nói rằng:
- Sau khi thiếp về với chàng rồi, sẽ luôn ở cạnh nhau, đừng đi dạy học mần chi nữa. Bốn mươi mẫu ruộng có thể đủ chi dùng, bớt ra mười mẫu để trồng dâu, dệt năm tấm lụa để chàng lo nộp thuế. Thế là có dự Vợ chồng mình đóng cửa ngồi bên nhau. Chàng đọc sách. Thiếp dệt cửi. Thơ rượu khiển hứng, thì Thiên, Vạn hộ hầu cũng không quý bằng vậy.
Mãn Sinh nghe Tiểu Thúy tán tới đâu sướng tràn theo tới đó, nhưng cũng nhớ đến số bạc đang lo. Khẩn thiết nói rằng:
- Ta đi dạy học. Lương chẳng được nhiều, nên trong một lúc khó kiếm được số tiền to đến thế! Cầm bằng như về quê bán đi bốn mươi mẫu ruộng phần hương hỏa, để chuộc nàng về mình sẽ ở lại đâu? Khi trái tim non đang cần nơi cư trú'.
Rồi đực mặt ra mà suy tính. Tàn độ nén nhang, mới khổ nhọc nói rằng:
- Ta có người bạn kết nghĩa làm quan huyện ở Hồ Nam, đã nhiều lần mời ta ra chơi, nhưng ngại đường xa nên ta cứ khất lần khất lửa. Nay vì chuyện của nàng, ta quyết định ra đi. Chừng ba bốn tháng mới quay về chốn cũ. Chỉ mong nàng thành tâm chờ đợi. Đừng có phụ nhau, thì cho dẫu có phải hy sinh mạng sống để cứu nàng. Ta cũng quyết lòng chơi tới bến!
Tiểu Thúy nghe lời bộc bạch của Sinh. Lòng thêm ngưỡng mộ, nhưng ánh mắt bỗng lộ nét ưu tự Khổ sở đáp rằng:
- Tiện thiếp sa vào chốn thanh lâu, thì quyền tự quyết đã không còn nhắm tới. Lỡ một mai có người muốn mua thiếp về hầu hạ - mà tin nhạn chưa sang - thì chỉ xin cõi trong xanh chứng giám cho tấm lòng đơn độc, phải hứng chịu phong ba, mà không sao đủ sức hướng về người quân tử'.
Rồi nước mắt tuôn tràn ra cả áo. Mãi một lúc sau, mới sụt sùi tỏ phân điều gan ruột:
- Thiếp có lỡ về nhà người ta, thì cũng là' thân tại Tào mà tâm tại Hán. Chỉ đoạt được xác thân. Chớ cõi thâm sâu chẳng nhằm chi hết cả!
Đoạn rút chiếc trâm trên đầu dúi tận tay Sinh để làm kỷ vật, rồi nức nở nói:
- Thiếp đã yêu ai thì chỉ nghĩ đến người ấy. Sớm nghĩ tới. Chiều nghĩ tới. Lúc ăn cơm hay lúc ngủ cũng chỉ nghĩ tới người ấy. Quyết không bao giờ sai trật! Sinh dẫu là trượng phu, cũng không sao cầm được đôi dòng nước mắt, bèn đút trâm vào bọc, rồi từ tạ ra về. Lúc đến nơi, Sinh vội thu gom đồ đạc, rồi mang qua nhà Vương Do để gởi. Vương Do ngỡ ngàng nói:
- Huynh đang có việc làm đặng tìm kế mưu sinh. Nếu đem so với bàn dân bá tánh cũng hơn nhiều đó vậy. Nay chỉ vì một người con gái ở thanh lâu, mà quay lưng lại với tương lai của mình. Thử nghĩ có nên chăng?
Mãn Sinh vội vàng đáp:
- Có nhiều việc xảy đến cho con người, thế tất phải chịu. Không nên gượng gạo ngược lại chuyển biến của giòng đời. Huống chi Tiểu Thúy đang trong lứa tuổi thanh xuân, lại mơ ước làm vợ, thì huynh không thể ngồi yên bó gối, mà chịu được hay sao?
Rồi xoay mình dợm bước đi. Do thấy vậy, mới nắm lấy tay Sinh. Tha thiết nói:
- Mới gặp có một lần, mà đã bỏ tương lai, thì chỉ e huynh lao thân vào khoái lạc - mà cứ ngỡ tay đang cầm hạnh phúc - Chừng đến một ngày, huynh mới nhận biết ra, thì đệ chỉ lo huynh không còn cứu kịp!
Rời Việt Nam khi còn nhỏ, học trung học tại Mỹ, đại học cũng tại Mỹ, học hơi nhiều so với người Việt trung bình khác, đậu cả tiến sĩ luật ở Houston, Texas lẫn thạc sĩ Luật ở Harvard miền Đông, và dĩ nhiên nói tiếng Anh như, nếu không phải giỏi hơn, tiếng mẹ đẻ. Là một sản phẩm hỗn hợp giữa hai nền văn hóa Việt và Mỹ, khi viết văn Dương Như Nguyện nhiều lần để văn hóa Việt văn hóa Mỹ xen kẽ nhau, từng lớp như dầu và nước, lúc trích dẫn Kiều, lúc điển tích tây phương đủ loại, tiếng Việt xen kẽ với Anh văn, có khi quên không chuyển ngữ, là chuyện thường có. Một đặc điểm trội bật nữa cần nhắc tới là nhan sắc: đàn bà xấu viết văn khác, đàn bà đẹp viết văn khác... Dương Như Nguyện học giỏi tới hai lần tiến sĩ nhưng nhan sắc có thể nói là đẹp, duyên dáng, ngồi ở đâu trong một party là đàn ông da trắng da vàng bu quanh, như ruồi bu quanh một giọt mật giữa bầu trời nhiệt đới. Dương Như Nguyện viết:"Tôi cúi xuống khuôn mặt hắn, bộ ngực tôi đong đưa trên những nét gẫy của khuôn mặt người tình"{Bắc Âu}."Hai núm vú màu mật ong tiêu biểu cho sự nồng nàn của phụ nữ miền nhiệt đớùi. Tôi là đứa con nhiệt đới, da nâu, mắt và tóc sẫm màu". {Mùi hương quế}
Dù đã xuất hiện trong văn học hải ngoại đã khá lâu, nhưng Dương Như Nguyện không viết được nhiều, thời gian của cô phải chia cho nhiều việc, mà việc nào cũng đòi hỏi toàn tâm toàn trí và toàn cơ thể đàn bà, như học hết đại học này đến đại học khác, làm luật sư, công tố viên, chánh án, viết văn và diễn xuất (hai hobby của cô), và dĩ nhiên thay đổi boyfriend luôn luôn. Khỏi phải nói những người tình của cô đều là da trắng, khoa bảng, thuộc những đại gia địa phương, và có khi là một ông cao to tóc màu nhạt, hậu duệ của dân cướp biển Bắc Âu...
Lần duy nhất Dương Như Nguyện khen đàn ông châu Á là đẹp lại là thứ đàn ông không lấy được dưới bất cứ dạng nào: trong tập văn duy nhất của cô đã xuất bản là Mùi hương quế, một tập văn tương tự Ngọn cỏ bồng của Nguyễn Bá Trạc, gồm cả tự truyện, nhật ký, truyện ngắn, thơ văn phú lục đủ cả, Dương Như Nguyện đã tả loại đàn ông đó như sau:
"Nàng sửng sốt nhìn.
Họ đứng trước mặt nàng, sáu người đàn ông cao lớn, tươi đẹp như nhựa thông, như gỗ thông, như sương sa buổi sáng. Họ nói líu lo ngôn ngữ Tây Tạng. Họ đi thoăn thoắt như trình diễn khinh công trong tiểu thuyết Kim Dung của độc giả Việt Nam thập niên sáu mươi. Những vạt áo nâu, cam, hồng, tía quấn quít quanh những thân hình lực lưỡng. Cả đời nàng chưa thấy đàn ông nào đẹp như vậy. Sáu cáùi đầu trọc lóc tròn trĩnh đều đặn, sáu ngấn cổ cao ngời khỏe mạnh. Sáu bộ vai rắn chắc. Bỏ xa những thân thể Tây phương đầy chất steroid trong những phòng tập thể dục của các thành phố lớn Âu Mỹ.
Họ đứng trước mắt nàng rồi cùng di chuyển với nàng. Sáu ông sư Tây Tạng. Hình như họ không có tuổi... Nước da họ màu mật ong. Mắt đen hoắc, sâu, sáng và trong, nằm ngay ngắn dưới những lông mày cong rậm. Những đôi mắt đoan chính, tươi tắn, không hề láo liêng, không hề liếc ngang liếc dọc... Những cánh tay lực lưỡng, những bàn tay rộng, dài. Những đôi chân dài thoăn thoắt, khỏe mạnh, ẩn hiện dưới vạt áo cà sa".
Đó là đàn ông Tây Tạng, tăng lữ. Còn đàn ông VN còn lâu mới được Dương Như Nguyện chiêm ngưỡng như vậy. Dưới ngọn bút của các bậc đàn chị Nguyễn Thị Thụy Vũ, Trùng Dương... các chàng VN đa số ngoại hình dưới trung bình, và ngòi bút hai nhà văn này, chỉ vớt vát được có bộ mông là quyến rũ được cái nhìn của các nàng. Thôi, thế cũng được rồi... Còn hơn là bị ‘nụ cười khúc khích trên lưng’ như một lời thơ nhạc Trịnh Công Sơn: các nàng cười khe khẽ sau lưng... vì sao mà chàng gầy ốm thế... Nếu không gầy ốm quá, chàng VN lại quê một cục và nghèo quá, như Thịnh, nhân vật nam da vàng duy nhất lọt vào Mùi hương quế với thân phận không khá. Là bị văng ra ngoài.
Như vậy những nhân vật của Dương Như Nguyện, dù mang những tên khác nhau trong Mùi hương quế, Wendy, Eve, Yên Vi, Mị nương, Uyên hay Hoàng Ngự... chỉ còn một con đường là kết bồ và lấy da trắng bản địa thôi, con đường mà tác giả đã tóm tắt ở đầu một chương sách:
Có những tình yêu lối Việt
Có những tình yêu lối Mỹ
Và có những tình yêu
mắc cạn giữa hai dòng.
Uyên ba mươi hai tuổi, tóc dài, làm luật sư tố tụng ở Hoa Thịnh Đốn. Trên giấy thông hành, Uyên quốc tịch Mỹ. Uyên có bồ làm cùng nghề. Uyên gọi bồ là ‘hắn’. Hình như Uyên có yêu hắn. Một nhận thức làm Uyên vừa thích thú vừa rụng rời... Chung quy chỉ vì nàng sống và suy nghĩ theo lối Mỹ nhưng tâm hồn còn chất chứa cái lãng mạn của Việt xưa như trái đất... Một cô bạn cảnh cáo:
- Hắn là Mỹ mà mày yêu theo lối Việt là mày chết trước... Mày yêu ‘thằng Mỹ’. Mà lại là ‘thằng’ luật sư Mỹ chuyên môn ngụy biện. Thằng khốn nạn lại thuộc cái giống luật sư Harvard tâm hồn cứng ngắc...’’
Cô Uyên luật sư da vàng tóc đen dài không nghe bạn khuyên, cứ yêu để rồi sau cùng không chết, nhưng cũng phải từ hôn vì không chịu làm một thứ ‘nạn nhân văn hóa’ khi hai nền văn hóa khác biệt, Việt và Mỹ, đụng độ, đối đầu nhau:"Uyên tì tay trên thành cầu, nàng nhìn xuống chiếc nhẫn đính hôn lóng lánh kim cương quanh hột sa phia xanh ngắt. Tự nhiên Uyên muốn tháo chiếc nhẫn ném vào lòng nước... Nàng chợt nghĩ đến triết lý vụn của Tịnh Thủy: ‘Yêu theo kiểu Việt hay kiểu Mỹ’... Một người đàn bà nào tinh nghịch đã nóùi, khi người đàn ông ra đi, chiếc nhẫn ở lại ‘When the man leaves, the ring stays’... Hình như ở điểm này, thì Uyên phải nghe theo lời bạn, giải quyết tình yêu thực tế, tiền bạc kiểu Mỹ. Uyên gỡ chiếc bút chì giữ máùi tóc trên đỉnh đầu. Mái tóc xổ tung... Nàng ném chiếc trâm cài đầu... dã chiến ấy vào lòng nước thay chiếc nhẫn". {trg 92 sđd}
Sau khi ném chiếc bút chỉ dùng làm trâm dã chiến cài đầu xuống dòng nước, thay vì nhẫn đính hôn, nhân vật nữ của Dương Như Nguyện tiếp tục yêu đương và lần này là một ông Bắc Âu to khỏe. Tương tự bậc đàn chị Trùng Dương làm tình lung tung chỉ vì vấn đề triết lý ‘tôi làm tình, vậy tôi hiện hữu’, nhận vật của Dương Như Nguyện ‘tôi ngủ với đàn ông để chứng minh tôi là đàn bà’: "Khi rãnh rỗi, tôi ngủ với hắn. Không hạnh phúc, không đau khổ. Tôi ngủ với hắn để cảm thấy mình có ngủ với đàn ông, vô tội vạ, vô tình cảm. Tôi ngủ với hắn để chứng minh mình là đàn bà. Có thế thôi... Hắn chỉ là một sinh vật giống đực..."
Khi yêu đương, làm tình kiểu khơi khơi như vậy, đàn bà thường khách quan, sáng suốt: "...tôi cảm thấy hơi thở của hắn miên man trên ngấn cổ của mình. Tôi thở dài, lại một cuộc tấn công thân xác. Nhu cầu đầu ngày. Thói quen buổi sáng. Tôi đã quen thuộc nên vẫn còn để trong người cái diaphram của tối trước. Tôi xoay người lại để hắn lật cái áo ngủ dễ dàng hơn. Hắn cởi cái nịt da. Kéo thốc áo sơ mi... Hắn cần tôi nhưng tôi không cần hắn. Tay hắn sửa soạn cho cuộc tấn công... Tôi như nữ thần tình yêu, óc tôi lạnh, mà người tôi vẫn nóng. Tôi nhớ đến trái mít nồng nàn của Hồ Xuân Hương. Trái mít không cần yêu, không cần hưởng thụ, vẫn ngọt ngào hương nhựa. Vì tự trong cá tính của trái mít là có nhựa. Cho nên khi tôi ướt át, mềm mại, thì giống đực ngu xuẩn cứ tưởng rằng tôi đã yêu mê, sẵn sàng trông đợi, đã cong người mà hứng nhận. Một sự hiểu lầm tai hại. Chỉ cần không ghét, không kinh tởm, không oán hận, chỉ cần được vuốt ve một chút, là tôi trở thành trái mít của Hồ Xuân Hương. Điều đó không ăn nhập đến vấn đề tình yêu. Gã đàn ông này mê bàn chân tôi, mê từng ngón, mút trong miệng từng ngón, liếm từng vết chai vì tôi đi giày cao gót, hay tập nhảy múa. Kéo bàn chân tôi lên hôn, là dốc ngược người tôi lên..."
Dù là con cháu của những tên cướp biển Viking mỗi lần vượt biển xuống phía nam là phụ nữ ven biển Tây Âu khiếp vía, nhưng dù ‘king size’đến đâu chăng nữa, chỉ cần một đêm ân ái không ngưng nghỉ là nội lực đã tiêu tan hết, nên chàng ở đây cũng vậy: "Rồi hắn xìu đi, khoảng da thịt tiêu điều xuống. Hắn vòng hai tay nâng tôi lên... Nhưng rồi con ngựa đã yếu sức, da thịt hắn phản bội hắn. Hắn rớt ra khỏi tôi như một sợi bún lèo nhèo. Da thịt tôi không réo gọi, cho nên tôi không mất mát không đau đớn. Và con đàn bà trong tôi sung sướng reo cười..." {trg 148 sđd}
Trong văn học Việt Nam trước đây, đã có một nhà văn là Võ Phiến nói tới hiện tượng đàn ông đương làm tình bình thường, bỗng nhiên cái đó của mình xìu xuống đến độ tụt ra ngoài người đàn bà. Sự kiện đó thường chứng tỏ thân thể đã quá no đủ sex, nhưng đàn ông trong trường hợp này thường tự ái, cho rằng nam tính của mình đã sút giảm. Và trong trường hợp như thế, đàn ông thường ‘thúc ngựa tiến lên’ (từ của Võ Phiến). Chàng da trắng của Dương Như Nguyện cũng vậy: "Hắn leo lên người tôi lần nữa. Như để chứng minh cái nam tính của hắn. Tôi ngoảnh đầu qua một bên để khỏi nhìn hắn. Hắn ngồi sát vào, kéo đôi chân tôi lên hôn. Đôi chân tôi dựng ngược lên là con dốc đi xuống vũng lầy cho hắn... Là giống đực, hắn phải gỡ gạc lại sự thất bại của mình. Để băng bó vết thương khó mà giải thích được của đàn ông. Hắn làm tình với tôi như là một sự cố gắng giận dữ... Hắn thúc vào người tôi, như những cái đá dữ dội, tôi không thể tránh được. Tôi nghiến răng lại để khỏi rên vì đau.. Hắn cắn mạnh vào gót chân tôi, gập người tôi lại, tôi kêu lên thảng thốt. Rồi hắn từ từ, từ từ tụt khỏi người tôi một lần nữa. Súng chưa nổ, hắn đã đầu hàng như một tên lính quèn run sợ. Lại một thất bại thứ hai. Hắn gục xuống. Chúng tôi không nhìn nhau. Tôi bước ra khỏi giường". {trg 149-150 sđd}
Nhân vật của Võ Phiến đã gặp cảnh cái đó đột nhiên ‘tiêu điều, mềm như bún’, nhưng không sao vì đang làm tình với vợ, chỉ bị vợ cười khúc khích một tí thôi. Còn ở đây chàng chỉ là bồ tôi, thứ bồ bị nàng gọi là ‘hắn’, cuộc tình phải đi tới chỗ chấm dứt thôi:"Tôi muốn đi tìm những chàng trai trẻ, nhỏ tuổi hơn tôi, biết nghe lời, biết phục vụ, như những cái máy không biết mệt, không đem đến cho tôi những điềm gỡ, không làm cho tôi phải suy nghĩ về vùng tâm linh khó hiểu của giống đực..."
Suy nghĩ như vậy rồi, nhân vật nữ lại lên đường đi tìm người đàn ông ước mơ, và như các cụ xưa bên ta đã có lần nhận định, ‘tránh vỏ dưa gặp phải vỏ dừa’. Không phải là đụng phải một ông đầu đen đậm đặc chất phụ hệ vừa mới nhập cảnh Mỹ, đi xe used car cũ mèm, làm janitor cho Mc Donald, rảnh rỗi là tụ họp bạn bè nói chuyện quang phục lục địa, phá vỡ bờ Đảng khai mở lối về... Nhưng thà là như vậy, nhân vật nữ của Dương Như Nguyện còn đỡ vất vả, và đỡ đau hơn... là rơi vào tay của mấy ông Mỹ gọi tắt là S.M. Chàng hay ‘hắn’ lần này đi limousine và có cách uống rượu đáng chú ý:"Tôi nghĩ đến hắn và băng sau chiếc limousine quen thuộc. Mới hôm qua, hắn đón tôi đi ăn. Tôi mặc áo lụa đỏ khoét cổ rộng. Hắn cầm trong tay ly rượu. Hắn hôn phớt lên má tôi, rồi đổ nguyên ly rượu xuống ngực áo lụa đỏ. Tôi thảng thốt kêu lên vì lạnh... Hắn cầm cục nước đá ép sát vào đầu vú... Tôi lạnh toát cả tứ chi, vùng vẫy... Tôi nghe âm thanh những cục nước đá chạm vào nhau trong ly rượu vàng ánh..."
Đừng vội phê phán chàng là đồ tàn bạo, đồ sa-đíc này nọ, đồ ‘Mỹ ngụy đồi trụy’... Chàng này chỉ thích đùa quá lố, tinh nghịch quá đối với phụ nữ thôi. Trong một phim Tàu lục địa thực hiện cách đây không lâu, kiều nữ Gong Li (trong nước gọi là Củng Lợi) cũng bị khách chơi Á châu đè ra phun rượu vào miệng, nàng Lara của nhà văn Pasternak trong phim Bác sĩ Jivago cũng bị ông luật sư bồ của mẹ ép uống rượu tràn ra ướt ngực áo dạ hội, cũng màu đỏ. Còn tại Việt , trong một ký sự của Hoàng Hải Thủy trước 1975, buổi sáng thức dậy sau một đêm ân ái, chàng gọi hầu phòng mang lên một ly cà phê sữa, cứ uống một ngụm lại hôn, truyền sang miệng nàng. Còn bạo dâm thứ thiệt, chính cống, cư xử như thế này đối với một nhân vật nữ của Dương Như Nguyện thuộc loại ‘child abuse’, con gái một ông lớn Việt Nam chuyên môn đập vợ đánh con nhừ tử:
"Tôi choàng tỉnh dậy. Hắn đang đổ một muỗng yogurt mát lạnh lên ngực tôi... Tôi dụi mắt nhìn chung quanh, kinh ngạc... Bốn bức tường quanh chỗ tôi nằm được che phủ bởi bốn màn ảnh lớn. Tôi nằm trần truồng trên tấm ra trải giường trắng... Bỗng nhiên phòng tối om, ánh đèn vụt tắt, và bốn màn ảnh sáng lên... Tôi hét lên kinh hoàng, tiếng hét dội lại như nuốt chửng lấy hình hài tôi trơ trọi. Tôi ôm mặt, lùi dần, nhưng không chỗ thoát, vì sau lưng tôi, trước mặt, hai bên, đều là những hình hài kinh tởm nhầy nhụa trên bốn màn ảnh trắng... hàng trăm con rắn bò lổm ngổm. Những con trăn dài đầy màu sắc gớm ghiếc.
Tôi bíu chặt lấy tay hắn, tiếp tục hét như đang đối diện với cái chết. Toàn thân tôi co rúm. Tiếng hét thất thanh, lạc lõng. Hắn luồn tay giữa hai chân tôi, nâng người tôi lên, tiếng hắn thở đứt quãng, nặng nề..."
Khủng bố nàng bằng hình ảnh cho nàng sợ co rúm ngưỡi rồi đè ra cưỡng hiếp chưa đủ, chàng sa-đíc còn đi một đường ‘bondage’ (trói nàng lại, hay để nàng trói mình như trong phim Basic Instinct do tài tử Sharon Stone và Michael Douglas đóng): "Hắn kéo tôi vào lòng, cười nửa miệng, môi hắn dán lấy môi tôi, tay túm lấy mái tóc đen tuyền, dúi đầu tôi xuống. Tôi nhìn roi da, dây trói và cùm tay. Hắn còng tay tôi lại, treo tôi lên, kéo cho hai chân xoải dài, dang rộng bằng dây trói. Hắn nhét mảnh khăn lụa vào miệng tôi, đội chiếc mặt nạ da vào mặt tôi. Vạt áo ngủ mỏng mang bay chờn vờn trong không khí. Trong không gian đen tối, tôi mường tượng hắn quay tròn chiếc giày cao gót của tôi. Hắn đặt chiếc giày lên ngực, một lúc sau ngồi dậy pha rượu, tay cầm ly rượu hắt lên người tôi. Môi hắn đuổi theo những hột rượu chảy xuống thân tôi lạnh lẽo..."
Một lần nữa đừng vội kết luận ‘Mỹ nó đồi trụy nên mới thế’, còn các cụ bên ta bên Tàu vốn đứng đắn, nghiêm túc và chín chắn, đâu có như vậy. Các cụ bên Tàu thời xưa chỉ thỉnh thoảng nhậu say kéo tụt giày nữ nhân ra, làm vật đựng rượu, mời nhau uống. Và không cần đi đâu xa ngược thời gian cho vất vả, trên báo Sống của Chu Tử trước 1975, trong một mục tạp ghi, một ký giả nhìn chiếc áo hở lưng của một người đẹp tài tử trong một bữa tiệc, mà bàn với bạn bè rằng: Nếu được rót rượu từ cái gáy nuột nà đó, cho rượu chảy dọc lưng, xuống nữa, rồi để một cái ly phía dưới hứng rượu đó mà uống, thì thật đã, đủ lãng quên đời...
Trở lại với nàng của Dương Như Nguyện, sau khi bị chàng sa-đíc dùng thân thể mình làm cái đựng rượu, bị chàng đánh:"Tôi mơ hồ nghe tiếng roi da vun vút trong không khí. Như tiếng gió rít lên, sắc bén... Tôi có cảm tưởng mình là con nộm được treo bằng dây. Tôi không còn cảm giác vì hồn tôi hình như đang lìa khỏi xác. Tôi rướn mình theo từng đường roi đi như người con gái tập hát đi tìm bóng Trương Chi trong tuyệt vọng... Tôi mường tuợng tiếng roi đi trong không khí nghe vun vút như tiếng xe lửa trong điển tích Trung Hoa... Tôi rướn người lên một lần cuối và hình như dây trói bật tung..." {trg 124 và kế tiếp}.
Không phải lúc nào nhân vật nữ của Dương Như Nguyện cũng gặp một chàng da trắng sa-đíc như thế (chữ da trắng là thừa, vì Dương Như Nguyện cũng như hầu hết các nhân vật VN, không ưa dân da đen. Không phải là kỳ thị màu da, không ưa là không ưa, thế thôi). Có lúc đụng độ một chàng vừa khổ dâm vừa bạo dâm như thế này:
"Hắn bế tôi trong tay, lau nước mắt, đặt vào tay tôi chiếc nịt da vừa vòng tay cầm:Hắn nằm sấp xuống mặt nệm bọc sa tanh ngà. Tôi quật cái roi da lên người hắn. Người đàn ông to lớn này không thể gãy làm hai. Tôi nức nở quật đòn thù lên gã hung thần trong người hắn. Hắn xoay người, lăn lộn. Tôi quật chiếc nịt da lên vòng ngực vạm vỡ. Những phiến lông dày cám dỗ. Người hắn đỏ ửng dưới ánh đèn mờ. Tôi ném cái roi lên tường thả người xuống như vừa nhìn thấy dung nhan tình yêu...
Hắn cầm con dao rọc giấy luồn vào khoảng trống mỏng manh giữa da thịt tôi và chiếc T-shirt. Hắn xẻ chiếc T-shirt bằng dao rọc giấy, rạch lớp tất chặt như lưới quanh đùi. Mũi dao lạnh ngắt chạy trên da tôi... Hắn nhét một mảnh vụn khác vào miệng tôi... Tôi cảm thấy bàn tay hắn dò dẫm quanh ngấn cổ, những sợi tóc cứng của hắn đâm vào cổ tôi, rồi dấu răng cắn mạnh vào ngấn cổ. Tôi kêu không thành tiếng. Môi hắn đặt lên môi tôi, hình như có vị mặn của máu..."
Như vậy nhân vật nữ của Dương Như Nguyện đã gặp một vampire thứ thật, một thứ ma cà rồng chuyên cắn cổ hút máu đàn bà trẻ đẹp. Không biết đoạn văn trên có xảy ra trong thực tế, hay chỉ một thứ day dream, một fantasy, một giấc mơ quái đản giữa ban ngày của tác giả... Dù thực hay ảo tưởng ảo giác, đến đây các nhân vật coi bộ mệt nhoài, nên nhân vật cuối của tác phẩm Mùi hương quế, là cô Nguyễn Cửu Hoàng Ngư đã tắt máy vi tính, đóng cửa văn phòng tại Mỹ, giã từ các ông bồ da trắng đi limousine, để làm một chuyến viễn du một mình sang châu Á. Chẳng cứ cô Hoàng Ngư này, nhiều phụ nữ Mỹ tự lập và độc lập bây giờ cũng hay làm những chuyến du lịch xa, đến bất cứ đâu, một mình, không sợ ai hay bất kể cái gì.
Cô Hoàng Ngư này một mình đến tận xứ Katmandu , lên cao ngắm mặt trời mọc trên dãy núi Himalaya , rồi lẽo đẽo đi theo sáu nhà sư Tây Tạng đi bộ theo các đường mòn chân dãy núi, đến vùng đất sinh trưởng ngày nào Tất Đạt Đa. Cô đi hành hương đất Phật chăng? Không biết. Chỉ biết cô nói thầm: "Đi tìm tự do tuyệt đối là một sự ích kỷ... Không kể đến người khác, không quan hoài tới ai, một cá nhân trở thành thực thể tự do tuyệt đối..." {trg 205}
Mai Ninh
Nếu Dương Như Nguyện là một nhà văn VN khoa bảng nữ ở Mỹ, Mai Ninh là nhà văn nữ VN khoa bảng ở Pháp: bà thuộc thành phần sinh viên Nam Việt du học rồi ở lại. Nước Pháp là miền đất cũ, truyền thống văn hoá lâu đời của Âu Châu, nên êm đềm tinh tế và hơi già nua so với Mỹ trẻ trung, thôi bạo đôi khi. Sự kiện này có ảnh hưởng ít hay nhiều tới các cư dân, nên khi đi vào địa hạt tình dục, Mai Ninh có bút pháp bóng bẩy, văn hoa... đặc Tây của các nhà văn miền này. Dù có tiếng nhà văn Việt nữ viết bạo nhất ở Pháp, cũng vẫn tinh tế, êm đềm như cách thể chảy của giòng sông Seine.
Chúng ta hãy đọc một truyện tiêu biểu, Ảo đăng, của nhà văn này:"Bàn tay kéo tấm áo của tôi lên. Nó ấp vào da đùi một mềm ấm đến nỗi tôi không co quắp sợ mà các thớ thịt tự động dãn ra, hứng lấy. Cố mở mắt nhưng toàn một màu tối mênh mang hay là thứ sương dầy đặc bao phủ chập chùng. Bàn tay thứ nhì vờn lên ức ngực, tìm tòi núm vú xoay tròn. Cả thân tôi giựt cướn, bàn tay ấy vỗ về ấn nhẹ tôi xuống như trấn tĩnh, tuột hẳn chiếc áo khỏi người, ôi hình nhân trần trụi... Những ngón vẽ vòng trên da bụng tôi bắt đầu căng nứt, rồi bỗng lần xuống dưới vuốt, vân. Tôi giựt mình, đoá mận tiá như đang đón đợi mời mọc tự bao giờ, vội vã bấn lên. Những cọ sát mơn man, những tấm cánh lịm hồng viền tím vén ra, rung rinh bao giọt sương li ti. Bất chợt, mặc kệ hoa còn đang hốt hoảng, một chiếm hữu chợt xâm suốt qua nhụy qua đài qua cuống, lọt vào không nể nang. Lạ lùng, nó là gì mà đủ trơn đủ mềm đủ cứng để phá nứt bao tầng đất hoang, đụng tới đáy động thâm sâu, vùng vẫy. Nó là gì mà có khả năng buốt tê và mềm nhũn lòng hoa không ngờ như thế. Những cánh hoa như búp tay từng ngón xoè ra vươn lên đón nhận rồi lại quắp vào ấp chặt giữ níu lấy nó không rời, cùng nhau chuyển động vừa nhịp nhàng vừa thôi thúc. Tất cả từ đáy lưng tôi cong lên náo nức, những giọt sương không còn là hơi nước mà đã là cuộn vỡ của mạch sống dâng trào. Bóng trắng chờn vờn trên tôi. Một vành môi chụm đầu ngực, đặt lên mắt, phớt qua vành tai, vờn quanh bụng. Tôi muốn níu lấy những sợi tóc nhưng chàng đã vuột ra, ấp đầu vào giữa vùng chân tôi mở bung quơ quíu. Dường như có mùi hương lẫn rượu nồng, có tiếng chim kêu hoan lạc, có tiếng sáo rơi từ trên không rớt lặn vào mặt nước con kinh rồi thổi sục lên, những giọt vỡ hoang tuôn tưới, đẫm tràn hai bờ rêu cỏ. Con rắn xanh của chàng cuốn lấy cả thân tôi, nó đẩy bụng tôi rướn cao, nó ghìm lưng tôi trĩu xuống. Những mấu răn cắn nhẹ, chiếc lưỡi nhọn lóc lách, nhụy hoa tơi tả. Tôi không giữ nổi hơi thở nói chi phân biệt được đâu là tay người hay ý rắn."{HL68, 12-2002}
Trên đây là chép nguyên văn một đoạn văn tả một cuộc làm tình của Mai Ninh, một đoạn văn lê thê không xuống hàng một lần, nhiều văn ảnh bóng bẩy, bóng gió, văn chương đến độ người đọc phải mò mẫm đoán ý chính của tác giả. Thỉnh thoảng lại dùng những chữ Việt thuộc loại bí mật, không biết xuất phát từ miền nào VN. Thí dụ như hai câu chót: ‘mấu răng’, ‘lưỡi nhọn lóc lách’, ‘ý rắn’ dùng để chỉ những gì vậy? Thắc mắc là thắc mắc thế thôi, không có nghĩa là chê Mai Ninh viết không hay. Chỉ có điều khi đọc văn Mai Ninh, nên đọc theo lối ghi nhận những con chữ để lại nơi mình, hiểu đại khái theo những ấn tượng này. Nhất là đừng đòi hỏi truyện, miêu tả nào cũng phải tuân theo dàn bài cổ điển: Nhập đề (những tán tỉnh vuốt ve mở đầu), Thân bài (những động tác chính), Kết luận (xuất tinh). Gần đây một số phụ nữ thuộc loại feminist chê lối dàn bài như thế là quá đàn ông, quá phụ hệ, chỉ hợp với nam giới. Bởi vì, như một số nhà nghiên cứu gần đây về tình dục đã công bố, sự khoái cảm của phụ nữ là từ từ dâng, là miên man trước khi cực điểm, là kéo dài rồi tan dần như sóng biển vào bãi cát phẳng, chứ không ‘một phút huy hoàng rồi chợt tắt’{Xuân Diệu}.
Mưa đá âm dương. Đó là tên một truyện ngắn hơi dài của Mai Ninh. Đọc cái tên truyện, đã thấy phảng phất hương vị thần thoại rồi, nhưng đây không là truyện cổ viết lại, nếu có phân loại, chắc sẽ được gọi là hiện thực huyền ảo. Nhân vâït nữ là Phượng, tên của một loài chim, còn chàng là Ngư, nghĩa là cá. Chàng và nàng ân ái trên bãi cát ven biển: "Phượng bỏ rơi mình lâng lâng trong cảm giá rạt rào bất giác tuôn trào từ bụng, thốn lên co cứng hai đầu ngực. Nàng cọ nửa mặt vào những hạt cát li ti xoay tròn một sắc hồng kỳ diệu, rướn người ủ ấp từng đợt nước dồn rung động dưới thân... Ngư dội lên những dùi chuông chắc nịch dịu dàng. Thế rồi Ngư bất ngờ hất nàng xuống, đột ngột bỏ đi, cơ thể cuộn dài như thân cá, duỗi theo dòng nước ra biển nhanh không ngờ." {Việt 6, 2000}
Chàng tuyên bố mình là loài cá giam mình trong biển ấm, còn nàng là loài chim, chỉ đoàn tụ được khi: "Bao giờ em sờ tay lên hòn đá âm dương khoanh vòng nửa trắng nửa đen ở cửa sông ấy là em giải thoát, gỡ thả anh về bơi lội trong thế giới của sự sống." Nói xong chàng từ giã để đến vùng đất ngút ngàn, miền địa đầu trái đất. Dĩ nhiên nhớ chàng, nàng bắt đầu một hành trình đi tìm khắp các cửa sông trên thế giới để kiếm đá âm dương. Một đêm trên bãi biển có nhiều thanh niên đốt lửa vui chơi có một cô gái trẻ du mục nhẩy múa với "hai bầu ngực đầy căng như chỉ chực bứt sợi dây cột manh áo bó sát thân, cũn cỡn trên cái váy xoè nhiều mầu, để lộ lõm xoay tròn xoe giữa bụng". Phượng ngủ thiếp đi và khi thức giấc lúc khuya, nàng được chứng kiến màn làm tình của cô gái với một chàng trai:
"Cô gái co cặp đùi nở nang quấn cứng dưới vành mông của chàng trai chỉ còn manh áo trắng mỏng manh, đang dạng chân cử động dồn dập... Phượng mở bừng mắt, hai gò ngực nhức căng. Hơi thở gấp rút của gã trai và tiếng đứa con gái gầm gừ như thú mắc bẫy... rung đứt những sợi thần kinh của Phượng... Bỗng nhiên Ngư lại hiện ra lừng lững giữa bầu trời băng xanh lạnh giá..." như để khuyến khích Phượng tiếp tục cuộc hành trình đang dang dở, đến khi nàng lọt vào được một căn nhà lạ lùng có một người đàn ông tàn tật đang ngồi hút thuốc. Biết mục đích của cô gái, người đàn ông chống nạng dẫn cô gái đi tới một cửa sông có đá âm dương. Và đúng lúc nàng nhìn hòn đá, người đàn ông vòng tay ôm, quật ngã trên nền đá và hỏi cô chàng Ngư đang ở nơi nào. Khi đã biết, "Người đàn ông ấy đã quỳ trên mặt đất, hai tay thành khẩn khép lại vạt áo đẫm nước trên khuôn ngực trần của cô gái, xốn xang lời tạ tội... người con gái đã đứng dậy, lững thững xuống đồi. Khi ấy trận mưa đá cũng vừa ngưng, hồng hạc lại họp đàn bình thản la đà nơi cửa con sông." Truyện chấm dứt ở câu trên, với bầy chim hồng hạc la đà nơi cửa con sông, để người đọc ngẩn ngơ theo đúng văn phong của Mai Ninh: cái gì đã xảy ra vậy, mọi sự sẽ ra sao vậy?
Nguyễn Thị Thanh Bình
Trái ngược với lối viết văn hoa bóng bẩy của Mai Ninh là Nguyễn Thị Thanh Bình định cư ở một thành phố lớn miền Đông nước Mỹ có rất nhiều da đen. Bằng một bút pháp thẳng băng, hay dùng lối trực tả, nghĩa là thấy sao tả vậy, thấy vú tả vú thấy chim tả chim, không ngượng ngập khách sáo. ‘Thế thái nhân tình’ ra sao, cứ thế phăng phăng kể ra, không thả một bức màn mỏng hay một lớp sương khói lờ mờ bay che cho mọi sự, cho bớt chất sống vật sống nhiều tính chất nguyên thủy.
Đọc văn Nguyễn Thị Thanh Bình thấy sức sống mãnh liệt của cuộc đời bốc lên nghi ngút, nóng bỏng. Có thể nói những bậc đạo đức, thật cũng như giả, ở Mỹ khó lòng mà thưởng ngoạn yên ổn văn chương của Thanh Bình, không phải vì nhà văn này tả chi tiết tình dục hơn những nhà văn khác, mà vì không khí nóng bỏng của một củ khoai nướng, còn vùi trong tro nhưng đã tỏa hương nồng nàn, quyến rũ mọi dạ dày trống rỗng.
Đọc nhiều nhà văn định cư ở Mỹ khác ít thấy sự hiện diện, xuất hiện của sắc dân da đen. Với Thanh Bình thì khác. Bà đã viết một vài truyện da đen đóng vai gần như chính, hay những người homeless với thế giới gầm cầu ống cống của họ. Và tình yêu tình dục của các nhân vật này cũng không ít thì nhiều có cái gì khác thường. Đọc văn bà, đôi khi thấy như một sự pha trộn giữa Maxime Gorki của Nga với Jean Genet của Pháp. Hãy đọc một đoạn văn mới viết của nhà văn này trong Hợp Lưu số 75, 2-2004, đặt trong khung cảnh miền Nam nước Mỹ còn tàn dư kỳ thị đen trắng, trong một đêm hội tà đạo Mardi Gras mà mấy ông bà thanh giáo Mỹ, cũng như Việt rất kỵ, ở thành phố cảng New Orleans, cựu thuộc địa của Pháp. Trong lễ hội tà đạo này, có diễn hành xe hoa và hình nộm, mọi người ca hát nhảy múa những điệu giật gân nhất, Phi Châu nhất ngoài đường phố và trên ban công các nhà các cô gái đen trắng cùng vàng, được thoải mái tốc áo lên trong một thoáng, khoe hai trái đào tiên của Văn Cao, khi được đám con trai tặng cho đủ số vòng đeo cổ lòe loẹt cô đòi hỏi. Thường thì hai hay ba vòng là đủ thưởng thức đôi vú. Còn muốn nhìn thoáng cái ‘liên tồn’ đầy cỏ mọc của thi sĩ Bùi Giáng, số vòng phải tăng lên gấp bội. Trong một bầu không khí như thế, nhân vật nữ của Thanh Bình tham gia lễ hội cùng một bạn gái:"Trời đất đìu hiu vuốt ve da thịt cô. Buổi chiều bắt đầu khá đáng yêu, gợi cảm, mượt mà như cặp đùi thon thả… Những đám trai gái túa ra như thác lũ từ mọi đường phố, mọi hàng quán, và càng lúc họ càng dồn đuổi về tụ điểm chính. Con đường Bourbon về đêm bấn loạn trong hơi thở. Người và người lẫn miết vào nhau những vòng tay ôm, những dìu dặt bước. Đêm như một món xào trộn hổ lốn với hương hơi thở của đủ mọi thành phần, đủ mọi giống phái... Đâu đó là những bộ ngực bốc lửa được phơi trần một cách thỏa thuê, sung mãn. Những xâu chuỗi óng ánh đủ màu được tung lên tức thời như một màn cổ võ..."
Sau khi lang thang ngắm cảnh ngắm người cùng một bạn gái, có lúc lạc vào quán dành cho những người đồng tính luyến ái, hay lại cái, hai cô gái ra về. Đến bãi đậu xe, hai cô đụng độ một nhóm thanh nhiên da trắng KKK kỳ thị màu da cực đoan, ăn mặc giả cảnh sát, bắt lên xe cùng với một thanh niên da đen. Chúng phát ngôn như sau:
"Tụi bay cút về nước hết đi. Đất này là đất của Mỹ trắng. Mỹ vàng như tụi bay đến đây chỉ giỏi lãnh trợ cấp, trốn thuế và mướn người gian lậu...
Những nhóm lửa cháy phừng phực trên những cây gỗ cắt hình thập tự giá... Đúng là thời của Ma vương quỷ lộng nên KKK mới còn xuất hiện như thế... Và cô đâu có thể ngờ rằng một ngày kia cô là nân nhân của họ. Chui vào rọ cùng một lần với gã Mỹ đen kia. Thoạt đầu người ta đẩy cô xuống một bãi cỏ sau một ngôi nhà thờ hoang vắng. Người ta xé toạc những mảnh fermeture cuối cùng trên người cô. Cô nằm sóng xoài, lõa lồ là trăng để cho con beo dũng mãnh là hắn đến xé xác, giữa tiếng xập xoa reo hò điên cuồng của lũ súc sanh. Trong vùng tối, người ta bắt gã Mỹ đen gục mặt uống đầy những ngụm trăng. Cô muốn chết điếng trong cảm giác đau đớn, uất hận và bắn tung thể xác. Một tên quỷ râu xanh nào đó lên tiếng: "Mỹ đen tụi bay chỉ được "phắt" Mỹ vàng như vậy đó. Thằng nào lớ quớ đụng vào bất cứ sợi lông của một em Mỹ trắng, ông bắn chết...
Còn nỗi lăng nhục nào lớn hơn cho cô... Hắn là một người đàn ông xa lạ, đang nhễ nhại trần truồng cắm sâu vào người cô một thứ bộ phận cứng đờ như một thanh sắt nguội. Cô càng kêu lên vì đau đớn, hắn càng kêu lên vì kích động. Hắn có rướn người đến ngàn năm cũng không tìm được những khít khao trên người cô. Vậy tại sao hắn còn trồi lên như sóng dâng, để cô rờn rợn những luồng khí. Những cố gắng kháng cự cuối cùng rồi cũng vô ích, cô biết từ đây cô khó lòng yêu nổi đàn ông. Đàn ông, cô phải mất bao nhiêu suối, bao nhiêu sông, bao nhiêu biển mới rửa hết những tinh khí đã lỡ bắn tung tóe vào người cô?" {Thiên thần trong bóng tối, HL75}
Hãy tiếp tục theo dõi bút pháp trực tả có sao tả vậy không văn hoa vẽ rắn thêm chân... của Thanh Bình trong truyện ngắn khá dài Khỏa thân đêm, cũng đăng trên Hợp Lưu, số 70, 4-2003, trg 191. Cốt truyện giản dị: Một cô gái một con đang túng tiền, đi đánh bạc lại thua, một con bạc đứng tuổi đề nghị tặng một vòng vàng với năm ngàn tiền mặt, để đổi lấy một cuộc làm tình. Cô gái chịu và "...ông xô kéo tôi trở lại phòng vệ sinh, thì rõ ràng đây là một cơn bão không đài báo khí tượng. Trong đó tôi là một ngọn cỏ, một cành hoa, một cánh bướm. Thoạt đầu bão trượt lên ngực tôi căng căng. Tôi không kịp kháng cự, đã bị bão quét một đường hôn vũ bão lên môi. Được trớn, khuôn mặt bão dữ của ông ta nổi cơn thịnh nộ.
- Hôn tôi đi. Ù lì như vậy đừng trách tôi gian ác.
Vừa nói ông vừa mài thân thể nóng rắn căng cứng lên hai đầu vú người đàn bà. Một sự cọ xát kỳ dị không hẳn là tình yêu cũng không hẳn là tình dục đối với tôi. Ông kỳ vọng gì ở một sự mua bán cảm xúc, khi cùng lắm tôi cũng chỉ là con mèo nhồi bông cho ông ta mặc sức ve vuốt. Hay tôi có trơ ra như con búp bê bằng sứ, bằng plastic thì hình như chỉ làm khích động thêm nỗi dâm đãng của ông ta. Càng lúc người đàn ông càng biểu diễn vẻ man rợ đắm đuối của dục cảm. Ông ta hết phả vào cổ tôi hơi thở dồn dập của tên đàn ông đầy sung mãn, lại cúi xuống tốc váy tôi lên như thể biến tôi thành con yêu tinh, bởi vì đàn bà khi không yêu, không thích thì khó diễn tả được những rung động kệch cỡm. Đàn ông thì khác, mặc dù tình yêu và tình dục cũng có thể phân biệt rạch ròi, nhưng tình dục cũng có lúc xâm chiếm mạnh mẽ đến nỗi họ có thể tìm thỏa mãn với bất kỳ con cái nào... Tôi nói giả lả khi ông bắt đầu tụt quần xuống.
- Xin lỗi ông, tôi vừa kinh nguyệt một hai ngày, chưa sạch đâu đấy...
- Thôi được rồi, cô làm khẩu dâm cho tôi đi.
Vậy là ông dí đầu của tôi xuống, bắt vít ngay nhánh củi trơn nhẵn (như đã gọt dũa) khá bự và dĩ nhiên là ấm nóng vào miệng. Tôi khục khặc, muốn ói một hai bận và cuối cùng không chịu được nữa, tung cửa chạy bay như một con mẹ ăn quịt. ...Tôi càng chạy càng thấy mình không thể đứng lại để chịu trận tiếp, nên mặc dù sau lưng là tiếng còi thổi ra lệnh dừng lại của mấy gã an ninh, tôi vẫn lọt vào thang máy và kiếm đường. Chưa bao giờ tôi chạy đua tài tình như vậy... với cuộc đời, khi đằng sau là những vờn đuổi bén gót của ông ta:
-Bắt nó lại. Bắt cô ta giùm tôi.. Giựt hết bóp tiền của tôi rồi, trời ơi!"
Phản ứng đuổi theo của người đàn ông là có lý, vì đã tặng vòng vàng và tiền mặt gần mười ngàn đô la cho cô gái mà không được... sướng, dù bằng kiểu cổ điển hay khẩu dâm. Cũng không cả một hứa hẹn tương lai, một số điện thoại. Cô gái cắm đầu chạy ngoài vỉa hè tối, húc vào một người đàn ông khác. Cô cầu cứu ông này và được trợ giúp bằng cách cho mượn áo, khoác tay giả làm một đôi vợ chồng. Ông này vốn là người cũng kinh dị, bất thường (các nhân vật nam của Thanh Bình thường không kinh dị thì cũng không bình thường), mở một nắp cống cho cả hai chui xuống nấp, trốn lũ người đuổi theo. Khi đã quen với bóng tối, cô mới nhận ra đang ‘đụng vào một thế giới ngập ngụa sa lầy’:"Trời ạ, địa ngục là nơi nào khi trước mặt tôi là một khối trắng lõa lồ như trăng vữa. Khuôn mặt người đàn bà nấp sau vòm tóc hất ngược xuống, rũ bung ra như ngàn năm biếng chải đang chống hai tay quỳ sấp người, man rợ hóa thân thành loài thú, khi chú chó tơ chồm chụp mải mê lên lưng con mụ như hai con thú hoang động cỡn giữa vòm đêm dục cảm. Trong mơ hồ dường như có tiếng loài sói đến múa hú trăng rền lên điên dại. Hay hắn đang tìm môi tôi và bỗng gắn siết vào một cái hôn đang dắt đến ngộp thở, đến không kháng cự nổi và đến như ngày mai tận thế và ngày đời sẽ không còn một bờ lưỡi nào nóng ran mềm mại như thế..."
Với người đàn ông thứ hai gặp trong đêm này, mọi sự diễn ra khá lâu nhưng chỉ có hôn dài đến hụt hơi ngạt thở và nói chuyện vớ vẩn thôi. Lý do người đàn ông này đang tính đi ra sông nhảy tòm xuống tự tử cho rồi đời, gặp cô gái này cầu cứu bèn ra tay tế độ, không ngờ hôn xong hết muốn tự tử luôn. Rút cục đôi trẻ (ngày nào còn nam nữ yêu nhau, thì ngày đó còn có ‘đôi trẻ’, bất kể tuổi tác) vui vẻ dắt tay nhau ra khỏi ống cống, chia tay ai về nhà người ấy. Dĩ nhiên cô gái vẫn còn giữ nguyên chiếc vòng vàng cùng số tiền mặt, sau một đêm đầy cảm giác cảm xúc cảm tính như vậy, mà vẫn không sao cả...
Thật đúng như một chuyện thần tiên hay cổ tích. Nhưng là thứ thần tiên cổ tích cho người đã trưởng thành về tình dục (gọi như thế bởi vì ở đâu thời nào cũng có những người không, hay chưa trưởng thành về tình dục, dù 7 hay 77 tuổi...).
Nguyễn Thị Ngọc Nhung
Nếu Nguyễn Thị Thanh Bình có bút pháp thẳng băng, cái gì nói đúng cái đó, thường dùng các từ giản dị thường ngày, ít ấn tượng, ẩn dụ bóng bẩy, Nguyễn Thị Ngọc Nhung ngược lại, có bút pháp cổ điển, trau chuốt hơn. Lối đặt câu ngắn dài xen kẽ nhau, dùng từ chọn lọc.
Sự miêu tả được đặt trong khung cảnh nhất định, thí dụ như những ngày có thứ gió được gọi là "...gió Santa Ana ngặt nghèo. Mang theo hơi nóng. Mang theo bụi bặm. Mang theo bông phấn. Mang theo mọi thứ mà nó mang được, phủ cho chỗ này, vất cành khô lá rụng bên kia. Những thứ không mang được, nó lung lay vật vạ cho đến đứt ngang hay lật lìa phất phơ. Cơn gió Santa Ana thổi sạch đường này bằng cách vứt rác sang đường kia..."
Nhân vật chính của truyện về ngày gió lớn và khét nóng cỏ đồi cháy miền Cali Hạ, là cô gái Cảo có bồ trai là một ông có vợ, sau một thời gian sống chung, vừa bỏ đi về với gia đình. Cảo là một người nữ trưởng thành về tình dục, có thói quen đêm ngủ thường hay nắm lấy con chim của chàng, không khóc lóc vì chuyện tình dang dở. Thức dậy trong tiếng gió mạng khi chàng đã đi rồi, nàng pha cà phê, trong khi đợi cà phê chảy nàng đọc thư trên mạng, chợt nghe thấy tiếng vật thủy tinh rơi bể trong sân nhà bên cạnh thấp hơn. Nàng vén màn nhìn xuống và được chứng kiến một hoạt cảnh diễn ra, như trên sân khấu thấp:"...người đàn bà đưa lưng trần về phía Cảo cúi khom nhặt vật gì quanh quẩn chiếc ghế lưng ngửa dài... Hai trái vú tròn đong đưa khi cô ta cúi khom. Thứ vú to khi thõng lại gợi tính kích thích... Người đàn ông nhìn quanh rồi nhìn người đàn bà nói gì, cô ta cười, tiếng cười dòn theo gió lúc lớn lúc nhỏ... Cô lắc lắc đầu theo chiều gió để tóc bay cùng hướng, một tay gom tóm tóc nơi gáy, tay kia vén mấy sợi tóc chạy lạc. Dáng đứng của người đàn bà gợi cảm. Hai tay giơ lên bận bịu với tóc, cặp vú tròn, đầu vú nổi bật hai vết sẫm lớn, mông vun cao, đường eo uốn cong khúc quanh gắt. Chợt người đàn ông vất cái chổi, sấn lại gần, từ sau lưng ôm vòng ra trước úp chụp lấy một vú. Người đàn bà ôm giữ cánh tay hắn... Cả hai đều cười. Tiếng cười vỡ lớn được gió đưa lên dốc đến tận nơi Cảo đứng, màn cửa sổ giữ trong tay.
Cảo thản nhiên đứng nhìn... người đàn bà trẻ ôm người đàn ông trong tay âu yếm hơn... Gió thổi hốt xoáy lá quay vòng nơi sân sau của ngôi nhà đó. Bàn tay người đàn ông lần cởi cái quần pyjama thắt dây hững hờ nửa bộ mông của người đàn bà. Cô ta cười, Cảo không nghe rõ tiếng. Gió vút mạnh. Cô nhỏm người lên, lấy sợi dây lưng quần của mình nơi tay người đàn ông, nới lỏng mối cột. Hắn buông dây cho cô rồi đưa tay vuốt hai bầu vú. Đầu hắn gục sát ngực cô, một tay vẫn vần vần xoay xoay đầu vú khi cô rướn mình lên cao hơn tí nữa để tuột quần khỏi bàn chân. Bên này rồi bên kia. Gió vẫn mạnh hơn, hơi rít rồi hú lớn, vụt chạy đâu đó rượt đuổi. Hai ba chiếc lá khô rơi trên vai trần của người đàn bà trẻ rồi trên ngực người đàn ông. Hắn phủi phủi lá rồi một tay ôm người đàn bà nơi mông, tay kia chống xuống mặt ghế lấy thế từ từ nhỏm dậy. Người đàn bà ôm cổ hắn, cười hắt tiếng lục khục đứt đoạn, hai chân cô quấn chặt lưng người đàn ông... Thoáng cô ngẩng lên. Cảo không tránh. Người đàn bà nhìn lên. Hình như cô mỉm cười rất tự nhiên, với Cảo." {Ngày gió, HL69, 2-2003}
Thời tiền chiến trước 1945 là thời của tình yêu lãng mạn, romantic, ...thời của Tự Lực Văn Đoàn, có một cảnh đôi trẻ tình tự trên đồi sắn một ngày gió lộng, lá khô rơi tơi bời trên hai người. Nhưng hai người quần áo chỉnh tề và không ai đụng chạm tới áo quần, không cởi cho mình và cũng không cởi cho ai hết, gió thổi phần phật, mặc gió, lá rơi mặc lá muốn rơi đâu thì rơi. Trong một truyện khác cũng nổi danh của văn đoàn này, một đôi nam nữ đi chơi trên đồi cỏ, rất yêu nhau nhưng chàng và nàng chỉ nằm dài trên cỏ, nhìn mắt nhau qua lớp cỏ may. Thế thôi. Và như thế được coi như những cảnh lãng mạn điển hình không những trong tiền chiến ở Việt Nam, mà còn cả bên Pháp, bên Âu Châu từ thế kỷ 19. Còn bây giờ, đầu thế kỷ 21, nhà văn dù lãng mạn hay không, ít khi tả cảnh trai gái yêu đương như thế nữa, mà tả xa hơn đến chỗ ôm nhau và hôn môi hôn miệng, rồi thông qua chuyện làm tình (độc giả hiểu ngầm cho), chuyển đến hồi sau khi làm tình. Còn tả đại khái như nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Nhung trong đoạn văn trích trên, dứt khoát đi xa hơn thời tiền chiến nhiều chặng, dù chưa tới giai đoạn làm tình đích danh, cũng thừa đủ các ông đồ của nhà thơ Vũ Đình Liên ở nơi nội địa và hải ngoại chê là khiêu dâm.
Phần người viết bài, khi đọc Ngọc Nhung, vẫn thấy phảng phất một không khí lãng mạn đâu đây, dù sự miêu tả đã đi tới chặng đôi trẻ cởi quần áo cho nhau rồi quấn chặt, bồng bế nhau đi vô nhà, trong cơn gió Santa Ana khô nóng làm lá khô rơi rụng nhiều như trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng ngày nào. Chỉ khác một điểm là lãng mạn bây giờ là lá rụng tơi tả trên da thịt trần truồng của đôi trẻ. Như một lời thơ nhạc của Lê Uyên Phương: Hãy ngồi xuống đây yêu nhau trần truồng kiếp sống hoang sơ... Thế thôi. Vẫn tình yêu như thế đó, vẫn gió mạnh và lá rụng tơi tả, khác nhau giữa lãng mạn thời xưa và hiện nay là ở chỗ xưa mặc quần áo, còn bây giờ thì không chăng?
Họ là một cặp vợ chồng sống ở Mỹ cũng khá nhiều năm. Có bằng cấp đại học, có giốp yên ổn, có nhà để ở, có xe để đi và có một đứa con trai nhỏ. Họ không có chuyện gì để thiên hạ bàn tán nếu không có một bữa..
.
Bữa đó họ đi chợ VN. Bất ngờ người chồng gặp lại cô bồ cũ. Lúc này mới vừa chia tay người tình, cô ta đem đứa con gái năm tuổi qua tiểu bang này ở nhờ nhà một người bạn chờ xin trợ cấp và housing. Người chồng gặp Bồ Chanh, tên cô bồ cũ, mười năm trước khi hai người làm chung ở hãng làm gương làm kính. Thuở đó cả hai còn chân ướt chân ráo ở xứ Mỹ chỉ mới vài năm. Bồ Chanh có nước da bánh mật mặn mà, do sự pha trộn khéo của hai giòng máu Miên Việt. Bố Miên, mẹ Việt. Thạnh là thanh niên Việt. Họ đều không có ai là thân nhân ở bên này nên sống với nhau như vợ chồng. Kinh tế đi xuống, hãng xưởng sa thải nhân viên. Họ mất việc trong cùng một ngày. Đời sống bắt đầu khó khăn. Rồi một hôm đường ai nấy đi. Bồ Chanh theo tình nhân mới-một anh Mỹ lai-và người thanh niên Việt đi học trở lại.
Tưởng người đàn bà - chồng mình mới gặp lại - là bạn học cũ của chồng, người vợ mời cô ta về nhà ăn bữa cơm. Bên ngoài, cả ba đều vui vẻ, thân thiện với nhau. Cô bồ cũ và người chồng đối xử tự nhiên. Một tuần sau cặp ba đó còn rủ nhau đi coi movie. Chắc Tú Uyên thật sự không biết sự liên hệ ngày xưa của chồng, chứ đàn bà mà, họ cũng khôn lắm trong việc "rước kẻ trộm vào nhà". Chỉ có bạn của Thạnh là biết. Nhưng đàn ông với nhau, họ giữ kín những chuyện như thế này, chứ là đàn bà thì vài ngày sau người vợ biết ngay. Đôi khi họ còn ghen dùm cho bạn.
Từ ngày gặp lại cô bồ cũ, người chồng bắt đầu vắng nhà, có bữa đi làm về trễ, có bữa về thẳng nhà nhưng sau bữa cơm thì tìm cách đi. Người ta hay thấy Thạnh ở xóm nhà đường Portland. Rồi tưởng như ai cũng biết Thạnh đi lại với Bồ Chanh, chỉ có Tú Uyên là không biết. Người ở xóm đó thương hại Tú Uyên, nhưng không ai muốn gọi điện thoại cho nàng biết, vì họ không quen biết Tú Uyên, và chuyện cũng tế nhị khó nói. Hay Tú Uyên có biết mà vì thể diện gia đình nên không làm lớn chuyện, không ai biết? Có lẽ nàng biết, nhưng không làm gì đấy thôi?
Mấy người đàn bà ngồi quanh bữa tiệc, rảnh rang đem chuyện của cặp vợ chồng này ra bàn tán:
-Đàn ông vắng nhà nhiều như vậy, không đến nhà vợ nhỏ thì đi đâu? Ở Mỹ rồi mà còn bà lớn bà nhỏ thế mới nản chứ. Cái hạng đàn ông đó bỏ mẹ cho rồi, còn tiếc cái gì! Chả đâu phải già cả gì đâu mà nói là đã quen cái tính của đàn ông ở VN? Xứ này mình là đàn bà cũng cực khổ đi cày kiếm ăn, chứ sướng gì, mà lại thêm nợ một ông chồng như vậy.
Có người tiêu cực nói:
-Coi vậy chứ cũng khó nói. Mình không ở cảnh họ nên dễ nói.
Thủy Văn Khoa chanh chua trả lời:
-Có gì mà khó. Chuyện gì mình cũng giải quyết được cả. Ai kêu cứ lừng khừng thụ động, cứ để người khác quyết định đời mình. Gặp cảnh tui là tui bỏ.
-May mà cảnh vợ chồng của cô hòa thuận, chứ cũng lôi thôi như người ta, thì biết cô có cứng rắn như khi cô nói không. Như lời con Nhung, cứ nói thì ai nói chẳng được. Nhung còn bi quan nói làm đàn bà khổ quá, trăm ngàn thứ khổ. Có con gái nghĩ tội cho con, tui nói với ông xã tui phải thương nó.
-Thấy cặp vợ chồng Thạnh - Tú Uyên đưa nhau đi chợ trông họ cũng như bất cứ cặp vợ chồng hạnh phúc nào, chỉ có tao là cứ thắc mắc cô vợ có biết chuyện chồng bồ bịch lại với bồ cũ hay chưa, họ xài chung một người đàn ông mà cô có biết? Khổ thân tôi! Chuyện của người ta mà mình cứ bận tâm, mà xem chừng họ sống tỉnh bơ lắm! Cả hai bà đều diện, chắc diện để giữ tình yêu của người đàn ông? Chắc phải biết sự hiện diện của nhau mới có cảnh "lấn đất dành dân" chứ?
Cô bồ cũ thúc hắn ly dị vợ để chính thức đem cô về. Người đàn ông hứa trăm lần sẽ bỏ vợ. Miệng nói như vậy nhưng bụng lại nghĩ, bỏ vợ thì tài sản sẽ bị cưa đôi. Của cải đâu có bao nhiêu mà phải cưa đôi thì hắn đâu còn gì nữa. Giữ cái nhà cho mình thì phải hoàn một nửa tiền cho vợ. Mà hắn làm gì có tiền để hoàn cho vợ. Mang một nửa đi thì số tiền đó không đủ down mua một cái nhà khác. Hồi trước cũng nhờ income của vợ của chồng mới mua được cái nhà 5 phòng như thế này. Đứa bé con dưới 12 tuổi đó thì chắc là quan tòa không cho hắn mang theo. Con nhỏ thì ở với mẹ có lý hơn. Ở với vợ thì hắn liệu tiền chu cấp -child support. Họ đè ngay lương của hắn trước khi hắn đụng tới cái check. Ở xứ này hắn không trốn bổn phận nuôi con được. Không chơi trò bên VN ngày xưa, nếu hắn có vợ bé, hắn cứ ở với vợ bé cho đã, không ngó ngàng tới con, ai nuôi con, hắn không cần biết, nó vẫn là con của hắn. Thiên hạ vẫn sẽ kêu nó là con của cha Thạnh.
Nói tới nói lui, thật sự thì vợ của hắn hiền quá. Cũng quen biết yêu nhau thời đại học, chứ đâu phải lấy nhau suông. Bồ Chanh chỉ có thể là người tình thôi. Đi những chỗ cưới hỏi, tiệc tùng của cộng đồng Việt, hắn hãnh diện đưa Tú Uyên đi mà không thể đưa Bồ Chanh đi, vì cô bồ lai Miên này...có nét Miên nhiều quá.
Có lần vợ hắn nhắc:
-Anh dành thì giờ chỉ vẽ cho con học, bài vở bắt đầu nhiều, sợ nó không theo kịp lớp học. Nhất là Reading.
-Anh bận quá...Hay em kiếm tutor cho con?
Vợ hắn nói:
-Cũng được! 18 đồng một giờ, mỗi bữa học một tiếng thôi, tuần kèm hai bữa chắc là được.
Rồi thấy vợ hắn không nói gì thêm, hắn đoán là vợ tin hắn bận rộn chuyện sở thật. Chuyện nhà hắn sắp xếp coi cũng tạm xong. Chỉ còn phía cô bồ Miên, cô cứ dọa hắn:
-Anh mà bỏ em thì em sẽ tự tử ...làm ma...về bóp cổ anh.
Cái miệng chu chu. Bờ ngực núng nính. Bên Bồ Chanh man dã, liêu trai, hắn quên cả vợ con.
Hắn hôn chùn chụt cô bồ, cười nói:
-Đẹp sexy như em...ai dại gì bỏ!
Cô bồ nghe như vậy lòng sung sướng cũng cười khục khục, rúc vào ngực hắn.
-Nhớ nhé, nhớ nhé...Anh phải cưới em! Rồi đưa em về ở nhà lớn nhé. Em không muốn ở housing nữa đâu, chật chội, bẩn thỉu lắm, thiên hạ lại nghĩ mình nghèo!
Hai người sau đó lại mây mưa quên cả thế sự.
Hai mẹ con Bồ Chanh đang hưởng trợ cấp con nhỏ. Hắn cẩn thận không để cô bồ có bầu. Hắn bắt cô phải uống thuốc ngừa thai. Hắn không muốn có một đứa con chung với cô, hắn cho là con lai một phần tư Miên ...không thông minh. Nhưng hắn cũng khôn không bao giờ nói điều này với cô ta. Về phần hắn, hắn xài condom. Nhiều lần không kịp xài bọc, hắn lo toát mồ hôi, nhưng khi nghĩ là bồ hắn cũng còn uống thuốc ngừa, hắn lại thấy an tâm. Rồi lâu ngày để thoải mái hắn không xài nữa!
Mấy tháng sau cái kế hoạch của hắn bị hỏng! Hắn muốn xỉu khi Bồ Chanh cho biết hắn sắp làm cha...lần nữa, là cha của đứa con trong bụng của cô. Cô cười vui vẻ báo tin mừng rồi nói thêm:
-Em muốn một em bé gái. Dễ mua áo quần và đồ chơi. Em sẽ mua thật nhiều búp bê cho con...Anh sao vậy? Bị trúng gió hả? Cái mặt xanh lè!
Bữa đó hắn đi làm về sớm hơn vợ. Trùng hợp ngẫu nhiên một việc quan trọng khác hắn vừa khám phá ra. Đứng ở cửa sổ phòng ngủ, nghe tiếng xe đỗ cái xịch, hắn nhìn xuống sân trước nhà thấy một người đàn ông vừa đưa vợ hắn về. Người đó xuống xe, mở cửa cho vợ hắn. Họ hôn nhau hồi lâu, chia tay ngay trước con mắt mở lớn của hắn. Cô vợ vừa bước vô nhà, hắn xấn lại:
-Thằng nào chở cô về vậy?
-Bạn cùng sở.
-Sao để cho nó hôn?
-Hôn thì đã sao?
Hắn ngạc nhiên thấy vợ trả lời tỉnh bơ. Xưa nay Tú Uyên chưa bao giờ đốp chát với hắn như vậy cả. Cô vợ nói tiếp:
-Chuyện anh có bồ thì ai nói?
Hắn ngây thơ trả lời:
-Tôi tưởng cô bằng lòng! Chuyện tôi có bồ thì có...mất mát gì!
-Anh có bồ! Thì tôi cũng có bồ! Có mất mát gì!
Hắn giơ tay tính đánh vợ nhưng may quá, hắn dừng đúng lúc và quay sang xô cái bàn kính. Cái bàn kính tốt, không sao cả. Nhưng tay hắn thì ê ẩm, bầm tím!
Và vợ hắn đòi ly thân.
Chuyện đời thật khó hiểu. Nhìn vậy mà chẳng vậy. Lầm lỡ thì ai chẳng lầm lỡ, rồi thì bỏ qua, thấy bên ngoài hắn có mọi thứ: giốp tốt, vợ con, nhà cao cửa rộng, xe hơi mới- chồng một cái, vợ một cái. Chuyện tình cảm thì phải có hai người, nếu hắn dứt khoát từ lúc đầu thì đâu có xảy ra chuyện. Tại hắn cứ dây dưa bắt cá hai tay.
Bồ Chanh đã giăng bẩy. Cô muốn có con với hắn nên đã lén hắn liệng hết những viên thuốc vô nhà cầu. Hắn liên tưởng nhiều thứ: Bồ Chanh sẽ khai nơi Welfare thêm đứa con nhỏ. Chương trình WIC sẽ cho trứng, sữa, ngũ cốc...nuôi cho con hắn mập. Hắn sẽ nhận lá thư từ Child Support Division của Bộ Xã Hội đòi nợ hắn.
-Họa vô đơn chí, đúng là họa vô đơn chí.
Trong một lúc khủng hoảng tinh thần, hắn xuống bếp lấy dao đâm phụp một cái nơi ngực hắn. Có hàng xóm đến gõ cửa tìm Bồ Chanh vô tình đã thấy hắn ở tình trạng như vậy giữa những lon bia ngổn ngang. Hai mẹ con Bồ Chanh đưa nhau đi đâu chưa về. Người ta vội vã kêu 911. Tụi Medic One đến, cứ để hắn như thế -với con dao còn cắm trên ngực -mà chở hắn vô nhà thương St. Joseph.
Hắn tự tử mà hắn chưa chết. Con dao lún sâu vô ngực, còn một chút nữa vô tim. Ai cũng nói hắn hên. Bệnh viện sợ hắn tự tử nữa nên cho nhân viên an ninh tới gác phòng của hắn. Đồng thời một vị mục sư của bệnh viện cũng được phái tới để khuyên nhủ hắn. Người lối xóm của Bồ Chanh rủ nhau tới phòng hắn đông nghẹt. Tới vì tò mò coi hắn sống chết như thế nào thôi, chứ không chắc họ đã quan tâm gì hắn. Lão security chận họ ngay cửa không cho vào. Họ tụ ở một hành lang hẹp gần đó, bàn tán xôn xao...chưa chịu về. Tin sốt dẻo quá, chắc là The News Tribune của thành phố sẽ phải đăng nơi trang đầu thôi!
Ngày đầu vợ hắn có tới bệnh viện, nghe hắn không sao, cô vợ quày trở ra ngay! Rồi suốt mấy ngày không thấy cô vợ trở lại.
Trời cao có mắt cũng giúp hắn, cho hắn sống. Để hắn chết thì tội quá đi. Con cần có cha, nhất là đứa con còn trong bụng mẹ. Nghĩ tới khi xuất viện, hắn có nhiều việc phải giải quyết: khuyên vợ hắn đừng bỏ hắn, nói như thế nào thì bây giờ hắn chưa biết; còn cô bồ Miên...không dễ gì rứt ra, còn đứa con với cô ta nữa? Mà bị vợ ly dị, hắn không dám nghĩ tới điều này, nào là của cải, giấy tờ lôi thôi quá. Hắn mệt quá...lại nghĩ giá gì người ta đừng cứu hắn. Nhưng khi hắn mở mắt thì lù lù khuôn mặt của Bồ Chanh.
....Vài năm sau...Hắn bây giờ như người mất trí đã vừa mất vợ vừa mất con, hắn cũng đã mất luôn giốp nữa. Hắn chỉ còn Bồ Chanh...nhưng rồi Bồ Chanh vẫn làm khổ hắn và là người ra đi kế tiếp. Hắn buồn, uống rượu quên sầu. Và bài thơ dưới đây của tác giả Hòa Vang hắn đã mượn trên báo để bày tỏ nỗi niềm... với vợ cũ.
Tình lận đận
trần gian nhiều lối đam mê
tình hồng kết nụ môi kề ngọt êm
nói ra sợ khổ lòng em
anh đây thấm thía muộn phiền bê tha
ngày về... em bỏ đi xa
đến nay đã mấy thu qua khổ chồng
bây giờ anh vẫn còn trông
cỏ hoa trước ngõ cũng buồn gió sương
đời anh lận đận thê lương
làm sao hàn gắn tình thương ban đầu
thời gian - chưa hẳn phai màu
em đi... anh tiếc, nhớ nhau dại khờ
anh ngồi nâng cốc bâng quơ
môi em là rượu, bài thơ cõi trần
uống từng giọt đắng mừng Xuân
em về nhẹ bước anh từng phiêu du.
Trước hết, chúng tôi rất đồng ý với Ðài Phát Thanh Quê Hương, khi thấy mình không lên tiếng là hèn nhát thì cứ lên tiếng. Và khi một cơ quan nào đó đã lên tiếng thì những ai liên hệ hay là nạn nhân của Bản Lên Tiếng đó cũng phải trả lời để 2 năm rõ mười. Có như vậy công chúng mới có dịp so sánh, nhận định ai đúng, ai sai. Nhờ đó, mọi người mới biết được sự thật nằm tại đâu.
Tiếng Dân cũng đồng ý với ÐPT Quê Hương rằng Ðài này có quyền không ủng hộ Ủy Ban Vận Ðộng tên Little Saigon (UBVĐTLT) vì cách thức vận động của họ Ðài Quê Hương không ưa, dù cho đại đa số người Việt tị nạn Cộng Sản đều ủng hộ cái tên Little Saigon mà Ủy Ban này vận động. Nhưng chúng tôi không đồng ý với Ðài Quê Hương khi Ðài này lập luận rằng: Website của Việt Cộng lấy tin từ hãng tin AP chứ Việt Cộng không nặn ra cái tên này. Không hẳn như vậy, có khi Việt Cộng đưa tin này cho AP rồi “trích lại từ AP” để chúc mừng “Việt Nam” có khu thương mại riêng. Mấy đời mà gà đạp gai, tại sao báo Việt Cộng lại khen cái tên do nghị viên Madison đặt? Xin lấy một ví dụ cụ thể: Ðài Quê Hương có mục “Đọc báo VẸM” rất hay, thường lấy những tin tức trên báo Việt Cộng để diễu cợt, mỉa mai Việt Cộng, … nó khác với các báo thân Cộng ở đây trích những tin tức này với giọng điệu nịnh bợ, đề cao Việt Cộng. Hai cái “trích đăng” khác nhau. Website của Việt Cộng đã chúc mừng cái tên do nghị viên Madison đặt, còn AP thì không. Một ví dụ cụ thể, mới toanh trích trong lời văn của Ðài Quê Hương, khi đài này nói trong Bản Lên Tiếng: “Tại sao mình là người Việt Nam đến đây với tư cách tị nạn Việt Nam …”. Thưa đài Quê Hương, chúng tôi không tị nạn Việt Nam, chúng tôi tị nạn Cộng Sản. Cộng Sản là kẻ thù của dân tộc Việt Nam, tại sao Quê Hương lại đồng hóa Cộng Sản với Việt Nam rồi mạt sát chúng tôi là chối bỏ 2 chữ Việt Nam? Với cách dùng chữ như vậy, Đài Quê Hương chẳng những bôi đen 2 chữ Việt Nam mà còn đồng hóa Cộng Sản với toàn dân Việt Nam. Cộng Sản bây giờ đang chuẩn bị đổi tên để che dấu những tội ác tày trời do Cộng Sản gây ra, chúng núp vào trong toàn dân Việt Nam, và chúng gọi chúng là Việt Nam, Ðài Quê Hương cố ý giúp Việt Cộng khi gọi chúng là Việt Nam. Nhưng, Tiếng Dân không vì sự sai lầm này của Quê Hương mà cho rằng Quê Hương làm tay sai cho Việt Cộng. Tiếng Việt Nam mà Tiếng Dân bác khước là trong trường hợp Việt Cộng cố ý đồng hóa chữ Cộng Sản thành Việt Nam. Ðài Quê Hương không hiểu hay hiểu mà làm ngơ nên cho rằng Tiếng Dân bôi đen 2 chữ Việt Nam. Vu vạ cho Tiếng Dân như vậy là sai lầm nếu vô ý và làm lợi cho Cộng Sản nếu cố tình. Từ trước, Ðài Quê Hương rất rạch ròi khi dùng chữ, không hiểu tại sao trong Bản Lên Tiếng lại cho rằng người Việt ở San Jose tị nạn Việt Nam? Trong khi đó, Tiếng Dân chỉ muốn phân biệt Cộng Sản và Việt Nam khác nhau một trời một vực lại bị Quê Hương chụp mũ là bôi đen 2 chữ Việt Nam. Xin đừng suy bụng ta ra bụng người.
Tiếp theo, Ðài Quê Hương cho rằng “Khi một số thành viên khác trong cộng đồng muốn đề nghị tên New Saigon, ngay lập tức UBVĐTLS tấn công họ với những lập luận rằng, đây chỉ là cách bắt chước, rập khuôn theo Việt Cộng vì ở trong nước đã có một khu vực được đặt tên là Saigon Mới, hay Tân Saigon gì đó và đặt tên New Saigon có nghĩa là muốn khai tử cái tên Saigon”. Dù đài Quê Hương có cho UBVĐTLS và một số thành viên khác trong cộng đồng chúng tôi là ấu trĩ, ngu ngơ… chúng tôi cũng phải nói rằng chính đài Quê Hương đã “ba chớp ba nháng” không tìm hiểu sự việc một cách chính xác, rõ ràng đã vội vu khống cho người. Việt Cộng đặt khu thương mại mới của chúng ở Việt Nam là New Saigon y hệt như New Saigon của các thành viên trong cộng đồng của Ðài Quê Hương. Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Chưa nghe cho rõ đầu đuôi đã sáng tạo ra mấy chữ Saigon Mới hay Tân Saigon đổ oan cho UBVĐTLS để rồi mạt sát người khác là “hết sức ngu ngơ, ấu trĩ, vì người ta không thể dịch các địa danh mà phải giữ tên của chúng”. Chỉ có đài Quê Hương dịch chữ New Saigon ra Saigon Mới và Tân Saigon chứ không ai dịch như Ðài Quê Hương để đổ lên đầu Ủy Ban Vận Ðộng Tên Little Saigon. Do đó mà những ngu ngơ, ấu trĩ là chính đài Quê Hương mắng vào mặt Ðài Quê Hương. Tiếng Dân cũng xin mượn mấy chữ “đừng cố tình dịch ra rồi xuyên tạc ý kiến của người khác” của Ðài Quê Hương, “gởi trả lại” cho Ðài Quê Hương, gọi là gậy ông… đập lưng… bà. Viết đoạn này chứng tỏ Ðài Quê Hương giống như một ký giả ở San Jose này, ở nhà làm phóng sự, cứ đoán mò mà mô tả cho nên những mục không có lại phịa cho có, những mục có xảy ra thì lại không miêu tả. Thế mà đọc toàn thể Bản Lên Tiếng ai cũng thấy một giọng văn hợm mình, xấc láo, dạy dỗ người khác, dùng những chữ bất xứng… cho người trong khi chính mình lại bịa đặt “bóp méo, xuyên tạc để rồi từ đó xỉ nhục và vu khống, chụp mũ cho người khác”. Ðây là lương tâm của Ðài Quê Hương. Ðài Quê Hương muốn làm thầy thiên hạ, nhưng không phân biệt được thế nào là dịch chữ, thế nào là cắt nghĩa chữ.
Ðoạn kế tiếp, đài Quê Hương viết: “Chúng tôi cũng không đồng ý với cách vận động có tính cách đe dọa của UBVĐLTS đòi tẩy chay, không bỏ phiếu, bãi nhiệm, truất chức các nghị viên trong thành phố nếu họ không làm theo ý kiến của mình”. Trong quá trình vận động, Tiếng Dân không nghe UBVĐTLS hăm dọa truất phế ai. Còn những người khác họ có nói thì đó là quyền tự do của họ, Tuy nhiên, Ðài Quê Hương dùng giọng lưỡi dạy dỗ người ta thì cũng phải ráng phân biệt thế nào là hăm dọa, thế nào là cảnh cáo. Đài Quê Hương đã ngồi xổm trên hiến pháp và luật pháp Hoa Kỳ. Những quyền mà đài Quê Hương nêu ra trên đây là những quyền hiến định và được luật pháp bảo vệ. Sợ nghị viên Madison mất chức, truất phế hay tẩy chay… mà cấm người khác không được hưởng quyền lợi của công dân Mỹ. Ðộc tài quá! Tổng Thống Richard Nixon đã bị hăm dọa truất phế “tới bến” khiến ông ta phải tự “xử lý” bằng cách từ chức. Thành phố Westminster đã có nghị viên thân Cộng Tony Lâm bị truất phế, thành phố San Jose cũng đã có người bị truất phế, ông thị trưởng tiền nhiệm của ông Chuck Reek chút nữa cũng bị truất phế.
Như trên đã nói, Ðài phát thanh Quê Hương muốn dạy đời đến độ ngông cuồng nên đã chọn con đường vu khống, bịa chuyện cho UBVĐTLS là dịch chữ New Saigon ra Saigon Mới, là Tân Saigon rồi vu vạ cho người để rồi lớn lối cho rằng “nhằm cố gắng giữ hòa khí trong cộng đồng nên suốt những ngày tháng vừa qua, chúng tôi đã giữ thái độ im lặng, tuy vậy, nếu tiếp tục chọn thái độ im lặng này, chúng tôi sẽ trở thành những con người hèn nhát và vô trách nhiệm với các thính giả thật lòng thương yêu và hỗ trợ Ðài từ bao năm qua. Họ đang hoang mang trước những tin đồn đầy ác ý được tung ra từ phía những người không được chúng tôi đồng lòng hỗ trợ…”. Khi dùng mấy chữ “… từ phía những người không được chúng tôi đồng lòng hỗ trợ” Ðài Quê Hương đã ám chỉ hay nói cạnh, nói khóe UBVĐTLS. Vì sao đài Quê Hương phải ám chỉ như vậy? Vì không có bằng cớ nên thường thường người ta dùng cái hạ sách của những kẻ không đàng hoàng. Trên thực tế, đài Quê Hương không có im lặng, đài Quê Hương chỉ im lặng nếu sự việc không có lợi cho Madison Nguyễn và luôn luôn nói lên tiếng nói binh vực Madison Nguyễn những khi cô ta phản bội cộng đồng, những lúc cô ta lớn tiếng mạt sát cộng đồng, bị cộng đồng phản đối hay vạch từng điểm một những gian dối của cô ta. Ví dụ như sau khi cô ta tỏ thái độ trịch thượng, hống hách với đồng hương tị nạn Cộng Sản và bị tất cả đồng bào trong buổi họp ngày 15.8.2007 cho cô ta là “kẻ ăn cháo đái bát”, là “người ăn nói lươn lẹo”, thì sáng hôm sau, đài Quê Hương đã cho phát dài dài Bức thư ngỏ của Madison Nguyễn để khỏa lấp thái độ có thể nói là vô giáo dục đối với cử tri. Chưa hết, sau đó đài Quê Hương còn liên tiếp phỏng vấn cô ta để cô ta có cơ hội phân trần thanh minh… Ðài Quê Hương chỉ im lặng khi cô ta nhân danh cộng đồng để xin “fund” của thành phố, khi có kết quả thì lại giao cho bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, chỉ vì “bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi đã giúp cháu rất nhiều”. Khi im lặng, khi lên tiếng của Ðài Quê Hương tùy theo sự việc để giúp ích cho Madison Nguyễn chứ đài không im lặng hoàn toàn cho đến nay. Nhưng giá mà cứ im lặng luôn thì còn khá, đằng này đài Quê Hương đưa Bản Lên Tiếng vào thời điểm một ngày trước khi Hội Ðồng Thành Phố quyết định tên đặt cho khu thương mại trên đường Story, vì thấy tất cả các cuộc thăm dò dù của Ủy Ban Tái Thiết thành phố San Jose, hay của tờ San Jose Mercury và các cá nhân khác, tên Little Saigon đều được chọn gấp 9, 10 lần các tên khác, và đồng bào đã tới tấp ủng hộ UBVĐTLS, là lúc đài Quê Hương cho ra đời Bản Lên Tiếng, hy vọng kìm hãm bớt sự ủng hộ Little Saigon phần nào, nhưng hành động của đài chẳng khác gì mang tơi chửa lửa.
Ám chỉ UBVĐTLS là thủ phạm tung ra tin đồn bất lợi cho Ðài Quê Hương là một việc làm tự hạ phẩm giá của mình, nhất là đối với những người tuy không còn trẻ, nhưng cũng chỉ là đàn em, đàn cháu của mình là một việc làm “coi không được”. Mặt khác, đài Quê Hương cũng cần phân biệt giải nghĩa danh từ khác với dịch danh từ đó ra tiếng Việt hay ngược lại. Sự phân biệt này đã quan trọng như cảnh cáo và hăm dọa, thì cũng cần phân biệt tin đồn và nhận xét khác nhau xa lắm. Trong tương lai, Ðài Quê Hương cần tìm hiều nhiều hơn nữa những chữ được tô đậm trên trước khi viết Bản Lên Tiếng khác.
Trước khi kết thúc Bản Lên Tiếng, đài Quê Hương viết: “Tờ báo Tiếng Dân của ông Nguyễn Ngọc Tiên, Chủ Tịch Ban Đại Diện Cộng Đồng đã vu khống nghị viên Madison Nguyễn là phản bội cộng đồng, có những bài viết ám chỉ cô đã ăn tiền Việt Cộng và nói xiên, nói xỏ hàm ý Đài Phát Thanh Quê Hương đi theo Madison chỉ vì bây giờ cô ấy đã có danh lại có tiền. Sau đó là những bài viết khác cũng trên tờ báo này phỉ báng, hạ nhục cá nhân Đoan Trang và Nguyên Khôi…”. Có, chúng tôi có nói một lần rằng cô Madison đã phản bội cộng đồng. Và sau đây là bằng cớ: Lúc cô ra ứng cử, cô có hứa sẽ làm sao để cộng đồng có một trung tâm sinh hoạt. Nhưng khi cô được Tòa Thị Chính chấp thuận một ngân khoản là 2.8 triệu đô la, cô không cho cộng đồng biết, trái lại, cô giao công việc này cho bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi và 5 người khác trong nhóm của ông ta. Ông Ngãi tự tiện lập ra một Board Director. Mãi đến khi cô ta gởi thiệp mời để ra mắt nhóm này, mọi người mới biết. Ông Nguyễn Ngọc Tiên đã triệu tập một buổi họp, mời cô Madison tới. Khi bị hỏi tại sao cô nhân danh cộng đồng để xin một ngân khoản cho việc xây dựng một trung tâm sinh hoạt cho cộng đồng mà khi được rồi thì không báo cho cộng đồng biết lại giao cho ông Nguyễn Xuân Ngãi và một số người chưa bao giờ xuất hiện trong sinh hoạt cộng đồng. Cô Madison đã dõng dạt tuyên bố rằng, cô không thể tiết lộ cho cộng đồng biết, vì như thế là phạm luật. Và lý do mà cô phải giao công tác này cho bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi là vì (nguyên văn): “Năm ngoái bác sĩ Ngãi đã giúp cháu rất nhiều”. Nhân danh cộng đồng Việt Nam để xin tiền tạo mãi Trung Tâm Sinh Hoạt cho cộng đồng, đến khi được thì giao cho người ân của riêng mình, lại còn cho rằng nếu tiết lộ cho cộng đồng biết thì phạm luật (breaking Law). Như thế đã đủ gắn cho cô ta 2 chữ phản bội chưa, thưa Đài Quê Hương? Cô ta còn khinh miệt cộng đồng khi cho rằng: Nguyên văn “Cháu biết những người trong Ban Điều Hành (của bác sĩ Ngãi – chú thích của Tiếng Dân) phải bỏ ra một số tiền rất là lớn để mà ngồi vô. Tại vì cháu biết là điều kiện cháu đưa ra với họ là nếu muốn cháu ủng hộ bên nầy thì phải đóng góp rất nhiều tiền như là bản thân của mình hoặc là đi gây quỹ. Theo cháu biết thì bác sĩ Ngãi đưa vô thì họ cũng bỏ ra một số tiền rất là lớn để mà ngồi trong Ban Điều Hành đó để mình có một ngân khoản mình xây dựng”. Những lời này đã đủ để nói rằng Madison của đài Quê Hương phản bội và khinh khi cộng đồng Việt Nam nghèo chưa, thưa Đài Quê Hương? Quý đài nghĩ sao về những lời phát biểu này? Có phải Madison đã bán cái Board Director lấy tiền hay không? Khoan kết luận và vội vã vu vạ rằng Tiếng Dân vu khống cho Madison bán ghế lấy tiền. Vì chỉ sau đó mươi phút, khi trả lời câu hỏi của ông Nghiệp, Madison đã nói toạc móng heo rằng (cũng nguyên văn): “Chưa ai bỏ tiền ra hết”. Lươn lẹo, khinh người, gian dối (vì khi thì nói họ đã bỏ tiền, khi thì nói chưa) có phải là những “đức tính” của Madison không?
Một bằng chứng mới toanh, mới xảy ra chiều ngày 19.11.2007 lúc 6 giờ 30 chiều trên đài AM 1500, khi được hỏi cho biết kết quả con số phần trăm thực sự của mỗi tên đã được đưa ra để thăm dò. Cô Madison đã trả lời: những con số có chữ Saigon cộng lại được khoảng 70%. Trong khi đó, tất cả những cuộc thăm dò, chỉ riêng tên Little Saigon luôn luôn trên 60%. Con số kết quả thăm dò của San Jose Mercury News mới nhất từ ngày 16.11.2007 đến lúc này cho biết Saigon Business District được 93 phiếu tức 5%, Tên New Saigon được 58 phiếu chiếm 3%, Còn Little Saigon được 1658 phiếu tức 87%. Gian dối, xảo quyệt hay không xin để công luận nhận định.
“Để kết thúc Bảng Lên Tiếng này, chúng tôi xin thuật lại một câu chuyện như sau, khi ông Nguyễn Ngọc Tiên, chủ tịch Ban Đại Diện Cộng Đồng Việt Nam Bắc California, đến văn phòng đài phát thanh Quê Hương để xin hỗ trợ giờ phát thanh cho Ủy Ban Vận Động Tên Little Saigon, chúng tôi đã trình bày và chia xẻ với ông bằng tất cả chân tình, có nhiều cách khác nhau để vận động, đấu tranh cho điều mình muốn,. Chúng ta nên đối thoại chứ không nên đối đầu, nhất là tránh tạo dựng những cách kích động dễ gây ra việc chửi bới công kích lẫn nhau”. Đó là những lời rất là kẻ cả của đài Quê Hương. Cái “chân tình chia xẻ” của đài Quê Hương là bắt buộc ủng hộ cái tên mà đài Quê Hương ủng hộ. Tiếc thay, nó không phải là Little Saigon như mọi người mong muốn. Và đối thoại theo nghĩa của đài Quê Hương là phải đứng chung lập trường với đài Quê Hương, như lời ông Nguyên Khôi nói: “Tên nào cũng được, nhưng nếu cho Nguyên Khôi chọn thì Nguyên Khôi sẽ chọn tên Việt Nam (cái tên mà báo Việt Cộng ca ngợi). Đó là thiện chí của đài Quê Hương, là đối thoại của đài Quê Hương và nếu ông Nguyễn Ngọc Tiên đồng ý thì bây giờ Tiếng Dân không còn là Tiếng Dân nữa, mà là tiếng của Madison và đài Quê Hương. Nói như vậy, xin đồng hương đừng nghĩ rằng tại ông Tiên không “đối thoại”. Nhưng dù muốn đối thoại, ông Tiên cũng không biết đối thoại làm sao, vì sau khi cô Madison bị đồng hương đá đảo vì thái độ hách dịch, hỗn xược với đồng hương ở Thư Viện Tully, đài Quê Hương đã thống trách ông Nguyễn Ngọc Tiên, cũng với giọng điệu copy nguyên bản của Madison: (Nguyên văn): “Tại sao có anh ở đó mà để đồng bào nhục mạ cô Madison như vậỷ”. Ông Tiên là người dĩ hòa vi quý, nhưng trong trường hợp này thì làm sao ông Tiên có thể dĩ hòa, làm sao ông Tiên có thể đối thoại? Viết những dòng này, chúng tôi chỉ muốn trình bày với đồng hương, con đường mà đài Quê Hương đã và đang đi kể từ ngày 15.8.2007, không cùng chung với Tiếng Dân, cũng không còn chung đường với đồng hương (vì đồng hương mắng Madison là “ăn cháo đái bát” là “ăn nói lươn lẹo”). Do đó, câu mở đầu của Đài Quê Hương trong Bản Lên Tiếng này: “… chúng tôi không bao giờ chống tên Little Saigon” chỉ là một lời nói không đúng sự thật. Mở đầu bằng một lời gian dối như vậy, làm sao mà tin những “chia xẻ”, những “đối thoại” với đài Quê Hương?
Một nguồn tin khác cho chúng tôi biết, và chúng tôi đã kiểm chứng: Đài Quê Hương trước khi đọc Bản Lên Tiếng này trên làn sóng AM 1120, đã gởi vào trong Hội Đồng Thành Phố. Sự kiện này, dù đài Quê Hương có biện luận cách nào thì chúng tôi, báo Tiếng Dân cũng phải nói là đài Quê Hương đã phản bội đồng hương để binh vực cho lập trường của Madison Nguyễn. Đây chẳng khác nào phát súng ân huệ, đài Quê Hương “ban” cho Little Saigon. Mặt khác, nếu đồng hương nào nghe Đài Quê Hương chiều 15.11.2007, nghe giọng đọc đầy phấn khởi của ông Nguyễn Khôi cũng biết Đài này có ủng hộ Madison Nguyễn hay không?
Để kết thúc bài trả lời này, Tiếng Dân cũng xin nêu lên hai câu hỏi, không phải với Đài Quê Hương, mà với cộng đồng Việt Nam tị nạn Cộng Sản tại Bắc California nói riêng và khắp nơi trên thế giới nói chung:
1) Trước hơn 2,000 chữ ký của đồng hương Việt Nam trong thỉnh nguyện thư xin Hội Đồng Thành Phố San Jose chọn tên Little Saigon, trước kết quả của tất cả các cuộc thăm dò, tên Little Saigon đều có số chấp thuận hơn gấp 9, 10 lần các tên khác, trong các buổi hội họp do Ủy Ban Tái Thiết Thành Phố hay cộng đồng tổ chức số người tham dự luôn luôn ủng hộ tên Little Saigon với 90% trở lên. Chưa kể nhiều Cộng đồng từ các tiểu bang khác cũng gởi thư lên các nghị viên thành phố San Jose, yêu cầu lấy tên Little Saigon, TẠI SAO MADISON NGUYỄN VÀ ÔNG CHUCK REED bỏ khối cử tri lớn lao đó, để cương quyết loại bỏ cho bằng được cái tên Little Saigon? Có vị dân cử nào mà coi tương lai tái cử của mình nhẹ hơn một cái tên đặt cho một trung tâm thương mãi? Có quyền lợi nào lớn hơn sự nghiệp của họ mà họ phải bỏ sự nghiệp để loại một cái tên do đại đa số cử tri lựa chọn?
2) Bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi đã từng chủ trương về Việt Nam ứng cử “Quốc Hội Việt Cộng”, đã từng công khai dâng kiến nghị lên Liên Hiệp Quốc, ủng hộ Việt Cộng gia nhập Hội viên không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Madison có sự liên hệ mật thiết với bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi, chính bác sĩ Nguyễn Xuân Ngãi đã đích thân cầm thỉnh nguyện thư cho tên New Saigon đi mời các cá nhân và hội đoàn ký tên, Đài Quê Hương thì ủng hộ Madison ra mặt, cộng đồng nghĩ thế nào về câu nói “Anh hãy cho tôi biết anh chơi với ai, tôi sẽ nói cho anh biết anh là hạng người nàỏ”
Việt Kiều Giàu, Việt Kiều Đẹp, Việt Kiều Sang So với thế giới, so với các nước bên ngoài, thì Việt Nam ta là một đất nước chưa được phát triển, còn nghèo, và thậm chí có nơi còn lạc hậu. Dù có nói gì, có thổi phòng sự việc (như được bưng bít tuyên truyền), có lẽ cũng phải nhìn một sự thật là như vậy.
Một đất nước có phát triển, một dân tộc có thịnh vượng, không thể nhìn vào một vài phát triển nơi đô thị, lối sống ăn chơi xa xỉ cuồng loạn của lớp trẻ, cũng như không thể nhìn vào sự giàu sang, mức sống hưởng thụ xa hoa của một thiểu số cầm quyền, mà phải nhìn vào đời sống của đại đa số người dân. Lợi tức bình quân đầu người vượt mức nghèo là phải trên 850 đô la/ năm, mà VN thì còn khá xa chưa đạt tới.
Giàu có hay sang cả mà chỉ ở hình thức, chỉ được phô diễn có một phần, người ta cho là phồn vinh giả tạo.
Xã hội miền Nam VN trước 1975 cũng bị cho là phồn vinh giả tạo (không như miền Bắc), và vì thế mà có cuộc giải phóng hoàn toàn để có được phồn vinh thật sự hơn.
Từ sau khi địa chủ và tư bản - một tầng lớp giàu sang bốt lột — đã bị diệt trừ tận gốc - một tầng lớp trở nên giàu có là cán bộ đảng CSVN, tầng lớp này nghe nới hiện tại là phồn vinh thật sự, có cuộc sống thật là sung túc, có nhà to, có xe đẹp (loại đời mới đắt tiền), có của, có tiền nhiều và cuộc sống vinh sang. Lớp này là lớp người ăn trên ngồi trước, cả nước không ai bằng. Họ cũng là từ tầng lớp nghèo hèn mặt rệp trước đây, nhờ CM thành công mà có cuộc đổi đời.
Lớp người thứ 2, vinh sang không kém, là những Việt Kiều. Khi về quê hương (VN), Việt Kiều rất được nở mày nở mặt, bà con ai nấy đều kính nể, tiếp đón nồng nhiệt.
“Bĩ cực rồi thới lai”, trước kia VK đa số đều khốn khổ, ngoại trừ một số ít có điều kiện ra nước ngoài trước - những người này là may mắn trọn đời. Họ đã phải khốn khổ vì trải qua biến cố, bị CS áp bức, hành hạ, hãm hại, vì cuộc sống quá khốn khổ phải liều thân bỏ nước ra đi (tìm nơi lánh nạn). Họ đã trải qua bao khổ ải, trải qua bao gian truân, cũng may mà không bỏ thây nơi biển cả, bỏ xác chốn rừng sâu, và cũng may không bị chết thảm chốn lao tù. Tất cả là những người đi tị nạn được các nước (không CS) cưu mang giúp đở để cuộc đời có được đổi thay.
Tại các nước (đang dịnh cư), VK đã ăn nên làm ra, được thành danh hiển đạt, được sang giàu — có lẽ cũng chỉ là việc bình thường, vì sống tại các nước này ai cũng được giàu sang sung túc. Nhưng mà, một khi về quê hương VN thì lại khác, hơn hẵn mọi người ( bây giờ thì có lẽ nên trừ cán bộ CS, không hơn họ được).
Mang bộ mặt “áo gấm về làng”, tha hồ mà vinh sang võng lọng. Hồi nào thì không biết, bây giờ VK là nhất, tha hồ vi vít, tha hồ hưởng thụ, tha hồ lên mặt để ai ai cũng nể nang mình. Và trong số này không ít — tha hồ thổi phồng đời sống vinh sang, tha hồ “nổ”, nổ thả cửa, nổ thả giàn, nổ tứ tung, để người ta càng thêm nể phục mình.
“Việt Kiều giàu, Việt Kiều đẹp, Việt Kiều sang”, câu nói này có lẽ cũng chẳng là ngoa.
Kẻ viết bài nầy cũng là một “Việt Kiều”, không biết có nên chăng để mà ké hùng, hãnh diện qua lời nói ấy?
VIỆT KIỀU GIÀU: Giàu thật. Đất nước VN từ bao năm khốn khổ, đã hòa bình, đã hết chiến tranh, giặc giã rồi, mấy mươi năm làm ăn đầu tắt mặt tối mà vẫn chẳng đủ ăn, thì khi nhìn thấy Việt Kiều, không cho là giàu sao được — quá là giàu. Kẻ nghèo nhất ở Mỹ, một khi về VN cũng trở nên là người giàu. 100 đô la Mỹ đổi ra tiền VN: trên 1 triệu rưỡi, người ta thấy mà tít mắt, huống hồ mỗi lần về VN, VK tiêu pha vung vít (không biết ngán) cả 5-10 ngàn đô.
VIỆT KIỀU ĐẸP: Đẹp là cái chắc, điều này khỏi phải bàn. “Lúa tốt nhờ phân, người đẹp nhờ lụa”. Tại hải ngoại tiền của dồi dào (so với VN), lụa là, son phấn, mỹ phẩm, lại thêm kỹ thuật thẩm mỹ tiên tiến, một bà lục tuần vẫn có thể được làm trẻ đẹp 3-4 mươi cái xuân xanh.
VIỆT KIỀU SANG: Không ai sang bằng VK, nhất là người VN khi về lại quê hương mình. Bao nhiêu băng Video quay cảnh VK về quê hương ăn chơi hưởng thụ, về quê hương tiêu xài, ăn Tết ... đủ để chứng minh VK quá là sang.
Nhờ có được bao nhiêu yếu tố đầy đủ, lại có phần vượt trội, đã tạo nên cho VK thêm có giá. Một cái giá để người Việt khi về nước thêm hãnh diện, tự hào. Tự hào rồi cao ngạo, để có khi lại coi thường, khinh miệt những gì mình tự thấy là thấp kém chung quanh.
Ở Mỹ đầy đủ quá, cái gì cũng có, về VN thiếu thốn nhiều thứ, tôi có một chị bạn không ngớt than phiền: VN bây giờ dơ bẩn quá, đi đâu cũng bụi bặm, mất vệ sinh, cuộc sống bẩn thỉu, dơ dáy, rác rưởi, đái ỉa tùm lum ngoài đường... người ta gì đâu mà chen lấn như ăn cướp, không lịch sự lịch sàng, không trật tự, thứ lớp gì cả ... Đại khái, bà than phiền cho một xã hội kém văn minh, chưa phát triển - một nơi mà trước đây, bà cũng đã từng chung đụng trong mọi sinh hoạt hằng ngày.
Về quê hương để hưởng thụ:
Tôi có mấy người bạn, bạn cũng khá thân, bạn cùng đơn vị chiến đấu trong quân ngũ. Người lính ngày trước đã khổ, sau 1975 lại càng khổ hơn, khổ thậm tệ, bị tù đày, bị nhục hình, bị đối xữ chẳng khác nào là một con vật.
Qua Mỹ cuộc đời thay đổi, cuộc sống lên hương. Bây giờ có cơ hội về VN để hưởng thụ bù trừ. VN bây giờ là nơi để ăn chơi hưởng thụ, nếu ta có tiền.
- Khổ đã quá nhiều, cuộc đời bây giờ không còn bao lâu nữa, đã trên 60 bó, không hưởng thụ là phí bỏ cuộc đời. Một anh bạn già của tôi đã nói như vậy, và anh quyết tâm về lại quê hương để ... ăn chơi.
“Quê hương là chùm khế ngọt”, thật sự quê hương VN bây giờ quá đỗi ngọt ngào.
Dành dụm với số tiền trợ cấp SSI, vài năm anh về một chuyến, lần nào cũng được kẻ đón người đưa. Trước đây, tụi VC coi rẻ xem thường, bây giờ chúng săn đón. Mấy tên địa phương hồi trước, khó khăn, hạch sách, gây phiền phức ... coi thằng nào có uy, có thế, tọng cho vài đứa (mỗi đứa 100 đô), và rủ cả đám cùng nhậu (anh bao), chúng chìu chuộng hết lòng, dễ dãi mọi thứ.
Anh không yêu thích gì bọn nó, thù là đằng khác, nhưng muốn hưởng thụ, vui chơi thì phải cho chúng nó một ít vào mồm. Anh bắt chước tướng đại ca “Kỳ”, vị tướng “chịu chơi” ngày xưa, nhưng không thỏa hiệp và qùy lụy như vị tướng này.
Anh đi khắp nơi, anh đi nhiều chỗ. Nơi nào có mồi ngon anh đến, có gái đẹp anh vào, anh có một số “tà lọt”. Hồi đó, anh là cấp chỉ huy, đi đâu cũng có tà lọt, bây giờ tà lọt lúc nào cũng bên cạnh, chúng sẵn sàng săn đuổi tìm “vật ngon của lạ” cho anh.
Gái VN bây giờ quá ư là tiến bộ, 15 tuổi đã lão luyện phục vụ tình dục, phục vụ đủ chiêu, đủ kiểu. Một số tiền bỏ ra, tụi nó phục vụ đến nơi đến chốn. Tụi nó phục vụ anh chứ anh không còn sức (khỏe) để phục vụ tụi nó.
Gái VN, anh nhìn thấy thương và tội nghiệp. Một đất nước còn nghèo, người dân còn khổ, nhất là mấy cô gái mới lớn lên, không tiền bạc, không kiến thức (vì không được học hành), không nghề nghiệp, muốn có tiền, muốn có cuộc sống khá hơn, chỉ còn cách đem thân xác mình làm vật hy sinh — hy sinh cho cá nhân, hy sinh cho gia đình để bớt phải thiếu thốn. Anh không lợi dụng, anh không gạt gẫm. Anh vui chơi và cho tiền sòng phẳng, có phần hào phóng nữa. Hơn hẳn những tên lường gạt, những tên ma cô, hơn hẳn cả những tên tự hào là đạo đức (đạo đức CM) mà lòng dạ sói lang, hơn hẳn những tên già yếu, bệnh tật của Đài Loan, của Nam Triều Tiên ...
Nói đến việc ăn chơi hưởng thụ của anh, cũng xin nói qua cuộc đời anh một chút — anh bạn của tôi.
Anh cũng có lòng yêu nước, anh chống Cộng hết mình. Trước ngày 30/4/1975, anh là một người lính chiến đấu — đúng hơn là một SQ chỉ huy — anh xông xáo vào lửa đạn, anh lập khá nhiều thành tích chiến công, thành tích diệt địch.
Trước ngày QĐVNCH tan rã, anh còn chỉ huy một đơn vị hành quân vào vùng địch. Nghe theo lời kêu gọi cấp chỉ huy, quyết chiến đấu, không lùi bước trưóc địch quân. Ngày 30/4/75 anh và một số đồng đội còn ở trong rừng. Sau cùng thì mới biết là đơn vị bị bỏ rơi, có lệnh đầu hàng mà anh không biết. Cấp chỉ huy đã bỏ chạy anh vẫn không hay, anh cứ chiến đấu để rồi bị bắt. Anh bị tù, bị tra tấn dã man, mấy lần suýt chết.
Ngày anh ra tù, trở về quê làng chỉ còn là một thân trơ trọi. Vợ đã bỏ, và 1 đứa con yêu dấu cũng theo mẹ dắt đi. Anh như người mất trí, một thân xác bệnh hoạn rã rời. Anh đau lòng, anh uất hận, anh căm thù. Cuộc đời là “chó đẻ”, và từ đó anh có lối sống “bất cần đời”.
Qua Mỹ - 3 lần vượt biên anh mới đến được Mỹ - cố gắng làm mọi công việc, cố gắng chịu cực chịu khó, chỉ mong làm lại cuộc đời.
Anh cũng có nhập vào hàng ngũ chống Cộng nơi hải ngoại — anh căm thù CS. Anh chống Cộng tích cực, tích cực nhưng không tuyên bố là “quyết tâm chống Cộng đến giọt máu cuối cùng”, vì anh đã thoát chết nhiều lần, bây giờ anh sợ chết, hy vọng giữ chút thân tàn để làm lại cuộc đời.
Mấy năm sau, cuộc sống khá hơn, có tiền dành dụm dồi dào, nhưng sức khỏe thì mỗi ngày một yếu. Anh bớt chống Cộng và hướng về hưởng thụ ăn chơi, mong hưởng một chút nào trước khi cuộc đời chấm dứt.
Anh tốt với bạn bè, với anh em, nêu cao tình chiến hữu, nhất là đồng đội còn kẹt lại ở VN, anh thường gửi tiền giúp đỡ.
Những ngày về VN, anh tìm lại anh em, thăm bạn đồng đội và hết lòng chi giúp họ - những “thằng em” đã từng chiến đấu cùng anh.
Tôi thương anh, cả bạn bè cũng mến thương anh. Hôm nay xin dược viết kể về anh để mọi người thấu hiểu — anh bạn VK.
Một bà chị quen, bà xã của một anh bạn ở trong trường hợp “ông ăn chả bà ăn nem”. Chồng chị “ăn chả” từ trước đây, trên 30 năm, bây giờ bà “đáp trả” lại. Vợ chồng trả thù 30 năm chưa muộn. Hồi thời anh còn vàng son vung vít, anh là chỉ huy trưởng của một TTHL đơn vị, có chức, có quyền, phong độ dồi dào, anh tha hồ đàng điếm, vợ đôi vợ ba. Bà ghen, ghen quá muốn điên nhưng chẳng làm sao được. Ông vẫn “hào hoa phong nhã” không quan tâm đếm xỉa gì đến ngưòi vợ không bao giờ dám xa bỏ mình.
Lúc sa cơ thất thế, lúc ông bị bọn CS bắt đi tù, đây là cơ hội để có thể “trả thù”, xa người chồng bạc tình bạc nghĩa, nhưng bà với “tinh thần mã thượng”, vẫn một lòng chung thủy chịu khó nuôi chồng.
Một thời gian qua Mỹ và sống trên đất Mỹ, bổ dưỡng đầy đủ, sung sức, và cũng là lúc đang tuổi hồi xuân. Ông chồng thì sức mỏn hơi mòn, không còn làm nên cơm cháo. Bà bắt đầu hành động, bà cần lo cho cuộc sống riêng bà, bà nuối tiếc tuổi xuân, tuổi xuân bà chịu nhiều thua thiệt. Bà không bỏ ông — ông có “nursing home” lo — bà cần phải được bù trừ cho những ngày hưởng lạc. Bà là một VK tuổi đã về chiều (trên 50) nhưng dáng dấp còn phong, nhan sắc còn mặn. Khoa học thẩm mỹ Hoa Kỳ đã chấp cánh cho bà - chấp đôi cánh thiên thần để trở thành là một bà tiên.
Ở Mỹ, bà giao thiệp rộng, họp hành nhiều tổ chức, đoàn thể, đi đứng nhiều và cặp bồ với mấy lão tướng sức vóc còn sung. Bà vẫn chưa vừa lòng toại ý, về Việt Nam tìm các trai tơ đẹp đẽ, phong độ hơn. Bà ngụp lặn trong hạnh phúc - hạnh phúc tuổi già. Ai dám bảo “trâu già gặm cỏ non” chỉ ở cánh đàn ông. Các ông già VK về quê hương du dương cùng gái. Bà cũng có những búp non mơn mởn, những chàng trai trẻ, sức vóc đưa bà lên đỉnh vu sơn. Bà là VK có tiền và cũng còn có sắc, nhất là tiền, bà muốn gì cũng có, không cần hậu quả, không kể dư luận đạo đức. Các con đã lớn tuổi, đã đỗ đạt thành danh. Thời gian còn lại ở tuổi hồi xuân, thời gian hưởng thụ của bà.
Mỗi người mỗi cách, mỗi người có cuộc sống riêng tư, xã hội văn minh tây phương, một xã hội đầy thực dụng. Luân thường đạo lý của một nền văn hoá VN cổ xưa nay đã lỗi thời. Ở VN còn lạc hậu lỗi thời huống gì là ở Mỹ.
Cuộc sống thay vợ đổi chồng như thay khăn đổi áo. Tình nghĩa đươc vun đắp bằng tiền. Khoa học văn minh ngày nay tiến bộ vượt bực. Thay đổi giới tính, thay đổi trẻ già không khó, miễn có tiền. Càng giàu càng trở nên đẹp, càng có tiền càng trở nên sang, và tiền ... muốn gì cũng có.
Trước viển ảnh ngày càng sa đọa, con người ngày càng mất gốc, quên mất văn hóa cội nguồn, một số người VN có tâm huyết hải ngoại cảm thấy lo âu, lo con cháu sau này không còn giữ gìn truyền thống. Truyền thống của một dân tộc lưu giữ từ bao nghìn năm là nét tự hào đang dần dà mai một.
Truyền thống văn hóa, ở hải ngoại giữ vững đã khó, bây giờ nơi quốc nội giữ gìn cũng không là dễ dưới một chế độ CS hiện giờ. Một thứ đạo đức mới, đạo đức CM đã và đang ngự trị, một thứ đạo đức không còn chữ “tín” (nhân nghĩa trí dũng liêm), thiếu lễ độ, mất lòng tin, chuyên dối trá, lừa gạt, bịp bợm. Một thứ đạo đức con tố cha, vợ tố chồng, chủ xuống làm tớ và đầy tớ lên làm ông chủ. Luân thường đạo lý đảo lộn hoàn toàn.
VK về nước, với mục đích là thăm quê hương, thăm làng mạc bà con... đơn thuần như vậy hầu như rất hiếm, mà chủ yếu là về nước để tìm vui, để ăn chơi, hưởng thụ, để phô trương, khoe khoang sự thành đạt, sang giàu, mang ý tưởng hẹp hòi, cá nhân ích kỷ. Và càng vị kỷ và lố lăng chăng khi có sự tô vẽ thổi phồng một cách quá đáng cái “tôi” của mình? Một anh làm nhà hàng, làm chợ hoặc đi bỏ báo, đi cắt cỏ... về VN khoe khoang là kỹ sư, bác sĩ, là giám đốc v.v. tha hồ “nổ” để bịp bợm, láo lếu, để phô trương. Và cao ngạo hơn nữa, tỏ ra là quí phái, sang cả, chê bai, khinh thị lối sống, nếp ăn, nếp ở của đồng bào mình. Thật tội nghiệp quá đi, hồi nào mình cũng là kẻ khốn khổ, đói rách, bẩn thỉu, bây giờ có được một chút vinh sang nhờ vào bên ngoài (thân chùm gửi trên tàng cổ thụ) lại chê bai, khinh rẻ chính những cái, những nơi mà mình đã từng ngụp lặn trong tanh tưởi trước đây.
Sợ rằng lớp trẻ hải ngoại, các thế hệ sau này lai căng mất gốc, quên cội quên nguồn. Ai dám yên chí, ai dám tự hào (là người lớn, là kẻ già, may mắn được hưởng chút vinh hoa ở nước ngoài, khi về lại quê hương, khoác lác, kiêu ngạo, khinh thị mọi thứ ...) không là lai căng, mất gốc ?
VK được giàu có, VK được vinh sang, được ăn nên làm ra, được thành danh đỗ đạt. Điều này thật đáng mừng và lấy làm hãnh diện - một sự bù đắp qua bao nổi khổ đau. Nhưng rồi nghĩ về đất nước, quê hương, dân tộc mình tại quê nhà - một đất nước còn nghèo, cả một dân tộc còn khốn khổ, (lang thang, rách rưới, bẩn thỉu ...) nỗi bất hạnh, xấu xa này không phải là tự họ. Đồng bào ruột thịt của ta, lạc hậu, kém văn minh, dơ dáy, bẩn chật, xấu xa, hay gì gì đi nữa ... cũng là trong hoàn cảnh, vì tình thế. Đồng bào thật sự tội nghiệp, thật sự đáng thương, thật sự rất cần sự cảm thông và giúp đỡ, không thể chê bai khinh rẻ, dù chỉ một lời. Có đáng trách, đáng chê, đáng nguyền rủa, là những kẻ đã tạo nên bao nghiệt ngã, bao khổ đau ...
Và cúi xin, những ai có can đảm, có tấm lòng, có đức độ ... trong cái xa hoa hưởng thụ, nên dành một phần (tình cảm lẫn vật chất) nghĩ đến nổi khổ đồng bào mình còn đang khấn chịu nơi quê nhà.