Những điều trông thấy
Đối Thoại Với Ông Võ Văn Kiệt Và Đảng CSVN (Kỳ I)
THIÊN ĐỨC . Việt Báo Thứ Năm, 5/10/2007, 12:02:00 AM
Tôi đối thoại trên vị trí phân ranh giai cấp vô sản hay không vô sản. Đã đến lúc, cây tầm vông vạt nhọn chấm dứt nhiệm vụ lịch sử ngăn cách đôi bờ dân tộc. Nguồn: 9-2006 Thiên Đức.
Xếp lại quá khứ?
Nhân ngày 30/4/2007 ông Võ Văn Kiệt nguyên thủ tướng nước CHXHCNVN đã có cuộc trả lời phỏng vấn của Xuân Hồng ký giả đài BBC, như là một hình thức kêu gọi đối thoại hòa hợp hòa giải.
Hưởng ứng lời kêu gọi đó và để dễ dàng có sự đồng cảm trong đối thoại, người viết tự giới thiệu vài dòng về bản thân.
Ông và tôi cùng sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử đã ở hai vị thế đứng khác nhau. Thế nhưng cả hai từng có chung một động tác vào một thời điểm. Ông với tư cách cựu thủ ướng, cựu đảng viên cao cấp của Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng góp ý kiến yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đổi mới hơn nữa để hội nhập vào thế giới. Tôi, trong tư cách là cựu tù cải tạo, bằng nỗi ưu tư cho dân tộc, đã có ba bài góp ý đại hội X, từng xúc động khi viết bài “Đảng CSVN cần bao nhiêu máu và nước mắt nữa để xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”:
Phải đối diện với thực tế, máu và nước mắt của thôn xóm tôi, của đồng bào tôi, của các anh, các chị là đảng viên cộng sản và của những tầng lớp con cháu sau này đã đổ ra trong quá khứ và sẽ đổ ra tương lai để hòa chung với nhau không phân biệt giai cấp, không phân biệt chính kiến hay ý thức hệ để vẽ lên bức tranh hoành tráng “XHCN” mà đảng đang tự hào, kiên định thực hiện. (Nguồn: www.doithoai.com)
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhân danh đảng CS long trọng tuyên bố: “Tôn trọng ý kiến khác biệt”. Ông được ưu tiên vào hàng ghế đại biểu, không biết vì lý do gì ông đã không tham dự để chứng kiến sự thật của lời tuyên bố đó. Và cho đến nay ông cũng chưa công khai phát biểu ý kiến của ông về cái gọi là thành quả đại hội X.
Riêng tôi, trong một bài viết về “cuộc cách mạng trắng tức là cách mạng giáo dục tại Việt Nam”, đã có nhận định rằng:
Theo tinh thần văn bản hiến pháp 1992 của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, có thể kết luận như sau: Kết quả Đại hội 10 của đảng Cọng Sản Việt Nam là một điều sỉ nhục lớn lao cho dân tộc Việt Nam. (Nguồn: www.danchimviet.com)
Tôi đã từng thầm mong ước ba triệu đảng viên ĐCSVN, 600 tờ báo quốc nội và hàng trăm đài truyền thanh truyền hình phục vụ cho chế độ hãy lên tiếng và cho tôi một lời phản biện đúng đắn, để tôi có thể tuyên bố rút lại bài báo đó, để cho dân tộc tôi khỏi bị nhục nhã. Tôi mong là tôi sai, nhưng tiếc thay điều đó lại không đến trong thực tế.
Một điều may mắn, bài báo đó lại đang được diễn đàn Đàn Chim Việt chọn lựa làm bài văn đề nghị bạn đọc tranh luận cho một cuộc thi viết về đề tài giáo dục. (www.danchimviet.com).
Hiện còn hiệu lực, rất mong ông có thời gian đọc qua loạt bài báo đó và có ý kiến gì về “quyền học tập sự thật của thế hệ sinh viên học sinh” ngày nay, xem như là một đề tài trao đổi của tôi đến với ông, sau khi tôi đã có ý kiến về bài phỏng vấn của ông. Có qua, có lại mới toại lòng nhau, sòng phẳng trong đối thoại, phải không ông?
Chân thành mà nói rằng những lời viết trên đây không phải là một thách đố mà chính là một lời mời trân trọng của người viết đến không những riêng ông Võ Văn Kiệt mà còn đến với tất cả những ai còn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục của đất nước.
Tôi là một người đang nghỉ hưu, chữ danh và lợi không còn là mục đích cần đạt đến trong cuộc sống, nói như vậy để chứng minh một điều tôi chỉ là một người dân thầm lặng đi trong dòng lịch sử.
(Đính kèm hinh minh họa số 1)
Trong tinh thần xếp lại quá khứ, trên cả hận thù, tôi sẽ không đi sâu vào quá khứ hận thù mà sẽ đối thoại những vấn đề thực tế hiện tại nhằm đạt đến ước vọng của ông đề ra. Tôi đối thoại cùng ông với tư cách là người dân Việt Nam trong tâm tư tình cảm của người đứng bên dòng sông Bến Hải, đã không còn là lằn ranh địa dư quốc - cộng nữa mà đã trở thành một chứng tích phân biệt giai cấp vô sản và không vô sản, một khi cây tầm vông vạt nhọn vẫn còn nằm ngang trên cầu Hiền Lương ngăn cách đôi bờ dân tộc vậy. Ba mươi hai năm hòa bình với bao thăng trầm lịch sử, là một thời gian đủ dài để đặt câu hỏi “ Đã đến lúc cây tầm vông này chấm dứt nhiệm vụ hay chưa?”
Phần đối thoại sẽ triển khai theo từng nội dung:
- Xếp lại quá khứ
- Đối thoại đi đến hòa giai hòa hợp
- Bầu cử quốc hội và người tự ứng cử
I - Xếp lại quá khứ?
Cảm nhận đầu tiên là tôi hoàn toàn đồng ý với ông về cách đặt vấn đề là tại sao kẻ thù trong chiến tranh như Pháp, Mỹ, Trung Quốc còn có thể trở thành bạn, thì tại sao người Việt chúng ta lại không thể ngồi lại với nhau để đối thoại. Thế nhưng tôi không đồng ý với ông trong cách triển khai giới hạn vấn đề chỉ có quá khứ hận thù Quốc – Cộng mà thôi. Vì làm như vậy đã gây ra nhiều ngộ nhận đưa đến bế tắc không giải quyết được gì cả.
Trong bài phỏng vấn, đặc biệt nhấn mạnh đến quá khứ hận thù Quốc- Cộng, ông cho rằng nếu không có yếu tố ngoại nhập thì người Việt hai bên có thể ngồi lại với nhau giải quyết được. Tôi có thể đồng ý với ông về luận điểm này vì rằng cuộc chiến vừa qua khó tránh khỏi, bởi vì đất nước Việt Nam nằm trong một vị trí tiền đồn của vừa của khối tự do và lại vừa là tuyến đầu của khối cộng sản. Thế nhưng toàn bộ vấn đề hòa giải hòa hợp mà ông chỉ nhằm xếp lại quá khứ hận thù Quốc - Cộng, chẳng những không giải quyết dứt điểm vấn đề mà còn đem lại sự nghi ngờ rằng không biết ông có thiện chí và thật tình trong kêu gọi hòa hợp hòa giải hay không?
Trên cương vị từng là một cựu thủ tướng, tất nhiên ông phải thấy rõ hết mọi vấn đề của quá khứ cần giải quyết, chứ không chỉ có một vấn đề Quốc - Cộng. Thật vậy ở đây có đến ba loại quá khứ cần giải quyết như sau:
1) Quá khứ hận thù Quốc Cộng
Có thể quy lỗi cho chiến tranh có yếu tố ngoại nhập như ông từng đề cập, chiến tranh đã chấm dứt, và cũng không cần tranh cãi là ai phải chịu trách nhiệm về quá khứ hận thù này, nên trả về cho lịch sử phán xét.
Một câu hỏi cần đặt ra là có cần thiết để kêu gọi quên loại quá khứ này không? Có thể quên được chăng? Một khi quá khứ này đã gắn liền với con người từ lúc nhỏ cho đến khi cận kề ranh giới của cuộc sống. Theo quy luật tự nhiên con người càng lão hóa lại càng mong muốn ôn lại quá khứ.
Nên chăng để cho vấn đề này tự lụi tàn theo quỹ thời gian còn lại của mỗi người?
2) Quá khứ hận thù dân tộc
Đây là loại hận thù phát xuất từ những chính sách sai lầm nhằm thực hiện Xã Hội Chủ Nghĩa trên đất nước Việt Nam của đảng cộng sản như cải cách ruộng đất, vụ án “Nhân văn Giai phẩm”, “vụ án xét lại”, “cải tạo công thương nghiệp”, “đánh Hoa kiều”, “bán bãi lấy vàng, đẩy dân ra biển đông” và “chính sách cải tạo đối với quân nhân, dân chính của Việt Nam Cộng Hoà”. Loại quá khứ hận thù dân tộc này giữa người cộng sản và dân tộc xảy đến cho tất cả gia đình hai miền Bắc Nam có thể ảnh hưởng đến nhiều thế hệ chứ không riêng gì thế hệ trong chiến tranh.
Loại quá khứ hận thù này xảy ra trong thời gian hòa bình, hoàn toàn không có yếu tố ngoại nhập.
Như vậy, phải khẳng định rõ ràng là:
- Người quốc gia không gây ra hận thù dân tộc mà chỉ là nạn nhân.
- Người Cộng Sản gây ra hận thù dân tộc xuất phát từ chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh giai cấp. Đảng Cộng Sản phải có trách nhiệm giải quyết.
Quá khứ hận thù Quốc - Cộng và quá khứ hận thù dân tộc là hai vấn đề hoàn toàn khác biệt nhau về bản chất và xuất xứ, cũng như người phải chịu trách nhiệm.
Những ai đồng hóa vấn đề quá khứ hận thù dân tộc với hận thù Quốc – Cộng là người không lương thiện, cố ý trốn tránh trách nhiệm. Đổ tội lên người quốc gia là chống phá đất nước, chia rẽ và gây hận thù dân tộc là lối tuyên truyền bịp bợm, dối trá cần phải chấm dứt.
Tôi đặt bút viết ra dòng chữ này không nhằm khơi sâu hận thù mà nhằm chỉ rõ ai là người có trách nhiệm và phải làm điều gì để giải quyết dứt điểm quá khứ hận thù.
Đến đây đã có người lập luận rằng, những chính sách sai lầm đã thuộc về quá khứ, và cái hậu quả của nó, cũng khó mà giải quyết một sớm một chiều. Vậy có thể nào tạm gác qua một bên để có thể đối thoại hòa giải được không?
Câu trả lời: Có thể được nếu đảng Cộng Sản thực tâm nhìn thẳng vào thực tế giải quyết loại sai lầm dưới đây
3) Quá khứ sai lầm về hệ tư tưởng
Đây là loại quá khứ sai lầm quan trọng nhất và là nguyên nhân chính của mọi nguyên nhân sai lầm trong quá khứ. Đó là sự sai lầm về hệ tư tưởng Marx- Lenine, chuyên chính vô sản, là lý tưởng của đảng cộng sản Việt Nam đã cố tình áp đặt lên đầu dân tộc Việt Nam trên nửa thế kỷ nay.
Sau khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, đảng cộng sản đã thống nhất địa dư đất nước, nhưng lại chia rẽ dân tộc thành hai giai cấp vô sản và không vô sản. Chỉ có vô sản toàn thế mới có thể đoàn kết lại, còn không vô sản như trí phú, địa, hào, tôn giáo... là kẻ địch phải bị tiêu diệt dưới nhiều hình thức như đánh tư sản, học tập cải tạo, cải cách ruộng đất, đuổi Hoa kiều, bán dân ra biển Đông, quy hoạch cướp ruộng đất, bóp miệng dân không cho nói...
Sự sai lầm của hệ tư tưởng này không chỉ xảy ra trong quá khứ mà còn duy trì trong hiện tại đó là đảng Cộng Sản Việt Nam với cái đuôi Xã Hội Chủ Nghĩa. Đây chính là vấn đề cần giải quyết minh bạch và sòng phẳng.
Có người sẽ nói đây là vấn đề nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam, nhưng vì đảng mang danh là lãnh đạo nên có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ dân tộc.
Trong quá khứ đảng đã từng sai lầm, mà hiện nay lại càng sai lầm hơn nữa để đưa đến sự khủng hoảng niềm tin hiện nay.
Một câu hỏi rất day dứt không thể không đặt ra: Tại sao đảng rêu rao và bắt buộc người dân học tập tư tưởng Hồ Chí Minh từ nhà trường cho đến khu phố, trong khi đảng luôn luôn phản bội ông Hồ Chí Minh?
- Ông Hồ từng tuyên bố: “Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lê nin.” (1). Tại sao đảng cọng sản lại áp đặt là Hồ Chí Minh có tư tưởng và bắt dân học tập?
- Ông Hồ viết di chúc với ước nguyện hỏa thiêu thân xác, thì đảng xây lăng, ướp xác lại còn giở trò làm xác giả để triển lãm cho khách du lịch.
(www.danchimviet.com)
- Ông Hồ trong di chúc kêu gọi đoàn kết đấu tranh vô sản,trái lại đảng cho đảng viên làm kinh tế không giới hạn qui mô.
- Ông Hồ mong muốn xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đảng thấy dân thì bỏ chạy trốn. Tại sao?
- Ông Hồ chủ trương dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, thì đảng cố tình bóp miệng dân, không cho nói.
- Từ hiến pháp đầu tiên của ông Hồ cho đến hiến pháp 1992 đều quy định người dân có quyền tự do ngôn luận và tự do ứng cử và bầu cử, nhưng hiện tại những quyền này hoàn toàn bị tiêu diệt.
- Tại sao? và tại sao?...
Đây là những bằng chứng cụ thể và xác thật về sự phản bội. Nếu ngụy biện cho rằng ông Hồ đã sai, đảng CSVN cần phải làm ngược lại những gì ông Hồ đã chủ trương, thế thì tại sao không đem ông Hồ trở về bảo tàng viện lịch sử kể cả Marx-Lenine? Tại sao không chính thức vứt bỏ hệ tư tưởng Marx-Lenine và Hồ Chí Minh?
Đảng phải giải quyết dứt điểm quá khứ sai lầm về hệ tư tưởng, không gì khác hơn là giải tán đảng Cộng Sản, sửa đổi hiến pháp, và cắt cái đuôi XHCN.
Thế hệ trong chiến tranh đã khai sinh đảng CSVN, đấu tranh chuyên chính vô sản, giờ đây đã thấy đó là một sự sai lầm, là nguồn gốc của sự hận thù dân tộc hiện nay, nhưng lại không đủ can đảm khai tử nó. Tại sao?
Đảng cộng sản và lý thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa đã đóng xong vai trò lịch sử của nó rồi phải chấm dứt mới có thể đối thoại hòa giải hòa hợp dân tộc.
Những đảng viên cộng sản thuộc thế hệ trong chiến tranh nếu không tự giải quyết sai lầm này mà lại bàn giao lại cho thế hệ sau chiến tranh giải quyết thì đó chính là một tội ác, một trọng tội không những đối với lịch sử dân tộc mà còn là một trọng tội đối với hàng con cháu đảng viên Cs kế thừa. Tại sao hận thù bắt nguồn từ sai lầm của thế hệ trước lại để cho thế hệ sau gánh chịu? Đó là một nghịch lý không chấp nhận được.
Giờ đây tuổi tác của thế hệ trong chiến tranh nói chung vào hàng hưu trí, đã đến lúc chuẩn bị đặt vấn đề bàn giao trách nhiệm cho thế hệ sau chiến tranh.
Có thể nói rằng: thế hệ trong chiến tranh của người quốc gia chống cộng sẽ ra đi thanh thản, đã làm tròn trách nhiệm của mình, tuy mục tiêu chưa hoàn thành do lực bất tòng tâm, thế hệ sau có thể hãnh diện tiếp nối mục tiêu của cha anh mình là đấu tranh dân chủ tự do cho đất nước.
Đối với người cộng sản ra đi để lại sai lầm, để lại hận thù cho con cháu mình, quí vị có thể thanh thản được không? Có uất ức hay không khi thấy lý tưởng một đời chiến đấu giờ đây hoàn toàn trở thành những điều xảo trá mà phải để lại cho con cháu như là một di sản vậy? Có cha mẹ nào để lại tội ác và sai lầm cho con cháu hay không? Nếu tin như ông Hồ đã tin: con người có linh hồn để có thể đi thăm cụ Mác, cụ Lenin, thì linh hồn quý vị có thể yên nghỉ được không khi nhìn thấy con cháu ruột thịt của mình sẽ khốn khổ trong máu và nước mắt của hận thù do quý vị để lại?
Chỉ có một cách duy nhất và không còn cách nào khác là quý vị phải đối diện và dũng cảm giải quyết sai lầm đó cho dù phải chịu đau đớn hay mất mát. Đó chính là cái giá phải trả cho sự sai lầm của đảng cọng sản, chứ không phải là của dân tộc Việt Nam.
Một ai đó đã nói: “Có niềm tin là có tất cả”. Đảng cộng sản không giải quyết vấn đề này để đem lại niềm tin trong đảng và nhân dân, thì làm sao người quốc gia nói riêng và toàn dân tộc nói chung còn có niềm tin để đi đến đối thoại hòa giải hòa hợp được?
(Xem tiếp Phần II và III)
California, 4/05/2007
Ghi chú: (1) Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152. Theo đoạn văn nầy, trong một cuộc đối thoại ngắn, Hồ Chí Minh hai lần xác nhận mình chẳng có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Marx-Lenin.
THIÊN ĐỨC
THIÊN ĐỨC . Việt Báo Thứ Năm, 5/10/2007, 12:02:00 AM
Tôi đối thoại trên vị trí phân ranh giai cấp vô sản hay không vô sản. Đã đến lúc, cây tầm vông vạt nhọn chấm dứt nhiệm vụ lịch sử ngăn cách đôi bờ dân tộc. Nguồn: 9-2006 Thiên Đức.
Xếp lại quá khứ?
Nhân ngày 30/4/2007 ông Võ Văn Kiệt nguyên thủ tướng nước CHXHCNVN đã có cuộc trả lời phỏng vấn của Xuân Hồng ký giả đài BBC, như là một hình thức kêu gọi đối thoại hòa hợp hòa giải.
Hưởng ứng lời kêu gọi đó và để dễ dàng có sự đồng cảm trong đối thoại, người viết tự giới thiệu vài dòng về bản thân.
Ông và tôi cùng sinh ra và lớn lên tại miền Nam Việt Nam do hoàn cảnh lịch sử đã ở hai vị thế đứng khác nhau. Thế nhưng cả hai từng có chung một động tác vào một thời điểm. Ông với tư cách cựu thủ ướng, cựu đảng viên cao cấp của Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam đã đóng góp ý kiến yêu cầu đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đổi mới hơn nữa để hội nhập vào thế giới. Tôi, trong tư cách là cựu tù cải tạo, bằng nỗi ưu tư cho dân tộc, đã có ba bài góp ý đại hội X, từng xúc động khi viết bài “Đảng CSVN cần bao nhiêu máu và nước mắt nữa để xây dựng xã hội chủ nghĩa (XHCN)”:
Phải đối diện với thực tế, máu và nước mắt của thôn xóm tôi, của đồng bào tôi, của các anh, các chị là đảng viên cộng sản và của những tầng lớp con cháu sau này đã đổ ra trong quá khứ và sẽ đổ ra tương lai để hòa chung với nhau không phân biệt giai cấp, không phân biệt chính kiến hay ý thức hệ để vẽ lên bức tranh hoành tráng “XHCN” mà đảng đang tự hào, kiên định thực hiện. (Nguồn: www.doithoai.com)
Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh nhân danh đảng CS long trọng tuyên bố: “Tôn trọng ý kiến khác biệt”. Ông được ưu tiên vào hàng ghế đại biểu, không biết vì lý do gì ông đã không tham dự để chứng kiến sự thật của lời tuyên bố đó. Và cho đến nay ông cũng chưa công khai phát biểu ý kiến của ông về cái gọi là thành quả đại hội X.
Riêng tôi, trong một bài viết về “cuộc cách mạng trắng tức là cách mạng giáo dục tại Việt Nam”, đã có nhận định rằng:
Theo tinh thần văn bản hiến pháp 1992 của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, có thể kết luận như sau: Kết quả Đại hội 10 của đảng Cọng Sản Việt Nam là một điều sỉ nhục lớn lao cho dân tộc Việt Nam. (Nguồn: www.danchimviet.com)
Tôi đã từng thầm mong ước ba triệu đảng viên ĐCSVN, 600 tờ báo quốc nội và hàng trăm đài truyền thanh truyền hình phục vụ cho chế độ hãy lên tiếng và cho tôi một lời phản biện đúng đắn, để tôi có thể tuyên bố rút lại bài báo đó, để cho dân tộc tôi khỏi bị nhục nhã. Tôi mong là tôi sai, nhưng tiếc thay điều đó lại không đến trong thực tế.
Một điều may mắn, bài báo đó lại đang được diễn đàn Đàn Chim Việt chọn lựa làm bài văn đề nghị bạn đọc tranh luận cho một cuộc thi viết về đề tài giáo dục. (www.danchimviet.com).
Hiện còn hiệu lực, rất mong ông có thời gian đọc qua loạt bài báo đó và có ý kiến gì về “quyền học tập sự thật của thế hệ sinh viên học sinh” ngày nay, xem như là một đề tài trao đổi của tôi đến với ông, sau khi tôi đã có ý kiến về bài phỏng vấn của ông. Có qua, có lại mới toại lòng nhau, sòng phẳng trong đối thoại, phải không ông?
Chân thành mà nói rằng những lời viết trên đây không phải là một thách đố mà chính là một lời mời trân trọng của người viết đến không những riêng ông Võ Văn Kiệt mà còn đến với tất cả những ai còn quan tâm đến sự nghiệp giáo dục của đất nước.
Tôi là một người đang nghỉ hưu, chữ danh và lợi không còn là mục đích cần đạt đến trong cuộc sống, nói như vậy để chứng minh một điều tôi chỉ là một người dân thầm lặng đi trong dòng lịch sử.
(Đính kèm hinh minh họa số 1)
Trong tinh thần xếp lại quá khứ, trên cả hận thù, tôi sẽ không đi sâu vào quá khứ hận thù mà sẽ đối thoại những vấn đề thực tế hiện tại nhằm đạt đến ước vọng của ông đề ra. Tôi đối thoại cùng ông với tư cách là người dân Việt Nam trong tâm tư tình cảm của người đứng bên dòng sông Bến Hải, đã không còn là lằn ranh địa dư quốc - cộng nữa mà đã trở thành một chứng tích phân biệt giai cấp vô sản và không vô sản, một khi cây tầm vông vạt nhọn vẫn còn nằm ngang trên cầu Hiền Lương ngăn cách đôi bờ dân tộc vậy. Ba mươi hai năm hòa bình với bao thăng trầm lịch sử, là một thời gian đủ dài để đặt câu hỏi “ Đã đến lúc cây tầm vông này chấm dứt nhiệm vụ hay chưa?”
Phần đối thoại sẽ triển khai theo từng nội dung:
- Xếp lại quá khứ
- Đối thoại đi đến hòa giai hòa hợp
- Bầu cử quốc hội và người tự ứng cử
I - Xếp lại quá khứ?
Cảm nhận đầu tiên là tôi hoàn toàn đồng ý với ông về cách đặt vấn đề là tại sao kẻ thù trong chiến tranh như Pháp, Mỹ, Trung Quốc còn có thể trở thành bạn, thì tại sao người Việt chúng ta lại không thể ngồi lại với nhau để đối thoại. Thế nhưng tôi không đồng ý với ông trong cách triển khai giới hạn vấn đề chỉ có quá khứ hận thù Quốc – Cộng mà thôi. Vì làm như vậy đã gây ra nhiều ngộ nhận đưa đến bế tắc không giải quyết được gì cả.
Trong bài phỏng vấn, đặc biệt nhấn mạnh đến quá khứ hận thù Quốc- Cộng, ông cho rằng nếu không có yếu tố ngoại nhập thì người Việt hai bên có thể ngồi lại với nhau giải quyết được. Tôi có thể đồng ý với ông về luận điểm này vì rằng cuộc chiến vừa qua khó tránh khỏi, bởi vì đất nước Việt Nam nằm trong một vị trí tiền đồn của vừa của khối tự do và lại vừa là tuyến đầu của khối cộng sản. Thế nhưng toàn bộ vấn đề hòa giải hòa hợp mà ông chỉ nhằm xếp lại quá khứ hận thù Quốc - Cộng, chẳng những không giải quyết dứt điểm vấn đề mà còn đem lại sự nghi ngờ rằng không biết ông có thiện chí và thật tình trong kêu gọi hòa hợp hòa giải hay không?
Trên cương vị từng là một cựu thủ tướng, tất nhiên ông phải thấy rõ hết mọi vấn đề của quá khứ cần giải quyết, chứ không chỉ có một vấn đề Quốc - Cộng. Thật vậy ở đây có đến ba loại quá khứ cần giải quyết như sau:
1) Quá khứ hận thù Quốc Cộng
Có thể quy lỗi cho chiến tranh có yếu tố ngoại nhập như ông từng đề cập, chiến tranh đã chấm dứt, và cũng không cần tranh cãi là ai phải chịu trách nhiệm về quá khứ hận thù này, nên trả về cho lịch sử phán xét.
Một câu hỏi cần đặt ra là có cần thiết để kêu gọi quên loại quá khứ này không? Có thể quên được chăng? Một khi quá khứ này đã gắn liền với con người từ lúc nhỏ cho đến khi cận kề ranh giới của cuộc sống. Theo quy luật tự nhiên con người càng lão hóa lại càng mong muốn ôn lại quá khứ.
Nên chăng để cho vấn đề này tự lụi tàn theo quỹ thời gian còn lại của mỗi người?
2) Quá khứ hận thù dân tộc
Đây là loại hận thù phát xuất từ những chính sách sai lầm nhằm thực hiện Xã Hội Chủ Nghĩa trên đất nước Việt Nam của đảng cộng sản như cải cách ruộng đất, vụ án “Nhân văn Giai phẩm”, “vụ án xét lại”, “cải tạo công thương nghiệp”, “đánh Hoa kiều”, “bán bãi lấy vàng, đẩy dân ra biển đông” và “chính sách cải tạo đối với quân nhân, dân chính của Việt Nam Cộng Hoà”. Loại quá khứ hận thù dân tộc này giữa người cộng sản và dân tộc xảy đến cho tất cả gia đình hai miền Bắc Nam có thể ảnh hưởng đến nhiều thế hệ chứ không riêng gì thế hệ trong chiến tranh.
Loại quá khứ hận thù này xảy ra trong thời gian hòa bình, hoàn toàn không có yếu tố ngoại nhập.
Như vậy, phải khẳng định rõ ràng là:
- Người quốc gia không gây ra hận thù dân tộc mà chỉ là nạn nhân.
- Người Cộng Sản gây ra hận thù dân tộc xuất phát từ chủ nghĩa cộng sản, đấu tranh giai cấp. Đảng Cộng Sản phải có trách nhiệm giải quyết.
Quá khứ hận thù Quốc - Cộng và quá khứ hận thù dân tộc là hai vấn đề hoàn toàn khác biệt nhau về bản chất và xuất xứ, cũng như người phải chịu trách nhiệm.
Những ai đồng hóa vấn đề quá khứ hận thù dân tộc với hận thù Quốc – Cộng là người không lương thiện, cố ý trốn tránh trách nhiệm. Đổ tội lên người quốc gia là chống phá đất nước, chia rẽ và gây hận thù dân tộc là lối tuyên truyền bịp bợm, dối trá cần phải chấm dứt.
Tôi đặt bút viết ra dòng chữ này không nhằm khơi sâu hận thù mà nhằm chỉ rõ ai là người có trách nhiệm và phải làm điều gì để giải quyết dứt điểm quá khứ hận thù.
Đến đây đã có người lập luận rằng, những chính sách sai lầm đã thuộc về quá khứ, và cái hậu quả của nó, cũng khó mà giải quyết một sớm một chiều. Vậy có thể nào tạm gác qua một bên để có thể đối thoại hòa giải được không?
Câu trả lời: Có thể được nếu đảng Cộng Sản thực tâm nhìn thẳng vào thực tế giải quyết loại sai lầm dưới đây
3) Quá khứ sai lầm về hệ tư tưởng
Đây là loại quá khứ sai lầm quan trọng nhất và là nguyên nhân chính của mọi nguyên nhân sai lầm trong quá khứ. Đó là sự sai lầm về hệ tư tưởng Marx- Lenine, chuyên chính vô sản, là lý tưởng của đảng cộng sản Việt Nam đã cố tình áp đặt lên đầu dân tộc Việt Nam trên nửa thế kỷ nay.
Sau khi cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, đảng cộng sản đã thống nhất địa dư đất nước, nhưng lại chia rẽ dân tộc thành hai giai cấp vô sản và không vô sản. Chỉ có vô sản toàn thế mới có thể đoàn kết lại, còn không vô sản như trí phú, địa, hào, tôn giáo... là kẻ địch phải bị tiêu diệt dưới nhiều hình thức như đánh tư sản, học tập cải tạo, cải cách ruộng đất, đuổi Hoa kiều, bán dân ra biển Đông, quy hoạch cướp ruộng đất, bóp miệng dân không cho nói...
Sự sai lầm của hệ tư tưởng này không chỉ xảy ra trong quá khứ mà còn duy trì trong hiện tại đó là đảng Cộng Sản Việt Nam với cái đuôi Xã Hội Chủ Nghĩa. Đây chính là vấn đề cần giải quyết minh bạch và sòng phẳng.
Có người sẽ nói đây là vấn đề nội bộ của đảng cộng sản Việt Nam, nhưng vì đảng mang danh là lãnh đạo nên có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ dân tộc.
Trong quá khứ đảng đã từng sai lầm, mà hiện nay lại càng sai lầm hơn nữa để đưa đến sự khủng hoảng niềm tin hiện nay.
Một câu hỏi rất day dứt không thể không đặt ra: Tại sao đảng rêu rao và bắt buộc người dân học tập tư tưởng Hồ Chí Minh từ nhà trường cho đến khu phố, trong khi đảng luôn luôn phản bội ông Hồ Chí Minh?
- Ông Hồ từng tuyên bố: “Không, tôi không có tư tưởng ngoài chủ nghĩa Mác-Lê nin.” (1). Tại sao đảng cọng sản lại áp đặt là Hồ Chí Minh có tư tưởng và bắt dân học tập?
- Ông Hồ viết di chúc với ước nguyện hỏa thiêu thân xác, thì đảng xây lăng, ướp xác lại còn giở trò làm xác giả để triển lãm cho khách du lịch.
(www.danchimviet.com)
- Ông Hồ trong di chúc kêu gọi đoàn kết đấu tranh vô sản,trái lại đảng cho đảng viên làm kinh tế không giới hạn qui mô.
- Ông Hồ mong muốn xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân thì đảng thấy dân thì bỏ chạy trốn. Tại sao?
- Ông Hồ chủ trương dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra, thì đảng cố tình bóp miệng dân, không cho nói.
- Từ hiến pháp đầu tiên của ông Hồ cho đến hiến pháp 1992 đều quy định người dân có quyền tự do ngôn luận và tự do ứng cử và bầu cử, nhưng hiện tại những quyền này hoàn toàn bị tiêu diệt.
- Tại sao? và tại sao?...
Đây là những bằng chứng cụ thể và xác thật về sự phản bội. Nếu ngụy biện cho rằng ông Hồ đã sai, đảng CSVN cần phải làm ngược lại những gì ông Hồ đã chủ trương, thế thì tại sao không đem ông Hồ trở về bảo tàng viện lịch sử kể cả Marx-Lenine? Tại sao không chính thức vứt bỏ hệ tư tưởng Marx-Lenine và Hồ Chí Minh?
Đảng phải giải quyết dứt điểm quá khứ sai lầm về hệ tư tưởng, không gì khác hơn là giải tán đảng Cộng Sản, sửa đổi hiến pháp, và cắt cái đuôi XHCN.
Thế hệ trong chiến tranh đã khai sinh đảng CSVN, đấu tranh chuyên chính vô sản, giờ đây đã thấy đó là một sự sai lầm, là nguồn gốc của sự hận thù dân tộc hiện nay, nhưng lại không đủ can đảm khai tử nó. Tại sao?
Đảng cộng sản và lý thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa đã đóng xong vai trò lịch sử của nó rồi phải chấm dứt mới có thể đối thoại hòa giải hòa hợp dân tộc.
Những đảng viên cộng sản thuộc thế hệ trong chiến tranh nếu không tự giải quyết sai lầm này mà lại bàn giao lại cho thế hệ sau chiến tranh giải quyết thì đó chính là một tội ác, một trọng tội không những đối với lịch sử dân tộc mà còn là một trọng tội đối với hàng con cháu đảng viên Cs kế thừa. Tại sao hận thù bắt nguồn từ sai lầm của thế hệ trước lại để cho thế hệ sau gánh chịu? Đó là một nghịch lý không chấp nhận được.
Giờ đây tuổi tác của thế hệ trong chiến tranh nói chung vào hàng hưu trí, đã đến lúc chuẩn bị đặt vấn đề bàn giao trách nhiệm cho thế hệ sau chiến tranh.
Có thể nói rằng: thế hệ trong chiến tranh của người quốc gia chống cộng sẽ ra đi thanh thản, đã làm tròn trách nhiệm của mình, tuy mục tiêu chưa hoàn thành do lực bất tòng tâm, thế hệ sau có thể hãnh diện tiếp nối mục tiêu của cha anh mình là đấu tranh dân chủ tự do cho đất nước.
Đối với người cộng sản ra đi để lại sai lầm, để lại hận thù cho con cháu mình, quí vị có thể thanh thản được không? Có uất ức hay không khi thấy lý tưởng một đời chiến đấu giờ đây hoàn toàn trở thành những điều xảo trá mà phải để lại cho con cháu như là một di sản vậy? Có cha mẹ nào để lại tội ác và sai lầm cho con cháu hay không? Nếu tin như ông Hồ đã tin: con người có linh hồn để có thể đi thăm cụ Mác, cụ Lenin, thì linh hồn quý vị có thể yên nghỉ được không khi nhìn thấy con cháu ruột thịt của mình sẽ khốn khổ trong máu và nước mắt của hận thù do quý vị để lại?
Chỉ có một cách duy nhất và không còn cách nào khác là quý vị phải đối diện và dũng cảm giải quyết sai lầm đó cho dù phải chịu đau đớn hay mất mát. Đó chính là cái giá phải trả cho sự sai lầm của đảng cọng sản, chứ không phải là của dân tộc Việt Nam.
Một ai đó đã nói: “Có niềm tin là có tất cả”. Đảng cộng sản không giải quyết vấn đề này để đem lại niềm tin trong đảng và nhân dân, thì làm sao người quốc gia nói riêng và toàn dân tộc nói chung còn có niềm tin để đi đến đối thoại hòa giải hòa hợp được?
(Xem tiếp Phần II và III)
California, 4/05/2007
Ghi chú: (1) Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ & Quốc hội, Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tt. 150-152. Theo đoạn văn nầy, trong một cuộc đối thoại ngắn, Hồ Chí Minh hai lần xác nhận mình chẳng có tư tưởng gì ngoài chủ nghĩa Marx-Lenin.
THIÊN ĐỨC
Đối Thoại Với Ông Võ Văn Kiệt Và Đảng CSVN (Kỳ II)
THIÊN ĐỨC .
Việt Báo Thứ Sáu, 5/11/2007, 12:02:00 AM
Để hòa hợp hòa giải dân tộc:
Ở phần I người viết đã trình bày rõ ràng lời kêu gọi của ông Võ Văn Kiệt xóa bỏ quá khứ hận thù quốc cọng rất phiến diện, không giải quyết rốt ráo toàn bộ vấn đề chính trị hiện nay tại Việt Nam. Phải đối diện với sự thật để giải quyết vấn đề quá khứ hận thù dân tộc mà người quốc gia chỉ là một bộ phận của dân tộc chứ không phải là tất cả. Có nhìn nhận như vậy, thì mới có thể đi vào thực tế đối thoại được.
Trong giai đoạn hiện nay chưa thể đi vào nội dung đối thoại hòa giải hòa hợp dân tộc, mà mới chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho đối thoại (nếu có?) mà thôi.
Cuộc chơi nào cũng phải có qui luật tối thiểu của nó, vậy tại sao khi đề ra đối thoại mà lại không yêu cầu hai bên phải tôn trọng qui luật của sự đối thoại công khai và sòng phẳng?
Trước khi trả lời câu hỏi này, người viết trình bày hai ví dụ điển hình để rút kinh nghiệm thực tế.
- Thời niên thiếu:
Ở cái thời trẻ con còn tắm truồng ngoài đường phố, hai đứa trẻ cùng xóm, thân với nhau, chơi một trò chơi, nếu không đồng ý hai đứa trẻ này đều có thể tranh cãi, thậm chí nếu còn bất đồng thì phải nhờ người lớn giải quyết. Như vậy quy luật của cuộc chơi này là gì? Đó là sự tôn trọng lẫn nhau và hai bên có quyền ngang nhau, nếu không đạt được thuận thảo thì phải nhờ đến trọng tài, chứ không ai có quyền dùng vũ lực đến trấn áp đối phương để áp đặt lý lẽ của mình lên đối phương.
- Quan hệ hợp tác quốc tế:
Trong đối tác song phương hay đa phương, mọi quốc gia đều phải giữ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền lẫn nhau, có quyền đàm phán ngang nhau, nếu chưa đạt sự đồng thuận có thể nhờ đến cơ quan hòa giải quốc tế giải quyết.
Dựa trên nguyên tắc này, Việt Nam là nước kém phát triển về mọi mặt vẫn có thể đối thoại ngang tầm với những siêu cường cũng là kẻ thù trước đây như Pháp, Trung Quốc và Hoa Kỳ, và các nước khác nữa để đạt đến những thỏa hiệp thương mại và được chấp thuận trở thành hội viên thứ 150 của tổ chức WTO. Đó là một thực tế minh chứng hùng hồn rằng sự tôn trọng chủ thể trong đối thoại là một điều không thể thiếu được trong đối thoại.
Nếu một bên không được tôn trọng, luôn luôn bị đe dọa trấn áp, thì không còn đối thoại nữa, mà là một sự thống trị, áp đặt tư tưởng như đã từng xảy ra trong thời thực dân xâm lược.
Trở về ý kiến của Ông Võ Văn Kiệt kêu gọi đối thoại, vấn đề chính không phải là người dân Việt và cộng đồng người Việt chống cọng không muốn đối thoại mà chính họ đã từng đề nghị đảng cọng sản đối thoại kể từ khi chấm dứt cuộc chiến cho đến nay, điển hình gần đây nhất trong vụ ông thủ tướng Phan Van Khải sang Mỹ người Việt hải ngoại cũng từng kêu gọi đối thoại theo những đề tài công khai và đưa trước, nhưng nhà nước CSVN vẫn trốn chạy trước đề nghị hợp tình hợp lòng dân đó. Dân oan nằm ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng và những lề đường Saigon hằng chục năm nay chờ đối thoại với nhà nước, mà sao nhà nước vẫn né tránh?
Và sắp đến đây ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ có sẵn sàng đối thoại với cọng đồng hải ngoại hay không?
Như vậy vấn đề còn lại là ở chỗ đảng Cọng sản có thiện chí, có muốn đối thoại hay không?
Một khi đảng Cọng sản chấp nhận đối thoại với dân tộc nói chung và cọng đồng người Việt quốc gia nói riêng, thì đảng cọng sản phải tôn trọng những nguyên tắc tối thiểu như sau:
1)- Tôn trọng chủ thể đối thoại:
Như trên đã nói, nhằm mục đích xóa bỏ hận thù dân tộc, như vậy chủ thể đối thoại với đảng cọng sản là người dân Việt trong và ngoài nước, họ là người có quyền lên tiếng nói trong ôn hòa và bất bạo động về bất cứ một lãnh vực nào đó cho dù là khác biệt thì không thể căn cứ vào đó để mà đe dọa, trấn áp tù đày họ.
Xét lại trong thực tế đảng cọng sản đã làm được điều này chưa? Hiện nay tất cả những người lên tiếng về dân chủ nhân quyền cho Việt Nam, cũng như những dân kêu oan vẫn bị tù đày trấn áp, thì làm sao thực hiện được sự đối thoại sòng phẳng, thưa ông Vỏ Văn Kiệt?
2)- Phương tiện đối thoại:
Điều cơ bản để đối thoại đó là quyền tự do ngôn luận được ghi rõ rằng trong hiến pháp, chỉ có thể thực hiện điều này qua báo chí tư nhân, thế mà ông Nguyễn Tấn Dũng đã công khai cấm báo chí tư nhân lại còn rêu rao đó là ý nguyện của đa số người dân là một sự dối trá trâng tráo của một vị lãnh đạo nhà nước không thể chấp nhận được. Hiện nay hệ thống báo đài đều là của nhà nước, vậy người dân trong và ngoài nước muốn đối thoại sẽ thực hiện ở đâu?
Mục đích đối thoại là để hòa giải dân tộc vậy, mọi người dân đầu có quyền thông tin đầy đủ và tham gia cuộc đối thoại đó. Vì vậy cuộc đối thoại phải diễn ra ở trong nước và phải được phổ biến công khai trên báo đài trong đó có báo chí tư nhân. Đảng Cọng sản đã sẵn sàng chấp nhận điều đó hay không?
Nếu người dân không được biết và không được đối thoại công khai thì tất cả mọi cuộc đối thoại ( nếu có?) xảy ra không hội đủ hai tiêu chuẩn này có ý nghĩa gì không?
3)- Chứng tỏ thiện chí đối thoại:
Tóm lại, tôi hoàn toàn tán đồng với ông Võ Văn Kiệt về lời kêu gọi đối thoại để đi đến hòa giải hòa hợp. Thế nhưng trước khi đi vào đối thoại, đảng cọng sản phải thể hiện thiện chí của mình bằng hành động thực tiễn , nói theo ngôn ngữ bình dân là: “có thấy mới tin” như sau:
- Trả tự do cho tất cả những người đang bị giam giữ dù có án hay chưa dưới cái tội chống phá nhà nước. Họ thực sự chỉ là những người nói lên ý kiến khác biệt của mình với nhà nước, một cách ôn hòa và bất bạo động. Trả lại quyền tự do ngôn luận cho người dân, thể hiện quyền này là tư nhân được quyền ra báo.
- Và trả lại quyền học tập sự thật cho sinh viên học sinh. Sinh viên học sinh là tương lai của đất nước họ có trách nhiệm và phải biết sự thật về lịch sử đất nước. Cụ thể là đảng phải đưa chính trị ra khỏi học đường bằng cách dẹp bỏ guồng máy chính trị đảng ra khỏi nhà trường, trả môn học Mac Lê Nin trở về đúng giá trị triết học của nó. Sinh viên học sinh cũng là người dân là thế hệ sinh sau chiến tranh, không hận thù dân tộc, thì không ai được quyền mang hận thù giai cấp choàng lên đầu họ và họ cũng có quyền tham gia đối thoại công khai và sòng phẳng. Nhà nước đã từng phán xét rằng miền nam Việt nam đã bị đế quốc Mỹ xâm lược, nhưng sinh viên học sinh ở miền Nam trước 30- 4- 75 vẫn có quyền tổ chức sinh hoạt công khai hội thảo, xuống đường vẫn có quyền nói lên ước vọng hòa bình của mình trong một chế độ chủ chiến dưới sự bảo vệ của luật pháp. Thế thì tại sao hòa bình đã ba mươi hai năm nay, mà sinh viên học sinh lại không được quyền góp ý xây dựng và phát triển cho quê hương mình? Đó là một nghịch lý không thể chấp nhận được.
- Đề nghị cuối cùng, một thực tế không ai chối cãi,thế hệ trong chiến tranh của cả hai bên đều đang bước vào ngưỡng cửa xưa nay hiếm, dù muốn hay không thế hệ này cũng phải bàn giao sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước lại cho thế hệ sau chiến tranh, vậy tại sao không tạo một diễn đàn đối thoại công khai và tự do để cho các thế hệ sau chiến tranh được giao lưu, tìm hướng phát triển tốt đẹp cho đất nước. Đó chính là bước chuẩn bị tốt đẹp để cho thế hệ này nhận lãnh trọng trách đối với tương lai đất nước. Đảng cọng sản cấm đoán điều này, thì chính đảng cọng sản là một vật cản trên đà phát triển đất nước. Phải chăng đã đến lúc đặt vật cản này vào đúng vị trí lịch sử của nó hay chưa?
4)- Trưng cầu dân ý:
Cuối cùng, nếu tất cả cuộc đối thoại này không đạt được sự đồng thuận thì phải giải quyết ra sao?
Trong sinh hoạt dân chủ chỉ có một cách hữu hiệu nhất để giải quyết sự bất đồng này đó là “Trưng cầu dân ý” với sự giám sát của quốc tế.
Kỹ sư Đỗ Nam Hải là người đưa ra ý kiến trưng cầu dân ý về những vấn đề bức xúc của giới trẻ nhằm cải thiện cho chế độ, không hề tỏ ý lật đổ chế độ bằng bạo lực, như vậy là một thiện chí, một dấn thân dũng cảm của người trí thức trong giai đoạn hiện nay. Tại sao đảng cọng sản lại tìm mọi cách cô lập kỹ sư Hải từ kinh tế, phương tiện thông tin, đe dọa khủng bố tinh thần ông Hải và cả gia đình họ, đảng cọng sản đã sai lầm đẩy ông Hải từ vị trí của một công dân thiện chí xây dựng chế độ tốt đẹp hơn bằng một phương cách sinh hoạt dân chủ, sang một vị trí đối kháng như hiện nay.
Trở lại quá khứ sai lầm về hệ tư tưởng chuyên chính vô sản, những ai không vô sản đều là địch. Thậm chí đối với những người đã từng đi cùng với đảng cọng sản trong chặng đường “chống Mỹ cứu nước?” trong thành phần thứ 3 và Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng không vô sản cũng đều là kẻ địch(?).Tại sao không cho họ lên tiếng nói, cho dù khác biệt thì có đáng tội hay không để bị trù dập, cô lập rồi tiêu diệt như đã xảy ra trong quá khứ, như trường hợp ông Trương Như Tản, ls. Nguyễn Hữu Thọ, ls. Trương Đình Dzu, Nguyễn Văn Hảo.. v.v..
Người quốc gia chống cọng cũng có nhiều khuynh hướng khác biệt nhau từ chống cộng ít, đến nhiều, từ cương quyết kiên định lý tưởng đến xu thế hòa hoãn, tất cả giờ đây góp tiếng nói trong hòa bình, bất bạo động thì có cần xua đẩy họ vào vị thế mãi mãi đối nghịch nữa hay không?
Người dân oan vô tội, đòi hỏi quyền lợi chính đáng bắt nguồn từ những sai lầm của nhà nước, đảng cọng sản có cần dồn ép họ vào con đường đối lập chính trị để đàn áp tù đày họ hay không? như trường hợp ls. Bùi Kim Thành, Hồ Thị Bích Khương và nhiều người khác nữa.
Đây chính là những thất bại. Không thể để sai lầm tiếp nối sai lầm tái diễn , nếu đảng cọng sản muốn đối thoại thì phải chứng tỏ thiện chí của mình chấp thuận nguyên tắc: “nếu không giải quyết được trong đối thoại thì phải đi đến việc trung cầu dân ý”Ô. Và những ý kiến của thiểu số cũng không vì thế mà bị tiêu diệt, mà họ có quyền bảo lưu ý kiến của mình. Lịch sử đã từng chứng minh rằng ý kiến ngày hôm nay đúng nhưng không có nghĩa mãi mãi là đúng.
Phải có sự đảm bảo tôn trọng những nguyên tắc tối thiểu, và đảng cọng sản phải chứng tỏ thiện chí của mình như đề nghị trên, thì mọi cuộc đối thoại mới có ý nghĩa và đi đến kết quả mong muốn là : “Hòa giải hòa hợp dân tộc” chứ không phải là hòa giải hòa hợp quốc cọng.
THIÊN ĐỨC
THIÊN ĐỨC .
Việt Báo Thứ Sáu, 5/11/2007, 12:02:00 AM
Để hòa hợp hòa giải dân tộc:
Ở phần I người viết đã trình bày rõ ràng lời kêu gọi của ông Võ Văn Kiệt xóa bỏ quá khứ hận thù quốc cọng rất phiến diện, không giải quyết rốt ráo toàn bộ vấn đề chính trị hiện nay tại Việt Nam. Phải đối diện với sự thật để giải quyết vấn đề quá khứ hận thù dân tộc mà người quốc gia chỉ là một bộ phận của dân tộc chứ không phải là tất cả. Có nhìn nhận như vậy, thì mới có thể đi vào thực tế đối thoại được.
Trong giai đoạn hiện nay chưa thể đi vào nội dung đối thoại hòa giải hòa hợp dân tộc, mà mới chỉ là giai đoạn chuẩn bị cho đối thoại (nếu có?) mà thôi.
Cuộc chơi nào cũng phải có qui luật tối thiểu của nó, vậy tại sao khi đề ra đối thoại mà lại không yêu cầu hai bên phải tôn trọng qui luật của sự đối thoại công khai và sòng phẳng?
Trước khi trả lời câu hỏi này, người viết trình bày hai ví dụ điển hình để rút kinh nghiệm thực tế.
- Thời niên thiếu:
Ở cái thời trẻ con còn tắm truồng ngoài đường phố, hai đứa trẻ cùng xóm, thân với nhau, chơi một trò chơi, nếu không đồng ý hai đứa trẻ này đều có thể tranh cãi, thậm chí nếu còn bất đồng thì phải nhờ người lớn giải quyết. Như vậy quy luật của cuộc chơi này là gì? Đó là sự tôn trọng lẫn nhau và hai bên có quyền ngang nhau, nếu không đạt được thuận thảo thì phải nhờ đến trọng tài, chứ không ai có quyền dùng vũ lực đến trấn áp đối phương để áp đặt lý lẽ của mình lên đối phương.
- Quan hệ hợp tác quốc tế:
Trong đối tác song phương hay đa phương, mọi quốc gia đều phải giữ nguyên tắc tôn trọng chủ quyền lẫn nhau, có quyền đàm phán ngang nhau, nếu chưa đạt sự đồng thuận có thể nhờ đến cơ quan hòa giải quốc tế giải quyết.
Dựa trên nguyên tắc này, Việt Nam là nước kém phát triển về mọi mặt vẫn có thể đối thoại ngang tầm với những siêu cường cũng là kẻ thù trước đây như Pháp, Trung Quốc và Hoa Kỳ, và các nước khác nữa để đạt đến những thỏa hiệp thương mại và được chấp thuận trở thành hội viên thứ 150 của tổ chức WTO. Đó là một thực tế minh chứng hùng hồn rằng sự tôn trọng chủ thể trong đối thoại là một điều không thể thiếu được trong đối thoại.
Nếu một bên không được tôn trọng, luôn luôn bị đe dọa trấn áp, thì không còn đối thoại nữa, mà là một sự thống trị, áp đặt tư tưởng như đã từng xảy ra trong thời thực dân xâm lược.
Trở về ý kiến của Ông Võ Văn Kiệt kêu gọi đối thoại, vấn đề chính không phải là người dân Việt và cộng đồng người Việt chống cọng không muốn đối thoại mà chính họ đã từng đề nghị đảng cọng sản đối thoại kể từ khi chấm dứt cuộc chiến cho đến nay, điển hình gần đây nhất trong vụ ông thủ tướng Phan Van Khải sang Mỹ người Việt hải ngoại cũng từng kêu gọi đối thoại theo những đề tài công khai và đưa trước, nhưng nhà nước CSVN vẫn trốn chạy trước đề nghị hợp tình hợp lòng dân đó. Dân oan nằm ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng và những lề đường Saigon hằng chục năm nay chờ đối thoại với nhà nước, mà sao nhà nước vẫn né tránh?
Và sắp đến đây ông Nguyễn Minh Triết sang Mỹ có sẵn sàng đối thoại với cọng đồng hải ngoại hay không?
Như vậy vấn đề còn lại là ở chỗ đảng Cọng sản có thiện chí, có muốn đối thoại hay không?
Một khi đảng Cọng sản chấp nhận đối thoại với dân tộc nói chung và cọng đồng người Việt quốc gia nói riêng, thì đảng cọng sản phải tôn trọng những nguyên tắc tối thiểu như sau:
1)- Tôn trọng chủ thể đối thoại:
Như trên đã nói, nhằm mục đích xóa bỏ hận thù dân tộc, như vậy chủ thể đối thoại với đảng cọng sản là người dân Việt trong và ngoài nước, họ là người có quyền lên tiếng nói trong ôn hòa và bất bạo động về bất cứ một lãnh vực nào đó cho dù là khác biệt thì không thể căn cứ vào đó để mà đe dọa, trấn áp tù đày họ.
Xét lại trong thực tế đảng cọng sản đã làm được điều này chưa? Hiện nay tất cả những người lên tiếng về dân chủ nhân quyền cho Việt Nam, cũng như những dân kêu oan vẫn bị tù đày trấn áp, thì làm sao thực hiện được sự đối thoại sòng phẳng, thưa ông Vỏ Văn Kiệt?
2)- Phương tiện đối thoại:
Điều cơ bản để đối thoại đó là quyền tự do ngôn luận được ghi rõ rằng trong hiến pháp, chỉ có thể thực hiện điều này qua báo chí tư nhân, thế mà ông Nguyễn Tấn Dũng đã công khai cấm báo chí tư nhân lại còn rêu rao đó là ý nguyện của đa số người dân là một sự dối trá trâng tráo của một vị lãnh đạo nhà nước không thể chấp nhận được. Hiện nay hệ thống báo đài đều là của nhà nước, vậy người dân trong và ngoài nước muốn đối thoại sẽ thực hiện ở đâu?
Mục đích đối thoại là để hòa giải dân tộc vậy, mọi người dân đầu có quyền thông tin đầy đủ và tham gia cuộc đối thoại đó. Vì vậy cuộc đối thoại phải diễn ra ở trong nước và phải được phổ biến công khai trên báo đài trong đó có báo chí tư nhân. Đảng Cọng sản đã sẵn sàng chấp nhận điều đó hay không?
Nếu người dân không được biết và không được đối thoại công khai thì tất cả mọi cuộc đối thoại ( nếu có?) xảy ra không hội đủ hai tiêu chuẩn này có ý nghĩa gì không?
3)- Chứng tỏ thiện chí đối thoại:
Tóm lại, tôi hoàn toàn tán đồng với ông Võ Văn Kiệt về lời kêu gọi đối thoại để đi đến hòa giải hòa hợp. Thế nhưng trước khi đi vào đối thoại, đảng cọng sản phải thể hiện thiện chí của mình bằng hành động thực tiễn , nói theo ngôn ngữ bình dân là: “có thấy mới tin” như sau:
- Trả tự do cho tất cả những người đang bị giam giữ dù có án hay chưa dưới cái tội chống phá nhà nước. Họ thực sự chỉ là những người nói lên ý kiến khác biệt của mình với nhà nước, một cách ôn hòa và bất bạo động. Trả lại quyền tự do ngôn luận cho người dân, thể hiện quyền này là tư nhân được quyền ra báo.
- Và trả lại quyền học tập sự thật cho sinh viên học sinh. Sinh viên học sinh là tương lai của đất nước họ có trách nhiệm và phải biết sự thật về lịch sử đất nước. Cụ thể là đảng phải đưa chính trị ra khỏi học đường bằng cách dẹp bỏ guồng máy chính trị đảng ra khỏi nhà trường, trả môn học Mac Lê Nin trở về đúng giá trị triết học của nó. Sinh viên học sinh cũng là người dân là thế hệ sinh sau chiến tranh, không hận thù dân tộc, thì không ai được quyền mang hận thù giai cấp choàng lên đầu họ và họ cũng có quyền tham gia đối thoại công khai và sòng phẳng. Nhà nước đã từng phán xét rằng miền nam Việt nam đã bị đế quốc Mỹ xâm lược, nhưng sinh viên học sinh ở miền Nam trước 30- 4- 75 vẫn có quyền tổ chức sinh hoạt công khai hội thảo, xuống đường vẫn có quyền nói lên ước vọng hòa bình của mình trong một chế độ chủ chiến dưới sự bảo vệ của luật pháp. Thế thì tại sao hòa bình đã ba mươi hai năm nay, mà sinh viên học sinh lại không được quyền góp ý xây dựng và phát triển cho quê hương mình? Đó là một nghịch lý không thể chấp nhận được.
- Đề nghị cuối cùng, một thực tế không ai chối cãi,thế hệ trong chiến tranh của cả hai bên đều đang bước vào ngưỡng cửa xưa nay hiếm, dù muốn hay không thế hệ này cũng phải bàn giao sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước lại cho thế hệ sau chiến tranh, vậy tại sao không tạo một diễn đàn đối thoại công khai và tự do để cho các thế hệ sau chiến tranh được giao lưu, tìm hướng phát triển tốt đẹp cho đất nước. Đó chính là bước chuẩn bị tốt đẹp để cho thế hệ này nhận lãnh trọng trách đối với tương lai đất nước. Đảng cọng sản cấm đoán điều này, thì chính đảng cọng sản là một vật cản trên đà phát triển đất nước. Phải chăng đã đến lúc đặt vật cản này vào đúng vị trí lịch sử của nó hay chưa?
4)- Trưng cầu dân ý:
Cuối cùng, nếu tất cả cuộc đối thoại này không đạt được sự đồng thuận thì phải giải quyết ra sao?
Trong sinh hoạt dân chủ chỉ có một cách hữu hiệu nhất để giải quyết sự bất đồng này đó là “Trưng cầu dân ý” với sự giám sát của quốc tế.
Kỹ sư Đỗ Nam Hải là người đưa ra ý kiến trưng cầu dân ý về những vấn đề bức xúc của giới trẻ nhằm cải thiện cho chế độ, không hề tỏ ý lật đổ chế độ bằng bạo lực, như vậy là một thiện chí, một dấn thân dũng cảm của người trí thức trong giai đoạn hiện nay. Tại sao đảng cọng sản lại tìm mọi cách cô lập kỹ sư Hải từ kinh tế, phương tiện thông tin, đe dọa khủng bố tinh thần ông Hải và cả gia đình họ, đảng cọng sản đã sai lầm đẩy ông Hải từ vị trí của một công dân thiện chí xây dựng chế độ tốt đẹp hơn bằng một phương cách sinh hoạt dân chủ, sang một vị trí đối kháng như hiện nay.
Trở lại quá khứ sai lầm về hệ tư tưởng chuyên chính vô sản, những ai không vô sản đều là địch. Thậm chí đối với những người đã từng đi cùng với đảng cọng sản trong chặng đường “chống Mỹ cứu nước?” trong thành phần thứ 3 và Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng không vô sản cũng đều là kẻ địch(?).Tại sao không cho họ lên tiếng nói, cho dù khác biệt thì có đáng tội hay không để bị trù dập, cô lập rồi tiêu diệt như đã xảy ra trong quá khứ, như trường hợp ông Trương Như Tản, ls. Nguyễn Hữu Thọ, ls. Trương Đình Dzu, Nguyễn Văn Hảo.. v.v..
Người quốc gia chống cọng cũng có nhiều khuynh hướng khác biệt nhau từ chống cộng ít, đến nhiều, từ cương quyết kiên định lý tưởng đến xu thế hòa hoãn, tất cả giờ đây góp tiếng nói trong hòa bình, bất bạo động thì có cần xua đẩy họ vào vị thế mãi mãi đối nghịch nữa hay không?
Người dân oan vô tội, đòi hỏi quyền lợi chính đáng bắt nguồn từ những sai lầm của nhà nước, đảng cọng sản có cần dồn ép họ vào con đường đối lập chính trị để đàn áp tù đày họ hay không? như trường hợp ls. Bùi Kim Thành, Hồ Thị Bích Khương và nhiều người khác nữa.
Đây chính là những thất bại. Không thể để sai lầm tiếp nối sai lầm tái diễn , nếu đảng cọng sản muốn đối thoại thì phải chứng tỏ thiện chí của mình chấp thuận nguyên tắc: “nếu không giải quyết được trong đối thoại thì phải đi đến việc trung cầu dân ý”Ô. Và những ý kiến của thiểu số cũng không vì thế mà bị tiêu diệt, mà họ có quyền bảo lưu ý kiến của mình. Lịch sử đã từng chứng minh rằng ý kiến ngày hôm nay đúng nhưng không có nghĩa mãi mãi là đúng.
Phải có sự đảm bảo tôn trọng những nguyên tắc tối thiểu, và đảng cọng sản phải chứng tỏ thiện chí của mình như đề nghị trên, thì mọi cuộc đối thoại mới có ý nghĩa và đi đến kết quả mong muốn là : “Hòa giải hòa hợp dân tộc” chứ không phải là hòa giải hòa hợp quốc cọng.
THIÊN ĐỨC
Đối Thoại Với Ông Võ Văn Kiệt Và Đảng Csvn (Kỳ Cuối)
THIÊN ĐỨC .
Việt Báo Thứ Bảy, 5/12/2007, 12:02:00 AM
III/- Ý kiến về bầu cử và tự ứng cử
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, ông Vỏ Văn Kiệt tỏ ý đồng thuận với đảng và nhà nước tổ chức bầu cử, qua những động tác hiệp thương 1, 2, 3 là được. Đến đây tôi thật sự hoàn toàn thất vọng về ông. Trong những lần góp ý kiến đại hội đảng X, dù muốn dù không ông cũng đã gây được một ít niềm tin hy vọng cho những ai còn ưu tư đến đất nước, trong đó có cá nhân người viết. Thế nhưng, ý kiến của ông bằng lòng với hiện trạng tổ chức bầu cử đã hoàn toàn đánh mất niềm tin hiếm hoi đó.
Thật vậy, trong loạt bài viết đối thoại với Trần Mạnh Hảo có đề tài: “Nhà nước Việt Nam chống lại hiến pháp“
http://www.danchimviet.com/php/modules. ... e&sid=2285
Tôi đã từng chứng minh đầy đủ với chứng cứ và văn bản luật pháp là “Quốc hội phản bội hiến pháp” và đã đi vào chi tiết từng tiểu mục
I/- Vi hiến về quyền bầu cử:
II/- Vi hiến về quyền ứng cử
III/- Vi hiến về bản chất đại biểu quốc hội.
IV/- Quốc hội phản bội hiến pháp qua việc trốn tránh trách nhiệm trước cử tri
Tôi tin rằng ông và đảng csvn biết rõ ràng về sự thật đó, thế nhưng ông giả như không biết để hoàn toàn đồng ý việc làm của chế độ, đã chứng minh ông là kẽ đồng hành hay là kẽ đồng lõa với những sai lầm đó, chứ ông đâu có thật tình mong muốn lên tiếng nói công đạo cho người tự ứng cử.
Thiết tưởng ông và đảng cọng sản có thể tham khảo đầy đủ nội dung loạt bài viết trên như là một hình thức phản đối ý kiến đồng tình của ông đối với việc tổ chức bầu cử hiện nay. Tôi thấy không cần thiết để lập lại vấn đề này. Và tôi sẽ đối thoại cùng ông về ý kiến có nên khuyến khích người tự ứng cử hay không?
Theo ông thì nên khuyến khích hơn nữa người tự ra ứng cử, thế nhưng ông không đề ra một biện pháp nào cải thiện phương cách tổ chức bầu cử hiện nay, vì thế đã có người nhận định là ông nêu ý kiến chỉ nhằm “đấm bóp” thời cuộc hơn là thực tâm mong muốn cải thiện cuộc bầu cử hoàn chỉnh hơn.
Trái lại, đối với ý kiến cá nhân tôi sự khuyến khích người tự ứng cử, chỉ là trò múa rối mà thôi. Thực vậy, cuộc bầu cử 20 - 5 - 2007 không phải là cơ hội cho người tự ứng cử dấn thân đem tài năng phục vụ đất nước, vì theo cơ chế hiện nay không dành cho người tự ứng cử một chút ánh sáng hy vọng nào để có thể công khai đi vào ngưỡng cửa quốc hội.
Cửa ngỏ đi vào quốc hội của người tự ứng cử thật sự khép chặt từ khâu thăm hỏi xin đơn ứng cử cho đến khâu cuối cùng kết quả đếm phiếu. Người viết sẽ lần lượt trình bày tuần tự từng giai đoạn như sau:
1)- Tại sao cơ cấu và ấn định trước tỷ lệ người tự ứng cử hay người ngoài đảng trước khi tổ chức hiệp thương bầu cử?. Quy định những chỉ tiêu từ 10% - 20% cho người ngoài đảng trước khi tiến hành tổ chức bầu cử là những bằng chứng hùng hồn để chứng minh cuộc bầu cử hiện nay là mị dân, hoàn toàn xảo trá vì đã áp đặt kết quả phải đạt được trước khi tiến hành bầu cử.
Một trận đấu nếu áp đặt tỷ số thắng bại trước, tất yếu cầu thủ hai bên phải bán độ đã bị chế tài hình sự. Thế thì tại sao quốc hội chưa bầu lại áp đặt công khai kết quả ai là người phải thắng cử để giữ chức vụ nào đó trong cơ cấu và thành phần ngoài đảng là bao nhiêu?
Để đạt được điều này, tất yếu ủy ban bầu cử từ trung ương đến địa phương đều phải tham gia trò chơi gian lận đó. Là một hình thức bán độ bầu cử thiệt hại cho quyền lợi dân tộc nguy hại hơn cả các cầu thủ bóng đá bán độ.
2)- Nộp đơn và rút đơn ứng cử.
Những người tuyên bố tự ứng cử đã gặp rất nhiều khó khăn về phía chính quyền địa phương ví dụ anh Phạm Hùng Vỹ từ khi tuyên bố tự ứng cử, đã bị áp lực của công an khu phố và địa phương đe dọa gia đình và bản thân người tự ứng cử để rút lui ý định ứng cử, là một bằng chứng sống không thể chối cải được.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/ ... ction_TMi/
Nếu là người tự ứng cử trong đảng thì sẽ gặp khó khăn từ phía đảng do đó bắt buộc phải rút đơn như ông Đặng Hùng Vỏ, ông Trương Đình Tuyển...
Khuyến khích người ứng cử, tại sao Nông Đức Mạnh lại tuyên bố : “Chúng ta không cho phép trò chơi dân chủ lọt vào quốc hội mới”. Lời tuyên bố đó như là một hiệu lệnh thanh lọc thẳng tay bằng những biện pháp đe dọa, trấn áp, giam giữ, tù đầy , những thành phần bất đống chính kiến trước thời gian nộp đơn ứng cử để họ không còn cơ hội tham gia ứng cử. Thế mà ông không hề lên tiếng phản đối hành vi này trái lại ông đồng tình cho là được.
3)- Lấy ý kiến địa phương, với số đại diện cử tri chọn lọc của ủy ban bầu cử địa phương là một hình thức loại bỏ những ứng cử viên không đồng hành với chế độ trước khi bầu cử chính thức. Điều tệ hại hơn nữa khi biểu quyết bằng cách công khai đưa tay để quyết định số phận người tự ứng cử là hoàn toàn vi phạm nguyên tắc luật pháp và hiến pháp đó là bầu phiếu kín Ví dụ trường hợp ls. Lê Công Định, ông Cù Huy Hà Vũ...
Một vấn đề tranh cãi về pháp lý ở đây, việc lấy ý kiến cơ sở hay địa phương có phải là một hình thức bầu cử sơ bộ, trước khi bầu cử chính thức hay không? Vì những người tự ứng cử có kết quả dưới 50% đều bị loại ra khỏi các vòng hiệp thương. Như vậy đã trái với nguyên tắc bầu cử trực tiếp theo hiến pháp đ.7 và luật bầu cử đ.1.
4)- Hiệp thương là một hình thức gạt bỏ những ứng cử viên không đồng quan điểm với đảng cs. Thật vậy thành phần trong những lần hội nghị hiệp thương là ai? Đều là những đảng viên cs đại diện cơ quan đoàn thể được chọn lọc, thì người tự ứng cử ngoài đảng làm sao có cơ may qua được cửa ải các lần hiệp thương này? Con số người tự ứng cử là 238 ban đầu giờ đây chỉ còn lại 30 người tức là 1/8 (tức là 3,4% trên tổng số 876 ứng cử viên được công bố sau cùng) đã chứng minh sự thật đó.
Người tự ứng cử dù có lọt qua được vòng cuối hiệp thương cũng khó mà có kết quả thắng cử bởi vì:
- Ứng cử viên không có quyền chọn lựa đơn vị bầu cử, ủy ban bầu cử có toàn quyền phân phối ứng cử viên về các đơn vị bầu cử mà không cần theo một tiêu chuẩn nào cả. Vì thế ủy ban bầu cử có thể nắm chắc kết quả bầu cử qua công việc phân phối ứng cử viên xuống đơn vị bầu cử. Thật vậy ủy ban bầu cử muốn loại một người nào chỉ cần đưa người đó đến một đơn vị xa lạ, khác tôn giáo, chánh kiến hay có những đụng chạm từ trước thì người ứng cử viên sẽ không còn cơ may nào trúng cử. Ở khía cạnh pháp lý, điều này đã hạn chế quyền bầu cử của người dân, vì làm như vậy người dân chỉ có thể bầu những người mà họ không hề biết gì cả, thay vì bầu cho người mà họ đã từng tín nhiệm (vì người được tín nhiệm đã được ủy ban bầu cử phân phối ở đơn vị khác).
- Ứng cử viên không được tranh cử nghĩa là không được tự ý đi vận động riêng rẽ, tất cả công việc này đều do ủy ban bầu đảm trách. Như vậy người tự ứng được điều đến một đơn vị dân cư xa lạ, thì ai biết mà bầu. Trong khi đảng viên được đề cử chí ít cũng được người trong đảng biết và rỉ tai nhau bầu chọn.
- Điểm cuối cùng tại thùng phiếu và khi kiểm phiếu đều không có quan sát viên của người tự ứng cử ngoài đảng, thì điều gì sẽ xảy ra nếu kết quả bầu cử xảy ra ngoài ý muốn của ủy ban bầu cử? Trời biết, đất biết, nhưng người tự ứng cử không bao giờ biết ngoại trừ một điều là biết mình bị thất cử.
Trong thực tế đã chứng minh, có nhiều hộ không đi bầu, hay đi bầu trễ đến thùng phiếu thì được thông báo là có người bầu thế rồi, vậy những phiếu bầu thế đó bầu cho ai? Đó cũng chính là câu trả lời cho câu hỏi vì sao có kết quả 100% đi bầu và 100% cho ứng cử viên vậy.
Tóm lại khuyến khích người tự ứng cử nhưng lại không mở sinh lộ cho họ bước vào tòa nhà quốc hội, thì chỉ là trò múa rối hay là những tên lót đường để cho cử tri nhắm mắt gạch cho xong chuyện mà thôi.
Qua ba bài viết trên, thiết nghỉ ông Võ Văn Kiệt có thể nhìn lại mình về những lời kêu gọi vừa qua đã thật tâm chưa, và ông đã làm hết khả năng của mình để bảo vệ cái đúng của mình hay chưa? Tôi tin rằng ông và tất cả người đảng viên cọng sản còn tỉnh táo sáng suốt nhận ra đâu là sự thật và đâu là xảo trá, bằng vào khả năng của mỗi người có thể làm hơn thế nữa để cho tầng lớp kế thừa sau chiến tranh có thể xây dựng phát triển đất nước một cách hài hòa trong dân chủ, tự do. Một đất nước Việt Nam không còn hận thù quốc cọng, hận thù dân tộc, và nhất là không còn máu, nước mắt, hận thù giai cấp do quí vị để lại cho tầng lớp con em cọng sản kế thừa. Đó chính là điều mong ước duy nhất muốn đạt được của loạt bài đối thoại công khai và sòng phẳng này vậy.
THIÊN ĐỨC
THIÊN ĐỨC .
Việt Báo Thứ Bảy, 5/12/2007, 12:02:00 AM
III/- Ý kiến về bầu cử và tự ứng cử
Cũng trong cuộc phỏng vấn này, ông Vỏ Văn Kiệt tỏ ý đồng thuận với đảng và nhà nước tổ chức bầu cử, qua những động tác hiệp thương 1, 2, 3 là được. Đến đây tôi thật sự hoàn toàn thất vọng về ông. Trong những lần góp ý kiến đại hội đảng X, dù muốn dù không ông cũng đã gây được một ít niềm tin hy vọng cho những ai còn ưu tư đến đất nước, trong đó có cá nhân người viết. Thế nhưng, ý kiến của ông bằng lòng với hiện trạng tổ chức bầu cử đã hoàn toàn đánh mất niềm tin hiếm hoi đó.
Thật vậy, trong loạt bài viết đối thoại với Trần Mạnh Hảo có đề tài: “Nhà nước Việt Nam chống lại hiến pháp“
http://www.danchimviet.com/php/modules. ... e&sid=2285
Tôi đã từng chứng minh đầy đủ với chứng cứ và văn bản luật pháp là “Quốc hội phản bội hiến pháp” và đã đi vào chi tiết từng tiểu mục
I/- Vi hiến về quyền bầu cử:
II/- Vi hiến về quyền ứng cử
III/- Vi hiến về bản chất đại biểu quốc hội.
IV/- Quốc hội phản bội hiến pháp qua việc trốn tránh trách nhiệm trước cử tri
Tôi tin rằng ông và đảng csvn biết rõ ràng về sự thật đó, thế nhưng ông giả như không biết để hoàn toàn đồng ý việc làm của chế độ, đã chứng minh ông là kẽ đồng hành hay là kẽ đồng lõa với những sai lầm đó, chứ ông đâu có thật tình mong muốn lên tiếng nói công đạo cho người tự ứng cử.
Thiết tưởng ông và đảng cọng sản có thể tham khảo đầy đủ nội dung loạt bài viết trên như là một hình thức phản đối ý kiến đồng tình của ông đối với việc tổ chức bầu cử hiện nay. Tôi thấy không cần thiết để lập lại vấn đề này. Và tôi sẽ đối thoại cùng ông về ý kiến có nên khuyến khích người tự ứng cử hay không?
Theo ông thì nên khuyến khích hơn nữa người tự ra ứng cử, thế nhưng ông không đề ra một biện pháp nào cải thiện phương cách tổ chức bầu cử hiện nay, vì thế đã có người nhận định là ông nêu ý kiến chỉ nhằm “đấm bóp” thời cuộc hơn là thực tâm mong muốn cải thiện cuộc bầu cử hoàn chỉnh hơn.
Trái lại, đối với ý kiến cá nhân tôi sự khuyến khích người tự ứng cử, chỉ là trò múa rối mà thôi. Thực vậy, cuộc bầu cử 20 - 5 - 2007 không phải là cơ hội cho người tự ứng cử dấn thân đem tài năng phục vụ đất nước, vì theo cơ chế hiện nay không dành cho người tự ứng cử một chút ánh sáng hy vọng nào để có thể công khai đi vào ngưỡng cửa quốc hội.
Cửa ngỏ đi vào quốc hội của người tự ứng cử thật sự khép chặt từ khâu thăm hỏi xin đơn ứng cử cho đến khâu cuối cùng kết quả đếm phiếu. Người viết sẽ lần lượt trình bày tuần tự từng giai đoạn như sau:
1)- Tại sao cơ cấu và ấn định trước tỷ lệ người tự ứng cử hay người ngoài đảng trước khi tổ chức hiệp thương bầu cử?. Quy định những chỉ tiêu từ 10% - 20% cho người ngoài đảng trước khi tiến hành tổ chức bầu cử là những bằng chứng hùng hồn để chứng minh cuộc bầu cử hiện nay là mị dân, hoàn toàn xảo trá vì đã áp đặt kết quả phải đạt được trước khi tiến hành bầu cử.
Một trận đấu nếu áp đặt tỷ số thắng bại trước, tất yếu cầu thủ hai bên phải bán độ đã bị chế tài hình sự. Thế thì tại sao quốc hội chưa bầu lại áp đặt công khai kết quả ai là người phải thắng cử để giữ chức vụ nào đó trong cơ cấu và thành phần ngoài đảng là bao nhiêu?
Để đạt được điều này, tất yếu ủy ban bầu cử từ trung ương đến địa phương đều phải tham gia trò chơi gian lận đó. Là một hình thức bán độ bầu cử thiệt hại cho quyền lợi dân tộc nguy hại hơn cả các cầu thủ bóng đá bán độ.
2)- Nộp đơn và rút đơn ứng cử.
Những người tuyên bố tự ứng cử đã gặp rất nhiều khó khăn về phía chính quyền địa phương ví dụ anh Phạm Hùng Vỹ từ khi tuyên bố tự ứng cử, đã bị áp lực của công an khu phố và địa phương đe dọa gia đình và bản thân người tự ứng cử để rút lui ý định ứng cử, là một bằng chứng sống không thể chối cải được.
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/ ... ction_TMi/
Nếu là người tự ứng cử trong đảng thì sẽ gặp khó khăn từ phía đảng do đó bắt buộc phải rút đơn như ông Đặng Hùng Vỏ, ông Trương Đình Tuyển...
Khuyến khích người ứng cử, tại sao Nông Đức Mạnh lại tuyên bố : “Chúng ta không cho phép trò chơi dân chủ lọt vào quốc hội mới”. Lời tuyên bố đó như là một hiệu lệnh thanh lọc thẳng tay bằng những biện pháp đe dọa, trấn áp, giam giữ, tù đầy , những thành phần bất đống chính kiến trước thời gian nộp đơn ứng cử để họ không còn cơ hội tham gia ứng cử. Thế mà ông không hề lên tiếng phản đối hành vi này trái lại ông đồng tình cho là được.
3)- Lấy ý kiến địa phương, với số đại diện cử tri chọn lọc của ủy ban bầu cử địa phương là một hình thức loại bỏ những ứng cử viên không đồng hành với chế độ trước khi bầu cử chính thức. Điều tệ hại hơn nữa khi biểu quyết bằng cách công khai đưa tay để quyết định số phận người tự ứng cử là hoàn toàn vi phạm nguyên tắc luật pháp và hiến pháp đó là bầu phiếu kín Ví dụ trường hợp ls. Lê Công Định, ông Cù Huy Hà Vũ...
Một vấn đề tranh cãi về pháp lý ở đây, việc lấy ý kiến cơ sở hay địa phương có phải là một hình thức bầu cử sơ bộ, trước khi bầu cử chính thức hay không? Vì những người tự ứng cử có kết quả dưới 50% đều bị loại ra khỏi các vòng hiệp thương. Như vậy đã trái với nguyên tắc bầu cử trực tiếp theo hiến pháp đ.7 và luật bầu cử đ.1.
4)- Hiệp thương là một hình thức gạt bỏ những ứng cử viên không đồng quan điểm với đảng cs. Thật vậy thành phần trong những lần hội nghị hiệp thương là ai? Đều là những đảng viên cs đại diện cơ quan đoàn thể được chọn lọc, thì người tự ứng cử ngoài đảng làm sao có cơ may qua được cửa ải các lần hiệp thương này? Con số người tự ứng cử là 238 ban đầu giờ đây chỉ còn lại 30 người tức là 1/8 (tức là 3,4% trên tổng số 876 ứng cử viên được công bố sau cùng) đã chứng minh sự thật đó.
Người tự ứng cử dù có lọt qua được vòng cuối hiệp thương cũng khó mà có kết quả thắng cử bởi vì:
- Ứng cử viên không có quyền chọn lựa đơn vị bầu cử, ủy ban bầu cử có toàn quyền phân phối ứng cử viên về các đơn vị bầu cử mà không cần theo một tiêu chuẩn nào cả. Vì thế ủy ban bầu cử có thể nắm chắc kết quả bầu cử qua công việc phân phối ứng cử viên xuống đơn vị bầu cử. Thật vậy ủy ban bầu cử muốn loại một người nào chỉ cần đưa người đó đến một đơn vị xa lạ, khác tôn giáo, chánh kiến hay có những đụng chạm từ trước thì người ứng cử viên sẽ không còn cơ may nào trúng cử. Ở khía cạnh pháp lý, điều này đã hạn chế quyền bầu cử của người dân, vì làm như vậy người dân chỉ có thể bầu những người mà họ không hề biết gì cả, thay vì bầu cho người mà họ đã từng tín nhiệm (vì người được tín nhiệm đã được ủy ban bầu cử phân phối ở đơn vị khác).
- Ứng cử viên không được tranh cử nghĩa là không được tự ý đi vận động riêng rẽ, tất cả công việc này đều do ủy ban bầu đảm trách. Như vậy người tự ứng được điều đến một đơn vị dân cư xa lạ, thì ai biết mà bầu. Trong khi đảng viên được đề cử chí ít cũng được người trong đảng biết và rỉ tai nhau bầu chọn.
- Điểm cuối cùng tại thùng phiếu và khi kiểm phiếu đều không có quan sát viên của người tự ứng cử ngoài đảng, thì điều gì sẽ xảy ra nếu kết quả bầu cử xảy ra ngoài ý muốn của ủy ban bầu cử? Trời biết, đất biết, nhưng người tự ứng cử không bao giờ biết ngoại trừ một điều là biết mình bị thất cử.
Trong thực tế đã chứng minh, có nhiều hộ không đi bầu, hay đi bầu trễ đến thùng phiếu thì được thông báo là có người bầu thế rồi, vậy những phiếu bầu thế đó bầu cho ai? Đó cũng chính là câu trả lời cho câu hỏi vì sao có kết quả 100% đi bầu và 100% cho ứng cử viên vậy.
Tóm lại khuyến khích người tự ứng cử nhưng lại không mở sinh lộ cho họ bước vào tòa nhà quốc hội, thì chỉ là trò múa rối hay là những tên lót đường để cho cử tri nhắm mắt gạch cho xong chuyện mà thôi.
Qua ba bài viết trên, thiết nghỉ ông Võ Văn Kiệt có thể nhìn lại mình về những lời kêu gọi vừa qua đã thật tâm chưa, và ông đã làm hết khả năng của mình để bảo vệ cái đúng của mình hay chưa? Tôi tin rằng ông và tất cả người đảng viên cọng sản còn tỉnh táo sáng suốt nhận ra đâu là sự thật và đâu là xảo trá, bằng vào khả năng của mỗi người có thể làm hơn thế nữa để cho tầng lớp kế thừa sau chiến tranh có thể xây dựng phát triển đất nước một cách hài hòa trong dân chủ, tự do. Một đất nước Việt Nam không còn hận thù quốc cọng, hận thù dân tộc, và nhất là không còn máu, nước mắt, hận thù giai cấp do quí vị để lại cho tầng lớp con em cọng sản kế thừa. Đó chính là điều mong ước duy nhất muốn đạt được của loạt bài đối thoại công khai và sòng phẳng này vậy.
THIÊN ĐỨC
Quốc Hội Và ‘Quốc Hại’
VI ANH .
Việt Báo Thứ Hai, 5/14/2007, 12:02:00 AM
Quốc Hội là cơ quan dân cử thể hiện quyền làm chủ đất nước của nhân dân. Quốc hội trở thành "Quốc hại" khi Quốc Hội làm chậu kiểng cho nhà cầm quyền, dân biểu làm gia nô cho nhà cầm quyến thống trị người dân. Dưới cái nhìn đó Ô Nguyễn văn Yểu Phó Chủ tịch cái CS Hà nội gọi là Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa VN, đúng là Phó Chủ "tịt" Quốc "hại” với một câu ngu dốt để đời. Một câu mà học trò tiểu học cũng biết trật, "Ở các nước khác có chế độ tranh cử, ở Việt Nam không có tranh cử..."
Một tình cờ đầy ngạc nhiên và thích thú. Nếu tên một người là nhận định hay kỳ vọng thân phụ đối với người con. Thì Ong Yểu, ông Yều, ông Yếu quả thiệt là yếu thiệt, yếu về lịch sử, yếu về thể thức và qui vận hành bầu cử. Bầu cử mà không có tranh cử thì làm sao bầu, bầu cho ai trừ chuyện độc diễn hay chuyện "Đảng cử dân bầu" là quái thai của bầu cử. Ong Yếu lại là Phó Chủ tịch của cơ quan quyền lực nhứt nước mà yếu như vậy thì thật tai hại và vô phúc cho người dân VN.
Vì vậy người dân VN mới tiếu lâm gọi cuộc "đối thoại trực tuyến" trên mạng lưới của Đảng CS, nơi là Ô. Yếu tuyên bố mạnh câu nói trên là "đối thụi trật tuyến". Ô Yếu trả lời cho người đảng viên cao cấp dẫn đường với bản chỉ đường lộn ngược, rằng, bằng một câu xanh dờn: "Ở các nước khác có chế độ tranh cử, ở Việt Nam không có tranh cử..." .
Yếu ơi là yếu. Dốt ơi là dốt. Tai hại ơi là tai hại cho đảng CS. Yếu, dốt về chánh trị lại trúng ngay con người của Đảng lẽ ra phải biết lịch sử ít nhứt là lịch sử cận kim, lịch sử chánh tri, biết thủ tục, biết qui luật vận hành của bầu cử- tranh cử. Thời vương quyền xa xưa ở VN, thời Bắc thuộc VN là thuộc địa, thái thú thay vua Tàu trị dân Việt, chưa có chế độ dân chủ thì không nói chi.Thời Pháp thuộc VN, đã có bầu cử Hội Đồng Quản Hạt rồi. Còn thời VN Cộng Hòa, đệ nhứt cũng như đệ nhị việc bầu cử, tranh cử là vấn đề hiến định, luật định, bầu rất nhiều lần. Từ vị xã trưởng đến tổng thống, dân biểu, nghị sĩ, kể giám sát viên, thẩm phán tối cao pháp viện đều có bầu cử và tranh cử . Tranh cử tơi bời hoa lá, nhà cầm quyền có nơi, có khi cũng lén thọc tay vào, nhưng nhân dân vẫn toàn quyền chọn lựa bằng lá phiếu. Thế mà Ong Yếu lại nói "ở Việt Nam không có tranh cử", nếu không yếu, không dốt thì nói láo, nói ngang, nói ẩu, nói liều, hiếp dâm lịch sử.
Một nhân vật số 2 của Quốc Hội mà còn "cù lần", một đảng viên CS cao cấp mà còn mù tịt về lịch sử và sự vận hành bầu cử, tranh cử như vậy. Nên không có gì quá đáng để người dân tiếu lâm gọi Chủ tịch thành Chủ "tịt" và Quốc Hội thành Quốc "hại". Vì " tịt" và " hại" như vậy nên thay vì đóng vai trò đại diện dân cử ở Quốc hội, "đại biểu đảng cử dân bầu" biến Quốc hội thành bộ máy hợp pháp hóa lịnh của Đảng, biến mình thành gia nô cho Đảng Nhà nước CS Hà nội.
Nhưng nghĩ cho cùng thì cũng tội nghiệp cho những người CS yếu và những "đại biểu đảng cử dân bầu" yếu như Ong Nguyễn văn Yếu. Ô Yếu nói thiệt, "thực thà khai báo"-đúng Quốc Hội CS Hà nội suốt 12 khóa là do "Đảng cử dân bầu" nên không cần tranh cử làm chi cho mệt cũng thành dân biểu. Suốt đời chánh trị của những đảng viên CS, từ khi "phấn đấu" đến khi được "tuyên thệ kết nạp vào Đảng CS", những người này bị CS điều kiện hóa biến việc trung với Đảng, theo Đảng thành phản xạ như thí nghiệm của nhà sinh vật học Nga Palov. Đánh tiếng chuông, chìa miếng thịt bò, nước cương toan bao tử chó thí nghiệm tiết ra. Làm nhiều lần, rồi sau đó đánh chuông mà không chìa miếng thịt, bao tử vẫn tiết ra nước cường toan. CS Hà nội đã "thuần hóa" cán bộ đảng viên như Ô Yếu mấy chục năm rồi, suy nghĩ hành động đảng viên CS trở thành một thứ phản xạ rồi, làm sao Ô Yếu nói khác được.
Con đường CS Hà nội phản xạ hóa và thuần hóa cán bộ đảng viên là con đường rất khó đảo ngược. Thử nghĩ coi, đảng viên bắt đầu con đường chánh trị qua "phấn đấu" từ tuổi trẻ, qua "đào bồi", qua buổi tuyên thệ trong rừng, trong bụi, trong hầm bí mật, hay sau cửa phòng đóng kín cửa, từ một nông phu, lao công i tờ, đào hầm lẹ, "chém vè" nhanh mà lên, thì những người du kích giỏi làm sao trở thành một người người có suy nghĩ độc lập, tự chủ, tiên liệu, lo chuyện quốc gia đại sự giỏi được. Hỏi họ làm sao không trung thành với Đảng là tổ chức có thể đưa họ lên, đem lại quyền lợi, danh giá hay chôn sống họ trở lại với cuộc đời bần cố nông, lao động chân tay. Dân là "con khỉ khô gì", lúc đảng tuyên thệ đâu có dân, chỉ có đảng thôi làm sao họ vì dân, vì nước được.
Nên bắt đại biểu nhân dân trong chế độ CS trở thành đại diện dân cử của dân, vì dân, do dân, do dân chọn lựa bầu ra, thắng cử qua tranh cử để nhân dân chọn lựa là bắt đảng viên CS đi lộn đầu xuống đất, trở cẳng lên trời. Bắt đảng viên CS làm dân biểu đúng nghĩa là đại diện nhân dân, biến Quốc Hội thành cơ quan hành xử quyền lực dân chủ thực sự là buộc họ làm điều ngược với phản xạ, bản năng, bản chất thứ hai của con người bị CS điều kiện hóa và thuần hóa họ là điều không tưởng .
Với những con người bị thuần hóa trung thành với Đảng như phản xạ như vậy, thế mà cái CS Hà nội vẫn chưa chắc ăn với Quốc Hội. CS Hà nội còn dùng biện pháp kỹ thuật nghị trường nữa. Bộ Chánh trị của Đảng CSVN "cơ cấu" Quốc Hội, 90% là người của Đảng CS và 10% là người ngoài Đảng. Đứng trên phương diện thuần túy kỹ thuật mà xét, giả sử 10% ngoài Đảng còn lại không bị Đảng mua chuộc, không bị Đảng cài gia nô vào, thì 10% đó cũng vô tích sự. Giả sử 10% đó đồng hè, nhất tề chống một điều gì của Đảng cũng không ăn thua gì, không bao giờ đủ túc số để ngăn trở, bác bỏ, điều gì Đảng CS muốn Quốc Hội thông qua. Làm sao đạt được các túc số quá bán, 2 phần 3.
Thế cho nên trong cuộc bầu cử Quốc hội CS này, người dân thà ở nhà ngâm Kiều, đọc thơ Lục vân Tiên, hát ru con chơi, còn có lợi hơn. Chớ đi bầu cái Quốc Hội là vô tình biến nó thành Quốc "hại", hại dân, hại nước. Đưa ý kiến với những ứng cử viên hay kêu gào những " đại biểu" đảng cử dân bầu thà nói chuyện với đầu gối còn sướng hơn. Chớ nói với Đại biểu đảng cử dân bầu, coi chừng mấy đảng viên đó "bá cáo" với Đảng thì mang họa lớn, như Mao Trach Đông thanh trừng thên hạ sau khi tung ra phong trào trăm hoa đua nở, bách gia khai phóng.
VI ANH
VI ANH .
Việt Báo Thứ Hai, 5/14/2007, 12:02:00 AM
Quốc Hội là cơ quan dân cử thể hiện quyền làm chủ đất nước của nhân dân. Quốc hội trở thành "Quốc hại" khi Quốc Hội làm chậu kiểng cho nhà cầm quyền, dân biểu làm gia nô cho nhà cầm quyến thống trị người dân. Dưới cái nhìn đó Ô Nguyễn văn Yểu Phó Chủ tịch cái CS Hà nội gọi là Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa VN, đúng là Phó Chủ "tịt" Quốc "hại” với một câu ngu dốt để đời. Một câu mà học trò tiểu học cũng biết trật, "Ở các nước khác có chế độ tranh cử, ở Việt Nam không có tranh cử..."
Một tình cờ đầy ngạc nhiên và thích thú. Nếu tên một người là nhận định hay kỳ vọng thân phụ đối với người con. Thì Ong Yểu, ông Yều, ông Yếu quả thiệt là yếu thiệt, yếu về lịch sử, yếu về thể thức và qui vận hành bầu cử. Bầu cử mà không có tranh cử thì làm sao bầu, bầu cho ai trừ chuyện độc diễn hay chuyện "Đảng cử dân bầu" là quái thai của bầu cử. Ong Yếu lại là Phó Chủ tịch của cơ quan quyền lực nhứt nước mà yếu như vậy thì thật tai hại và vô phúc cho người dân VN.
Vì vậy người dân VN mới tiếu lâm gọi cuộc "đối thoại trực tuyến" trên mạng lưới của Đảng CS, nơi là Ô. Yếu tuyên bố mạnh câu nói trên là "đối thụi trật tuyến". Ô Yếu trả lời cho người đảng viên cao cấp dẫn đường với bản chỉ đường lộn ngược, rằng, bằng một câu xanh dờn: "Ở các nước khác có chế độ tranh cử, ở Việt Nam không có tranh cử..." .
Yếu ơi là yếu. Dốt ơi là dốt. Tai hại ơi là tai hại cho đảng CS. Yếu, dốt về chánh trị lại trúng ngay con người của Đảng lẽ ra phải biết lịch sử ít nhứt là lịch sử cận kim, lịch sử chánh tri, biết thủ tục, biết qui luật vận hành của bầu cử- tranh cử. Thời vương quyền xa xưa ở VN, thời Bắc thuộc VN là thuộc địa, thái thú thay vua Tàu trị dân Việt, chưa có chế độ dân chủ thì không nói chi.Thời Pháp thuộc VN, đã có bầu cử Hội Đồng Quản Hạt rồi. Còn thời VN Cộng Hòa, đệ nhứt cũng như đệ nhị việc bầu cử, tranh cử là vấn đề hiến định, luật định, bầu rất nhiều lần. Từ vị xã trưởng đến tổng thống, dân biểu, nghị sĩ, kể giám sát viên, thẩm phán tối cao pháp viện đều có bầu cử và tranh cử . Tranh cử tơi bời hoa lá, nhà cầm quyền có nơi, có khi cũng lén thọc tay vào, nhưng nhân dân vẫn toàn quyền chọn lựa bằng lá phiếu. Thế mà Ong Yếu lại nói "ở Việt Nam không có tranh cử", nếu không yếu, không dốt thì nói láo, nói ngang, nói ẩu, nói liều, hiếp dâm lịch sử.
Một nhân vật số 2 của Quốc Hội mà còn "cù lần", một đảng viên CS cao cấp mà còn mù tịt về lịch sử và sự vận hành bầu cử, tranh cử như vậy. Nên không có gì quá đáng để người dân tiếu lâm gọi Chủ tịch thành Chủ "tịt" và Quốc Hội thành Quốc "hại". Vì " tịt" và " hại" như vậy nên thay vì đóng vai trò đại diện dân cử ở Quốc hội, "đại biểu đảng cử dân bầu" biến Quốc hội thành bộ máy hợp pháp hóa lịnh của Đảng, biến mình thành gia nô cho Đảng Nhà nước CS Hà nội.
Nhưng nghĩ cho cùng thì cũng tội nghiệp cho những người CS yếu và những "đại biểu đảng cử dân bầu" yếu như Ong Nguyễn văn Yếu. Ô Yếu nói thiệt, "thực thà khai báo"-đúng Quốc Hội CS Hà nội suốt 12 khóa là do "Đảng cử dân bầu" nên không cần tranh cử làm chi cho mệt cũng thành dân biểu. Suốt đời chánh trị của những đảng viên CS, từ khi "phấn đấu" đến khi được "tuyên thệ kết nạp vào Đảng CS", những người này bị CS điều kiện hóa biến việc trung với Đảng, theo Đảng thành phản xạ như thí nghiệm của nhà sinh vật học Nga Palov. Đánh tiếng chuông, chìa miếng thịt bò, nước cương toan bao tử chó thí nghiệm tiết ra. Làm nhiều lần, rồi sau đó đánh chuông mà không chìa miếng thịt, bao tử vẫn tiết ra nước cường toan. CS Hà nội đã "thuần hóa" cán bộ đảng viên như Ô Yếu mấy chục năm rồi, suy nghĩ hành động đảng viên CS trở thành một thứ phản xạ rồi, làm sao Ô Yếu nói khác được.
Con đường CS Hà nội phản xạ hóa và thuần hóa cán bộ đảng viên là con đường rất khó đảo ngược. Thử nghĩ coi, đảng viên bắt đầu con đường chánh trị qua "phấn đấu" từ tuổi trẻ, qua "đào bồi", qua buổi tuyên thệ trong rừng, trong bụi, trong hầm bí mật, hay sau cửa phòng đóng kín cửa, từ một nông phu, lao công i tờ, đào hầm lẹ, "chém vè" nhanh mà lên, thì những người du kích giỏi làm sao trở thành một người người có suy nghĩ độc lập, tự chủ, tiên liệu, lo chuyện quốc gia đại sự giỏi được. Hỏi họ làm sao không trung thành với Đảng là tổ chức có thể đưa họ lên, đem lại quyền lợi, danh giá hay chôn sống họ trở lại với cuộc đời bần cố nông, lao động chân tay. Dân là "con khỉ khô gì", lúc đảng tuyên thệ đâu có dân, chỉ có đảng thôi làm sao họ vì dân, vì nước được.
Nên bắt đại biểu nhân dân trong chế độ CS trở thành đại diện dân cử của dân, vì dân, do dân, do dân chọn lựa bầu ra, thắng cử qua tranh cử để nhân dân chọn lựa là bắt đảng viên CS đi lộn đầu xuống đất, trở cẳng lên trời. Bắt đảng viên CS làm dân biểu đúng nghĩa là đại diện nhân dân, biến Quốc Hội thành cơ quan hành xử quyền lực dân chủ thực sự là buộc họ làm điều ngược với phản xạ, bản năng, bản chất thứ hai của con người bị CS điều kiện hóa và thuần hóa họ là điều không tưởng .
Với những con người bị thuần hóa trung thành với Đảng như phản xạ như vậy, thế mà cái CS Hà nội vẫn chưa chắc ăn với Quốc Hội. CS Hà nội còn dùng biện pháp kỹ thuật nghị trường nữa. Bộ Chánh trị của Đảng CSVN "cơ cấu" Quốc Hội, 90% là người của Đảng CS và 10% là người ngoài Đảng. Đứng trên phương diện thuần túy kỹ thuật mà xét, giả sử 10% ngoài Đảng còn lại không bị Đảng mua chuộc, không bị Đảng cài gia nô vào, thì 10% đó cũng vô tích sự. Giả sử 10% đó đồng hè, nhất tề chống một điều gì của Đảng cũng không ăn thua gì, không bao giờ đủ túc số để ngăn trở, bác bỏ, điều gì Đảng CS muốn Quốc Hội thông qua. Làm sao đạt được các túc số quá bán, 2 phần 3.
Thế cho nên trong cuộc bầu cử Quốc hội CS này, người dân thà ở nhà ngâm Kiều, đọc thơ Lục vân Tiên, hát ru con chơi, còn có lợi hơn. Chớ đi bầu cái Quốc Hội là vô tình biến nó thành Quốc "hại", hại dân, hại nước. Đưa ý kiến với những ứng cử viên hay kêu gào những " đại biểu" đảng cử dân bầu thà nói chuyện với đầu gối còn sướng hơn. Chớ nói với Đại biểu đảng cử dân bầu, coi chừng mấy đảng viên đó "bá cáo" với Đảng thì mang họa lớn, như Mao Trach Đông thanh trừng thên hạ sau khi tung ra phong trào trăm hoa đua nở, bách gia khai phóng.
VI ANH
Nên chăng có một bộ sử ...
Vài lời của người đọc và nghe
Trần Xuân An
Gửi ý kiến đến BBC từ Sài Gòn
Sau khi nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn của BBC với cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt tôi có các ý kiến sau:
Nên chăng có một bộ sử giai đoạn 1930–1945–1954–1975–1989 và các tác phẩm văn học, nghệ thuật phản ánh giai đoạn lịch sử ấy, theo tinh thần cuộc trả lời phỏng vấn của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt?
Như đã tôi đã viết, các nhà văn (nói chung, đúng hơn là các nhà văn học) có bản lĩnh, từ xưa đến nay, tự biết mình phải viết gì, không nhất thiết làm hèn mình đi, như phải dựa dẫm vào ý kiến các nhà lãnh đạo chính trị đương quyền hay đã hưu trí.
Tuy nhiên, ở nước ta, chúng ta cần tham khảo để có thể xuất bản chính thức với dạng sách in giấy và khỏi bị gây phiền nhiễu bằng những cách thức công khai và thủ đoạn không quang minh chính đại của công an.
Thiết tưởng cũng cần nói rõ hơn: Cần phải có văn bản có giá trị pháp lí; chứ lời phát biểu có tính chất “dân vận”, “trí vận”, “đối ngoại”, “xã giao”, “nói vậy nhưng không phải làm vậy”, “hoà giải không phải vì dân tộc, đất nước mà chỉ vì mục đích củng cố chính quyền vững mạnh hơn, tranh thủ cảm tình của thế giới, vô hiệu hoá các phần tử chống đối trong và ngoài nước”, cũng chỉ dành cho quần chúng ngây thơ mà thôi!
Mặt khác, một khi viên chức các cấp chính quyền, toà án có văn bản chủ trương, nghị quyết với nội dung như thế, họ sẽ “yên tâm công tác”.
Nếu có những thế lực đen tối nào (không phải công an chìm, cán bộ có bản chất chuyên chính) gây phiền nhiễu, khủng bố, thì các viên chức thuộc các cấp chính quyền, toà án mới dám bảo vệ công dân – tác giả, mà bản thân họ không sợ bị “mất ghế”.
Nói tóm lại: Phải thấy tận mắt những bộ sử, nhũng tác phẩm văn chương, học thuật, các giáo trình, giáo án, sách giáo khoa theo tinh thần như vậy, và sách phải đi vào đời sống thực sự, chứ lời phát biểu, trả lời phỏng vấn cũng chưa thuyết phục được ai.
Tôi chợt nhớ một câu của Nguyễn Trãi tâu lên hoàng đế nhà Hậu Lê: “Làm sao cho tận thôn cùng xóm vắng, không còn tiếng hờn giận, oán sầu, ấy là gốc của nhạc”. Không có gì chí lí và sâu sắc hơn.
Phản ánh đúng sự thật lịch sử (gồm cả tâm tư các bộ phận nhân dân trong quá trình lịch sử), công bằng trong phân tích, nhận định hiện thực – lịch sử (ai có tội phải ghi tội, ai có công phai ghi công), đó là căn bản của văn học nghệ thuật và sử học cũng như các ngành khoa học xã hội, nhân văn khác.
Nhân dân chỉ hờn giận, oán sầu khi văn chương, khoa học xã hội bị viết lệch, bị cắt xén, bị xuyên tạc phía này, tô hồng phía kia…
Hi vọng những Nguyễn Trãi thời nay có lẽ không bị tru di tam tộc.
Trần Xuân An
15-5 HB7 (2007)
Vài lời của người đọc và nghe
Trần Xuân An
Gửi ý kiến đến BBC từ Sài Gòn
Sau khi nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn của BBC với cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt tôi có các ý kiến sau:
Nên chăng có một bộ sử giai đoạn 1930–1945–1954–1975–1989 và các tác phẩm văn học, nghệ thuật phản ánh giai đoạn lịch sử ấy, theo tinh thần cuộc trả lời phỏng vấn của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt?
Như đã tôi đã viết, các nhà văn (nói chung, đúng hơn là các nhà văn học) có bản lĩnh, từ xưa đến nay, tự biết mình phải viết gì, không nhất thiết làm hèn mình đi, như phải dựa dẫm vào ý kiến các nhà lãnh đạo chính trị đương quyền hay đã hưu trí.
Tuy nhiên, ở nước ta, chúng ta cần tham khảo để có thể xuất bản chính thức với dạng sách in giấy và khỏi bị gây phiền nhiễu bằng những cách thức công khai và thủ đoạn không quang minh chính đại của công an.
Thiết tưởng cũng cần nói rõ hơn: Cần phải có văn bản có giá trị pháp lí; chứ lời phát biểu có tính chất “dân vận”, “trí vận”, “đối ngoại”, “xã giao”, “nói vậy nhưng không phải làm vậy”, “hoà giải không phải vì dân tộc, đất nước mà chỉ vì mục đích củng cố chính quyền vững mạnh hơn, tranh thủ cảm tình của thế giới, vô hiệu hoá các phần tử chống đối trong và ngoài nước”, cũng chỉ dành cho quần chúng ngây thơ mà thôi!
Mặt khác, một khi viên chức các cấp chính quyền, toà án có văn bản chủ trương, nghị quyết với nội dung như thế, họ sẽ “yên tâm công tác”.
Nếu có những thế lực đen tối nào (không phải công an chìm, cán bộ có bản chất chuyên chính) gây phiền nhiễu, khủng bố, thì các viên chức thuộc các cấp chính quyền, toà án mới dám bảo vệ công dân – tác giả, mà bản thân họ không sợ bị “mất ghế”.
Nói tóm lại: Phải thấy tận mắt những bộ sử, nhũng tác phẩm văn chương, học thuật, các giáo trình, giáo án, sách giáo khoa theo tinh thần như vậy, và sách phải đi vào đời sống thực sự, chứ lời phát biểu, trả lời phỏng vấn cũng chưa thuyết phục được ai.
Tôi chợt nhớ một câu của Nguyễn Trãi tâu lên hoàng đế nhà Hậu Lê: “Làm sao cho tận thôn cùng xóm vắng, không còn tiếng hờn giận, oán sầu, ấy là gốc của nhạc”. Không có gì chí lí và sâu sắc hơn.
Phản ánh đúng sự thật lịch sử (gồm cả tâm tư các bộ phận nhân dân trong quá trình lịch sử), công bằng trong phân tích, nhận định hiện thực – lịch sử (ai có tội phải ghi tội, ai có công phai ghi công), đó là căn bản của văn học nghệ thuật và sử học cũng như các ngành khoa học xã hội, nhân văn khác.
Nhân dân chỉ hờn giận, oán sầu khi văn chương, khoa học xã hội bị viết lệch, bị cắt xén, bị xuyên tạc phía này, tô hồng phía kia…
Hi vọng những Nguyễn Trãi thời nay có lẽ không bị tru di tam tộc.
Trần Xuân An
15-5 HB7 (2007)
BẢN LÊN TIẾNG
của Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ
về Trung Cộng bắn giết ngư dân Việt tại Trường Sa
Nguyễn văn Canh
20 tháng 7, 07
Bản tin của BBC phát thanh ngày 20 tháng 7 năm 2006 cho biết ngày 9 tháng 7 năm 2007, tàu Hải quân Trung Cộng (TC) bắn vào thuyền đánh cá của ngư dân Việt làm một ngươi bị giết và nhiều người bị thương, một thuyền bị đánh chìm. Nơi xảy ra tai nạn nằm cách xa bờ biển Việt nam là 300 cây số. Đây là lần thứ hai TC bắn vào thuyền đánh cá của ngư dân Việt trong vòng 3 tháng qua. Lần trước xảy ra trước khi Nguyễn minh Triết đi Trung cộng hồi tháng 5 .
Từ năm ngoái đến đầu năm nay, TC hoạt động mạnh hơn tại vùng này. Tàu TC đuổi ngư thuyền Việt về VN. Tàu quân sự và ngư thuyền VN luôn phải đương đầu với đe dọa đó.
Carl Thayer, một chuyên gia Quốc Phòng của Úc tại Camberra nói rằng “VC không lên tiếng nói rõ việc TC giết ngư dân không phải là cách hành sử hợp lý. Đáng lẽ TC chỉ bắt giữ ngư dân Việt, nếu họ xâm phạm lãnh thổ, sau đó đưa họ ra xét xử, rồi phạt tiền mà thôi. Cả 2 nước phải chỉ thị cho tàu của mình tránh dùng võ lực gây chết người như trong trường hợp này.”
“Đây là những chỉ dấu cho thấy có những lo ngại về xâm lăng, nên Tập đoàn BP của Anh cách đây vài tháng đã bỏ đi không tìm dò dầu hỏa ở một khu vực nằm về phía Nam Côn sơn vì TC phản đối.”
Thayer còn thêm “hai bên đồng ý không gây ra tranh chấp để làm xáo trộn tình trạng hiện nay, dù cho đó là thỏa thuận “mơ hồ”.Và 2 hai bên phải tìm cách giảm bớt sự mơ hồ khó hiểu này.
Để chống lại âm mưu xâm lăng của TC, VC có mua tàu chiến cơ động để có thể xuất hiện ở khắp mọi nơi. Với biến cố 9 tháng 7 vừa qua, tàu chiến của VC đã có mặt tại nơi xảy ra vụ giết người này. Nhưng tẩu của VC chỉ đứng ở xa, vì hỏa lực của tàu TC mạnh hơn nhiều.”
Với biến cố này xảy ra từ ngày 9 tháng 7 cho đến nay đã hơn 10 ngày VC giữ thái độ im lặng, không phản ứng, kể cả việc làm tối thiểu là lên tiếng bảo vệ công dân và lãnh thổ VN. VC không dám lên tiếng công khai, giữ bí mật những vi phạm của Trung cộng lần trước, có lẽ là để Nguyễn minh Triết đi TC cho được êm đẹp. VC không dám áp dụng một biện pháp nào bảo vệ công dân của mình trước sự xâm lăng ngang nhiên bắn giết họ của ngoại bang trong lãnh hài của VN. Việc này xảy ra không khác gì biến cố vào ngày 8 tháng 1 năm 2005, tàu hải quân của TC ngang nhiên xâm nhập vào phần lãnh hải của VN bắn giết ngư dân trong vùng Vịnh Bắc Việt, và còn đuổi theo một thuyền đánh cá của một ngư dân Thanh Hóa vào tận bờ biển, rồi mới rút lui. Một biến cố trọng đại như vậy, VC chỉ lên tiếng yếu ớt cho xong chuyện.
Với kế hoạch “gọi là hợp tác” tìm dò và khai thác dầu khí chung giữa VC và TC được hai bên tiết lộ từ tháng 12, 2005, và Nông đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng CSVN đi Bắc Kinh vào năm 2006 đả tuyên bố công khai sự hợp tác này, và Nguyễn tấn Dũng, thủ tướng VC vào đầu năm 2007 đả loan báo công ti dầu hỏa của 2 quốc gia bắt đầu hoạt động trong biển Đông là bằng cớ khác VC nhượng chủ quyền về Biển Đông cho ngoại bang.
Rồi, TC mới đây phản đối việc BP đặt ống dẫn khí đốt từ hai mỏ ở phía Nam Côn sơn là Hải Thạch hay lô 05.2 và Mộc Tinh hay lô 05.3 vào đất liền với trị giá 2 tỉ MK, với đường ống này dài 400km, và BP hợp tác với Việtpetro đã lấy được khí đốt từ năm 2002. Sụ phản đối này được TC viện dẫn rằng VC đã vi phạm “nhận thức chung” về thẩm quyền của TC trên Trường Sa. Sự thỏa thuận này của VC là những chỉ dấu khác cho thấy rằng VC âm thầm sang nhương chủ quyền trên khu vực tài sản này của quốc dân VN.
Vì có tranh chấp chủ quyền với TC trên quần đảo Trường Sa, vì sự đe dọa của TC, ngày 14 tháng 6, 07 vừa qua, David Nicholas của BP nói rằng Công ti này đã từ bỏ dự án tìm dò dầu khí tại một khu phía Nam Trường sa, đó là lô 52, để cho các nước có liên quan đến tranh chấp có cơ hội giải quyết vấn đề. Lô 52 này cách bờ bể VN 370 cây số.
Carl Thayer có nói đến thỏa thuận mơ hồ, nghĩa là thỏa thuận mà TC nêu ra bằng danh từ “nhận thức chung” mà 2 bên đã bí mật thoả thuận với nhau, nhưng không tiện công bố chính thức về sự chuyển nhượng này.
Trước sự in lặng của lãnh đạo VC về biến cố giết người này cũng như dùng các biện pháp uy hiếp của TC trong vùng Trường Sa kể trên, Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ (UB) trân trọng lên tiếng:
1. Đối với TC, UB một lần nữa xác nhận chủ quyền của VN trên Biển Đông, gồm cà các quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2. Đối với VC, UB đòi hỏi VC phải:
a) Chấm dứt các hành vi lén lút tiếp tục sang nhượng đất đai của tổ tiên cho ngoại bang để đổi lại nhận được hỗ trợ tiếp tục nắm giữ quyền hành. Như vậy VC tiếp tục trở thành Thừa Sai của TC ngay trên quê hương của mình, để phục vụ quyền lợi của TC.
b) Có trách nhiệm đòi lại tất cả những phần đất, vịnh và biển đã công khai hay bí mật chuyển nhượng cho TC từ thời họ Hồ thực hiện đến nay và phải bảo vệ công dân của mình chống lại sự bắn giết của ngoại bang trên lãnh hải của mình.
Đảng CSVN tìm cách giữ độc quyền lãnh đạo đât nước. Vì âm mưu trên, Đảng này ngay từ thời 1945 đã âm thẩm thủ tiêu các lãnh tụ quốc gia. Đến nay, Đảng này vẫn tiếp tục con đường ấy, không phải là để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của đế quốc thực dân, để mang lại độc lâp cho xứ sở, làm cho dân tộc Việt được ấm no, hạnh phúc. Trái lại, CSVN đã mang một loại thực dân đế quốc mới vào dày xéo quê hương. Đế quốc mới này bóc lột, khai thác dân tộc một các khoa hoc và Đảng này rõ rệt trở thành tay sai trung thành của ngoại bang, dâng hiến đất đai của tổ tiên cho chúng. Đảng ấy còn tiêu hủy tiềm lực của quốc gia dân tộc. Vì thế mà sức đề kháng chống đế quốc ngoại bang mới này không còn nữa, và để cho ngoai bang ngang nhiên bắn giết đồng bào trước mắt của chúng, trong khi đó chúng chỉ đứng nhìn. Đồng thời, chúng tìm mọi thủ đoạn đàn áp dân chúng như biện pháp ngăn chặn, và giải tán hơn 500 đồng bào từ 19 tỉnh thành và địa diểm khắp nơi đến Sài gòn biểu tình ôn hòa, đòi lại nhà cửa đất cát hay đòi đền bồi xứng đáng đất đai mà Đảng này đã công khai cướp đoạt trước đây. Chúng dùng một lực lượng công an gồm gần 2,000 người có cả xe thiết giáp, áp dụng bạo lực vào đêm tối ngày 18 tháng 7 vừa qua tại Sài gòn để giải tán, tránh sự quan sát của quốc tế.
Đảng CS VN phải chịu trách nhiệm đứng ra đòi lại lãnh thổ, lãnh hãi mà chúng đã ký các hiệp ước nhượng đất bất bình đẳng.
Những kẻ dính líu vào việc chuyển nhượng này sẽ phải chịu trách nhiệm đối với dân tộc./.
KV xin chân thành cám ơn chú Canh - đã phổ biến gửi cho bài này . Đa tạ KV
của Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ
về Trung Cộng bắn giết ngư dân Việt tại Trường Sa
Nguyễn văn Canh
20 tháng 7, 07
Bản tin của BBC phát thanh ngày 20 tháng 7 năm 2006 cho biết ngày 9 tháng 7 năm 2007, tàu Hải quân Trung Cộng (TC) bắn vào thuyền đánh cá của ngư dân Việt làm một ngươi bị giết và nhiều người bị thương, một thuyền bị đánh chìm. Nơi xảy ra tai nạn nằm cách xa bờ biển Việt nam là 300 cây số. Đây là lần thứ hai TC bắn vào thuyền đánh cá của ngư dân Việt trong vòng 3 tháng qua. Lần trước xảy ra trước khi Nguyễn minh Triết đi Trung cộng hồi tháng 5 .
Từ năm ngoái đến đầu năm nay, TC hoạt động mạnh hơn tại vùng này. Tàu TC đuổi ngư thuyền Việt về VN. Tàu quân sự và ngư thuyền VN luôn phải đương đầu với đe dọa đó.
Carl Thayer, một chuyên gia Quốc Phòng của Úc tại Camberra nói rằng “VC không lên tiếng nói rõ việc TC giết ngư dân không phải là cách hành sử hợp lý. Đáng lẽ TC chỉ bắt giữ ngư dân Việt, nếu họ xâm phạm lãnh thổ, sau đó đưa họ ra xét xử, rồi phạt tiền mà thôi. Cả 2 nước phải chỉ thị cho tàu của mình tránh dùng võ lực gây chết người như trong trường hợp này.”
“Đây là những chỉ dấu cho thấy có những lo ngại về xâm lăng, nên Tập đoàn BP của Anh cách đây vài tháng đã bỏ đi không tìm dò dầu hỏa ở một khu vực nằm về phía Nam Côn sơn vì TC phản đối.”
Thayer còn thêm “hai bên đồng ý không gây ra tranh chấp để làm xáo trộn tình trạng hiện nay, dù cho đó là thỏa thuận “mơ hồ”.Và 2 hai bên phải tìm cách giảm bớt sự mơ hồ khó hiểu này.
Để chống lại âm mưu xâm lăng của TC, VC có mua tàu chiến cơ động để có thể xuất hiện ở khắp mọi nơi. Với biến cố 9 tháng 7 vừa qua, tàu chiến của VC đã có mặt tại nơi xảy ra vụ giết người này. Nhưng tẩu của VC chỉ đứng ở xa, vì hỏa lực của tàu TC mạnh hơn nhiều.”
Với biến cố này xảy ra từ ngày 9 tháng 7 cho đến nay đã hơn 10 ngày VC giữ thái độ im lặng, không phản ứng, kể cả việc làm tối thiểu là lên tiếng bảo vệ công dân và lãnh thổ VN. VC không dám lên tiếng công khai, giữ bí mật những vi phạm của Trung cộng lần trước, có lẽ là để Nguyễn minh Triết đi TC cho được êm đẹp. VC không dám áp dụng một biện pháp nào bảo vệ công dân của mình trước sự xâm lăng ngang nhiên bắn giết họ của ngoại bang trong lãnh hài của VN. Việc này xảy ra không khác gì biến cố vào ngày 8 tháng 1 năm 2005, tàu hải quân của TC ngang nhiên xâm nhập vào phần lãnh hải của VN bắn giết ngư dân trong vùng Vịnh Bắc Việt, và còn đuổi theo một thuyền đánh cá của một ngư dân Thanh Hóa vào tận bờ biển, rồi mới rút lui. Một biến cố trọng đại như vậy, VC chỉ lên tiếng yếu ớt cho xong chuyện.
Với kế hoạch “gọi là hợp tác” tìm dò và khai thác dầu khí chung giữa VC và TC được hai bên tiết lộ từ tháng 12, 2005, và Nông đức Mạnh, Tổng bí thư Đảng CSVN đi Bắc Kinh vào năm 2006 đả tuyên bố công khai sự hợp tác này, và Nguyễn tấn Dũng, thủ tướng VC vào đầu năm 2007 đả loan báo công ti dầu hỏa của 2 quốc gia bắt đầu hoạt động trong biển Đông là bằng cớ khác VC nhượng chủ quyền về Biển Đông cho ngoại bang.
Rồi, TC mới đây phản đối việc BP đặt ống dẫn khí đốt từ hai mỏ ở phía Nam Côn sơn là Hải Thạch hay lô 05.2 và Mộc Tinh hay lô 05.3 vào đất liền với trị giá 2 tỉ MK, với đường ống này dài 400km, và BP hợp tác với Việtpetro đã lấy được khí đốt từ năm 2002. Sụ phản đối này được TC viện dẫn rằng VC đã vi phạm “nhận thức chung” về thẩm quyền của TC trên Trường Sa. Sự thỏa thuận này của VC là những chỉ dấu khác cho thấy rằng VC âm thầm sang nhương chủ quyền trên khu vực tài sản này của quốc dân VN.
Vì có tranh chấp chủ quyền với TC trên quần đảo Trường Sa, vì sự đe dọa của TC, ngày 14 tháng 6, 07 vừa qua, David Nicholas của BP nói rằng Công ti này đã từ bỏ dự án tìm dò dầu khí tại một khu phía Nam Trường sa, đó là lô 52, để cho các nước có liên quan đến tranh chấp có cơ hội giải quyết vấn đề. Lô 52 này cách bờ bể VN 370 cây số.
Carl Thayer có nói đến thỏa thuận mơ hồ, nghĩa là thỏa thuận mà TC nêu ra bằng danh từ “nhận thức chung” mà 2 bên đã bí mật thoả thuận với nhau, nhưng không tiện công bố chính thức về sự chuyển nhượng này.
Trước sự in lặng của lãnh đạo VC về biến cố giết người này cũng như dùng các biện pháp uy hiếp của TC trong vùng Trường Sa kể trên, Ủy Ban Bảo Vệ Sự Vẹn Toàn Lãnh Thổ (UB) trân trọng lên tiếng:
1. Đối với TC, UB một lần nữa xác nhận chủ quyền của VN trên Biển Đông, gồm cà các quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
2. Đối với VC, UB đòi hỏi VC phải:
a) Chấm dứt các hành vi lén lút tiếp tục sang nhượng đất đai của tổ tiên cho ngoại bang để đổi lại nhận được hỗ trợ tiếp tục nắm giữ quyền hành. Như vậy VC tiếp tục trở thành Thừa Sai của TC ngay trên quê hương của mình, để phục vụ quyền lợi của TC.
b) Có trách nhiệm đòi lại tất cả những phần đất, vịnh và biển đã công khai hay bí mật chuyển nhượng cho TC từ thời họ Hồ thực hiện đến nay và phải bảo vệ công dân của mình chống lại sự bắn giết của ngoại bang trên lãnh hải của mình.
Đảng CSVN tìm cách giữ độc quyền lãnh đạo đât nước. Vì âm mưu trên, Đảng này ngay từ thời 1945 đã âm thẩm thủ tiêu các lãnh tụ quốc gia. Đến nay, Đảng này vẫn tiếp tục con đường ấy, không phải là để giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ của đế quốc thực dân, để mang lại độc lâp cho xứ sở, làm cho dân tộc Việt được ấm no, hạnh phúc. Trái lại, CSVN đã mang một loại thực dân đế quốc mới vào dày xéo quê hương. Đế quốc mới này bóc lột, khai thác dân tộc một các khoa hoc và Đảng này rõ rệt trở thành tay sai trung thành của ngoại bang, dâng hiến đất đai của tổ tiên cho chúng. Đảng ấy còn tiêu hủy tiềm lực của quốc gia dân tộc. Vì thế mà sức đề kháng chống đế quốc ngoại bang mới này không còn nữa, và để cho ngoai bang ngang nhiên bắn giết đồng bào trước mắt của chúng, trong khi đó chúng chỉ đứng nhìn. Đồng thời, chúng tìm mọi thủ đoạn đàn áp dân chúng như biện pháp ngăn chặn, và giải tán hơn 500 đồng bào từ 19 tỉnh thành và địa diểm khắp nơi đến Sài gòn biểu tình ôn hòa, đòi lại nhà cửa đất cát hay đòi đền bồi xứng đáng đất đai mà Đảng này đã công khai cướp đoạt trước đây. Chúng dùng một lực lượng công an gồm gần 2,000 người có cả xe thiết giáp, áp dụng bạo lực vào đêm tối ngày 18 tháng 7 vừa qua tại Sài gòn để giải tán, tránh sự quan sát của quốc tế.
Đảng CS VN phải chịu trách nhiệm đứng ra đòi lại lãnh thổ, lãnh hãi mà chúng đã ký các hiệp ước nhượng đất bất bình đẳng.
Những kẻ dính líu vào việc chuyển nhượng này sẽ phải chịu trách nhiệm đối với dân tộc./.
KV xin chân thành cám ơn chú Canh - đã phổ biến gửi cho bài này . Đa tạ KV
Small Alta. town at heart of international flag dispute
Jamie Komarnicki, CanWest News Service
Published: Tuesday, July 24, 2007
SUNDRE, Alta. -- This small town may find itself in the middle of a big diplomatic tussle, now that its town council has decided to defy the Vietnamese government and bring back a South Vietnamese flag which flew in the community for 23 years.
Calling it the "right thing to do," Sundre Mayor Roy Cummings said Tuesday town council supports hoisting the yellow and red-striped flag of the pre-communist South Vietnam, despite an earlier decision to remove it from a collection of international flags flown in the town.
"When I think about what those flags mean, what those flags mean to people -- it has got nothing to do with whether it's from a recognized country now. It's what those people believed in," Cumming said Tuesday following an earlier meeting discussing the issue.
"If we believe that the flag should be flown -- in our hearts and our minds -- there's nobody that's going to force us to change our mind. I don't care who it is."
But officials with the Embassy of the Socialist Republic of Vietnam say their official red flag with a yellow star is the only one to represent their country since South Vietnam fell in 1975.
The embassy has threatened to send a diplomatic letter of complaint to the Department of Foreign Affairs and International Trade if the flag flies in Sundre, about 130 kilometres northwest of Calgary.
Embassy spokesman Vinh Le said he is awaiting direction from the ambassador before deciding what action to take.
The decision still isn't official; Sundre's seven council members will vote on the issue Aug. 6.
But after hearing from a delegation of local Vietnamese-Canadians who fled Vietnam before the Communist takeover, Cummings is expecting support for the decision to fly the flag.
He pointed out the flag has been flapping in the small town since 1984 without any problems.
The topic first arose when a private individual complained the flag defied protocol since it wasn't official, and the town decided to take it down.
Since then, Cummings said council has been convinced by a group of Vietnamese-Canadians of the flag's historical and emotional significance.
"It's a symbol of peace of democracy for the people of Vietnam," said Calgarian Nam Tran, who was involved in putting the flag up.
"That's why it's so important to us."
A Foreign Affairs spokeswoman said it's too early to speculate on whether the Canadian government would step in should a diplomatic situation arise.
"We cannot speculate on any situation until we are fully informed," said Catherine Gagnaire.
Calgary Herald
[left]http://www.theshorthorn.com/new/archive ... 06/n03.jpg[/left] [left]http://www.dallasnews.com/sharedcontent ... DCOA.1.jpg[/left]
Published: Tuesday, July 24, 2007
SUNDRE, Alta. -- This small town may find itself in the middle of a big diplomatic tussle, now that its town council has decided to defy the Vietnamese government and bring back a South Vietnamese flag which flew in the community for 23 years.
Calling it the "right thing to do," Sundre Mayor Roy Cummings said Tuesday town council supports hoisting the yellow and red-striped flag of the pre-communist South Vietnam, despite an earlier decision to remove it from a collection of international flags flown in the town.
"When I think about what those flags mean, what those flags mean to people -- it has got nothing to do with whether it's from a recognized country now. It's what those people believed in," Cumming said Tuesday following an earlier meeting discussing the issue.
"If we believe that the flag should be flown -- in our hearts and our minds -- there's nobody that's going to force us to change our mind. I don't care who it is."
But officials with the Embassy of the Socialist Republic of Vietnam say their official red flag with a yellow star is the only one to represent their country since South Vietnam fell in 1975.
The embassy has threatened to send a diplomatic letter of complaint to the Department of Foreign Affairs and International Trade if the flag flies in Sundre, about 130 kilometres northwest of Calgary.
Embassy spokesman Vinh Le said he is awaiting direction from the ambassador before deciding what action to take.
The decision still isn't official; Sundre's seven council members will vote on the issue Aug. 6.
But after hearing from a delegation of local Vietnamese-Canadians who fled Vietnam before the Communist takeover, Cummings is expecting support for the decision to fly the flag.
He pointed out the flag has been flapping in the small town since 1984 without any problems.
The topic first arose when a private individual complained the flag defied protocol since it wasn't official, and the town decided to take it down.
Since then, Cummings said council has been convinced by a group of Vietnamese-Canadians of the flag's historical and emotional significance.
"It's a symbol of peace of democracy for the people of Vietnam," said Calgarian Nam Tran, who was involved in putting the flag up.
"That's why it's so important to us."
A Foreign Affairs spokeswoman said it's too early to speculate on whether the Canadian government would step in should a diplomatic situation arise.
"We cannot speculate on any situation until we are fully informed," said Catherine Gagnaire.
Calgary Herald
[left]http://www.theshorthorn.com/new/archive ... 06/n03.jpg[/left] [left]http://www.dallasnews.com/sharedcontent ... DCOA.1.jpg[/left]
ĐỪNG LỢI DỤNG QUYỀN TỰ DO NGÔN LUẬN
Ông Giáo sư viết sách nói rằng vụ khủng bố 911 xãy tới cho nước Mỹ là phải thôi, vì đó là hậu quả đáng phải nhận lãnh do chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với thế giới trong nhiều năm qua, ông còn khen ngợi những tên khủng bố đã giết hơn 3,000 thường dân Mỹ trong vụ 911 là những con người can đảm.
Ban Giám đốc trường đại học nơi ông làm việc bèn họp lại, bỏ phiếu, rồi tống cổ ông ra khỏi trường, lên án ông có âm mưu nhiều lần hoàn thành những nghiên cứu sai trái. Ông Giáo sư nói rằng đây là “trò chơi mới” của Ban Giám đốc đại học, còn vị Luật sư của ông thì tuyên bố sẽ kiện Ban Giám đốc đại học tới bến luôn.
Nhưng phía nhà trường vẫn không lùi bước, không chịu rút lại quyết định đuổi việc đối với ông Giáo sư.
Tôi chưa thấy báo Mỹ nào viết bênh vực quyền tự do ngôn luận của ông Giáo sư cả, mặc dù tin ông bị đuổi việc đã được nhiều hãng tin lớn Hoa Kỳ loan tải.
Ông Giáo sư đã viết những điều sằng bậy. Người quân nhân thứ thiệt của bất cứ quốc gia nào cũng đều được huấn luyện rằng vũ khí chỉ được xữ dụng đối với những người có trang bị vũ khí, chớ vũ khí không thể dùng để sát hại thường dân. Nếu chính sách của Hoa Kỳ không đúng, cần phải xữ dụng vũ khí để đối đầu, thì sự đối đầu bằng bạo lực đó phải nhằm vào quân đội Mỹ, chớ không phải là thường dân như vụ khủng bố 911. Những tên khủng bố vụ 911 không phải là những con người can đảm, mà đó là những kẻ sát nhân hèn mạt nhất.
Ông Giáo sư có tên là Ward Churchill, viện đại học đuổi ông là University of Colorado.
Trong cuộc chiến Việt Nam, đã từng có vụ sát hại thường dân và những quân nhân – công chức không vũ khí hồi Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Vụ giết người tập thể, với những mồ chôn tập thể kinh hồn, là một vết nhơ của đảng Cộng Sản Việt Nam mà dân chúng Huế, dân chúng toàn quốc, và lịch sử nước Việt sẽ không bao giờ quên.
Tờ Việt Weekly phát hành tại Nam California đã đăng bài của Hà Văn Thùy, một bài ca ngợi cả vụ Tết Mậu Thân ở Việt Nam và vụ 911 ở Hoa Kỳ. Bài này làm tràn ly nước phẩn nộ đã quá đầy từ cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở Little Saigon. Là một người cầm viết, tôi thật sự mắc cở khi thấy một vài cây viết có tuổi nghề đã dùng kỹ thuật viết lách xảo trá nhằm bênh vực cho tờ này. Là một người cầm viết, tôi phải luôn luôn tranh đấu và bảo vệ quyền tự do ngôn luận, nhưng, nếu dùng quyền này để ca ngợi – xúi giục những cuộc tàn sát tập thể thường dân vô tội, thì không có tôi, vì tôi không thể làm đồng lỏa với những kẻ sát nhân hèn mạt.
Giới truyền thông trên toàn thế giới đâu có ít lần lên tiếng kết án chính sách của Hoa Kỳ, nhưng không cơ sở truyền thông đúng nghĩa nào đã ca ngợi bọn khủng bố như ông Giáo sư Ward Churchill và tờ báo Việt Weekly.
Việc University of Colorado đuổi ông Giáo sư Ward Churchill, và người Việt tỵ nạn Cộng Sản biểu tình phản đối tờ Việt Weekly, không phải là hành động không tôn trọng quyền tự do ngôn luận, mà chính là hành động không chấp nhận bọn đồng lỏa với khủng bố, những kẻ sát nhân hèn mạt.
Vì thế Ban Giám đốc University of Colorado đuổi cổ Giáo sư Ward Churchill và những đoàn biểu tình Việt tỵ nạn Cộng Sản tẩy chay tờ Việt Weekly rất đáng được ca ngợi và hỗ trợ.
ĐỖ SƠN
Ông Giáo sư viết sách nói rằng vụ khủng bố 911 xãy tới cho nước Mỹ là phải thôi, vì đó là hậu quả đáng phải nhận lãnh do chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với thế giới trong nhiều năm qua, ông còn khen ngợi những tên khủng bố đã giết hơn 3,000 thường dân Mỹ trong vụ 911 là những con người can đảm.
Ban Giám đốc trường đại học nơi ông làm việc bèn họp lại, bỏ phiếu, rồi tống cổ ông ra khỏi trường, lên án ông có âm mưu nhiều lần hoàn thành những nghiên cứu sai trái. Ông Giáo sư nói rằng đây là “trò chơi mới” của Ban Giám đốc đại học, còn vị Luật sư của ông thì tuyên bố sẽ kiện Ban Giám đốc đại học tới bến luôn.
Nhưng phía nhà trường vẫn không lùi bước, không chịu rút lại quyết định đuổi việc đối với ông Giáo sư.
Tôi chưa thấy báo Mỹ nào viết bênh vực quyền tự do ngôn luận của ông Giáo sư cả, mặc dù tin ông bị đuổi việc đã được nhiều hãng tin lớn Hoa Kỳ loan tải.
Ông Giáo sư đã viết những điều sằng bậy. Người quân nhân thứ thiệt của bất cứ quốc gia nào cũng đều được huấn luyện rằng vũ khí chỉ được xữ dụng đối với những người có trang bị vũ khí, chớ vũ khí không thể dùng để sát hại thường dân. Nếu chính sách của Hoa Kỳ không đúng, cần phải xữ dụng vũ khí để đối đầu, thì sự đối đầu bằng bạo lực đó phải nhằm vào quân đội Mỹ, chớ không phải là thường dân như vụ khủng bố 911. Những tên khủng bố vụ 911 không phải là những con người can đảm, mà đó là những kẻ sát nhân hèn mạt nhất.
Ông Giáo sư có tên là Ward Churchill, viện đại học đuổi ông là University of Colorado.
Trong cuộc chiến Việt Nam, đã từng có vụ sát hại thường dân và những quân nhân – công chức không vũ khí hồi Tết Mậu Thân 1968 tại Huế. Vụ giết người tập thể, với những mồ chôn tập thể kinh hồn, là một vết nhơ của đảng Cộng Sản Việt Nam mà dân chúng Huế, dân chúng toàn quốc, và lịch sử nước Việt sẽ không bao giờ quên.
Tờ Việt Weekly phát hành tại Nam California đã đăng bài của Hà Văn Thùy, một bài ca ngợi cả vụ Tết Mậu Thân ở Việt Nam và vụ 911 ở Hoa Kỳ. Bài này làm tràn ly nước phẩn nộ đã quá đầy từ cộng đồng người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở Little Saigon. Là một người cầm viết, tôi thật sự mắc cở khi thấy một vài cây viết có tuổi nghề đã dùng kỹ thuật viết lách xảo trá nhằm bênh vực cho tờ này. Là một người cầm viết, tôi phải luôn luôn tranh đấu và bảo vệ quyền tự do ngôn luận, nhưng, nếu dùng quyền này để ca ngợi – xúi giục những cuộc tàn sát tập thể thường dân vô tội, thì không có tôi, vì tôi không thể làm đồng lỏa với những kẻ sát nhân hèn mạt.
Giới truyền thông trên toàn thế giới đâu có ít lần lên tiếng kết án chính sách của Hoa Kỳ, nhưng không cơ sở truyền thông đúng nghĩa nào đã ca ngợi bọn khủng bố như ông Giáo sư Ward Churchill và tờ báo Việt Weekly.
Việc University of Colorado đuổi ông Giáo sư Ward Churchill, và người Việt tỵ nạn Cộng Sản biểu tình phản đối tờ Việt Weekly, không phải là hành động không tôn trọng quyền tự do ngôn luận, mà chính là hành động không chấp nhận bọn đồng lỏa với khủng bố, những kẻ sát nhân hèn mạt.
Vì thế Ban Giám đốc University of Colorado đuổi cổ Giáo sư Ward Churchill và những đoàn biểu tình Việt tỵ nạn Cộng Sản tẩy chay tờ Việt Weekly rất đáng được ca ngợi và hỗ trợ.
ĐỖ SƠN

MỘT HÌNH THÁI VĂN HÓA VẬN TINH VI.
TRƯƠNG MINH HÒA.
vietnamexodus
Sau năm 1975, những thứ không thể lưu hành và phát triển tại các cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại là:cờ đỏ sao vàng, đoàn văn công, đài phát thanh, báo thân Cộng.....dĩ nhiên là thành phần gián điệp nằm vùng, đón gió trở cờ cũng trở thành kẻ thù của những người bỏ nước tìm tự do; những thành phần nầy không bao giờ dám xuất đầu lộ diện, dù những hành vi của họ có khi làm lợi cho Cộng Sản, những miệng vẫn biện minh là người quốc gia, vẫn đứng dưới là quốc kỳ màu vàng.... Tuy nhiên, vải thưa không che mắt thánh, nên trong tập thể tỵ nạn có câu" ăn cơm tự do đội mo Cộng Sản" để dành cho họ. Cây kim dấu trong bọc vải lâu ngày cũng phải lòi ra.
Văn công được coi là mặt mạnh của đảng Cộng Sản trong mặt trận văn hóa vận, công khai xuất đầu lộ diện trong" trận địa chiến" chẳng khác nào các sư đoàn chánh qui Bắc Việt xâm nhập theo đường mòn Hồ Chí Minh, mở trận chiến tại lãnh thổ miền nam trước ngày 30 tháng 4 nam 1975; thì nay Văn Công xâm nhập theo" đường mòn ngoại giao" với các quốc gia có mặt người tỵ nạn, lợi dụng tình trạng bang giao các nước mà mở các trận tấn công vào các cộng đồng hải ngoại, và những người đứng ra tổ chức được coi là" lực lượng Giao Liên" nằm vùng, che dấu qua chiêu bài" thương mại, làm văn nghệ văn hóa phi chánh trị"... Tuy nhiên, nhờ có quá nhiều kinh nghiệm với Cộng Sản nên các đơn vị văn công đủ dạng" chánh qui, chủ lực" của Bắc Bộ Phủ tung ra như Múa Rối, ca nhạc, thời trang....dưới nhiều tên gọi hấp dẫn, nào là" Tình Ca Olympic 2000" đến" duyên dáng Việt Nam", có khi dùng cả những đầu cầu giao liên hải ngoại để lấy cớ tổ chức văn công như vụ Trịnh Hội và Nguyễn Cao kỳ Duyên vừa qua tại Úc Châu. Một điều cần lưu ý, đề cao cảnh giác và ít ai chú ý đế là hiện nay tại các cộng đồng người Việt Tự Do, có mặt của một lực lượng" DU KÍCH" được ghi nhận là" ĐẶC CÔNG VĂN HÓA VẬN" rất nguy hiểm, đã và đang âm thầm xâm nhập vào các cộng đồng hải ngoại, chúng ngụy trang rất khéo léo với vỏ bọc quốc gia, tỵ nạn, và công khai hoạt động tinh vi tại vùng đất của người quốc gia, như nhân vật TÁM KHỎE, trong vở tuồng NGƯỜI VEN ĐÔ, do danh ca Út Trà Ôn thủ vai, với câu nói " tôi là Tám Khỏe, xin tuyên bố ly khai với Việt Cộng", nhưng thật ra Tám Khỏe là người một lòng thờ Bác, theo đảng, sẵn sàng làm tai mắt.
Tại hải ngoại, Việt Cộng không thể thực hiện những tờ báo theo khuôn khổ" định hướng theo xã hội chủ nghĩa" như các tờ Nhân Dân, Công An, Tuổi Trẻ, Thanh Niên.... tuy nhiên họ vẫn không từ bỏ mặt trận truyền thông" cực kỳ quan trọng" nầy, mà đảng có nhu cầu chiến lược cần thiết để đánh gục" kẻ thù gần cực kỳ nguy hiểm" ở khắp các quốc gia giàu mạnh nhất trên hành tinh nầy, nên họ luôn tìm cách tạo sự hiện diện qua hình thức truyền thông như sách báo, phát thanh, truyền hình.... Với sách lược cố hữu: bóp chết truyền thông trong nước, đồng thời tung ra tối đa công tác tuyên truyền hải ngoại ( nhằm đánh gục các cộng đồng, triệt hạ các lực lượng chống Cộng để gồm thu vào một mối hầu hốt hết tiền của những người bỏ nước ra đi). Trong nước đảng Cộng Sản sử dụng bức tường lửa để ngăn chận các nguồn thông tin cổ xúy tự do, dân chủ từ thế giới vào; và đồng thời mở rộng tuyên truyền tối đa ra nước ngoài. Dù dân chúng đang khốn khổ, nhưng đảng Cộng Sản dành ngân khoản dồi dào cho công tác nầy: mở các mạng thông tin trên internet, thiết lập hệ thống vệ tinh, truyền hình tốn kém.....Tuyên truyền là vũ khí lợi hại, trấn đảng, nên họ luôn tìm mọi cách phát huy.
Cộng đồng người Việt Tự Do ở nước Úc đã từng đánh bật tên" xung kích đặc công lợi hại" là T.V 4 của đài truyền hình S.B.S, là một thắng lợi lớn. Sau nghị quyết 36, hiện tượng đáng lưu ý, đề cao cảnh giác là sự xuất hiện của các tờ báo có lập trường" nửa nạc nửa mở", họ cũng đăng những bài chống Cộng như nhẹ nhàng, đầy khoang nhượng, mà có người cho đó là" chống Cộng tế nhị". Nhìn sơ, lầm tưởng đó là báo quốc gia, qua các bài báo đăng chuyện tham nhũng của quan chức nhà nước, chuyện cửa quyền, độc tài của đảng ( ai cũng biết chuyện nầy, không cần nói nhiều). Nhưng những bài báo chống Cộng mạnh, hay lột mặt tên quốc tặc Hồ Chí Minh, vạch trần sự tàn độc của đảng Cộng Sản, sự lạc hậu phi nhân của chủ nghĩa Marx Lenin.....thì không được các tờ báo nầy lựa để đăng, dù trên hệ thống internet có rất nhiều bài viết. Bên cạnh những bài báo theo kiểu" lập lờ đánh lận con đen" đa số cổ động" ý đồ" hòa hợp hòa giải" của đảng để ra qua các cái loa" tập hợp dân chủ đa nguyên giả hiệu", cổ động về nước làm ăn với đảng qua sự đánh động tình yêu quê hương" cây đa bến cũ, quê hương là chùm khế ngọt"...hay các bài báo vô thưởng vô phạt, hoặc là những bài báo" trích đăng" từ các báo trong nước do đảng CS chủ trương, hay hình thức" đọc báo trong nước"...cổ động từ thiện, góp tiền xây dựng" dùm" cho đảng những cây cầu, làm lại con lộ đá, xây trường, sửa chùa, trùng tù nhà thờ....... Đây là một mưu đồ vô cùng nguy hiểm, dùng hình thức tuyên truyền tiệm tiến" tầm ăn dâu" đầu độc dần dần đối tượng" bọn phản động nước ngoài" bằng báo chí, hình ảnh.... tạo sự HIỆN DIỆN THƯỜNG TRỰC của đảng ở ngay trong hậu phương của người Việt tỵ nạn, có tác dụng ảnh hưởng đến những thế hệ kế tiếp...giống như văn công hát mà không có ai chống, dần dần dân chúng quen đi, rồi đảng sẽ ra tay bước chiến lược kế tiếp là hát những bài ca đảng, ca Hồ nhẹ nhàng, đánh động tình cảm quê hương....và cuối cùng lập hộ khẩu ở hải ngoại" gom tất cả vào một mối: từ trong nước đến hải ngoại, thì biết bao giờ lấy lại quê hương", dể nhận ra là các thứ quảng cáo cho các thương nghiệp từ trong nước, như quảng cáo cho Vietnam Airline, các loại thức ăn ( mì ăn liền, phở..)....một điều đáng quan tâm là những tờ báo nầy rất ư là" tâm đắc" quảng bá những sự tranh chấp của các hội đoàn, cộng đồng, khai thác những mâu thuẫn cá nhân lãnh đạo như: lợi dụng diễn đàn độc giả để đăng những bài báo của du học sinh, những bài đòi bỏ hai chữ" tự do" trong danh xưng" Cộng đồng"; kích động gây hận thù, chia rẻ, là sách lược văn công tinh vi trong" đấu tranh giai cấp" mà đảng đả áp dụng từ năm 1930 đến nay. Sau nghị quyết 36, một số tờ báo dạng nầy xuất hiện một cách bất thường, họ ra sức cạnh tranh ráo riết trong việc lấy quảng cáo rẻ mạt nhằm triệt hạ tài chánh của các tờ báo chốmg Cộng có từ trước, có khi họ dùng cả thủ đoạn mua chuộc vài thành phần có máu mặt, khoa bảng ( bác sĩ, tiến sĩ, kỷ sư, tu sĩ...hay các giới chức cũ miền Nam) để tạo uy thế, chỗ dựa vững chắc. Nên nhớ là các tờ báo như vậy thường dùng chiêu bài" PHI CHÁNH TRỊ" để đánh lừa những người, thương nghiệp có quan hệ đến nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; họ hay khoác chiếc áo" thương mại" để thu phục quảng cáo, người đọc. Nên nhớ là những tờ báo như thế rất nguy hiểm, khó phân biệt " chân-giả" và họ có tài chánh ( nghi ngờ là do đảng tài trợ?) nên sống vững, dù tiền quảng cáo hạ rẻ mạt. Họ lợi dụng sinh hoạt dân chủ mà trà trộn vào các tổ chức cộng đồng, chính trị với nhản hiệu" nhà báo, ký giả" đại diện cho tờ bào nầy, tuần báo nọ, nguyệt san kia.... để chụp hình các nhân vật chống Cộng, những người tham dự...có thể đây là" những tài liệu vô cùng quí giá của Cục Tình Báo Hải Ngoại" đang cần..do đó các tổ chức cộng đồng nên lưu ý những" loại ký giả" của các tờ báo đáng nghi ngờ nầy, trong tinh thần để cao cảnh giác. Cộng Sản Việt Nam có mặt yếu là không gầy dựng được cơ sở truyền thông hải ngoại, họ nhắm vào đài phát thanh và các tờ báo. Do đó đảng sẵn sàng tung ra số tiền lớn để" đầu tư truyền thông", có thể làm ra các tờ báo mới, hay dùng tiền mua các tờ báo cũ, mua chuộc người làm trong các đài phát thanh, truyền hình....
Đây là vấn đề nguy hiểm cho tập thể người Việt hải ngoại, do đó tất cả mọi người hảy sáng suốt, nhận ra cơ quan truyền thông nào là quốc gia, cơ quan nào là" cánh tay lông lá nối dài của đảng và nhà nước". Đảng Cộng Sản thật gian manh, ngay cả tôn giáo chúng còn xâm nhập dễ dàng, hay trước 1975, cụm tình báo chiến lược A 22 của Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Ngọc Nhạ còn nằm được trong phủ tổng thống. Nên những cơ quan truyền thông có lập trường chưa xác định, hành vi ,mờ ám, thành phần ban biên tập mơ hồ, đang những bài báo cổ động cho đảng và nhà nước một cách khéo léo, cổ động ngầm chiêu bài hòa hợp hòa giải, quảng cáo cho các thương nghiệp trong nước....thì nên cảnh giác; nhất là những người làm thương nghiệp gốc tỵ nạn, từng là nạn nhân của Cộng Sản, hảy nên" chọn báo gởi hàng", bằng không là vô tình tiếp tay cho những kẻ đã từng đánh tư sản nhà mình, bắt người thân vào tù cải tạo. Như vậy, có người tỏ ra bi quan cho là: như vậy Việt Cộng quá hay? Nhưng không phải vậy, Việt Cộng không tài giỏi gì như họ lếu là" chiến thắng thần thánh, đánh cho Mỹ Cút, Ngụy nhào..." và có người đánh giá cao, nếu họ không tàn ác và thủ đoạn gian manh, lật lọng. Có người cho là Việt Cộng không hay sao dụ được các giới có học? Cũng không phải vậy, chẳng những Việt Cộng dụ được những" sĩ, sư" làm tay sai là vì những người đó QUÁ DỠ thôi, chớ người bình dân cũng biết rõ Việt Cộng../.
TRUNG CỘNG KHỦNG BỐ VIỆT NAM BẰNG NHỮNG ĐẬP THỦY ĐIỆN TRÊN SÔNG HỒNG HÀ & MEKONG
Thursday, 13. September 2007, 04:28:17
MƯỜNG GIANG

Năm 2006, Cao Guangjing, phó giám đốc quản lý công trình thủy điện của Hoa Lục, đã tuyên bố với báo chí trong và ngoài nước, rằng Trung Cộng sắp hoàn thành Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp, lớn nhất thế giới, trên sông Dương Tử và hãnh diện xác nhận : Ðây là một kỳ quan cũng như biểu tượng kinh tế của Tàu, trong thế kỷ XXI.
Có điều lạ trong lần khoe tốt này, ngay chính đương sự cũng không dám khẳng định, công dụng của đập thủy điện trên tốt xấu thế nào, mà chỉ nói bâng quơ rằng phải chờ tới những ba chục năm sau, hay đúng hơn phải coi nó có thể ngăn chống được sự tàn phá hằng năm của lũ lụt thường trực trên sông Dương Tử, lúc đó mới có thể kết luận
Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lý Trường Thành, xưa nay ai cũng nói do Tần Thủy Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa giáng sinh, từ lâu được đanh giá là một công trình kiến trúc vĩ đại, chẳng những của nước Tàu, mà còn là của nhân loại. Tuy nhiên huyền thoại này, vào năm 1969 đã bị đánh đổ, bởi Arthur Waldron , giáo sư khảo cổ tại Trung tâm nghiên cứu về Ðông Á, thuộc Trường Ðại học Harvard (Hoa Kỳ).
Trong tác phẩm ‘ The great wall of China ‘ , trình bày những nghiên cứu lịch sử và khảo cổ tại chổ sau nhiều năm đi khắp nước Tàu, cuối cùng tác giả đã khẳng định rằng Vạn Lý Trường Thành, đã tồn tại suốt bao chục thế kỷ qua, thực chất chỉ là huyền thoại. Theo ông, từ năm 700 trước Tây lịch tới nay, khắp nước Tàu đã có rất nhiều thành lũy được xây dựng rãi rác mọi nơi, mọi thời. Nên câu chuyện bức tường thành được kiến trúc duy nhất thời nhà Tần, là không đúng sự thật. Ðể chứng minh,tác giả dựa vào lịch sử Trung Hoa, từ thời nhà Hán cho tới thế kỷ thứ XIII, khi Nhà Nam Tống bị quân Mông Cổ xâm lăng và tiêu diệt, cho thấy Tàu lúc đó không hề có một bức tường thành nào cả, nên đã không thể ngăn cản được vó ngựa trường chinh của Thành Các Tư Hản ở phương Bắc. Ngoài ra ông còn dựa vào các tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Hoa qua bao thời dại, xác nhận các văn nhân lúc đó, chẳng hề xử dụng tới danh từ nào đồng nghĩa với ‘ The great wall’, mà Tây phương chỉ mới dùng sau này.
Ngay đến tài liệu phòng thủ của nhà Minh (1368-1644), cũng không hề nhắc tới Vạn Lý Trường Thành. Mãi đến nửa thế kỷ thứ XVI, trước nguy cơ đe dọa của các dân tộc du mục phuơng Bắc như Mãn, Mông, Tạng.. đã làm cho các Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh, mới nghĩ tới việc xây dựng Trường Thành, mục đích phân biệt ranh giới địa lý và nhân vân của Trung Nguyên với các dân tộc trên. Ðó chính là hình ảnh mà người Tây phương đầu tiên đã mang tới cho thế giới bên ngoài, hồi thế kỷ XVIII và phổ biến tới ngày nay. Còn huyền thoại về Vạn Lý Trường Thành do Tần Thủy Hoàng xây dựng, theo Waldron cũng không phải phát xuất từ sách vở của người Tàu, mà được Mao Tôn Cương, hồi thế kỷ XIX do các nhà thám hiểm và khảo cổ Châu Âu. Riêng nhũng ghi chú về Trường Thành, trên bản đồ mà Bắc Kinh phổ biến hiện nay, cũng là sản phẩm của các Giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, thuộc Dòng Tên, vào thời Nhà Thanh (1644-1912) . Tóm lại, theo các nhà nghiên cứu trong hội nghị quốc tế vừa được tổ chức tại Bắc Kinh, thì Vạn Lý Trường Thành , phần lớn được xây dựng từ thời Nhà Minh. Còn quan niệm cho rằng nhửng thành lũy thời Chiến Quốc, được nhà Tần nối lại với nhau, thành bức Trường Thành, ngày nay kể cả người Tàu vẫn nghi ngờ về phương diện khảo cổ, còn các sử gia thì nói đây là sự giả định, vì không có tài liệu nào minh chứng.
Nhưng đó là chuyện của nước Tàu, nó chỉ liên quan đến chúng ta, là liệu đập thủy điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử, có ảnh hưởng gì tới những đập thủy điện khác, mà Trung Cộng đã xây dựng trên thượng nguồn của sông MeKong và Hồng Hà,trong tỉnh Vân Nam, trước khi chảy vào lãnh thổ nước ta, được đánh giá như là một sự khủng bố trắng trợn, đối với vận mệnh của Dân tộc VN. Ðây là nguy cơ trước mắt, được cả thế giới thấy rõ, cho dù Ðảng VC đang đô hộ cả nước, vì sợ Tàu, nên đã cố tình bưng bít nội vụ một cách công khai y chang hành động bịt miệng Linh Mục Nguyễn Văn Lý trước phiên toà hay mới đây sử dụng cả rừng báo chí và trí thức quốc doanh, liếm lấp về các cuộc biểu tình của cả nước đòi đảng trả lại quyền song cũng như tài sản ruộng vườn mà VC tiếm đoạt bằng súng đạn.
Mới đây, Hà Nội lại ký thêm nhiều hiệp ước bất bình đẳng với Tàu, công khai đồng thuận để giặc bắn giết đồng bào ngư phủ ngay trên biển đảo yêu quý của quê hương mình. Ngày nay, VN đã nghèo khổ lại càng khốn đốn hơn vì diện tích canh tác càng ngày càng bị giới hạn bởi thiên tai, nguồn tưới và nạn nhân mãn trầm trọng, với 5,2 triệu ha ruộng, phải nuôi hơn 80 triệu người, nên bình quân 0,16 ha dành cho 1 nông dân, nếu theo quy định của Liên Hiệp Quốc, thì quá thấp, dù theo cái loa tuyên truyền thì VN hiện nay là nước đứng thứ ba (sau Thái Lan, Aãn Ðộ) sản xuất gạo. Nói chung, gạo thặng dư bán ra ngoài chỉ là vấn đề thời gian, cho nên dù muốn hay không, thức ăn và tương lai của dân tộc cũng vẫn là trên các sông ngòi biển sóng.
Bao chục năm qua, người Việt trong và ngoài nước đã căm thù đến tận xương tuỷ, trước những sự việc Trung Cộng xâm lăng cưởng chiếm lảnh thổ của chúng ta. Nhưng đó cũng chỉ là một trong ngàn muôn nổi buồn của thân phận nhược tiểu VN, trong biển máu lệ nước mắt thống hận trùng hằng. Bởi vì cùng lúc, giặc Tàu còn gây ra nhiều cuộc khủng bố khác, mà tàn khốc nhất là đang xữ dụng những đập thủy điện trên các dòng sông phat nguyên trên đất Tàu, chảy vào VN, như một thứ vũ khí môi sinh chiến lược,liên hệ tới sự sống còn của dân tộc.
Ai có thể ngăn được sự phẩn uất , trước lời tuyên bố xấc xược và ngạo mạn của Wang Xiaodong, chuyên viên nghiên cứu của Trung Cộng, về việc khai thác sông Mekong ‘ Ðây là đất nước Tàu, nên muốn làm gì cũng được , ai dám ngăn cản ‘.
Mới đây báo chí tại Trung Cộng đã đồng loạt đăng tải sự lên tiếng của các chuyên gia môi trường tại Hoa Lục, trong đó có Giáo sư Ðại học về môn đia chất là Yuan Aiguo. Theo họ thì tình trạng ô nhiễm đang xãy ra trên sông Dương Tử rất nguy kich, ngoài việc gây bệnh ung thư vì nước uống, dòng sông có thể chết trong 5 năm sắp tới, do việc đổ xuống đây tất cả các loại rác rưởi, trong đó có hóa chất độc hại và cả xác tàu thuyền bị chìm. Hiện 80% nguồn nước ngọt của Thượng Hải là do sông Dương Tử cung ứng (80% thiếu vệ sinh và có chứa hoá chất). Dù Tàu Cộng cố bưng bít nhưng thảm trạng cũng đã bị phanh phui trên dòng sông Tùng Hoa.
Xem như vậy làm sao các dòng sông thiêng của VN như Hồng Hà, Ðà Giang, Lô Giang và quan trọng nhất là sông Cưu Long, đều phát xuất từ bên Tàu, chảy qua tỉnh Vân Nam, trước khi vào lãnh thổ chúng ta, chắc chắn cũng đang mang chung số phận của sông Dương Tử. Có điều chừng nào VC mới dám công khai lên tiếng phản đối Tàu và thông báo tình trạng ô nhiểm nguy kịch chết người, để đồng bào cả nước biết., một sự kiện đáng làm trước hết hơn là phung phí ngân khố quốc gia, để lãnh tụ và ca sĩ quốc doanh xuất ngoại làm trò cười cho đồng bào tị nạn khắp nơi trên thế giới.
1- ÐẬP THỦY ÐIỆN : VŨ KHÍ MÔI SINH CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG .
Giang Nam là tên gọi của lưu vực hạ nguồn sông Dương Tử, do nhà Thanh (1644-1912) đặt ra, gồm các tỉnh Giang Tây,Giang Tô và Triết Giang. Miền này thời Ðường,Tống được gọi là Giang Châu, nguyên là đất đai của Bách Việt (Ngô Việt, Mân Việt,Âu Việt và Lạc Việt..), thủ công tinh xảo, dân trí thanh lịch, non nước hữu tình.
Sông Dương Tử còn có tên là Trường Giang, đứng thứ ba trên thế giới sau sông Amazone (Nam Mỹ) và sông Nil (Ðông Phi), có chiều dài 6380km, phát nguyên tại vùng rừng núi Thanh Hải (Tây Tạng), từ trên độ cao 6600m, chảy qua phía tây Tứ Xuyên, xuống phía bắc Vân Nam, rồi đổi hướng chảy ngược lên phía đông Tỉnh Tứ Xuyên , ngang qua các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Giang Tô và ra Biển Ðông tại Hoàng Hải. Nếu tính luôn các phụ lưu, chi nhánh chằng chịt khắp miền Hoa Trung, thì chiều dài của sông Dương Tử lên tới 80.000 km, với hơn 12 triệu dân, gồm 55 sắc tộc, sinh sống ở hai bên bờ sông với đủ nghề.
Trên thượng nguồn, sông Dương Tử có 3 khe núi lớn gồm 25 thác đổ, nhiều nơi nước chảy xiết nhất là vào mùa mưa, khiến cho các ghe thuyền xuôi ngược dễ bị chìm vì đá ngầm. Ðó là hẽm Kingtanxia dài 5km, hẽm Wuxia dài 25km và hẽm Xilingxia dài 47km., tuy ngày nay đã được nạo vét nhưng tàu qua lại vẫn phải có hoa tiêu hướng dẫn để tránh nguy hiểm.
Lưu vực sông Dương Tử hiện nay có hơn 400 triệu người sinh sống. Ngoài ra vùng này còn có 5 hồ lớn, thường đước nhắc nhớ trong các tác phẩm thơ văn của Trung Hoa . Phân Dương Hồ, chứa nước ngọt , rộng tới 5000 km2, nằm trong tỉnh Giang Tây, gần thành phố Vũ Hán. Ðộng Ðình Hồ có các sông Tiêu và Tương đổ nưóc vào và thông với Trường Giang qua sông Hán. Hồ nằm phía tây tỉnh Hồ Nam,nổi tiếng với Nhạc Dương Lầu, măng tre Thần Châu và quít ngọt Ðộng Ðình Hồng. Thái Hồ chứa nước mặn nằm giữa hai tỉnh Giang Tô và Giang Tây. Sào Hồ và Tây Hồ .
+ ÐẬP THỦY ÐIỆN TAM HIỆP TRÊN SÔNG DƯƠNG TỬ :
Tháng 12-1994, Trung Cộng chính thức khởi công xây dựng Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp (Three Gorges Dam), trên khúc sông Dương Tử , chảy trong tỉnh Hồ Bắc, vừa để khống chế nạn lụt hàng năm, đồng thời xây dựng một nhà máy thủy điện với công suất tổng cộng lên tới 12.000 MW. Ðể thực hiện công trình trên, đảng cộng sản đã đuổi hơn 1,5 triệu người dân bản địa, đồng thời làm xáo trộn sinh hoạt của 20 thành phố lớn nhỏ trong vùng.
Tam Hiệp, địa điểm được chọn để xây dựng đập thủy điện, là tên một khúc sông Dương Tử dài hơn 200km, từ phía tây tỉnh Tứ Xuyên, chảy qua phía đông tỉnh Hồ Bắc, được coi như điểm nối của vùng thung lũng Tứ Xuyên với các đồng bằng miền Hoa-Trung, phía dưới hạ nguồn. Khúc sông này chảy qua ba hẽm núi lớn và 25 thác đổ. Theo nhận xét của nhiều bậc thức giả trong và ngoài nước, thì dự án Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp tuy đã được manh nha từ thời Dân Quốc, do Tôn Dật Tiên đề xướng. Nhưng bị các hội bảo vệ môi trường sinh thái địa cầu chống đối, vì nó sẽ hủy diệt vĩnh viễn cãnh quan thiên nhiên trong vùng, đồng thời xóa tên 140 thành phố lớn nhỏ, 4500 làng mạc, 30.000 ha đất trồng trọt, hằng ngàn di tích lịch sử và tiêu phí một ngân khoản khổng lồ, mà không chắc đạt được kết quả mong muốn.
Với nước Tàu, từ trước tới nay sông Dương Tử là nguồn nước tưới cho cả khu vực đồng bằng Hoa Trung, miền đất cá và gạo, chiếm nửa tổng sản lượng của cả nước. Nhưng đồng thời sông Dương Tử cũng là tai ương ngàn năm của Hán Tộc, riêng trong thế kỷ XX lụt lội đã gây cho hơn 300.000 dân chúng trong vùng thiệt mạng. Giống như sông Mekong, sông Dương Tử cũng phát xuất từ Tây Tạng, chảy qua khu vực Tam Hiệp, trước khi vào thành phố Trùng Khánh, được coi như lớn nhất hiện nay tại Hoa Lục.
Từ nhiều lý do, trong đó quan trong nhất cũng vẫn là mục tiêu chính trị,khiến cho Bắc Kinh đã nhắm mắt lao vào một công trình rất tốn kém về tiền bạc, sức người lẫn thời gian,gây ảnh hưởng nặng nề đến vấn đề tâm lý, khi đàn áp đuổi dân, phá hoại các công trình kiến trúc bao đời trong vùng. Thực hiện được đập thủy điện này, về quốc tế Trung Cộng sẽ hãnh diện có thêm một kỳ quan, sau Vạn Lý Trường Thành. Về kinh tế, Ðảng Cộng Sản nuôi hy vọng, nhờ nó giúp mức phát triển 11% hàng năm qua nguồn cung cấp điện cho công nghệ và sinh hoạt.
Ðây là một cái đập khổng lồ , kinh phí dự chi tốn khoảng 30 tỷ đô la, thực hiện trong 14 năm. Chiều cao của dập 607 bộ, chiếm một diện tích hơn 1 dặm vuông., bao gồm một hồ chứa nước dài 370 dặm và một hệ thống khóa đặc biệt : Hút nước từ các nguồn nước khác khi thiều, cũng như xã nước vào mùa lụt, vừa giúp sự giao thông trên sông Dương Tử, đồng thời vét vơ nước từ các con sông khác, qua hệ thống kênh đào, để tưới cho các vùng đất khô hạn xa xôi ở phía tây.
So với các đập thủy điện khác trên thế giới, dập Tam Hiệp không cao và rộng hơn nhưng lại trội nhiều về sức mạnh, với 26 Turbin mà trọng lượng mỗi chiếc 400 tấn/1 chiếc, sẽ tạo ra 18.200 magawatt điện, công suất tương đương với 18 nhà máy điện nguyên tử. Ðập này mạnh hơn các đập Itapu (giữa Brazil và Paraguy có công suất 12.600 megawatt ), dập Guri ở Venezuela có 10.300 megawatt, dập Grand Coulee ở Colorado của Mỹ có 6809 megawatt và đập Sayano Shushensk ở Nga với 6400 megawatt.
Theo nhận xét của thế giới, Trung Cộng đã tốn hết 75 tỷ mỹ kim cho công trình vĩ đại này (chứ không phải 19 tỷ như tuyên bố của đảng) . Vì mục tiêu chính trị, Trung Cộng không cần biết tới tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án, hầu như đều bị sự phê bình chỉ trích của các nhà đầu tư và tài chính quốc tế. Bởi thế nên không làm lạ khi nghe Phó giám đốc xây dựng đập là Cao Guangjing, nói rằng muốn biết đập có hoàn hảo hay không, phải đợi tới 30 năm sau mới thấy được.
Chưa hết, Trung Cộng còn cho biết sau khi hoàn tất đập Tam Hiệp vào năm 2008, Ðảng lại tiếp tục xây thêm 10 đập khác trên thượng nguồn sông Dương Tử, nối tiếp vùng Tam Hiệp. Ðiều lo lắng nhất của người Tàu hiện nay, là làm thế nào để có thể giảm nhanh chóng một biển nước khổng lồ , luôn được chứa trong hồ với độ cao từ 512-574 ft, khi mùa mưa tới. Thãm kich về đập thủy điện Banqiao ở Hồ Nam, vào năm 1975 mưa nhiều vở đê kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống đập chung quanh, gây lụt lội làm chết hơn 230.000 người. Nhưng Trung Cộng đã ém nhẹm tới gần đây thế giới mói biết. Ngoài ra đập thủy điện Tam Hiệp chưa khánh thành nhưng nhiều dấu hiệu bể nứt đã thấy xuất hiện. Ðiều này cũng dễ hiểu, vì trong thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (Tàu,Nga, VC,Bắc Hàn, Cu Ba), gần hết ngân khoản của các công trình xây dựng, đều bị cán đảng và quan quyền lớn nhỏ, móc ngoặc với nhà thầu, chia, chặt, xén, bỏ túi.. cho nên đâu có kiến trúc nào được toàn vẹn, vì vậy chưa bàn giao đã lung lay hay sứt mẽ là cái chắc.
+ HỆ THỐNG ÐẬP THỦY ÐIỆN TẠI TỈNH VÂN NAM, TRÊN SÔNG MEKONG VÀ HỒNG HÀ CHẢY VÀO VN :
Sông MeKong phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa, Lào, Thái Lan, Miến Ðiện, Kampuchia và VN rồi ra Biển Ðông tại chín cửa lớn nhỏ, nên phần sông chảy trong lãnh thổ VN, mới có tên là Cửu Long Giang. Cũng vì dòng sông có sự liên hệ của nhiều nước, nên đã có chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong, do nhiều tổ chức và các định chế tài chính quốc tế tham gia. Trên lý thuyết, đã có tới sáu chương trình và dự án phát triển con sông trên. Chương trình Ủy ban sông Mekong (MRC), do LHQ khởi xướng từ năm 1957, nhằm quản lý nguồn nước và tài nguyên của sông, được xúc tiến mạnh sau năm 1975, khi chiến tranh Ðông Dương lần 2 chấm dứt.
Năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) lại khởi xướng chương trình hợp tác sông Mekong, giữa các nưóc liên hệ (GMS), thúc đẩy sự đầu tư khai thác của các nước trong vùng, qua các dự án đầu tư do ADB chi phối. Năm 1993, Nhật Bản đề xướng diễn đàn phát triển toàn diện Ðông Dương (F&DI), chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng có sông Mekong chảy qua. Tiếp theo Nhật lại đưa thêm dự án AEM-MITI nhằm giúp Miến Ðiện, Lào, Kampuchia chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Cũng năm 1993, Thái Lan lại đề xướng chương trình hợp tác sông Mekong, nhằm phát triển khu vực sông chảy qua các nước Tàu, Miến Ðiện, Thái Lan và Lào.
Tháng 12-1995, Tân Gia Ba và Mã Lai lại đề xướng dự án hợp tác phat triển sông Mekong của các nước thành viên Asean có sông Mekong chảy qua, ưu tiên là đặt hệ thống đường sắt.. Nhưng tất cả đều là lý thuyết, vì Trung Cộng là nước ở thượng nguồn sông Mekong, chẳng bao giờ tôn trọng các ảnh hưởng, sự tác động và lợi ích kinh tế của những nước khác ở hạ nguồn. Trung Cộng đã ỹ mình nước lớn, nên đã bất chấp sự phản đối của các nước liên hệ, bao chục năm qua đã xây dựng cả hệ thống Ðập Thủy Ðiện trên sông Mekong, trong tỉnh Vân Nam, gây thiệt hại nhiều nhất cho hai nước hạ nguồn là Kampuchia và VN.
Thật ra âm mưu khống chế sông Mekong, được Trung Cộng manh nha từ năm 1970. Do sự cô lập và bưng bít nên mãi tới năm 1989 khi Ðặng Tiểu Bình mở cửa đón tư bản vào cứu đảng, người ta mới biết được đại khái là Hoa Lục đang xúc tiến các dự án đập thủy điện tại Vân Nam. Theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam và lời xác nhận của Hiroshi Hiro, người Nhật, một chuyên gia về sông Mekong, cho biết Trung Cộng đã xây dựng tới 14 con dập bậc thềm, trên thượng nguồn sông này, đó là chưa kể các con đập khác ở các phụ lưu và trên sông Hồng Hà. Theo thứ tự từ Bắc xuống Nam, ta thấy các đập thủy điện Liutongsiang, Jiabi, Wunenglong, Tuoba, Huangdeng, Tiemenkan, Guongguoqiao, Công Quả Kiều, Xiaowan, Tiêu Loan, Manwan, Daichaoshan, Ðại Triều Sơn, Nuozhado, Nọa Trát Ðộ, Jinhong, Cảnh Hồng, Ganlanba và Mãnh Tòng.
Sông Mekong hay Dza-Chu (Nguồn nước của đá), phát nguyên từ cao nguyên phía đông Tây Tạng, dài hơn 4000 km, chảy về hướng Nam, băng qua những hẽm núi sâu và rừng núi hoang lạnh của tỉnh Vân Nam với cái tên Lan Thương Giang (Lancang Jiang). Riêng khúc sông chảy giữa biên giới Lào-Thái mang tên Mae Nam Khong. Tại Cam Bot sông lại có tên là Tonle Thom và cuối cùng Cửu Long Giang trong lãnh thổ VN.
Trong cuốn sách ‘ Lan Thương Giang ố Tiểu Thái Dương ‘ , do Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn hành bằng tiếng Tàu, từ đầu tới cuối chỉ đề cao tới tiềm năng của sông cần khai thác, tuyệt nhiên chẳng thấy nói tới hậu quả nào do chuổi đập gây thiệt hại tới các nước ở hạ lưu. Ðiều này dễ hiểu,vì Trung Cộng luôn coi đó như một bí mật quốc phòng, thứ vũ khí môi sinh chiến lược, để khủng bố VN, quốc gia cuối cùng nơi dòng sông thoát ra biển.
Tóm lại chỉ riêng với ba con đập đầu tiên được xây dựng trên thượng nguồn Mekong là dập Mạn Loan, Ðại Triều Sơn và Cảnh Hồng, với các triền núi cao dùng làm vách hồ chứa nước vào mùa mưa và xã nước trong mùa nắng. Hậu quả sông Mekong sẻ không còn những cơn lụt hằng năm, mang phù sa và các loại thủy tộc, từ thượng nguồn xuống Biển Hồ, sông Tiền, sông Hậu. Cuối cùng các hồ chứa nước tại Vân Nam, sẽ giữ lại hết phù sa và nước ngọt tại chuổi đập bậc thềm , làm cho Biển Hồ khô chết, còn đồng bằng miền Nam ven biển Ðông, sẽ bị ngập mặn vì lòng sông thấp hơn mực nước biển.
Trước mắt những con đập tại Vân Nam, thường trực gây bất thường cho dòng sông Mekong, làm xói lở hai bờ , đọng nhiều muối trên đất, nguồn phù sa hằng năm từ thượng nguồn bị giữa lại, làm cho ruộng thiếu nguồn phân bón thiên nhiên. Tai hại hơn, là Trung Cộng đã trút đổ những chất phế thải độc hại từ các nhà máy công nghệ như chì, kẽm, cyanide.. gây ô nhiểm nước uống và hệ thủy sản trên sông, nhất là các loại cá .
Tháng 12-2001, theo tin Asian Pulse cho biết là Trung Cộng lại khởi công xây đập Tiểu Loan trên khúc giữa Lạn Thương Giang, lớn thứ nhì trên nước Tàu, chỉ thua đập Tam Hiệp. Ðập này có công suất điện 4200 MW, cao nhất thế giới 292 m, riêng hồ chứa nước lên tới 15 tỷ m3 khối nước, từ nguồn sông Mekong. Ðập hoàn thành năm 2010 với kinh phí 4 tỷ đola.
Ngày nay Trung Cộng đã công khai đe dọa thế giới, trực tiếp đối đầu với Mỹ, Nhựt, Liên Âu và LHQ, nên đâu có lạ khi thấy người Tàu toàn quyền khai thác sông Mekong và từ chối tham dự Ủy hội bảo vệ con sông này vào năm 1995 cũng như không cầm đếm xỉa tới thảm họa môi sinh của 5 nước dưới hạ nguồn. Thế giới ai cũng nhìn thấy rõ, nhát là mưu đồ dùng sông Mekong như một thủy lộ, khi có cuộc chiến trong tương lai gần.
2- ÐỒNG BẰNG VÀ SÔNG NGÒI VN, TRƯỚC THẢM HỌA KHỦNG BỐ CỦA TÀU :
Diện tích VN hiện nay là 331.000 km2, trong đó hai đồng bằng Bắc và Nam Việt, xưa nay được coi như là vựa lúa gạo của cả nước. Miền châu thổ Bắc Việt hình thang, giới hạn bởi tứ giác Phủ Lạng Thương, Ðồ Sơn, Việt Trì và Phát Diệm., với diện tích 15.000 km2, chỉ chiếm 12% Bắc Phần (115.700 km2), được hình thành bởi phù sa sông Hồng Hà và Thái Bình.
+ SÔNG HỒNG HÀ : Phát nguyên từ rặng Ngụy Sơn, kế Ðại Lý Hồ trong tỉnh Vân Nam (Tàu), có chiều dài 1200 km, phần chảy trên đất Trung Hoa gọi là sông Ma Lung hay Nguyên Giang. Riêng 500 cây số trong lãnh thổ VN, được gọi là Nhĩ Hà, Hồng Hà hay Sông Thao.
Sông vào địa phận Bắc Việt tại Hà Khẩu (Lào Kai), trước khi ra biển Ðông, đã tiếp nhận nhiều phụ lưu quan trọng như sông Lô ở tả ngạn. Sông này còn có tên là Thanh Giang, cũng phát nguyên từ bên Tàu và chảy vào VN tại Hà Giang, rồi đổ vào sông Hồng ở Việt Trì. Sông Lô còn có hai phụ lưu là sông Gầm va sông Chẩy thông với hồ Ba Bể.
Sông Ðà bên hữu ngạn,cũng phát nguyên từ Vân Nam, chảy vào VN song song với sông Hồng và đổ vào sông này tại Việt Trì. Ngoài ra còn có nhiều sông nhỏ khác, cũng đổ vào Nhĩ Hà như Nậm Pò, Nậm Na, Nậm Mấc, Ngòi Thia, Ngòi Lao ở thượng nguồn. Phía gần biển, có thêm các phụ lưu Sông Luộc, sông Ðuống, sông Ninh Cơ, Trà Lý.. Tất cả đã mang phù sa bồi đắp cho cánh đồng lúa mùa, miền Hạ Du, ngay từ thời Văn Lang lập quốc cho tới bây giờ. Từ Hà Nội lên Lào Kai, xuyên biên giới đi Vân Nam ,có con đường sắt được thiết lập từ thời Pháp thuộc, chay song song với tả ngạn sông Hồng, qua những nhà ga Bảo Hà, Trái Hút, Phố Lu.. mang đầy huyền thoại trong kho tàng văn học dân gian, về các câu chuyện ‘ Ma-Cọp ‘.
Lào Kai là tỉnh địa đầu của miền tây bắc, chỉ cách Trung Cộng có cây cầi biên giới Cốc Lếu, nên trong cuộc chiến năm 1979, giặc Tàu gần như làm cỏ thành phố, mãi cho tới năm 1991 mới chỉ có 1700 gia đình trở về nhà cũ của mình.. Ngày nay nhờ chương trình du lịch Sapa và nhất là buôn lậu ,nên Lào Kai dân số gần 100.000 người. Thị xã nằm ngay trên ngả ba sông Nậm Thị từ Vân Nam đổ vào sông Hồng. Cầu Hồ Kiều dài 200m, ngăn đôi hai nước, bên này là Lào Kai, phía bên kia là thị trấn Hà Khẩu, thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.
Sông ra biền bằng cửa Ba Lạt và Trà Lý ở thị xã Thái Bình. Trước đây khi Trung Cộng chưa xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn của sông chảy trong tỉnh Vân Nam, thì Nhĩ Hà có lưu lượng rất lớn và thay đổi tuỳ theo mùa, từ 300m3/1 giây ố 28.000 m3/1 giây nhưng trung bình là 700m3/1giây.. Nước sông dâng cao thường vào mùa mưa, tại Hà Nội có khi dâng cao tới 12m, trong khi mùa nắng mực nước chỉ có 2m.. Từ trước tới nay vùng Hoa Nam và Bắc Phần có nhiều mưa về mùa hè, làm cho mực nước sông Nhị dâng cao rất nhanh. Lúc trước tại Vân Nam, rừng chưa bị đốn để dựng đập nước, nên mùa mưa, phần nào giữ được nước tuôn từ thượng nguồn về.
Nay Trung Cộng xây đập khắp nơi, mùa nắng thì giữ nước ngọt lại trong hồ chứa để mà tưới , trái lại mùa mưa thì mở đập để nước trên sông lẫn trong hồ, tuôn về hạ nguồn, cho nên mấy năm qua, Hà Nội và các tỉnh Bắc Phần luôn bị nạn lụt. Trong khi đó , hệ thống đê điền ở miền Bắc tuy dài hơn 4000km, nhưng lại có quá nhiều khuyết điểm, chẳng hạn như đê phải đắp cao theo tình hình mực nước, khiến cho đê thường bị vở. Ngoài ra vì bị đê ngăn chặn phù sa, khiến cho đồng bằng Bắc Phần lần hồi không được bồi đắp, nên càng lúc thêm cằn cổi, thu hoạch kém, tốn nhiều phân bón.
Riêng hệ thống sông Thái Bình, dài độ 340km, chảy từ Phả Lại, qua Hải Dương ra biển, với các phụ lưu là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu, đều phát nguồn trong nội địa VN. Tuy nhiên vì Sông Nhị có hai phụ lưu ở tả ngạn là sông Ðuống và sông Luộc, đều chảy vào sông Thái Bình, cho nên hệ thống sông này cũng bị ảnh hưởng khi nguồn nước hay dòng chảy của sông Hồng bị tắt nghẽn hay bất thường. do những ảnh hửng từ thượng nguồn bên Vân Nam gây ra.
+ ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :
Ngày nay đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh miền tây Nam phần : Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Ðồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bac Liêu và Cà Mâu. Khu vực này chiếm một diện tích 40.000 km2 với hơn 16 triệu dân, gồm người Việt, Khmer, Hoa và Chàm. Do cấu tạo môi trường thiên nhiên khác nhau, ảnh hưởng từ sông, biển và khí hậu, nên khu vực này được chia thành bốn vùng riêng biệt :
- Vùng phù sa nước ngọt : Từ nguồn sông chính tại Kampuchia, Mekong chảy vào Nam Phần bằng hai nhánh tại Châu Ðốc và Hồng Ngự, xuống tận Mỹ Tho, Bến Tre. Khu vực này chiếm một diện tích hơn 1 triệu Ha, phần lớn là vườn cây ăn trái đủ loại, mọc bạt ngàn theo hai bờ sông Tiền và Hậu, cùng với một hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện. Ðặc biệt giữa dòng sông thường có nhiều cù lao lớn nhỏ như Cồn Phụng, Lân, Qui tại Mỹ Tho, cù lao Ông Hổ ở An Giang, cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt-Cần Thơ), cù lao Bình Hòa Phước tại Vĩnh Long..
- Vùng phù sa nước mặn : Chiếm diện tích khoảng 900.000 Ha, bao gồm lưu vực các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau. Ðặc điểm vùng này là có nhiều rừng nguyên sinh ngập măn, nhiều khu vực tập trung hàng ngàn loại chim cò đủ loại tại Vàm Hồ (Ba Tri-Bến Tre), Bạc Liệu hay Chùa Dơi (Sóc Trăng)..
- Vùng bán đảo Cà Mau : Nằm cuối miền Nam nước Việt, rộng chừng 1 triệu Ha và hằng năm được phù sa của sông Hậu, bồi đắp thêm làm cho Mũi Cà Mâu càng lấn ra biển từ 60 ố 80m. Tại đây còn nhiều khu rừng tràm, đước được dùng làm củi đốt từ xưa tới nay Khắp khu vực có nhiều Sân Chim Cò, Cốc hơn 40 loại, sống tại Ngọc Hiển, U Minh, Hòn Khoai. Ðây cũng là vựa tôm, cá và đặc biệt là mật ong nổi tiếng của Miền Nam.
- Vùng Ðồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên : Rộng 1 triệu ha, được coi như là những hồ chứa nước thiên tạo, vào mùa sông Tiền-sông Hậu lụt lội, nhờ vào năm miền trũng thấp. Trong số này quan trọng nhất vẫn là Ðồng Tháp Mười, với các khu rừng tràm Xẻo Quít (20 Ha), Tràm Chim (2441Ha).. có hơn 141 loài chim sinh sống, nhiều nhất là loài sếu đầu đỏ.
Nói chung đồng bằng sông Cửu Long được tạo thành bởi phù sa của hai nhánh sông Mekong, gọi là sông Tiền (Dòng chính) và sông Hậu, được chia thành chín nhánh nhỏ hình rẽ quạt, đổ ra biển bằng chín cửa, lại tạo thành nhiều cù lao rất phì nhiêu. Trong lãnh thổ VN, phía thượng nguồn, sông Cửu Long làm thành vùng trũng như những hồ chứa nước thiên nhiên trong mùa lụt. Về phía biển, đồng bằng được phù sa bồi đắp cao ráo, thành những giồng để cất nhà cửa, lập vườn cây ăn trái . Dòng sông cho nhiều tôm cá quanh năm, bù đắp phù sa như một thứ phân bón hữu to rất tốt cho đồng ruộng. Toàn vùng, Mỹ Tho được coi là lý tưởng nhất cho nghề nông vì đất đai phì nhiêu, sông rạch đầy tôm cá, người dân làm chơi ăn thiệt, cuộc sống sung túc, tạo thêm dân trí lễ nghĩa với các thú vui nghệ thuật, mà phát triển nhất nếp sống miệt vườn tao nhã qua đờn, ca, hát xướng, thơ ngâm, hò đáp khi chèo thuyền giả gạo.
Sông Tiền Giang chảy ngang qua thành phổ cổ kính Mỹ Tho, trước khi ra biển bằng nhiều nhánh. Giữa những nhánh sông có các cù lao rộng lớn phì nhiêu, làm thành tỉnh Bến Tre nổi tiếng với rặng dừa xanh lơn nhất nước. Trường Trung Học danh tiếng Nguyễn Ðình Chiểu tại Mỹ Tho, được coi như là ngôi trường đầu tiên của người Việt tại Nam Phần, trong lúc Sài Gòn mới có ngôi trường Trung học dành cho con cái người Pháp (nay là trường TH.Lê Quy Ðôn) , lập hồi cuối thế kỷ XIX. Vào năm 1926, Sài Gòn mới có trường TH.Petrus Ký, dành cho người Việt.
Ðất Gò Công sát biển, nổi tiếng với Ðức Từ Dũ (Mẹ ruột vua Tự Ðức nhà Nguyễn), căn cứ chống thực dân Pháp của anh hùng Trương Ðịnh (1863). Ngược về phía nam, xuyên QL4 (nay là QL1), trước khi đến cầu Mỹ Thuận (thay thế phà), hai bên đường lẫn bờ sông, nhà cửa san sát, xen lẫn với vườn đủ loại trái cây và đồng ruộng lúa nước xanh um ngút mắt.
Qua cầu, quẹo về hướng biển non 10 cây số, là tới Vĩnh Long, miền đất hiền lành xinh đẹp nằm trên Sông Cổ Chiên, một nhánh của Cửu Long. Chợ tỉnh trải dài theo bờ sông bồng bềnh những giề Lục Bình hắt hiu trong màu phù sa làm cho nước vàng đục. Thành cổ xưa còn đó với cây đa cổ thụ, làm nhớ tới Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông.. người uống thuốc độc quyên sinh để đền nợ nước, kẻ thỉ rời bỏ quê làng chôn nhau cắt rút, dắt díu gia đình ra tận Bình Thuận tị địa vào năm 1867, khi thành Vĩnh Long bị thực dân Pháp đánh chiếm. Gần chợ nay vẫn còn Văn Thánh Miếu được lập ra thờ Khổng Tử, nhưng ngày nay người Việt đến cúng bái, gần như chỉ biết tới Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông mà thôi.
Bên kia sông Hậu là thành phố Cần Thơ, sung túc bề thế và xinh đẹp chỉ thua Thủ đô Sài Gòn. nên xưa nay vẫn được đời xưng tụng là Thủ phủ của Miền Tây-Nam Nam Phần, phát triển ngay từ đầu thế kỷ XX, ngay khi miền Hậu Giang trở thành vựa lúa gạo nuôi sống cả nước. Nhờ vậy mà cả cánh đồng lau sậy, tràm được, cá sấu, muỗi mòng, giữa sông Hậu và Vịnh Phú Quốc, được khai thác, đào kênh, đắp đường, mở mang làng xóm, trù phú như ngày nay. Thời Pháp thuộc, Cần Thơ có Chi nhánh Ngân hàng Ðông Dương, Nhà máy Ðiện lực rất lớn, cung cấp điện cho các tỉnh lân cận. Trường Trung học Công lập Phan Thảnh Giản thành lập từ năm 1926,hơn trăm năm qua đã đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài của đất nước, trong đó không thể không nhắc tới Nhà Quân Sử nổi tiếng hiện nay tại hải ngoại là Pham Phong Dinh..
Cuối nước Việt, về hướng biên giới,đầu tiên là Cảng Cá,nằm ngay Vàm sông Ông Ðốc, qui tụ nhiều tàu đánh cá lớn khắp vùng. Xa hơn là Ngư Cảng Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang, nổi tiếng nhất nhì trong nước, ngang hàng với Ngư Cảng Phan Thiết-Bình Thuận. Biển ở đây cạn, nhiều bùn lại nhiều muỗi mòng nhưng ngược lại đầy tôm cá. Ngoài khơi Rạch Giá có hằng trăm đảo thuộc chủ quyền VN, trong đó có Hòn Tre diện tích lớn, dân đông.Kế bên là Hòn Sơn Rái nổi tiếng làm nước mắm cá biển
Sát biên giới Việt-Kampuchia là Thị Xã Hà Tiên,phong cảnh hữu tình với Ðông Hồ, núi Tô Châu, ngôi chợ tuy nhỏ nhưng đây cổ kính. Ðối diện là Hải Ðảo Phú Quốc, lớn nhất VN, chuyên trồng tiêu, làm nước mắm, ngư nghiệp
Từ Chợ Hà Tiên đi ngược lên dọc theo biên giới có Kênh Vĩnh Tế do Thoại Ngọc Hầu đào vào thập niên 1920, thời Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn. Kênh này như một thủy đạo, nối liền sông Hậu thông ra Vịnh Phú Quốc. Vùng này trũng thấp, đất phèn mặn, nên ruộng đồng hoàn toàn bị ngập, vào mùa lụt do sông Cưu Long dâng cao. Bảy Núi hay Thất Sơn bao gồm nhiều hòn lớn nhỏ, chạy dài trên 30km, mà đỉnh cao nhất là ngọn Núi Cấm (700m),mây trắng che mịt mù vào mùa đông, trong nuí có nhiều hang động thiên nhiên, trên sườn mọc đầy sắn, đậu, hoa quả và các cây thuốc Nam.
Kế cận là Thị Xã Châu Ðốc, nổi tiếng ba miền là Miểu Thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, được xem là chốn linh thiêng, quanh năm có rất nhiều thiện nam tín nử tới hành hương cúng kính.. Chợ Châu Ðốc xây trên bờ sông Hậu, dưới sông tấp nập ghe thuyền. Phia bên kia sông có nhiều Làng Chàm Hồi giáo, chuyên sinh sống bằng ngư nghiệp và nghề dệt dệt tơ lụa.
Thành phố Long Xuyên là thủ phủ của tỉnh An Giang, lúa gạo sung túc, đang phát triển mạnh nghề nuôi cá bè trên sông Hậu. Ðây là miền đất được mở mang sớm nhất ở Nam Phần, ngay từ năm 1700 khi Thống Suất Nguyễn Hửu Cảnh, được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, tới đây cũng cố biên giới, vì vậy các lưu dân từ Thuận Quảng theo chân đoàn quân vào đậy lập nghiệp rất đông đảo. Tại An Phú, đầu nguồn của sông Hậu trong tỉnh An Giang, nay còn sót lại Búng Bình Thiên, có diện tích rộng hơn 30.000 m2, là một vùng đất bị bỏ hoang vì nước sâu không thể trồng lúa được. Láng mọc đầy Sen và cỏ dại, là nơi chung sống của đủ loài thủy tộc, từ cá tôm, cho tới rắn rùa, sống dưới rừng củ co, bông súng, rau tràng.. cảnh sắc không gì thay đổi như từ hai ba thế kỷ trước. An Phú còn có tới 4 chợ trời biên giới và đông đảo người Chàm theo Hồi giáo cư ngụ.
Sa Ðéc hiện nay chỉ là thị trấn, trong khi Cao Lãnh trở thành thị xã tỉnh lỵ của Ðồng Tháp. Nằm bên hửu ngạn sông Hậu, Sa Ðéc là vùng đất cổ, nổi tiếng với những vườn cây ăn trái của Nam Phần,nhờ khí hậu trong lành so với các tỉnh khác. Chợ Sa Ðéc đẹp, vùng lân cận nổi tiếng về sản xuất hoa hồng. Trên con đường từ chợ tới Bắc Vàm Cống, có hai làng nghề truyền thống là Nem Lai Vung và Chiếu Lấp Vò. Ngoài ra tại làng Ðịnh Yên, còn có một Chợ chiếu độc đáo, mà người điạ phương gọi là ‘ Chợ Ma hay Chợ Âm Phủ ‘, vì chợ chỉ nhóm họp hằng đêm từ 12 giờ khuya tới hừng sáng thì dẹp. Ðây là truyền thống đã có từ 100 năm qua, chuyên bán sĩ và lẽ hai loại chiếu ‘ Hà Niên’là loại chiếu bông vuông nhỏ và loại ‘ Vẩy Ốc ‘ màu trắng, bông được in bằng khuôn, làm rất công phu, để lâu không bị bay màu và lên mùi mốc.
Ðồng Tháp Mười là vùng đất trũng, nhiều phèn, vào mùa lụt nước sông dâng cao tới 4m, cá tôm nhiều nhưng muốn có phải mua sắm dụng cụ mới khai thác được.. Tại đây còn có một loại lúa trời, mọc tự nhiên, ăn được nhưng không ngon. Trước đây Ðồng Tháp Mười coi như một đồng cỏ khổng lồ, ngày nay nhiều khu vực đã được khai khẩn để trồng lúa. Dân cư tứ xứ tới đây làm ăn rất đông, nhất là khu vực tiếp xúc với hai con sông Vàm Cỏ Ðông và Tây.
Tại những tỉnh về phía Nam, nơi hạ nguồn của sông Hậu như Trà Vinh, Sóc Trăng, đồng bằng được phù sa bồi đắp, thành những giồng đất cao ráo, không bị úng lụt vì nước rút ra biển rất nhanh. Ðây là địa bàn cư trú cũa người Việt gốc Khmer và người Minh Hương (Tiều Châu chiếm đa số) . Ngoài những cánh đồng lúa, ruộng muối cò bay thẳng cánh ở Bạc Liêu, dân địa phương còn trồng nhiều hoa màu phụ như cải, dưa hấu, cây ăn trái.. Với người Việt gốc Khmer, thì thu nhập chính vẫn là cấy lúa ngắn hạn loại Thần Nông, trên đất cao không cần nhiều nước.
3-TRỜI HÀNH LỤT LỘI MỖI NĂM TẠI ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :
Từ trước tới nay, các tỉnh từ Hà Tĩnh vào tới Quảng Trị, thuộc Miền Trung nước Việt, luôn luôn hứng chịu thảm trạng chiến tranh và sự khắc nghiệt của thời tiết,thêm vào đó Rặng Trường Sơn lấn ra sát biển, làm cho đồng ruộng cằn khô vì cát lẫn với đá núi. Cho nên trong dân gian đã có câu ca dao ‘ Trời hành cơn lụt mỗi năm, mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm ‘.Lời than thở này bây giờ đã vượt biên giới và trở nên thân quen đối với đồng bào miền Châu Thổ Sông Cửu Long,vì năm nào cũng phải cât lực đối phó với tình trạng lụt lội, đã trở nên thường trực trong cuộc sống của mọi người.
Trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt, tổ tiên ta bao đời vừa phải ngăn chống giặc ngoại xâm, đồng thời cũng luôn luôn diễn ra cuộc chiến sống chết chống thiên tai bảo lụt, khắp ba miền Trung, Nam , Bắc., mỗi miền có một địa hình, thời tiết khác nhau nên cách phòng chống cũng vô cùng phức tạp.
Dựa vào tài liệu của bao đời lưu lại, ta thấy người xưa đã biết rất rõ ràng phương pháp trị thủy. Miền Trung điạ hình hẹp và dốc, sông ngắn nên lụt lội dâng lên rất mau., phải luôn đề phòng để kịp thời phòng chống. Ở Bắc phần, đồng bằng thấp hơn mực nước sông vào mùa lụt từ 5m ố 7m, vì vậy cần phải đắp đê rất cao để ngăn lụt. Hằng năm vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn bên Tàu chảy về, cộng thêm nước từ miền Trung Du và đồng bằng, lại còn thủy triều và nước biển dâng cao, do ảnh hưởng của bảo, là nguyên nhân mà các thời đại VN trong lịch sử, phải đắp đê ngăn ngừa lụt ở miền Bắc.
Năm 886 sau Tây lịch, miền Bắc đã bắt đầu khởi công xây dựng hệ thống đê điền, doc theo các con sông Hồng,Thái Bình và nhiều con sông quan trọng khác.. Hiện nay qua báo cáo, hệ thống đê tại Bắc Việt dài tới 3500 km,tổng khối lượng đất đá xữ dụng là 400 triệu m3, gồm 260 bờ kè, 800 cống thoát nước. Những con đê với bờ cao, dốc thoải,thảm cỏ xanh rờn, uốn lượn hai bờ sông, đã vẽ nên bức tranh quê làng VN, thật là êm đềm hạnh phúc. Khắp nơi chen chúc ruộng đồng, vườn tược và nhà cửa đình làng, ân hiện sau lũy tre xanh, đã nói lên thể phách văn minh văn hiến của Dân tộc Hồng-Lạc.
Từ khi Trung Cộng lén lút xây dựng các đập thủy diện trên hệ thống sông ngòi chảy qua tỉnh Vân Nam vào năm 1971, thì đại họa cũng bắt đầu đổ ập một cách âm thầm vào non nước VN, qua cảnh dòng sông không còn êm đềm chảy, mà dâng cao đục ngầu, mang đầy rác rưởi, gổ tre, khắp nơi đầy những vực xoáy hung dữ. Năm 1971, mực nước sông Hồng dâng cao tới 14,8 m,gần như lưu lượng nước (80-88%) đổ vào Sơn Tây, trung tâm của đồng bằng Bắc Việt. Từ năm 1920, bờ đê tại Hà Nội chỉ mới cao 11,5m. Năm 1932 là 13,3m và hiện nay đã cao tới 15-15,5m. Ngoài ra còn hy vọng vào các hồ chứa sông Ðà, Lô, Gầm, Chảy và Ba Bể.. để hạ bớt mực nước lụt. Câu chuyện thần thoại ‘ Sơn Tinh Thủy Tinh ‘ thời Tổ Hùng dựng nước, được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hồi tiền chiến, vẽ lại bằng bức tranh thơ, đã nói lên cuộc chiến quyết liệt của Dân Tộc Việt,trước thảm nạn lụt lội và giặc thù truyền kiếp, cả hai đều xuất phát từ nước Tàu. Vậy mà từ Hồ Chí Minh tới các chóp bu kế tiếp sau này, lúc nào cũng to miệng bưng bợ Trung Cộng, rằng là đồng chí đồng rận, chủ nghĩa xã hội anh em, môi hở răng lạnh, sông liên sông núi liền núi.. cho nên VC mới đem không biết bao nhiêu đất đai biên giới, biển đảo để mà dâng cúng cho quan thầy,cũng đâu có gì lạ.
Ðồng bằng sông Cửu Long trái lại bằng phẳng,cho nên trước đây người dân bản địa có tập quán là cứ sống chung với lủ lụt cho tới khi nước rút hết, chứ không làm gì cả. Ta biết Sông Mekong tuy phát nguồn tận Tây Tạng và chảy qua các nước Miến Ðiện, Thái Lan, Lào, Kampuchia mới vào Nam VN. Quan trọng nhất, là dù phần cuối của sông Mekong, với tổng diện tích tự nhiên chỉ có 3,9 triệu ha, chiếm 5% toàn bộ lưu lượng của cả dòng sông. Trong lúc đó hằng năm,miền tây nam Nam phần, phải nhận của sông Cửu Long, hơn 460 tỷ nước, cùng 200 triệu tấn phù sa, tạo nên miền châu thổ phì nhiêu sông Tiền, sông Hậu ngày nay.
Lãnh thổ VN, chỉ có địa hình Nam Phần bằng phẳng, thấp không có đồi núi nhiều (trừ núi Bà Rá, Bà Ðen ở miền Ðông-Bắc,Thất Sơn ở biên giới phía Tây). Nên dù khắp nơi có đầy kênh rạch, sông ngòi nhưng vào mùa nước lụt, vẫn không chịu nổi ảnh hưởng của thủy triều và lượng nước tuôn về từ thượng nguồn, khiến cho lòng sông không tải kịp nước ra biển, gây nên hiện tượng úng ngập tràn lan kéo dài hằng tháng.
Trước đây khi dòng sông Cửu Long chưa bị biến thái vì các đập thủy điện trên thượng nguồn tại Trung Cộng, Thái Lan, Lào.. thì hằng năm nước ngập, đã mang đến thật nhiều phù sa bồi đắp cho miền châu thổ , làm cho Mũi Cà Mau lấn thêm đất ra biển, sông rạch có thêm nhiều tôm cá và đủ cac loại thủy sản.. Từ năm 1961 tới 1994, miền Tây Nam Phần đã bị sáu trận lụt lớn, làm ngập 1.828.000 Ha ruộng, kéo dài từ 3-6 thang mới rút hết nước.
Thật ra vấn đề lụt lội tại Nam Phần, đã được người Pháp quan tâm từ năm 1926, khi Ðông Dương là thuộc địa của thực dân. Qua những hồ sơ lưu trữ, ta biết tới nay vùng này đã bị 31 lần lụt lội lớn nhỏ. Quan trọng nhất là năm 1966, vào mùa lụt, nước sông Cửu Long tại Tân Châu lên tới 5,28m (trước đó mực nước tối đa là 4,6m), đã làm cho toàn thể đồng bằng miền Tây chìm ngập trong biển nước. Trước đây người ta thường có quan niệm về sự lụt lội của Nam phần, là điều phải xãy ra theo chu kỳ qui định của thiên nhiên trong 4 năm. Ðó là những giai đoạn 1937-1940, 1946-1949.
Nhưng giai thoại trên, kể cả lụt lội đem phù sa bồi đắp cho đồng ruộng, coi như đã chấm dứt từ năm 1980, nguyên do vì Trung Cộng đã phá vở gần như tất cả những môi trường thiên nhiên tại thượng nguồn nhưng VN lại lãnh đủ hậu quả, nhưng cứ đem hiệu ứng nhà kính, đã gây ra sự thay đổi thời tiết, khí hậu, để mà đổ thừa hay che dấu sự thực.
Hiện nay có tới 12 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cưu Long, chiếm diện tích 3,9 triệu Ha nhưng vùng lụt lội hằng năm thường tập trung vào 7 tỉnh đầu nguồn là An Giang, Ðồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang và Long An. Lụt lội hằng năm, làm cho 1 triệu Ha ruộng bị chìm ngập dưới nước sâu trong nhiều tháng, gần 10 triệu đồng bào địa phượng bị thiệt hại , từ nhân mạng tới vật chất. Lụt bây giờ ngập sâu và kéo dài hơn trước, lại đến sớm nhưng rút muộn, ảnh hưởng nặng nề tới nông vụ vốn là chén cơm manh áo bao đời của tầng lớp cư dân miệt vườn. Mặc khác lụt lớn, làm cho đất đai bị mòn xói, phá vở các công trình xây dựng hai bên bờ sông, kể cả đường xá kênh rạch. Riêng trận lụt năm 1996, làm cho 217 người chết trong đó có tới 162 trẻ nít, gây tổn hại tới 2182 tỳ tiền Hồ.
Sông Mekong khi chảy tới Kampuchia , trong tỉnh Kompong Cham thì lòng sông không đủ sức chuyển vận lưu lượng nước từ thượng nguồn, nên phần lớn ruộng đất trong vùng cũng bị ngập nước nhiều tháng, từ tháng 7-12 hằng năm. Nhờ nước tràn bờ nên lưu lượng giảm. Thêm vào đó tại NamVang, sông Cửu Long có một chi nhánh lớn là sông Tonle Sap, đã dẫn nước về chứa trong Biển Hồ có thể tích tới 80 tỷ m3.Nước này lại chảy ngược ra sông chính vào mùa khô.
Cũng tại Kompong Cham, sông Cửu Long lại chia thành hai nhánh : Nhánh chính tới Neak Luong và chảy vào VN tại Tân Châu gọi là Tiền Giang. Nhánh Phụ còn gọi là sông Bassaac vào Châu Ðốc, đó là sông Hậu và ra Ðông Hải bằng chín cửa nhưng nay cửa Ba Lai tại Bến Tre đã bị cát biển và phù sa bít kín. Tại đầu nguồn, vì lưu lương nước quá mạnh, nên dòng sông thường bị tràn bờ, đã tạo nên vùng nước úng thủy Ðồng Tháp Mười và Khu trũng Tứ Giác Long Xuyên. Ngoài ra vùng này còn phải tiếp nhận một khối lượng nước phèn, hơn 77% từ Kampuchia tràn sang trong mùa lụt.
Từ năm 1961 tới nay, miền Tây Nam Phần đã bị nhiều trận lụt rất lớn và thiệt hại, vào các năm 1961-1966-1984-1991-1994 với mực nước dâng cao từ 4,67m ố 5,28m. Năm 1978 tại Tân Châu, nước lên cao 4,88m làm 87 người chết, gây hư hại 307.000 Ha lúa và 9000 căn nhà. Năm 1994 mực nước lụt lên tới 5,11m làm chết 407 người, gây tổn thất 283.000 Ha lúa, 2799 căn nhà bị nước cuốn, thiệt hại tới 2284 tỷ tiền Hồ.Năm 1995 lại lụt, làm 150 người thiệt mạng, cuốn trôi nhiều nhà cửa và ruộng lua.
Nguy cơ trùng trùng nhưng Ðảng chẳng những chẳng giải thích một lời nào về thảm họa vì đâu nên nổi, trái lai vẫn cứ ru ngủ đồng bào nạn nhân bằng luận điệu tuyên truyền như Mùa Nước Nổi Hay Sống Chung Với Lũ.. nhờ đó mà đồng ruộng Miền Nam được kéo dài tuổi trẻ, vì có sự bồi đắp của phù sa. Trong khi đó,thực chất gần như đất đai màu mở, cá tôm thủy sản quý của thiên nhiên ban cho các dòng sông Hồng Hà, Mekong.. đã bị chuổi đập lớn nhỏ trên 14 cái, được xây dựng tại Vân Nam giữ lại. Kế tiếp những gì may mắn thoát được, lại bị kẹt ở chuổi đập của Lào-Thái. Cho nên ngày nay, Kampuchia và VN chỉ còn nhận đủ những thứ cặn bã, trong đó có hơn 80% các quặng, hóa chất.. được thải từ hằng trăm nhà máy bên Tàu, đổ xuống dòng nước, tống ra biển, như chúng đã làm trên sông Dương Tử, mà chính báo chí tại Trung Cộng, vừa to tiếng tố cáo.
Khôi hài nhất là bọn Tàu trắng Á Châu và các nước Tây Phương, trong cái gọi là Ủy Ban hợp tác và bảo vệ sông Mekong, lúc nào cũng to miệng về những chuyện trên mây,mục đích vẫn là những dự án đầu tư kiếm lời, chứ đâu thấy ai nhắc tới hiểm họa, khủng bố mà Trung Cộng đã gây cho các nước ở hạ nguồn sông Cửu Long.
4- ÐỒNG RUỘNG MIỀN NAM KÊU CỨU VÌ NẠN XÂM NHẬP NƯỚC MẶN :
Từ năm 1980 tới nay, các sông ngòi ở VN hầu hết đều biến đổi kỳ lạ : Mùa mưa thì tràn nước gây nên lụt lội, trái lại về mùa nắng nước thiếu gây nên cảnh khô hạn. Tại Nam Phần, chính việc thiếu hụt nước tại các sông, đã liên quan tới sự tấn công, xâm nhập của nước mặn từ biền tràn vào sông, trong các đợt thủy triều.
Ðã có trên hằng triệu Ha lúa và hoa màu tại các tỉnh hạ nguồn sông Cửu Long, bị nước mặn xâm nhập khốc liệt, vừa gây tổn hại tới thu hoạch cũng như làm cho mọi người trước nguy cơ thiếu nước ngọt để ăn uống,tắm giặt. Ðây là thảm họa chỉ mới xãy ra tại Nam Phần từ sau thang 5-1975, hiện tượng nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa các tỉnh sát biển, nơi cửa sông Cửu Long. Sở dĩ có tình trạng trên,vì ảnh hưởng của hai yếu tố từ lưu lượng nước tại thượng nguồn và vùng hạ lưu, cộng thêm lượng nước mưa cũng như sự bốc hơi vào mùa nắng.
Thông thường hằng năm, từ cuối tháng 4-5, nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa, khiến cho nước ngọt tại các kênh rạch không còn dùng được để mà tưới ruộng lúa và hoa quả, gây nên cảnh hạn hán thất thu. Theo định luật khoa học, thì tiêu chuẩn độ mặn cần có trong lượng nước ngọt để phục vụ cho nông nghiệp là 4%. Trong khi đó nguồn nước lợ (nước ngọt đã bị nước mặn xâm nhập), độ mặn chỉ có 2% nhưng cũng chỉ để tưới ruộng tạm thời khi không còn một lối thoát nào khác. Nguyên do vì thứ nước lợ này, chỉ có tác dụng cứu khô ngắn hạn, nếu để lâu, nước bốc hơi làm cho nồng độ muối trong ruộng tăng lên cao, làm chết hết lúa.
Do phần lớn đồng ruộng ở miền Nam, không có hệ thống bờ ruộng và kè đê tốt, nên đã lãnh đủ sự xâm nhập của nước mặn chảy vào ruộng,với số lượng bị ảnh hưởng lên tới 1,1 ố 1,3 Ha theo báo cáo của các cơ sở Nông Nghiệp. Ngoài ra nước mặn còn gây tổn hại rất lớn đối với những đồng bào nuôi các loại thủy sản như tôm, cá , ốc.. để xuất cảng.
Nạn nước mặn xâm nhập đồng ruộng được đánh giá trầm trọng, bắt đầu từ năm 1977, trên sông Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang. Tại đây nước mặn chảy sâu vào nội địa từ 8-12km, nhiều hơn những năm trước. Trên sông Vàm Cỏ Tây, nước mặn theo thủy triều vượt qua Tuyên Nhơn về hướng thượng nguồn hơn 30km và kéo dài tới 10 ngày mới rút. Tại Mỹ Tho, nước mặnvào sông Tiền ít hơn và chỉ ở lại có 4 ngày. Nhưng vì nhu cầu nước tuới, đồng bào đã vô tình giúp nước mặn tràn lan nội địa. Những năm 1985-1986, vùng Tuyên Nhơn-Ðồng Tháp, tình trạng nước mặn xâm nhập có giảm so với các năm trước, nhờ con kênh Hồng Ngự mới đào, dẫn nước Vàm Cỏ Tây thông qua sông Tiền. Bắt đầu từ thập niên 1990 Ðồng Tháp Mười được khai thác triệt để diện tích ruộng lúa, nên lượng nước ngọt dùng để tưới trở thành thiếu thốn, tạo điều kiện cho nước mặn càng ngày càng dâng cao, xâm lăng tới tăp vào sâu trong nội địa.
Năm 1993, nước mặn theo sông Vàm Cỏ Tây, lên tới thượng nguồn và ở lại Tuyên nhơn tới 50 ngày. Trên Tiền Giang, do nhu cầu xữ dụng quá nhiều nước, nên ranh giới giữa nước ngọt và nước mặn cũng thay đổi từng năm. Tại Mỹ Tho, nước mặn đã vượt qua vài cây số và nằm lai tới 17 ngày mới rút ra biển. Năm 1998, tình trạng trên lại tái diễn một cách khốc liệt. Nguyên do vì mùa nước nổi tại đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1997, diễn ra thật bất thường, nước từ thượng nguồn đổ về rất ít và rút đi rất sớm Tình trạng trên gây ra khô hạn kéo dài, tạo điều kiện để nước mặn dâng lên cao và ùn ùn kéo vào sông Vàm Cỏ Tây, chảy sâu vào nội địa tới 15-20km.
Trên sông Tiền, sông Hậu, Cổ Chiên tuy lưu lượng có kém so với các năm trước, nhưng vẫn còn sức mạnh, làm giảm thiểu phần nào sự xâm nhập của nước mặn, tuy nhiên cũng đã gây thiệt hại cho hơn 200.000 Ha ruộng lúa. Trong khi đó, vùng tứ giác đầu nguồn Long Xuyên và phía Tây sông Hậu, lại bị ảnh hưởng rất nặng bởi sự xâm nhập của nước mặn, vào sâu trong nội địa từ 16-20 km và ở lại hơn 3 tháng.
Sự xâm nhập của nước mặn vào các sông ngòi miền Nam, là nguyên nhân chính làm các nhà máy đường phải đóng cửa ngưng hoạt động, vì nước ngọt từ năm 1999 đã tăng lên 30.000/1m3 tiền Hồ. Từ đây nước mặn tấn công vào đất liền sớm hơn mấy năm trước. Tóm lại , không riêng gì Tuyên Nhơn, Mỹ Tho.. mà hầu như các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long như Vàm Mỹ Hoá (sông Hàm Luông-Bến Tre), Trà Vinh,, An Thuận, Bến Trại, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ.đều bị nước mặn xâm nhập phá hoại tàn khốc và không có triệu chúng nào, báo hiệu thảm họa trên sẽ ngừng hay chấm dứt. Thêm vào đó, từ mấy năm nay thời tiết lại thay đổi đột ngột, gió chướng thổi manh hơn mấy năm trước,dồn nước mặn vào sông nhiều hơn, đồng lúc thủy triều tại cửa sông hoạt động thêm dữ dội, trong khi lưu lượng dòng sông từ thượng nguồn chảy xuống càng lúc càng yếu dần, không đủ triều cường giữ giới hạn giữa hai con nước như mấy thập niên trước.
Hởi ơi viết chuyện nước mà đau lòng với nước ‘
‘ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mõi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta ‘
(Bà Huyện Thanh Quan)
Hay ‘ Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn ‘
(Tản Ðà)
Vẽ hửng hờ và êm ả của giòng sông, vào lúc chiều tà hay khi trăng treo trên đầu núi, không biết Nguyễn Du tiên sinh sống lại, đứng trước những thảm họa trên,đang ào ạt trút xuống những giòng nước thân thương đó, từng phút, từng giây, từng trong hơi thở của nhip sống Dân Tộc Việt, có còn đủ cảm hứng để hạ bút đề thơ :
‘ Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác, biết là về đâu ‘ -/-
Xóm Cồn
Tháng 9-2007
MƯỜNG GIANG
Thursday, 13. September 2007, 04:28:17
MƯỜNG GIANG

Năm 2006, Cao Guangjing, phó giám đốc quản lý công trình thủy điện của Hoa Lục, đã tuyên bố với báo chí trong và ngoài nước, rằng Trung Cộng sắp hoàn thành Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp, lớn nhất thế giới, trên sông Dương Tử và hãnh diện xác nhận : Ðây là một kỳ quan cũng như biểu tượng kinh tế của Tàu, trong thế kỷ XXI.
Có điều lạ trong lần khoe tốt này, ngay chính đương sự cũng không dám khẳng định, công dụng của đập thủy điện trên tốt xấu thế nào, mà chỉ nói bâng quơ rằng phải chờ tới những ba chục năm sau, hay đúng hơn phải coi nó có thể ngăn chống được sự tàn phá hằng năm của lũ lụt thường trực trên sông Dương Tử, lúc đó mới có thể kết luận
Câu chuyện làm cho người ta nhớ lại Vạn Lý Trường Thành, xưa nay ai cũng nói do Tần Thủy Hoàng xây dựng trước Thiên Chúa giáng sinh, từ lâu được đanh giá là một công trình kiến trúc vĩ đại, chẳng những của nước Tàu, mà còn là của nhân loại. Tuy nhiên huyền thoại này, vào năm 1969 đã bị đánh đổ, bởi Arthur Waldron , giáo sư khảo cổ tại Trung tâm nghiên cứu về Ðông Á, thuộc Trường Ðại học Harvard (Hoa Kỳ).
Trong tác phẩm ‘ The great wall of China ‘ , trình bày những nghiên cứu lịch sử và khảo cổ tại chổ sau nhiều năm đi khắp nước Tàu, cuối cùng tác giả đã khẳng định rằng Vạn Lý Trường Thành, đã tồn tại suốt bao chục thế kỷ qua, thực chất chỉ là huyền thoại. Theo ông, từ năm 700 trước Tây lịch tới nay, khắp nước Tàu đã có rất nhiều thành lũy được xây dựng rãi rác mọi nơi, mọi thời. Nên câu chuyện bức tường thành được kiến trúc duy nhất thời nhà Tần, là không đúng sự thật. Ðể chứng minh,tác giả dựa vào lịch sử Trung Hoa, từ thời nhà Hán cho tới thế kỷ thứ XIII, khi Nhà Nam Tống bị quân Mông Cổ xâm lăng và tiêu diệt, cho thấy Tàu lúc đó không hề có một bức tường thành nào cả, nên đã không thể ngăn cản được vó ngựa trường chinh của Thành Các Tư Hản ở phương Bắc. Ngoài ra ông còn dựa vào các tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Hoa qua bao thời dại, xác nhận các văn nhân lúc đó, chẳng hề xử dụng tới danh từ nào đồng nghĩa với ‘ The great wall’, mà Tây phương chỉ mới dùng sau này.
Ngay đến tài liệu phòng thủ của nhà Minh (1368-1644), cũng không hề nhắc tới Vạn Lý Trường Thành. Mãi đến nửa thế kỷ thứ XVI, trước nguy cơ đe dọa của các dân tộc du mục phuơng Bắc như Mãn, Mông, Tạng.. đã làm cho các Hoàng đế cuối cùng của nhà Minh, mới nghĩ tới việc xây dựng Trường Thành, mục đích phân biệt ranh giới địa lý và nhân vân của Trung Nguyên với các dân tộc trên. Ðó chính là hình ảnh mà người Tây phương đầu tiên đã mang tới cho thế giới bên ngoài, hồi thế kỷ XVIII và phổ biến tới ngày nay. Còn huyền thoại về Vạn Lý Trường Thành do Tần Thủy Hoàng xây dựng, theo Waldron cũng không phải phát xuất từ sách vở của người Tàu, mà được Mao Tôn Cương, hồi thế kỷ XIX do các nhà thám hiểm và khảo cổ Châu Âu. Riêng nhũng ghi chú về Trường Thành, trên bản đồ mà Bắc Kinh phổ biến hiện nay, cũng là sản phẩm của các Giáo sĩ truyền đạo Thiên Chúa, thuộc Dòng Tên, vào thời Nhà Thanh (1644-1912) . Tóm lại, theo các nhà nghiên cứu trong hội nghị quốc tế vừa được tổ chức tại Bắc Kinh, thì Vạn Lý Trường Thành , phần lớn được xây dựng từ thời Nhà Minh. Còn quan niệm cho rằng nhửng thành lũy thời Chiến Quốc, được nhà Tần nối lại với nhau, thành bức Trường Thành, ngày nay kể cả người Tàu vẫn nghi ngờ về phương diện khảo cổ, còn các sử gia thì nói đây là sự giả định, vì không có tài liệu nào minh chứng.
Nhưng đó là chuyện của nước Tàu, nó chỉ liên quan đến chúng ta, là liệu đập thủy điện Tam Hiệp trên sông Dương Tử, có ảnh hưởng gì tới những đập thủy điện khác, mà Trung Cộng đã xây dựng trên thượng nguồn của sông MeKong và Hồng Hà,trong tỉnh Vân Nam, trước khi chảy vào lãnh thổ nước ta, được đánh giá như là một sự khủng bố trắng trợn, đối với vận mệnh của Dân tộc VN. Ðây là nguy cơ trước mắt, được cả thế giới thấy rõ, cho dù Ðảng VC đang đô hộ cả nước, vì sợ Tàu, nên đã cố tình bưng bít nội vụ một cách công khai y chang hành động bịt miệng Linh Mục Nguyễn Văn Lý trước phiên toà hay mới đây sử dụng cả rừng báo chí và trí thức quốc doanh, liếm lấp về các cuộc biểu tình của cả nước đòi đảng trả lại quyền song cũng như tài sản ruộng vườn mà VC tiếm đoạt bằng súng đạn.
Mới đây, Hà Nội lại ký thêm nhiều hiệp ước bất bình đẳng với Tàu, công khai đồng thuận để giặc bắn giết đồng bào ngư phủ ngay trên biển đảo yêu quý của quê hương mình. Ngày nay, VN đã nghèo khổ lại càng khốn đốn hơn vì diện tích canh tác càng ngày càng bị giới hạn bởi thiên tai, nguồn tưới và nạn nhân mãn trầm trọng, với 5,2 triệu ha ruộng, phải nuôi hơn 80 triệu người, nên bình quân 0,16 ha dành cho 1 nông dân, nếu theo quy định của Liên Hiệp Quốc, thì quá thấp, dù theo cái loa tuyên truyền thì VN hiện nay là nước đứng thứ ba (sau Thái Lan, Aãn Ðộ) sản xuất gạo. Nói chung, gạo thặng dư bán ra ngoài chỉ là vấn đề thời gian, cho nên dù muốn hay không, thức ăn và tương lai của dân tộc cũng vẫn là trên các sông ngòi biển sóng.
Bao chục năm qua, người Việt trong và ngoài nước đã căm thù đến tận xương tuỷ, trước những sự việc Trung Cộng xâm lăng cưởng chiếm lảnh thổ của chúng ta. Nhưng đó cũng chỉ là một trong ngàn muôn nổi buồn của thân phận nhược tiểu VN, trong biển máu lệ nước mắt thống hận trùng hằng. Bởi vì cùng lúc, giặc Tàu còn gây ra nhiều cuộc khủng bố khác, mà tàn khốc nhất là đang xữ dụng những đập thủy điện trên các dòng sông phat nguyên trên đất Tàu, chảy vào VN, như một thứ vũ khí môi sinh chiến lược,liên hệ tới sự sống còn của dân tộc.
Ai có thể ngăn được sự phẩn uất , trước lời tuyên bố xấc xược và ngạo mạn của Wang Xiaodong, chuyên viên nghiên cứu của Trung Cộng, về việc khai thác sông Mekong ‘ Ðây là đất nước Tàu, nên muốn làm gì cũng được , ai dám ngăn cản ‘.
Mới đây báo chí tại Trung Cộng đã đồng loạt đăng tải sự lên tiếng của các chuyên gia môi trường tại Hoa Lục, trong đó có Giáo sư Ðại học về môn đia chất là Yuan Aiguo. Theo họ thì tình trạng ô nhiễm đang xãy ra trên sông Dương Tử rất nguy kich, ngoài việc gây bệnh ung thư vì nước uống, dòng sông có thể chết trong 5 năm sắp tới, do việc đổ xuống đây tất cả các loại rác rưởi, trong đó có hóa chất độc hại và cả xác tàu thuyền bị chìm. Hiện 80% nguồn nước ngọt của Thượng Hải là do sông Dương Tử cung ứng (80% thiếu vệ sinh và có chứa hoá chất). Dù Tàu Cộng cố bưng bít nhưng thảm trạng cũng đã bị phanh phui trên dòng sông Tùng Hoa.
Xem như vậy làm sao các dòng sông thiêng của VN như Hồng Hà, Ðà Giang, Lô Giang và quan trọng nhất là sông Cưu Long, đều phát xuất từ bên Tàu, chảy qua tỉnh Vân Nam, trước khi vào lãnh thổ chúng ta, chắc chắn cũng đang mang chung số phận của sông Dương Tử. Có điều chừng nào VC mới dám công khai lên tiếng phản đối Tàu và thông báo tình trạng ô nhiểm nguy kịch chết người, để đồng bào cả nước biết., một sự kiện đáng làm trước hết hơn là phung phí ngân khố quốc gia, để lãnh tụ và ca sĩ quốc doanh xuất ngoại làm trò cười cho đồng bào tị nạn khắp nơi trên thế giới.
1- ÐẬP THỦY ÐIỆN : VŨ KHÍ MÔI SINH CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG CỘNG .
Giang Nam là tên gọi của lưu vực hạ nguồn sông Dương Tử, do nhà Thanh (1644-1912) đặt ra, gồm các tỉnh Giang Tây,Giang Tô và Triết Giang. Miền này thời Ðường,Tống được gọi là Giang Châu, nguyên là đất đai của Bách Việt (Ngô Việt, Mân Việt,Âu Việt và Lạc Việt..), thủ công tinh xảo, dân trí thanh lịch, non nước hữu tình.
Sông Dương Tử còn có tên là Trường Giang, đứng thứ ba trên thế giới sau sông Amazone (Nam Mỹ) và sông Nil (Ðông Phi), có chiều dài 6380km, phát nguyên tại vùng rừng núi Thanh Hải (Tây Tạng), từ trên độ cao 6600m, chảy qua phía tây Tứ Xuyên, xuống phía bắc Vân Nam, rồi đổi hướng chảy ngược lên phía đông Tỉnh Tứ Xuyên , ngang qua các tỉnh Hồ Bắc, An Huy, Giang Tô và ra Biển Ðông tại Hoàng Hải. Nếu tính luôn các phụ lưu, chi nhánh chằng chịt khắp miền Hoa Trung, thì chiều dài của sông Dương Tử lên tới 80.000 km, với hơn 12 triệu dân, gồm 55 sắc tộc, sinh sống ở hai bên bờ sông với đủ nghề.
Trên thượng nguồn, sông Dương Tử có 3 khe núi lớn gồm 25 thác đổ, nhiều nơi nước chảy xiết nhất là vào mùa mưa, khiến cho các ghe thuyền xuôi ngược dễ bị chìm vì đá ngầm. Ðó là hẽm Kingtanxia dài 5km, hẽm Wuxia dài 25km và hẽm Xilingxia dài 47km., tuy ngày nay đã được nạo vét nhưng tàu qua lại vẫn phải có hoa tiêu hướng dẫn để tránh nguy hiểm.
Lưu vực sông Dương Tử hiện nay có hơn 400 triệu người sinh sống. Ngoài ra vùng này còn có 5 hồ lớn, thường đước nhắc nhớ trong các tác phẩm thơ văn của Trung Hoa . Phân Dương Hồ, chứa nước ngọt , rộng tới 5000 km2, nằm trong tỉnh Giang Tây, gần thành phố Vũ Hán. Ðộng Ðình Hồ có các sông Tiêu và Tương đổ nưóc vào và thông với Trường Giang qua sông Hán. Hồ nằm phía tây tỉnh Hồ Nam,nổi tiếng với Nhạc Dương Lầu, măng tre Thần Châu và quít ngọt Ðộng Ðình Hồng. Thái Hồ chứa nước mặn nằm giữa hai tỉnh Giang Tô và Giang Tây. Sào Hồ và Tây Hồ .
+ ÐẬP THỦY ÐIỆN TAM HIỆP TRÊN SÔNG DƯƠNG TỬ :
Tháng 12-1994, Trung Cộng chính thức khởi công xây dựng Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp (Three Gorges Dam), trên khúc sông Dương Tử , chảy trong tỉnh Hồ Bắc, vừa để khống chế nạn lụt hàng năm, đồng thời xây dựng một nhà máy thủy điện với công suất tổng cộng lên tới 12.000 MW. Ðể thực hiện công trình trên, đảng cộng sản đã đuổi hơn 1,5 triệu người dân bản địa, đồng thời làm xáo trộn sinh hoạt của 20 thành phố lớn nhỏ trong vùng.
Tam Hiệp, địa điểm được chọn để xây dựng đập thủy điện, là tên một khúc sông Dương Tử dài hơn 200km, từ phía tây tỉnh Tứ Xuyên, chảy qua phía đông tỉnh Hồ Bắc, được coi như điểm nối của vùng thung lũng Tứ Xuyên với các đồng bằng miền Hoa-Trung, phía dưới hạ nguồn. Khúc sông này chảy qua ba hẽm núi lớn và 25 thác đổ. Theo nhận xét của nhiều bậc thức giả trong và ngoài nước, thì dự án Ðập Thủy Ðiện Tam Hiệp tuy đã được manh nha từ thời Dân Quốc, do Tôn Dật Tiên đề xướng. Nhưng bị các hội bảo vệ môi trường sinh thái địa cầu chống đối, vì nó sẽ hủy diệt vĩnh viễn cãnh quan thiên nhiên trong vùng, đồng thời xóa tên 140 thành phố lớn nhỏ, 4500 làng mạc, 30.000 ha đất trồng trọt, hằng ngàn di tích lịch sử và tiêu phí một ngân khoản khổng lồ, mà không chắc đạt được kết quả mong muốn.
Với nước Tàu, từ trước tới nay sông Dương Tử là nguồn nước tưới cho cả khu vực đồng bằng Hoa Trung, miền đất cá và gạo, chiếm nửa tổng sản lượng của cả nước. Nhưng đồng thời sông Dương Tử cũng là tai ương ngàn năm của Hán Tộc, riêng trong thế kỷ XX lụt lội đã gây cho hơn 300.000 dân chúng trong vùng thiệt mạng. Giống như sông Mekong, sông Dương Tử cũng phát xuất từ Tây Tạng, chảy qua khu vực Tam Hiệp, trước khi vào thành phố Trùng Khánh, được coi như lớn nhất hiện nay tại Hoa Lục.
Từ nhiều lý do, trong đó quan trong nhất cũng vẫn là mục tiêu chính trị,khiến cho Bắc Kinh đã nhắm mắt lao vào một công trình rất tốn kém về tiền bạc, sức người lẫn thời gian,gây ảnh hưởng nặng nề đến vấn đề tâm lý, khi đàn áp đuổi dân, phá hoại các công trình kiến trúc bao đời trong vùng. Thực hiện được đập thủy điện này, về quốc tế Trung Cộng sẽ hãnh diện có thêm một kỳ quan, sau Vạn Lý Trường Thành. Về kinh tế, Ðảng Cộng Sản nuôi hy vọng, nhờ nó giúp mức phát triển 11% hàng năm qua nguồn cung cấp điện cho công nghệ và sinh hoạt.
Ðây là một cái đập khổng lồ , kinh phí dự chi tốn khoảng 30 tỷ đô la, thực hiện trong 14 năm. Chiều cao của dập 607 bộ, chiếm một diện tích hơn 1 dặm vuông., bao gồm một hồ chứa nước dài 370 dặm và một hệ thống khóa đặc biệt : Hút nước từ các nguồn nước khác khi thiều, cũng như xã nước vào mùa lụt, vừa giúp sự giao thông trên sông Dương Tử, đồng thời vét vơ nước từ các con sông khác, qua hệ thống kênh đào, để tưới cho các vùng đất khô hạn xa xôi ở phía tây.
So với các đập thủy điện khác trên thế giới, dập Tam Hiệp không cao và rộng hơn nhưng lại trội nhiều về sức mạnh, với 26 Turbin mà trọng lượng mỗi chiếc 400 tấn/1 chiếc, sẽ tạo ra 18.200 magawatt điện, công suất tương đương với 18 nhà máy điện nguyên tử. Ðập này mạnh hơn các đập Itapu (giữa Brazil và Paraguy có công suất 12.600 megawatt ), dập Guri ở Venezuela có 10.300 megawatt, dập Grand Coulee ở Colorado của Mỹ có 6809 megawatt và đập Sayano Shushensk ở Nga với 6400 megawatt.
Theo nhận xét của thế giới, Trung Cộng đã tốn hết 75 tỷ mỹ kim cho công trình vĩ đại này (chứ không phải 19 tỷ như tuyên bố của đảng) . Vì mục tiêu chính trị, Trung Cộng không cần biết tới tính khả thi và hiệu quả kinh tế của dự án, hầu như đều bị sự phê bình chỉ trích của các nhà đầu tư và tài chính quốc tế. Bởi thế nên không làm lạ khi nghe Phó giám đốc xây dựng đập là Cao Guangjing, nói rằng muốn biết đập có hoàn hảo hay không, phải đợi tới 30 năm sau mới thấy được.
Chưa hết, Trung Cộng còn cho biết sau khi hoàn tất đập Tam Hiệp vào năm 2008, Ðảng lại tiếp tục xây thêm 10 đập khác trên thượng nguồn sông Dương Tử, nối tiếp vùng Tam Hiệp. Ðiều lo lắng nhất của người Tàu hiện nay, là làm thế nào để có thể giảm nhanh chóng một biển nước khổng lồ , luôn được chứa trong hồ với độ cao từ 512-574 ft, khi mùa mưa tới. Thãm kich về đập thủy điện Banqiao ở Hồ Nam, vào năm 1975 mưa nhiều vở đê kéo theo sự sụp đổ của cả một hệ thống đập chung quanh, gây lụt lội làm chết hơn 230.000 người. Nhưng Trung Cộng đã ém nhẹm tới gần đây thế giới mói biết. Ngoài ra đập thủy điện Tam Hiệp chưa khánh thành nhưng nhiều dấu hiệu bể nứt đã thấy xuất hiện. Ðiều này cũng dễ hiểu, vì trong thế giới của các nước xã hội chủ nghĩa anh em (Tàu,Nga, VC,Bắc Hàn, Cu Ba), gần hết ngân khoản của các công trình xây dựng, đều bị cán đảng và quan quyền lớn nhỏ, móc ngoặc với nhà thầu, chia, chặt, xén, bỏ túi.. cho nên đâu có kiến trúc nào được toàn vẹn, vì vậy chưa bàn giao đã lung lay hay sứt mẽ là cái chắc.
+ HỆ THỐNG ÐẬP THỦY ÐIỆN TẠI TỈNH VÂN NAM, TRÊN SÔNG MEKONG VÀ HỒNG HÀ CHẢY VÀO VN :
Sông MeKong phát nguyên từ Tây Tạng, chảy qua Trung Hoa, Lào, Thái Lan, Miến Ðiện, Kampuchia và VN rồi ra Biển Ðông tại chín cửa lớn nhỏ, nên phần sông chảy trong lãnh thổ VN, mới có tên là Cửu Long Giang. Cũng vì dòng sông có sự liên hệ của nhiều nước, nên đã có chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mekong, do nhiều tổ chức và các định chế tài chính quốc tế tham gia. Trên lý thuyết, đã có tới sáu chương trình và dự án phát triển con sông trên. Chương trình Ủy ban sông Mekong (MRC), do LHQ khởi xướng từ năm 1957, nhằm quản lý nguồn nước và tài nguyên của sông, được xúc tiến mạnh sau năm 1975, khi chiến tranh Ðông Dương lần 2 chấm dứt.
Năm 1992, Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) lại khởi xướng chương trình hợp tác sông Mekong, giữa các nưóc liên hệ (GMS), thúc đẩy sự đầu tư khai thác của các nước trong vùng, qua các dự án đầu tư do ADB chi phối. Năm 1993, Nhật Bản đề xướng diễn đàn phát triển toàn diện Ðông Dương (F&DI), chú trọng vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong vùng có sông Mekong chảy qua. Tiếp theo Nhật lại đưa thêm dự án AEM-MITI nhằm giúp Miến Ðiện, Lào, Kampuchia chuyển đổi sang cơ chế thị trường. Cũng năm 1993, Thái Lan lại đề xướng chương trình hợp tác sông Mekong, nhằm phát triển khu vực sông chảy qua các nước Tàu, Miến Ðiện, Thái Lan và Lào.
Tháng 12-1995, Tân Gia Ba và Mã Lai lại đề xướng dự án hợp tác phat triển sông Mekong của các nước thành viên Asean có sông Mekong chảy qua, ưu tiên là đặt hệ thống đường sắt.. Nhưng tất cả đều là lý thuyết, vì Trung Cộng là nước ở thượng nguồn sông Mekong, chẳng bao giờ tôn trọng các ảnh hưởng, sự tác động và lợi ích kinh tế của những nước khác ở hạ nguồn. Trung Cộng đã ỹ mình nước lớn, nên đã bất chấp sự phản đối của các nước liên hệ, bao chục năm qua đã xây dựng cả hệ thống Ðập Thủy Ðiện trên sông Mekong, trong tỉnh Vân Nam, gây thiệt hại nhiều nhất cho hai nước hạ nguồn là Kampuchia và VN.
Thật ra âm mưu khống chế sông Mekong, được Trung Cộng manh nha từ năm 1970. Do sự cô lập và bưng bít nên mãi tới năm 1989 khi Ðặng Tiểu Bình mở cửa đón tư bản vào cứu đảng, người ta mới biết được đại khái là Hoa Lục đang xúc tiến các dự án đập thủy điện tại Vân Nam. Theo tài liệu chính thức của Tỉnh Ủy Vân Nam và lời xác nhận của Hiroshi Hiro, người Nhật, một chuyên gia về sông Mekong, cho biết Trung Cộng đã xây dựng tới 14 con dập bậc thềm, trên thượng nguồn sông này, đó là chưa kể các con đập khác ở các phụ lưu và trên sông Hồng Hà. Theo thứ tự từ Bắc xuống Nam, ta thấy các đập thủy điện Liutongsiang, Jiabi, Wunenglong, Tuoba, Huangdeng, Tiemenkan, Guongguoqiao, Công Quả Kiều, Xiaowan, Tiêu Loan, Manwan, Daichaoshan, Ðại Triều Sơn, Nuozhado, Nọa Trát Ðộ, Jinhong, Cảnh Hồng, Ganlanba và Mãnh Tòng.
Sông Mekong hay Dza-Chu (Nguồn nước của đá), phát nguyên từ cao nguyên phía đông Tây Tạng, dài hơn 4000 km, chảy về hướng Nam, băng qua những hẽm núi sâu và rừng núi hoang lạnh của tỉnh Vân Nam với cái tên Lan Thương Giang (Lancang Jiang). Riêng khúc sông chảy giữa biên giới Lào-Thái mang tên Mae Nam Khong. Tại Cam Bot sông lại có tên là Tonle Thom và cuối cùng Cửu Long Giang trong lãnh thổ VN.
Trong cuốn sách ‘ Lan Thương Giang ố Tiểu Thái Dương ‘ , do Vân Nam Nhân Dân Thư Xã ấn hành bằng tiếng Tàu, từ đầu tới cuối chỉ đề cao tới tiềm năng của sông cần khai thác, tuyệt nhiên chẳng thấy nói tới hậu quả nào do chuổi đập gây thiệt hại tới các nước ở hạ lưu. Ðiều này dễ hiểu,vì Trung Cộng luôn coi đó như một bí mật quốc phòng, thứ vũ khí môi sinh chiến lược, để khủng bố VN, quốc gia cuối cùng nơi dòng sông thoát ra biển.
Tóm lại chỉ riêng với ba con đập đầu tiên được xây dựng trên thượng nguồn Mekong là dập Mạn Loan, Ðại Triều Sơn và Cảnh Hồng, với các triền núi cao dùng làm vách hồ chứa nước vào mùa mưa và xã nước trong mùa nắng. Hậu quả sông Mekong sẻ không còn những cơn lụt hằng năm, mang phù sa và các loại thủy tộc, từ thượng nguồn xuống Biển Hồ, sông Tiền, sông Hậu. Cuối cùng các hồ chứa nước tại Vân Nam, sẽ giữ lại hết phù sa và nước ngọt tại chuổi đập bậc thềm , làm cho Biển Hồ khô chết, còn đồng bằng miền Nam ven biển Ðông, sẽ bị ngập mặn vì lòng sông thấp hơn mực nước biển.
Trước mắt những con đập tại Vân Nam, thường trực gây bất thường cho dòng sông Mekong, làm xói lở hai bờ , đọng nhiều muối trên đất, nguồn phù sa hằng năm từ thượng nguồn bị giữa lại, làm cho ruộng thiếu nguồn phân bón thiên nhiên. Tai hại hơn, là Trung Cộng đã trút đổ những chất phế thải độc hại từ các nhà máy công nghệ như chì, kẽm, cyanide.. gây ô nhiểm nước uống và hệ thủy sản trên sông, nhất là các loại cá .
Tháng 12-2001, theo tin Asian Pulse cho biết là Trung Cộng lại khởi công xây đập Tiểu Loan trên khúc giữa Lạn Thương Giang, lớn thứ nhì trên nước Tàu, chỉ thua đập Tam Hiệp. Ðập này có công suất điện 4200 MW, cao nhất thế giới 292 m, riêng hồ chứa nước lên tới 15 tỷ m3 khối nước, từ nguồn sông Mekong. Ðập hoàn thành năm 2010 với kinh phí 4 tỷ đola.
Ngày nay Trung Cộng đã công khai đe dọa thế giới, trực tiếp đối đầu với Mỹ, Nhựt, Liên Âu và LHQ, nên đâu có lạ khi thấy người Tàu toàn quyền khai thác sông Mekong và từ chối tham dự Ủy hội bảo vệ con sông này vào năm 1995 cũng như không cầm đếm xỉa tới thảm họa môi sinh của 5 nước dưới hạ nguồn. Thế giới ai cũng nhìn thấy rõ, nhát là mưu đồ dùng sông Mekong như một thủy lộ, khi có cuộc chiến trong tương lai gần.
2- ÐỒNG BẰNG VÀ SÔNG NGÒI VN, TRƯỚC THẢM HỌA KHỦNG BỐ CỦA TÀU :
Diện tích VN hiện nay là 331.000 km2, trong đó hai đồng bằng Bắc và Nam Việt, xưa nay được coi như là vựa lúa gạo của cả nước. Miền châu thổ Bắc Việt hình thang, giới hạn bởi tứ giác Phủ Lạng Thương, Ðồ Sơn, Việt Trì và Phát Diệm., với diện tích 15.000 km2, chỉ chiếm 12% Bắc Phần (115.700 km2), được hình thành bởi phù sa sông Hồng Hà và Thái Bình.
+ SÔNG HỒNG HÀ : Phát nguyên từ rặng Ngụy Sơn, kế Ðại Lý Hồ trong tỉnh Vân Nam (Tàu), có chiều dài 1200 km, phần chảy trên đất Trung Hoa gọi là sông Ma Lung hay Nguyên Giang. Riêng 500 cây số trong lãnh thổ VN, được gọi là Nhĩ Hà, Hồng Hà hay Sông Thao.
Sông vào địa phận Bắc Việt tại Hà Khẩu (Lào Kai), trước khi ra biển Ðông, đã tiếp nhận nhiều phụ lưu quan trọng như sông Lô ở tả ngạn. Sông này còn có tên là Thanh Giang, cũng phát nguyên từ bên Tàu và chảy vào VN tại Hà Giang, rồi đổ vào sông Hồng ở Việt Trì. Sông Lô còn có hai phụ lưu là sông Gầm va sông Chẩy thông với hồ Ba Bể.
Sông Ðà bên hữu ngạn,cũng phát nguyên từ Vân Nam, chảy vào VN song song với sông Hồng và đổ vào sông này tại Việt Trì. Ngoài ra còn có nhiều sông nhỏ khác, cũng đổ vào Nhĩ Hà như Nậm Pò, Nậm Na, Nậm Mấc, Ngòi Thia, Ngòi Lao ở thượng nguồn. Phía gần biển, có thêm các phụ lưu Sông Luộc, sông Ðuống, sông Ninh Cơ, Trà Lý.. Tất cả đã mang phù sa bồi đắp cho cánh đồng lúa mùa, miền Hạ Du, ngay từ thời Văn Lang lập quốc cho tới bây giờ. Từ Hà Nội lên Lào Kai, xuyên biên giới đi Vân Nam ,có con đường sắt được thiết lập từ thời Pháp thuộc, chay song song với tả ngạn sông Hồng, qua những nhà ga Bảo Hà, Trái Hút, Phố Lu.. mang đầy huyền thoại trong kho tàng văn học dân gian, về các câu chuyện ‘ Ma-Cọp ‘.
Lào Kai là tỉnh địa đầu của miền tây bắc, chỉ cách Trung Cộng có cây cầi biên giới Cốc Lếu, nên trong cuộc chiến năm 1979, giặc Tàu gần như làm cỏ thành phố, mãi cho tới năm 1991 mới chỉ có 1700 gia đình trở về nhà cũ của mình.. Ngày nay nhờ chương trình du lịch Sapa và nhất là buôn lậu ,nên Lào Kai dân số gần 100.000 người. Thị xã nằm ngay trên ngả ba sông Nậm Thị từ Vân Nam đổ vào sông Hồng. Cầu Hồ Kiều dài 200m, ngăn đôi hai nước, bên này là Lào Kai, phía bên kia là thị trấn Hà Khẩu, thuộc châu Hồng Hà, tỉnh Vân Nam.
Sông ra biền bằng cửa Ba Lạt và Trà Lý ở thị xã Thái Bình. Trước đây khi Trung Cộng chưa xây dựng các đập thủy điện trên thượng nguồn của sông chảy trong tỉnh Vân Nam, thì Nhĩ Hà có lưu lượng rất lớn và thay đổi tuỳ theo mùa, từ 300m3/1 giây ố 28.000 m3/1 giây nhưng trung bình là 700m3/1giây.. Nước sông dâng cao thường vào mùa mưa, tại Hà Nội có khi dâng cao tới 12m, trong khi mùa nắng mực nước chỉ có 2m.. Từ trước tới nay vùng Hoa Nam và Bắc Phần có nhiều mưa về mùa hè, làm cho mực nước sông Nhị dâng cao rất nhanh. Lúc trước tại Vân Nam, rừng chưa bị đốn để dựng đập nước, nên mùa mưa, phần nào giữ được nước tuôn từ thượng nguồn về.
Nay Trung Cộng xây đập khắp nơi, mùa nắng thì giữ nước ngọt lại trong hồ chứa để mà tưới , trái lại mùa mưa thì mở đập để nước trên sông lẫn trong hồ, tuôn về hạ nguồn, cho nên mấy năm qua, Hà Nội và các tỉnh Bắc Phần luôn bị nạn lụt. Trong khi đó , hệ thống đê điền ở miền Bắc tuy dài hơn 4000km, nhưng lại có quá nhiều khuyết điểm, chẳng hạn như đê phải đắp cao theo tình hình mực nước, khiến cho đê thường bị vở. Ngoài ra vì bị đê ngăn chặn phù sa, khiến cho đồng bằng Bắc Phần lần hồi không được bồi đắp, nên càng lúc thêm cằn cổi, thu hoạch kém, tốn nhiều phân bón.
Riêng hệ thống sông Thái Bình, dài độ 340km, chảy từ Phả Lại, qua Hải Dương ra biển, với các phụ lưu là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu, đều phát nguồn trong nội địa VN. Tuy nhiên vì Sông Nhị có hai phụ lưu ở tả ngạn là sông Ðuống và sông Luộc, đều chảy vào sông Thái Bình, cho nên hệ thống sông này cũng bị ảnh hưởng khi nguồn nước hay dòng chảy của sông Hồng bị tắt nghẽn hay bất thường. do những ảnh hửng từ thượng nguồn bên Vân Nam gây ra.
+ ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :
Ngày nay đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm 12 tỉnh miền tây Nam phần : Long An, Mỹ Tho, Bến Tre, Ðồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bac Liêu và Cà Mâu. Khu vực này chiếm một diện tích 40.000 km2 với hơn 16 triệu dân, gồm người Việt, Khmer, Hoa và Chàm. Do cấu tạo môi trường thiên nhiên khác nhau, ảnh hưởng từ sông, biển và khí hậu, nên khu vực này được chia thành bốn vùng riêng biệt :
- Vùng phù sa nước ngọt : Từ nguồn sông chính tại Kampuchia, Mekong chảy vào Nam Phần bằng hai nhánh tại Châu Ðốc và Hồng Ngự, xuống tận Mỹ Tho, Bến Tre. Khu vực này chiếm một diện tích hơn 1 triệu Ha, phần lớn là vườn cây ăn trái đủ loại, mọc bạt ngàn theo hai bờ sông Tiền và Hậu, cùng với một hệ thống kênh rạch chằng chịt như mạng nhện. Ðặc biệt giữa dòng sông thường có nhiều cù lao lớn nhỏ như Cồn Phụng, Lân, Qui tại Mỹ Tho, cù lao Ông Hổ ở An Giang, cù lao Tân Lộc (Thốt Nốt-Cần Thơ), cù lao Bình Hòa Phước tại Vĩnh Long..
- Vùng phù sa nước mặn : Chiếm diện tích khoảng 900.000 Ha, bao gồm lưu vực các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Cà Mau. Ðặc điểm vùng này là có nhiều rừng nguyên sinh ngập măn, nhiều khu vực tập trung hàng ngàn loại chim cò đủ loại tại Vàm Hồ (Ba Tri-Bến Tre), Bạc Liệu hay Chùa Dơi (Sóc Trăng)..
- Vùng bán đảo Cà Mau : Nằm cuối miền Nam nước Việt, rộng chừng 1 triệu Ha và hằng năm được phù sa của sông Hậu, bồi đắp thêm làm cho Mũi Cà Mâu càng lấn ra biển từ 60 ố 80m. Tại đây còn nhiều khu rừng tràm, đước được dùng làm củi đốt từ xưa tới nay Khắp khu vực có nhiều Sân Chim Cò, Cốc hơn 40 loại, sống tại Ngọc Hiển, U Minh, Hòn Khoai. Ðây cũng là vựa tôm, cá và đặc biệt là mật ong nổi tiếng của Miền Nam.
- Vùng Ðồng Tháp Mười và Khu Tứ Giác Long Xuyên : Rộng 1 triệu ha, được coi như là những hồ chứa nước thiên tạo, vào mùa sông Tiền-sông Hậu lụt lội, nhờ vào năm miền trũng thấp. Trong số này quan trọng nhất vẫn là Ðồng Tháp Mười, với các khu rừng tràm Xẻo Quít (20 Ha), Tràm Chim (2441Ha).. có hơn 141 loài chim sinh sống, nhiều nhất là loài sếu đầu đỏ.
Nói chung đồng bằng sông Cửu Long được tạo thành bởi phù sa của hai nhánh sông Mekong, gọi là sông Tiền (Dòng chính) và sông Hậu, được chia thành chín nhánh nhỏ hình rẽ quạt, đổ ra biển bằng chín cửa, lại tạo thành nhiều cù lao rất phì nhiêu. Trong lãnh thổ VN, phía thượng nguồn, sông Cửu Long làm thành vùng trũng như những hồ chứa nước thiên nhiên trong mùa lụt. Về phía biển, đồng bằng được phù sa bồi đắp cao ráo, thành những giồng để cất nhà cửa, lập vườn cây ăn trái . Dòng sông cho nhiều tôm cá quanh năm, bù đắp phù sa như một thứ phân bón hữu to rất tốt cho đồng ruộng. Toàn vùng, Mỹ Tho được coi là lý tưởng nhất cho nghề nông vì đất đai phì nhiêu, sông rạch đầy tôm cá, người dân làm chơi ăn thiệt, cuộc sống sung túc, tạo thêm dân trí lễ nghĩa với các thú vui nghệ thuật, mà phát triển nhất nếp sống miệt vườn tao nhã qua đờn, ca, hát xướng, thơ ngâm, hò đáp khi chèo thuyền giả gạo.
Sông Tiền Giang chảy ngang qua thành phổ cổ kính Mỹ Tho, trước khi ra biển bằng nhiều nhánh. Giữa những nhánh sông có các cù lao rộng lớn phì nhiêu, làm thành tỉnh Bến Tre nổi tiếng với rặng dừa xanh lơn nhất nước. Trường Trung Học danh tiếng Nguyễn Ðình Chiểu tại Mỹ Tho, được coi như là ngôi trường đầu tiên của người Việt tại Nam Phần, trong lúc Sài Gòn mới có ngôi trường Trung học dành cho con cái người Pháp (nay là trường TH.Lê Quy Ðôn) , lập hồi cuối thế kỷ XIX. Vào năm 1926, Sài Gòn mới có trường TH.Petrus Ký, dành cho người Việt.
Ðất Gò Công sát biển, nổi tiếng với Ðức Từ Dũ (Mẹ ruột vua Tự Ðức nhà Nguyễn), căn cứ chống thực dân Pháp của anh hùng Trương Ðịnh (1863). Ngược về phía nam, xuyên QL4 (nay là QL1), trước khi đến cầu Mỹ Thuận (thay thế phà), hai bên đường lẫn bờ sông, nhà cửa san sát, xen lẫn với vườn đủ loại trái cây và đồng ruộng lúa nước xanh um ngút mắt.
Qua cầu, quẹo về hướng biển non 10 cây số, là tới Vĩnh Long, miền đất hiền lành xinh đẹp nằm trên Sông Cổ Chiên, một nhánh của Cửu Long. Chợ tỉnh trải dài theo bờ sông bồng bềnh những giề Lục Bình hắt hiu trong màu phù sa làm cho nước vàng đục. Thành cổ xưa còn đó với cây đa cổ thụ, làm nhớ tới Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông.. người uống thuốc độc quyên sinh để đền nợ nước, kẻ thỉ rời bỏ quê làng chôn nhau cắt rút, dắt díu gia đình ra tận Bình Thuận tị địa vào năm 1867, khi thành Vĩnh Long bị thực dân Pháp đánh chiếm. Gần chợ nay vẫn còn Văn Thánh Miếu được lập ra thờ Khổng Tử, nhưng ngày nay người Việt đến cúng bái, gần như chỉ biết tới Phan Thanh Giản và Nguyễn Thông mà thôi.
Bên kia sông Hậu là thành phố Cần Thơ, sung túc bề thế và xinh đẹp chỉ thua Thủ đô Sài Gòn. nên xưa nay vẫn được đời xưng tụng là Thủ phủ của Miền Tây-Nam Nam Phần, phát triển ngay từ đầu thế kỷ XX, ngay khi miền Hậu Giang trở thành vựa lúa gạo nuôi sống cả nước. Nhờ vậy mà cả cánh đồng lau sậy, tràm được, cá sấu, muỗi mòng, giữa sông Hậu và Vịnh Phú Quốc, được khai thác, đào kênh, đắp đường, mở mang làng xóm, trù phú như ngày nay. Thời Pháp thuộc, Cần Thơ có Chi nhánh Ngân hàng Ðông Dương, Nhà máy Ðiện lực rất lớn, cung cấp điện cho các tỉnh lân cận. Trường Trung học Công lập Phan Thảnh Giản thành lập từ năm 1926,hơn trăm năm qua đã đào tạo không biết bao nhiêu nhân tài của đất nước, trong đó không thể không nhắc tới Nhà Quân Sử nổi tiếng hiện nay tại hải ngoại là Pham Phong Dinh..
Cuối nước Việt, về hướng biên giới,đầu tiên là Cảng Cá,nằm ngay Vàm sông Ông Ðốc, qui tụ nhiều tàu đánh cá lớn khắp vùng. Xa hơn là Ngư Cảng Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang, nổi tiếng nhất nhì trong nước, ngang hàng với Ngư Cảng Phan Thiết-Bình Thuận. Biển ở đây cạn, nhiều bùn lại nhiều muỗi mòng nhưng ngược lại đầy tôm cá. Ngoài khơi Rạch Giá có hằng trăm đảo thuộc chủ quyền VN, trong đó có Hòn Tre diện tích lớn, dân đông.Kế bên là Hòn Sơn Rái nổi tiếng làm nước mắm cá biển
Sát biên giới Việt-Kampuchia là Thị Xã Hà Tiên,phong cảnh hữu tình với Ðông Hồ, núi Tô Châu, ngôi chợ tuy nhỏ nhưng đây cổ kính. Ðối diện là Hải Ðảo Phú Quốc, lớn nhất VN, chuyên trồng tiêu, làm nước mắm, ngư nghiệp
Từ Chợ Hà Tiên đi ngược lên dọc theo biên giới có Kênh Vĩnh Tế do Thoại Ngọc Hầu đào vào thập niên 1920, thời Vua Minh Mệnh nhà Nguyễn. Kênh này như một thủy đạo, nối liền sông Hậu thông ra Vịnh Phú Quốc. Vùng này trũng thấp, đất phèn mặn, nên ruộng đồng hoàn toàn bị ngập, vào mùa lụt do sông Cưu Long dâng cao. Bảy Núi hay Thất Sơn bao gồm nhiều hòn lớn nhỏ, chạy dài trên 30km, mà đỉnh cao nhất là ngọn Núi Cấm (700m),mây trắng che mịt mù vào mùa đông, trong nuí có nhiều hang động thiên nhiên, trên sườn mọc đầy sắn, đậu, hoa quả và các cây thuốc Nam.
Kế cận là Thị Xã Châu Ðốc, nổi tiếng ba miền là Miểu Thờ Bà Chúa Xứ Núi Sam, được xem là chốn linh thiêng, quanh năm có rất nhiều thiện nam tín nử tới hành hương cúng kính.. Chợ Châu Ðốc xây trên bờ sông Hậu, dưới sông tấp nập ghe thuyền. Phia bên kia sông có nhiều Làng Chàm Hồi giáo, chuyên sinh sống bằng ngư nghiệp và nghề dệt dệt tơ lụa.
Thành phố Long Xuyên là thủ phủ của tỉnh An Giang, lúa gạo sung túc, đang phát triển mạnh nghề nuôi cá bè trên sông Hậu. Ðây là miền đất được mở mang sớm nhất ở Nam Phần, ngay từ năm 1700 khi Thống Suất Nguyễn Hửu Cảnh, được lệnh Chúa Nguyễn Phúc Chu, tới đây cũng cố biên giới, vì vậy các lưu dân từ Thuận Quảng theo chân đoàn quân vào đậy lập nghiệp rất đông đảo. Tại An Phú, đầu nguồn của sông Hậu trong tỉnh An Giang, nay còn sót lại Búng Bình Thiên, có diện tích rộng hơn 30.000 m2, là một vùng đất bị bỏ hoang vì nước sâu không thể trồng lúa được. Láng mọc đầy Sen và cỏ dại, là nơi chung sống của đủ loài thủy tộc, từ cá tôm, cho tới rắn rùa, sống dưới rừng củ co, bông súng, rau tràng.. cảnh sắc không gì thay đổi như từ hai ba thế kỷ trước. An Phú còn có tới 4 chợ trời biên giới và đông đảo người Chàm theo Hồi giáo cư ngụ.
Sa Ðéc hiện nay chỉ là thị trấn, trong khi Cao Lãnh trở thành thị xã tỉnh lỵ của Ðồng Tháp. Nằm bên hửu ngạn sông Hậu, Sa Ðéc là vùng đất cổ, nổi tiếng với những vườn cây ăn trái của Nam Phần,nhờ khí hậu trong lành so với các tỉnh khác. Chợ Sa Ðéc đẹp, vùng lân cận nổi tiếng về sản xuất hoa hồng. Trên con đường từ chợ tới Bắc Vàm Cống, có hai làng nghề truyền thống là Nem Lai Vung và Chiếu Lấp Vò. Ngoài ra tại làng Ðịnh Yên, còn có một Chợ chiếu độc đáo, mà người điạ phương gọi là ‘ Chợ Ma hay Chợ Âm Phủ ‘, vì chợ chỉ nhóm họp hằng đêm từ 12 giờ khuya tới hừng sáng thì dẹp. Ðây là truyền thống đã có từ 100 năm qua, chuyên bán sĩ và lẽ hai loại chiếu ‘ Hà Niên’là loại chiếu bông vuông nhỏ và loại ‘ Vẩy Ốc ‘ màu trắng, bông được in bằng khuôn, làm rất công phu, để lâu không bị bay màu và lên mùi mốc.
Ðồng Tháp Mười là vùng đất trũng, nhiều phèn, vào mùa lụt nước sông dâng cao tới 4m, cá tôm nhiều nhưng muốn có phải mua sắm dụng cụ mới khai thác được.. Tại đây còn có một loại lúa trời, mọc tự nhiên, ăn được nhưng không ngon. Trước đây Ðồng Tháp Mười coi như một đồng cỏ khổng lồ, ngày nay nhiều khu vực đã được khai khẩn để trồng lúa. Dân cư tứ xứ tới đây làm ăn rất đông, nhất là khu vực tiếp xúc với hai con sông Vàm Cỏ Ðông và Tây.
Tại những tỉnh về phía Nam, nơi hạ nguồn của sông Hậu như Trà Vinh, Sóc Trăng, đồng bằng được phù sa bồi đắp, thành những giồng đất cao ráo, không bị úng lụt vì nước rút ra biển rất nhanh. Ðây là địa bàn cư trú cũa người Việt gốc Khmer và người Minh Hương (Tiều Châu chiếm đa số) . Ngoài những cánh đồng lúa, ruộng muối cò bay thẳng cánh ở Bạc Liêu, dân địa phương còn trồng nhiều hoa màu phụ như cải, dưa hấu, cây ăn trái.. Với người Việt gốc Khmer, thì thu nhập chính vẫn là cấy lúa ngắn hạn loại Thần Nông, trên đất cao không cần nhiều nước.
3-TRỜI HÀNH LỤT LỘI MỖI NĂM TẠI ÐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG :
Từ trước tới nay, các tỉnh từ Hà Tĩnh vào tới Quảng Trị, thuộc Miền Trung nước Việt, luôn luôn hứng chịu thảm trạng chiến tranh và sự khắc nghiệt của thời tiết,thêm vào đó Rặng Trường Sơn lấn ra sát biển, làm cho đồng ruộng cằn khô vì cát lẫn với đá núi. Cho nên trong dân gian đã có câu ca dao ‘ Trời hành cơn lụt mỗi năm, mùa đông thiếu áo, mùa hè thiếu cơm ‘.Lời than thở này bây giờ đã vượt biên giới và trở nên thân quen đối với đồng bào miền Châu Thổ Sông Cửu Long,vì năm nào cũng phải cât lực đối phó với tình trạng lụt lội, đã trở nên thường trực trong cuộc sống của mọi người.
Trong dòng sinh mệnh của dân tộc Việt, tổ tiên ta bao đời vừa phải ngăn chống giặc ngoại xâm, đồng thời cũng luôn luôn diễn ra cuộc chiến sống chết chống thiên tai bảo lụt, khắp ba miền Trung, Nam , Bắc., mỗi miền có một địa hình, thời tiết khác nhau nên cách phòng chống cũng vô cùng phức tạp.
Dựa vào tài liệu của bao đời lưu lại, ta thấy người xưa đã biết rất rõ ràng phương pháp trị thủy. Miền Trung điạ hình hẹp và dốc, sông ngắn nên lụt lội dâng lên rất mau., phải luôn đề phòng để kịp thời phòng chống. Ở Bắc phần, đồng bằng thấp hơn mực nước sông vào mùa lụt từ 5m ố 7m, vì vậy cần phải đắp đê rất cao để ngăn lụt. Hằng năm vào mùa mưa, nước từ thượng nguồn bên Tàu chảy về, cộng thêm nước từ miền Trung Du và đồng bằng, lại còn thủy triều và nước biển dâng cao, do ảnh hưởng của bảo, là nguyên nhân mà các thời đại VN trong lịch sử, phải đắp đê ngăn ngừa lụt ở miền Bắc.
Năm 886 sau Tây lịch, miền Bắc đã bắt đầu khởi công xây dựng hệ thống đê điền, doc theo các con sông Hồng,Thái Bình và nhiều con sông quan trọng khác.. Hiện nay qua báo cáo, hệ thống đê tại Bắc Việt dài tới 3500 km,tổng khối lượng đất đá xữ dụng là 400 triệu m3, gồm 260 bờ kè, 800 cống thoát nước. Những con đê với bờ cao, dốc thoải,thảm cỏ xanh rờn, uốn lượn hai bờ sông, đã vẽ nên bức tranh quê làng VN, thật là êm đềm hạnh phúc. Khắp nơi chen chúc ruộng đồng, vườn tược và nhà cửa đình làng, ân hiện sau lũy tre xanh, đã nói lên thể phách văn minh văn hiến của Dân tộc Hồng-Lạc.
Từ khi Trung Cộng lén lút xây dựng các đập thủy diện trên hệ thống sông ngòi chảy qua tỉnh Vân Nam vào năm 1971, thì đại họa cũng bắt đầu đổ ập một cách âm thầm vào non nước VN, qua cảnh dòng sông không còn êm đềm chảy, mà dâng cao đục ngầu, mang đầy rác rưởi, gổ tre, khắp nơi đầy những vực xoáy hung dữ. Năm 1971, mực nước sông Hồng dâng cao tới 14,8 m,gần như lưu lượng nước (80-88%) đổ vào Sơn Tây, trung tâm của đồng bằng Bắc Việt. Từ năm 1920, bờ đê tại Hà Nội chỉ mới cao 11,5m. Năm 1932 là 13,3m và hiện nay đã cao tới 15-15,5m. Ngoài ra còn hy vọng vào các hồ chứa sông Ðà, Lô, Gầm, Chảy và Ba Bể.. để hạ bớt mực nước lụt. Câu chuyện thần thoại ‘ Sơn Tinh Thủy Tinh ‘ thời Tổ Hùng dựng nước, được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp hồi tiền chiến, vẽ lại bằng bức tranh thơ, đã nói lên cuộc chiến quyết liệt của Dân Tộc Việt,trước thảm nạn lụt lội và giặc thù truyền kiếp, cả hai đều xuất phát từ nước Tàu. Vậy mà từ Hồ Chí Minh tới các chóp bu kế tiếp sau này, lúc nào cũng to miệng bưng bợ Trung Cộng, rằng là đồng chí đồng rận, chủ nghĩa xã hội anh em, môi hở răng lạnh, sông liên sông núi liền núi.. cho nên VC mới đem không biết bao nhiêu đất đai biên giới, biển đảo để mà dâng cúng cho quan thầy,cũng đâu có gì lạ.
Ðồng bằng sông Cửu Long trái lại bằng phẳng,cho nên trước đây người dân bản địa có tập quán là cứ sống chung với lủ lụt cho tới khi nước rút hết, chứ không làm gì cả. Ta biết Sông Mekong tuy phát nguồn tận Tây Tạng và chảy qua các nước Miến Ðiện, Thái Lan, Lào, Kampuchia mới vào Nam VN. Quan trọng nhất, là dù phần cuối của sông Mekong, với tổng diện tích tự nhiên chỉ có 3,9 triệu ha, chiếm 5% toàn bộ lưu lượng của cả dòng sông. Trong lúc đó hằng năm,miền tây nam Nam phần, phải nhận của sông Cửu Long, hơn 460 tỷ nước, cùng 200 triệu tấn phù sa, tạo nên miền châu thổ phì nhiêu sông Tiền, sông Hậu ngày nay.
Lãnh thổ VN, chỉ có địa hình Nam Phần bằng phẳng, thấp không có đồi núi nhiều (trừ núi Bà Rá, Bà Ðen ở miền Ðông-Bắc,Thất Sơn ở biên giới phía Tây). Nên dù khắp nơi có đầy kênh rạch, sông ngòi nhưng vào mùa nước lụt, vẫn không chịu nổi ảnh hưởng của thủy triều và lượng nước tuôn về từ thượng nguồn, khiến cho lòng sông không tải kịp nước ra biển, gây nên hiện tượng úng ngập tràn lan kéo dài hằng tháng.
Trước đây khi dòng sông Cửu Long chưa bị biến thái vì các đập thủy điện trên thượng nguồn tại Trung Cộng, Thái Lan, Lào.. thì hằng năm nước ngập, đã mang đến thật nhiều phù sa bồi đắp cho miền châu thổ , làm cho Mũi Cà Mau lấn thêm đất ra biển, sông rạch có thêm nhiều tôm cá và đủ cac loại thủy sản.. Từ năm 1961 tới 1994, miền Tây Nam Phần đã bị sáu trận lụt lớn, làm ngập 1.828.000 Ha ruộng, kéo dài từ 3-6 thang mới rút hết nước.
Thật ra vấn đề lụt lội tại Nam Phần, đã được người Pháp quan tâm từ năm 1926, khi Ðông Dương là thuộc địa của thực dân. Qua những hồ sơ lưu trữ, ta biết tới nay vùng này đã bị 31 lần lụt lội lớn nhỏ. Quan trọng nhất là năm 1966, vào mùa lụt, nước sông Cửu Long tại Tân Châu lên tới 5,28m (trước đó mực nước tối đa là 4,6m), đã làm cho toàn thể đồng bằng miền Tây chìm ngập trong biển nước. Trước đây người ta thường có quan niệm về sự lụt lội của Nam phần, là điều phải xãy ra theo chu kỳ qui định của thiên nhiên trong 4 năm. Ðó là những giai đoạn 1937-1940, 1946-1949.
Nhưng giai thoại trên, kể cả lụt lội đem phù sa bồi đắp cho đồng ruộng, coi như đã chấm dứt từ năm 1980, nguyên do vì Trung Cộng đã phá vở gần như tất cả những môi trường thiên nhiên tại thượng nguồn nhưng VN lại lãnh đủ hậu quả, nhưng cứ đem hiệu ứng nhà kính, đã gây ra sự thay đổi thời tiết, khí hậu, để mà đổ thừa hay che dấu sự thực.
Hiện nay có tới 12 tỉnh thuộc đồng bằng sông Cưu Long, chiếm diện tích 3,9 triệu Ha nhưng vùng lụt lội hằng năm thường tập trung vào 7 tỉnh đầu nguồn là An Giang, Ðồng Tháp, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang và Long An. Lụt lội hằng năm, làm cho 1 triệu Ha ruộng bị chìm ngập dưới nước sâu trong nhiều tháng, gần 10 triệu đồng bào địa phượng bị thiệt hại , từ nhân mạng tới vật chất. Lụt bây giờ ngập sâu và kéo dài hơn trước, lại đến sớm nhưng rút muộn, ảnh hưởng nặng nề tới nông vụ vốn là chén cơm manh áo bao đời của tầng lớp cư dân miệt vườn. Mặc khác lụt lớn, làm cho đất đai bị mòn xói, phá vở các công trình xây dựng hai bên bờ sông, kể cả đường xá kênh rạch. Riêng trận lụt năm 1996, làm cho 217 người chết trong đó có tới 162 trẻ nít, gây tổn hại tới 2182 tỳ tiền Hồ.
Sông Mekong khi chảy tới Kampuchia , trong tỉnh Kompong Cham thì lòng sông không đủ sức chuyển vận lưu lượng nước từ thượng nguồn, nên phần lớn ruộng đất trong vùng cũng bị ngập nước nhiều tháng, từ tháng 7-12 hằng năm. Nhờ nước tràn bờ nên lưu lượng giảm. Thêm vào đó tại NamVang, sông Cửu Long có một chi nhánh lớn là sông Tonle Sap, đã dẫn nước về chứa trong Biển Hồ có thể tích tới 80 tỷ m3.Nước này lại chảy ngược ra sông chính vào mùa khô.
Cũng tại Kompong Cham, sông Cửu Long lại chia thành hai nhánh : Nhánh chính tới Neak Luong và chảy vào VN tại Tân Châu gọi là Tiền Giang. Nhánh Phụ còn gọi là sông Bassaac vào Châu Ðốc, đó là sông Hậu và ra Ðông Hải bằng chín cửa nhưng nay cửa Ba Lai tại Bến Tre đã bị cát biển và phù sa bít kín. Tại đầu nguồn, vì lưu lương nước quá mạnh, nên dòng sông thường bị tràn bờ, đã tạo nên vùng nước úng thủy Ðồng Tháp Mười và Khu trũng Tứ Giác Long Xuyên. Ngoài ra vùng này còn phải tiếp nhận một khối lượng nước phèn, hơn 77% từ Kampuchia tràn sang trong mùa lụt.
Từ năm 1961 tới nay, miền Tây Nam Phần đã bị nhiều trận lụt rất lớn và thiệt hại, vào các năm 1961-1966-1984-1991-1994 với mực nước dâng cao từ 4,67m ố 5,28m. Năm 1978 tại Tân Châu, nước lên cao 4,88m làm 87 người chết, gây hư hại 307.000 Ha lúa và 9000 căn nhà. Năm 1994 mực nước lụt lên tới 5,11m làm chết 407 người, gây tổn thất 283.000 Ha lúa, 2799 căn nhà bị nước cuốn, thiệt hại tới 2284 tỷ tiền Hồ.Năm 1995 lại lụt, làm 150 người thiệt mạng, cuốn trôi nhiều nhà cửa và ruộng lua.
Nguy cơ trùng trùng nhưng Ðảng chẳng những chẳng giải thích một lời nào về thảm họa vì đâu nên nổi, trái lai vẫn cứ ru ngủ đồng bào nạn nhân bằng luận điệu tuyên truyền như Mùa Nước Nổi Hay Sống Chung Với Lũ.. nhờ đó mà đồng ruộng Miền Nam được kéo dài tuổi trẻ, vì có sự bồi đắp của phù sa. Trong khi đó,thực chất gần như đất đai màu mở, cá tôm thủy sản quý của thiên nhiên ban cho các dòng sông Hồng Hà, Mekong.. đã bị chuổi đập lớn nhỏ trên 14 cái, được xây dựng tại Vân Nam giữ lại. Kế tiếp những gì may mắn thoát được, lại bị kẹt ở chuổi đập của Lào-Thái. Cho nên ngày nay, Kampuchia và VN chỉ còn nhận đủ những thứ cặn bã, trong đó có hơn 80% các quặng, hóa chất.. được thải từ hằng trăm nhà máy bên Tàu, đổ xuống dòng nước, tống ra biển, như chúng đã làm trên sông Dương Tử, mà chính báo chí tại Trung Cộng, vừa to tiếng tố cáo.
Khôi hài nhất là bọn Tàu trắng Á Châu và các nước Tây Phương, trong cái gọi là Ủy Ban hợp tác và bảo vệ sông Mekong, lúc nào cũng to miệng về những chuyện trên mây,mục đích vẫn là những dự án đầu tư kiếm lời, chứ đâu thấy ai nhắc tới hiểm họa, khủng bố mà Trung Cộng đã gây cho các nước ở hạ nguồn sông Cửu Long.
4- ÐỒNG RUỘNG MIỀN NAM KÊU CỨU VÌ NẠN XÂM NHẬP NƯỚC MẶN :
Từ năm 1980 tới nay, các sông ngòi ở VN hầu hết đều biến đổi kỳ lạ : Mùa mưa thì tràn nước gây nên lụt lội, trái lại về mùa nắng nước thiếu gây nên cảnh khô hạn. Tại Nam Phần, chính việc thiếu hụt nước tại các sông, đã liên quan tới sự tấn công, xâm nhập của nước mặn từ biền tràn vào sông, trong các đợt thủy triều.
Ðã có trên hằng triệu Ha lúa và hoa màu tại các tỉnh hạ nguồn sông Cửu Long, bị nước mặn xâm nhập khốc liệt, vừa gây tổn hại tới thu hoạch cũng như làm cho mọi người trước nguy cơ thiếu nước ngọt để ăn uống,tắm giặt. Ðây là thảm họa chỉ mới xãy ra tại Nam Phần từ sau thang 5-1975, hiện tượng nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa các tỉnh sát biển, nơi cửa sông Cửu Long. Sở dĩ có tình trạng trên,vì ảnh hưởng của hai yếu tố từ lưu lượng nước tại thượng nguồn và vùng hạ lưu, cộng thêm lượng nước mưa cũng như sự bốc hơi vào mùa nắng.
Thông thường hằng năm, từ cuối tháng 4-5, nước mặn theo thủy triều chảy sâu vào nội địa, khiến cho nước ngọt tại các kênh rạch không còn dùng được để mà tưới ruộng lúa và hoa quả, gây nên cảnh hạn hán thất thu. Theo định luật khoa học, thì tiêu chuẩn độ mặn cần có trong lượng nước ngọt để phục vụ cho nông nghiệp là 4%. Trong khi đó nguồn nước lợ (nước ngọt đã bị nước mặn xâm nhập), độ mặn chỉ có 2% nhưng cũng chỉ để tưới ruộng tạm thời khi không còn một lối thoát nào khác. Nguyên do vì thứ nước lợ này, chỉ có tác dụng cứu khô ngắn hạn, nếu để lâu, nước bốc hơi làm cho nồng độ muối trong ruộng tăng lên cao, làm chết hết lúa.
Do phần lớn đồng ruộng ở miền Nam, không có hệ thống bờ ruộng và kè đê tốt, nên đã lãnh đủ sự xâm nhập của nước mặn chảy vào ruộng,với số lượng bị ảnh hưởng lên tới 1,1 ố 1,3 Ha theo báo cáo của các cơ sở Nông Nghiệp. Ngoài ra nước mặn còn gây tổn hại rất lớn đối với những đồng bào nuôi các loại thủy sản như tôm, cá , ốc.. để xuất cảng.
Nạn nước mặn xâm nhập đồng ruộng được đánh giá trầm trọng, bắt đầu từ năm 1977, trên sông Vàm Cỏ Tây và Tiền Giang. Tại đây nước mặn chảy sâu vào nội địa từ 8-12km, nhiều hơn những năm trước. Trên sông Vàm Cỏ Tây, nước mặn theo thủy triều vượt qua Tuyên Nhơn về hướng thượng nguồn hơn 30km và kéo dài tới 10 ngày mới rút. Tại Mỹ Tho, nước mặnvào sông Tiền ít hơn và chỉ ở lại có 4 ngày. Nhưng vì nhu cầu nước tuới, đồng bào đã vô tình giúp nước mặn tràn lan nội địa. Những năm 1985-1986, vùng Tuyên Nhơn-Ðồng Tháp, tình trạng nước mặn xâm nhập có giảm so với các năm trước, nhờ con kênh Hồng Ngự mới đào, dẫn nước Vàm Cỏ Tây thông qua sông Tiền. Bắt đầu từ thập niên 1990 Ðồng Tháp Mười được khai thác triệt để diện tích ruộng lúa, nên lượng nước ngọt dùng để tưới trở thành thiếu thốn, tạo điều kiện cho nước mặn càng ngày càng dâng cao, xâm lăng tới tăp vào sâu trong nội địa.
Năm 1993, nước mặn theo sông Vàm Cỏ Tây, lên tới thượng nguồn và ở lại Tuyên nhơn tới 50 ngày. Trên Tiền Giang, do nhu cầu xữ dụng quá nhiều nước, nên ranh giới giữa nước ngọt và nước mặn cũng thay đổi từng năm. Tại Mỹ Tho, nước mặn đã vượt qua vài cây số và nằm lai tới 17 ngày mới rút ra biển. Năm 1998, tình trạng trên lại tái diễn một cách khốc liệt. Nguyên do vì mùa nước nổi tại đồng bằng sông Cửu Long vào năm 1997, diễn ra thật bất thường, nước từ thượng nguồn đổ về rất ít và rút đi rất sớm Tình trạng trên gây ra khô hạn kéo dài, tạo điều kiện để nước mặn dâng lên cao và ùn ùn kéo vào sông Vàm Cỏ Tây, chảy sâu vào nội địa tới 15-20km.
Trên sông Tiền, sông Hậu, Cổ Chiên tuy lưu lượng có kém so với các năm trước, nhưng vẫn còn sức mạnh, làm giảm thiểu phần nào sự xâm nhập của nước mặn, tuy nhiên cũng đã gây thiệt hại cho hơn 200.000 Ha ruộng lúa. Trong khi đó, vùng tứ giác đầu nguồn Long Xuyên và phía Tây sông Hậu, lại bị ảnh hưởng rất nặng bởi sự xâm nhập của nước mặn, vào sâu trong nội địa từ 16-20 km và ở lại hơn 3 tháng.
Sự xâm nhập của nước mặn vào các sông ngòi miền Nam, là nguyên nhân chính làm các nhà máy đường phải đóng cửa ngưng hoạt động, vì nước ngọt từ năm 1999 đã tăng lên 30.000/1m3 tiền Hồ. Từ đây nước mặn tấn công vào đất liền sớm hơn mấy năm trước. Tóm lại , không riêng gì Tuyên Nhơn, Mỹ Tho.. mà hầu như các tỉnh tại đồng bằng sông Cửu Long như Vàm Mỹ Hoá (sông Hàm Luông-Bến Tre), Trà Vinh,, An Thuận, Bến Trại, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Cần Thơ.đều bị nước mặn xâm nhập phá hoại tàn khốc và không có triệu chúng nào, báo hiệu thảm họa trên sẽ ngừng hay chấm dứt. Thêm vào đó, từ mấy năm nay thời tiết lại thay đổi đột ngột, gió chướng thổi manh hơn mấy năm trước,dồn nước mặn vào sông nhiều hơn, đồng lúc thủy triều tại cửa sông hoạt động thêm dữ dội, trong khi lưu lượng dòng sông từ thượng nguồn chảy xuống càng lúc càng yếu dần, không đủ triều cường giữ giới hạn giữa hai con nước như mấy thập niên trước.
Hởi ơi viết chuyện nước mà đau lòng với nước ‘
‘ Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mõi miệng cái gia gia
Dừng chân ngoảnh lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta ‘
(Bà Huyện Thanh Quan)
Hay ‘ Non cao đã biết hay chưa
Nước đi ra bể, lại mưa về nguồn ‘
(Tản Ðà)
Vẽ hửng hờ và êm ả của giòng sông, vào lúc chiều tà hay khi trăng treo trên đầu núi, không biết Nguyễn Du tiên sinh sống lại, đứng trước những thảm họa trên,đang ào ạt trút xuống những giòng nước thân thương đó, từng phút, từng giây, từng trong hơi thở của nhip sống Dân Tộc Việt, có còn đủ cảm hứng để hạ bút đề thơ :
‘ Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác, biết là về đâu ‘ -/-
Xóm Cồn
Tháng 9-2007
MƯỜNG GIANG