Quán Vắng không Người ...3
Moderator: khieulong
Phong trào xây tượng đài Hồ Chí Minh ở Việt Nam
Nguyễn Hưng Quốc
(VOA) Ở Việt Nam, những năm gần đây, rộ lên những dự án xây dựng khổng lồ với kinh phí lên đến mấy trăm, thậm chí, mấy chục ngàn tỷ đồng như dự án xây bảo tàng lớn nhất Việt Nam (11,000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 550 triệu Mỹ kim), dự án xây Văn Miếu ở Vĩnh Phúc (271 tỷ đồng tương đương với hơn 13 triệu Mỹ kim), dự án xây nhà hát ở Hà Nội (117 tỷ đồng, tương đương với gần 6 triệu Mỹ kim), dự án xây tượng đài Mẹ Việt Nam tại Quảng Nam (411 tỷ đồng, tương đương với trên 20 triệu Mỹ kim). Gần đây nhất và cũng gây ồn ào trong dư luận nhất là dự án xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh và quảng trường với quần thể kiến trúc chung quanh bao gồm đền thờ, đài tưởng niệm và viện bảo tàng tại tỷnh Sơn La với kinh phí lên đến 1,400 tỷ đồng (tương đương với 70 triệu Mỹ kim).
Báo chí ở trong nước cho biết, hiện nay trên cả nước đã có 101 tượng đài Hồ Chí Minh trong các khuôn viên trụ sở cơ quan và 31 tượng đài ở các trung tâm hành chính và chính trị. Theo đề án quy hoạch hệ thống tượng đài Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2030, người ta dự định xây thêm 58 tượng đài nữa, trong đó có 14 dự án đã được chấp thuận ở các tỉnh Bắc Kạn, Bắc Ninh, Bình Định, Đà Nẵng, Điện Biên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiên Giang, Quảng Bình, Quảng Trị, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên và Vĩnh Phúc. Các tượng đài này được chia thành hai nhóm: Nhóm A đặt ở các trung tâm hành chính cao từ 4 đến 9 mét; nhóm B đặt trong khuôn viên các cơ quan hay trường học cao từ 1.5 đến 3 mét.
Trên báo chí cũng như trên các diễn đàn mạng, nhiều người gay gắt phản đối các dự án ấy. Tất cả đều xuất phát từ một trong hai lý do chính: kinh tế và thẩm mỹ.
Về phương diện kinh tế, hầu như mọi người đều có ý kiến giống nhau: đất nước còn nghèo, nợ công chồng chất; tất cả các bệnh viện đều quá tải; nhiều địa phương chưa có đường và cầu có đủ chất lượng để dân chúng đi lại; nhiều gia đình còn thiếu ăn thiếu mặc; trẻ con đi học còn thiếu trường thiếu lớp, việc xây dựng những tượng đài với hàng trăm hay hàng ngàn tỷ đồng như thế là phí phạm, thậm chí, phí phạm một cách tàn nhẫn, hay nói theo chữ của Giáo Sư Ngô Bảo Châu, trên trang Facebook của ông, “khốn nạn” hoặc có vấn đề về “thần kinh.”
Về phương diện thẩm mỹ, hầu hết các tượng đài được xây dựng lâu nay đều rất xấu. Các bức tượng Hồ Chí Minh ở đâu cũng hao hao như nhau: hoặc đứng vẫy tay chào hoặc ngồi đọc sách hoặc ngồi/đứng giữa các em nhi đồng/bộ đội/người dân. Tất cả đều theo những khuôn mẫu sáo mòn, không có chút giá trị gì về nghệ thuật cả. Nhiều bức tượng vụng về đến nỗi không đúng với giải phẫu nhân thể. Hơn nữa, nghệ thuật đúc đồng của Việt Nam còn lạc hậu, với những tượng đài lớn, người ta thấy rõ những vết nứt, những chỗ nổi bọt, độ dày mỏng không đều. Nhiều Nhà Nghiên Cứu Mỹ Thuật Việt Nam cho “Việt Nam đang quá thừa các công trình tượng đài kém chất lượng.” Theo Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn tại Úc, “Có thể nói rằng những công trình tượng đài đang ngự trị ở Việt Nam ngày nay, dưới cái nhìn của một người bình thường, là những hình tượng thô kệch, xa lạ, vô hồn, phi dân tộc, và lai căng.”
Thế nhưng, bất chấp sự phản đối của dân chúng, cả chính quyền trung ương lẫn địa phương ở Việt Nam đều tiếp tục các dự án xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh ở khắp nơi. Một câu hỏi cần được đặt ra: Tại sao như vậy?
Lý do đầu tiên được nhiều người nhắc đến là để các viên chức chính quyền kiếm chác. Kiếm chác bằng nhiều cách: Một là nâng giá thành lên thật cao để hưởng các khoản chênh lệch; hai là nhận hối lộ từ các công ty trúng thầu; và ba là được hưởng khoản tiền “lại quả” từ các công ty trúng thầu ấy (nghe đồn lên đến khoảng 30% trên giá thành được tính). Với những sự ăn chận như vậy, hầu hết các công trình hay tượng đài đã hoàn tất đều có vấn đề. Có tượng xây chưa xong đã đổ sập; có tượng mới xây xong đã hư chỗ này nát chỗ nọ. Lý do thứ hai là tâm lý chơi nổi vốn rất phổ biến, càng ngày càng phổ biến tại Việt Nam hiện nay. Ở đâu, trong lãnh vực nào, người ta cũng tranh nhau giành các “kỷ lục”: Hết tô phở lớn nhất đến chiếc bánh chưng lớn nhất, đòn bánh tét dài nhất, con đường gốm sứ dài nhất, v.v..
Với tinh thần chơi nổi ấy, địa phương nào cũng muốn có những công trình hay những tượng đài được xem là hoành tráng nhất, nguy nga nhất bất chấp tình hình thực tế là phần lớn dân chúng tại địa phương còn bị xem là nghèo đói. Lý do thứ ba là nỗ lực thần tượng hóa Hồ Chí Minh. Thì từ cả năm bảy chục năm nay, tính từ năm 1945, có lúc nào Đảng Cộng Sản lại không thần tượng hóa, thậm chí, thần thánh hóa Hồ Chí Minh? Người ta xây lăng cho Hồ Chí Minh. Người ta ra lệnh làm thơ, viết văn, dựng kịch để ca ngợi Hồ Chí Minh. Người ta bắt treo ảnh Hồ Chí Minh trên bàn thờ mỗi gia đình. Người ta lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho thành phố lớn nhất nước. Và dĩ nhiên, người ta cho dựng tượng Hồ Chí Minh ở khắp nơi. Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta cần Hồ Chí Minh như lúc này. Lý do là chưa bao giờ Đảng Cộng Sản bị nghi ngờ và phản đối như lúc này. Chưa bao giờ tính chính đáng (legimimacy) của Đảng Cộng Sản lại bị lung lay như lúc này. Dân chúng không những bất mãn trước các chính sách về kinh tế, xã hội, giáo dục của nhà cầm quyền mà còn đặt vấn đề về lòng yêu nước của giới lãnh đạo. Đối diện với sự sụp đổ của mọi niềm tin từ dân chúng, đảng và chính quyền phải cầu cứu đến uy danh của Hồ Chí Minh. Nhưng liệu chút uy danh của Hồ Chí Minh có đủ cứu họ không, đó mới là vấn đề.
Nguyễn Hưng Quốc
(VOA) Ở Việt Nam, những năm gần đây, rộ lên những dự án xây dựng khổng lồ với kinh phí lên đến mấy trăm, thậm chí, mấy chục ngàn tỷ đồng như dự án xây bảo tàng lớn nhất Việt Nam (11,000 tỷ đồng, tương đương với khoảng 550 triệu Mỹ kim), dự án xây Văn Miếu ở Vĩnh Phúc (271 tỷ đồng tương đương với hơn 13 triệu Mỹ kim), dự án xây nhà hát ở Hà Nội (117 tỷ đồng, tương đương với gần 6 triệu Mỹ kim), dự án xây tượng đài Mẹ Việt Nam tại Quảng Nam (411 tỷ đồng, tương đương với trên 20 triệu Mỹ kim). Gần đây nhất và cũng gây ồn ào trong dư luận nhất là dự án xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh và quảng trường với quần thể kiến trúc chung quanh bao gồm đền thờ, đài tưởng niệm và viện bảo tàng tại tỷnh Sơn La với kinh phí lên đến 1,400 tỷ đồng (tương đương với 70 triệu Mỹ kim).
Báo chí ở trong nước cho biết, hiện nay trên cả nước đã có 101 tượng đài Hồ Chí Minh trong các khuôn viên trụ sở cơ quan và 31 tượng đài ở các trung tâm hành chính và chính trị. Theo đề án quy hoạch hệ thống tượng đài Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2030, người ta dự định xây thêm 58 tượng đài nữa, trong đó có 14 dự án đã được chấp thuận ở các tỉnh Bắc Kạn, Bắc Ninh, Bình Định, Đà Nẵng, Điện Biên, Hải Phòng, Hải Dương, Kiên Giang, Quảng Bình, Quảng Trị, Sơn La, Thái Bình, Thái Nguyên và Vĩnh Phúc. Các tượng đài này được chia thành hai nhóm: Nhóm A đặt ở các trung tâm hành chính cao từ 4 đến 9 mét; nhóm B đặt trong khuôn viên các cơ quan hay trường học cao từ 1.5 đến 3 mét.
Trên báo chí cũng như trên các diễn đàn mạng, nhiều người gay gắt phản đối các dự án ấy. Tất cả đều xuất phát từ một trong hai lý do chính: kinh tế và thẩm mỹ.
Về phương diện kinh tế, hầu như mọi người đều có ý kiến giống nhau: đất nước còn nghèo, nợ công chồng chất; tất cả các bệnh viện đều quá tải; nhiều địa phương chưa có đường và cầu có đủ chất lượng để dân chúng đi lại; nhiều gia đình còn thiếu ăn thiếu mặc; trẻ con đi học còn thiếu trường thiếu lớp, việc xây dựng những tượng đài với hàng trăm hay hàng ngàn tỷ đồng như thế là phí phạm, thậm chí, phí phạm một cách tàn nhẫn, hay nói theo chữ của Giáo Sư Ngô Bảo Châu, trên trang Facebook của ông, “khốn nạn” hoặc có vấn đề về “thần kinh.”
Về phương diện thẩm mỹ, hầu hết các tượng đài được xây dựng lâu nay đều rất xấu. Các bức tượng Hồ Chí Minh ở đâu cũng hao hao như nhau: hoặc đứng vẫy tay chào hoặc ngồi đọc sách hoặc ngồi/đứng giữa các em nhi đồng/bộ đội/người dân. Tất cả đều theo những khuôn mẫu sáo mòn, không có chút giá trị gì về nghệ thuật cả. Nhiều bức tượng vụng về đến nỗi không đúng với giải phẫu nhân thể. Hơn nữa, nghệ thuật đúc đồng của Việt Nam còn lạc hậu, với những tượng đài lớn, người ta thấy rõ những vết nứt, những chỗ nổi bọt, độ dày mỏng không đều. Nhiều Nhà Nghiên Cứu Mỹ Thuật Việt Nam cho “Việt Nam đang quá thừa các công trình tượng đài kém chất lượng.” Theo Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn tại Úc, “Có thể nói rằng những công trình tượng đài đang ngự trị ở Việt Nam ngày nay, dưới cái nhìn của một người bình thường, là những hình tượng thô kệch, xa lạ, vô hồn, phi dân tộc, và lai căng.”
Thế nhưng, bất chấp sự phản đối của dân chúng, cả chính quyền trung ương lẫn địa phương ở Việt Nam đều tiếp tục các dự án xây dựng tượng đài Hồ Chí Minh ở khắp nơi. Một câu hỏi cần được đặt ra: Tại sao như vậy?
Lý do đầu tiên được nhiều người nhắc đến là để các viên chức chính quyền kiếm chác. Kiếm chác bằng nhiều cách: Một là nâng giá thành lên thật cao để hưởng các khoản chênh lệch; hai là nhận hối lộ từ các công ty trúng thầu; và ba là được hưởng khoản tiền “lại quả” từ các công ty trúng thầu ấy (nghe đồn lên đến khoảng 30% trên giá thành được tính). Với những sự ăn chận như vậy, hầu hết các công trình hay tượng đài đã hoàn tất đều có vấn đề. Có tượng xây chưa xong đã đổ sập; có tượng mới xây xong đã hư chỗ này nát chỗ nọ. Lý do thứ hai là tâm lý chơi nổi vốn rất phổ biến, càng ngày càng phổ biến tại Việt Nam hiện nay. Ở đâu, trong lãnh vực nào, người ta cũng tranh nhau giành các “kỷ lục”: Hết tô phở lớn nhất đến chiếc bánh chưng lớn nhất, đòn bánh tét dài nhất, con đường gốm sứ dài nhất, v.v..
Với tinh thần chơi nổi ấy, địa phương nào cũng muốn có những công trình hay những tượng đài được xem là hoành tráng nhất, nguy nga nhất bất chấp tình hình thực tế là phần lớn dân chúng tại địa phương còn bị xem là nghèo đói. Lý do thứ ba là nỗ lực thần tượng hóa Hồ Chí Minh. Thì từ cả năm bảy chục năm nay, tính từ năm 1945, có lúc nào Đảng Cộng Sản lại không thần tượng hóa, thậm chí, thần thánh hóa Hồ Chí Minh? Người ta xây lăng cho Hồ Chí Minh. Người ta ra lệnh làm thơ, viết văn, dựng kịch để ca ngợi Hồ Chí Minh. Người ta bắt treo ảnh Hồ Chí Minh trên bàn thờ mỗi gia đình. Người ta lấy tên Hồ Chí Minh đặt cho thành phố lớn nhất nước. Và dĩ nhiên, người ta cho dựng tượng Hồ Chí Minh ở khắp nơi. Nhưng có lẽ chưa bao giờ người ta cần Hồ Chí Minh như lúc này. Lý do là chưa bao giờ Đảng Cộng Sản bị nghi ngờ và phản đối như lúc này. Chưa bao giờ tính chính đáng (legimimacy) của Đảng Cộng Sản lại bị lung lay như lúc này. Dân chúng không những bất mãn trước các chính sách về kinh tế, xã hội, giáo dục của nhà cầm quyền mà còn đặt vấn đề về lòng yêu nước của giới lãnh đạo. Đối diện với sự sụp đổ của mọi niềm tin từ dân chúng, đảng và chính quyền phải cầu cứu đến uy danh của Hồ Chí Minh. Nhưng liệu chút uy danh của Hồ Chí Minh có đủ cứu họ không, đó mới là vấn đề.
Ba mâu thuẫn trong kinh tế Trung Cộng
Ngô Nhân Dụng
Ngày Thứ Sáu, Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc đã tăng giá đồng nhân dân tệ! Ngày hôm trước, đổi 6.4010 đồng “nguyên” ăn một đô la Mỹ; nay chỉ đổi 6.3975 cũng được một đô la. Số thay đổi quá nhỏ, chỉ đáng 0.05%, nghĩa là 5 phần 10,000. Nhưng việc “tăng giá” này nhằm “trấn an” thị trường tài chánh thế giới: Cộng sản Trung Quốc không muốn gây một cuộc “chiến tranh phá giá tiền tệ.”
Vì đó là mối lo ngại của tất cả thị trường, kể từ ngày Thứ Hai, 11 Tháng Tám 2015. Ðồng nguyên được giảm giá trong ba ngày liên tiếp tổng cộng sụt giá 4.4%. Hành động này khiến mọi người lo ngại, vì năm 1994, Trung Cộng đã cho đồng nguyên phá giá ngay một lúc 33%! Ngày Thứ Năm, bà Trương Hiểu Huy (Zhang Xiaohui), phụ tá chủ tịch Ngân Hàng Trung Ương đã trấn an rằng Bắc Kinh sẽ không giảm giá đồng nguyên thêm nữa, và trong tương lai đồng tiền Trung Quốc sẽ lên giá. Lo rằng thị trường tài chánh không tin tưởng, cho nên hôm sau Nhân Dân Ngân Hàng đã quay chiều, cho tăng giá đồng nguyên, dù chỉ tăng rất tượng trưng.
Hành động “chữa cháy” của Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc cho thấy đảng Cộng Sản đang lúng túng vì đang theo đuổi những mục tiêu kinh tế mâu thuẫn. Một mặt, họ muốn giữ cho kinh tế Trung Quốc giữ được mức phát triển ít nhất 7%, tránh nguy cơ thất nghiệp gia tăng có thể gây xáo động xã hội. Mặt khác, Cộng Sản Trung Quốc muốn đưa đồng nguyên lên hàng một “đồng tiền dự trữ” của các quốc gia khác, tạo uy tín cho chính họ. Mối mâu thuẫn thứ nhì là giữa mục tiêu “thị trường hóa” nền kinh tế đồng thời vẫn muốn giữ ổn định trong thời gian chuyển tiếp chương trình thị trường hóa này. Mối mâu thuẫn thứ ba có tính cách căn bản hơn: Ðảng Cộng Sản vừa muốn giải tỏa cho kinh tế được tự do hơn, thị trường đóng vai trò quan trọng hơn để thoát khỏi tình trạng bế tắc không tránh được; đồng thời họ vẫn muốn nắm quyền kiểm soát chặt chẽ, cả kinh tế lẫn chính trị.
Từ nhiều năm qua, Trung Cộng đã tỏ ý muốn đồng nguyên được dùng làm một thứ ngoại tệ dự trữ cho Ngân Hàng Trung Ương các nước khác, ngang hàng với đồng Ðô la Mỹ, đồng Euro, đồng Franc Thụy Sĩ, đồng Yen Nhật Bản. Như vậy mới xứng đáng với khối lượng sản xuất đứng hàng thứ nhì thế giới của kinh tế Trung Quốc. Mục tiêu này khó đạt được khi đảng Cộng Sản vẫn muốn nắm quyền kiểm soát tất cả các hoạt động kinh tế trong nước. Ðồng Euro, đồng Ðô la không thể nào đóng vai trò tiền dự trữ của các nước nếu các chính phủ Mỹ hoặc Châu Âu vẫn muốn cấm đoán không cho người ta đổi tiền tự do, lại can thiệp liên tiếp vào thị trường hối đoái để giữ giá cho các đồng tiền của họ không cho thay đổi theo luật cung cầu mỗi ngày. Bắc Kinh đã làm đúng những điều đó, cho nên mối hy vọng đồng nguyên trở thành một “đồng tiền quốc tế” khó thành công, trừ khi đảng Cộng Sản chấp nhận giảm bớt quyền kiểm soát của họ.
Trong nhiều chục năm qua, Bắc Kinh tìm cách giữ giá đồng nguyên rất thấp so với đô la, để hàng xuất cảng bán ra với giá rẻ. Nhưng từ đầu năm 2015 tới nay, họ lại cố gắng giữ giá ổn định gắn liền với đô la Mỹ, trong khi đồng tiền các nước khác đều xuống so với đô la. Ðô la tăng giá vì nền kinh tế Mỹ đã tăng trưởng đều đặn, từ từ, trong sáu năm qua. Ðô la lên giá nhanh hơn trong mấy tháng nay vì mọi người đang chờ Ngân Hàng Trung Ương Mỹ sắp sửa tăng lãi suất, có thể ngay trong Tháng Chín này. Tiền đầu tư khắp thế giới đang chờ cơ hội đem vào nước Mỹ để hưởng lãi suất cao hơn, tiền được đổi sang đô la ngày càng nhiều khiến đô la tăng giá. Trong thời gian đó, Bắc Kinh vẫn không cho đồng nguyên đi xuống, một phần cũng vì áp lực của chính phủ và Quốc Hội Mỹ. Vì thế, ngày Thứ Hai vừa qua, khi Bắc Kinh hạ giá đồng nguyên gần 2% (mức giới hạn họ tự đặt ra) thì IMF đã hoan nghênh, coi đó là một hành động thuận theo xu hướng chung của thị trường.
Nhưng hành động hạ giá ba ngày liên tiếp rồi lại nâng giá lên chút đỉnh cho thấy Bắc Kinh đang lúng túng xoay trở ngay trong cái lưới mà họ tự giăng cho mình rơi vào: Vẫn muốn đóng vai trò kiểm soát, không để cho thị trường sống theo quy luật tự nhiên. Tình trạng lúng túng này đã hiện ra trước đây một tháng, khi cả guồng máy chỉ huy tài chánh được huy động để ngăn chặn không cho thị trường chứng khoán sụp đổ; sau khi chính guồng má đó đã thổi phồng cho thị trường chứng khoán lên cao, gây cơn khủng hoảng làm cho giới đầu tư nhỏ trong nước mất hơn 3,000 tỷ đô la.
Trong cả hai cơn lúng túng về chứng khoán và về hối suất, Cộng Sản Trung Quốc cho thấy họ không dám tiến hành một chương trình “thị trường hóa” đã được công bố trong kỳ đại hội đảng gần đây, coi như một chủ trương “đổi mới” tối quan trọng của ông Tập Cận Bình. Ðảng Cộng Sản tuyên dương một cách long trọng rằng từ nay sẽ để cho thị trường đóng “vai trò quyết định” trong sinh hoạt kinh tế. Thị trường hóa không phải là ý muốn của các lãnh tụ cộng sản, nhưng là một nhu cầu bắt buộc. Kinh tế Trung Quốc đã giảm bớt tăng trưởng trong mấy năm qua, vì guồng máy điều khiển tập trung không còn “món võ mới” nào để tiếp tục thi triển. Kinh tế Trung Quốc gia tăng nhờ đổ tiền vào các vụ đầu tư khổng lồ không cần thiết và rất phung phí; nhờ hạn chế khả năng tiêu thụ của người dân để dồn vào việc xuất cảng; và tất cả các hoạt động đó dựa trên những món nợ ngày càng cao và càng khó trả lại. Tình trạng đó không thể kéo dài mãi mãi. Chỉ có một con đường thoát khỏi cảnh phá sản là kích thích sức tiêu thụ của ng dân và nới lỏng cho các xí nghiệp tư doanh được phát triển, cải tổ hệ thống ngân hàng theo quy luật thị trường. Cho nên thị trường hóa là một chủ trương đứng đắn và cần thiết.
Nhưng trong cả hai cơn khủng hoảng, thị trường chứng khoán và hối suất đồng nguyên, khiến người ta bắt đầu nghi ngờ không biết Tập Cận Bình còn giữ được chủ trương đó hay không, và tiến hành nhanh chóng như nhu cầu đòi hỏi hay không.
Tuy đã tập trung quyền lực đến mức cao nhất kể từ thời Ðặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình vẫn bị hạn chế bởi những thế lực bảo thủ đang hưởng lợi trong cơ cấu hiện hành. Thị trường hóa nghĩa là cho phép hàng trăm triệu người tự do quyết định trong việc trao đổi hàng hóa, mua bán chứng khoán, ký hợp đồng lao động, họ sẽ đóng vai trò quan trọng nhất, theo chủ trương mà Tập Cận Bình đề ra. Nhưng các lãnh tụ cộng sản cao cấp và trung cấp trong guồng máy kiểm soát hiện hành sẽ không dễ buông các quyền lợi họ đang hưởng. Họ sẽ đổ hết tội lỗi lên Tập Cận Bình nếu kinh tế xuống dốc; mà điều này luôn luôn đe dọa.
Chính sách gắn liền đồng nguyên vào đô la Mỹ, trong khi tiền các nước khác xuống giá, khiến cho hàng xuất cảng của Trung Quốc đắt hơn. Thứ Bảy tuần trước, Bắc Kinh thông báo trị giá hàng xuất cảng giảm bớt 8.3% so với năm trước. Số xuất cảng sang Châu Âu giảm nhiều nhất, giảm 12% trong Tháng Bảy vì kinh tế vùng này đang khó khăn. Vì xuất cảng xuống, số dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh đã tụt mất 315 tỷ đô la trong bảy tháng đầu năm nay. Muốn giữ cho kinh tế thăng bằng, họ lại phải cắt lãi suất (bốn lần trong năm nay) để các doanh nghiệp nhà nước được vay tiền dễ dàng hơn. Nhưng tỷ lệ tăng trưởng vẫn chỉ tới 7%, tốc độ thấp nhất trong 25 năm qua. Nhưng con số chính thức này không đáng tin, sự thật có thể chỉ được 3% đến 4%.
Trung Quốc cần chuyển từ kinh tế vụ vào xuất cảng sang kinh tế dựa trên sức tiêu thụ nội địa, nhưng một cơn khủng hoảng thị trường chứng khoán vừa qua có thể khiến nhiều người trung lưu mất cơ nghiệp, không giúp gì cho sức tiêu thụ. Tình rạng kinh tế suy yếu sẽ tạo cơ hội cho giới bảo thủ trong đảng Cộng Sản Trung Quốc cưỡng lại và kìm hãm các chương trình cải tổ.
Ðể ngăn chặn các phe chống đối, Tập Cận Bình tìm cách tiêu diệt những đối thủ chính trị trong nội bộ đảng, qua các vụ đánh tham nhũng rất lớn. Trong tuần qua nhật báo Nhân Dân đã tấn công thẳng vào “trung tâm” của phe đối nghịch, khi chỉ trích “những lãnh tụ về hưu vẫn tìm cách can thiệp” vào hoạt động của đảng. Ðây là một đòn tấn công một cách kín đáo vào Giang Trạch Dân, sau khi đã hạ thủ những tay chân thân tín của họ Giang, như Chu Vĩnh Khang, Lệnh Kế Hoạch, vân vân. Mâu thuẫn giữa các phe phái trong đảng chỉ làm hại cho nền kinh tế. Ðó chỉ là biểu hiện của mối mâu thuẫn lớn nhất: Ðảng Cộng Sản muốn cải tổ kinh tế nhưng vẫn không muốn buông bỏ quyền hành.
Vì thế kinh tế Trung Quốc sẽ còn lệ thuộc vào các tranh chấp nội bộ đảng Cộng Sản. Chỉ khi nào chế độ chính trị thay đổi thì công việc thị trường trường hóa mới có thể tiến hành. Ðổi mới kinh tế mà không thay đổi chính trị, đảng Cộng Sản sẽ tiếp tục đi trên con đường bế tắc.
Ngô Nhân Dụng
Ngày Thứ Sáu, Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc đã tăng giá đồng nhân dân tệ! Ngày hôm trước, đổi 6.4010 đồng “nguyên” ăn một đô la Mỹ; nay chỉ đổi 6.3975 cũng được một đô la. Số thay đổi quá nhỏ, chỉ đáng 0.05%, nghĩa là 5 phần 10,000. Nhưng việc “tăng giá” này nhằm “trấn an” thị trường tài chánh thế giới: Cộng sản Trung Quốc không muốn gây một cuộc “chiến tranh phá giá tiền tệ.”
Vì đó là mối lo ngại của tất cả thị trường, kể từ ngày Thứ Hai, 11 Tháng Tám 2015. Ðồng nguyên được giảm giá trong ba ngày liên tiếp tổng cộng sụt giá 4.4%. Hành động này khiến mọi người lo ngại, vì năm 1994, Trung Cộng đã cho đồng nguyên phá giá ngay một lúc 33%! Ngày Thứ Năm, bà Trương Hiểu Huy (Zhang Xiaohui), phụ tá chủ tịch Ngân Hàng Trung Ương đã trấn an rằng Bắc Kinh sẽ không giảm giá đồng nguyên thêm nữa, và trong tương lai đồng tiền Trung Quốc sẽ lên giá. Lo rằng thị trường tài chánh không tin tưởng, cho nên hôm sau Nhân Dân Ngân Hàng đã quay chiều, cho tăng giá đồng nguyên, dù chỉ tăng rất tượng trưng.
Hành động “chữa cháy” của Ngân Hàng Trung Ương Trung Quốc cho thấy đảng Cộng Sản đang lúng túng vì đang theo đuổi những mục tiêu kinh tế mâu thuẫn. Một mặt, họ muốn giữ cho kinh tế Trung Quốc giữ được mức phát triển ít nhất 7%, tránh nguy cơ thất nghiệp gia tăng có thể gây xáo động xã hội. Mặt khác, Cộng Sản Trung Quốc muốn đưa đồng nguyên lên hàng một “đồng tiền dự trữ” của các quốc gia khác, tạo uy tín cho chính họ. Mối mâu thuẫn thứ nhì là giữa mục tiêu “thị trường hóa” nền kinh tế đồng thời vẫn muốn giữ ổn định trong thời gian chuyển tiếp chương trình thị trường hóa này. Mối mâu thuẫn thứ ba có tính cách căn bản hơn: Ðảng Cộng Sản vừa muốn giải tỏa cho kinh tế được tự do hơn, thị trường đóng vai trò quan trọng hơn để thoát khỏi tình trạng bế tắc không tránh được; đồng thời họ vẫn muốn nắm quyền kiểm soát chặt chẽ, cả kinh tế lẫn chính trị.
Từ nhiều năm qua, Trung Cộng đã tỏ ý muốn đồng nguyên được dùng làm một thứ ngoại tệ dự trữ cho Ngân Hàng Trung Ương các nước khác, ngang hàng với đồng Ðô la Mỹ, đồng Euro, đồng Franc Thụy Sĩ, đồng Yen Nhật Bản. Như vậy mới xứng đáng với khối lượng sản xuất đứng hàng thứ nhì thế giới của kinh tế Trung Quốc. Mục tiêu này khó đạt được khi đảng Cộng Sản vẫn muốn nắm quyền kiểm soát tất cả các hoạt động kinh tế trong nước. Ðồng Euro, đồng Ðô la không thể nào đóng vai trò tiền dự trữ của các nước nếu các chính phủ Mỹ hoặc Châu Âu vẫn muốn cấm đoán không cho người ta đổi tiền tự do, lại can thiệp liên tiếp vào thị trường hối đoái để giữ giá cho các đồng tiền của họ không cho thay đổi theo luật cung cầu mỗi ngày. Bắc Kinh đã làm đúng những điều đó, cho nên mối hy vọng đồng nguyên trở thành một “đồng tiền quốc tế” khó thành công, trừ khi đảng Cộng Sản chấp nhận giảm bớt quyền kiểm soát của họ.
Trong nhiều chục năm qua, Bắc Kinh tìm cách giữ giá đồng nguyên rất thấp so với đô la, để hàng xuất cảng bán ra với giá rẻ. Nhưng từ đầu năm 2015 tới nay, họ lại cố gắng giữ giá ổn định gắn liền với đô la Mỹ, trong khi đồng tiền các nước khác đều xuống so với đô la. Ðô la tăng giá vì nền kinh tế Mỹ đã tăng trưởng đều đặn, từ từ, trong sáu năm qua. Ðô la lên giá nhanh hơn trong mấy tháng nay vì mọi người đang chờ Ngân Hàng Trung Ương Mỹ sắp sửa tăng lãi suất, có thể ngay trong Tháng Chín này. Tiền đầu tư khắp thế giới đang chờ cơ hội đem vào nước Mỹ để hưởng lãi suất cao hơn, tiền được đổi sang đô la ngày càng nhiều khiến đô la tăng giá. Trong thời gian đó, Bắc Kinh vẫn không cho đồng nguyên đi xuống, một phần cũng vì áp lực của chính phủ và Quốc Hội Mỹ. Vì thế, ngày Thứ Hai vừa qua, khi Bắc Kinh hạ giá đồng nguyên gần 2% (mức giới hạn họ tự đặt ra) thì IMF đã hoan nghênh, coi đó là một hành động thuận theo xu hướng chung của thị trường.
Nhưng hành động hạ giá ba ngày liên tiếp rồi lại nâng giá lên chút đỉnh cho thấy Bắc Kinh đang lúng túng xoay trở ngay trong cái lưới mà họ tự giăng cho mình rơi vào: Vẫn muốn đóng vai trò kiểm soát, không để cho thị trường sống theo quy luật tự nhiên. Tình trạng lúng túng này đã hiện ra trước đây một tháng, khi cả guồng máy chỉ huy tài chánh được huy động để ngăn chặn không cho thị trường chứng khoán sụp đổ; sau khi chính guồng má đó đã thổi phồng cho thị trường chứng khoán lên cao, gây cơn khủng hoảng làm cho giới đầu tư nhỏ trong nước mất hơn 3,000 tỷ đô la.
Trong cả hai cơn lúng túng về chứng khoán và về hối suất, Cộng Sản Trung Quốc cho thấy họ không dám tiến hành một chương trình “thị trường hóa” đã được công bố trong kỳ đại hội đảng gần đây, coi như một chủ trương “đổi mới” tối quan trọng của ông Tập Cận Bình. Ðảng Cộng Sản tuyên dương một cách long trọng rằng từ nay sẽ để cho thị trường đóng “vai trò quyết định” trong sinh hoạt kinh tế. Thị trường hóa không phải là ý muốn của các lãnh tụ cộng sản, nhưng là một nhu cầu bắt buộc. Kinh tế Trung Quốc đã giảm bớt tăng trưởng trong mấy năm qua, vì guồng máy điều khiển tập trung không còn “món võ mới” nào để tiếp tục thi triển. Kinh tế Trung Quốc gia tăng nhờ đổ tiền vào các vụ đầu tư khổng lồ không cần thiết và rất phung phí; nhờ hạn chế khả năng tiêu thụ của người dân để dồn vào việc xuất cảng; và tất cả các hoạt động đó dựa trên những món nợ ngày càng cao và càng khó trả lại. Tình trạng đó không thể kéo dài mãi mãi. Chỉ có một con đường thoát khỏi cảnh phá sản là kích thích sức tiêu thụ của ng dân và nới lỏng cho các xí nghiệp tư doanh được phát triển, cải tổ hệ thống ngân hàng theo quy luật thị trường. Cho nên thị trường hóa là một chủ trương đứng đắn và cần thiết.
Nhưng trong cả hai cơn khủng hoảng, thị trường chứng khoán và hối suất đồng nguyên, khiến người ta bắt đầu nghi ngờ không biết Tập Cận Bình còn giữ được chủ trương đó hay không, và tiến hành nhanh chóng như nhu cầu đòi hỏi hay không.
Tuy đã tập trung quyền lực đến mức cao nhất kể từ thời Ðặng Tiểu Bình, Tập Cận Bình vẫn bị hạn chế bởi những thế lực bảo thủ đang hưởng lợi trong cơ cấu hiện hành. Thị trường hóa nghĩa là cho phép hàng trăm triệu người tự do quyết định trong việc trao đổi hàng hóa, mua bán chứng khoán, ký hợp đồng lao động, họ sẽ đóng vai trò quan trọng nhất, theo chủ trương mà Tập Cận Bình đề ra. Nhưng các lãnh tụ cộng sản cao cấp và trung cấp trong guồng máy kiểm soát hiện hành sẽ không dễ buông các quyền lợi họ đang hưởng. Họ sẽ đổ hết tội lỗi lên Tập Cận Bình nếu kinh tế xuống dốc; mà điều này luôn luôn đe dọa.
Chính sách gắn liền đồng nguyên vào đô la Mỹ, trong khi tiền các nước khác xuống giá, khiến cho hàng xuất cảng của Trung Quốc đắt hơn. Thứ Bảy tuần trước, Bắc Kinh thông báo trị giá hàng xuất cảng giảm bớt 8.3% so với năm trước. Số xuất cảng sang Châu Âu giảm nhiều nhất, giảm 12% trong Tháng Bảy vì kinh tế vùng này đang khó khăn. Vì xuất cảng xuống, số dự trữ ngoại tệ của Bắc Kinh đã tụt mất 315 tỷ đô la trong bảy tháng đầu năm nay. Muốn giữ cho kinh tế thăng bằng, họ lại phải cắt lãi suất (bốn lần trong năm nay) để các doanh nghiệp nhà nước được vay tiền dễ dàng hơn. Nhưng tỷ lệ tăng trưởng vẫn chỉ tới 7%, tốc độ thấp nhất trong 25 năm qua. Nhưng con số chính thức này không đáng tin, sự thật có thể chỉ được 3% đến 4%.
Trung Quốc cần chuyển từ kinh tế vụ vào xuất cảng sang kinh tế dựa trên sức tiêu thụ nội địa, nhưng một cơn khủng hoảng thị trường chứng khoán vừa qua có thể khiến nhiều người trung lưu mất cơ nghiệp, không giúp gì cho sức tiêu thụ. Tình rạng kinh tế suy yếu sẽ tạo cơ hội cho giới bảo thủ trong đảng Cộng Sản Trung Quốc cưỡng lại và kìm hãm các chương trình cải tổ.
Ðể ngăn chặn các phe chống đối, Tập Cận Bình tìm cách tiêu diệt những đối thủ chính trị trong nội bộ đảng, qua các vụ đánh tham nhũng rất lớn. Trong tuần qua nhật báo Nhân Dân đã tấn công thẳng vào “trung tâm” của phe đối nghịch, khi chỉ trích “những lãnh tụ về hưu vẫn tìm cách can thiệp” vào hoạt động của đảng. Ðây là một đòn tấn công một cách kín đáo vào Giang Trạch Dân, sau khi đã hạ thủ những tay chân thân tín của họ Giang, như Chu Vĩnh Khang, Lệnh Kế Hoạch, vân vân. Mâu thuẫn giữa các phe phái trong đảng chỉ làm hại cho nền kinh tế. Ðó chỉ là biểu hiện của mối mâu thuẫn lớn nhất: Ðảng Cộng Sản muốn cải tổ kinh tế nhưng vẫn không muốn buông bỏ quyền hành.
Vì thế kinh tế Trung Quốc sẽ còn lệ thuộc vào các tranh chấp nội bộ đảng Cộng Sản. Chỉ khi nào chế độ chính trị thay đổi thì công việc thị trường trường hóa mới có thể tiến hành. Ðổi mới kinh tế mà không thay đổi chính trị, đảng Cộng Sản sẽ tiếp tục đi trên con đường bế tắc.

Tín hiệu từ Thiên Tân
Ngô Nhân Dụng
Vụ nổ ở thành phố cảng Thiên Tân (Tianjin, 天津) ngày 12 Tháng Tám 2015 xảy ra trong bối cảnh đảng Cộng sản Trung Quốc đang đi qua một cuộc khủng hoảng do các mâu thuẫn nội tại căng thẳng làm rung chuyển cả hệ thống chính trị Đặng Tiểu Bình dựng lên từ hơn 30 năm nay.
Đặng Tiểu Bình chứng kiến cảnh kinh tế thất bại, xã hội hỗn độn trong thời Mao Trạch Đông, cho nên đã đặt nền tảng cho một chế độ ổn định. Thứ nhất, về kinh tế cho phép tư nhân được làm ăn để gia tăng sản xuất. Thứ hai, về chính trị quyền lực thuộc một tập thể thay đổi mỗi 10 năm, trong đó không một cá nhân nào được nắm vai trò khống chế. Thứ ba, về ngoại giao theo chủ trương thao quang dưỡng hối (韜光養晦) không khoe khoang sức mạnh quân sự.
Bất cứ mô hình nào cũng có giới hạn; nhất là khi xã hội thay đổi nhanh chóng. Khi mô hình chính trị, kinh tế không thích ứng được với những thay đổi lớn trong xã hội, sẽ không tránh được khủng hoảng. Hiện nay Trung Quốc đang bước vào giai đoạn đó; cơn khủng hoảng sẽ trở nên trầm trọng nếu giới lãnh đạo đảng Cộng sản không khéo giải quyết.
Nhược điểm lớn nhất trong mô hình Đặng Tiểu Bình là tính chất khép kín, trong khi sự tiến bộ của loài người (cũng như tất cả cuộc tiến hóa trong thiên nhiên) chỉ có thể đạt được trong những hệ thống mở. Đặng Tiểu Bình vẫn không thoát khỏi những di sản tinh thần của những chế độ khép kín từ thế kỷ 15, khi Nhà Minh, nhà Thanh cai trị nước Trung Hoa; di sản đó lại được Mao Trạch Đông đẩy tới cực điểm với chiêu bài mới là chủ nghĩa cộng sản. Đảng Cộng sản cai trị nước Trung Hoa không khác gì các hoàng đế trong Tử Cấm Thành. Họ còn khép kín hơn các vua quan đời trước; với khẩu hiệu vô sản chuyên chính kiểm soát từ miếng ăn, quần áo mặc cho tới lời nói, ý nghĩ trong đời sống hàng ngày của mọi người dân. Chế độ đó có thể hữu hiệu khi mọi người đều nghèo, đều đói, ai cũng chỉ lo thỏa mãn những nhu cầu hạ đẳng, sơ khai nhất. Nhưng khi người ta thấy đủ ăn, đủ mặc, tương quan kinh tế và xã hội phức tạp hơn, thì một hệ thống khép kín sẽ bị rạn nứt vì sức đẩy từ bên trong do các mâu thuẫn mới tạo nên. Nếu không thay đổi để thích ứng, cơn khủng hoảng sẽ làm chế độ lung lay.
Đặng Tiểu Bình chưa thoát ra khỏi cái mô hình hệ thống khép kín, đã trùm trên cả nước Trung Hoa từ 600 năm nay. Công tác lãnh đạo tập thể diễn ra trong vòng bí mật, tiêu biểu là những cuộc nghỉ hè tập thể của các thủ lãnh tại Bắc Đới Hà (Beidaihe, 北戴河) vào tháng Tám mỗi năm. Trong thời gian gần một tháng, Bắc Đới Hà biến thành khối óc của cả nước, các cán bộ cao cấp tới đó giải trí và thảo luận “việc đảng, việc nước.” Nhưng tất cả được giấu kín, không một người dân hay một nhà báo nào được phép biết ai có mặt, ai không, ngày nào tới, ngày nào đi. Tất nhiên, dân chúng không thể biết họ gặp nhau ở đó nói những chuyện gì, họ quyết định số phận của dân chúng ra sao. Một hệ thống khép kín như vậy tất nhiên đẻ ra nạn lạm quyền, tham nhũng, và những cuộc tranh chấp quyền hành nội bộ với những đòn ngầm chí tử.
Năm nay là lần đầu tiên kể từ thời Mao Trạch Đông, cuộc nghỉ hè tập thể ở Bắc Đới Hà chính thức được bãi bỏ. Tập Cận Bình còn cho báo nhà nước loan tin rằng kể từ nay những cuộc thảo luận về chính sách của đảng và nhà nước sẽ diễn ra ngay tại Bắc Kinh và sẽ được công khai hóa.
Có phải Tập Cận Bình muốn thay đổi mô hình khép kín của Đặng Tiểu Bình hay không? Khó đoán được, vì các người lãnh đạo nước Tàu xưa nay mưu mô rất thâm hiểm. Ông ta có thể đã bãi bỏ cuộc nghỉ hè tập thể năm nay vì không muốn phải gặp mặt những Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Ôn Gia Bảo, vân vân. Nhất là không muốn cho những người đó cơ hội lên tiếng chỉ trích mình trước mặt bá quan văn võ; trong khi người Trung Hoa vẫn còn giữ đầu óc “kính lão đắc thọ!” Các lãnh tụ cũ có thể lợi dụng cuộc nghỉ hè tập thể ở Bắc Đới Hà để xuất hiện và ra tay hạ uy tín của Tập Cận Bình, phục hận cho các tay chân thủ túc như Chu Vĩnh Khang, Từ Tài Hậu, Cốc Tuấn San, Lệnh Kế Hoạch, vân vân, đã bị Tập Cận Bình làm nhục qua các vụ án tham nhũng.
Tháng trước Tập Cận Bình đã cho các tờ báo của đảng cộng sản đăng một loạt bài chỉ trích các nhà lãnh đạo về hưu vẫn can thiệp vào chính sách của chính quyền đương thời, tiếp tục bảo vệ mạng lưới tay chân lũng đoạn cả chính quyền các địa phương. Chưa bao giờ Nhân Dân nhật báo đưa ra những ý kiến nhắm thẳng vào các cựu thủ lãnh như vậy. Hiện tượng này cho thấy địa vị của Tập Cận Bình vẫn chưa hoàn toàn vững chắc, còn phải lo đối đầu với nhiều địch thủ đáng sợ.
Cảnh đấu đá lẫn nhau luôn luôn diễn ra trong một hệ thống chính trị khép kín, nhưng chỉ trong vòng bí mật giữa các nhóm lãnh tụ với nhau. Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đã hạ thủ Bạc Hy Lai, một người của phe Giang Trạch Dân. Tập Cận Bình liên kết với Hồ và Ôn trong trận đấu này, nhưng sau đó đã thanh toán các đàn em của Hồ Cẩm Đào như Từ Tài Hậu, Lệnh Kế Hoạch. Trận đấu đang tới hồi quyết liệt để chuẩn bị cho đại hội đảng năm 2017. Khi đó, năm người trong Thường vụ Bộ Chính Trị sẽ nghỉ chỉ còn Tập Cận Bình và Lý Khắc Trường.
Chúng ta cũng đang chứng kiến cảnh các nhà chính trị ở Mỹ đang giành nhau làm ứng cử viên tổng thống năm 2016. Cảnh tượng náo động đó diễn ra trước mắt công chúng, phơi bầy trước báo chí cả thế giới. Ở Trung Quốc cảnh giành giật quyền hành diễn ra trong bóng tối, người dân không được phép ghé mắt nhìn. Không khác gì ở Việt Nam.
Đó là đặc điểm của hệ thống chính trị khép kín do Mao Trạch Đông dựng lên và Đặng Tiểu Bình duy trì, cho tới nay bản chất không thay đổi.
Nhưng một hệ thống khép kín như vậy không thích hợp với đời sống kinh tế hiện đại. Cho nên Trung Quốc đã trải qua một cơn khủng hoảng thị trường chứng khoán và khủng hoảng hối đoái, cả hai tới nay vẫn chưa thấy ngõ thoát. Kinh tế hiện đại dựa trên thị trường đòi hỏi một cái khung hệ thống mở. Mọi nền kinh tế bình thường đều trải qua các chu kỳ lên xuống, đó là một luật tự nhiên. Kinh tế lên đến một mức nào đó thì phải công, cũng như sau mùa Hạ, mùa Thu, sẽ tới mùa Đông. Phải có những cây cỏ chết đi để làm phân bón cho các loài thảo mộc khác sống và phát triển mạnh hơn. Trong nền kinh tế phải có các công ty phá sản, có khi cả một ngành hoạt động kinh tế được xóa bỏ vì lỗi thời. Hệ thống khép kín không cho phép quá trình tự nhiên đó được tuần tự triển khai; các bế tắc cứ tích tụ, chồng chất lên nhau. Hệ thống chính trị khép kín khiến cho các quyết định thay đổi kinh tế không thể thực hiện được nhanh chóng vì thế lực nào cũng muốn bảo vệ các quyền lợi đang được hưởng. Đó là mối họa của mô hình Đặng Tiểu Bình mà Trung Cộng đang phải đối phó.
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chính thức công bố chủ trương “thị trường hóa” nền kinh tế. Tập Cận Bình muốn thị trường đóng “vai trò quyết định” thay vì guồng máy thư lại nhà nước. Nhưng trong khi kinh tế muốn được cởi mở và tự do hơn, thì chính trị vẫn cưỡng lại, muốn duy trì quyền kiểm soát toàn diện của đảng cộng sản. Đó là mối mâu tuẫn khó giải quyết. Tập Cận Bình chỉ có thể thoát khỏi cảnh bế tắc này nếu nhận được thêm sức đẩy từ dưới lên, khi chính người dân Trung Hoa đứng lên đòi thay đổi.
Vì vậy, vụ tai nạn ở Thiên Tân có thể là một cơ hội. Các kho hàng của Công ty Tiếp liệu Quốc tế Thụy Hải (Rui Hai International Logistics, 瑞海国际物流公司, người Trung Hoa dịch Logistics là Vật Lưu) nổ và bốc cháy làm hơn 100 người chết đã làm lộ rõ tình trạng hủ lậu của cả hệ thống kinh tế, xã hội và chính trị của Cộng sản Trung Quốc.
Điều gây ra bất mãn nhất là các tai nạn trong cơ xưởng đã xẩy ra bao nhiêu năm nay nhưng guồng máy cai trị của đảng Cộng sản vẫn hoàn toàn bất lực. Người dân đã nhìn thấy cả hệ thống chính trị hoàn toàn “vô cảm” trước đời sống của người dân bình thường! Bao nhiêu nhà máy hóa học được dựng lên ở ngay nơi dân cư đông đúc. Từ Tháng Tư đến giờ, đã có năm vụ nổ ở các cơ xưởng hóa học tại các thành phố, tổng cộng 12 vụ kể từ đầu năm. Năm 2014, một nhà máy làm phụ tùng xe hơi phát nổ giết chết 75 người. Tháng Sáu năm 2013, một cơ xưởng làm thịt gà ở Đức Huệ (Dehui, 德惠), tỉnh Cát Lâm bốc cháy; trong số 350 công nhân đang làm việc có 119 người chết vì các cửa ra vào bị khóa chặt! Tháng Tư vừa qua, nhà máy sản xuất chất paraxylene (PX) ở Chương Châu (Zhangzhou 漳州), tỉnh Phúc Kiến (Fujian, 福建) bị nổ lần thứ hai trong vòng 20 tháng! Chất paraxylene có thể gây độc cũng được chứa trong kho hàng nổ cháy ở Thiên Tân, cũng như nhiều hóa chất nguy hiểm khác.
Đảng Cộng sản Trung Quốc nhắm mắt trước các tai họa lao động và công nghiệp, dù biết rằng nguy hiểm cho công chúng. Vì họ chỉ nghĩ đến nhu cầu sản xuất, lúc nào cũng lo “vượt chỉ tiêu,” bất chấp sức khỏe và mạng sống con người. Trong năm 2014, có 68,061 công nhân Trung Quốc chết vì tai nạn tại sở làm; theo thống kê của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Tính ra mỗi ngày 186 người chết vì tai nạn lao động, trong dân số 1.3 tỷ người. Ở nước Mỹ, mỗi ngày chỉ có 12 công nhân chết vì tai nạn lao động, trong dân số 320 triệu.
Hơn 400 người dân ở Thiên Tân đã tự động biểu tình phản đối nhà nước; nhưng đây không phải là lần đầu tiên. Năm 2009, dân Phúc Kiến đã biểu tình chống một nhà máy gây nhiễm độc chất chì trong nước dùng. Năm 2011, những cuộc biểu tình ở Đại Liên (Dalian, 大連), tỉnh Liêu Ninh đã bắt buộc nhà cầm quyền phải đóng cửa một nhà máy hóa học. Mỗi ngày trung bình có 500 cuộc biểu tình lớn nhỏ trong lục địa Trung Hoa, phần lớn với lý do chống tham nhũng.
Nhưng tham nhũng, lộng quyền, và tai nạn lao động, vân vân, chỉ là hậu quả của một chế độ khép kín, với một đảng độc tài nắm toàn quyền cai trị. Khi nào người dân Trung Quốc ý thức được các quyền công dân của họ, đứng lên đòi tự do dân chủ để tự bảo vệ quyền sống an toàn, lúc đó nước Trung Hoa mới thay đổi được. Tai họa của người dân Thiên Tân có thể gửi một tín hiệu đi khắp nơi cho những người đang sống dưới chế độ độc tài toàn trị biết họ phải làm gì nếu muốn được sống xứng đáng như những con người.
__._,_.___
Đàng sau vụ nổ Thiên Tân –
Những âm mưu động trời trong cuộc đấu tranh quyền lực của Cộng sản Trung quốc
Tác giả: Hoàng Thanh
Nguồn: http://b5.secretchina.com/news/15/08/15/584222.html
Cho dù nhân dân đại lục đã từng chịu qua đủ loại khủng bố, nhưng vụ nổ xảy ra ở nhà kho chứa chất nguy hiểm của công ty Thụy Hải, tại khu Tân Hải của thành phố Thiên Tân vào lúc giữa đêm 12 tháng 8 vừa qua khiến mọi người đều phải kinh hoàng, các nhân chứng cho biết nó giống như một kịch bản ngày tận thế của Hollywood. Hậu quả thương vong trong vụ này, đối với Đảng cộng sản Trung quốc, dường như chỉ là trò chơi với các con số, nhưng các bức ảnh và vidéo tại hiện trường đều cho biết đã có thương vong nghiêm trọng, thậm chí các nhân viên cứu hỏa xông vào sau đợt đầu vụ nổ [1] đều bốc hơi hoàn toàn, theo đúng nghĩa đen. Đối mặt với thảm kịch trời long đất lở này, hành động của Đảng cộng sản Trung quốc là che đậy chân tướng của sự việc, mặc cho các nạn nhân trở thành oan hồn uổng tử.
Trước mắt, các câu hỏi về nguyên nhân, trách nhiệm, và con số thương vong cụ thể của vụ nổ, v.v… đều được trả lời bằng một câu ngắn gọn: “Không biết!”
Tổ chức Môi trường Thế giới tỏ ý lo lắng về hậu quả sau vụ nổ: bụi phóng xạ, đặc biệt là các chất độc hại làm ô nhiễm nguồn nước và trong không khí.
Hiện trường Thiên Tân hôm sau vụ nổ
Hiện trường Thiên Tân hôm sau vụ nổ
Đối với vụ nổ ở Thiên Tân, thời báo Times của Mỹ cho biết, theo báo cáo của chuyên gia về sức khỏe và môi trường của Úc, Ravi Naidu, cho rằng: Không chỉ các loài động vật, mà cả các vi sinh vật cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi độc tố hóa chất sau vụ nổ; Naidu cũng chỉ ra rằng một vụ nổ như vậy sẽ không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn tác động đến tâm thần, tâm lý của nhiều người dân, đây là một vấn đề cần được quan tâm.
Theo tin tức của mạng “Bác văn xã” (http://bowenpress.com/), sau khi thất bại trong âm mưu ám sát các nhà lãnh đạo, những người chủ mưu đã cho nổ kho hóa chất. Nguồn tin nội tình cho biết: “Tác nhân gây ra vụ nổ là một xe tải được ngụy trang thành xe cung cấp nguyên liệu cho nhà máy. Chiếc xe tải này được điều vào kho lúc nửa đêm, lúc kíp trực đang uể oải, và đỗ lại rất chính xác, ngay vị trí gần kho thuốc nổ nhất. Những người trên xe tải nhanh chóng rời khỏi hiện trường, 10 phút sau thì nó phát nổ, khiến cả nhà kho chứa chất nổ hưởng ứng dây chuyền, dẫn đến toàn bộ đều nổ tung”.
Nguồn tin nội tình tiết lộ mục đích cụ thể: “Mục tiêu là nhằm kích hoạt toàn bộ các chất nổ trong kho dự trữ của nhà máy. Vốn dĩ theo đúng chương trình thì sau khi bế mạc Hội nghị Bắc Đới Hà của Trung cộng (được tổ chức vào đầu tháng 8/2015, kéo dài hơn 10 ngày, với sự tham gia của hơn 40 vị lãnh đạo lớp trước, như Hồ Cẩm Đào, Chu Dung Cơ, Tống Bình v.v…) thì các viên chức cao cấp dự hội nghị [2] sẽ về ngang Thiên Tân theo đường tàu hỏa. Nhưng sau đó, lộ trình này đột nhiên thay đổi. Do bí mật đã bị lộ, nên phải cho nổ toàn bộ để tiêu hủy chứng cớ”.
Được biết, hàng năm, sau khi Hội nghị Bắc Đới Hà kết thúc, các vị lãnh đạo đều đến Thiên Tân tham quan và gặp gỡ quần chúng, để tuyên truyền cổ động cho tinh thần của Hội nghị này.
Chuyên gia phân tích chính trị Trần Phá Không (Chen Po Kong) trong chuyên mục “Voice of America” cho biết: “Thiên Tân nổ lớn, mặt đất rung chuyển, thương vong khủng khiếp, nó được cho là hóa chất có nguy cơ cao bị cháy nổ. Toàn bộ nguyên nhân vụ nổ như thế nào? Chúng ta sẽ không bao giờ có được kết luận cuối cùng. Nhưng cũng giống như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán thời gian gần đây, không loại trừ lý do chính trị đằng sau. Ví dụ, về Hội nghị Bắc Đới Hà họp hay không họp, trước đó đã có đủ loại thông tin lộn xộn theo dạng tin đồn. Sự tranh giành giữa hai phe Tập Cận Bình và Giang Trạch Dân đang đến độ cao trào. Đã có ai đó gây hỗn loạn bằng cách đốt phá, đánh bom để chuyển hướng sự chú ý của dư luận hay chăng? Điều này là đáng nghi ngờ”.
Trước đó, trên các phương tiện truyền thông còn tiết lộ, rất có thể Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay sẽ được cử hành tại Thiên Tân.
Chuyên gia Trần Phá Không nói rằng vụ nổ lớn ở Thiên Tân này là thảm họa toàn diện, gây ra thương vong nặng nề, và làm ô nhiễm không khí nghiêm trọng; và đàng sau thảm họa là những bí mật trùng trùng. Bất cứ khi nào có thảm họa xảy ra ở Trung quốc, nhà chức trách đều ra sức bưng bít để che giấu sự thật, và cố gắng báo cáo giảm thiểu thương vong để lừa dối dư luận, nhờ vậy mà thiên tai nhân họa đều tan biến, cứ như chúng chưa từng xảy ra.
Học giả Cao Văn Khiêm, tác giả quyển “Những năm cuối đời của Chu Ân Lai” (Vãn niên Chu Ân Lai) cho biết năm nay Trung quốc gặp nhiều rắc rối: gần đây là tàu “Ngôi sao Phương Đông” (Oriental Star) bị chìm, nay lại đến Thiên Tân nổ lớn, đặc biệt vào giai đoạn cuộc chiến trong hàng ngũ cao cấp của Trung cộng đang vào kỳ khốc liệt như hiện nay, sắp tới sẽ là bức màn u ám cho cuộc tổng duyệt binh diễn ra vào ngày 3/9.
Trình Hiểu Nông, tiến sĩ xã hội học, trên chuyên mục “Voice of America” cho rằng vụ nổ này làm nảy sinh ba câu hỏi lớn:
1- Vụ nổ phát xuất từ một nhà kho qui mô lớn vừa mới được xây dựng năm ngoái. Nhà kho này chỉ cách các kiến trúc công cộng, đường cao tốc, đường sắt chỉ vài trăm mét. Đây rõ ràng là phạm pháp, ai đã phê duyệt cho việc xây cất nó?
2- Đội phòng chống cháy nổ của kho chứa chất nổ nguy hiểm này không được huấn luyện kỹ năng chuyên môn, khiến việc cứu hỏa trở thành tiếp tay phóng hỏa thêm. Trên tờ “Phương Nam cuối tuần” (Nam phương chu mạt – http://www.infzm.com/) có đề cập vấn đề này ngay sau vụ nổ, nhưng đã được lệnh gỡ bỏ. Rõ ràng giới hữu trách ở Trung quốc đang tận lực bưng bít sự thật.
3- Chỉ Phong, người phụ trách cao nhất của công ty Thuỵ Hải hiện đang được cảnh sát địa phương bảo vệ trong bệnh viện. Khi nhận được điện thoại của phóng viên, ông này trả lời, và viện cớ mình đang bệnh để thoái thác; nhưng về phía bệnh viện lại nói dối rằng thân chủ của họ bị chấn thương và đang trong tình trạng hôn mê, không thể trò chuyện được. Chỉ Phong được xác định là con trai của Chỉ Thăng Hoa, nguyên phó thị trưởng thành phố Thiên Tân. Hiện Chỉ Phong đã được chính quyền Thiên Tân cho phép miễn trả lời phỏng vấn của báo chí. Việc này khiến sự nghi ngờ càng dâng cao. Vụ nổ này khiến người ta liên tưởng đến vụ nổ cũng của một nhà kho chứa chất dễ cháy nổ, xảy ra năm 1993 ở Thâm Quyến: Do sai lầm trong quản lý và cố tình vi phạm qui tắc an toàn, kho hàng nguy hiểm này đã bị cháy nổ, nhưng sau đó các quan chức hữu trách đã liên thủ ém nhẹm vụ việc.
Khi vụ nổ xảy ra, nhà kho của công ty Thụy Hải đang lưu trữ ít nhất 700 tấn Natri xyanua, các hóa chất độc hại này được chứa trong hộp gỗ hoặc thùng sắt, cứ 50 kg một thùng. Theo thanh tra tại chỗ, trong hệ thống cống rãnh tại hiện trường đã phát hiện được chất Cyanide, cho thấy đã có hiện tượng hóa chất bị rò rỉ. Xyanua natri là hóa chất có độc tính cao, chỉ cần hàm lượng 0,1 gram thôi, đã có thể gây chết người.
Tài liệu phổ biến công khai cho biết, Cyanide tác động thông qua xúc giác, đường hô hấp và hệ tiêu hóa, gây ảnh hưởng đến cơ thể, bao gồm các triệu chứng: khó chịu, suy nhược, đau đầu, nôn, viêm loét, ăn mòn, bỏng, tê; nếu hít phải, chỉ 200-300ppm là có thể gây ra cái chết tức khắc. Cách giải độc là tiêm Sodium nitrite, Sodium thiosulfate, hít Amyl nitrite; nhưng hiện chưa có thuốc giải độc đặc hiệu.
Học giả Cao Văn Khiêm nói thêm, Thiên Tân trước nay vốn dĩ là “một thành phố không có tin tức”. Sau vụ nổ kinh hoàng, cả thế giới đều nhìn về Thiên Tân, nhưng ở Thiên Tân, ngay sau ngày phát sinh thảm họa, thì người ta lại đang được xem một bộ phim truyền hình nhiều tập của Hàn quốc. Đó là kịch bản truyền thống ở Trung quốc khi thảm họa xảy ra: chính quyền lập tức kiểm duyệt để phong tỏa tin tức, các minh tinh sẽ cầu nguyện thương cảm, quần chúng thì được cảm kích công ơn của đảng, càng nhiều tai nạn thì đất nước càng thịnh vượng, phát triển, việc quản trị nhà nước như chiếc lá nho trên tranh khỏa thân.
Một phóng viên của tờ Tin tức Bắc Kinh đã phải lén lút thâm nhập hiện trường để điều tra chân tướng vụ việc. Bài viết của người này được đăng trên mạng Weixin (http://weixin.qq.com/), nhưng hiện giờ nó đã được gỡ bỏ. Sau đây là vài hình ảnh mà phóng viên nói trên đã cho đăng lên, mà cư dân mạng Trung quốc còn lưu giữ được.
_______
[1] Trong đêm 12/8, ở hiện trường có hai vụ nổ lớn liên tiếp nhau. Vụ nổ đầu tiên bằng cơn địa chấn 2,3 độ Richter (tương đương uy lực của 3 tấn TNT – Cần biết: chỉ một kg chất nổ TNT, có thể khiến một vật thể có trọng lượng 100kg dịch chuyển 4,2km).
Đội cảnh sát cứu hỏa Thiên Tân lập tức cử 9 trung đội đến cứu chữa. Cảnh sát cứu hỏa tiến vào lúc 22:50, thì đúng 23:06, vụ nổ tiếp theo bùng phát, lần này tương đương 20 tấn TNT, trong vòng bán kính 500m, không một sinh mạng nào còn sống sót, chỉ tính riêng cảnh sát cứu hỏa, 9 trung đội khoảng 300 người hoàn toàn bốc hơi không còn mảnh vụn.
[2] Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay, Giang Trạch Dân cáo bệnh không tham dự.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.
Không ảnh hiện trưòng sau vụ nổ
Không ảnh hiện trưòng sau vụ nổ
Cảnh tượng tưởng như chỉ có ở địa ngục
Cảnh tượng tưởng như chỉ có ở địa ngục
Quang cảnh vượt xa cả kịch bản ngày tận thế của Hollywood
Quang cảnh vượt xa cả kịch bản ngày tận thế của Hollywood
Những âm mưu động trời trong cuộc đấu tranh quyền lực của Cộng sản Trung quốc
Tác giả: Hoàng Thanh
Nguồn: http://b5.secretchina.com/news/15/08/15/584222.html
Cho dù nhân dân đại lục đã từng chịu qua đủ loại khủng bố, nhưng vụ nổ xảy ra ở nhà kho chứa chất nguy hiểm của công ty Thụy Hải, tại khu Tân Hải của thành phố Thiên Tân vào lúc giữa đêm 12 tháng 8 vừa qua khiến mọi người đều phải kinh hoàng, các nhân chứng cho biết nó giống như một kịch bản ngày tận thế của Hollywood. Hậu quả thương vong trong vụ này, đối với Đảng cộng sản Trung quốc, dường như chỉ là trò chơi với các con số, nhưng các bức ảnh và vidéo tại hiện trường đều cho biết đã có thương vong nghiêm trọng, thậm chí các nhân viên cứu hỏa xông vào sau đợt đầu vụ nổ [1] đều bốc hơi hoàn toàn, theo đúng nghĩa đen. Đối mặt với thảm kịch trời long đất lở này, hành động của Đảng cộng sản Trung quốc là che đậy chân tướng của sự việc, mặc cho các nạn nhân trở thành oan hồn uổng tử.
Trước mắt, các câu hỏi về nguyên nhân, trách nhiệm, và con số thương vong cụ thể của vụ nổ, v.v… đều được trả lời bằng một câu ngắn gọn: “Không biết!”
Tổ chức Môi trường Thế giới tỏ ý lo lắng về hậu quả sau vụ nổ: bụi phóng xạ, đặc biệt là các chất độc hại làm ô nhiễm nguồn nước và trong không khí.
Hiện trường Thiên Tân hôm sau vụ nổ
Hiện trường Thiên Tân hôm sau vụ nổ
Đối với vụ nổ ở Thiên Tân, thời báo Times của Mỹ cho biết, theo báo cáo của chuyên gia về sức khỏe và môi trường của Úc, Ravi Naidu, cho rằng: Không chỉ các loài động vật, mà cả các vi sinh vật cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi độc tố hóa chất sau vụ nổ; Naidu cũng chỉ ra rằng một vụ nổ như vậy sẽ không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn tác động đến tâm thần, tâm lý của nhiều người dân, đây là một vấn đề cần được quan tâm.
Theo tin tức của mạng “Bác văn xã” (http://bowenpress.com/), sau khi thất bại trong âm mưu ám sát các nhà lãnh đạo, những người chủ mưu đã cho nổ kho hóa chất. Nguồn tin nội tình cho biết: “Tác nhân gây ra vụ nổ là một xe tải được ngụy trang thành xe cung cấp nguyên liệu cho nhà máy. Chiếc xe tải này được điều vào kho lúc nửa đêm, lúc kíp trực đang uể oải, và đỗ lại rất chính xác, ngay vị trí gần kho thuốc nổ nhất. Những người trên xe tải nhanh chóng rời khỏi hiện trường, 10 phút sau thì nó phát nổ, khiến cả nhà kho chứa chất nổ hưởng ứng dây chuyền, dẫn đến toàn bộ đều nổ tung”.
Nguồn tin nội tình tiết lộ mục đích cụ thể: “Mục tiêu là nhằm kích hoạt toàn bộ các chất nổ trong kho dự trữ của nhà máy. Vốn dĩ theo đúng chương trình thì sau khi bế mạc Hội nghị Bắc Đới Hà của Trung cộng (được tổ chức vào đầu tháng 8/2015, kéo dài hơn 10 ngày, với sự tham gia của hơn 40 vị lãnh đạo lớp trước, như Hồ Cẩm Đào, Chu Dung Cơ, Tống Bình v.v…) thì các viên chức cao cấp dự hội nghị [2] sẽ về ngang Thiên Tân theo đường tàu hỏa. Nhưng sau đó, lộ trình này đột nhiên thay đổi. Do bí mật đã bị lộ, nên phải cho nổ toàn bộ để tiêu hủy chứng cớ”.
Được biết, hàng năm, sau khi Hội nghị Bắc Đới Hà kết thúc, các vị lãnh đạo đều đến Thiên Tân tham quan và gặp gỡ quần chúng, để tuyên truyền cổ động cho tinh thần của Hội nghị này.
Chuyên gia phân tích chính trị Trần Phá Không (Chen Po Kong) trong chuyên mục “Voice of America” cho biết: “Thiên Tân nổ lớn, mặt đất rung chuyển, thương vong khủng khiếp, nó được cho là hóa chất có nguy cơ cao bị cháy nổ. Toàn bộ nguyên nhân vụ nổ như thế nào? Chúng ta sẽ không bao giờ có được kết luận cuối cùng. Nhưng cũng giống như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán thời gian gần đây, không loại trừ lý do chính trị đằng sau. Ví dụ, về Hội nghị Bắc Đới Hà họp hay không họp, trước đó đã có đủ loại thông tin lộn xộn theo dạng tin đồn. Sự tranh giành giữa hai phe Tập Cận Bình và Giang Trạch Dân đang đến độ cao trào. Đã có ai đó gây hỗn loạn bằng cách đốt phá, đánh bom để chuyển hướng sự chú ý của dư luận hay chăng? Điều này là đáng nghi ngờ”.
Trước đó, trên các phương tiện truyền thông còn tiết lộ, rất có thể Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay sẽ được cử hành tại Thiên Tân.
Chuyên gia Trần Phá Không nói rằng vụ nổ lớn ở Thiên Tân này là thảm họa toàn diện, gây ra thương vong nặng nề, và làm ô nhiễm không khí nghiêm trọng; và đàng sau thảm họa là những bí mật trùng trùng. Bất cứ khi nào có thảm họa xảy ra ở Trung quốc, nhà chức trách đều ra sức bưng bít để che giấu sự thật, và cố gắng báo cáo giảm thiểu thương vong để lừa dối dư luận, nhờ vậy mà thiên tai nhân họa đều tan biến, cứ như chúng chưa từng xảy ra.
Học giả Cao Văn Khiêm, tác giả quyển “Những năm cuối đời của Chu Ân Lai” (Vãn niên Chu Ân Lai) cho biết năm nay Trung quốc gặp nhiều rắc rối: gần đây là tàu “Ngôi sao Phương Đông” (Oriental Star) bị chìm, nay lại đến Thiên Tân nổ lớn, đặc biệt vào giai đoạn cuộc chiến trong hàng ngũ cao cấp của Trung cộng đang vào kỳ khốc liệt như hiện nay, sắp tới sẽ là bức màn u ám cho cuộc tổng duyệt binh diễn ra vào ngày 3/9.
Trình Hiểu Nông, tiến sĩ xã hội học, trên chuyên mục “Voice of America” cho rằng vụ nổ này làm nảy sinh ba câu hỏi lớn:
1- Vụ nổ phát xuất từ một nhà kho qui mô lớn vừa mới được xây dựng năm ngoái. Nhà kho này chỉ cách các kiến trúc công cộng, đường cao tốc, đường sắt chỉ vài trăm mét. Đây rõ ràng là phạm pháp, ai đã phê duyệt cho việc xây cất nó?
2- Đội phòng chống cháy nổ của kho chứa chất nổ nguy hiểm này không được huấn luyện kỹ năng chuyên môn, khiến việc cứu hỏa trở thành tiếp tay phóng hỏa thêm. Trên tờ “Phương Nam cuối tuần” (Nam phương chu mạt – http://www.infzm.com/) có đề cập vấn đề này ngay sau vụ nổ, nhưng đã được lệnh gỡ bỏ. Rõ ràng giới hữu trách ở Trung quốc đang tận lực bưng bít sự thật.
3- Chỉ Phong, người phụ trách cao nhất của công ty Thuỵ Hải hiện đang được cảnh sát địa phương bảo vệ trong bệnh viện. Khi nhận được điện thoại của phóng viên, ông này trả lời, và viện cớ mình đang bệnh để thoái thác; nhưng về phía bệnh viện lại nói dối rằng thân chủ của họ bị chấn thương và đang trong tình trạng hôn mê, không thể trò chuyện được. Chỉ Phong được xác định là con trai của Chỉ Thăng Hoa, nguyên phó thị trưởng thành phố Thiên Tân. Hiện Chỉ Phong đã được chính quyền Thiên Tân cho phép miễn trả lời phỏng vấn của báo chí. Việc này khiến sự nghi ngờ càng dâng cao. Vụ nổ này khiến người ta liên tưởng đến vụ nổ cũng của một nhà kho chứa chất dễ cháy nổ, xảy ra năm 1993 ở Thâm Quyến: Do sai lầm trong quản lý và cố tình vi phạm qui tắc an toàn, kho hàng nguy hiểm này đã bị cháy nổ, nhưng sau đó các quan chức hữu trách đã liên thủ ém nhẹm vụ việc.
Khi vụ nổ xảy ra, nhà kho của công ty Thụy Hải đang lưu trữ ít nhất 700 tấn Natri xyanua, các hóa chất độc hại này được chứa trong hộp gỗ hoặc thùng sắt, cứ 50 kg một thùng. Theo thanh tra tại chỗ, trong hệ thống cống rãnh tại hiện trường đã phát hiện được chất Cyanide, cho thấy đã có hiện tượng hóa chất bị rò rỉ. Xyanua natri là hóa chất có độc tính cao, chỉ cần hàm lượng 0,1 gram thôi, đã có thể gây chết người.
Tài liệu phổ biến công khai cho biết, Cyanide tác động thông qua xúc giác, đường hô hấp và hệ tiêu hóa, gây ảnh hưởng đến cơ thể, bao gồm các triệu chứng: khó chịu, suy nhược, đau đầu, nôn, viêm loét, ăn mòn, bỏng, tê; nếu hít phải, chỉ 200-300ppm là có thể gây ra cái chết tức khắc. Cách giải độc là tiêm Sodium nitrite, Sodium thiosulfate, hít Amyl nitrite; nhưng hiện chưa có thuốc giải độc đặc hiệu.
Học giả Cao Văn Khiêm nói thêm, Thiên Tân trước nay vốn dĩ là “một thành phố không có tin tức”. Sau vụ nổ kinh hoàng, cả thế giới đều nhìn về Thiên Tân, nhưng ở Thiên Tân, ngay sau ngày phát sinh thảm họa, thì người ta lại đang được xem một bộ phim truyền hình nhiều tập của Hàn quốc. Đó là kịch bản truyền thống ở Trung quốc khi thảm họa xảy ra: chính quyền lập tức kiểm duyệt để phong tỏa tin tức, các minh tinh sẽ cầu nguyện thương cảm, quần chúng thì được cảm kích công ơn của đảng, càng nhiều tai nạn thì đất nước càng thịnh vượng, phát triển, việc quản trị nhà nước như chiếc lá nho trên tranh khỏa thân.
Một phóng viên của tờ Tin tức Bắc Kinh đã phải lén lút thâm nhập hiện trường để điều tra chân tướng vụ việc. Bài viết của người này được đăng trên mạng Weixin (http://weixin.qq.com/), nhưng hiện giờ nó đã được gỡ bỏ. Sau đây là vài hình ảnh mà phóng viên nói trên đã cho đăng lên, mà cư dân mạng Trung quốc còn lưu giữ được.
_______
[1] Trong đêm 12/8, ở hiện trường có hai vụ nổ lớn liên tiếp nhau. Vụ nổ đầu tiên bằng cơn địa chấn 2,3 độ Richter (tương đương uy lực của 3 tấn TNT – Cần biết: chỉ một kg chất nổ TNT, có thể khiến một vật thể có trọng lượng 100kg dịch chuyển 4,2km).
Đội cảnh sát cứu hỏa Thiên Tân lập tức cử 9 trung đội đến cứu chữa. Cảnh sát cứu hỏa tiến vào lúc 22:50, thì đúng 23:06, vụ nổ tiếp theo bùng phát, lần này tương đương 20 tấn TNT, trong vòng bán kính 500m, không một sinh mạng nào còn sống sót, chỉ tính riêng cảnh sát cứu hỏa, 9 trung đội khoảng 300 người hoàn toàn bốc hơi không còn mảnh vụn.
[2] Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay, Giang Trạch Dân cáo bệnh không tham dự.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.
Không ảnh hiện trưòng sau vụ nổ
Không ảnh hiện trưòng sau vụ nổ
Cảnh tượng tưởng như chỉ có ở địa ngục
Cảnh tượng tưởng như chỉ có ở địa ngục
Quang cảnh vượt xa cả kịch bản ngày tận thế của Hollywood
Quang cảnh vượt xa cả kịch bản ngày tận thế của Hollywood
Đàng sau vụ nổ Thiên Tân –
Những âm mưu động trời trong cuộc đấu tranh quyền lực của Cộng sản Trung quốc
Tác giả: Hoàng Thanh
Nguồn: http://b5.secretchina.com/news/15/08/15/584222.html
Cho dù nhân dân đại lục đã từng chịu qua đủ loại khủng bố, nhưng vụ nổ xảy ra ở nhà kho chứa chất nguy hiểm của công ty Thụy Hải, tại khu Tân Hải của thành phố Thiên Tân vào lúc giữa đêm 12 tháng 8 vừa qua khiến mọi người đều phải kinh hoàng, các nhân chứng cho biết nó giống như một kịch bản ngày tận thế của Hollywood. Hậu quả thương vong trong vụ này, đối với Đảng cộng sản Trung quốc, dường như chỉ là trò chơi với các con số, nhưng các bức ảnh và vidéo tại hiện trường đều cho biết đã có thương vong nghiêm trọng, thậm chí các nhân viên cứu hỏa xông vào sau đợt đầu vụ nổ [1] đều bốc hơi hoàn toàn, theo đúng nghĩa đen. Đối mặt với thảm kịch trời long đất lở này, hành động của Đảng cộng sản Trung quốc là che đậy chân tướng của sự việc, mặc cho các nạn nhân trở thành oan hồn uổng tử.
Trước mắt, các câu hỏi về nguyên nhân, trách nhiệm, và con số thương vong cụ thể của vụ nổ, v.v… đều được trả lời bằng một câu ngắn gọn: “Không biết!”
Tổ chức Môi trường Thế giới tỏ ý lo lắng về hậu quả sau vụ nổ: bụi phóng xạ, đặc biệt là các chất độc hại làm ô nhiễm nguồn nước và trong không khí.
Hiện trường Thiên Tân hôm sau vụ nổ
Đối với vụ nổ ở Thiên Tân, thời báo Times của Mỹ cho biết, theo báo cáo của chuyên gia về sức khỏe và môi trường của Úc, Ravi Naidu, cho rằng: Không chỉ các loài động vật, mà cả các vi sinh vật cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi độc tố hóa chất sau vụ nổ; Naidu cũng chỉ ra rằng một vụ nổ như vậy sẽ không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn tác động đến tâm thần, tâm lý của nhiều người dân, đây là một vấn đề cần được quan tâm.
Theo tin tức của mạng “Bác văn xã” (http://bowenpress.com/), sau khi thất bại trong âm mưu ám sát các nhà lãnh đạo, những người chủ mưu đã cho nổ kho hóa chất. Nguồn tin nội tình cho biết: “Tác nhân gây ra vụ nổ là một xe tải được ngụy trang thành xe cung cấp nguyên liệu cho nhà máy. Chiếc xe tải này được điều vào kho lúc nửa đêm, lúc kíp trực đang uể oải, và đỗ lại rất chính xác, ngay vị trí gần kho thuốc nổ nhất. Những người trên xe tải nhanh chóng rời khỏi hiện trường, 10 phút sau thì nó phát nổ, khiến cả nhà kho chứa chất nổ hưởng ứng dây chuyền, dẫn đến toàn bộ đều nổ tung”.
Nguồn tin nội tình tiết lộ mục đích cụ thể: “Mục tiêu là nhằm kích hoạt toàn bộ các chất nổ trong kho dự trữ của nhà máy. Vốn dĩ theo đúng chương trình thì sau khi bế mạc Hội nghị Bắc Đới Hà của Trung cộng (được tổ chức vào đầu tháng 8/2015, kéo dài hơn 10 ngày, với sự tham gia của hơn 40 vị lãnh đạo lớp trước, như Hồ Cẩm Đào, Chu Dung Cơ, Tống Bình v.v…) thì các viên chức cao cấp dự hội nghị [2] sẽ về ngang Thiên Tân theo đường tàu hỏa. Nhưng sau đó, lộ trình này đột nhiên thay đổi. Do bí mật đã bị lộ, nên phải cho nổ toàn bộ để tiêu hủy chứng cớ”.
Được biết, hàng năm, sau khi Hội nghị Bắc Đới Hà kết thúc, các vị lãnh đạo đều đến Thiên Tân tham quan và gặp gỡ quần chúng, để tuyên truyền cổ động cho tinh thần của Hội nghị này.
Chuyên gia phân tích chính trị Trần Phá Không (Chen Po Kong) trong chuyên mục “Voice of America” cho biết: “Thiên Tân nổ lớn, mặt đất rung chuyển, thương vong khủng khiếp, nó được cho là hóa chất có nguy cơ cao bị cháy nổ. Toàn bộ nguyên nhân vụ nổ như thế nào? Chúng ta sẽ không bao giờ có được kết luận cuối cùng. Nhưng cũng giống như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán thời gian gần đây, không loại trừ lý do chính trị đằng sau. Ví dụ, về Hội nghị Bắc Đới Hà họp hay không họp, trước đó đã có đủ loại thông tin lộn xộn theo dạng tin đồn. Sự tranh giành giữa hai phe Tập Cận Bình và Giang Trạch Dân đang đến độ cao trào. Đã có ai đó gây hỗn loạn bằng cách đốt phá, đánh bom để chuyển hướng sự chú ý của dư luận hay chăng? Điều này là đáng nghi ngờ”.
Trước đó, trên các phương tiện truyền thông còn tiết lộ, rất có thể Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay sẽ được cử hành tại Thiên Tân.
Chuyên gia Trần Phá Không nói rằng vụ nổ lớn ở Thiên Tân này là thảm họa toàn diện, gây ra thương vong nặng nề, và làm ô nhiễm không khí nghiêm trọng; và đàng sau thảm họa là những bí mật trùng trùng. Bất cứ khi nào có thảm họa xảy ra ở Trung quốc, nhà chức trách đều ra sức bưng bít để che giấu sự thật, và cố gắng báo cáo giảm thiểu thương vong để lừa dối dư luận, nhờ vậy mà thiên tai nhân họa đều tan biến, cứ như chúng chưa từng xảy ra.
Học giả Cao Văn Khiêm, tác giả quyển “Những năm cuối đời của Chu Ân Lai” (Vãn niên Chu Ân Lai) cho biết năm nay Trung quốc gặp nhiều rắc rối: gần đây là tàu “Ngôi sao Phương Đông” (Oriental Star) bị chìm, nay lại đến Thiên Tân nổ lớn, đặc biệt vào giai đoạn cuộc chiến trong hàng ngũ cao cấp của Trung cộng đang vào kỳ khốc liệt như hiện nay, sắp tới sẽ là bức màn u ám cho cuộc tổng duyệt binh diễn ra vào ngày 3/9.
Trình Hiểu Nông, tiến sĩ xã hội học, trên chuyên mục “Voice of America” cho rằng vụ nổ này làm nảy sinh ba câu hỏi lớn:
1- Vụ nổ phát xuất từ một nhà kho qui mô lớn vừa mới được xây dựng năm ngoái. Nhà kho này chỉ cách các kiến trúc công cộng, đường cao tốc, đường sắt chỉ vài trăm mét. Đây rõ ràng là phạm pháp, ai đã phê duyệt cho việc xây cất nó?
2- Đội phòng chống cháy nổ của kho chứa chất nổ nguy hiểm này không được huấn luyện kỹ năng chuyên môn, khiến việc cứu hỏa trở thành tiếp tay phóng hỏa thêm. Trên tờ “Phương Nam cuối tuần” (Nam phương chu mạt – http://www.infzm.com/) có đề cập vấn đề này ngay sau vụ nổ, nhưng đã được lệnh gỡ bỏ. Rõ ràng giới hữu trách ở Trung quốc đang tận lực bưng bít sự thật.
3- Chỉ Phong, người phụ trách cao nhất của công ty Thuỵ Hải hiện đang được cảnh sát địa phương bảo vệ trong bệnh viện. Khi nhận được điện thoại của phóng viên, ông này trả lời, và viện cớ mình đang bệnh để thoái thác; nhưng về phía bệnh viện lại nói dối rằng thân chủ của họ bị chấn thương và đang trong tình trạng hôn mê, không thể trò chuyện được. Chỉ Phong được xác định là con trai của Chỉ Thăng Hoa, nguyên phó thị trưởng thành phố Thiên Tân. Hiện Chỉ Phong đã được chính quyền Thiên Tân cho phép miễn trả lời phỏng vấn của báo chí. Việc này khiến sự nghi ngờ càng dâng cao. Vụ nổ này khiến người ta liên tưởng đến vụ nổ cũng của một nhà kho chứa chất dễ cháy nổ, xảy ra năm 1993 ở Thâm Quyến: Do sai lầm trong quản lý và cố tình vi phạm qui tắc an toàn, kho hàng nguy hiểm này đã bị cháy nổ, nhưng sau đó các quan chức hữu trách đã liên thủ ém nhẹm vụ việc.
Khi vụ nổ xảy ra, nhà kho của công ty Thụy Hải đang lưu trữ ít nhất 700 tấn Natri xyanua, các hóa chất độc hại này được chứa trong hộp gỗ hoặc thùng sắt, cứ 50 kg một thùng. Theo thanh tra tại chỗ, trong hệ thống cống rãnh tại hiện trường đã phát hiện được chất Cyanide, cho thấy đã có hiện tượng hóa chất bị rò rỉ. Xyanua natri là hóa chất có độc tính cao, chỉ cần hàm lượng 0,1 gram thôi, đã có thể gây chết người.
Tài liệu phổ biến công khai cho biết, Cyanide tác động thông qua xúc giác, đường hô hấp và hệ tiêu hóa, gây ảnh hưởng đến cơ thể, bao gồm các triệu chứng: khó chịu, suy nhược, đau đầu, nôn, viêm loét, ăn mòn, bỏng, tê; nếu hít phải, chỉ 200-300ppm là có thể gây ra cái chết tức khắc. Cách giải độc là tiêm Sodium nitrite, Sodium thiosulfate, hít Amyl nitrite; nhưng hiện chưa có thuốc giải độc đặc hiệu.
Học giả Cao Văn Khiêm nói thêm, Thiên Tân trước nay vốn dĩ là “một thành phố không có tin tức”. Sau vụ nổ kinh hoàng, cả thế giới đều nhìn về Thiên Tân, nhưng ở Thiên Tân, ngay sau ngày phát sinh thảm họa, thì người ta lại đang được xem một bộ phim truyền hình nhiều tập của Hàn quốc. Đó là kịch bản truyền thống ở Trung quốc khi thảm họa xảy ra: chính quyền lập tức kiểm duyệt để phong tỏa tin tức, các minh tinh sẽ cầu nguyện thương cảm, quần chúng thì được cảm kích công ơn của đảng, càng nhiều tai nạn thì đất nước càng thịnh vượng, phát triển, việc quản trị nhà nước như chiếc lá nho trên tranh khỏa thân.
Một phóng viên của tờ Tin tức Bắc Kinh đã phải lén lút thâm nhập hiện trường để điều tra chân tướng vụ việc. Bài viết của người này được đăng trên mạng Weixin (http://weixin.qq.com/), nhưng hiện giờ nó đã được gỡ bỏ. Sau đây là vài hình ảnh mà phóng viên nói trên đã cho đăng lên, mà cư dân mạng Trung quốc còn lưu giữ được.
_______
[1] Trong đêm 12/8, ở hiện trường có hai vụ nổ lớn liên tiếp nhau. Vụ nổ đầu tiên bằng cơn địa chấn 2,3 độ Richter (tương đương uy lực của 3 tấn TNT – Cần biết: chỉ một kg chất nổ TNT, có thể khiến một vật thể có trọng lượng 100kg dịch chuyển 4,2km).
Đội cảnh sát cứu hỏa Thiên Tân lập tức cử 9 trung đội đến cứu chữa. Cảnh sát cứu hỏa tiến vào lúc 22:50, thì đúng 23:06, vụ nổ tiếp theo bùng phát, lần này tương đương 20 tấn TNT, trong vòng bán kính 500m, không một sinh mạng nào còn sống sót, chỉ tính riêng cảnh sát cứu hỏa, 9 trung đội khoảng 300 người hoàn toàn bốc hơi không còn mảnh vụn.
[2] Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay, Giang Trạch Dân cáo bệnh không tham dự.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.
Cảnh tượng tưởng như chỉ có ở địa ngục
Quang cảnh vượt xa cả kịch bản ngày tận thế của Hollywood
Những âm mưu động trời trong cuộc đấu tranh quyền lực của Cộng sản Trung quốc
Tác giả: Hoàng Thanh
Nguồn: http://b5.secretchina.com/news/15/08/15/584222.html
Cho dù nhân dân đại lục đã từng chịu qua đủ loại khủng bố, nhưng vụ nổ xảy ra ở nhà kho chứa chất nguy hiểm của công ty Thụy Hải, tại khu Tân Hải của thành phố Thiên Tân vào lúc giữa đêm 12 tháng 8 vừa qua khiến mọi người đều phải kinh hoàng, các nhân chứng cho biết nó giống như một kịch bản ngày tận thế của Hollywood. Hậu quả thương vong trong vụ này, đối với Đảng cộng sản Trung quốc, dường như chỉ là trò chơi với các con số, nhưng các bức ảnh và vidéo tại hiện trường đều cho biết đã có thương vong nghiêm trọng, thậm chí các nhân viên cứu hỏa xông vào sau đợt đầu vụ nổ [1] đều bốc hơi hoàn toàn, theo đúng nghĩa đen. Đối mặt với thảm kịch trời long đất lở này, hành động của Đảng cộng sản Trung quốc là che đậy chân tướng của sự việc, mặc cho các nạn nhân trở thành oan hồn uổng tử.
Trước mắt, các câu hỏi về nguyên nhân, trách nhiệm, và con số thương vong cụ thể của vụ nổ, v.v… đều được trả lời bằng một câu ngắn gọn: “Không biết!”
Tổ chức Môi trường Thế giới tỏ ý lo lắng về hậu quả sau vụ nổ: bụi phóng xạ, đặc biệt là các chất độc hại làm ô nhiễm nguồn nước và trong không khí.

Hiện trường Thiên Tân hôm sau vụ nổ
Đối với vụ nổ ở Thiên Tân, thời báo Times của Mỹ cho biết, theo báo cáo của chuyên gia về sức khỏe và môi trường của Úc, Ravi Naidu, cho rằng: Không chỉ các loài động vật, mà cả các vi sinh vật cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi độc tố hóa chất sau vụ nổ; Naidu cũng chỉ ra rằng một vụ nổ như vậy sẽ không chỉ ảnh hưởng đến môi trường mà còn tác động đến tâm thần, tâm lý của nhiều người dân, đây là một vấn đề cần được quan tâm.
Theo tin tức của mạng “Bác văn xã” (http://bowenpress.com/), sau khi thất bại trong âm mưu ám sát các nhà lãnh đạo, những người chủ mưu đã cho nổ kho hóa chất. Nguồn tin nội tình cho biết: “Tác nhân gây ra vụ nổ là một xe tải được ngụy trang thành xe cung cấp nguyên liệu cho nhà máy. Chiếc xe tải này được điều vào kho lúc nửa đêm, lúc kíp trực đang uể oải, và đỗ lại rất chính xác, ngay vị trí gần kho thuốc nổ nhất. Những người trên xe tải nhanh chóng rời khỏi hiện trường, 10 phút sau thì nó phát nổ, khiến cả nhà kho chứa chất nổ hưởng ứng dây chuyền, dẫn đến toàn bộ đều nổ tung”.
Nguồn tin nội tình tiết lộ mục đích cụ thể: “Mục tiêu là nhằm kích hoạt toàn bộ các chất nổ trong kho dự trữ của nhà máy. Vốn dĩ theo đúng chương trình thì sau khi bế mạc Hội nghị Bắc Đới Hà của Trung cộng (được tổ chức vào đầu tháng 8/2015, kéo dài hơn 10 ngày, với sự tham gia của hơn 40 vị lãnh đạo lớp trước, như Hồ Cẩm Đào, Chu Dung Cơ, Tống Bình v.v…) thì các viên chức cao cấp dự hội nghị [2] sẽ về ngang Thiên Tân theo đường tàu hỏa. Nhưng sau đó, lộ trình này đột nhiên thay đổi. Do bí mật đã bị lộ, nên phải cho nổ toàn bộ để tiêu hủy chứng cớ”.
Được biết, hàng năm, sau khi Hội nghị Bắc Đới Hà kết thúc, các vị lãnh đạo đều đến Thiên Tân tham quan và gặp gỡ quần chúng, để tuyên truyền cổ động cho tinh thần của Hội nghị này.
Chuyên gia phân tích chính trị Trần Phá Không (Chen Po Kong) trong chuyên mục “Voice of America” cho biết: “Thiên Tân nổ lớn, mặt đất rung chuyển, thương vong khủng khiếp, nó được cho là hóa chất có nguy cơ cao bị cháy nổ. Toàn bộ nguyên nhân vụ nổ như thế nào? Chúng ta sẽ không bao giờ có được kết luận cuối cùng. Nhưng cũng giống như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán thời gian gần đây, không loại trừ lý do chính trị đằng sau. Ví dụ, về Hội nghị Bắc Đới Hà họp hay không họp, trước đó đã có đủ loại thông tin lộn xộn theo dạng tin đồn. Sự tranh giành giữa hai phe Tập Cận Bình và Giang Trạch Dân đang đến độ cao trào. Đã có ai đó gây hỗn loạn bằng cách đốt phá, đánh bom để chuyển hướng sự chú ý của dư luận hay chăng? Điều này là đáng nghi ngờ”.
Trước đó, trên các phương tiện truyền thông còn tiết lộ, rất có thể Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay sẽ được cử hành tại Thiên Tân.
Chuyên gia Trần Phá Không nói rằng vụ nổ lớn ở Thiên Tân này là thảm họa toàn diện, gây ra thương vong nặng nề, và làm ô nhiễm không khí nghiêm trọng; và đàng sau thảm họa là những bí mật trùng trùng. Bất cứ khi nào có thảm họa xảy ra ở Trung quốc, nhà chức trách đều ra sức bưng bít để che giấu sự thật, và cố gắng báo cáo giảm thiểu thương vong để lừa dối dư luận, nhờ vậy mà thiên tai nhân họa đều tan biến, cứ như chúng chưa từng xảy ra.
Học giả Cao Văn Khiêm, tác giả quyển “Những năm cuối đời của Chu Ân Lai” (Vãn niên Chu Ân Lai) cho biết năm nay Trung quốc gặp nhiều rắc rối: gần đây là tàu “Ngôi sao Phương Đông” (Oriental Star) bị chìm, nay lại đến Thiên Tân nổ lớn, đặc biệt vào giai đoạn cuộc chiến trong hàng ngũ cao cấp của Trung cộng đang vào kỳ khốc liệt như hiện nay, sắp tới sẽ là bức màn u ám cho cuộc tổng duyệt binh diễn ra vào ngày 3/9.
Trình Hiểu Nông, tiến sĩ xã hội học, trên chuyên mục “Voice of America” cho rằng vụ nổ này làm nảy sinh ba câu hỏi lớn:
1- Vụ nổ phát xuất từ một nhà kho qui mô lớn vừa mới được xây dựng năm ngoái. Nhà kho này chỉ cách các kiến trúc công cộng, đường cao tốc, đường sắt chỉ vài trăm mét. Đây rõ ràng là phạm pháp, ai đã phê duyệt cho việc xây cất nó?
2- Đội phòng chống cháy nổ của kho chứa chất nổ nguy hiểm này không được huấn luyện kỹ năng chuyên môn, khiến việc cứu hỏa trở thành tiếp tay phóng hỏa thêm. Trên tờ “Phương Nam cuối tuần” (Nam phương chu mạt – http://www.infzm.com/) có đề cập vấn đề này ngay sau vụ nổ, nhưng đã được lệnh gỡ bỏ. Rõ ràng giới hữu trách ở Trung quốc đang tận lực bưng bít sự thật.
3- Chỉ Phong, người phụ trách cao nhất của công ty Thuỵ Hải hiện đang được cảnh sát địa phương bảo vệ trong bệnh viện. Khi nhận được điện thoại của phóng viên, ông này trả lời, và viện cớ mình đang bệnh để thoái thác; nhưng về phía bệnh viện lại nói dối rằng thân chủ của họ bị chấn thương và đang trong tình trạng hôn mê, không thể trò chuyện được. Chỉ Phong được xác định là con trai của Chỉ Thăng Hoa, nguyên phó thị trưởng thành phố Thiên Tân. Hiện Chỉ Phong đã được chính quyền Thiên Tân cho phép miễn trả lời phỏng vấn của báo chí. Việc này khiến sự nghi ngờ càng dâng cao. Vụ nổ này khiến người ta liên tưởng đến vụ nổ cũng của một nhà kho chứa chất dễ cháy nổ, xảy ra năm 1993 ở Thâm Quyến: Do sai lầm trong quản lý và cố tình vi phạm qui tắc an toàn, kho hàng nguy hiểm này đã bị cháy nổ, nhưng sau đó các quan chức hữu trách đã liên thủ ém nhẹm vụ việc.
Khi vụ nổ xảy ra, nhà kho của công ty Thụy Hải đang lưu trữ ít nhất 700 tấn Natri xyanua, các hóa chất độc hại này được chứa trong hộp gỗ hoặc thùng sắt, cứ 50 kg một thùng. Theo thanh tra tại chỗ, trong hệ thống cống rãnh tại hiện trường đã phát hiện được chất Cyanide, cho thấy đã có hiện tượng hóa chất bị rò rỉ. Xyanua natri là hóa chất có độc tính cao, chỉ cần hàm lượng 0,1 gram thôi, đã có thể gây chết người.
Tài liệu phổ biến công khai cho biết, Cyanide tác động thông qua xúc giác, đường hô hấp và hệ tiêu hóa, gây ảnh hưởng đến cơ thể, bao gồm các triệu chứng: khó chịu, suy nhược, đau đầu, nôn, viêm loét, ăn mòn, bỏng, tê; nếu hít phải, chỉ 200-300ppm là có thể gây ra cái chết tức khắc. Cách giải độc là tiêm Sodium nitrite, Sodium thiosulfate, hít Amyl nitrite; nhưng hiện chưa có thuốc giải độc đặc hiệu.
Học giả Cao Văn Khiêm nói thêm, Thiên Tân trước nay vốn dĩ là “một thành phố không có tin tức”. Sau vụ nổ kinh hoàng, cả thế giới đều nhìn về Thiên Tân, nhưng ở Thiên Tân, ngay sau ngày phát sinh thảm họa, thì người ta lại đang được xem một bộ phim truyền hình nhiều tập của Hàn quốc. Đó là kịch bản truyền thống ở Trung quốc khi thảm họa xảy ra: chính quyền lập tức kiểm duyệt để phong tỏa tin tức, các minh tinh sẽ cầu nguyện thương cảm, quần chúng thì được cảm kích công ơn của đảng, càng nhiều tai nạn thì đất nước càng thịnh vượng, phát triển, việc quản trị nhà nước như chiếc lá nho trên tranh khỏa thân.
Một phóng viên của tờ Tin tức Bắc Kinh đã phải lén lút thâm nhập hiện trường để điều tra chân tướng vụ việc. Bài viết của người này được đăng trên mạng Weixin (http://weixin.qq.com/), nhưng hiện giờ nó đã được gỡ bỏ. Sau đây là vài hình ảnh mà phóng viên nói trên đã cho đăng lên, mà cư dân mạng Trung quốc còn lưu giữ được.
_______
[1] Trong đêm 12/8, ở hiện trường có hai vụ nổ lớn liên tiếp nhau. Vụ nổ đầu tiên bằng cơn địa chấn 2,3 độ Richter (tương đương uy lực của 3 tấn TNT – Cần biết: chỉ một kg chất nổ TNT, có thể khiến một vật thể có trọng lượng 100kg dịch chuyển 4,2km).
Đội cảnh sát cứu hỏa Thiên Tân lập tức cử 9 trung đội đến cứu chữa. Cảnh sát cứu hỏa tiến vào lúc 22:50, thì đúng 23:06, vụ nổ tiếp theo bùng phát, lần này tương đương 20 tấn TNT, trong vòng bán kính 500m, không một sinh mạng nào còn sống sót, chỉ tính riêng cảnh sát cứu hỏa, 9 trung đội khoảng 300 người hoàn toàn bốc hơi không còn mảnh vụn.
[2] Hội nghị Bắc Đới Hà năm nay, Giang Trạch Dân cáo bệnh không tham dự.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.
Không ảnh Thiên Tân trước vụ nổ. Điểm A là nhà kho chứa chất nguy hiểm. Vòng tròn màu lục ngoài cùng có bán kính 3km.

Cảnh tượng tưởng như chỉ có ở địa ngục

Quang cảnh vượt xa cả kịch bản ngày tận thế của Hollywood
Chúng ta yếu đi vì sự đố kỵ
Huỳnh Thục Vy Chính quyền CSVN thực hiện nhiều phương cách khác nhau để chia rẽ những người đấu tranh nhằm tiêu diệt phong trào đối kháng dần dần. Họ cố gắng tìm ra điểm yếu của từng người trong chúng ta mà vận dụng mọi chiêu thức để đánh vào điểm yếu đó. Nếu những người đấu tranh không thấu hiểu bản chất của các cách thức chia rẽ đó, chúng ta sẽ nghi ngờ nhau, khinh rẻ nhau, xa cách nhau....
Nếu gia đình bạn lục đục vì lý tưởng của bạn, họ không ủng hộ con đường bạn chọn. An ninh sẽ biết, họ sẽ tích cực tác động để mâu thuẫn nhỏ trở nên lớn đến mức không thể cứu chữa. Họ có thể vừa đe doạ, vừa hứa hẹn với những người thân không ủng hộ bạn, để đẩy họ đến chỗ nhận thức sai lệch rằng: bạn chính là vật cản cho tương lai gia đình. Vậy là bạn sẽ bị chính gia đình mình cô lập, đủ mệt mỏi và đau khổ để hạn chế bớt việc dấn thân tranh đấu.
Nếu gia đình bạn đang nghèo túng, họ tìm mọi cách để triệt tiêu mọi cách kiếm sống của bạn và người thân. Họ sẽ tìm đến chỗ làm của người thân (tất nhiên, bạn đã mất công việc từ lâu) để gây áp lực: im lặng nếu không muốn chết đói. Họ sẽ tìm đến quậy phá chỗ kinh doanh của gia đình bằng nước thối, bằng các chuyến viếng thăm đột ngột của côn đồ...Vậy, bạn và con cái bạn đủ đói để im lặng.
Nếu gia đình bạn không chia rẽ, cũng không nghèo túng, họ sẽ tìm đến láng giềng của bạn. Đội ngũ chính quyền địa phương, bộ đội, dân phòng, công an xã phường đủ sức để tạo hiềm khích, ganh ghét giữa gia đình bạn và xóm giềng. Bạn nên nhớ, nếu người ta muốn đám đông căm ghét Đức Phật hoặc Chúa Jesus, họ vẫn có thể làm rất hiệu quả, huống chi bạn là người trần mắt thịt với đầy đủ sự bất toàn.
Nếu bạn giàu có, họ sẽ phá huỷ sự nghiệp đang lên của bạn. Nếu bạn có nhiều bạn bè thân thiết, họ có thể tìm gặp từng người bạn ấy để cho họ biết sự được mất khi quan hệ với bạn. Nếu bạn là đàn ông đào hoa như bao người đàn ông đào hoa khác, họ sẽ khiến bạn bị tố cáo vì lừa...tình. Nếu bạn là mẹ đơn thân, có những đứa con khác cha, họ sẽ đập bạn bằng những lời rao giảng về luân thường của...phụ nữ Á đông. Nếu bạn là một thanh niên mới lớn, có một cô bạn gái, và bỗng một hôm phát hiện ra cô ta đang dựa vào mối quan hệ với bạn để tiếp cận một cách bất chính với những thân hữu của bạn; bạn bỏ cô ta, vậy là dư luận viên sẽ vu cho bạn làm cô ta có thai rồi bỏ rơi. Nếu bạn từng kết hôn hai lần, họ sẽ cho côn đồ đánh bạn để lại thương tật suốt đời, rồi rêu rao rằng bạn bị đánh ghen vì cướp chồng người khác. Nếu bạn không có vấn đề gì lớn trong cuộc sống nhưng lại không có bằng đại học, họ sẽ chế nhạo bạn là đứa thất học, dốt nát, biết gì mà đấu tranh. Nếu bạn là tu sĩ, họ sẽ bôi nhọ bạn có quan hệ bất chính với...gái, vân vân và vân vân.
Thế nhưng, trong khi mỗi người đấu tranh chúng ta bác bỏ rất tích cực những lời thoá mạ của dư luận viên đối với chính mình, thì cùng lúc, chúng ta lại tin vào những lời bôi nhọ nhắm vào các anh chị em đấu tranh khác. Có vấn đề gì đó rất lớn ở đây! Trong khi chúng ta đang là nạn nhân của dư luận viên, chúng ta lại lập bè nhóm để công kích anh chị em đấu tranh của mình dựa trên những lời bôi nhọ của dư luận viên! Chúng ta rất thân thiết với những kẻ sỉ vả người anh chị em của mình không tiếc lời, cho đến khi tên đó quay lại đả kích chính chúng ta. Chúng ta cần xem lại mình!
Trong khi nhiều anh em xung quanh bạn bị an ninh cồn đồ đánh để lại thương tật cả đời mà bạn không bị; khi nhiều anh chị em bị bao vây kinh tế mà bạn vẫn có công việc kiếm ra tiền; khi nhiều anh chị em bị cấm xuất cảnh mà bạn có thể đi du lịch; khi nhà của nhiều người bị đổ mắm thối, nước bẩn mà nhà bạn vẫn sạch sẽ; bạn đã tự hài lòng vì mình "khác biệt với đám đông cực đoan kia"; bạn nghĩ an ninh họ không cư xử với bạn như thế vì bạn ở "đẳng cấp khác"; bạn tự cho là mình thông minh, ôn hoà, an ninh ở tỉnh bạn có văn hoá hơn an ninh tỉnh khác...cho đến khi chính bạn bị đổ mắm thối vào nhà, bị cấm xuất cảnh, bị đánh đập...
Thật, chính sách đàn áp người bất đồng chính kiến là thống nhất từ trung ương đến địa phương. Bản chất của công an an ninh là những tay côn đồ bảo vệ chế độ vì tương lai và quyền lợi của chính họ. Không có sự khác biệt lớn giữa tỉnh này và tỉnh khác. Sự khác biệt lớn ở đây chính là: bạn nghĩ mình khác biệt, hay đúng hơn là đặc biệt hơn người khác. Xin hãy nghĩ về những đau đớn, vất vả mà những anh chị em của mình phải gánh chịu trước đây, khi bạn kinh qua những: đánh đập, chửi bới, mắm thối nhé.
Để tạm kết bài viết, tôi xin đưa ra một ví dụ: trong nhà tôi, cả ba, em trai tôi và tôi đều là người bất đồng chính kiến. Nhưng ba tôi bị đánh hai lần: một lần bị gãy xương ức bởi công an huyện Thường Tín, Hà Nội; một lần bị công an Quảng Nam đánh nứt xương sườn số 6 bên phải. Em trai tôi bị công an Quảng Nam đánh dập miệng, bị công an Sài Gòn bóp cổ, đánh đập đến nỗi cả tuần không nuốt cơm nổi. Còn tôi cho đến nay vẫn bình an vô sự. Tôi có nên nghĩ mình thông minh, ôn hoà hơn ba và em trai mình? Tôi có nên kết luận công an "có văn hoá" với tôi hơn người thân của tôi? Thoáng qua, bạn sẽ thấy các hành động của lực lượng công an an ninh rất thất thường và vô nguyên tắc; nhưng không, họ không giỏi gì khác nhưng chắc chắn họ được huấn luyện rất kỹ để gieo rắc nghi ngờ, sợ hãi và sự đố kỵ lên anh chị em chúng ta. Vậy nên chúng ta cần thận trọng hơn nhiều.
Huỳnh Thục Vy
Buôn Hồ, 19/8/2015
Huỳnh Thục Vy Chính quyền CSVN thực hiện nhiều phương cách khác nhau để chia rẽ những người đấu tranh nhằm tiêu diệt phong trào đối kháng dần dần. Họ cố gắng tìm ra điểm yếu của từng người trong chúng ta mà vận dụng mọi chiêu thức để đánh vào điểm yếu đó. Nếu những người đấu tranh không thấu hiểu bản chất của các cách thức chia rẽ đó, chúng ta sẽ nghi ngờ nhau, khinh rẻ nhau, xa cách nhau....
Nếu gia đình bạn lục đục vì lý tưởng của bạn, họ không ủng hộ con đường bạn chọn. An ninh sẽ biết, họ sẽ tích cực tác động để mâu thuẫn nhỏ trở nên lớn đến mức không thể cứu chữa. Họ có thể vừa đe doạ, vừa hứa hẹn với những người thân không ủng hộ bạn, để đẩy họ đến chỗ nhận thức sai lệch rằng: bạn chính là vật cản cho tương lai gia đình. Vậy là bạn sẽ bị chính gia đình mình cô lập, đủ mệt mỏi và đau khổ để hạn chế bớt việc dấn thân tranh đấu.
Nếu gia đình bạn đang nghèo túng, họ tìm mọi cách để triệt tiêu mọi cách kiếm sống của bạn và người thân. Họ sẽ tìm đến chỗ làm của người thân (tất nhiên, bạn đã mất công việc từ lâu) để gây áp lực: im lặng nếu không muốn chết đói. Họ sẽ tìm đến quậy phá chỗ kinh doanh của gia đình bằng nước thối, bằng các chuyến viếng thăm đột ngột của côn đồ...Vậy, bạn và con cái bạn đủ đói để im lặng.
Nếu gia đình bạn không chia rẽ, cũng không nghèo túng, họ sẽ tìm đến láng giềng của bạn. Đội ngũ chính quyền địa phương, bộ đội, dân phòng, công an xã phường đủ sức để tạo hiềm khích, ganh ghét giữa gia đình bạn và xóm giềng. Bạn nên nhớ, nếu người ta muốn đám đông căm ghét Đức Phật hoặc Chúa Jesus, họ vẫn có thể làm rất hiệu quả, huống chi bạn là người trần mắt thịt với đầy đủ sự bất toàn.
Nếu bạn giàu có, họ sẽ phá huỷ sự nghiệp đang lên của bạn. Nếu bạn có nhiều bạn bè thân thiết, họ có thể tìm gặp từng người bạn ấy để cho họ biết sự được mất khi quan hệ với bạn. Nếu bạn là đàn ông đào hoa như bao người đàn ông đào hoa khác, họ sẽ khiến bạn bị tố cáo vì lừa...tình. Nếu bạn là mẹ đơn thân, có những đứa con khác cha, họ sẽ đập bạn bằng những lời rao giảng về luân thường của...phụ nữ Á đông. Nếu bạn là một thanh niên mới lớn, có một cô bạn gái, và bỗng một hôm phát hiện ra cô ta đang dựa vào mối quan hệ với bạn để tiếp cận một cách bất chính với những thân hữu của bạn; bạn bỏ cô ta, vậy là dư luận viên sẽ vu cho bạn làm cô ta có thai rồi bỏ rơi. Nếu bạn từng kết hôn hai lần, họ sẽ cho côn đồ đánh bạn để lại thương tật suốt đời, rồi rêu rao rằng bạn bị đánh ghen vì cướp chồng người khác. Nếu bạn không có vấn đề gì lớn trong cuộc sống nhưng lại không có bằng đại học, họ sẽ chế nhạo bạn là đứa thất học, dốt nát, biết gì mà đấu tranh. Nếu bạn là tu sĩ, họ sẽ bôi nhọ bạn có quan hệ bất chính với...gái, vân vân và vân vân.
Thế nhưng, trong khi mỗi người đấu tranh chúng ta bác bỏ rất tích cực những lời thoá mạ của dư luận viên đối với chính mình, thì cùng lúc, chúng ta lại tin vào những lời bôi nhọ nhắm vào các anh chị em đấu tranh khác. Có vấn đề gì đó rất lớn ở đây! Trong khi chúng ta đang là nạn nhân của dư luận viên, chúng ta lại lập bè nhóm để công kích anh chị em đấu tranh của mình dựa trên những lời bôi nhọ của dư luận viên! Chúng ta rất thân thiết với những kẻ sỉ vả người anh chị em của mình không tiếc lời, cho đến khi tên đó quay lại đả kích chính chúng ta. Chúng ta cần xem lại mình!
Trong khi nhiều anh em xung quanh bạn bị an ninh cồn đồ đánh để lại thương tật cả đời mà bạn không bị; khi nhiều anh chị em bị bao vây kinh tế mà bạn vẫn có công việc kiếm ra tiền; khi nhiều anh chị em bị cấm xuất cảnh mà bạn có thể đi du lịch; khi nhà của nhiều người bị đổ mắm thối, nước bẩn mà nhà bạn vẫn sạch sẽ; bạn đã tự hài lòng vì mình "khác biệt với đám đông cực đoan kia"; bạn nghĩ an ninh họ không cư xử với bạn như thế vì bạn ở "đẳng cấp khác"; bạn tự cho là mình thông minh, ôn hoà, an ninh ở tỉnh bạn có văn hoá hơn an ninh tỉnh khác...cho đến khi chính bạn bị đổ mắm thối vào nhà, bị cấm xuất cảnh, bị đánh đập...
Thật, chính sách đàn áp người bất đồng chính kiến là thống nhất từ trung ương đến địa phương. Bản chất của công an an ninh là những tay côn đồ bảo vệ chế độ vì tương lai và quyền lợi của chính họ. Không có sự khác biệt lớn giữa tỉnh này và tỉnh khác. Sự khác biệt lớn ở đây chính là: bạn nghĩ mình khác biệt, hay đúng hơn là đặc biệt hơn người khác. Xin hãy nghĩ về những đau đớn, vất vả mà những anh chị em của mình phải gánh chịu trước đây, khi bạn kinh qua những: đánh đập, chửi bới, mắm thối nhé.
Để tạm kết bài viết, tôi xin đưa ra một ví dụ: trong nhà tôi, cả ba, em trai tôi và tôi đều là người bất đồng chính kiến. Nhưng ba tôi bị đánh hai lần: một lần bị gãy xương ức bởi công an huyện Thường Tín, Hà Nội; một lần bị công an Quảng Nam đánh nứt xương sườn số 6 bên phải. Em trai tôi bị công an Quảng Nam đánh dập miệng, bị công an Sài Gòn bóp cổ, đánh đập đến nỗi cả tuần không nuốt cơm nổi. Còn tôi cho đến nay vẫn bình an vô sự. Tôi có nên nghĩ mình thông minh, ôn hoà hơn ba và em trai mình? Tôi có nên kết luận công an "có văn hoá" với tôi hơn người thân của tôi? Thoáng qua, bạn sẽ thấy các hành động của lực lượng công an an ninh rất thất thường và vô nguyên tắc; nhưng không, họ không giỏi gì khác nhưng chắc chắn họ được huấn luyện rất kỹ để gieo rắc nghi ngờ, sợ hãi và sự đố kỵ lên anh chị em chúng ta. Vậy nên chúng ta cần thận trọng hơn nhiều.
Huỳnh Thục Vy
Buôn Hồ, 19/8/2015
Đảng Run Chân Trước Đại Hội Xii
Đã có những dấu hiệu run chân trước thềm Đại hội Đảng XII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang cho đến đội ngũ Tuyên giáo và Quân ủy Trung ương.
Trước hết hãy nói về bài viết"Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp, làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội” của ông Nguyễn Phú Trọng nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Công an nhân dân (19/8/1945 - 19/8/2015).
Mở đâu, ông Trọng tự khen đảng đã phá vỡ thành công kế họach muốn thay đổi Việt Nam sau khi các nhà nước Cộng sản ở Nga và Đông Âu tan rã trong giai đọan 1989-1991.
Ông nói: “Trong lúc đất nước gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh các hoạt động phá hoại tư tưởng, đòi "phi chính trị hoá" lực lượng vũ trang, trong đó có lực lượng Công an nhân dân; kích động "đa nguyên", "đa đảng", âm mưu bạo loạn, lật đổ hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch; giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.”
Nhưng đó là chuyện của 24 năm trước, sau khi Đại hội đảng VI năm 1986 thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định “Đổi mới” để “chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Nói cách khác là đảng buộc phải “cởi trói cho dân được tự do làm kinh tế”,phá bỏ hàng rào ngăn sông cấm chợ để hội nhập với Thế giới cứu nguy đất nước lúc đó đã cạn nguồn viện trợ của các nước Xã hội Chủ nghĩa.
Nhưng nay chỉ còn bốn tháng nữa đến kỳ Đại hội đảng XII đầu năm 2016 mà mức phát triển của Việt Nam sau 30 năm vẫn còn ì ạch ở hạng thứ 6 sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Singapore. Việt Nam chỉ đứng trên Lào, Campuchia, Brunei và Miến Điện trong số 10 Quốc gia của Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Vì vậy, ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã cảnh giác:” Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt được những thành tựu quan trọng, nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đời sống nhân dân được cải thiện, thế và lực, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của đất nước được tăng lên. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Kinh tế phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững, vẫn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, các lợi thế tự nhiên, lao động rẻ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào các dân tộc thiểu số.” (trích bài viết Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 trên Tạp chí Quốc phòng Tòan dân, 31/07/2015)
Ông Sang còn tiết lộ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, thậm chí có mặt trầm trọng hơn; xuất hiện nguy cơ mới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, tăng cường các hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta; tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đe dọa chủ quyền biển, đảo của đất nước ta.”
Đã khá lâu không thấy Lãnh đạo đảng và Nhà nước nhắc đến “bốn nguy cơ” được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (20-25/1/1994), thời Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Theo báo điện tử của Đảng thì: “Hội nghị xác định 4 nguy cơ trước mắt là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.”
Như vậy, sau 21 năm theo lời ông Sang thì đảng CSVN phải đối phó thêm với 2 “nguy cơ” mới là “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, tổng cộng là 6 nguy cơ. Điều này có nghĩa tình trạng “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên không còn là “nguy cơ” nữa mà đã thành hiện thực.
Tình trạng đảng viên không còn tin vào chủ nghĩa thoái trào Mác-Lênin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh đã phổ biến và lan rộng trong nội bộ đảng viên, kể cả cấp Lãnh đạo, từ Khóa đảng VIII thời Lê Khả Phiêu chứ không mới đây thôi.
Bây giờ tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đã lan sang hai lực lượng Quân đội và Công an, trong khi nhân dân thì càng ngày càng muốn xa rời đảng vì Lãnh đạo đã thất hứa với dân nhiều qúa trong qúa trình Đổi mới.
Một trong những nguyên nhân dân không còn “liên hệ máu thịt”với đảng vì tệ nạn tham nhũng, quan liêu và cửa quyền trong hệ thống cai trị đã vượt qúa khả năng phòng, chống của đảng. Bây giờ lại có thêm “lợi ích nhóm” cấu kết, chia ăn với nhau để bóc lột dân và gây lãng phí công qũy ngày một lên cao trong mọi lĩnh vực và cơ chế. Trong khi kế họach “kê khai tài sản” của Lãnh đạo chỉ còn là hình thức để che mắt dân.
LỆNH CHO CÔNG AN
Nhưng khi dân bỏ đảng, cán bộ đảng viên không tuân lệnh đảng, và thờ ơ trong công tác “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì ông Nguyễn Phú Trọng lại quay ra đổ tội cho “các Thế lực thù địch”.
Trong bài báo nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Công an nhân dân, ông viết: “Các thế lực thù địch không từ bỏ mục tiêu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa, triệt để khai thác những khó khăn của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế để tiếp tục gia tăng các hoạt động gây bất ổn về an ninh chính trị. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Công an nhân dân càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để lực lượng Công an nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng vũ trang trọng yếu tuyệt đối tin cậy của Đảng.”
Tuy không chỉ được đích danh “thế lực thù địch” là ai, từ đâu đến nhưng ai cũng biết “kẻ thù” giấu mặt này đã được cả Ban Tuyên giáo của đảng và Tổng cục Chính trị Quân đội thường xuyên sử dụng như một cứu cánh giải thoát cho thất bại của đảng không ngăn chặn được tình trạng “tự động tan hàng” trong nội bộ.
Vì vậy không lạ khi thấy ông Trọng ra lệnh cho Công an phải:” Thống nhất nhận thức, bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Công an nhân dân.”
Ông nói: “Đây là yêu cầu khách quan, tất yếu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Công an nhân dân là toàn diện, bao quát trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức; trên mọi nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của Công an thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng đề ra đường lối bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, và nội dung có tầm quan trọng đặc biệt là xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật để cán bộ, chiến sĩ Công an và toàn dân quán triệt, thực hiện….”
Ông nói thêm: “Đảng uỷ Công an Trung ương và các cấp uỷ đảng trong Công an phải luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng về an ninh, trật tự, bảo vệ Tổ quốc….tuân thủ, thực hiện đầy đủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên tất cả các mặt công tác. Lực lượng Công an nhân dân phải chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các quy định của pháp luật và sự quản lý, điều hành của Nhà nước….”
Nhưng tại sao vào thời gian chuẩn bị Đại hội đảng XII mà ông Trọng phải ra lệnh cho Cộng an gay gắt như thế ? Chẳng lẽ cũng đã có chỗ này chỗ kia Công an đã không còn tha thiết với nhiệm vụ “còn Đảng còn mình”?
Vì vậy ông Trọng đã lưu ý Công an: “Lực lượng Công an phải luôn luôn nêu cao cảnh giác, chủ động, nhạy bén, sẵn sàng có các phương án đối phó với các tình huống. Tiếp tục đổi mới tư duy, phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, bố trí lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt, cần có tư duy mới về xác định đối tượng, đối tác; chủ động, nhạy bén trong nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình; làm tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tăng cường chính sách đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuyệt đối không được chủ quan, mơ hồ, mất cảnh giác; không được để bị động bất ngờ trước mọi tình huống-- Không ngừng củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Công an nhân dân với Quân đội nhân dân cùng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh…”
Cuối bài, ông Tổng Bí thư đảng CSVN còn ra lệnh cho Công an phải: “Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hoà bình", "phi chính trị hoá" lực lượng Công an nhân dân. Công an cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và sử dụng các kết quả nghiên cứu để đấu tranh phản bác các luận điệu phản động, sai trái. Đồng thời nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ Công an trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; phát hiện kịp thời, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…”
4 NGUY CƠ CHÍNH LÀ GÌ?
Như vậy khi ông Sang báo động “bốn nguy cơ” không chỉ vẫn còn tồn tại mà có mặt nghiêm trọng hơn thì chúng là gì?
Một tài liệu học tập của Đảng giải thích:
1.- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguy cơ này được tạo nên bởi những nguyên nhân khách quan và chủ quan
- Việt Nam đi vào xây dựng và phát triển từ một điểm xuất phát rất thấp kém, lạc hậu.
- Chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc lâu dài. Đến nay, trên đất nước ta hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn còn khá nặng nề.
- Do những thiếu sót, khuyết điểm, có cả những sai lầm của chúng ta trong quá trình phát triển kinh tế. Điều này thể hiện khá rõ trong những năm đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
Điều cần nói thêm là xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá các lĩnh vực của đời sống hiện nay không chỉ tạo nên thuận lợi, thời cơ để các quốc gia cùng hoà nhập và phát triển mà thực tế còn làm tăng thêm khoảng cách giữa giàu và nghèo, giữa Bắc và Nam. Chính trong lĩnh vực này thời cơ và nguy cơ, thuận lợi và khó khăn đan xen, đi liền với nhau. Để tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua thử thách khó khăn, rút ngắn khoảng cách kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới, sáng tạo như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
2.- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa
Về vấn đề này Văn kiện Đại hội VIII chỉ rõ: “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa… Tuy vậy trong quá trình thực hiện, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác. Nếu không khắc phục có hiệu quả thì những khuyết điểm lệch lạc đó sẽ làm suy yếu Đảng, làm mọt ruỗng bộ máy nhà nước, biến chất chế độ, đưa đất nước đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa”.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, trong lãnh đạo và quản lý, Đảng, Nhà nước cần có những chủ trượng, chính sách và giải pháp hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường. Cần đặc biệt coi trọng việc ngăn ngừa những phần tử thoái hoá biến chất, cơ hội và các lực lượng thù địch lợi dụng kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường để làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, diễn ra thường xuyên”.
3.- Nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan liêu
Chỉ hơn nửa tháng sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy những biểu hiện của nạn tham nhũng và tệ quan liêu xuất hiện trong bộ máy nhà nước. Người thường gọi những tệ nạn ấy bằng các từ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”. Thắng loại “giặc” tồn tại ngay trong bộ máy Đảng, Nhà nước, trong nội bộ cán bộ, đảng viên là hết sức phức tạp, khó khăn. Thực tế cho thấy, kể từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương biện pháp để khắc phục, nhưng đến nay nguy cơ này dường như vẫn trong tình trạng gia tăng. Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng được chính thức phát động từ 19-5-1999, có mục tiêu hàng đầu là khắc phục nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan liêu. Cuộc vận động này đã tạo được chuyển biến ban đầu, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với đất nước. Tuy vậy, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần tăng cường hơn nữa cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tệ quan liêu và những biểu hiện tiêu cực khác. Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết: “Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Cần chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”.
4.- Nguy cơ “diễn biến hoà bình”
Trong công cuộc đổi mới chúng ta chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá, mở rộng quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước. Chủ trương trên đây bị các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng, âm mưu thực hiện diễn biến hoà bình. Hiện nay, khi cách mạng và chủ nghĩa xã hội thế giới đang ở giai đoạn thoái trào thì các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ càng quyết tâm thực hiện diễn biến hoà bình. Đối với Việt Nam, nguy cơ diễn biến hoà bình là rất lớn và rất nghiêm trọng. Vì vậy, chống diễn biến hoà bình là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc, đấu tranh giữa hai con đường.
Cần nói thêm rằng bốn nguy cơ nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đều nguy hiểm như nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Nếu khắc phục được nguy cơ này sẽ hạn chế được các nguy cơ khác và ngược lại. Nguy cơ diễn biến hoà bình đã và đang tác động sâu sắc tới các nguy cơ bên trong. Khắc phục được các nguy cơ bên trong thì nhất định sẽ làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết: “Bốn nguy cơ mà Đảng đã từng cảnh báo vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. Các nguy cơ này đan xen và tác động lẫn nhau. Không thể xem nhẹ nguy cơ nào”. Đảng và nhân dân Việt Nam quyết tâm và có đủ khả năng khắc phục cả bốn nguy cơ nêu trên.”
Bây giờ 21 năm sau, 4 “nguy cơ” đã thành “6 nguy cơ”, ấy là chưa kể đến nguy cơ “lợi ích nhóm” không những chỉ “phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau” mà còn đe dọa sự sống còn của đảng.
Vậy liệu Đại hội đảng XII có khả năng ngăn chặn được “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” trong đảng hay chúng sẽ kết liễu cuộc đời đảng sau 40 năm kết thúc chiến tranh do đảng CSVN gây ra cho đất nước ? -/-
Phạm Trần
(08/015)
Đã có những dấu hiệu run chân trước thềm Đại hội Đảng XII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang cho đến đội ngũ Tuyên giáo và Quân ủy Trung ương.
Trước hết hãy nói về bài viết"Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp, làm tốt hơn nữa công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội” của ông Nguyễn Phú Trọng nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Công an nhân dân (19/8/1945 - 19/8/2015).
Mở đâu, ông Trọng tự khen đảng đã phá vỡ thành công kế họach muốn thay đổi Việt Nam sau khi các nhà nước Cộng sản ở Nga và Đông Âu tan rã trong giai đọan 1989-1991.
Ông nói: “Trong lúc đất nước gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đẩy mạnh các hoạt động phá hoại tư tưởng, đòi "phi chính trị hoá" lực lượng vũ trang, trong đó có lực lượng Công an nhân dân; kích động "đa nguyên", "đa đảng", âm mưu bạo loạn, lật đổ hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo Quân đội nhân dân và Công an nhân dân chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn, làm thất bại âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch; giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.”
Nhưng đó là chuyện của 24 năm trước, sau khi Đại hội đảng VI năm 1986 thời Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh quyết định “Đổi mới” để “chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”
Nói cách khác là đảng buộc phải “cởi trói cho dân được tự do làm kinh tế”,phá bỏ hàng rào ngăn sông cấm chợ để hội nhập với Thế giới cứu nguy đất nước lúc đó đã cạn nguồn viện trợ của các nước Xã hội Chủ nghĩa.
Nhưng nay chỉ còn bốn tháng nữa đến kỳ Đại hội đảng XII đầu năm 2016 mà mức phát triển của Việt Nam sau 30 năm vẫn còn ì ạch ở hạng thứ 6 sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Singapore. Việt Nam chỉ đứng trên Lào, Campuchia, Brunei và Miến Điện trong số 10 Quốc gia của Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
Vì vậy, ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang đã cảnh giác:” Ở trong nước, sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt được những thành tựu quan trọng, nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình thấp, đời sống nhân dân được cải thiện, thế và lực, sức mạnh tổng hợp và uy tín quốc tế của đất nước được tăng lên. Tuy nhiên, những kết quả đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước. Kinh tế phát triển chưa ổn định, thiếu bền vững, vẫn dựa nhiều vào khai thác tài nguyên, các lợi thế tự nhiên, lao động rẻ, năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào các dân tộc thiểu số.” (trích bài viết Kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 trên Tạp chí Quốc phòng Tòan dân, 31/07/2015)
Ông Sang còn tiết lộ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, thậm chí có mặt trầm trọng hơn; xuất hiện nguy cơ mới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình”, tăng cường các hoạt động chống phá ta về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, về dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta; tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đe dọa chủ quyền biển, đảo của đất nước ta.”
Đã khá lâu không thấy Lãnh đạo đảng và Nhà nước nhắc đến “bốn nguy cơ” được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (20-25/1/1994), thời Tổng Bí thư Đỗ Mười.
Theo báo điện tử của Đảng thì: “Hội nghị xác định 4 nguy cơ trước mắt là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch.”
Như vậy, sau 21 năm theo lời ông Sang thì đảng CSVN phải đối phó thêm với 2 “nguy cơ” mới là “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá”, tổng cộng là 6 nguy cơ. Điều này có nghĩa tình trạng “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên không còn là “nguy cơ” nữa mà đã thành hiện thực.
Tình trạng đảng viên không còn tin vào chủ nghĩa thoái trào Mác-Lênin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh đã phổ biến và lan rộng trong nội bộ đảng viên, kể cả cấp Lãnh đạo, từ Khóa đảng VIII thời Lê Khả Phiêu chứ không mới đây thôi.
Bây giờ tình trạng “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” đã lan sang hai lực lượng Quân đội và Công an, trong khi nhân dân thì càng ngày càng muốn xa rời đảng vì Lãnh đạo đã thất hứa với dân nhiều qúa trong qúa trình Đổi mới.
Một trong những nguyên nhân dân không còn “liên hệ máu thịt”với đảng vì tệ nạn tham nhũng, quan liêu và cửa quyền trong hệ thống cai trị đã vượt qúa khả năng phòng, chống của đảng. Bây giờ lại có thêm “lợi ích nhóm” cấu kết, chia ăn với nhau để bóc lột dân và gây lãng phí công qũy ngày một lên cao trong mọi lĩnh vực và cơ chế. Trong khi kế họach “kê khai tài sản” của Lãnh đạo chỉ còn là hình thức để che mắt dân.
LỆNH CHO CÔNG AN
Nhưng khi dân bỏ đảng, cán bộ đảng viên không tuân lệnh đảng, và thờ ơ trong công tác “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thì ông Nguyễn Phú Trọng lại quay ra đổ tội cho “các Thế lực thù địch”.
Trong bài báo nhân kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống của Công an nhân dân, ông viết: “Các thế lực thù địch không từ bỏ mục tiêu xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chế độ xã hội chủ nghĩa, triệt để khai thác những khó khăn của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế để tiếp tục gia tăng các hoạt động gây bất ổn về an ninh chính trị. Trong bối cảnh đó, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Công an nhân dân càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để lực lượng Công an nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là lực lượng vũ trang trọng yếu tuyệt đối tin cậy của Đảng.”
Tuy không chỉ được đích danh “thế lực thù địch” là ai, từ đâu đến nhưng ai cũng biết “kẻ thù” giấu mặt này đã được cả Ban Tuyên giáo của đảng và Tổng cục Chính trị Quân đội thường xuyên sử dụng như một cứu cánh giải thoát cho thất bại của đảng không ngăn chặn được tình trạng “tự động tan hàng” trong nội bộ.
Vì vậy không lạ khi thấy ông Trọng ra lệnh cho Công an phải:” Thống nhất nhận thức, bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào cũng phải luôn kiên định nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Công an nhân dân.”
Ông nói: “Đây là yêu cầu khách quan, tất yếu của sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Công an nhân dân là toàn diện, bao quát trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng và tổ chức; trên mọi nhiệm vụ công tác bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng. Ở đâu có tổ chức và hoạt động của Công an thì ở đó có sự lãnh đạo của Đảng. Đảng đề ra đường lối bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, và nội dung có tầm quan trọng đặc biệt là xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật để cán bộ, chiến sĩ Công an và toàn dân quán triệt, thực hiện….”
Ông nói thêm: “Đảng uỷ Công an Trung ương và các cấp uỷ đảng trong Công an phải luôn quán triệt và thực hiện nghiêm túc đường lối, chủ trương của Đảng về an ninh, trật tự, bảo vệ Tổ quốc….tuân thủ, thực hiện đầy đủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trên tất cả các mặt công tác. Lực lượng Công an nhân dân phải chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện đúng các quy định của pháp luật và sự quản lý, điều hành của Nhà nước….”
Nhưng tại sao vào thời gian chuẩn bị Đại hội đảng XII mà ông Trọng phải ra lệnh cho Cộng an gay gắt như thế ? Chẳng lẽ cũng đã có chỗ này chỗ kia Công an đã không còn tha thiết với nhiệm vụ “còn Đảng còn mình”?
Vì vậy ông Trọng đã lưu ý Công an: “Lực lượng Công an phải luôn luôn nêu cao cảnh giác, chủ động, nhạy bén, sẵn sàng có các phương án đối phó với các tình huống. Tiếp tục đổi mới tư duy, phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, bố trí lực lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Đặc biệt, cần có tư duy mới về xác định đối tượng, đối tác; chủ động, nhạy bén trong nắm bắt, phân tích, dự báo tình hình; làm tốt chức năng tham mưu với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tăng cường chính sách đối ngoại, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Tuyệt đối không được chủ quan, mơ hồ, mất cảnh giác; không được để bị động bất ngờ trước mọi tình huống-- Không ngừng củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Công an nhân dân với Quân đội nhân dân cùng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh…”
Cuối bài, ông Tổng Bí thư đảng CSVN còn ra lệnh cho Công an phải: “Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động "diễn biến hoà bình", "phi chính trị hoá" lực lượng Công an nhân dân. Công an cần phối hợp với các cơ quan chuyên môn tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận và sử dụng các kết quả nghiên cứu để đấu tranh phản bác các luận điệu phản động, sai trái. Đồng thời nâng cao bản lĩnh chính trị, ý thức cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ Công an trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; phát hiện kịp thời, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện dao động, giảm sút niềm tin, mơ hồ, mất cảnh giác, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…”
4 NGUY CƠ CHÍNH LÀ GÌ?
Như vậy khi ông Sang báo động “bốn nguy cơ” không chỉ vẫn còn tồn tại mà có mặt nghiêm trọng hơn thì chúng là gì?
Một tài liệu học tập của Đảng giải thích:
1.- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nguy cơ này được tạo nên bởi những nguyên nhân khách quan và chủ quan
- Việt Nam đi vào xây dựng và phát triển từ một điểm xuất phát rất thấp kém, lạc hậu.
- Chúng ta phải tiến hành cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc lâu dài. Đến nay, trên đất nước ta hậu quả của cuộc chiến tranh vẫn còn khá nặng nề.
- Do những thiếu sót, khuyết điểm, có cả những sai lầm của chúng ta trong quá trình phát triển kinh tế. Điều này thể hiện khá rõ trong những năm đất nước rơi vào khủng hoảng kinh tế xã hội.
Điều cần nói thêm là xu thế quốc tế hoá, khu vực hoá các lĩnh vực của đời sống hiện nay không chỉ tạo nên thuận lợi, thời cơ để các quốc gia cùng hoà nhập và phát triển mà thực tế còn làm tăng thêm khoảng cách giữa giàu và nghèo, giữa Bắc và Nam. Chính trong lĩnh vực này thời cơ và nguy cơ, thuận lợi và khó khăn đan xen, đi liền với nhau. Để tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua thử thách khó khăn, rút ngắn khoảng cách kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam phát huy cao độ tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới, sáng tạo như Hồ Chí Minh đã chỉ ra.
2.- Nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa
Về vấn đề này Văn kiện Đại hội VIII chỉ rõ: “Xét trên tổng thể, việc hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới những năm qua về cơ bản là đúng đắn, đúng định hướng xã hội chủ nghĩa… Tuy vậy trong quá trình thực hiện, chúng ta đã phạm một số khuyết điểm, lệch lạc lớn và kéo dài dẫn đến chệch hướng ở lĩnh vực này hay lĩnh vực khác, ở mức độ này hay mức độ khác. Nếu không khắc phục có hiệu quả thì những khuyết điểm lệch lạc đó sẽ làm suy yếu Đảng, làm mọt ruỗng bộ máy nhà nước, biến chất chế độ, đưa đất nước đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa”.
Để giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, trong lãnh đạo và quản lý, Đảng, Nhà nước cần có những chủ trượng, chính sách và giải pháp hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường. Cần đặc biệt coi trọng việc ngăn ngừa những phần tử thoái hoá biến chất, cơ hội và các lực lượng thù địch lợi dụng kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường để làm chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: “Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa là cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, diễn ra thường xuyên”.
3.- Nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan liêu
Chỉ hơn nửa tháng sau khi giành được chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy những biểu hiện của nạn tham nhũng và tệ quan liêu xuất hiện trong bộ máy nhà nước. Người thường gọi những tệ nạn ấy bằng các từ “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”. Thắng loại “giặc” tồn tại ngay trong bộ máy Đảng, Nhà nước, trong nội bộ cán bộ, đảng viên là hết sức phức tạp, khó khăn. Thực tế cho thấy, kể từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương biện pháp để khắc phục, nhưng đến nay nguy cơ này dường như vẫn trong tình trạng gia tăng. Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng được chính thức phát động từ 19-5-1999, có mục tiêu hàng đầu là khắc phục nguy cơ nạn tham nhũng và tệ quan liêu. Cuộc vận động này đã tạo được chuyển biến ban đầu, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với đất nước. Tuy vậy, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần tăng cường hơn nữa cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tệ quan liêu và những biểu hiện tiêu cực khác. Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết: “Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Cần chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính”.
4.- Nguy cơ “diễn biến hoà bình”
Trong công cuộc đổi mới chúng ta chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá, mở rộng quan hệ quốc tế, làm bạn với tất cả các nước. Chủ trương trên đây bị các thế lực đế quốc và phản động lợi dụng, âm mưu thực hiện diễn biến hoà bình. Hiện nay, khi cách mạng và chủ nghĩa xã hội thế giới đang ở giai đoạn thoái trào thì các thế lực thù địch, đứng đầu là đế quốc Mỹ càng quyết tâm thực hiện diễn biến hoà bình. Đối với Việt Nam, nguy cơ diễn biến hoà bình là rất lớn và rất nghiêm trọng. Vì vậy, chống diễn biến hoà bình là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc, đấu tranh giữa hai con đường.
Cần nói thêm rằng bốn nguy cơ nêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đều nguy hiểm như nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào. Nếu khắc phục được nguy cơ này sẽ hạn chế được các nguy cơ khác và ngược lại. Nguy cơ diễn biến hoà bình đã và đang tác động sâu sắc tới các nguy cơ bên trong. Khắc phục được các nguy cơ bên trong thì nhất định sẽ làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng viết: “Bốn nguy cơ mà Đảng đã từng cảnh báo vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp. Các nguy cơ này đan xen và tác động lẫn nhau. Không thể xem nhẹ nguy cơ nào”. Đảng và nhân dân Việt Nam quyết tâm và có đủ khả năng khắc phục cả bốn nguy cơ nêu trên.”
Bây giờ 21 năm sau, 4 “nguy cơ” đã thành “6 nguy cơ”, ấy là chưa kể đến nguy cơ “lợi ích nhóm” không những chỉ “phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau” mà còn đe dọa sự sống còn của đảng.
Vậy liệu Đại hội đảng XII có khả năng ngăn chặn được “tự diễn biến” và “tự chuyển hoá” trong đảng hay chúng sẽ kết liễu cuộc đời đảng sau 40 năm kết thúc chiến tranh do đảng CSVN gây ra cho đất nước ? -/-
Phạm Trần
(08/015)

Tại sao chúng ta nghèo?
Nguyễn Hưng Quốc
Trong cuộc gặp gỡ với 40 doanh nhân trẻ vào chiều 12 tháng 8 vừa qua, sau khi nghe những lời than thở về những bất cập trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại Việt Nam của họ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” Rồi ông nhấn mạnh: “Nhất định phải đổi mới mạnh mẽ hơn.”
Trong câu hỏi của Vũ Đức Đam có một nhận định chính xác: Việt Nam nghèo. Chúng ta không những nghèo hơn các nước phát triển trên thế giới mà còn nghèo hơn hầu hết các quốc gia trong khu vực. Trong khu vực, chỉ giới hạn trong khối ASEAN, chúng ta nghèo hơn Singapore, Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Miến Điện và Thái Lan, đã đành. Chúng ta còn có nguy cơ bị hai nước láng giềng vốn thường bị xem là nghèo hơn và yếu hơn, Campuchia và Lào, qua mặt.
Nhưng toàn bộ câu hỏi của Vũ Đức Đam, “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” lại sai.
Sai ở nhiều điểm.
Thứ nhất, cách đặt vấn đề sai. Chuyện tốt hay xấu không có quan hệ gì đến chuyện giàu nghèo. Để giàu, người ta cần óc sáng kiến, năng lực lao động, sự cần cù cùng với một số điều kiện thuận lợi và may mắn nữa chứ không dính líu gì đến tính cách hay đạo đức. Trên thế giới, không ai đặt vấn đề như vậy với các tỉ phú hay với các cường quốc kinh tế.
Thứ hai, sai ở mệnh đề “chúng ta tốt”. Cái gọi “chúng ta” ở đây là ai? Là những người tham dự cuộc hội thảo ư? Căn cứ vào đâu để khẳng định họ tốt? Rộng hơn, “chúng ta” đây là người Việt Nam nói chung chăng? Lại càng mơ hồ. Không có dân tộc nào là tốt cũng như không có dân tộc nào là xấu. Dân tộc nào cũng bao gồm những người tốt và những kẻ xấu. Một sự khái quát hoá, cho dân tộc này tốt hơn những dân tộc kia không những sai lầm về logic và thực tế mà còn dễ có nguy cơ dẫn đến những thái độ kỳ thị chủng tộc, điều mà giới học thuật Tây phương cho là cấm kỵ.
“Chúng ta” ở đây là đảng Cộng sản hiện đang cầm quyền chăng? Khẳng định như thế không những sai mà còn là sai lầm một cách lố bịch. Từ sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, khi những sự tàn ác của các đảng Cộng sản ở những nơi ấy bị vạch trần, người ta thấy rõ là không có chế độ cộng sản nào là tốt cả. Tất cả đều giả dối, độc tài và tàn bạo. Số nạn nhân bị giết chết hoặc đoạ đày cho đến chết dưới tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhiều hơn tổng số người bị giết chết dưới tay phát xít Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Riêng ở Việt Nam, chế độ cộng sản cũng đã gây ra biết bao nhiêu tang thương, từ các chiến dịch cải cách ruộng đất ở miền Bắc đến các phong trào đánh tư sản mại bản và xua người dân đi kinh tế mới ở miền Nam, từ các vụ thảm sát ở Huế trong Tết Mậu thân đến các trại cải tạo sau năm 1975. Đó là chưa kể đến cuộc chiến tranh kéo dài cả hai mươi năm mà họ gây ra đã khiến cho ít nhất ba triệu người bị mất mạng ở cả hai miền. Như vậy là tốt ư?
Nếu cái nghèo của Việt Nam hiện nay không xuất phát từ chuyện tốt hay xấu, nó xuất phát từ đâu? Câu trả lời, thật ra, với đa số người dân Việt Nam, khá hiển nhiên: do chế độ Cộng sản. Điều này đúng không những chỉ ở Việt Nam mà còn ở phạm vi toàn thế giới: Có quốc gia cộng sản nào thực sự giàu có? Rõ nhất là ở những quốc gia bị chia đôi: Đông Đức nghèo hơn hẳn Tây Đức; Bắc Hàn thua xa Nam Hàn. Riêng tại Việt Nam, trước năm 1975, điều kiện sinh sống ở miền Nam cũng bỏ xa miền Bắc.
Nhưng điều gì khiến chế độ Cộng sản làm kiềm hãm sự phát triển đất nước? Có ba lý do chính: các chính sách sai lầm, tham nhũng và độc tài.
Trước phong trào đổi mới, các chính sách sai lầm về kinh tế và xã hội, đặc biệt cái gọi là chính sách giá - lương - tiền, đã biến Việt Nam thành một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Lạm phát tăng cao. Dân chúng bị ngập chìm trong đói khổ, không có đủ cơm ăn; trong nhiều năm liền, phải ăn bột mì và bo bo do Nga viện trợ. Sau thời đổi mới, được ít nhiều cởi trói, kinh tế phát triển khá nhanh, nhưng không nhanh đủ để giúp Việt Nam tiến bộ so với các quốc gia láng giềng. Các đại công ty hay tập đoàn kinh tế quốc doanh liên tục thua lỗ, có khi bị phá sản, để lại những gánh nợ nặng nề kéo dài tận đến các thế hệ mai sau. Ngay trong cuộc gặp gỡ với các doanh nhân trẻ ngày 12 tháng 8 vừa qua, trước mặt Vũ Đức Đam, nhiều người cũng lên tiếng phê phán các chính sách sai lầm của chính phủ khiến công việc làm ăn của họ gặp rất nhiều khó khăn. Những sự sai lầm trong chính sách này khiến các nỗ lực gọi là đổi mới tại Việt Nam chỉ là những sự vá víu, lẩn quẩn, từ cái sai này đến cái sai khác theo kiểu tổng kết của dân gian: “Sửa sai rồi lại sửa sai / Sửa thì cứ sửa, sai thì cứ sai.”
Nguyên nhân thứ hai làm kiềm hãm sự phát triển kinh tế tại Việt Nam là tham nhũng. Tham nhũng thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, mọi quyết định về kinh tế đều không xuất phát từ lợi ích chung mà chỉ tập trung vào quyền lợi của một số cá nhân. Phong trào xây tượng đài hoặc các công trình kiến trúc ào ạt ở Việt Nam là một ví dụ: Người ta xây dựng như vậy không phải vì công việc ấy thực sự cần thiết mà chỉ vì, với những công trình xây dựng ấy, người ta có thể kiếm chác để bỏ tiền vào túi mình. Lớn hơn, chính sách đề cao vai trò của các công ty quốc doanh mặc dù hiệu quả kinh tế của chúng rất kém cũng xuất phát từ cùng một lý do: để dễ chia chác quyền lợi. Hai là, với tệ nạn tham nhũng, người ta khai khống và rút ruột các công trình xây dựng để cuối cùng, tất cả các công trình xây dựng đều có kết quả cực kém: Nhiều con đường mới xây xong đã lún; nhiều công trình mới dựng xong đã bị đổ, v.v… Hậu quả của nạn tham nhũng tràn lan này là cán bộ càng lúc càng giàu trong khi đất nước thì càng lúc càng nghèo nàn và kiệt quệ.
Nguyên nhân thứ ba và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất là độc tài. Giành độc quyền lãnh đạo, chế độ Cộng sản loại trừ hai yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển. Một là, loại trừ những trí tuệ và tài năng không nằm trong hệ thống đảng trị. Hai là, nó cũng loại trừ sự minh bạch và cùng với nó, sự phản biện của các trí thức độc lập. Hậu quả của cả hai sự loại trừ này là, một, chính quyền chỉ quy tụ được những kẻ bất tài, hoặc phần lớn là những kẻ bất tài; và hai là, nó mất khả năng tự điều chỉnh và đổi mới thực sự.
Nói một cách tóm tắt, để trả lời cho câu hỏi của ông Vũ Đức Đam, “tại sao chúng ta nghèo?”, chúng ta có thể khẳng định dứt khoát: Chúng ta nghèo, cứ nghèo mãi là vì sự thống trị độc tài và độc đoán của đảng Cộng sản. Biện pháp khắc phục, do đó, không phải là “đổi mới” mà là dân chủ hoá.
Một bài học hiển nhiên trên thế giới: Không có quốc gia dân chủ thực sự nào mà nghèo cả.
Tại sao họ lại hung ác đến vậy?
Nguyễn Hưng Quốc
(Nguồn: VOA) Đọc báo chí trong nước mấy tháng vừa qua, điều ám ảnh tôi nhiều nhất là các vụ sát nhân dã man có khi chỉ vì những lý do hết sức nhỏ nhặt, thậm chí, vu vơ, hay nói theo một số nhà báo trong nước, là “lãng xẹt.”
Tối ngày 8 tháng 8 vừa qua, trong một quán karaoke ở Hải Phòng, nghĩ là anh Nguyễn Tuấn Định nhìn “đểu” mình, một số thanh niên dùng tuýp sắt đánh anh đến bị chấn thương sọ não, phải chở vào bệnh viện cấp cứu. Chưa đã cơn giận, các thanh niên này còn chạy đến bệnh viện dùng dao chém chết anh Định ngay trên băng-ca lúc chờ bác sĩ khám và chữa.
Mấy ngày sau, ở Bến Tre, Huỳnh Văn Phương và Lê Văn Tèo, cả hai đều 35 tuổi, đi xe gắn máy, bị đụng quẹt vào xe của anh Phạm Văn Phường, 25 tuổi. Phương và Tèo nhào xuống đánh anh Phường. Chưa đủ, Phương và Tèo chạy vào một căn nhà dọc đường lấy dao ra cắt cổ anh Phường. Nạn nhân chết ngay tại chỗ.
Ra đường thì thế; ở nhà có an toàn hơn không? Không.
Cũng trong mấy tháng vừa qua, ở Việt Nam xảy ra mấy vụ giết người, ở đó, cả gia đình đều bị giết.
Như vụ giết người tại Nghệ An, chẳng hạn. Vy Văn Mằn vào vườn của anh Lô Văn Thọ hái trộm mấy trái chanh, bị anh Thọ bắt gặp. Hai người cãi vã nhau. Mằn nhào đến đánh anh Thọ. Chưa đủ. Mằn chụp con dao chém liên tục vào đầu anh Thọ khiến anh Thọ chết tại chỗ. Vợ anh Thọ, chị Lê Thị Yến thấy vậy sợ hãi ôm con chạy trốn. Mằn rượt theo. Gặp bà Chương, mẹ anh Thọ, Mằn chém chết; sau đó, chém chị Yến và cả đứa con chị địu trên lưng, mới một tuổi. Như vậy, chỉ vì mấy trái chanh, Vy Văn Mằn giết cả gia đình anh Lô Văn Thọ, kể cả một em bé sơ sinh.
Vụ giết người ở Nghệ An xảy ra chưa bao lâu thì đến vụ giết người cũng tàn độc không kém ở Bình Phước. Nguyễn Hải Dương, 24 tuổi, bị gia đình người yêu phản đối, bèn rủ bạn đến nhà người yêu cũ, giết sáu người trong gia đình, kể cả người mình từng yêu. Chỉ có một em bé chưa tới hai tuổi là được tha mạng.
Rồi xảy ra vụ án ở Yên Bái. Vì một sự tranh chấp nhỏ trên mảnh đất làm nương, Đặng Văn Hùng, 26 tuổi, xô xát với anh Trần Đức Long. Bị đánh, Anh Long bỏ chạy, Hùng rượt theo, chém tới tấp vào đầu vào cổ anh Long nhiều nhát. Chị Hoa, vợ anh Long, bỏ chạy. Hùng rượt theo, chém chị chết. Chưa hết. Hùng chạy vào nhà anh Long, chém chết em vợ anh Long. Cũng chưa hết. Thấy con trai anh Long, mới hai tuổi, đang đứng trên giường, Hùng “tiện tay” nhào đến chém mấy nhát khiến bé chết ngay tại chỗ.
Kể ra, ở đâu cũng có hiện tượng giết người. Ở Tây phương, không kể các cuộc khủng bố, thỉnh thoảng vẫn có những tên tâm thần cầm súng bắn xối xả vào đám đông. Tuy nhiên, những vụ giết người vì các vụ cãi cọ hay tranh chấp vu vơ nho nhỏ rất hiếm hoi. Ở Việt Nam trước đây, nơi người dân được xem là hiền hòa và hiếu hòa, những vụ giết người như thế cũng khá hiếm hoi. Vậy tại sao bây giờ những vụ giết người tàn bạo như thế lại xảy ra nhiều đến như vậy?
Tiến Sĩ Đỗ Cảnh Thìn, Phó giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Tội Phạm Học thuộc Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, cho các vụ thảm án liên tục như vậy là không bình thường. Hơn nữa, ông còn cho những tội ác “không bình thường” ấy không phải là cái gì “đột xuất bất ngờ” mà chỉ là “hệ quả của sự tác động từ nhiều yếu tố tiêu cực.”
Những “yếu tố tiêu cực” ấy là gì? Theo ông Thìn, “trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều áp lực, nhiều cạnh tranh, sức ép từ việc làm, khó khăn về kinh tế, vướng mắc trong đời sống, sự phân tầng xã hội diễn ra gay gắt, những mặt tiêu cực của yếu tố thị trường, những mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp trong cuộc sống hàng ngày... đã làm cho một bộ phận dân chúng, nhất là những người trẻ tuổi không thích nghi được.”
Vì không thích nghi được, nhiều thanh niên “dễ bị chấn thương tinh thần, không định vị được giá trị cuộc sống” và “mất phương hướng, tiêu cực trong suy nghĩ và hành động, đặc biệt là những hành động cực đoan, gây tội ác.”
Đỗ Cảnh Thìn còn đổ lỗi “những hình ảnh bạo lực, lạnh lùng, vô cảm; lối sống nặng về tranh đoạt vật chất, thích hưởng thụ, chạy theo đồng tiền bằng mọi giá hay những phương thức, thủ đoạn tàn bạo, dã man, phi nhân tính của tội phạm... lan tràn trên sách báo, phim ảnh, Internet đang hàng ngày, hàng giờ tác động, ‘thẩm thấu’ vào nhận thức, lối sống, hành vi của không ít người, nhất là những người trẻ tuổi kỹ năng sống hạn chế, kiến thức, kinh nghiệm sống còn non nớt, từ đó dễ dẫn đến những hành vi lệch lạc chuẩn mực xã hội.”
Tuy nhiên, vấn đề là: tại sao ở các nước khác, cũng thị trường hóa, cũng đầy những phim ảnh bạo động, thanh niên lại không bị “chấn thương” và “mất phương hướng” để dẫn đến những vụ giết người một cách độc ác như thế? Nguyên nhân chính, như vậy, không phải chỉ ở nền kinh tế thị trường hay phim ảnh.
Theo tôi, có hai nguyên nhân nên để ý: luật pháp và văn hóa.
Trước hết, về phương diện văn hóa, lâu nay đã có nhiều người lên tiếng báo động về sự suy đồi trong đạo đức xã hội. Tất cả các giá trị thiêng liêng, các chuẩn mực trong quan hệ giữa người và người đều bị phá sản. Mọi người ào ạt chạy theo lợi nhuận và những quyền lợi cá nhân. Người ta đâm ra vô cảm trước những nỗi đau khổ của người khác. Người ta có khuynh hướng sử dụng bạo lực để giải quyết mọi tranh chấp. Ở trường học, chỉ cần một chút xích mích, học sinh, kể cả học sinh nữ, ẩu đả và hành hạ nhau trước cái nhìn dửng dưng của các học sinh khác. Ngoài đường, chỉ cần đụng quẹt xe một chút xíu, người ta chửi bới, hơn nữa, đánh đá nhau. Trong xã hội, bạo lực được xem là cách chính để giải quyết mâu thuẫn. Trong môi trường văn hóa như thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi một số người sẵn sàng giết người một cách dễ dàng và dã man như chúng ta từng thấy qua các bài tường thuật trên báo chí.
Nguyên nhân thứ hai là về luật pháp. Luật pháp Việt Nam khắc nghiệt nhưng không nghiêm minh. Khắc nghiệt ở chỗ Việt Nam vẫn còn duy trì án tử hình và trên thực tế, rất nhiều người bị án tử hình vì tội giết người, nhưng không nghiêm minh vì có rất nhiều người phạm tội, dưới nhiều hình thức và với nhiều mức độ khác nhau, vẫn vô can, thậm chí, sống ung dung và thanh thản ngoài đời. Đó là lý do tại sao Đặng Văn Hùng giết chết đứa con anh Trần Đức Long: “Giết để sau này không bị trả thù.” Hùng sợ đứa bé mấy chục năm sau, lớn lên, trả thù mình mà không hề sợ vì tội giết người hàng loạt như vậy sẽ bị án tử hình. Rõ ràng người ta không tin và cũng không sợ pháp luật. Không tin nên người ta sẵn sàng động chân động tay để giải quyết mọi xung đột. Không sợ nên chỉ vì những xung đột nho nhỏ, người ta có thể xuống tay giết người không hề một chút đắn đo suy nghĩ.
Để ngăn chận các vụ giết người vì cãi vã, bởi vậy, không những cần củng cố các giá trị văn hóa, người ta cần phải làm cho pháp luật thực sự nghiêm minh.
Nguyễn Hưng Quốc
(Nguồn: VOA) Đọc báo chí trong nước mấy tháng vừa qua, điều ám ảnh tôi nhiều nhất là các vụ sát nhân dã man có khi chỉ vì những lý do hết sức nhỏ nhặt, thậm chí, vu vơ, hay nói theo một số nhà báo trong nước, là “lãng xẹt.”
Tối ngày 8 tháng 8 vừa qua, trong một quán karaoke ở Hải Phòng, nghĩ là anh Nguyễn Tuấn Định nhìn “đểu” mình, một số thanh niên dùng tuýp sắt đánh anh đến bị chấn thương sọ não, phải chở vào bệnh viện cấp cứu. Chưa đã cơn giận, các thanh niên này còn chạy đến bệnh viện dùng dao chém chết anh Định ngay trên băng-ca lúc chờ bác sĩ khám và chữa.
Mấy ngày sau, ở Bến Tre, Huỳnh Văn Phương và Lê Văn Tèo, cả hai đều 35 tuổi, đi xe gắn máy, bị đụng quẹt vào xe của anh Phạm Văn Phường, 25 tuổi. Phương và Tèo nhào xuống đánh anh Phường. Chưa đủ, Phương và Tèo chạy vào một căn nhà dọc đường lấy dao ra cắt cổ anh Phường. Nạn nhân chết ngay tại chỗ.
Ra đường thì thế; ở nhà có an toàn hơn không? Không.
Cũng trong mấy tháng vừa qua, ở Việt Nam xảy ra mấy vụ giết người, ở đó, cả gia đình đều bị giết.
Như vụ giết người tại Nghệ An, chẳng hạn. Vy Văn Mằn vào vườn của anh Lô Văn Thọ hái trộm mấy trái chanh, bị anh Thọ bắt gặp. Hai người cãi vã nhau. Mằn nhào đến đánh anh Thọ. Chưa đủ. Mằn chụp con dao chém liên tục vào đầu anh Thọ khiến anh Thọ chết tại chỗ. Vợ anh Thọ, chị Lê Thị Yến thấy vậy sợ hãi ôm con chạy trốn. Mằn rượt theo. Gặp bà Chương, mẹ anh Thọ, Mằn chém chết; sau đó, chém chị Yến và cả đứa con chị địu trên lưng, mới một tuổi. Như vậy, chỉ vì mấy trái chanh, Vy Văn Mằn giết cả gia đình anh Lô Văn Thọ, kể cả một em bé sơ sinh.
Vụ giết người ở Nghệ An xảy ra chưa bao lâu thì đến vụ giết người cũng tàn độc không kém ở Bình Phước. Nguyễn Hải Dương, 24 tuổi, bị gia đình người yêu phản đối, bèn rủ bạn đến nhà người yêu cũ, giết sáu người trong gia đình, kể cả người mình từng yêu. Chỉ có một em bé chưa tới hai tuổi là được tha mạng.
Rồi xảy ra vụ án ở Yên Bái. Vì một sự tranh chấp nhỏ trên mảnh đất làm nương, Đặng Văn Hùng, 26 tuổi, xô xát với anh Trần Đức Long. Bị đánh, Anh Long bỏ chạy, Hùng rượt theo, chém tới tấp vào đầu vào cổ anh Long nhiều nhát. Chị Hoa, vợ anh Long, bỏ chạy. Hùng rượt theo, chém chị chết. Chưa hết. Hùng chạy vào nhà anh Long, chém chết em vợ anh Long. Cũng chưa hết. Thấy con trai anh Long, mới hai tuổi, đang đứng trên giường, Hùng “tiện tay” nhào đến chém mấy nhát khiến bé chết ngay tại chỗ.
Kể ra, ở đâu cũng có hiện tượng giết người. Ở Tây phương, không kể các cuộc khủng bố, thỉnh thoảng vẫn có những tên tâm thần cầm súng bắn xối xả vào đám đông. Tuy nhiên, những vụ giết người vì các vụ cãi cọ hay tranh chấp vu vơ nho nhỏ rất hiếm hoi. Ở Việt Nam trước đây, nơi người dân được xem là hiền hòa và hiếu hòa, những vụ giết người như thế cũng khá hiếm hoi. Vậy tại sao bây giờ những vụ giết người tàn bạo như thế lại xảy ra nhiều đến như vậy?
Tiến Sĩ Đỗ Cảnh Thìn, Phó giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Tội Phạm Học thuộc Học Viện Cảnh Sát Nhân Dân, cho các vụ thảm án liên tục như vậy là không bình thường. Hơn nữa, ông còn cho những tội ác “không bình thường” ấy không phải là cái gì “đột xuất bất ngờ” mà chỉ là “hệ quả của sự tác động từ nhiều yếu tố tiêu cực.”
Những “yếu tố tiêu cực” ấy là gì? Theo ông Thìn, “trong cuộc sống hiện nay có rất nhiều áp lực, nhiều cạnh tranh, sức ép từ việc làm, khó khăn về kinh tế, vướng mắc trong đời sống, sự phân tầng xã hội diễn ra gay gắt, những mặt tiêu cực của yếu tố thị trường, những mâu thuẫn, xung đột, tranh chấp trong cuộc sống hàng ngày... đã làm cho một bộ phận dân chúng, nhất là những người trẻ tuổi không thích nghi được.”
Vì không thích nghi được, nhiều thanh niên “dễ bị chấn thương tinh thần, không định vị được giá trị cuộc sống” và “mất phương hướng, tiêu cực trong suy nghĩ và hành động, đặc biệt là những hành động cực đoan, gây tội ác.”
Đỗ Cảnh Thìn còn đổ lỗi “những hình ảnh bạo lực, lạnh lùng, vô cảm; lối sống nặng về tranh đoạt vật chất, thích hưởng thụ, chạy theo đồng tiền bằng mọi giá hay những phương thức, thủ đoạn tàn bạo, dã man, phi nhân tính của tội phạm... lan tràn trên sách báo, phim ảnh, Internet đang hàng ngày, hàng giờ tác động, ‘thẩm thấu’ vào nhận thức, lối sống, hành vi của không ít người, nhất là những người trẻ tuổi kỹ năng sống hạn chế, kiến thức, kinh nghiệm sống còn non nớt, từ đó dễ dẫn đến những hành vi lệch lạc chuẩn mực xã hội.”
Tuy nhiên, vấn đề là: tại sao ở các nước khác, cũng thị trường hóa, cũng đầy những phim ảnh bạo động, thanh niên lại không bị “chấn thương” và “mất phương hướng” để dẫn đến những vụ giết người một cách độc ác như thế? Nguyên nhân chính, như vậy, không phải chỉ ở nền kinh tế thị trường hay phim ảnh.
Theo tôi, có hai nguyên nhân nên để ý: luật pháp và văn hóa.
Trước hết, về phương diện văn hóa, lâu nay đã có nhiều người lên tiếng báo động về sự suy đồi trong đạo đức xã hội. Tất cả các giá trị thiêng liêng, các chuẩn mực trong quan hệ giữa người và người đều bị phá sản. Mọi người ào ạt chạy theo lợi nhuận và những quyền lợi cá nhân. Người ta đâm ra vô cảm trước những nỗi đau khổ của người khác. Người ta có khuynh hướng sử dụng bạo lực để giải quyết mọi tranh chấp. Ở trường học, chỉ cần một chút xích mích, học sinh, kể cả học sinh nữ, ẩu đả và hành hạ nhau trước cái nhìn dửng dưng của các học sinh khác. Ngoài đường, chỉ cần đụng quẹt xe một chút xíu, người ta chửi bới, hơn nữa, đánh đá nhau. Trong xã hội, bạo lực được xem là cách chính để giải quyết mâu thuẫn. Trong môi trường văn hóa như thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi một số người sẵn sàng giết người một cách dễ dàng và dã man như chúng ta từng thấy qua các bài tường thuật trên báo chí.
Nguyên nhân thứ hai là về luật pháp. Luật pháp Việt Nam khắc nghiệt nhưng không nghiêm minh. Khắc nghiệt ở chỗ Việt Nam vẫn còn duy trì án tử hình và trên thực tế, rất nhiều người bị án tử hình vì tội giết người, nhưng không nghiêm minh vì có rất nhiều người phạm tội, dưới nhiều hình thức và với nhiều mức độ khác nhau, vẫn vô can, thậm chí, sống ung dung và thanh thản ngoài đời. Đó là lý do tại sao Đặng Văn Hùng giết chết đứa con anh Trần Đức Long: “Giết để sau này không bị trả thù.” Hùng sợ đứa bé mấy chục năm sau, lớn lên, trả thù mình mà không hề sợ vì tội giết người hàng loạt như vậy sẽ bị án tử hình. Rõ ràng người ta không tin và cũng không sợ pháp luật. Không tin nên người ta sẵn sàng động chân động tay để giải quyết mọi xung đột. Không sợ nên chỉ vì những xung đột nho nhỏ, người ta có thể xuống tay giết người không hề một chút đắn đo suy nghĩ.
Để ngăn chận các vụ giết người vì cãi vã, bởi vậy, không những cần củng cố các giá trị văn hóa, người ta cần phải làm cho pháp luật thực sự nghiêm minh.
Tưởng hay Mao thắng Nhật?
Ngô Nhân Dụng Bắc Kinh sắp làm lễ kỷ niệm “70 năm chiến thắng Phát xít Nhật. Ðây là lần đầu tiên được họ tổ chức một cuộc diễn binh cho ngày lễ này. Ngày 3 Tháng Chín sắp tới Tập Cận Bình sẽ chủ tọa một cuộc duyệt binh với 200 máy bay chiến đấu và 12,000 quân, với những đơn vị đã có mặt từ thời “kháng Nhật” như Ðệ Bát Lộ Quân (第八路军, Hồ Chí Minh đã phục vụ trong đó), Tân Ðệ tứ quân (新第四军) và cả Ðội Du kích Hoa Nam (华南游击队)..
Ðây cũng là lần đầu tiên quân ngoại quốc được mời, báo trước sẽ có 10 nước gửi quân tới diễn hành. Mới biết sẽ có quân Nga, Mông Cổ, Kazakhstan. Không biết Hà Nội có gửi quân sang dự hay không.
Ông Vladimir Putin hứa ngay sẽ tới dự; vì vào Tháng Năm ông Tập Cận Bình đã qua Nga dự lễ mừng chiến thắng quân Ðức; trong lúc các nước Châu Âu và Mỹ đều tẩy chay để phản đối Nga đang xâm chiếm Ukraine. Cuộc duyệt binh của Tập Cận Bình cũng bị nhiều nước tẩy chay vì Trung Cộng đang xây đảo các nhân tạo trong vùng Biển Ðông nước ta, đe dọa các nước Ðông Nam Á. Thủ Tướng Nhật Abe đã từ chối lời mời. Bà tổng thống Nam Hàn chắc cũng không tới nhưng Kim Chính Ủn ở Bắc Hàn khó lòng từ chối. Cũng vậy, Trương Tấn Sang sẽ đại diện cho Cộng Sản Việt Nam, theo tin ở bên Tàu tiết lộ. Bắc Kinh gửi lời mời cả các nhà lãnh đạo Ðài Loan, nhưng bị từ chối; tuy nhiên các công dân Ðài Loan được phép qua lục địa tham dự.
Trung Cộng chọn ngày kỷ niệm này vì ngày 2 Tháng Chín năm 1945, chính phủ Nhật chính thức ký hiệp ước đầu hàng Mỹ, gần một tháng sau khi quả bom nguyên tử thả xuống đất Nhật khiến Thiên Hoàng Hirohito phải kêu gọi quân, dân bỏ súng. Chính quyền Trung Cộng nhân dịp này sẽ quảng cáo rầm rộ vai trò của Mao Trạch Ðông và đảng Cộng Sản Trung Hoa trong cuộc chiến tranh kháng Nhật, từ 1937 đến 1945.
Nhưng thực ra trên chiến trường Trung Quốc ai đóng vai trò quyết định chiến thắng quân Nhật? Trong tháng Sáu chính phủ Ðài Loan đã lên tiếng khẳng định rằng “Chính Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek, 蔣介石) và quân đội Quốc Dân Ðảng mới thực sự chiến đấu và thắng quân Nhật.” Hơn ba triệu quân lính và sĩ quan Quốc Dân Ðảng đã chết trong cuộc chiến, cùng hơn 20 triệu thường dân. Trong những năm kháng Nhật, quân Cộng Sản không đụng độ với quân Nhật một trận đánh lớn nào, họ chỉ lợi dụng thời gian quân chính phủ đánh Nhật để chiêu mộ đảng viên, củng cố các mật khu, đánh du kích và chống lại quân chính phủ.
Quân Nhật Bản đã đầu hàng “các nước đồng minh” trong đó có chính phủ Dân Quốc; mà Tổng Thống Tưởng Giới Thạch là người lãnh đạo, người đã ngồi ngang hàng với Roosevelt và Churchill tại hội nghị Cairo, Ai Cập năm 1943. Stalin không dự vì còn vướng bởi hiệp ước hòa bình ký với Nhật Bản năm 1941, trong thời gian Tưởng Giới Thạch đang đánh Nhật! Sau đó Stalin mới gặp Roosevelt và Churchill tại Teheran, Iran, để chấp thuận các quyết định tại Cairo. Trong số các quyết định này có phần các nước đồng minh “trả lại cho Trung Quốc cả vùng Mãn Châu, đảo Ðài Loan và quần đảo Pescadores giữa Ðài Loan với lục địa.” Hội nghị Potsdam năm 1945 nhắc lại thỏa hiệp Cairo, sau đó bản văn đầu hàng của Nhật Bản lấy các quyết định ở Potsdam làm căn cứ. Cho nên chính ông Tưởng Giới Thạch đã giành lại lục địa và các đảo về cho Trung Quốc chính quân Quốc Dân Ðảng tước khí giới quân Nhật!
Ðảng Cộng Sản Trung Quốc đã bóp méo lịch sử suốt 65 năm qua, tiêu biểu là Viện Bảo Tàng Chiến Tranh Kháng Nhật ở Bắc Kinh. Năm ngoái, một cựu thủ tướng Ðài Loan là Hác Bá Thôn (Hau Pei-tsun, 郝柏村) đã qua lục địa đến thăm viện bảo tàng này. Vị tướng bốn sao trong quân đội Trung Hoa Quốc gia lúc đã 95 tuổi. Ông tuyên bố với báo chí và nhân viên tại chỗ rằng viện bảo tàng không trình bày đầy đủ sự thật về cuộc chiến tranh kháng Nhật. Thí dụ, không hề thấy bản văn ngày 22 Tháng Bảy năm 1937 của Trung Ương Ðảng Cộng Sản kêu gọi cầu hòa với Quốc Dân Ðảng. Cũng không thấy bản thỏa hiệp đoàn kết chống Nhật giữa hai bên, trong đó Trung Cộng đã chấp nhận bỏ chủ nghĩa cộng sản để theo Tam Dân Chủ nghĩa (三民主義) của Tôn Dật Tiên (孫逸仙)! !
Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Ðài Loan thừa kế Thống Chế Tưởng Giới Thạch, đã bác bỏ những lời tuyên truyền của Trung Cộng bằng một cuộc hội thảo về lịch sử chiến tranh, và một bài diễn văn của Tổng Thống Mã Anh Cửu đọc trong một cuộc diễn binh mừng chiến thắng quân Nhật, vào Tháng Sáu ở Ðài Bắc. Ông Mã Anh Cửu xác nhận: “Chính phủ Dân Quốc và Tổng Thống Tưởng Giới Thạch đã chiến thắng quân đội Nhật; không ai có thể phủ nhận sự thật này.”
Tháng Tám năm 1945, Nga chỉ tuyên chiến với Nhật Bản sau khi Hirosima đã bị bom nguyên tử. Tuyên chiến rồi, quân Nga tiến chiếm Mãn Châu, mảnh đất đã được nhà Mãn Thanh nhập vào nước Tàu trước đó ba thế kỷ. Ðược quân Nga mở đường, Mao Trạch Ðông mới cho Lâm Bưu dẫn quân lên Mãn Châu. Quân Nga tiến tới đâu, quân cộng sản Trung Hoa theo tới đó, lập đảng bộ và tổ chức đấu tố ở mỗi làng.
Tưởng Giới Thạch là tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, được các nước thắng trận công nhận, kể cả nước Nga. Tưởng Giới Thạch đã đấu tranh ngoại giao với Nga yêu cầu Stalin rút quân khỏi Mãn Châu và thành công. Stalin vẫn coi Mao Trạch Ðông chỉ một thủ lãnh nông dân tầm thường, không hề làm công nhân bao giờ, không đáng là đảng viên Cộng Sản! Tưởng Giới Thạch đưa những đạo quân thiện chiến nhất từ mặt trận Tây Nam tiến lên Mãn Châu “tiễu trừ Cộng phỉ.” Ông có thể thành công, cho tới khi ông ra lệnh ngưng tiến quân, trước áp lực của Tướng Mỹ George Marshall, đại diện chính quyền Mỹ!
Trong trận Tứ Bình Nhai (四平街) vào Tháng Tư năm 1946 và kéo dài một tháng trời, Lâm Bưu phải đưa cả 100 ngàn công nhân không hề được huấn luyện vào chiến trường. Ngày 18 tháng Năm cộng quân bỏ chạy sau khi chết 40 ngàn, mất một nửa số binh sĩ. Ngày 6 Tháng Sáu, Lâm Bưu được lệnh rút khỏi Harbin (Cáp Nhĩ Tân, 哈尔滨) là thủ đô của Mãn Châu quốc. Quân Quốc Gia đã sẵn sàng đánh chiếm Harbin, bỗng nhiên nhận được lệnh ngưng tấn công. Vì ông Tướng Marshall muốn đóng vai “sứ giả hòa bình” đứng ra hòa giải hai phe Quốc-Cộng!
Sau đó Cộng quân có thời giờ tổ chức lại quân đội, lại được quân Nga trao cho những vũ khí nặng, trước khi rút về nước. Trong khi đó quân quốc gia ở một chiến trường xa, không thể tiếp tế đầy đủ. Quân Quốc Dân Ðảng thất thế, vừa rút đi vừa tan hàng, sau cùng để cửa ngỏ cho cộng quân tiến vào Bắc Kinh.
Năm 1949, Tưởng Giới Thạch cùng tàn quân chạy qua Ðài Loan, nhưng suốt quãng đời còn lại ông vẫn tuyên bố sẽ “quang phục lục địa.” Giấc mộng đó ông không thực hiện được, nhưng trong 65 năm qua sống dưới chính quyền Quốc Dân Ðảng, Ðài Loan đã phát triển thành một quốc gia tân tiến và dân chủ tự do. Từ 1980 dân Ðài Loan đã “quang phục lục địa” bằng tiền vốn đầu tư. Cộng Sản Trung Hoa cũng bắt đầu công nhận vai trò của Tưởng Giới Thạch trong việc thống nhất Trung Quốc vào thập niên 1920. Năm 2009, trong một lần đi thăm thành phố Ðại Lý ở Vân Nam, tôi đi qua một cửa tiệm tạp hóa nhỏ; nhìn vào bên trong thấy bày bán mấy bức hình để treo tường. Ðó là hình Mao Trạch Ðông, Chu Ân Lai và Tưởng Giới Thạch, ba bức chân dung lớn bằng nhau!
Chính quyền Trung Cộng đã bóp méo lịch sử khi làm lễ kỷ niệm “chiến thắng Phát xít Nhật.” Ðây là chủ trương cổ động lòng yêu nước của dân Trung Hoa do Tập Cận Bình thúc đẩy để tiến hành chương trình xâm chiếm các quần đảo trong vùng Biển Ðông nước ta.
Hành động bóp méo lịch sử của Trung Cộng cũng không khác gì của Việt Cộng. Chính quyền Việt Nam đầu tiên tuyên bố độc lập là chính phủ Trần Trọng Kim chứ không phải chính quyền Cộng Sản. Cuộc biểu tình đầu tiên ở Hà Nội ngày 17 Tháng Tám năm 1945 sau khi Nhật đầu hàng là do các công chức Hà Nội tổ chức để ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim đã bị Cộng Sản cướp diễn đàn, treo cờ đỏ. Sau đó hai ngày, một nhóm cán bộ Cộng Sản mới tổ chức “cướp chính quyền” trong khi toàn bộ lãnh đạo đảng vẫn còn chưa biết tin tức. Cuốn Ðèn Cù của Trần Ðĩnh đã tiết lộ chính những người trong đảng phái quốc gia đã vận động với quân Nhật để bảo đảm an ninh cho nhóm quân Việt Minh đầu tiên đi qua cầu Long Biên vào Hà Nội. Sử gia Vũ Ngự Chiêu đã công bố công trạng của chính phủ độc lập đầu tiên của nước ta, trong vòng năm tháng trời đã thực hiện được việc thống nhất “ba kỳ,” cải tổ toàn diện nền giáo dục, tổ chức việc cứu tế, phát động một phong trào các tổ chức nhân dân tự nguyện và độc lập với nhà nước, xứng đáng gọi là một “xã hội công dân” theo nghĩa bây giờ.
Ngày 19 Tháng Tám năm 2010, Nhạc sĩ Tô Hải đã viết một bài nói rõ thêm một sự thật lịch sử vẫn bị Việt Cộng bóp méo. Ông Tô Hải thẳng thắn phủ định một luận điều tuyên truyền nói rằng Việt Minh đã cướp chính quyền từ thực dân Pháp và phát xít Nhật. Trong thực tế, Cộng Sản Việt Nam đã cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim, chính phủ độc lập đầu tiên của nước Việt Nam. Vì lúc đó, “Nhật đã đầu hàng vô điều kiện, Pháp vẫn chưa ra khỏi các trại giam!” Chàng thanh niên Tô Hải thời đó đã “bọn tớ, tay cầm cờ vàng ba sọc đỏ, miệng hát ‘Này thanh niên ơi! Quốc gia đến ngày giải phóng’ kéo nhau đi biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim...” hoàn toàn không biết gì đến nghị quyết của Việt Minh! Tô Hải cũng ghi công chính phủ Trần Trọng Kim, “126 ngày nắm giữ một chính quyền của một đất nước hoang tàn, chết đói đầy đường, không một đồng trong ngân quỹ, 95% người dân không biết chữ...;” và tinh thần của nhân dân Việt Nam lúc đó, “tất cả các hoạt động thanh niên tiền tuyến, thanh niên khất thực, phụ nữ, nhi đồng, công chức... đều được ‘tự giác’ tổ chức bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, suốt 126 ngày...” Tóm lại, Cộng Sản Việt Nam đã chỉ thừa hưởng “'mâm cỗ độc lập tự do' đã có chính phủ Trần Trọng Kim dọn sẵn, kể cả hàng loạt cuộc mít tinh, biểu tình suốt từ ngày Nhật đầu hàng vô điều kiện cho đến ngày 19 Tháng Tám... Nói trắng ra rằng, dân Việt Nam chẳng hề biết đến cái sự lãnh đạo tài tình nào của Ðảng Cộng Sản trước cái ngày 19 Tháng Tám năm 1945 ấy!”
Theo Tô Hải, “Việt Minh... có cái ‘tài’... duy nhất là, khi vào tiệc thì cầm cốc đứng lên hô to: ‘Nào! Mời các bạn cầm đũa!’ Cứ làm như bữa tiệc ấy là chính mình bỏ tiền ra chiêu đãi toàn dân vậy!”