Quán Vắng không Người ...3

Buồn vài phút xin ghé thăm đây; muốn tán gẫu ghé đây... Chia sẻ tâm tư vô đây.... Không biết nói gì làm gì vô đây!!! Bài viết sẽ giữ lại trong 7 ngày và quá hạn sẽ đi vào thiên cổ của không gian Cyber!!!

Moderator: khieulong

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

TRUNG QUỐC SẼ SỤP ĐỔ VÌ THAM VỌNG TẬP CẬN BÌNH
Nguyễn Cao Quyền

Trung Quốc tiến vào thế kỷ 21 với một tâm trạng vừa vui mừng vừa lo sợ, Vui mừng vì trong những năm tháng gần đây uy tín của quốc gia này có chiều hướng đi lên. Lo sợ vì thực trang kinh tế phát triển quá mau lẹ. Phản ứng phụ nguy hiểm nhất của tốc độ phát triển nhanh trong một xã hội có nền chính trị độc tài và có thu nhập chỉ đủ sống là sự xuất hiện ngày càng trầm trọng của hố cách biệt giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, và của nạn tham nhũng đe dọa sự sống còn của chế độ.

Những người lãnh đạo Trung Quốc ý thức đầy đủ mối nghuy hiểm nói trên và đang tìm cách hóa giải. Còn người dân Trung Quốc thì hy vọng là với các thế hệ lãnh đạo thứ tư, thứ năm… (ba thế hệ trước là do Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và Giang trạch Dân đại diện) Trung Nam Hải sẽ có không gian chính trị rộng rãi hơn để có thể dân chủ hóa một cách tiệm tiến, hầu tránh một cuộc nổi dây của qaần chúng.

Trung Quốc là quốc gia có một dân số và kích thước của một tiểu lục địa. Phần đất này, ngày nay, không còn sống biệt lập nữa, mà đã hội nhập gần như toàn vẹn vào sinh hoạt của thế giới. Cho nên những gì đã và đang xảy ra tại Trung Quốc chắc chắn sẽ ảnh hưởng không ít đến phần còn lại của nhân loại.

Việc tìm hiểu những chuyển biến chính trị đó rất cần thiết cho việc tiên liệu vấn đề an ninh và cuộc sống hòa bình của các dân tộc khác. Cho nên, trong những đoạn viết tiếp theo, một số ý kiến sẽ được đóng góp với ước mong làm rộng dư luận cần quan tâm. Xin mời qúy độc giả đọc tiếp.

Trung Quốc dưới ba triều đại cộng sản đầu tiên

Mao Trạch Đông thắng Tưởng Giới Thạch năm 1949 và có công thống nhất đất nước nhưng ông ta đã gây nạn đói trong các năm 1959-1961 và phát động Cách Mạng Văn Hóa trong 10 năm tiếp theo, làm nhiều triệu người chết. Chiến tranh quốc-cộng tại Trung Quốc đã được thuật đi thuật lại nhiều lần, nên ở đây chỉ xin nhắc lại một số thông tin ít được phổ biến.

Năm 1948 khi đưa quân lên đánh chiếm căn cứ Mãn Châu, quân Quốc Dân Đảng của Tưởng dần dần xa cách Mỹ vì không được Mỹ viện trợ nữa. Cuối năm 1948 Tưởng cho vợ là Tống Mỹ Linh sang Mỹ cầu viện nhưng Mỹ lờ đi không đáp ứng. Cuối năm 1949 Tưởng thua và phải mang 2 triệu quân chạy ra đảo Đài Loan. Ngày 1/10/1949 Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, thủ đô ở Bắc Bình, nay đổi là Bắc Kinh.

Dư luận Mỹ chỉ trích và lên án tổng thống Truman đã để cộng sản chiếm Trung Hoa. Joe Mc Carthy cho rằng việc ngăn chặn Tàu bành trướng cần phải chi viện nhiều và lâu dài hơn nữa. Câu hỏi ai đã làm mất Trung Hoa chưa bao giờ được trả lời công khai. Tỷ lệ ủng hộ tổng thống Truman từ 70% tụt xuống còn 30%. Bộ trưởng ngoại giao Mỹ thời Truman bị đánh giá thấp. Việc để mất Trung Hoa đưa đến nhiều hậu quả thảm khốc.

Năm 1950 Nga và Trung Cộng giúp Bắc Hàn xâm lược Nam Triều Tiên. Mỹ phải đưa quân sang can thiệp. Chiến tranh tiếp diễn mãi tới tháng 7/1953 mới chấm dứt. Cũng từ 1950 Mao giúp Việt Minh chống Pháp thắng lợi. Pháp thua trận tại Điện Biên Phủ tháng 5/1954 nên đất nước Việt Nam bị chia đôi. Mỹ phải nhảy vào bảo vệ và xây dựng miền Nam Việt Nam thành tiền đồn chống cộng cho đến năm 1973 cuộc chiến mới ngã ngũ. Mỹ đã phải rút lui trong “danh dự” khỏi miền Nam VN và chiu mang tiếng với đồng minh và thế giới. Đó là những viêc xảy ra trên bình diện quốc tế.

Tại quốc nội Mao hăm hở lên kế hoạch Đại Nhảy vọt làm 37,5 triệu người chết đói. Chết nhiều nhất xảy ra tại An Huy. Cam túc, Hồ Nam, Tứ Xuyên nhưng không ai dám lên tiếng. Lầm lỗi này khiến Mao mất chức vụ chủ tịch nước. Đó là một vụ chết đói lớn nhất lịch sử Trung Hoa. Đói đến nỗi tại nhiều nơi người ta ăn thịt trẻ em bằng cách đổi con cho nhau để tránh phải chứng kiến cảnh tượng ăn thịt chính con mình.

Vụ chết đói vừa chấm dứt thì Mao phát động cuộc Đại Cách Mạng Văn Hóa để trà thù những người buộc ông phải từ chức. Chém giết lại xảy ra liên tục thêm 10 năm nữa và làm thêm 20 triệu nhân mạng phải hy sinh.

Như vậy, trong suốt 26 năm cầm quyền Mao đã giết hại 60 triệu dân và kéo lùi nước Tàu về thời Trung Cổ. Mao đã biến nước Tàu thành một địa ngục đói khổ và tang thương thê thảm nhất. Một người phạm tội ác chống nhân loại mà vẫn được ca tụng và sung ái như Mao thì thật là một điều quái gở chỉ có thể có ở bên Tàu.

Đặng Tiểu Bình sinh năm 1904 và mất năm 1997. Sau khi Mao chết, Hoa Quốc Phong lên thay được một thời gian ngắn thì Đặng Tiểu Bình dần dần nắm quyền kiểm soát cả đảng cộng sản và xã hội Trung Hoa. Năm 1978 ông đưa đất nước ông vào kỹ nguyên cải cách “mở cửa”. Năm 1979 ông sang thăm Mỹ để bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước và ngay sau đó dạy cho Việt Nam một bài học nằm trong chính sách ngăn chặn ảnh hưởng Nga tại Đông Nam Á.

Cuộc biểu tình khổng lồ tại Thiên An Môn đã diễn ra dưới thời Đặng Tiểu Bình. Nhiều người tin rằng ông ta đã nhúng tay vào máu trong cuộc thảm sát phong trào tại quảng trường này. Sau biến cố họ Đặng rút khỏi chính trường. Thiên An Môn gây chia rẽ trong đảng và quân đội, giữa hai phe bênh và chống.

Theo ước lượng của Mỹ có khoảng từ 4000 người đến 6000 người bị giết. Khối Xô Viết ước tính có 10.000 người bị giết và khoảng 30.000 người bị thương. Bằng chứng cho thắy rõ là những người công sản da vàng đã sẵn sàng dùng quân đội của họ bắn giết đồng bảo ruột thịt để bảo vệ địa vị của Đảng một cách mù quáng.

Giang Trạch Dân sinh năm 1926. Ông là người được Đặng Tiểu bình chọn ra thay thế và trở thảnh lãnh đạo tối cao vào thập niên 1990. Đặng Tiểu Bình chuyển hết quyền hành cho Giang Trạch Dân. Chính sách mở cửa của Đặng rất khôn ngoan khiến nền kinh tế của Trung Quốc tiến nhanh và mạnh trong vòng ba năm.

Dưới thời Giang tệ nạn tham nhũng gia tăng như vũ bão. Doanh nghiệp nhà nước đóng cửa nhiều. Quan chức tham nhũng lấy đi 10% GDP của Quốc gia. Tỷ lệ tội phạm phát triển chưa từng thấy tại các thành phố.

Năm 1999, Pháp Luân Công, một môn pháp tu dưỡng cơ thể và tinh thần tại Hoa Lục bị Giang Trạch Dân chỉ đạo đàn áp một cách dã man. Tổng cộng có khoảng 7000 nạn nhân bị bắn giết hoặc tra tấn cho tới chết.

Bộ ngoại giao Canada thu thập nhiều bằng chứng tố cáo Trung Cộng cho mổ gan và thận tử tù đem bán với giá cao. Tội ác tầy trời này được coi là chưa từng có trên trái đất. Giang bị coi như người đàn áp diệt chủng Pháp Luân Công và bị kết án tù tại 17 quốc gia trên thế giới. Nếu Giang đến các nước này y sẽ phải đối mặt với 20 năm tù giam vì tội diệt chủng nói trên.

Năm 2002 Giang nhường chức cho Hồ Cẩm Đào làm tổng bí thư đảng. Các lãnh đạo cộng sản của Tầu từ Mao, Đặng cho đến Giang toàn là những tên uống máu người không tanh. Bọn này giết hại đồng bào mình và bị cả thế giới, nhất là Tây Phương khinh bỉ, ghê tớm và coi như thú vật.

Trung Quốc dưới triều đại thế hệ lãnh đạo cộng sản thứ tư

Hồ Cẩm Đào thuộc thế hệ lãnh đạo thứ tư. Ông sinh năm 1942 và tốt nghiệp đại học hạng ưu. Sau khi đươc Giang Trạch Dân nhường ngôi, ông làm chủ tịch nước từ năm 2003 tới năm 2013.

Tự do hóa tư tưởng là làn sóng thứ ba được Hồ Cẩm Đào phát động vào thời gian Đại Hội 17 (tháng 10//2007) của đảng cộng sản Trung Quốc. Làn song thứ nhất ám chỉ cuộc vận động mang tên “Thực hành là điều kiện duy nhất của sự thật” nhằm dẹp bỏ chủ thuyết Mao-Ít. Làn sóng thứ hai, được đưa ra trong dịp Đặng Tiểu Bình đi khảo sát miền Nam năm 1992 , là thời gian áp dụng kinh tế thị trường.

Đại Hội 17 đưa ra lộ trình cho tương lai Trung Quốc. Mục tiêu của thời kỳ này là xây dựng một “xã hội hài hòa” và phương tiện để đạt mục tiêu đó là chủ nghiã “dân chủ xã hội”. Tính cho đến ngày nay, thời gian này là thời gian duy nhất dân Tàu được hưởng sự an bình và không có chém giết hoặc tù đầy ghê tởm trong nội bộ.

Theo Hồ Cẩm Đào, phát triển kinh tế phải được đặt lên hàng ưu tiên cao nhất. Không có phát triển kinh tế Trung Quốc không thể khắc phục được những khó khăn đang phải đối phó hiện nay. Trung Quốc phải tiếp thu nhãn quan khoa học, nghĩa lả phải nhắm tới sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã nội.

Quan trọng hơn cả là phát triển phải hướng vào nhân dân. Nói khác, chế độ phải mang tính xã hội chủ nghĩa nhân đạo. Chỉ khi nào phát triển hướng về nhân dân thì mục tiêu xã hội hài hòa mới có khả năng thực hiện.

Dưới thời Hồ Cẩm Đào, Trung Quốc quan tâm khảo sát sự thực hành dân chủ xã hội ở Âu Châu. Tuy nhiên với mặc cảm tự tôn Đại Hán, giới lãnh đạo đảng vẫn không chấp nhận hệ thống đa nguyên và vẫn tiếp tục tìm kiếm xem có cách nào đề một đảng chính trị có thể đại diện cho những quyền lợi kinh tế và xã hội khác nhau.

Một chế độ chính trị chuyên chế và một sự thịnh vượng kinh tế nhất định, vẫn có thể cùng xuất hiện trong một thời gian nào đó, như là điều đang xảy ra tại Trung Quốc hiện nay, nhưng sự thịnh vượng này sẽ không lâu dài. Thiếu ba yếu tố hiện đại hóa Trung Quốc sẽ không bao giờ đạt được cấp độ phát triển tiếp theo.

Ba yếu tố đó là : thứ nhất, hiện đại hóa nhà nước thành một thiết chế bền vững, hiệu qủa, không phụ thuộc vào cá nhân con người; thứ hai, chế độ phải mang tính pháp trị, nghĩa là quyền lực của nhà nước chỉ xuất phát từ luật pháp, đảng cầm quyền không được ngồi lên trên pháp luật; thứ ba, lập một hệ thống ràng buộc ràng buộc trách nhiệm của chính quyền.

Chế độ pháp trị và hệ thống ràng buộc trách nhiệm của chính quyền không phải là những giá trị phương Tây. Không có những giá trị này thì không thể có hiện ̣đại hóa theo đúng nghĩa của ngôn từ này.

Trung Quốc dưới triều đại thế hệ lãnh đạo cộng sản thứ năm

Tập Cận Bình thuộc thế hệ lãnh đạo cộng sản thứ năm. Ông sinh năm 1953 và đậu tiến sĩ luật. Tháng 10/2010 Tập được bầu làm phó chủ tịch Quân Ủy Trung Ương. Ngày 15/11/2012 Tập được bầu làm tổng bí thư, rồi ít lâu sau lên làm chủ tịch Quân Ủy. Ngày 13/3/2013 ông được bầu làm Chủ Tịch Nước.

Kể từ thời Mao đến nay chưa có một cá nhân lãnh đạo nào lại thâu tóm nhiều quyền lực vào trong tay một cách nhanh chóng như Tập Cận Bình. Chưa có một lãnh đạo nào lại thúc đẩy một chương trình trọn vẹn phục hồi các giá trị cũ và sức mạnh thô bạo của đảng cộng sản như Tập Cận Bình đang làm. Tại Trung Quốc hiện nay, những nhà tranh đấu ôn hòa cho một xã hội dân sự cũng bị nghiêm trị, khiến phải im tiếng. Tập đang được gọi bằng mọi thứ tên, từ một nhà “độc tài mới” đến một “hoàng đế mới” của thời hiện đại.

Từ khi lên ngôi đến nay Tập đã bỏ tù những đối thủ chính trị của mình trong một chiến dịch chống tham nhũng rộng lớn được mệnh danh là chiến dịch “đả hổ, diệt ruồi”. Chiến dịch này đã gieo sợ hãi và gây bất ổn tâm lý trong các cấp đảng viên từ thấp đến cao. Hàng trăm quan liêu tham nhũng đã bị tống giam và mấy chục tỷ đô la tài sản tham nhũng đã bị tịch thu.

Một vị tướng có nhiều uy danh, tên Từ Tài Hậu, đã bị tống giam. Một chính khách có thế lực nhất nhì trong nước tên Chu Vĩnh Khang cũng đã bị Tập tóm cổ và đem ra xử tội trước tòa án. Dân chúng hoang mang tự hỏi “Nếu Tập có thể triệt luôn cả Chu Vĩnh Khang thì ai là người có thể thoạt khỏi bàn tay hung hãn của Tập ?”

Sự trỗi dậy của Tập Cận Bình được coi như một bước ngoặt vì ông đã xóa bỏ mô hình lãnh đạo tập thể của Đặng Tiểu Bình. Theo mô hình này các quyết sách phải được thông qua do sự đồng thuận của chín ủy viên trong Ban Thường Vụ Bộ Chính Trị rồi mới được đem ra thi hành. Như vậy là để tránh dẫm lại tệ sùng bái cá nhân hay một cuộc Cách Mạng Văn Hóa thứ hai như dưới thời Mao cai trị.

Mặc dầu có người cha bị Mao Trach Đông hành hạ và bỏ tù nhưng Tập vẫn hướng đến Mao để tìm nguồn khích lệ. Trong một tập tiểu luận xuất bản gần đây, Tập đòi hỏi các đảng viên không được từ bỏ tinh thần Mao Trạch Đông. Tập đã đăng đàn diễn thuyết nhiều lần để khẳng định : “vai trò của thủ lĩnh số một là then chốt”.

Sáu cơ quan cao nhất trong Bộ Chính Trị được tái cơ cấu năm 2012. Tập cầm đầu cả sáu cơ quan đó. Nhờ thế mà ông đã có cơ hội đưa kẻ cựu thù không đội trời chung là Bạc Hy Lai ra xét xử. Ông không chỉ nói mà còn hành động. Báo chí Trung Quốc mô tả ông là một người xay mê quyền lực.

Trong khi lời khuyên của Đặng Tiểu Bình, là cả nước phải ẩn mình đề chờ đợi thời cơ, vẫn còn văng vẳng bên tai, thì Tập tin rằng những năm tháng ẩn mình đã qua rồi. Tập muốn cùng với Mao và Đặng họp thành một bô ba lãnh tụ vĩ đại được nhân dân Trung Quốc và thế giới muôn đời kính phục.

*

Điểm qua lịch sử Trung Quốc ta thấy tham vọng nói trên của Tập Cận Bình chỉ là một tham vọng hồ đồ. Tham vọng này xuất phát từ tính kiêu ngạo Hán Tộc. Cố tật này đã kìm hãm dân tộc Trung Hoa không cho họ phát triển thành một cường quốc cùa thế giới.

Thật vậy, qua các triều đại của lịch sử Trung Quốc, ta thấy tính kiêu ngạo Hán Tộc đã là nguồn gốc của chiến tranh. Chiến tranh liên tục từ đời này qua đời khác khiến nên kinh tế không thoát khỏi ngõ bí và đất nước nghèo nàn lạc hâu. Cuối cùng Trung Quốc đã bị Tây Phương xâu sé và phải chịu thân phận chư hầu cách đây hơn một thế kỷ.

Đến nay, khi Mao Trạch Đông có cơ hội giải phóng và thống nhất đất nước thì cũng chỉ vì cái tật xấu này mà Mao đã giết chết 60 triệu sinh linh và làm tiêu tan đất nước. Đặng Tiểu Bình tuy có khôn ngoan vực lại được nền kinh tế, nhưng với cái tính kiêu ngạo đó vẫn giữ trong đầu, Đặng không cho Trung Quốc thoát khỏi gông cùm độc trị để trờ thành dân chủ. Hồ Cẩm Đào thông minh đưa ra sách lược cứu vãn tình thế nhưng sách lược này lại đang bị Tập Cận Bình sé bỏ.

Trong mấy thập niên gần đây, Hoa Kỳ và các nước Phương Tây, đã ồ ạt đầu tư vào Hoa Lục đề hưởng lợi vì nhân công rẻ. Mỹ và Âu Châu cho rằng khi nển kinh tế trở nên khá giả thì Trung Quốc sẽ từ bỏ chế độ cộng sản, nhưng việc đó vẫn chưa thấy xảy ra. Nhiều dư luận sốt ruột cho rằng đây là một sai lầm lớn vì Mỹ đã nuôi Trung Cộng cho béo để họ trở thành mối đe dọa cho toàn thế giới.

Tuy nhiên nếu căn cứ vào những nghiên cứu vững chắc hơn thì phải nói rằng còn khá lâu Trung Quốc mới có thể trở thành nguy hiểm. Việc Trung Cộng có thể gây chiến tranh vào lúc này chỉ là một huyễn tượng. Thứ nhất, Trung Cộng đang bị bao vây chặt chẽ bởi các nước xung quanh, Mỹ, Nhật và Âu Châu. Thứ hai, nhất cử nhất động của Bắc Knh thường xuyên bị Ngũ Giác Đài theo dõi xát xao và sẵn sàng ứng phó.

Trung bình cải tổ một nền văn hóa phải cần từ vài thế hệ đến vài thế kỷ, mà Tập thì chỉ mới lên ngôi được có vài năm và chỉ còn trụ được nhiều nhất là vài năm nữa tại vị thế hiện nay. Như vậy, dù cho tham vọng có lớn đến đâu, y cũng không có đủ thời gian để thực hiện.

Thêm nữa, lời khuyên của Đặng Tiểu Bình vẫn chưa mất hết giá trị. Tập còn rất nhiều việc phải làm ở trong nước trước khi có thể gây rắc rối với các nước xung quanh và thế giới. Nước Tàu tuy đã có đôi chút tiến bộ về kinh tế nhưng chưa thể nói là đã trở thành một quốc gia hiện đại để có thể hành động như một siêu cường trong thế giới hiện nay.

Tập còn phải chiêm nghiệm sâu sắc hơn nữa và đọc đi đọc lại nhiều lần bài học về sự sụp đổ cũa Liên Xô. Lúc này việc quan trọng nhất phải làm là lo cho nhân dân Hoa Lục học tập nếp sống văn minh để khỏi bị thế giới khinh bỉ. Đó là một việc phù hợp với khả năng lãnh đạo của Tập và thực tế của đất nước. Những việc vượt quá sức mình hãy để cho các thế hệ nối tiếp phụ trách, theo đà tiến và đòi hỏi của lịch sử.

Ngày nay, dưới ảnh hưởng của hai hiện tượng toàn cầu hóa và hiện đại hóa, sách lược bành trướng bằng con đường chiến tranh và bạo lực đả chấm dứt. Trước mắt chỉ còn lại con đường hòa bình và dân chủ./.

__._,_.___

kalua
Posts: 838
Joined: Sun Apr 22, 2012 5:26 pm

Post by kalua »

Nước Tầu Đại Loạn Từ khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc lên nắm quyền tại Hoa lục năm 1949, chưa bao giờ nước Tầu hay đúng ra là Trung Cộng lại rơi vào tình trạng hỗn loan như thời gian vừa qua về mọi phương diện:

Chính Trị:

1.-Giang Trạch Dân âm mưu thanh toán Tập Cận Bình thất bại, cả gia đình vợ con đều bị quản thúc. Bao nhiêu tướng lãnh trong Quân Ủy TC đều là người theo phe của Giang Trạch Dân. Các Tướng này đã bị bắt, bị cách chức, giam giữ hoặc một số đã tự sát. Lần đầu tiên Tập Cận Bình bôi xấu Giang Trạch Dân (lý lịch là cháu ba đời của Uông Tinh Vệ, là tên Đại Hán Gian thời Nhật).

2.-Bí Thư Thường Trực của Tập Cận Bình đã đào tỵ tại Mỹ:

-Chỉ biết đã đến San Francisco nhưng tung tích hoàn toàn giữ bí mật. TCB đã yêu cầu Mỹ dẫn độ tay Bí Thư này về Hoa Lục. Hoa Kỳ bác bỏ đề nghị này vì trước kia tên Edward Snowden đào thoát qua Hồng Kong, Mỹ đã yêu cầu TC dẫn độ nhưng TC nói TC-Mỹ không có hiệp ước dẫn độ nên từ chối. Bây giờ gậy ông đập lưng ông, Hoa Kỳ cũng từ chối dẫn độ.

-TC đã phái các toán đặc công xâm nhập vào Mỹ để tìm diệt tay Bí Thư này vì anh ta biết quá nhiều bí mật của Hoa Lục. Phía Hoa Kỳ đã bí mật tăng cường an ninh tại các sân bay tìm cách ngăn chặn các tay đặc công này vào Mỹ.

-TT Obama yêu cầu TC thả vợ con của tay Bí Thư này ra, nếu không Hoa Kỳ sẽ cấm toàn bộ hàng TC không được vào Mỹ. Bước thứ hai sẽ nói châu Âu cũng cấm hàng TC nhập vào.

Kinh Tế:

-Thị Trường Chứng Khóan Hoa Lục sụp đổ tại Thượng Hải và Shenzen, khoảng 200 triệu người Hoa Lục chơi stock bị phá sản, nhiều ngân hàng đóng cửa. Người ta cho rằng chính Mỹ đã gây ra nạn sụp đổ này để cảnh cáo TC đã có âm mưu và lời tuyên bố muốn thay đồng Mỹ Kim bằng đồng Yuan của TC/và tìm mọi cách đánh đổ đồng Đô La. Hậu quả của sự sụp đổ này chưa có thể tiên đoán được nhưng rõ ràng là Hoa Lục đã kiệt quệ về tài chánh/và sẽ ảnh hưởng đến Quân Sự và mộng bá quyền tại Biển Đông.

-Kinh Tế Nga-Tầu chao đảo:

Mỹ đang đánh thẳng vào nền kinh tế hai nước này bằng chiêu "Dầu Hỏa" như sau:

-Hôm qua đột nhiên Anh Quốc mở lại đại sứ quán tại Teheran (Iran) và Iran đã mở lại các kho dầu (bị ứ đọng không bán được thời gian qua) và xuất cảng dầu qua Châu Âu với giá hạ hơn thị trường (để thâu ngoại tệ về nhanh). Đây là đòn nặng vào dầu khí của Nga. Giá dầu đã hạ xuống chỉ còn $34 USD/ thùng (không còn có lời nữa qua chi phí sản xuất. Phải trên $40 USD mới có lợi nhuận). Dầu khí của Nga đang bị đe dọa vì Châu Âu không cần nữa.

-Bất thình lình và lần đầu tiên trong lịch sử, TT Obama đã ra lệnh cho khai thác mỏ dầu hỏa dự trữ lớn nhất của Hoa Kỳ tại Alaska và giao cho công ty Shell (của Anh Quốc) được toàn quyền khai thác, làm cho giá dầu thô càng sút giảm mạnh.

Quân Sự:

-Trước tình hình TC bành trướng ở Biển Đông: Xây đường băng dài 1,200 mét trên đảo Chữ Thập (Trường Sa). Nối dài đường băng cho phi cơ hạng nặng có thể chở vũ khí đầu đạn hạt nhân bắn đi xa 6,500km (kéo dài một đường băng từ 2km thành hơn 3km) trên Hoàng Sa,

-Mỹ đã đổ bộ quân và vũ khí máy bay hạng nặng vào 8 điểm trên đất Phi (trên đảo Luzon có Manila và căn cứ Clark/và Palawan).

-Mỹ đã bí mật ký kệt hiệp ước quân sự với Cộng Sản VN (chi tiết chưa được ông bố) nhưng CSVN đã để cho Mỹ sử dụng Vịnh Cam Ranh làm căn cứ HQ. Mỹ đang đưa các SQ HQ gốc Việt về Cam Ranh để hoạt động và chỉ huy. Mỹ vừa hạ thủy Hàng Không Mẫu Hạm Gerald Ford đặc biệt có dàn phóng phi cơ tối tân nhất (không dùng máy đẩy phi cơ như trước/nên HKMH nhẹ hơn). Trong khi đó thế giới đang chê cười TC khoe chế tạo được HKMH (thực chất chỉ là cái bè nổi khổng lồ bằng các thùng phuy kim lọai) mục đích làm trạm tiếp tế nhiên liệu cho các phi cơ mà thôi/ không có khả năng tấn công.


Chưa bao giờ Trung Cộng bị những đòn nặng trên nhiều phương diện như vậy. Cũng chưa bao giờ Nga bị chao đão vì dầu hỏa đi xuống và trước viễn ảnh dư thừa dầu trong thế giới tư bản như vậy.

Tình hình sẽ còn biến chuyển mạnh trong thời gian tới, cần theo dõi.

(Theo các nguồn tin ngoại quốc mới nhất):

PGĐ

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Quả bóng nợ Trung Quốc căng thêm

Ngô Nhân Dụng
Lên ngôi từ năm 31 trước Công Nguyên, hoàng đế La Mã Augustus cho đúc tiền thật nhiều, đồng tiền mang hình ảnh oai phong của ông, người đã mở mang đế quốc La Mã rộng gấp đôi, xóa bỏ chế độ Cộng Hòa. Các đồng tiền đúc ra cũng cho phép ông chi tiêu thoải mái, xứng đáng với một triều đại huy hoàng. Nhưng Augustus có thể coi là một người đầu tiên đã thi hành một chính sách “phát triển kinh tế bằng cách gia tăng khối lượng tiền tệ lưu hành.” Ông nới lỏng tín dụng, ấn định lãi suất thấp, chấp nhận lạm phát, để giá cả tăng lên kích thích công việc buôn bán làm ăn. Quá trình này có hiệu quả, ít nhất cho đến năm 10 TCN các khó khăn mới xuất hiện.

Người nối nghiệp là Tiberius phải cứu chữa nền tài chánh bằng cách thay đổi hoàn toàn, áp dụng một chính sách khắc khổ, tiết kiệm. Giá cả xuống, nhiều người vỡ nợ, gia sản bị chủ nợ tịch biên bèn thưa kiện, và không ai còn muốn cho ai vay tiền nữa. Khi một nghị sĩ báo cho một ngân hàng ông sắp đến rút tiền lớn, ngân hàng tuyên bố phá sản. Nhiều người đi rút tiền, thêm nhiều ngân hàng phá sản. Cơn sốt phá sản lan từ La Mã đi các địa phương, Lyons, Carthage, Corinth ở Hy Lạp, và Byzantium ở Thổ Nhĩ Kỳ bây giờ. Sau cùng, Tiberius phải quay ngược chiều lần thứ hai, đem công quỹ phát tiền cho các ngân hàng, bắt các ngân hàng phải lấy lãi suất rất thấp suốt ba năm, có khi bằng zero!

Giáo Sư Michael Pettis, đang dạy kinh tế tại Bắc Kinh đã nhắc lại câu chuyện trên năm 2009, để cảnh báo chính quyền Trung Cộng không nên thả lỏng cho các món nợ công và tư ngày càng lớn lên trong nền kinh tế Trung Quốc. Ông Pettis cũng nhắc lại tấm gương nước Mỹ; chính sách thả lỏng tín dụng, cho vay dễ dàng từ năm 2001 đã đưa tới cuộc khủng hoảng tài chánh và kinh tế từ năm 2007.

Với tổng sản lượng nội địa (GDP) hơn 10 ngàn tỷ Mỹ kim mỗi năm, tổng số nợ ở Trung Quốc hiện nay lớn gần gấp ba, lên tới 28 ngàn tỷ đô la.

Vào năm 2008 tỷ lệ nợ trên GDP ở nước Tàu chỉ là 100%; rồi tăng lên từ chương trình kích thích năm đó, do phản ứng của Bắc Kinh khi kinh tế thế giới rơi vào cơn khủng hoảng, phát xuất từ cuộc khủng hoảng địa ốc ở Mỹ năm 2007, lan sang Châu Âu. Bắc Kinh đã bơm 800 tỷ mỹ kim làm thuốc ngừa, nhờ thế kinh tế Trung Quốc không bị suy thoái, tăng uy tín “kinh bang tế thế” của “mô hình Trung Quốc.”

Nhưng số tiền “kích thích” đó được sử dụng như thế nào? Hầu hết dùng trong “thế võ trấn sơn” của đảng là xây dựng, xây dựng, xây dựng. Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước được vay nợ với lãi suất thấp đổ tiền vào xi măng, thép, nhôm, xây dựng thật nhiều. Số nhà cửa, xưởng máy, đường, cầu, phi trường, hải cảng gia tăng. Từ đó quả bóng địa ốc phồng to, căng lên dần dần dọa nổ.

Bắc Kinh đối phó với cơn khủng hoảng địa ốc bằng cách chuyển trọng tâm qua thị trường chứng khoán. Trong lúc hạn chế bắt ngân hàng bớt cho vay tiền để xây nhà, các ngân hàng do nhà nước sai bảo được lệnh đem tiền cho các nhà đầu tư mua chứng khoán. Ðồng thời, guồng máy báo đài cùng thúc đẩy việc làm giầu bằng chứng khoán. Không cần lệnh từ cấp trên, các nhà báo đã có thể viết bài ca tụng các công ty hay các người đầu tư, khi nhận được các phong bì, tạo nên ảo tưởng những cách làm giầu nhanh chóng.

Hậu quả là quả bom nợ lớn lên trong thị trường địa ốc đang bị kìm hãm lại được tăng thêm với những món nợ mới trong giới đầu tư chứng khoán. Một nền kinh tế không thể sống bằng nợ mãi mãi. Khi các món nợ tăng lên, sẽ tới lúc chúng tác hại. Ðó là bài học kinh tế của hoàng đế Augustus hơn 2000 năm trước.

Tỷ lệ tổng số nợ ở Trung Quốc lớn bằng 280% GDP đáng lo ngại, nhưng tốc độ gia tăng của các món nợ còn là những tín hiệu báo động mạnh hơn nữa. Năm 2010, số nợ của các công ty tư và các cá nhân ở Trung Quốc đã tăng lên một số tương đương với 35% GDP. Ðể so sánh, chỉ cần nhớ lại cuộc khủng hoảng tài chánh và kinh tế ở Nhật Bản những năm 1990 phát nổ khi số nợ tăng lên một năm lớn bằng 25% GDP. Mỹ rơi vào khủng hoảng năm 2007 khi tổng số nợ tăng thêm lớn bằn 15% GDP.

Các cơn khủng hoảng gần đây và phương cách cứu chữa lúng túng của chính quyền Bắc Kinh khiến không những người Trung Hoa mà cả thế giới đặt câu hỏi không biết họ có khả năng đưa nền kinh tế đi xuống một cách nhẹ nhàng, hay là sẽ gây đổ vỡ lớn.

Gần hai tháng trước, các thị trường Thượng Hải và Thẩm Quyến đã xuống giá đột ngột, Bắc Kinh tìm cách nâng lên giá cổ phiếu với nhiều biện pháp không bình thường: Ra lệnh người mua không được mua, người bán phải ngưng bán, và đưa thêm tiền cho người ta vay để mua cổ phiếu! Trên thế giới chưa có một chính phủ nào can thiệp vào giá cả trên thị trường chứng khoán như thế!

Nhưng các giải pháp bất thường này mất hiệu lực. Giữa Tháng Tám, sau khi đã hạ giá đồng nguyên trong hai ngày liền, tới ngày Thứ Tư, Ngân Hàng Trung Ương phải tăng giá để chặn không cho tiền xuống quá thấp. Từ ngày Thứ Hai, 24 Tháng Tám, Chỉ số Thượng Hải lại tụt xuống, trong hai ngày mất 8.5%, rồi 7.6% và sau khi Ngân Hàng Trung Ương (Nhân Dân Ngân Hàng) đã cắt lãi suất vẫn mất thêm 1.3% nữa. Tổng cộng giá trị các công ty Trung Quốc đã giảm 42% kể từ giữa Tháng Sáu, gần 5 ngàn tỷ Mỹ kim biến mất, các nhà đầu tư nhỏ cháy túi!

Ðể cứu vãn thị trường chứng khoán lần thứ nhì, Nhân Dân Ngân Hàng lại cắt lãi suất một phần tư điểm, xuống 4.6% một năm, và cho phép các ngân hàng thương mại được cho vay nhiều hơn bằng cách giảm bớt số tiền dự trữ bắt buộc xuống 18%, giảm bớt nửa điểm. Cả hai biện pháp nhằm giúp các ngân hàng cho vay dễ dàng hơn, có thể đưa thêm tiền cho những người muốn vay để mua cổ phiếu. Chỉ cần giảm 0.50% tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng cho phép các ngân hàng cho vay thêm 678 tỷ đồng nguyên, tương đương với 106 tỷ đô la. Trong ngày Thứ Năm, 27 Tháng Tám, cơn sốt hạ nhiệt độ, thị trường Thượng Hải tăng lên được 5.3%.

Chính sách thả lỏng tín dụng này có thể giúp thị trường chứng khoán ổn định trong ngắn hạn nhưng sẽ khiến cho quả bom nợ càng nguy hiểm hơn. Người ta có thể kéo dài thời gian chờ bom nổ, nhưng nếu không tìm cách tháo ngòi thì cơn nguy biến sẽ tới.

Chưa có xã hội nào thoát khỏi hậu quả tai hại khi thả cho quả bóng nợ tăng lên mãi, Ðế quốc La Mã năm 10 trước Công Nguyên; Nhật Bản năm 1990, nước Mỹ năm 2007, đó là những bài học đắt giá.

Cả thế giới đang theo dõi tình hình kinh tế nước Trung Hoa vì tất cả các nước hiện nay đang liên hệ chặt chẽ với nhau. Trung Quốc đã từng nhập cảng 58% số quặng sắt, 58% số đậu nành, 31% số đồng thau, 15% số dầu lửa trên thế giới. Tất cả những nước cung cấp tiếp liệu cho hơn một tỷ người Trung Hoa sẽ cùng xuống dốc với khách hàng của họ. Những nước này gồm từ Brazil qua Thổ Nhĩ Kỳ, tới Phi Châu. Công nghiệp Ðức bán máy móc cho các xí nghiệp Tàu đã chứng kiến số bán giảm 5% từ đầu năm tới nay.

Nước Mỹ có lẽ bị ảnh hưởng nhẹ nhất. Số thu trong nhờ giao dịch với Trung Quốc của các công ty Mỹ trong chỉ số SP500 chỉ lớn bằng 2% tổng số bán của họ trên toàn thế giới. Số xuất cảng từ Mỹ sang Tàu chỉ bằng 1% GDP; nếu có giảm bớt 10% thì cũng không đáng lo. Chủ tịch công ty Apple mới họp nhân viên thông báo rằng chi nhánh ở Trung Quốc vẫn yêu cầu gửi thêm hàng, mặc dù số điện thoại di động bán ở Trung Quốc đã giảm! Nhưng khi kinh tế các nước ở Châu Mỹ La tinh, Châu Âu, Châu Á xuống thì họ cũng chính là những khách hàng của Mỹ! Cho nên nước Mỹ cũng khó bình chân như vại!

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

70 năm vẫn lơ tơ mơ
Phạm Trần
- Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam đã bị ông Chủ tịch Nước Trương Tấn Sang lột mặt nạ trong diễn văn kỷ niệm 70 năm Độc lập diễn ra ở Hà Nội ngày 02/09/2015.

Ông nói: “Ngày 2/9, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập” , khai sinh nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”


Nếu hiểu theo nghĩa “dân làm chủ một nhà nước có đầy đủ các quyền tự do và dân chủ” thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một nhà nước lý tưởng theo định nghĩa của Bách khoa Toàn thư (mở) đó là: “Hình thức mà nhà nước có quyền lực tập trung vào quốc hội hay nghị viện và hoạt động theo nguyên tắc tập quyền thông qua bầu cử toàn dân.”


Tuy nhiên ông Hồ Chí Minh và lực lượng Việt Minh sau khi cướp được chính quyền từ Chính phủ non yếu Trần Trọng Kim đã không bảo vệ và xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành một nhà nước của dân, do dân và vì dân như đã hứa.

Thứ nhà nước dân chủ nhân dân theo cách nói của ông Trương Tấn Sang cũng không có. Ngược lại ông Hồ và những người đi theo Chủ nghĩa Cộng sản độc tài Nga Sô và Chủ nghĩa Cộng sản bạo quyền Mao Trạch Đông đã lái Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang con đường lầm lạc độc quyền lãnh đạo, tước bỏ mọi quyền của dân và phản bội lại xương máu của các thế hệ đã đấu tranh cho nền độc lập quốc gia rồi đẩy đất nước vào 30 năm chiến tranh phiêu lưu đẫm máu.

Vì vậy mà một hình thức giai cấp giả hiệu đã được khoác cho nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là “Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á”, thay mặt cho hai giới công nhân lao động và nông dân.

Thực tế chưa bao giờ có một nhà nước của tuyệt đại đa số nhân dân như thế ở Việt Nam dưới thời Cộng sản. Các chính quyền lập ra từ sau ngày gọi là “Cách mạng tháng Tám 1945” đều là nhà nước tự biên tự diễn của đảng, do đảng và vì đảng và chưa hề biết quán triệt ý nghĩa câu nói lịch sử của ông Hồ rằng: “Nước độc lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”.

Nay ngày độc lập 2/9 đã lùi vào dĩ vãng để nhường bước cho năm thứ 71 từ hôm 03/09/2015 mà nhân dân Việt Nam vẫn chưa có tự do và hạnh phúc, hay không phải ai trong số trên 90 triệu dân “cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành” như “ham muốn tột bậc” của ông Hồ đưa ra từ năm 1946!

Mọi quyền của dân quy định trong 5 Hiến pháp, từ Hiến pháp dân chủ đầu tiên 1946 đến Hiến pháp độc tài sửa đổi 2013 đã coi dân như của nợ cần phải rút hết xương tủy để phục vụ thiểu số cầm quyền. Chiếc bánh vẽ “công nông” đã được đảng tô đi vẽ lại trong 70 năm chỉ cốt làm cho phình to ra để che đậy chiêu bài ái quốc “chống Pháp giành độc lập” và giả danh “chống Mỹ cứu nước” để xâm lăng Việt Nam Cộng hòa.

Các Nhà sử học Cộng sản biết rõ như thế mà vẫn cam tâm đổi trắng thay đen, vẽ hươu vẽ vượn ca tụng cuộc Cách mạng mang danh “thời đại Hồ Chí Minh” để đầu độc học sinh từ tiểu học lên đại học.

Ban Tuyên giáo còn giả dối mị dân khi viết rằng: “Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của nhân dân ta từ khi có Đảng lãnh đạo, mở ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Chính quyền về tay nhân dân, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; kết thúc hơn hơn 80 năm nhân dân ta dưới ách đô hộ của thực dân, phát xít”

Nhưng tại sao ông Trương Tấn Sang đã muốn sửa sai lịch sử để gọi nhà nước đầu tiên do ông Hồ đứng đầu là “nhà nước dân chủ nhân dân” thay vì “nhà nước công nông”?

Nguyên do vì ông Sang là người của Nam Bộ, sinh ra ở xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên biết rất rõ hai giới công nông đã chỉ được đảng cho mang danh hão để hưởng quyền ảo. Họ là thành phần đã hy sinh xương máu và tài sản nhiều nhất cho đảng theo đuổi 30 năm nội chiến mạo danh chống xâm lược, nhưng lại chịu thiệt thòi và bị những kẻ có chức có quyền phản bội nhiều nhất.

Vì vậy khi nghe ông Sang hô hoán các mục tiêu cao cả của Cách mạng Tháng Tám là “độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân” và để lập nên nhà nước dân chủ nhân dân thì cũng như vịt nghe sấm, chả ai hiểu ông muốn nói gì, vì chúng toàn là những sáo ngữ viển vông.

Khi nói “dân chủ nhân dân” thì nhà nước phải do dân bầu lên, thay vì “đảng cử dân bầu” như bấy lâu nay. Nếu chủ trương “dân chủ nhân dân” mà vẫn phải do đảng lãnh đạo như bây giờ thì đó là thứ dân chủ trá hình, bánh vẽ, mị dân.

Cũng như ông Sang, bộ máy tuyên truyền của đảng không dừng ở đây. Ngôn ngữ mộng du thêu dệt của Ban Tuyên giáo còn bịa chuyện nói Cách mạng Tháng Tám là: "Thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam; là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng ta gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; là sự thể nghiệm thành công đầu tiên chủ nghĩa Mác-Lênin tại một nước thuộc địa ở châu Á. Đây còn là quá trình phát triển tất yếu của lịch sử dân tộc trải qua mấy nghìn năm phấn đấu, đỉnh cao của ý chí quật cường, sức mạnh cố kết cộng đồng, tầm cao trí tuệ của dân tộc hòa quyện với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với xu thế của thời đại vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội, vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội."

(Trích “Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh nước CHXHCN Việt Nam”/Ban Tuyên Giáo,12/06/2015)

Chuyện của 4 nguy cơ

Với những cái đầu đất sét cho đến 70 năm sau ngày Độc lập 2/9, vẫn còn mơ hồ giáo điều tuyệt đối tin rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin đã có công với “cách mạng tháng Tám” thì chuyện đảng còn phải đối phó với “bốn nguy cơ” de dọa sự sống còn của đảng là điều không ai ngạc nhiên.

Ông Sang nói trước mặt Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng và đông đảo lãnh đạo cũ, mới ngày 02/09/(2015): “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt biểu hiện ngày càng nghiêm trọng hơn, diễn biến phức tạp hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc trong xã hội, bất bình trong nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.”


Những nguy cơ này đã được nói đến lần đầu tiên tại Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (20-25/1/1994), thời Tổng Bí thư Đỗ Mười. 21 năm sau chúng chẳng những vẫn tồn tại mà còn khỏe mạnh hơn nên ông Sang phải kêu gọi toàn đảng: “Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhất là nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Có như vậy, mới củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.”


Như vậy là đảng CSVN, trước thềm Đại hội toàn quốc khóa XII dự trù tháng 01/2016, đang tơ mối trăm vò trước câu hỏi “thành công hay thất bại sau 30 đổi mới”?


Những tệ nạn của cán bộ, đảng viên nêu ra trong diễn văn của ông Sang không mới mà chúng là những việc đã diễn ra từ các khóa đảng trước năm 2011 khi khóa đảng XI và Tổng Bi thư Nguyễn Phú Trọng lên cầm quyền.

Như vậy là đảng đã thất bại. Nếu bảo thành công thì tại sao từ “4 nguy cơ” lại đẻ thêm ra 2 nguy cơ cực kỳ nguy hiểm được gọi là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng, Quân đội và Công an?

Vì vậy giấc mơ xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” từ khi có Đổi mới thời đảng trưởng Nguyễn Văn Linh năm 1986 cũng đã tan ra mây khói.

Do đó khi nghe Chủ tịch Trương Tấn Sang nhắc lại điệp khúc sẽ “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; mọi cơ quan nhà nước, mọi cán bộ công chức phải chịu sự giám sát của nhân dân. Đổi mới quản lý nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy dân chủ, đồng thời đề cao kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ” thì cũng chỉ là chuyện “biết rồi khổ lắm nói mãi”

Bởi lẽ đảng đã nói những điều này nhiều lần lắm rồi mà chưa hề thấy nhà nước nào là “của dân, do dân, vì dân” vì “tất cả quyền lực nhà nước” vẫn tiếp tục nằm gọn trong tay đảng để cho cán bộ, nhất là những kẻ có chức có quyền, lạm dụng để vợ vét tiền bạc qua các cửa tham nhũng, lãng phí, dành bổng lộc cho cá nhân, gia đình và phe phái, hay còn được gọi là “lợi ích nhóm”.

Không chỉ có cấp lãnh đạo mới thấy như thế mà toàn dân đã nhìn rõ những việc đảng làm so với những lời đảng nói từ 40 năm qua khi đất nước đã do đảng nắm trọn để độc quyền.

Bây giờ ông Trương Tấn Sang lại thay mặt đảng và nhà nước để hứa về một nhà nước pháp quyền chưa hề có từ sau 1975 trên cả nước, hay 60 năm ở miền Bắc để dành lại quyền làm chủ cho dân thì có phải là chuyện “nói cho qua cầu” vào dịp kỷ niệm 70 năm ngày 2/9? -/-

Phạm Trần

User avatar
lynhcao
Posts: 883
Joined: Sat Apr 30, 2005 10:46 pm

Post by lynhcao »

Image


Cả thế giới chờ bà Janet Yellen
Ngô Nhân Dụng

Rất nhiều người ở Mỹ biết ông Donald Trump; rất ít người biết tên bà Janet Yellen. Nhưng cả thế giới đang chờ coi quyết định của bà Yellen trong 12 ngày nữa; trong đó có các ông Chu Tiểu Xuyên và cả ông Tập Cận Bình!

Janet Yellen là chủ tịch Ngân Hàng Trung Ương Mỹ, thường gọi tắt là Fed. Ngày 16 Tháng Chín này Ủy Ban Chính Sách Tiền Tệ của Fed sẽ họp, trong đó bà Yellen có tiếng nói nặng nhất, ngày hôm sau sẽ cho biết lãi suất ở Mỹ có tăng hay không. Nếu Fed tăng lãi suất, kinh tế cả thế giới chịu ảnh hưởng vì kể từ năm 2006 đến giờ lãi suất chỉ giảm, giảm xuống gần số không, chứ chưa tăng lần nào.

Ngân Hàng Trung Ương Mỹ chỉ có bổn phận điều hành khối tiền tệ dân Mỹ đang dùng để giúp giá cả ổn định, chứ không có trách nhiệm nào đối với thế giới. Nhưng trong thực tế, họ gây ảnh hưởng ra bên ngoài, vì các nước khác khi mua bán với nhau đều thanh toán bằng đô la Mỹ.

Nếu bà Yellen nâng lãi suất ở Mỹ lên, đồng đô la Mỹ sẽ lên giá vì thêm nhiều người muốn đổi tiền nước họ lấy Mỹ kim để đưa sang Mỹ kiếm lời. Giới đầu tư khắp thế giới đã đem tiền vào Mỹ mua các trái phiếu, nhất là công trái, vì kinh tế Mỹ tăng trưởng đều đặn suốt sáu năm nay, sau cơn khủng hoảng nặng nề bắt đầu năm 2007. Mỹ cùng với nước Ðức trở thành những nơi gửi tiền an toàn nhất, so với các nước kinh tế lớn khác. Chính dòng tiền “chảy vào chỗ trũng” này là nguyên nhân khiến đô la Mỹ lên giá từ gần hai năm nay. Bây giờ, nếu đưa tiền cho Mỹ vay còn được trả lãi cao hơn trước, thì số tiền di cư sang Mỹ còn tăng nữa. Ðó là mối lo của các nước, đặc biệt là những “nền kinh tế đang lên,” tức là những nước trước đây 30 năm còn nghèo hơn ngày nay rất nhiều.

Muốn hiểu tại sao các nước đang lên lại lo lắng nếu lãi suất ở Mỹ tăng, chúng ta cần nhìn lại xem tại sao kinh tế các nước đó có thể tăng trưởng nhanh chóng trong gần hai chục năm qua, sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ khắp nơi.

Có ba hiện tượng tạo cơ hội cho các nước “kinh tế đang lên.”

Thứ nhất là cả thế giới giầu hơn nhờ gia tăng mua, bán với nhau. Một quy tắc kinh tế đơn giản là trong mọi cuộc trao đổi tự do, cả hai bên đều có lợi. Năm 2003 số hàng hóa trong thương mại quốc tế trị giá dưới 8 ngàn tỷ đô la, mười năm sau tăng lên thành 18 tỷ rưỡi. Trao đổi về dịch vụ cũng tăng từ 2 ngàn tỷ lên gần 5 ngàn tỷ. Trước đây 40 năm, các nước nghèo chỉ đóng góp một phần tư vào khối lượng mậu dịch quốc tế, bây giờ chiếm một phần ba. Hiện tượng “toàn cầu hóa” này nâng cao mức sống những nước nghèo, họ tiến với tỷ lệ cao hơn vì khởi đầu từ chỗ thấp hơn. Các nước Châu Á lợi nhiều nhất, trong đó có Trung Quốc.

Yếu tố thứ hai giúp nhiều nước nghèo phát triển nhanh là món hàng họ xuất cảng nhiều nhất là tài nguyên thiên nhiên, mà khi kinh tế thế giới lên cao thì giá các món quặng mỏ, dầu khí, gỗ, vân vân, cũng tăng.

Lý do lớn thứ ba là trong hai chục năm qua đi vay tiền được lãi suất rất thấp. Tiền vốn đổ vào các nước nghèo tạo cơ hội sản xuất, tạo công ăn việc làm.

Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng khiến cho cả ba hiện tượng trên lên mạnh hơn. Một tỷ người Trung Hoa mua nguyên liệu và nhiên liệu từ khắp nơi về để sản xuất, giúp cho các nước bán dầu khí và quặng mỏ. Trong ba thập niên dân Trung Hoa được cởi trói kinh tế, họ làm việc hùng hục nhưng được trả lương rất thấp, số tiền “cưỡng chế tiết kiệm” này được đem ra ngoài cho vay. Vì vậy lãi suất ở các nước Mỹ và các nước Châu Âu xuống thấp trong 35 năm qua. Năm 1981, lãi suất dài hạn ở Mỹ trung bình là 14.5%, hiện nay xuống chỉ còn 2.2%. Trong cùng thời gian đó, Chỉ số Dow Jones thị trường chứng khoán Mỹ đã tăng từ 900 lên tới trên 17,500 trong mấy tuần qua. Hàng hóa Trung Quốc bán giá rẻ giúp cho tỷ lệ lạm phát khắp nơi xuống thấp; ngân hàng trung ương các nước lớn không bị áp lực phải tăng lãi suất để ngăn ngừa lạm phát. Chính sách tiền tệ dễ dãi này có lúc tác hại, như đã thấy qua cuộc khủng hoảng địa ốc ở Mỹ trong những năm trước 2007.

Nhưng cả ba hiện tượng hữu ích cho kinh tế cc nước đang lên đang yếu dần, và có khuynh hướng đổi chiều. Hiện tượng lên rồi xuống biểu lộ rõ rệt nhất qua nền kinh tế Trung Quốc.

Thứ nhất, trong kinh tế toàn cầu, trong thời gian từ 1980 đến 2002, số lượng mậu dịch tăng với tốc độ nhanh hơn tỷ lệ gia tăng của số lượng sản xuất, tức GDP của thế giới. Lý do chính là vì chi phí của việc trao đổi hàng hóa càng ngày càng thấp; vì lợi tức trung bình lên cao giúp người ta mua đồ nhập cảng nhiều hơn; và vì việc sản xuất hàng xuất cảng có hiệu quả tăng nhanh hơn. Tình trạng này hiện đang đảo ngược: Trong bốn năm qua, mậu dịch quốc tế tăng lên với tỷ lệ thấp hơn tốc độ tăng trưởng của GDP. Các nền kinh tế đang lên đều đặt trọng tâm vào việc sản xuất hàng xuất cảng thay vì hàng tiêu thụ nội địa, chính sách này đang gặp khó khăn. Nỗi khó khăn của một nước lớn như Trung Quốc sẽ lan sang các nước khác.

Vì vậy, giá bán nguyên liệu và nhiên liệu giảm. Năm ngoái giá một thùng dầu có lúc lên tới $110 đô la Mỹ, năm nay đã xuống $50, có lúc xấp xỉ 40 đô la một thùng. Các thứ kim loại từ sắt đến đồng đều xuống giá.

Nếu trong ba chục năm trước kinh tế Trung Quốc tăng trưởng tạo cơ hội cho kinh tế nhiều nước khác cùng lên, thì ngày nay có tình trạng ngược lại. Trung Quốc không thể tiếp tục chỉ chuyên lo làm hàng xuất cảng; không thể tiếp tục trao tiền cho các chính quyền địa phương và các doanh nghiệp nhà nước đầu tư vô ích. Hành động phá giá đồng nguyên và cuộc khủng hoảng thị trường chứng khoán khiến cả thế giới nhìn nước Tàu lo ngại.

Hiện nay kinh tế các nước Châu Âu và Nhật Bản vẫn còn trì trệ, nhưng kinh tế Mỹ đã hồi phục chậm chạp và vững chắc từ sáu năm qua. Khi kinh tế lên, mối lo nẩy sinh là lo lạm phát. Vì vậy, từ đầu năm 2015, trong giới lãnh đạo tiền tệ ở Mỹ nhiều người đã nói đến lúc phải tăng lãi suất. Từ đầu năm nay, cả thế giới tin rằng lãi suất ở Mỹ sẽ tăng lên trong phiên họp của Hội Ðồng Tiền Tệ (Open market committee) ngày 16, 17 Tháng Chín này.

Nếu trong hai tuần nữa bà Janet Yellen báo tin Mỹ tăng lãi suất, cả thế giới sẽ lo. Ðồng đô la sẽ lên giá khi người ta đổi lấy Mỹ kim đem vào Mỹ. Rất nhiều quốc gia đi vay nợ nước ngoài bằng đô la, cũng như nhiều người Việt Nam muốn cho vay bằng “cây vàng.” Khi đô la lên giá, các con nợ phải trả lãi bằng đô la sẽ khốn đốn vì tiền họ kiếm ra được vẫn là tiền bản xứ. Trong số các con nợ này có các công ty lớn và cả các chính phủ. Tiên đoán nỗi rủi ro này, kể từ Tháng Năm, 2015, trái phiếu do các nước đang lên phát hành đã phải trả lãi suất cao hơn.

Khi tiên đoán các nước kinh tế đang lên sắp gặp khó khăn, đồng tiền trong nước họ cũng bỏ chạy. Giữa Tháng Tám 2015, nhật báo The Financial Times cho biết, trong 14 tháng kể từ Tháng Sáu năm 2014, một khối lượng gần một ngàn tỷ đô la (940 tỷ) từ các nước kinh tế đang lên đã di tản! Mỹ sẽ tiếp tục thu hút tiền vốn của thế giới, nghĩa là tiền đầu tư vào các nước khác sẽ hiếm hoi hơn trong lúc họ đang cần nhất.

Vì vậy, kể từ ngày Thứ Hai, 24 Tháng Tám, khi thị trường chứng khoán Trung Quốc sụt giá ào ạt lần thứ nhì trong một tháng, rất nhiều người đã đề nghị bà Janet Yellen khoan khoan, đừng nâng lãi suất Mỹ lên, Ngay trong giới lãnh đạo chính sách tiền tệ ở Mỹ, cũng có người can. Họ nêu ra các lý do chính đáng: Kinh tế Mỹ chưa bị áp lực lạm phát, vì vẫn tăng trưởng ở mức độ vừa phải, chưa quá nóng. Lương bổng công nhân chưa tăng đáng kể. Lạm phát trong Tháng Bảy 2015 còn ở mức 1.2% trong khi chính Ngân Hàng Trung Ương vẫn chọn mục tiêu là giá cả nên tăng 2% một năm. Ðó là tỷ lệ vừa phải để kích thích người sản xuất muốn làm thêm hàng để bán (sẽ được giá cao hơn 2%) còn người tiêu thụ thì muốn mua sớm trước khi giá tăng; cả hai đều kích thích kinh tế!

Ngày Thứ Sáu, 4 Tháng Chín, một tin mừng kinh tế là tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đã giảm từ 5.3% xuống 5.1%. Một số thống kê mới cũng cho biết chỉ có 173,000 công việc làm mới tạo ra trong Tháng Tám, thấp hơn con số trung bình 212,000 mỗi tháng kể từ đầu năm nay, khiến chỉ số Dow Jones giảm 1.66%. Nhưng theo kinh nghiệm thì con số “jobs” Tháng Tám xưa nay đều quá thấp so với sự thực, trong tương lai có thể sẽ được điều chỉnh lên thêm 79,000 jobs nữa. Như vậy là kinh tế Mỹ đang lên nhanh hơn, nối lo ngăn chặn lạm phát vẫn còn đó, bà Yellen có trách nhiệm “lo trước cái lo của thiên hạ,” bằng các tăng lãi suất. Cả hai “tin mừng” cho kinh tế Mỹ đều là “tin buồn” cho thế giới bên ngoài, nhất là các nền kinh tế đang lên!

Trong hai tuần sắp tới, giới lãnh đạo Ngân Hàng Trung Ương Mỹ sẽ phải theo dõi xem sự thực kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn tới mức nào. Chính quyền Trung Cộng còn khả năng ngăn không cho thị trường chứng khoán xuống nữa hay không, khi chỉ số Thượng Hải tụt mất 3% trong tuần lễ Mừng Chiến Thắng Nhật? Ngày 10 Tháng Chín họ cũng đón coi Ngân Hàng Trung Ương Anh quốc có quyết định tăng lãi suất như mọi người chờ đợi hay không? Trong khi Nhật Bản, Âu Châu và Trung Quốc đang cần phải giữ lãi suất ở mức thấp để kích thích kinh tế, thì Anh và Mỹ là hai nước tính làm ngược lại. Nhưng kinh tế cả hai nước này cũng không thể lên nếu kinh tế toàn thế giới trì trệ hoặc suy thoái!

Bà Janet Yellen có thể chỉ nâng lãi suất căn bản ở Mỹ thêm 0.25%, hậu quả cho thế giới bên ngoài sẽ không đến nỗi quá nặng. Tuy nhiên, dù lãi suất Mỹ lên rất nhẹ, hậu quả tâm lý vẫn quan trọng, vì đây là lần đầu tiên lãi suất ở Mỹ tăng lên sau hàng chục năm. Các ông Chu Tiểu Xuyên và cả ông Tập Cận Bình rất lo. Trong hai tháng vừa qua số tiền vốn từ Trung Quốc chạy ra nước ngoài lên tới hàng trăm tỷ đô la mỗi tháng. Nếu Bắc Kinh phải cắt lãi suất lần nữa để kích thích người ta mua cổ phiếu, trong khi lãi suất ở Mỹ tăng, thì càng nhiều người muốn “gánh vàng đi đổ sông Bô (Potomac)!”

User avatar
VuPhong
Posts: 2923
Joined: Wed Dec 01, 2004 4:28 pm

Post by VuPhong »

Vì sao Trung Quốc lại là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của chính mình?

Phạm Nguyên Trường dịch
Kerry Brown


Lãnh đạo Trung Quốc coi ổn định là quan trọng nhất – và chính Trung Quốc là đất nước bất ổn đến mức không thể nào dự đoán được.

Image
Chủ tịch Tập Cận Bình duyệt binh trong đánh dấu 70 năm Nhật Bản đầu hàn kết thúc Thế chiến Thứ hai. Ảnh: Wang Zhao/Pool Photo/AP
Với tất cả sự phức tạp của quan hệ tương tác của Trung Quốc với thế giới bên ngoài, sau khi nước này phát triển và trở thành tay chơi lớn về mặt địa chính trị và kinh tế lớn trong ba thập kỷ qua, những nguyên tắc cơ bản mà họ dựa vào khá đơn giản và đủ độ tin cậy. Từ thời Đặng Tiểu Bình, Trung Quốc đã tìm được một tiêu chí quan trọng nhất trong các đối tác chính của nó, dù đấy có là Hoa Kỳ, EU, Nga hoặc các nước láng giềng của Trung Quốc thì cũng thế – đó là tính ổn định và có thể dự đoán được. Nhưng não trạng của các nhà lãnh đạo Trung Quốc là não trạng của nạn nhân; họ coi Trung Quốc là đất nước dễ bị tổn thương, đấy là do thời gian bị mất mát trong “thế kỷ bị sỉ nhục” và sử dụng thời khắc hiện này nhằm khắc phục sự bất công của lịch sử hiện đại. Cơ hội chiến lược kéo dài hai thập kỷ mà Giang Trạch Dân nói tới vào năm 2000, hiện nay đã đi được ba phần tư đoạn đường, chính là nhắc đến quá trình khắc phục này.

Về mặt lý thuyết, kết thúc giai đoạn này đã không còn bao xa. Đến năm 2021, Trung Quốc sẽ tung ra mục tiêu một trăm năm đầu tiên của mình: trở thành quốc gia “tương đối thịnh vượng”. Điều đó ít nhất là không trệch khỏi tầm nhìn của Đặng Tiểu Bình trong những năm đầu thập niên 1980, đúng vào giai đoạn khởi đầu của việc xoay trục mang tính sử thi của Trung Quốc, tức là trở lại với thế giới sau ba thập kỷ bất hòa và cách ly. Cuốn tiểu sử nhà cựu lãnh đạo tối cao của Trung Quốc do Andrei Pantsov và Stephen Levine chấp bút thể hiện rõ, đấy phần lớn là những tiêu chí đã được Đặng đưa ra – dù thu nhập bình quân đầu người mà người ta kỳ vọng thấp hơn hẳn. Hiện nay tầm nhìn của Đặng vẫn giữ thế thượng phong, mặc dù có những tuyên bố nói rằng Tập Cận Bình có quyền lực như Đặng hay hơn Đặng.

Đặng cũng tạo dựng được mối quan hệ hợp tác rộng lớn hơn giữa Trung Quốc với thế giới bên ngoài. Dưới sự lãnh đạo của Đặng, sự hòa giải với Mỹ đã chuyển thành quan hệ ngoại giao đầy đủ vào năm 1979. Trong những năm 1980 và 1990, Trung Quốc hầu như không sử dụng quyền phủ quyết ở Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Chiến tranh với Việt Nam trong năm 1979 và những cuộc đụng độ kéo dài trong năm năm sau đó là những hành động quân sự thực sự cuối cùng mà Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc chứng kiến. Sau đó là cuộc nổi dậy năm 1989 và vụ đàn áp đầy bạo lực, nhưng về tổng thể, từ những năm 1980 Trung Quốc là đất nước hòa bình, và là lực lượng hội nhập và hợp tác. Nước này mới lớn tiếng đe dọa, chứ chưa ra tay với ai.

Phần thưởng cho cách hành xử đó là sự phát triển kinh tế tốt đẹp mà nước này đã đạt được, ít nhất là cho đến thời gian gần đây. Trung Quốc đã giàu lên và có nhiều ảnh hưởng hơn, nước này đang thực hiện nghệ thuật quân sự của Tôn Tử, rằng chiến thắng trên chiến trường mà không phải động đến một ngón tay. Nước này để cho tàu bè chở hàng hóa và tiền bạc đi qua để làm lợi cho mình, không cần hạm đội và những cuộc tấn công quân sự mà vẫn chinh phục được thế giới.

May là quá trình này diễn ra trong môi trường bên ngoài ổn định và thân thiện. Mặc dù có những trục trặc, từ khủng hoảng tài chính châu Á năm 1998 tới cuộc khủng hoảng toàn cầu xảy ra gần một thập kỷ sau đó, nói chung, từ các thị trường quan trọng nhất của nước này như Mỹ và EU cho các đối tác trong khu vực chính là Nhật Bản và Hàn Quốc, Trung Quốc đã gặp những hệ thống chính trị ổn định, thách thức lớn là thay đổi chính quyền chứ không phải là thay đổi hệ thống chính trị. Trớ trêu là, tuy là chế độ phi dân chủ nhưng Trung Quốc thu được lợi ích to lớn từ các chế độ dân chủ nằm xung quanh nước này, các nước dân chủ là những đối tác kinh tế đáng tin cậy và quan trọng nhất của Trung Quốc, dù nước này đang tìm kiếm những thị trường mới ở châu Phi và châu Mỹ Latin. Trung Quốc đã lợi dụng chế độ pháp quyền và và ổn định của những đối tác của mình. Đất nước này đã ăn bám vào hệ thống mà ở trong nước Bắc Kinh tuyên bố không phù hợp và không thích hợp với hoàn cảnh của nước mình.

Sự kiện khủng khiếp nhất là nguồn gốc lớn nhất làm cho Trung Quốc trở thành không dự đoán được lại là chính nước này. Những nhà hoạch định chính sách ở Mỹ, Anh, Úc, và hầu hết các nước dân chủ khác biết một cách gần đúng kiểu hệ thống chính trị và kinh tế nào có nhiều khả năng giữ thế thượng phong trong nước của họ trong vòng 2, 3 thập kỷ tới. Dù tất cả những câu chuyện về các nhà lãnh đạo Trung Quốc đều nói rằng họ có thể tư duy dài hạn, trong khi các chế độ dân chủ dân cử có thể không làm được như thế, đây chỉ là một nửa câu chuyện. Các nhà hoạch định chính sách ở các nước dân chủ không phải suy nghĩ quá nhiều về nhiều vấn đề lớn mà những đối tác của họ ở Trung Quốc phải làm – như xây dựng pháp luật, hệ thống thuế khóa và những nguyên tắc cơ bản của quản trị – chủ yếu là do hệ thống của họ có đủ khả năng dự báo vốn có, cho nên họ không phải lo lắng quá mức về những vấn đề này. Thay vào đó, họ phải giải quyết những vấn đề nhỏ hơn, diễn ra hàng ngày. Đây không phải là mặt yếu mà là món hàng xa xỉ phẩm – một món hàng mà người Trung Quốc sẽ rất thích.

Đối với Trung Quốc, sẽ là một người dũng cảm – dù ở trong hay ngoài nước – nếu dám viết một bài tiểu luận dự đoán hệ thống chính trị nào sẽ giữ thế thượng phong trong thập kỷ tới, chứ chưa nói tới hai hoặc ba thập kỷ. Điều này không có nghĩa là bắt buộc chấp nhận chế độ dân chủ đa đảng. Thay vào đó, đấy là công nhận rằng, các chính trị gia ở Trung Quốc nói về nhu cầu cải cách hầu như mỗi ngày, họ nói thường xuyên hơn và nhiệt tình hơn các đối tác phương Tây. Các nhà lãnh đạo của Trung Quốc biết rằng hệ thống của họ cần có những thay đổi căn bản, thậm chí ngay cả khi họ không có kế hoạch chi tiết rõ ràng về mục tiêu và những biện pháp để đạt mục tiêu đó. Nền chính trị ở Trung Quốc là nguyên nhân sâu xa của tính không dự đoán được ở trong nước và là trung tâm của nhu cầu về việc có càng ít rắc rối ở nước ngoài thì càng tốt.

Đương nhiên là, có những vấn đề có hiệu ứng phụ, như những năm gần đây đã cho thấy, đặc biệt là ở Biển Đông. Nhưng ở trong nước, nguyên tắc có tính mệnh lệnh là cái gọi là “tính quyết đoán” của Trung Quốc trong khu vực của mình, và điều này, theo một nghĩa nào đó chỉ đơn giản là xuất khẩu những vấn đề ở trong nước ra ngoài biên giới của nó, là đây là lời giải thích có sức thuyết phục nhất cho những hành vi dường như là tự chuốc lấy thất bại .

Điểm mấu chốt là việc Trung Quốc đầu tư và tham gia vào lãnh thổ nước khác như Úc hay Mỹ là Trung Quốc tìm kiếm sự ổn định gián tiếp, chứ không phải là bằng chứng chứng tỏ rằng Bắc Kinh đang cố gắng thay đổi thế giới cho phù hợp với hệ thống của mình. Nếu thế giới cư xử và được xây dựng hệt như Trung Quốc thì đấy sẽ thực sự là cơn ác mộng khủng khiếp nhất của Trung Quốc, còn khủng khiếp hơn là chúng ta có thể tưởng tượng.

______

Kerry Brown là trưởng ban nghiên cứu Trung Quốc và mạng lưới cố vấn của châu Âu (ECRAN) do EU tài trợ và là cộng tác viên của Chatham House, London. Ông là tác giả cuốn “The New Emperors”, cuốn sách viết về ban lãnh đạo của nước Trung Hoa hiện đại.

User avatar
ThienThu
Posts: 757
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:38 am

Post by ThienThu »

Aylan Kurdi ơi: Em đã chết cho mọi người được sống!
Nam Lộc

Hình ảnh của em bé thuyền nhân tỵ nạn Syrian 3 tuổi tên là Aylan Kurdi nằm gục mặt chết trên bãi cát khi xác của em trôi dạt
vào bờ biển Bodrum, Thổ Nhĩ Kỳ tuần qua đã làm thức tỉnh lương tâm nhân loại trong lúc các con đường dẫn những người phải bỏ nước ra đi
vì chế độ độc tài và diệt chủng để tìm đến một nơi an toàn tại các quốc gia Âu Châu lánh nạn
đã bị chặn lại và cánh cửa nhân đạo hầu như đều khép kín.

Image
Một nghệ sĩ Ấn Ðộ làm mô hình cát em bé người Syria bị chết trôi dạt vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ. (Hình minh họa: Asit Kumar/AFP/Getty Images)



Aylan đã chết đuối cùng với người anh lớn hơn em 2 tuổi và người mẹ của mình cùng hàng chục người khác khi chiếc xuồng của họ bị chìm đắm trên vùng biển Bắc Ðại Tây Dương. Hoàn cảnh của hàng trăm ngàn người tỵ nạn từ các nước Iraq, Afghanistan và đặc biệt là từ Syria tràn vào Âu Châu bằng đường bộ hay bằng đường thuyền cùng với sự xua đuổi của những người lính Hung Gia Lợi trong tuần qua đã gợi lại cho đồng bào tỵ nạn Việt Nam chúng ta cơn ác mộng vượt biên 30 năm về trước. Âm thanh của bài hát Xác Em Nay Ở Phương Nào hoặc câu “tự do ơi, tự do, em đổi bằng thân xác...” bỗng dưng vọng lại bên tai như những Lời Kinh Ðêm quen thuộc mà thuyền nhân đã cầu nguyện thuở nào! Thì ra người Việt chúng ta đã trải qua những nỗi gian truân đó từ lâu, khủng khiếp hơn, khổ đau hơn và bất hạnh hơn. Chỉ khác là vào thời điểm đó phương tiện truyền thông chưa phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng như hiện nay để thế giới biết rằng có đến gần nửa triệu người VN đã chết trên biển Ðông như số phận cùng hoàn cảnh của cậu bé Aylan.

Nhưng cũng chính vì sự tiến bộ kỹ thuật bây giờ mà hình ảnh của cậu bé Aylan chết tức tưởi, oan khiên trên biển cả, đã như một phép lạ từ từ mở rộng những cánh cửa đã bị loài người ích kỷ khóa lại từ suốt gần một tuần qua. Chính phủ Hung Gia Lợi đã phải làm những hành động tối thiểu, dù không tiếp nhận, nhưng cũng đã cung cấp xe bus để đưa người tỵ nạn đến biên giới của những quốc gia nhân đạo hơn, Phần Lan đã mở rộng cánh tay, Ðức đã quyết định tiếp nhận và sẵn sàng cung cấp công ăn, việc làm cho hàng trăm ngàn người tỵ nạn, sau đó là Áo, Anh, Bỉ, Pháp, v.v... và dĩ nhiên là cả Hoa Kỳ, đất nước được xem là có một trách nhiệm lớn trong cuộc khủng hoảng ở Trung Ðông, đặc biệt là chính sách bị nhiều người chỉ trích là “bất nhất” của chính phủ Obama từ suốt 3 năm qua về vấn đề Syria cùng nhà lãnh đạo độc tài và tham quyền, cố vị: Bashar ai-Assad.

Nhưng tình hình đã có phần nào thay đổi theo chiều hướng tích cực trong mấy ngày qua, phải chăng nỗi bất hạnh của Aylan Kurdi cùng gia đình em đã được đổi lại bằng sự may mắn và hạnh phúc của hàng trăm ngàn nạn nhân của bọn độc tài, khủng bố, đã quyết định vượt biên và có thể cũng sẽ là niềm hy vọng cho hàng triệu người khác đang sống nhục nhằn trong các trại tỵ nạn ở Lebanese, tại Thổ Nhĩ Kỳ hay ngay tại đất nước Syria hiện nay? Các nhà lãnh đạo ở trên thế giới kể cả tay cựu trùm KGB, Vladimir Putin, đang là tổng thống nước Nga dù cứng đầu đến đâu cũng phải quyết định ngồi xuống để tìm ra một giải pháp hầu giải quyết cơn khủng hoảng trầm trọng này hầu cho người dân Syria có một cuộc sống ổn định ngay trên quê hương của họ thay vì phải mang đời lưu vong. Và nếu đúng như vậy thì Aylan Kurdi ơi, em đã chết cho mọi người được sống!

Nhìn hình ảnh bé Aylan nằm chết như mơ, như thiên thần đang gục đầu ngủ yên trên bãi cát, nó cũng thảm thương như thân phận của những đứa trẻ VN bất hạnh thuở nào, lòng tôi trùng xuống một nỗi buồn vô hạn. Trước đó một tuần, khi xem được đoạn phim chiếu cảnh người đàn ông Syrian gò lưng đi bán từng cây bút nắp xanh để kiếm được miếng ăn cho đứa con gái nằm ngủ trên vai trong cơn nóng thiêu đốt trên đường phố ở Beirut, bỗng dưng tôi nhớ lại tình cảnh của hơn 2000 “Người Việt Còn Lại” ở Phi Luật Tân vào những năm đầu thập niên 2000, những người đã bị thế giới lãng quên qua gần 20 năm trời khổ hạnh với mẫu “căn cước” được đóng dấu là dân “vô tổ quốc” (Stateless)! Và ở đó, tôi cũng đã thấy hình ảnh người đàn ông tỵ nạn VN cõng trên vai đứa con gái chưa đầy 2 tuổi trong cơn nóng thiêu đốt ở Palawan để bán từng đôi dép cho những người dân làng hầu may ra mua được cho con mình một khúc bánh mì hay một bình sữa lạnh!

Tiếng reo của chuông điện thoại làm tôi tỉnh lại, sờ lên mắt, không biết là mình đã khóc từ lúc nào, và tự nhủ lòng, có lẽ mình sẽ phải làm một điều gì để cùng đồng hương chúng ta xoa dịu được một phần nào vết thương đang nhỏ máu của nhân loại dù chỉ là một điều nhỏ nhoi như hạt cát trong sa mạc.

Bên kia đầu dây là giọng nói của một người bạn trẻ tên là James ở Toronto, Canada, em ngỏ ý muốn mời tôi làm MC cho một buổi “sinh hoạt” tại đây, sau khi thỏa thuận thù lao xong, tôi hỏi em về nội dung chương trình, lúc đó James mới cho biết mục đích của ngày sinh hoạt này là để phát động chiến dịch gây quỹ cho dự án có tên là “Lifeline Syria Project” ngõ hầu tìm phương tiện để bảo trợ cho các gia đình người tỵ nạn Syrian đang phải đối phó với những nỗi khốn cùng trên đường tìm tự do! Lòng tôi chợt bùng sáng lên như một kẻ đang đói khát được người ta ban phát cho một khúc bánh mì cùng ly nước lạnh! Tôi hân hoan nói với James, em ơi, tôi sẵn sàng nhận lời tham dự và xin phép cho tôi được đóng góp toàn bộ số tiền thù lao của tôi vào buổi gây quỹ trong ngày hôm đó để tiếp tay với ban tổ chức. James thoạt đầu hơi ngạc nhiên và ngần ngại, nhưng sau đôi lời trao đổi em đã hiểu lòng tôi và vui vẻ đồng ý. Tuy nhiên khi James đề cập đến thời điểm của buổi tổ chức sẽ rơi vào một ngày cuối tuần trong Tháng Mười sắp tới thì tôi vô cùng lo lắng và hơi thất vọng, vì lịch trình diễn đã đầy ắp, không còn rảnh một weekend nào trong Tháng Mười cả, đấy là chưa kể đến chuyến đi Úc Châu kéo dài hơn một tuần lễ vào giữa Tháng Mười, 2015! Nhưng khi mở lịch ra xem, thì tôi thấy còn trống một ngày Thứ Bẩy duy nhất đó là October 3rd, nhưng đã dự định mua vé để bay sang Washington DC cho một event khác diễn ra vào buổi trưa Chủ Nhật October 4th. Và như một “phép lạ,” James cho tôi biết, vì tính cách cấp bách của sự việc cho nên BTC đã quyết định tổ chức vào ngày Thứ Bảy, mùng 3 Tháng Mười, 2015. Nghe em nói lòng tôi như mở hội, như vậy thì xem như “giấc mơ” ấp ủ “được làm một điều gì để cùng đồng hương chúng ta xoa dịu phần nào vết thương đang nhỏ máu của nhân loại” đã thành sự thật. Hai anh em chúng tôi cùng vui, và sau khi James email cho tôi thêm chi tiết cùng tấm ảnh chúng tôi chụp chung với nhau trong lần tiếp đón và bảo trợ những người Việt tỵ nạn cuối cùng từ Thái Lan đến Vancouver vài tháng trước đây, tôi mới biết đó là James Nguyễn, cựu chủ tịch Hội Người Việt Toronto, và buổi gây quỹ lần này sẽ phối hợp cùng tổ chức VOICE Canada và một số cơ quan, đoàn thể người Việt tại đất nước giầu lòng nhân đạo này. VOICE Canada cũng không xa lạ gì với tôi, vì ngoài nỗ lực tranh đấu, vận động cũng như định cư những người Việt tỵ nạn muộn màng, vào Tháng Tư 2015 vừa qua, họ còn gây quỹ được $100 ngàn để tiếp tay cho Hội HO Cứu Trợ Thương Phế Binh VNCH và Quả Phụ Tử Sĩ do bà Hạnh Nhơn làm chủ tịch.

Tôi tin rằng điều may mắn được góp mặt cùng “Lifeline Syria Project” lần này là do sự sắp đặt của Thượng Ðế như một “ơn gọi” của Bề Trên, của Trời Phật dù lời cầu xin của tôi chỉ mới là những tiếng nhủ thầm trong bụng. Tôi đem chuyện này chia sẻ với các gia đình tỵ nạn VN từ Palawan, Phi Luật Tân, những người cũng đã từng bị thế giời lãng quên. Họ đang tổ chức ngày “Tri Ân và Hội Ngộ” để kỷ niệm 10 năm định cư, đồng thời để cảm tạ những người đã giúp họ được làm lại cuộc đời nơi đất khách. Trong đêm họp mặt gọi là “tiền hội ngộ,” Thứ Bảy, mùng 5 Tháng Chín, 2015 vừa qua, sau khi nghe tôi trình bày có người đã rơi nước mắt, hồi tưởng lại thân phận mình và so sánh với hoàn cảnh của người tỵ nạn Syrian cùng thân xác của vị “Thánh Tí Hon” tên là Aylan Kurdi, đã hy sinh cuộc đời để cho đồng bào mình được cứu sống! Và kết quả là trong đêm họp mặt ngày hôm sau, mùng 6 Tháng Chín, trước sự hiện diện của các quan khách cùng ân nhân Việt, Mỹ và đặc biệt là đại diện của chính phủ Phi Luật Tân, quốc gia duy nhất đã không trục xuất thuyền nhân VN. Luật Sư Trịnh Hội đã đại diện các gia đình tỵ nạn VN từ Palawan chính thức loan báo rằng những thuyền nhân người Việt muộn màng này sẽ bảo lãnh 4 gia đình người tỵ nạn Syrian, và họ nhờ tôi liên lạc với các cơ quan thiện nguyện để bắt đầu thủ tục định cư tại thành phố Houston. Anh Trung Ðình Nguyễn, trưởng ban tổ chức đã cho các ân nhân và quan khách Việt, Mỹ cũng như Phi Luật Tân hiện diện trong ngày hôm đó biết rằng: “Cách duy nhất mà chúng tôi có thể làm được bây giờ để trả ơn quý vị là đưa tay ra để cứu giúp những người bất hạnh khác, như quý vị đã cứu giúp chúng tôi”! Thật là một hành động dấn thân mang đầy ý nghĩa.

Nhân đây chúng tôi cũng xin cám ơn quý vị đồng hương ở khắp mọi nơi đã đáp lại lời kêu gọi của chúng tôi để đóng góp vào quỹ “Thank You America” của cơ quan thiện nguyện USCC hầu giúp đỡ và tiếp tay cho tổ chức đã từng bảo trợ chúng ta để định cư những người tỵ nạn Syrian bất hạnh nói trên. Tính đến cuối Tháng Bảy, 2015, sau 4 tháng phát động, hội USCCLA cho biết là họ đã nhận được khoảng 60 ngàn dollars từ cộng đồng người Việt, và cơ quan này cũng đã gởi thơ cám ơn đến từng quý vị ân nhân đã đóng góp.

Qua nghĩa cử cao đẹp trước hết là của “Lifeline Syrian Project” ở Toronto, Canada, theo sau là anh chị em trong nhóm “Người Việt Còn Lại” tại Houston, Texas, chúng tôi mong mỏi sẽ có những tổ chức hoặc các hội đoàn hay cá nhân ở những địa phương khác cũng sẽ tiếp tay đóng góp, đón nhận hoặc bảo trợ các gia đình tỵ nạn đang sống vất vưởng tại các trại tỵ nạn ở nhiều nơi trên thế giới. Nếu muốn tìm hiểu thêm chi tiết hoặc tin tức, xin quý vị cứ email về địa chỉ của chúng tôi là: namloc@sbtn.tv

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Phẫn nộ cay đắng không phải của riêng ai
Bùi Tín
(Nguồn: VOA)

Thế là rõ. Bộ Chính Trị Ðảng CS Việt Nam đã quyết định không trả tự do cho tù nhân chính trị, trái với hy vọng của xã hội,
trái với mong chờ của các công dân yêu nước, các chiến sĩ đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, trái với nguyện vọng của biết bao thân nhân,
vợ chồng con cháu, bạn bè của hàng trăm tù nhân chính trị.
Image
(Hình minh họa: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)



Những tù nhân chính trị kiên cường đấu tranh cho tự do của toàn dân bị chính quyền toàn trị chụp cho cái mũ “âm mưu lật đổ chế độ,” “đe dọa an ninh quốc gia.” Họ là những người con ưu tú, kiên cường của Tổ quốc, những công dân dũng cảm yêu nước, thương dân, quyết dấn thân cho quốc gia, dân tộc và nhân dân, đang bị giam cầm, đầy đọa bởi một chính quyền toàn trị thân Trung Quốc và tham nhũng. Họ vẫn bị đày đọa.

Mấy tháng qua đã có một luồng nhận thức lạc quan đối với thời cuộc. Nhiều người cho rằng cuối cùng Bộ Chính Trị đã tỉnh ra đôi chút, đã có một sự chuyển hướng chính trị quan trọng, từ bỏ lập trường phụ thuộc Trung Quốc bành trướng, xích lại gần hơn với Hoa Kỳ và các nước dân chủ. Có nhà bình luận trong nước nhận định rằng đây là một chính sách “chuyển trục về chiến lược chính trị-ngoại giao-quốc phòng toàn diện ngoạn mục, rất sáng suốt và quả đoán,” tuy có chậm hàng chục năm, lẽ ra phải được quyết định từ đầu năm 1979 khi cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung nổ ra, khi ông anh lớn trở mặt thành quỷ dữ.

Trên mạng Chuyển Hóa, nhà bình luận Ðinh Hoàng Thắng còn giật tít: “Bước tiến dũng mãnh của lịch sử”; bài báo nhắc đến nhận định lạc quan của một nhà nghiên cứu hàng đầu Hoàng Anh Tuấn ở Học Viện Ngoại Giao Hà Nội, cho đây là “chuyển biến cơ bản trong mối quan hệ Việt-Mỹ,” rằng “mười, mười lăm năm sau sẽ còn nhớ đến thời kỳ chuyển hóa rất đẹp, rất hay này.” Cán bộ ngoại giao Bùi Thế Giang, từng là đại sứ VN ở Liên Hiệp Quốc, cũng chung một nhận định cho rằng quan hệ thân thiện Việt-Mỹ từ thù thành bạn là một sự phát triển rất tốt đẹp cho tương lai nước ta. Hãy nhớ lời Phó Tổng Thống Joe Biden nói với Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng: “Chưa bao giờ chúng tôi mong thắt chặt quan hệ với Việt Nam như lúc này.”

Quả thật, cần “dứt tình” với một người bạn tâm giao cũ khi chính họ gây sự, đem đại quân sang tàn sát sáu tỉnh biên giới, và nên bắt tay thân thiện với kẻ thù cũ nhưng nay kẻ thù cũ ấy lại chủ động dang tay yêu cầu kết bạn chân thành vì quyền lợi thiết thân của cả hai nước, của khu vực và toàn thế giới. Tận dụng được cơ hội hiếm hoi này là mệnh lệnh của tổ quốc, của dân tộc, là nguyện vọng của toàn dân.

Trung Quốc bành trướng còn cho giàn khoan HD-981 xâm phạm vùng biển Việt Nam, giết hại ngư dân Việt Nam, chính họ đã tạo nên cơ hội đẩy Việt Nam vào thế phải liên minh mới với những bạn tốt đáng tin cậy. Cho nên việc bẻ lái chiến lược của Bộ Chính Trị như trên mà mọi người mong ngóng chờ đợi là điều rất tự nhiên, gần như là tất yếu. Một quyết định chiến lược sáng suốt, có trách nhiệm, sẽ được nhân dân đánh giá cao.

Vậy mà có vẻ như cuộc bẻ lái chiến lược ấy đã không xảy ra. Chiến lược Thoát Trung không hề có trong cơ quan lãnh đạo Ðảng CS như mọi người mong đợi. Chủ tịch nước vẫn sang Bắc Kinh dự lễ của họ, trong khi chính đồng bào ruột thịt của họ ở Ðài Loan lại tẩy chay.

Không một tù nhân chính trị nào được trả tự do trong đợt Ðại Xá cho hơn 18,000 tù nhân. Chỉ toàn là kẻ tội phạm viên chức, đảng viên tham nhũng, kẻ giết người, xì ke ma túy, những kẻ đã chạy án, hối lộ cho ngành công an phụ trách quản lý các trại giam. Một mạng tự do cho rằng mỗi kẻ tội phạm hình sự phải nộp một triệu đồng để được ra tù lần này.

Không phải chỉ có thân nhân các tù nhân chính trị thất vọng cay đắng, mà một số nhà binh luận trong và ngoài nước cũng nổi giận, có người chửi đổng: “Không ăn thua gì, Lú vẫn hoàn Lú.” Ngay trong đảng CS, không hiếm trí thức cảm thấy như bị đảng phản bội, không dám bẻ lái quặt hình chữ U, vẫn lao vào bụi rậm, từ bỏ lái vào Ðại lộ Dân chủ của thời đại, bỏ qua một thời cơ cực hiếm.

Trong những người thất vọng, có lẽ cay đắng hàng đầu không thể thiếu ba nhân vật tôi nói đến ở đầu bài, nhà bình luận Ðinh Hoàng Thắng, hai nhà ngoại giao Hoàng Anh Tuấn và Bùi Thế Giang, là những đảng viên cấp cao. “Bước chuyển biến dũng mãnh của lịch sử “ chỉ còn là giấc mơ hão huyền. Họ sẽ làm gì khi bị đảng phản bội như thế? Họ có dám gia nhập hàng ngũ đối lập của xã hội dân sự, hay sẽ cúi đầu cam chịu do bị ràng buộc bởi chiếc ghế quyền lực và cuốn sổ hưu, cam chịu trong im lặng và nuốt đắng cay?

User avatar
dodom
Posts: 2729
Joined: Fri Nov 28, 2008 8:38 pm

Post by dodom »

Image

Hệ Thống Phi Giáo Dục Tại Việt Nam

Trần Nhật Kim
1

Sau khi chiếm đoạt chính quyền quốc gia vào năm 1945, ông Hồ và đảng CSVN theo chân Bắc Kinh, áp đặt tại miền Bắc những chính sách như Cải cách Ruộng đất và Trăm hoa đua nở, lấy học thuyết Mác- Lê làm môn học bắt buộc cho các chương trình giáo dục, đã phá bỏ toàn bộ văn hóa dân tộc.

Sau ngày 30-4-1975, câu nói tự hào là “Đỉnh cao trí tuệ loài người” được thổi phồng, khiến “bên thắng cuộc” đã ngủ say trong chiến thắng. Đảng CSVN càng sai lầm khi rập khuôn chính sách hà khắc đã thực hiện tại miền Bắc sau năm 1954 vào miền Nam. Đã trù dập, tù đầy các chuyên viên mọi ngành, hủy hoại nền văn hóa giáo dục, học thuật tiến bộ sau nhiều thập kỷ xây dựng của miền Nam, khiến đất nước tụt hậu, đói nghèo.

Việt Nam là một dân tộc hiếu học, nhưng vì đi theo chủ thuyết bạo lực cộng sản, không tôn trọng ước vọng của toàn dân, khiến tình trạng giáo dục tại Việt Nam ngày càng xuống cấp. Hệ thống giáo dục khủng hoảng không phương cứu chữa, nếu vẫn tiếp tục đi theo đường lối hiện tại.



Thực trạng giáo dục tại Việt Nam


Theo thống kê của Bộ Khoa học-Công nghệ Việt Nam, cả nước có 24.300 Tiến sĩ và hơn 100.000 Thạc sĩ. Số Giáo sư, Tiến sĩ của Việt Nam đạt mức nhiều nhất Đông Nam Á. Nhưng khi so sánh với các nước trong khu vực về số bằng sáng chế riêng cho năm 2011, Việt Nam đứng ở vị trí thấp nhất. Chúng ta nhận ra thành tích này qua kết quả sau:

– Việt Nam với dân số 90 triệu người: không có bằng sáng chế.

– Singapore với 4, 8 triệu người : có 647 bằng sáng chế.

– Malaysia với 27.9 triệu người : có 161 bằng sáng chế.

– Thái Lan với 68.1 triệu người : có 53 bằng sáng chế.

– Philippine với 95.8 triệu người : có 27 bằng sáng chế.

Bảng xếp hạng (QS) về học vấn năm 2015 của các trường đại học danh tiếng (World University Ranking) tại Á Châu, trường đại học số 1 của Việt Nam (Đại học Quốc gia Hà Nội) được xếp hạng 191/200. Nhưng theo bảng xếp hạng về số bài báo khoa học công bố (Scimago), đại học Việt Nam đứng vị trí 1.895 trong số các trường đại học trên thế giới.

Trong số Tiến sĩ nêu trên, có tới 70 % chỉ làm các chức vụ hành chính và quản lý, nên số 9.000 Giáo sư Tiến sĩ và Phó Tiến sĩ không đủ đáp ứng nhu cầu giảng dạy vì số sinh viên gia tăng quá nhanh. Theo Giáo sư Martin Hayden thuộc đại học Southern Cross (Úc), các đại học Việt Nam chủ yếu tập trung vào giảng dậy, nên chưa đặt trọng tâm vào nghiên cứu. Trong số này có nhiều giảng viên chưa có trình độ Tiến sĩ.

Chưa có sự kiểm tra nào của nhà nước Việt Nam về nguồn gốc các bằng Tiến sĩ cũng như khả năng thực sự của các vị Tiến sĩ này. Liệu có bao nhiêu vị ở vào trường hợp của Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Ân, Giám đốc sở Văn hóa-Thể thao du lịch tỉnh Phú thọ, như bản tin trên báo Tiếp Thị đăng ngày 16-6-2010. Ông Ân tốt nghiệp Tiến sĩ tại trường đại học “Nam Thái Bình Dương”, cho hay ông đã sang Mỹ hai lần, mỗi lần một tuần, được nghe giảng tiếng Anh qua phiên dịch sang tiếng Việt, khi bảo vệ luận án cũng có người dịch toàn bộ sang tiếng Việt cho ông. Được biết tỉnh Phú Thọ đã trả kinh phí khi ông Ân đi Mỹ lấy bằng Tiến sĩ. Liệu có bao nhiêu Tiến sĩ thuộc loại này đang làm công việc giảng dạy tại các trường đại học?

Tiến sĩ Mark A. Ashwill, nguyên Giám đốc Viện Giáo dục Quốc tế Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã cảnh báo về chất lượng thực sự của những trường đại học Mỹ đang có quan hệ với Việt Nam. Theo ông Ashwill, một số trường đại học của Mỹ, dù được kiểm chứng chất lượng hay không, đã dùng nhiều cách để quảng cáo không ngoài mục tiêu nhắm vào lợi nhuận hơn là thực chất. Trong danh sách 21 trường đại học không được Mỹ công nhận, có Đại học Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific University) thuộc tiểu bang Delaware, nơi ông Ân nhận bằng tiến sĩ.

Trước tình trạng giáo dục hiện tại, giáo sư Nguyễn Khắc Mai, Giám đốc Trung tâm Minh triết Việt Nam ở Hà Nội đã nhận định:

“Do triết lý giáo dục của Việt Nam hiện nay không được xác định tốt nên người học, người dậy và cả người quản lý đều lúng túng. Vì thế không thúc đẩy được sự hình thành những tài năng giáo dục cho thời kỳ mới, không giúp nẩy nở những những nhân tố tích cực cho dân tộc, kể cả tâm thức của người học cũng như tâm thế của người dạy.”

Giáo Sư Mai cho rằng: tư duy và tư tưởng của những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay rất nông cạn, vì thế họ suy nghĩ hời hợt, bề ngoài. Họ rất thích áp đặt, không thích cãi lại, để cho mỗi học sinh được tự do, để trưởng thành một con người.

Ông cũng nhấn mạnh: “cái lò đào tạo ra người quản lý là trường Nguyễn Ái Quốc, trường Đảng, thì đó là những nơi xơ cứng nhất, kiến thức hẹp nhất.”

Nhận thức của tuổi trẻ:

Trong buổi ra mắt sách của nhóm Cánh Buồm về đường lối giáo dục tại Việt Nam, em Vũ Thạch Tường Minh học sinh trường Amsterdam tại Hà Nội, 14 tuổi, đã phát biểu:

“Theo con, các vị Bộ trưởng, Thứ trưởng giáo dục không phải là áp dụng cả bộ sách này, mà chỉ áp dụng đường lối của bộ sách này vào giáo dục Việt Nam, bởi vì bây giờ giáo dục Việt Nam con thấy là, con không có tính từ nào khác nên phải dùng tính từ này, là giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy quá ‘thối nát’ rồi. Mà suốt bao nhiêu năm qua các vị cải đi, cải lại, cải tiến, cải lui mà nó không thay đổi được kết quả gì cả. Nên bây giờ con muốn các vị Bộ trưởng, Thứ trưởng hãy thay đổi đường lối giáo dục của Việt Nam, có thể theo đường lối của Cánh Buồm cũng được, các vị có thể thay cả bộ sách giáo khoa cũng được. Các vị có thể nói là mất thời gian, nhưng con thấy thời gian các vị cải tiến, cải lùi còn mất thời gian hơn. Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa mà cần được cách mạng. Đó mới là điều quý vị trong Bộ Giáo dục nên làm.”

Em Vũ Thạch Tường Minh nhận định về giáo dục hiện tại “thối nát”, khiến dư luận báo chí và các mạng xã hội đã phản ảnh những ý kiến trong dư luận quần chúng. Phóng viên Chân Như của đài Á Châu Tự do (RFA) đã thực hiện một cuộc trao đổi với các em Trường Sơn, Tiến Toàn và Phan Duy, để biết ý kiến của các em về nhận định của em Tường Minh, đối với nền giáo dục hiện nay tại Việt Nam.

Sau buổi thảo luận, có thể tóm lược những nhận xét của các em trên như sau:

– Giáo dục của Việt Nam hiện nay không thể cải cách được nữa, vì quá thối nát.

– Giáo dục Việt Nam cần có một định hướng khác chứ không thể là định hướng XHCN, vì nó không phù hợp. Cần một định hướng mà mỗi cá nhân có được sự phát triển.

– Nền giáo dục Việt Nam hiện nay khó có thể cải cách, vì sau nhiều năm bị kiềm chế làm cho tha hóa, không có cách nào có thể sửa chữa hay cải tiến.

– Sinh viên, học sinh cần có tiếng nói, nhưng điều này rất khó trong một đất nước không có tự do ngôn luận và rất dễ bị ở tù.

– Nền giáo dục Việt Nam không thúc đẩy sự phản biện, không cổ súy quyền tự do ngôn luận, hơn nữa phải tuyệt đối nghe lời thầy, cô giáo, khiến giáo dục trở thành “giáo dục định hướng”.

– Khi tư duy được tự do phát triển, khả năng ngôn luận được tự do, những tư tưởng sẽ được phát minh rất nhiều.

(Nguồn: Phóng viên Chân Như, đài RFA)

Cải cách phi giáo dục tại Việt Nam:

Tình trạng Văn hóa-Giáo dục tại Việt Nam ngày càng tha hóa, vì luật pháp đã tước bỏ quyền tự do phát biểu của người dân, trong khi Bộ giáo dục thiếu trách nhiệm về kiểm soát các tài liệu giảng dạy, khiến con em phải hấp thụ một nền học vấn phi giáo dục

Thời gian gần đây, tiến sĩ Phan Quốc Việt, nhà sáng lập nhóm “Tâm Việt Group”, đã cho xuất bản đợt một sách giáo khoa “Thực hành kỹ năng sống cho học sinh lớp 1” mang nội dung dậy cho trẻ em lòng dũng cảm như đi trên thảm ve chai vỡ khi chân không mang giầy. TS. Việt cũng cho biết sẽ tái bản sách này, nhưng nội dung của bài “Bạn An dũng cảm” được thay đổi, thay vì chỉ đi trên mảnh chai vỡ, thầy cô giáo sẽ khuyến khích các em bé nếm “cứt gà” để chứng tỏ tinh thần vượt qua sợ hãi.

Theo nhận định của TS. Việt về chương trình giáo dục hiện tại của Việt Nam: “Giáo trình kỹ năng sống hiện nay làm theo kiểu cũ, tức là gộp kiến thức của Sử, Địa, Giáo dục công dân vào. Đó không phải là kỹ năng sống, đấy không phải sinh tồn. Chúng ta cải cách giáo dục, nhưng nếu làm theo như cũ thì sẽ không có kết quả mới.” Ông Việt cũng nhấn mạnh: “Đây là kỹ năng sinh tồn mà đa số chúng ta chết vì sợ hãi chứ không phải chết vì ngu. Chúng tôi không dậy vệ sinh an toàn, mà chúng tôi dậy dũng cảm.”

Thực ra, nếu muốn cho các em học về lòng dũng cảm, quý vị thầy cô và các em nên tới mấy tỉnh miền Bắc, trải nghiệm bằng cách treo người trên các giây cáp qua sông, hay từng người chui vào túi nhựa để được đưa qua giòng sông nước chấy xiết, vì không có cầu nên cả thầy lẫn trò phải làm công việc nguy hiểm này. Ông Việt và quý vị Tiến sĩ có biết nguyên do tại sao học sinh nghèo và thầy cô giáo hàng ngày sống những giây phút căng thẳng, nguy hiểm đến tính mạng để lớp trẻ được tới trường. Nhà nước bỏ hàng ngàn tỉ tiền thuế của người dân để xây tượng đài, thay vì thực hiện các công trình đáp ứng nhu cầu thiết thực của người dân nghèo. Những thầy cô và các em học sinh này đã chứng tỏ thế nào là dũng cảm, vì từng giây phút đối diện trực tiếp với thực trạng xã hội mới nhận biết được giá trị của cuộc sống.

Cũng trong chiều hướng trên, TS. Lê Anh Sơn, nguyên Phó giám đốc “Tâm Việt Group”, cho rằng: “Đây là một bài tập được nghiên cứu và biên soạn từ chương trình gốc ở nước ngoài…” Không thấy TS. Sơn nêu rõ là tài liệu gốc ở nước nào cũng như đã thử nghiệm các sản phẩm trước khi viết thành sách?

Chắc quý vị cũng nhận ra giáo dục Việt Nam ngày càng tệ hại, không phải những em bé lớp 1 thiếu dũng cảm mà vì cơ chế đang vận hành đã lỗi thời, không còn thích hợp với thời đại dân chủ toàn cầu. Vì không quan tâm tới an toàn vệ sinh, cách “Cải cách giáo dục” của TS. Việt sẽ ảnh hưởng tới tinh thần và thể chất của thế hệ trẻ Việt Nam. Mặc dù các sách này đã bị Bộ Giáo dục, ngày 26-8, yêu cầu nhà xuất bản thu hồi sau thời gian phát hành. Người dân cũng như cộng đồng mạng lên tiếng phản đối, vì các phụ huynh lo ngại trước ảnh hưởng tệ hại cho con em họ do các sách giáo khoa thuộc loại này.

Hướng tới nền giáo dục Nhân bản:

Chúng ta nhận ra tình trạng chậm tiến của Hệ thống Giáo dục tại Việt Nam vì quan niệm thiển cận của giới cầm quyền. Đặt nặng vào bằng cấp, thi cử hơn là hướng dẫn tuổi trẻ biểu hiện tài năng.

Nhà nước định hướng tư tưởng của người dân qua 600 tờ báo, hệ thống truyền thanh và truyền hình dưới sự chỉ đạo của đảng CS, cũng như kiểm soát mọi hành động yêu nước của người dân bằng lực lượng công an và băng đảng trá hình. Báo chí tư nhân bị cấm đoán hoàn toàn, các mạng lưới thông tin bị ngăn chặn, gây trở ngại cho việc truy cập các tài liệu học hỏi quốc tế.

Ông Nguyễn Bắc Sơn, Bộ trưởng Thông tin-Tuyên truyền đã phát biểu: “Việt Nam có Nhân quyền và Tự do báo chí hơn nhiều nước khác.” Trong khi đó, bảng xếp hạng về Tự do báo chí thế giới, Việt Nam đứng ở vị trí 172/180 vào năm 2013, đã tụt xuống hạng 175/180 vào năm 2015. Điều này thể hiện qua hành động nhà nước gia tăng đàn áp, bắt giam các thành phần dân chúng, Bloggers có tiếng nói xây dựng để đất nước phát triển, cũng như bảo vệ chủ quyền trước nạn ngoại xâm.

Để thoát khỏi tình trạng trì trệ này, Việt Nam cần phải có Tự do Ngôn luận, để người dân có cơ hội phát biểu thẳng thắn về mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh xã hội. Tự do ngôn luận không thể giới hạn về bất cứ môi trường, hình thức nào ngay cả những hành động biểu hiện lòng yê nước.

Kết luận


Sau 70 năm miệt mài chạy theo Chủ thuyết không tưởng Cộng sản và Định hướng Xã hội Chủ nghĩa mơ hồ, đảng CSVN lấy học thuyết Mác-Lê và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam, đã hướng Văn hóa Giáo dục Việt Nam xa rời nguồn gốc văn hóa dân tộc, biến con người thành những bộ máy, khiến đất nước không phát triển, xã hội băng hoại.

Đã tới lúc hệ thống giáo dục tại Việt Nam phải hướng tới nền giáo dục nhân bản, lấy dân tộc làm gốc, chiều hướng mà các quốc gia tiến bộ trên thế giới đang theo đuổi. Một nền giáo dục nhằm hướng dẫn mỗi cá nhân biết suy nghĩ độc lập để thoát khỏi tinh thần bị lệ thuộc vào giáo điều, hầu tìm ra những phương cách giải quyết phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Việt Nam đang cần một nền giáo dục với tinh thần khai phóng, mà ở đó nhân cách và khả năng mỗi cá nhân phải được tôn trọng, khuyến khích bầy tỏ suy nghĩ cá nhân để góp sức xây dựng đất nước.

Vì tương lai dân tộc, vì sự hưng thịnh của đất nước, người Việt trong và ngoài nước hãy thúc đẩy xã hội đi theo đường lối giáo dục Nhân bản này.

User avatar
TheLang
Posts: 1977
Joined: Thu Oct 30, 2008 5:43 am

Post by TheLang »

Nhân tố Trung Quốc vẫn tác động đến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam

Trọng Nghĩa

Ngày 15/09/2015, Đảng Cộng sản Việt Nam công bố bản dự thảo báo cáo chính trị để chuẩn bị cho Đại hội Đảng sẽ diễn ra có thể là vào tháng Giêng năm tới 2016. Trong bài phân tích mang tựa đề « Nhân tố Trung Quốc đối với Việt Nam -Vietnam’s China factor» công bố đầu tháng 9/2015, Giáo sư Carlyle Thayer, chuyên gia tại Học viện Quốc phòng Úc đặc biệt ghi nhận ba yếu tố quan trọng đang chi phối công cuộc chuẩn bị Đại hội Đảng tại Việt Nam : Biển Đông, quan hệ với Trung Quốc và vấn đề chọn ai làm Tổng bí thư.

Nhận xét đầu tiên của Giáo sư Carl Thayer là ba yếu tố nêu trên đang gây tranh cãi trong nội bộ lãnh đạo Việt Nam và có thể khiến Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam bị dời lại :

« Đảng Cộng sản Việt Nam (VCP) được cho là sẽ tổ chức Đại hội toàn quốc sắp tới đây vào đầu năm 2016. Tuy nhiên, có những dấu hiệu cho thấy đồng thuận chưa đạt được trên một số vấn đề, trong đó có Biển Đông và quan hệ với Trung Quốc và việc lựa chọn lãnh đạo tương lai cho Việt Nam. Điều này có thể dẫn đến việc dời Đại hội qua một thời điểm sau đó.

Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng toàn quốc năm năm một lần. Một hội nghị điển hình thường kéo dài năm ngày và với sự tham dự của khoảng 1.400 đại biểu, đến từ 63 đơn vị hành chính của Việt Nam (58 tỉnh và 5 thành phố trực thuộc Trung ương), các tổ chức đảng ở cấp chính phủ trung ương, và Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Một Đại hội Đảng toàn quốc có năm nhiệm vụ chính : Thông qua báo cáo chính trị của Tổng Bí thư, thông qua kế hoạch kinh tế-xã hội của Việt Nam trong 5 và 10 năm tới (2016-2025), điều chỉnh lại cương lĩnh của Đảng, sửa đổi Điều lệ Đảng và, quan trọng nhất, là bầu Ban Chấp hành Trung ương mới. »

Đại hội Đảng lần thứ 12 sắp tới có một vài điểm mới

« Một quy tắc mới đề ra năm nay đã cắt giảm quyền lực của các đại biểu đảng viên trong việc lựa chọn các Ủy viên Trung ương mới. Trong quá khứ, các đại biểu được cử về dự Đại hội được quyền đề cử thêm ứng viên vào Ban Chấp hành Trung ương, bổ sung vào danh sách chính thức đã được lãnh đạo cao cấp trong đảng phê duyệt. Tại Đại hội Đảng gần đây nhất, một vài người được các đại biểu đề cử bổ sung đã được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương.

Thế nhưng, tại Đại hội toàn quốc lần thứ 12 sắp tới, tất cả các ứng cử viên vào Ban Chấp hành Trung ương mới phải được Ban Chấp hành Trung ương mãn nhiệm chấp thuận trước khi tên của họ được ghi vào lá phiếu. Vào ngày cuối cùng của Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương mới sẽ tổ chức cuộc họp toàn thể đầu tiên đê bầu Bộ Chính trị mới và sau đó chọn một trong các ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư Đảng. »

Quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng bộc lộ một số điểm bất bình thường phản ánh sự chia rẽ trong nội bộ

« Theo Điều lệ Đảng, Ban Chấp hành Trung ương phải họp ít nhất hai lần một năm, và việc họp thường xuyên hơn không phải là không phổ biến. Tuy nhiên, trong năm 2014, Ban Chấp hành Trung ương chỉ gặp nhau một lần. Đấy có thể là dấu hiệu của một sự chia rẽ sâu sắc về chính sách Biển Đông và quan hệ với Trung Quốc sau cuộc khủng hoảng liên quan đến việc Bắc Kinh triển khai giàn khoan cực lớn của họ tại vùng biển tranh chấp từ tháng Năm đến tháng Bảy.

Công việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 12 đã rất lặng lẽ so với tám đại hội được tổ chức kể từ khi thống nhất đất nước. Các phương tiện truyền thông Việt Nam đã vô cùng lặng lẽ, và một vài bài báo chỉ mới bắt đầu xuất hiện gần đây thôi, qua đó xác nhận rằng khâu chuẩn bị cho Đại hội đang được xúc tiến hành. Nhưng ngày họp Đại hội vẫn chưa được chính thức công bố.

Thông thường, các dự thảo văn kiện về chính sách như Báo cáo Chính trị và Kế hoạch Kinh tế-Xã hội sẽ được lặng lẽ chuyển cho một số nhóm trọng điểm để thảo luận và nhận xét. Sau khi được tinh chỉnh, các dự thảo văn kiện sẽ được công bố để công chúng cho nhận xét. Ví dụ, dự thảo Báo cáo chính trị và Báo cáo Kinh tế Xã hội cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 11 tổ chức vào tháng Giêng năm 2011, đã được phát hành vào ngày 20 Tháng Tư năm 2010, tức là 9 tháng trước Đại hội. Nếu Đại hội lần thứ 12 diễn ra vào đầu năm tới, Việt Nam chỉ có bốn tháng để hoàn tất quá trình này.

Vấn đề đáng chú ý khác là Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, nhân hội nghị vào tháng Năm năm nay, đã thảo luận một cách chung chung về thành phần nhân sự của Ban Chấp hành Trung ương tiếp theo. Có tin là một số cuộc họp trong tương lai cho tháng Mười và tháng Mười hai đã được lên kế hoạch. Tháng Ba vừa qua, nhiều nguồn tin quốc phòng Việt Nam đã tiết lộ với tác giả rằng Sách trắng Quốc phòng mới, dự kiến phát hành trong năm nay, sẽ được hoãn lại cho đến sau Đại hội lần thứ 12. »

Nguyên nhân gây nên những diễn biến bất thường

« Lời giải thích thỏa đáng nhất có lẽ là sự chồng lấn lên nhau của hai vấn đề gây tranh cãi - yếu tố Trung Quốc (Chủ tịch nước kiêm Tổng Bí thư Đảng Trung Quốc Tập Cận Bình được cho là sẽ thăm Hà Nội vào tháng Mười hoặc tháng Mười một) và việc Việt Nam lựa chọn lãnh đạo mới.

Quy tắc hiện thời trong Đảng Cộng sản Việt Nam không cho phép một người giữ quá hai nhiệm kỳ. Quy tắc của Đảng cũng yêu cầu các quan chức nghỉ hưu ở tuổi 65. Nếu dựa trên cả hai quy định đó, thì chín trên mười sáu thành viên của Bộ Chính trị hiện nay sẽ về hưu ở Đại hội năm tới. Điều này có nghĩa rằng Chủ tịch Trương Tấn Sang, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, và một số người khác, sẽ rời vị trí hiện tại của họ.

Tuy nhiên, có khả năng một người được miễn áp dụng quy định về tuổi hưu bắt buộc trong những trường hợp đặc biệt. Có rất nhiều tin đồn Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang tìm cách trở thành Tổng bí thư Đảng sẽ yêu cầu được đặc miễn. Điều này chưa từng thấy trong nền chính trị Việt Nam.

Với hai nhiệm kỳ là Thủ tướng, ông Dũng sẽ mang lại kinh nghiệm kinh tế và quốc tế chưa từng có cho chức vụ Tổng Bí thư Đảng. Có rất nhiều khả năng là ông Dũng sẽ không để cho ý thức hệ bó tay mình trong việc đối phó với Trung Quốc. Trong cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu vào năm ngoái, ông đã lên tiếng thẳng thắn trong việc bảo vệ chủ quyền Việt Nam và nêu lên khả năng xúc tiến hành động pháp lý quốc tế nhắm vào Trung Quốc.

Ông Dũng được hậu thuẫn rộng rãi của Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, nhưng Bộ Chính trị hiện nay đang chia rẽ sâu sắc. Nguyên do không chỉ là sự ganh đua cá nhân, mà còn là khác biệt ý kiến về cách thức quản lý các mối quan hệ với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Việt Nam dự kiến là sẽ đón tiếp cả Chủ tịchTập Cận Bình lẫn Tổng thống Barack Obama vào cuối năm nay.

Trong khi Đại hội lần thứ 12 được cho là sẽ không dẫn đến thay đổi đáng kể trong chính sách chủ động hội nhập quốc tế hiện hành, vấn đề ai là lãnh đạo tương lai của Việt Nam vẫn còn trong vòng cân nhắc ».

Post Reply