Thơ Hư Vô và Một Trăm Lẻ Một Tự Khúc Tình Nhân.
Tùy bút Nguyễn Mạnh Trinh

(Thi phẩm Lưng Nguyệt của nhà thơ Hư Vô)
Đọc những trang thơ của Hư Vô: “Lưng Nguyệt. Một trăm lẻ một tự khúc tình nhân” ấn tượng của những bài thơ đầu tiên đánh dấu bằng những câu cật vấn.”Tự Khúc Tình Nhân mà đến một trăm lẻ một bài”? Tại sao không là một trăm hay là 99 như tình khúc Hoàng Cầm?
Nhưng đọc trang đầu tiên Vào Thơ…Hư Vô viết:
“Em đi, mang theo nửa vầng trăng trên lưng như một dấu tích mà tình yêu đã hoài thai từ tiền kiếp, hoá thân vào áng mây cao vút của sự nuối tiếc ngút ngàn, để rồi bàng hoàng chìm xuống đáy biển đêm lạnh ngắt, mà nghe ngọn sóng còn giẫy giụa trong lòng.
Em yêu dấu. Tôi viết 101 bài thơ tình này cho em từ những mất mát chia lìa còn khắc ghi trên “Lưng Nguyệt”, lời di ngôn tận tuyệt của một khoảnh trăng mà em đã quằn gánh trên lưng cả đời còn chưa níu tới thì sự hiện hữu của hư vô chỉ là chiếc bóng không tôi, cuối cùng rồi cũng chẳng làm được gì cho nhau ngoài chút khói biếc hương tàn để tôi mang theo cho chuyến đi vào mê lộ thì dù biển có vá liền trời tôi cũng không đuổi kịp giấc chiêm bao…”
Và ở những dòng chữ Thay Lời Kết, thi sĩ chấm dứt một trăm lẻ một “tự khúc tình nhân”:
“Em yêu dấu. Khi em đọc đến dòng chữ cuối cùng của tập thơ này là em đã đọc hết nỗi lòng của tôi. Cám ơn em đã bước vào đời tôi với một cuộc tình đầy đắm say lãng mạn để rồi bước ra khỏi nhau thật bàng hoàng vội vã.
Định mệnh đã không cho tôi và em đi chung đường, đời này còn chưa tới thì chắc gì đã có đời sau. Chỉ tội nghiệp em trái tim xanh xao vàng võ tan vào hư vô nỗi u uất nghẹn ngào để đêm đêm em nằm nghe biển khóc, gọi nhau về theo những ngọn sóng xa mà tôi chỉ là giọt đá, chảy hoài vẫn chưa tới di tích chỗ em qua…”
Thơ khúc đầu và khúc cuối lời lẽ thiết tha của bước chân tìm về. Ở đó là phương trời nhớ mong. Là Em muôn thuở dù đã xa xôi. Là Tôi, ngẩn ngơ bên dòng sông trôi nổi từ quê nhà đến xứ người, từ đại dương muôn trùng ngăn cách đến những tháng những năm những ngày thấp thoáng hình ảnh xưa cũ. Mà, rốt cuộc là chia xa, là chăn gối lẻ, là tượng hình người yêu còn mãi thổn thức giấc mộng nửa khuya.
Như vậy Lưng Nguyệt là những khúc thơ buồn của một kết thúc không tròn, của một cuộc tình dở dang không đoạn kết. Nhưng đọc 101 bài thơ mà thi sĩ gọi là tự khúc tình nhân, tôi thấy sao những cuộc hẹn hò, những không gian thời gian để yêu nhau và nhớ nhau sao mà tha thiết quá. Toàn là kỷ niệm. Là lời ngỏ của trái tim cho nhau. Là thời gian của trái cấm tình yêu. Là những khoảng trời tưởng sẽ thiên thu là của nhau. Như bài thơ Đêm Giêng, như bài Tàn Tích Tháng Hai, như Điệp Khúc Chiều Tháng Ba, như Sài Gòn Tháng Tư, như Hành Tình Tháng Năm. Như Tựa Lưng Tháng Sáu, như Nhan Sắc Tháng Bảy, như Tháng Tám Mưa Về, như Khúc Mưa Tháng Chín, như Chào Em Tháng Mười, như Bước Chân Tháng Mười Một, như Nhịp Dương Cầm Tháng Chạp…Mười hai tháng là mười hai kỷ niệm, tuy có nỗi buồn nhưng cũng có những niềm vui, có thiết tha lời ngỏ mà cũng có xúc cảm tận cùng.
Thế mà, lại là một tình buồn muôn thuở….và thơ là những cung bậc u trầm của nỗi niềm dàn trải qua bao nhiêu bến bờ thời gian bao nhiêu bến đợi tình yêu.
Thơ Hư Vô không thiếu những hình tượng Sài Gòn. Một tuổi lớn lên yêu thương. Mối tình đầy kỷ niệm. Những con đường xưa. Những hè phố cũ. Những cơn mưa. Những thời thanh xuân:
” Sài Gòn chiều mưa thời xanh tóc
Vỉa hè cỏ mọc dấu chân em
Đường Duy Tân hay Trần Quý Cáp
Chỗ nào cũng thấy rất còn quen
….Của những lần Sài Gòn mưa tới
Chiều xanh xao góc phố Brodard
Giọt cà phê chờ ai rơi chậm
Cho buồn về kịp giữa tháng Ba”
Có một bài thơ nhẹ nhàng tôi đọc lúc buổi chiều tắt nắng. Trong cái màu vàng của một tà áo dài, tự nhiên thấy có một nỗi bâng khuâng. Như những gót chân người tình, của một thuở nào đã xa, của một hình dáng nào đã phai mờ trong trí tưởng, bây giờ trở về với kỷ niệm tôi. Thật là bối rối, bởi vì những câu thơ đầy đặn quá, như một cuộc tình đầy những nhớ nhung. Có lúc, tôi muốn đọc lại câu thơ “hãy níu hồn nhau vào nhịp thở/ để em không còn kịp bỏ đi” thành ” hãy níu hôn nhau vào nhịp thở/ để em không còn kịp bỏ đi”. Níu kéo đời nhau bằng nụ hôn với hơi thở đời dồn dập có lẽ gợi cảm hơn. Chủ quan tôi nghĩ thế, xin lỗi nhà thơ Hư Vô nếu ông có sự bất đồng. Nhưng dù hôn hay hồn, thơ vẫn là thơ là chuyên chở tâm ý của một người yêu đời yêu người và yêu thơ quá đỗi.
Nhà thơ Hư Vô là một tên tuổi quen thuộc ở Úc Châu là tác giả của ba tập thơ và phụ trách phần thi ca của nhật báo Việt Luận. Ông đang sửa soạn để in tập thơ mới cho mình. Thơ Hư Vô, đầy nhạc tính và đã được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc. Những bài thơ gợi lại một cuộc sống mà nét lãng mạn đã làm thăng hoa những suy tưởng. Thơ tình với ngôn ngữ nhẹ như cơn gió, qua những chặng đời và những phận người, là nhịp thầm trái tim từ những phương trời địa lý xa xôi qua bến bờ đại dương bát ngát. Thơ của Sydney, của tà áo em vàng như chiều nắng…
“Hỏi em vì ai em thay áo mới
Từ khi tôi biết thích lụa là
Vạt áo dài thêm ngày em tới
Chạm vào tôi bối rối thịt da
Phố xá hồn nhiên như mầu lá
Chờ tôi tựa xuống bóng em về
Ba mươi năm chưa thành người lạ
Yêu em vì đâu có hẹn thề
Hãy níu hồn nhau vào nhịp thở
Để em không còn kịp bỏ đi
Màu nắng trôi theo chiều tóc xoã
Áo em vàng góc phố Sydney
Chẻ đôi tà ngang dòng giao hưởng
Khúc Franz Schubert bên Nhà Hát Con Sò
Em sẽ thấy hồn tôi trong đó
Dắt nhau vào chiều đắm cơn mơ…”
Có lúc ngôn ngữ của tình nhân là những thiết tha của trái tim dồn ngực thở. Nhưng cũng có khi là những cảm giác thầm thì những tấu khúc mãi thiết tha trong tâm những giai điệu không lời. Thơ Hư Vô với những lời tình đã ngỏ hay chưa ngỏ, đã thấm vào cảm nhận những khuôn trời biền biệt của nhớ mong. Thơ Lưng Nguyệt, là của đôi lứa, là của Anh và Em, là của những không gian lãng mạn của những thời gian có thể qua đi trong dĩ vãng nhưng vẫn còn vương vấn trong hiện tại.
Có người cho rằng đi vào cõi thơ Hư Vô là cõi thơ của hình ảnh đạo vị và vai trò người nữ trong thơ có vị trí của Thánh Cô, Thánh Nữ như một vài thi sĩ xưng tụng mối tình của mình. Dĩ nhiên, mỗi người một cái nhìn một nhận định. Nhưng, riêng tôi, thơ Lưng Nguyệt đầy ắp những ngôn ngữ sống thực, gợi lại từ một cuộc sống như dòng chảy không xa lạ với mọi người. Nếu bảo những ngôn từ của đạo vị chỉ là cái vỏ áo bọc những ảo giác của những Mộng Lang, Mộng Cô của Hư Trúc và Công Chúa Tây Hạ trong Thiên Long Bát Bộ truyện Kim Dung thì trong cõi thơ Lưng Nguyệt cũng chỉ đơn thuần là những mịt mù suy tưởng. Từ cách xưng hô Tôi với Em hay gần gũi hơn Anh với Em thì chất sùng tín tình yêu có lẻ không nhiều lắm. Hư Vô làm thơ với cái bóng thương yêu một đời quẩn quanh và đôi khi cũng là ám ảnh của nỗi buồn. Mỗi một nơi chốn, mỗi một thời điểm, nhắc lại những kỷ niệm. Thơ Lưng Nguyệt đầy ắp những nỗi niềm. Chăn gối nhớ da thịt thoảng hương, vạt trăng xanh nhớ bờ vai trần e ấp. Và thấp thoáng đâu đây dư âm và dư vị của những lời tình.
Tôi hình như mê đắm những vầng trăng trong thi ca. Từ thơ Bích Khuê, thơ Hàn Mặc Tử, trăng chở trong thơ gợn gợn nỗi đau da thịt của vây bủa cô tịch và thăm thẳm kiếp người. Có ai đặt một câu hỏi với cuộc lữ hành đời sống trải qua những nhịp cầu đoạn trường để thấy ma quái hơn vầng trăng thuở nào, của biển đông sóng gào, của kiếp nhân sinh lạnh lùng phơi triền đá. Nhưng với Hư Vô, ở một địa danh Darling Point trôi dạt xứ người , đêm trăng như hoà vào lưng nguyệt những vòng tay trần ôm ấp tình nhân. Bài thơ Trăng Đêm Trên Darling Point như một ví dụ:
Trăm năm mấy bận hồi sinh
Để tôi chồng chất nợ nần trên vai
Còn nhau có một đêm này
Thì em hãy khóc cho đầy mắt tôi
Thắp trăng bên ẩn tích người
Lùa quanh lưng nguyệt hồn xuôi tay trần…
Cái ẩn tích ấy mượt mà gợi cảm. Trăng để gợi nhớ bờ vai trần nhưng nguyệt cũng làm xao xác nhớ những vòng ôm tha thiết.Trăng tan vào thơ thành dòng chảy lụa tơ đổ vệt trên vai trần giữa sóng ngàn biển đêm của tấu khúc không tên. Tôi nghĩ, thơ và trăng có lúc đã thành một khối và con người như lạc trong một cõi không gian thời gian không bến bờ. Hình tượng như vậy làm sao mà không in dấu vào trong tiềm thức của một người làm thơ nhậy cảm và một lúc thấy mình sống thực với cảm quan mình.
Hình như trăng là nỗi ám ảnh của người thơ. Bài Tôi Về Khai Quật Hồn Em Dậy có những câu thơ bàng bạc nỗi niềm của những vầng trăng của bóng hình lung linh dấu nguyệt của những bóng dáng của một thời buổi nào hun hút đã xa:
Tôi về khai quật hồn em dậy
Cho đá xanh xao biết ngậm ngùi
Núi còn đứng chờ nghe biển gọi
Người bỏ người trơ trụi lẻ loi
Em ngồi níu bóng trăng cùng tận
Vá víu đời nhau mảnh nguyệt trần
Dù chưa đủ ấm hiên người lạ
Thì em cũng đã biết bâng khuâng.
Có ai “ngồi níu bóng trăng cùng tận để vá víu đời nhau mảnh nguyệt trần”? Có ai mang cái tận cùng vô biên để đòi mong vá víu cái nhỏ nhoi của một tình yêu? Tôi đã quen thuộc với ngôn ngữ ẩn dụ của bóng trăng nhưng đọc đến chữ “nguyệt trần” lại sinh ra một điều gì thoảng qua của gợi cảm da thịt của một góc cạnh nào dễ tưởng tượng đến phút giây vô bờ của hạnh phúc cận gần.
Nguyễn Mạnh Trinh